wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Vợ Bill Gate sống thế nào? Là vợ của người đàn ông giàu nhất hành tinh nhưng Melinda không mấy quan tâm đến những cửa hàng thời trang sang trọng, những loại mỹ phẩm đắt tiền hay những tác phẩm nghệ thuật danh giá. Thay vào đó, suốt ngày bà chúi mũi vào những chuyện đại loại như... chu trình sống của con muỗi. Một người phụ nữ hơi bất thường chăng? Ngay sau khi cưới nhau, vợ chồng Bill Gates bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (Phi châu). Nhưng rồi hai người nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men để chống lại cái chết hơn là phần mềm Windows xa xỉ. Thế là họ tậu bao nhiêu là sách về các bệnh lây lan vì ký sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách phòng bệnh... "Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rõ chu trình sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là ký séc chi tiền", Melinda nói.Tại sao lại phải nhọc công đến thế? Melinda có thể tận hưởng một cuộc sống trong nhung lụa, dành thời gian chăm sóc con cái. "Khi cưới nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác. Lần đầu tiên chúng tôi đến châu Phi là nhân một chuyến đi săn năm 1993. Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dã vì cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữ phải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ. Sau đó về nhà, chúng tôi tìm đọc Báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật mình. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ vì căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đã được tiêm vắc-xin. Chúng tôi tự thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu sự thật và càng tìm hiểu, chúng tôi càng thấy không thể chờ vì bệnh tật không đợi chúng tôi. Tôi đi vòng quanh thế giới để xem điều gì đang xảy ra. Nỗi sợ hãi khi quay về quá khủng khiếp đến độ tôi không dám hy vọng. Nhưng rồi bạn thấy đó, kinh tế đang thay da đổi thịt ở các nước phát triển và tự nó cải thiện mọi chuyện. Điều đó đã vực Bill và tôi dậy". "Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động" - Melinda Gates Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000. Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình (hiện ước tính khoảng 46 tỉ USD). Vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em là mục tiêu chính của quỹ. Đến nay BMGF đã chi tổng cộng 28,8 tỉ USD. Hồi đầu năm, BMGF đã tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD - một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử. Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đã giúp tiêm phòng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi... Ngoài ra, BMGF còn chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương trình trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia. Hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên vì ông bà Gates không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Hiện họ đang có 3 đứa con nhỏ nhưng Melinda không tỏ ra lo lắng: "Bất cứ lúc nào gia đình tôi nói tới chuyện tài sản, chúng tôi đều nói đến trách nhiệm phải trao tặng nó cho thế giới. Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được nấy mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền". Kiều Oanh
  2. Hiệp hội Bill & Melinda Gates đã chi bao nhiêu cho ai? Tính đến đầu năm 2005, tỷ phú này đã cam kết số tiền 28 tỷ USD cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Tức ông đã đem cho không đến 38% tổng tài sản của mình. 9,3 tỷ USD là tổng số tiền mà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates đã chi cho các công cuộc từ thiện cứu tế và giáo dục thông qua hiệp hội mang họ tên mình thành lập vào năm 2000Chúng được chia ra như sau:Sức khoẻ: 5,5 tỷ USD (gồm chiến lược sức khoẻ toàn cầu, 2,3 tỷ USD; nghiên cứu trị HIV/AIDS, bệnh lao và y tế sinh sản, 1,5 tỷ USD; các bệnh lây lan khác, 1,1 tỷ USD; nghiên cứu phát triển công nghệ y tế toàn cầu, 0,4 tỷ USD; nghiên cứu y tế, chiến dịch y tế toàn cầu…, 0,1 tỷ USD)Giáo dục: 2,4 tỷ USD Chương trình xây dựng thư viện toàn cầu: 0,3 tỷ USD Những dự án đặc biệt khác: 0,6 tỷ USD Các chương trình từ thiện ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương: 0,6 tỷ USD . Melinda Gates- quyền lực mà thầm lặng Có một người phụ nữ giản dị, nhân hậu đã chinh phục được biết bao chính khách, doanh nghiệp. Xuất thân trong một gia đình bình dân Mỹ nhưng nhờ nỗ lực cá nhân và cả nét duyên thầm, người phụ nữ này đã trở thành biểu tượng của quyền lực mềm thế giới.Năm nay 44 tuổi, Melinda Gates luôn sát cánh cùng người chồng đại tỷ phú, nhà sáng lập và điều hành Microsoft trong nhiều năm qua, và bản thân bà cũng là chủ tịch quỹ tài trợ lớn nhất hành tinh.Bà là người có vai trò không thể thay thế trong cuộc đời Bill Gates, là một trong những động lực to lớn để Bill Gates lập ra quỹ Bill & Melinda Gates. Chung sống với Bill Gates đã 14 năm nhưng Melinda luôn có một cuộc sống trầm lặng, ít khi lộ diện trước báo giới. Những cuộc phỏng vấn luôn bị từ chối, thay vào đó là những cuộc trò chuyện mỗi tuần với những người cộng sự. Người ta biết đến Melinda qua những người bạn của bà nhiều hơn. Mối thâm tình với chiếc máy tính Trước khi quen biết Bill Gates, nàng thiếu nữ Melinda đã mê tít máy tính. Chính tình yêu này đã thay đổi cuộc đời cô. Khi Melinda 14 tuổi, cha cô tặng cho con gái yêu chiếc máy tính Apple II. “Tôi đã nịnh cha mẹ đặt vào phòng riêng của mình để tiện học tập nhưng thời gian đầu tôi khoái chơi game hơn”, Melinda nhớ lại.Không lâu sau, Melinda đã nắm được ngôn ngữ lập trình cơ bản và thường xuyên trao đổi kiến thức với các cậu con trai quanh xóm. Chính việc ham thích trao đổi về máy tính đã khiến cô bé bớt đi những rụt rè tuổi dậy thì, tự tin và hòa đồng hơn hẳn. Chiếc máy tính Apple II năm sau đã được nâng cấp lên thành Apple III. Melinda thường dùng máy tính giúp cha quản lý sổ sách, kế toán.Gia đình Melinda không giàu có. Bố cô là kỹ sư và mẹ cô là một người nội trợ điển hình. Mặc dù cha mẹ cô có cho thuê một vài gian phòng để phụ thêm nhưng việc lo cho cả 4 chị em Melinda học lên đại học quả thật không hề dễ dàng. Melinda cùng các anh chị em từ nhỏ đã phụ giúp mẹ lau bàn, dọn bếp và cắt cỏ. Khi Melinda còn đi học, tuy không có quy định thành văn nhưng thành tích học tập luôn được cả gia đình coi trọng. Melinda luôn đặt cho mình những mục tiêu để chinh phục một cách bền bỉ và quyết tâm. Cô giáo dạy môn đại số đã nhận xét “Melinda luôn tìm ra cách học tập hiệu quả nhất!”.Khi đó, Melinda theo học tại một trường nữ sinh Thiên Chúa giáo, cô ao ước được vào trường Notre Dame. Trong suốt quá trình học, Melinda luôn cố gắng và đã trở thành đại diện phát biểu trong lễ bế giảng. Nhưng cũng chính Melinda là người đưa ra quyết định từ bỏ trường đại học đặc biệt này vì nơi đây coi “máy tính là sở thích nhất thời, phụ nữ không phù hợp với nghiên cứu công nghệ”.Sau đó Melinda được nhận vào trường đại học Bắc California. Trong 5 năm học tại đây, Melinda đã được nhận bằng cử nhân khoa học máy tính và thạc sỹ quản trị kinh doanh. Ngay trước hôm tiến hành lễ tốt nghiệp, Melinda đã tham gia phỏng vấn vào công ty IBM. Cô nhớ lại “Tôi đã nói với người phỏng vấn là mình sẽ tham gia thi tuyển vào một công ty phần mềm nữa. Bà ấy đã mỉm cười và nói nếu tôi được công ty phần mềm đó chọn, tôi càng có nhiều cơ hội hơn”. Và Melinda đã đến nơi có nhiều cơ hội hơn - Microsoft. Tình yêu với sếp và khát vọng chung thay đổi thế giới Năm 1987, Melinda bắt đầu làm việc chính thức tại Microsoft. Cô phụ trách quảng bá phần mềm văn bản.Ngay từ những ngày đầu tiên, Melinda đã thích không khí làm việc cởi mở, năng động nơi đây. Cô chúi mũi vào công việc mà không thể ngờ rằng chỗ làm việc lý tưởng này lại đem đến cơ hội tình yêu cho mình.Melinda là người trẻ nhất trong những người được nhận vào Microsoft làm việc đợt đó. Trong 10 người có bằng MBA, cô cũng là người nữ duy nhất. “Những người được tuyển đợt đó rất tài năng. Tôi đã choáng ngợp khi tiếp xúc với họ và nghĩ họ có thể thay đổi thế giới. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì sao công ty phần mềm nho nhỏ hồi đó lại hấp dẫn họ đến thế!”Khi đó hai sếp lớn Bill Gates và Steve Ballmer đang bất đồng trong khá nhiều vấn đề, họ thường căng thẳng và quát cả cấp dưới. Nếu như không có cảm tình đặc biệt khi nhìn thấy dáng vẻ thư sinh của Bill, Melinda đã bỏ việc từ lâu.Sau khi vào công ty được 4 tháng, Melinda đến New York tham dự một triển lãm công nghệ và ngồi cạnh Bill Gates trong một buổi tiệc.Melinda nhớ lại: “Anh ấy quả thật rất có phong cách, còn hơn trong tưởng tượng của tôi”. Khi Bill được hỏi tại sao để ý Melinda, ông trả lời: “Tôi nghĩ chắc là do vẻ đẹp của cô ấy”. Mùa thu năm đó, Bill và Melinda gặp lại nhau tại nhà để xe của công ty. Melinda nhớ hôm đó là thứ 7 và mọi người trong công ty vẫn phải đi làm.Họ nói chuyện một lúc, Bill nhìn đồng hồ và hỏi: “Em có đồng ý hẹn hò với tôi trong vòng hai tuần bắt đầu từ thứ 6 tuần sau không?” Melinda trả lời: “Từ thứ 6 tuần sau bắt đầu hai tuần hẹn hò? Em thấy không được tự nhiên lắm! Không biết được, đến lúc đó hãy gọi cho em”.Sau đó, Bill gọi lại báo cho Melinda lịch hoạt động ngày hôm đó, Melinda nhận lời hẹn gặp ông vào buổi tối thứ 6 định mệnh.Trước khi hai người gặp nhau, Bill đã là một tỉ phú nhưng điều đó không có nghĩa là ông có thể “mua” được tình yêu. “Theo đuổi cô ấy thật vất vả”, Bill than thở. Số là mẹ của Melinda vốn cho rằng chuyện tình cảm của con gái mình với sếp không có gì hay ho cả.Nhưng Melinda đã đặt ra những giới hạn cho mối quan hệ này, quyết không để ảnh hưởng đến công việc. “Tôi không muốn công khai tình cảm, không bao giờ nói chuyện công việc trong thời gian hẹn hò...”Dù có công khai chuyện tình cảm với sếp lớn hay không thì bạn bè đồng nghiệp vẫn phải nể Melinda về năng lực làm việc. Sau 9 năm làm việc bà đã lên chức giám đốc phụ trách các sản phẩm thông tin.Cấp trên trực tiếp của Melinda lúc đó, bà Patty Stonesifer đã nhận xét: “Nếu tiếp tục ở lại làm việc, Melinda chắc chắn sẽ đứng trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất của Microsoft”.Tháng 1/1994, Melinda rời khỏi Microsoft, dành toàn bộ tâm huyết cho quỹ từ thiện. Tình cảm hai người dành cho nhau càng trở nên sâu sắc.Trước đây Bill Gates chưa bao giờ nghĩ đến việc thành lập quỹ tài trợ, dù luật sư và kế toán của ông thường xuyên khuyên ông nên dành thời gian và tiền bạc để chính thức tham gia các hoạt động từ thiện.Đó cũng là lý do mà báo chí những năm 1990 gọi Bill là “kẻ hà tiện”. Cha của Bill giải thích “Con tôi không muốn đứng ra thành lập quỹ từ thiện vì không muốn sở hữu thêm một công ty nữa”. Ngay từ ngày đầu lập quỹ, Melinda đã quán xuyến công việc quản lý.Những ngày đầu, Melinda và Bill lập ra dự án tặng cho mỗi phòng học một laptop phục vụ việc giảng dạy nhưng công tác quảng bá đã bị giới truyền thông phê bình gay gắt vì... phô trương và thiếu thực tế. Khi đi khảo sát các trường học, Melinda nhận ra rằng, chỉ trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giải quyết được những vấn đề giảng dạy, vì thế sau này thúc đẩy phổ cập giáo dục mới là mục tiêu chính của quỹ.Dưới ảnh hưởng của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong lĩnh vực phòng chống AIDS, bệnh sốt rét...Melinda chia sẻ: “Chúng tôi muốn dần dần thiết lập một danh sách cần cứu trợ hợp lý. Tiền chỉ có ích khi mang lại những lợi ích thực sự cho những người cần cứu trợ nhất”. Bà cũng cho biết, quỹ Bill & Melinda Gates không quyên gửi thẳng tiền cho viện nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ mà tập trung cho những dự án và khu vực khẩn thiết hơn. Bà Gates dùng phương pháp liên kết những nhà bán thuốc và bảo đảm trợ cấp tài chính cho việc nghiên cứu để đổi lấy sự hạ giá thuốc cho những nước nghèo, qua đó tạo đà mới cho ngành y học ngừa bệnh của các nước kém phát triển vốn đã bị chững lại từ những năm 1990.Và rõ nét nhất là việc sáng lập Công ty Vaccine HIV - là công ty liên kết các nhà nghiên cứu với ngân sách 400 triệu USD.Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trình vaccine.Quỹ Bill & Melinda Gates hiện là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế. Melinda, Bill Gates và cha của Bill là 3 thành viên điều hành quỹ.Gần đây, Bill Gates đã chính thức rời khỏi Microsoft để hoàn toàn tập trung cho công việc từ thiện.Mỗi năm quỹ này nhận được khoảng 6000 thư xin được trợ giúp ở khắp nơi trên thế giới.Bill và Melinda sẽ tự mình phê duyệt với tổng số tiền trên 40 triệu USD. Cách làm những công việc ở quỹ của đôi vợ chồng này uyển chuyển và có phần thử thách hơn cả khi điều hành Microsoft. “Chúng tôi trò chuyện ngay cả lúc cùng chạy bộ với nhau”, Bill cười nói. Trong vòng hai năm trở lại đây Bill Gates đã chạy bộ khá đều đặn và cùng luyện tập trí nhớ một cách thú vị và ý nghĩa. Hai người cùng thảo luận và nêu ra các phương án hành động cho các dự án tài trợ. Các thông tin này sẽ được cả hai nhẩm nhớ, không ghi lại bằng giấy gì cả và ghi nhớ cho đến khi thông báo lại cho các thành viên quản lý quỹ để thông qua chính thức. Món quà đặc biệt của tỉ phú Warren Buffett Tháng 6/2006, Warren Buffet đã chuyển giao một phần tài sản trị giá khoảng trên 30 tỉ USD của mình vào việc làm từ thiện, trong đó 83% số tiền được đưa vào Quỹ Bill & Melinda Gates. Khoản hiến tặng này được xem là lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.Vào thời điểm đó, số tiền được quyên này còn lớn hơn gấp đôi số tiền hiện có của quỹ. Đây là lời công nhận đầy thuyết phục đối với khả năng quản lý từ thiện, một lĩnh vực mới mẻ và nhiều thách thức của nhà đầu tư tài chính hàng đầu với hai vợ chồng Bill Gates.Tin vui này cũng đến khi cả hai người đang chạy bộ. Melinda nhớ lại với một vẻ bồi hồi: “Tôi nhận được điện báo và không tin vào tai mình nữa. Tôi nói với Bill, và thực sự muốn khóc. Chúng tôi đã làm được, chúng tôi đã có niềm tin của mọi người, và chúng tôi có nhiều trách nhiệm hơn nữa”.Hiện nay, Quỹ từ thiện của hai vợ chồng bà đã thu thập được 37,6 tỉ USD, trong đó, 3,5 tỉ USD là phần góp của nhà tỉ phú Warran Buffet, người đứng đầu công ty Berkshire Hathaway. Sắp tới đây, Warren Buffet dự định chuyển cho quỹ Bill & Melinda Gates thêm 9.000 cổ phiếu nữa với trị giá 41 tỉ USD.Như vậy, cùng với các khoản lạc quyên và hàng tỉ USD của chính hai vợ chồng Bill Gates, tổng số vốn của quỹ trong vài năm tới sẽ đạt đến con số khổng lồ là 100 tỉ USD. Cả hai vợ chồng đều sẵn sàng chi tiêu toàn bộ số tiền này vào việc giúp đỡ những người nghèo khổ không chỉ ở nước Mỹ. Đến nay, quỹ đã chi gần 20 tỉ USD cho nhiều hoạt động từ thiện. Bill Gates thừa nhận rằng vợ ông hiểu biết về con người hơn ông. Khi động chạm đến việc nên chi tiền trong quỹ vào những lĩnh vực gì, bà Melinda bao giờ cũng có những ý tưởng thông minh hơn chồng. Melinda nói: “Hai vợ chồng chúng tôi đã cùng soạn lập danh mục những hiện tượng bất công nhất trên thế giới. Và chúng tôi lựa ra những hiện tượng mà chúng tôi có thể đấu tranh”.Trong hoạt động nhân đạo chung của cả hai vợ chồng, vai trò của bà Melinda dường như nổi bật hơn. Không phải vô cớ mà người bạn thân của họ - nhà tỉ phú Warren Buffet - đã có nhận xét rất đáng chú ý: “Bill Gates cực kỳ thông minh. Nhưng khi ta nhìn toàn bộ bức tranh chứ không phải một phần riêng biệt nào đó thì Melinda hiển nhiên là vượt xa chồng. Nếu như Melinda không làm việc trong quỹ từ thiện của hai vợ chồng họ thì liệu tôi có trao tiền cho Bill không? Có lẽ không”.Như vậy, điều kiện chủ yếu thúc đẩy Buffet chuyển giao tài sản chính là người vợ nhanh nhẹn, hiểu biết, thấu tình đạt lý của Bill Gates. Buffet đã khiến Bill phải thốt lên: “Melinda đúng là vận may lớn nhất cuộc đời tôi”. Yêu thích cuộc sống bình lặng Là vợ người thường xuyên giữ vị trí giàu nhất thế giới, Melinda không tránh khỏi những phiền toái của cuộc sống. Dù cố gắng thế nào đi nữa, Melinda cũng rất khó khăn để có được cuộc sống bình thường. Nhưng đến nay, sau nhiều nỗ lực, người phụ nữ dịu dàng này vẫn có cách để cuộc sống của mình đi theo những quỹ đạo mong muốn.Trước khi kết hôn với Bill Gates, Melinda cũng chịu nhiều áp lực từ khối tài sản đồ sộ này. Melinda luôn băn khoăn con người mải mê công việc và cạnh tranh thương trường của Bill Gates có thích hợp với cuộc sống gia đình hay không.Câu hỏi: “Cái người có thể phát điên lên vì công việc này nếu làm chồng mình sẽ ra sao?” luôn quẩn quanh trong đầu Melinda.Cuối cùng bà cũng nói thẳng điều này ra với Bill, rằng: “Nếu muốn em dọn đến ở cùng anh, anh cần phải tạo nên một ngôi nhà thực sự ấm cúng của gia đình giống như em tưởng tượng”. Sau 6 tháng thảo luận, bàn bạc với vị hôn phu, Melinda đã đã đích thân thuê kiến trúc sư cải tạo khu nhà ở 3700m2. Đến nay, cứ cuối tuần Melinda đều cho đội ngũ làm thuê trong tư gia nghỉ, để gia đình có thể trải qua những giây phút quây quần bên nhau như những gia đình bình thường khác.Có 3 con, điều đáng ngạc nhiên là chính Melinda đã tuân thủ các quy định nuôi con bằng sữa mẹ như các bác sĩ khuyến cáo. Trong việc nuôi dạy bọn trẻ, Melinda cũng khuyến khích các con tự lập và làm việc chăm chỉ. Bà cũng tranh thủ đưa các con đi cùng trong các chuyến đi từ thiện để vừa rèn luyện sức khỏe, vừa mở rộng tầm nhìn về thế giới cho chúng.Melinda và Bill cũng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con. Sẽ không quá 5% tài sản của họ sẽ trở thành tiền thừa kế của 3 con, còn khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa.Thực ra, ban đầu Bill và Melinda thậm chí không muốn để lại tài sản gì cả nhưng người bạn thân Buffet đã khuyên: “Một người có rất nhiều tiền nên để lại cho con cái họ đủ số tiền để chúng thực hiện ước mơ của mình nhưng cũng không được nhiều đến mức chúng không muốn làm gì nữa".Không thích mua sắm, ghét những nhãn hàng xa xỉ và chỉ trang điểm nhẹ nhàng, Melinda vẫn giữ được vẻ đẹp trẻ trung suốt những năm qua.Một trong những bí quyết của bà là luyện tập thể thao đều đặn. Melinda đã tập chạy marathon từ gần 15 năm qua, thậm chí còn tham dự cả giải Seattle Marathon. Dù bận rộn đến mấy, mỗi tuần bà cũng có một cuộc chạy việt dã, trong 1 giờ vượt qua 11km. Việc Bill tham gia chạy trong 2 năm trở lại đây cũng là do Melinda động viên và thôi thúc.
  3. Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Hoa Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả bài báo “Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Hoa” đã đăng trên trang Đại Đoàn Kết.Theo chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu chữ nào ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hoàng triều dư địa toàn đồ (1728, 1729) cho thấy cương giới phía Nam Trung Quốc chỉ đến phủ Quỳnh Châu (Hải Nam) Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX). Dưới đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Hòa chỉ huy những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình diễn của Trịnh Hòa đã góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia. Sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đã xác nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111 TCN, sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm. Nhan đề sách là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài. Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam. Đời nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam). Trong đời Nam Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống cũng xác định giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà Tống đã cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao Chỉ. Một trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan quân Nguyên - Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ đời Thành Cát Tư Hãn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không còn dòm ngó Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ý định xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực hiện năm 1561 phần cực nam lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam. Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương (Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427 Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407). Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An - Hà Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh - Cà Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...). Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy, tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: "Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung Quốc”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII. Các tài liệu cổ của Trung Hoa rõ ràng cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) đã được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một cách hoà bình và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào kể cả của Trung Quốc. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của nhiều triều đại Trung Quốc trong đó đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn 22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX. Theo Đại Đoàn Kết
  4. Lá sen chữa nhiều bệnh Cây sen rất quen thuộc với người Việt Nam chúng ta. Hạt sen (liên nhục) dùng nấu chè; tâm sen (liên tâm) làm thuốc an thần, tua sen (liên tu) ướp trà; ngó sen (liên ngẫu) dùng làm gỏi… Và còn một bộ phận của sen mà ít người biết có công dụng chữa bệnh, đó là lá sen Tỉ lệ hoạt chất có trong lá sen bánh tẻ cao hơn lá non và lá già. Về dược lý, lá sen đã được nghiên cứu chứng minh có tác dụng an thần, chống co thắt cơ trơn, chống choáng phản vệ, ức chế loạn nhịp tim. Tác dụng an thần của lá sen mạnh hơn tâm sen. Lá sen được thu hái quanh năm, thường dùng lá non hoặc lá còn cuộn lại và lá bánh tẻ, bỏ cuống. Trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, lá sen được ghi nhận dùng với tên thuốc là liên diệp hoặc hà diệp, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô, đôi khi sao thơm. Sau đây là những cách dùng lá sen chữa bệnh: - Chữa háo khát: Lá sen non (loại lá còn cuộn lại, chưa mở càng tốt) rửa sạch, thái nhỏ, ép lấy nước uống nhiều lần trong ngày. Hoặc cũng có thể thái nhỏ, trộn với các loại rau ghém, ăn sống hằng ngày. Món này dùng rất tốt cho người bị tiêu chảy vừa chữa khỏi, cơ thể đang bị thiếu nước. - Chữa máu hôi không ra hết sau khi sinh: Lá sen 20 – 30 g, sao thơm tán nhỏ, uống với nước hoặc sắc với 200 ml nước còn 50 ml uống một lần trong ngày. - Chữa mất ngủ: Lá sen (loại bánh tẻ) 30 g rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô sắc hoặc hãm nước sôi để uống. - Chữa sốt xuất huyết: Lá sen 40 g, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi 40 g, rau má 30 g, hạt mã đề 20 g, tất cả đem sắc uống ngày 1 thang. Nếu xuất huyết nhiều, có thể tăng liều của lá và ngó sen lên 50 – 60 g. - Chữa băng huyết, chảy máu cam, tiêu chảy ra máu: Lá sen 40 g để sống, rau má 12 g sao vàng, thái nhỏ sắc với 400 g nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày. - Chữa ho ra máu, nôn ra máu: Lá sen, ngó sen, sinh địa (mỗi vị 30 g), trắc bá, ngải cứu (mỗi vị 20 g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô sắc uống trong ngày. - Chữa đau mắt: Lá sen, hoa hòe (mỗi vị 10 g), cúc hoa vàng 4 g, sắc uống. - Đắp nhọt: Dùng ngoài, núm cuống lá sen nấu nước đặt để rửa, rồi lấy lá sen rửa sạch, giã nát với cơm nếp, đắp làm tan mụn nhọt. - Phòng chống béo phì: Lá sen tươi 1 lá, gạo tẻ 100 g, đem nấu cháo dùng với đường trắng cũng có thể gia thêm đậu xanh để tăng sức thanh nhiệt giải độc. Nếu không có lá sen tươi, có thể dùng lá sen khô nhưng trước khi dùng phải ngâm cho mềm. Hoặc uống trà lá sen mỗi ngày. Theo tài liệu nước ngoài, lá sen hãm uống được dùng phổ biến như một loại nước trà trong những ngày hè oi bức để chống nóng, giải nhiệt, làm dịu mát, đỡ khát. Các nhà khoa học người Mỹ đã nghiên cứu thấy trong lá sen có hoạt chất làm dịu dục tính, chữa di tinh, mộng tinh. Lương y Vũ Quốc Trung (Hà Nội)
  5. Nhân quả báo ứng những điều mắt thấy tai nghe Tôi trở về quê lo đám tang mẹ vợ cùng thầy giáo Triệu. sau khi hoàn tất mọi công việc được rãnh rỗi đôi chút, những lúc rảnh rỗi tôi thường ra trước sân nhà đi dạo. Một ngày kia, lúc đang đi dạo thấy 1 người gánh cá đem bán. Trong gánh cá có rất nhiều loại, nào lươn, cá, đặc biệt có 1 con ba ba rất lớn. Khi ấy có rất nhiều người phụ nữ xúm lại chọn lựa, tôi liền nói với người bán cá, để tất cả gánh cá đó cho tôi. Mọi người trợn tráo mắt nhìn, họ hỏi:”ông mua làm gì mà nhiều vậy?” “Mua để phóng sanh” tôi trả lời. Nghe tôi trả lời mọi người đều bỏ đi, người bán cá liền bắt đền: ”Lúc nãy mọi người định mua, mà ông bảo để ông mua phóng sanh, làm họ đi hết, bây giờ ông không mua thì không được”. “Cô cũng biết tôi là đàn ông thì không bao giờ trả giá, vả lại việc mua phóng sanh tôi càng không trả treo, nhưng tôi muốn cô cũng trồng chút ít thiện căn, nên cô có thể bán rẻ 1 chút” tôi nói như vậy. Cô ta vui vẻ đồng ý. Tôi nhờ cô cùng tôi gánh ra bờ sông để thả, mọi người trong làng thấy lần đầu tiên có người gánh cá ra sông, chẳng khác nào gánh củi về rừng, họ rất ngạc nhiên, liền kéo ra xem. Sau khi làm lễ quy y, khai thị, niệm Phật cho chúng xong, tôi bắt đầu thả, nhìn chúng vui mừng bơi lội tung tăng trong nước, lòng tôi cảm thấy vui sướng vô cùng. Người xưa nói” lòng tham của con người vô đáy” Quả thật không sai. Trong lúc không chú ý, người bán cá vội bắt con ba ba giấu đi, không ngờ vừa thò tay bắt thì con ba ba cắn mạnh vào ngón tay của cô, làm thế nào nó cũng không nhả ra, máu trong tay cô tuôn ra đầy miệng nó, thấy thế tôi liền đến giúp cô gỡ nó ra. Lạ thay, tôi vừa đụng vào mình nó, nó liền hả miệng ra, nhưng 1 ngón tay của cô bán cá đã lìa khỏi bàn. Vài hôm sau tôi trở lên thành phố Thiên Tân, vừa đến ga xe lửa, thì có vài người chạy ra chúc mừng, vì đứa con gái lớn của tôi vừa thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo Tôi bắt đầu thấy lợi ích của việc PHÓNG SANH cho nên tôi dám khuyên mọi người, nếu trên đường đi chúng ta gặp những con vật còn sống, thì nên mua chúng phóng sanh. Nhất định sẽ được phước báo rất lớn. Tác giả: Tịnh Tùng. Dịch giả: Đạo Quang
  6. Xác nhận tk báo có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Nam Chu Tước ủng hộ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 11,414,000 đ + 300,000 đ = 11,714,000 đ (mười một triệu bốn trăm mười bốn ngàn đồng)
  7. TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG HT Thích Thanh Từ http://www.thuvienho...-217_14-1_15-1/ Chúng ta cứ ngỡ rằng vào Niết bàn là vào một cảnh giới rực rỡ, có đủ thứ sung sướng, tươi đẹp… Tưởng Niết bàn như vậy là Niết bàn tưởng tượng. Niết bàn là vô sanh, vô sanh mà hằng tri hằng giác, chứ không phải vô sanh mà vô tri vô giác. Cái hằng tri hằng giác đó cũng gọi là Phật tánh. Như vậy được cái vô sanh hằng tri giác đó là nhập được Phật tánh của mình. Nếu nhập được Phật tánh của mình thì gọi là Phật chứ gì! Chúng ta cứ mong thành Phật được ngồi trên tòa sen có hào quang rực rỡ, ông Phật đó là ông Phật gì? Ông Phật đó là ông Phật sinh tử, hoặc là báo thân, hoặc là hóa thân. Phật Pháp thân thì không có hình tướng. Như vậy người có tu sẽ được kết quả rất cụ thể, còn người không biết tu hết nghĩ chuyện này đến nghĩ chuyện nọ liên miên. Trong khi cái biết thầm lặng luôn ở bên mình thì lại không hay, không nhớ tới. Do không nhận được cái hằng tri hằng giác thầm lặng ấy, nên chỉ nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ phải nghĩ quấy, cho đó là tâm. Chấp giữ khư khư thân sinh diệt và tâm sinh diệt là mình thì trách gì không đi trong luân hồi muôn kiếp sao được. Bởi cho cái sinh diệt là mình nên vừa mất cái sinh diệt này liền ôm cái sinh diệt khác, cứ liên miên như vậy, nên đi trong luân hồi vô số kiếp. Nếu bây giờ biết rõ thân này là vô thường sinh diệt, tâm phân biệt hơn thua phải quấy cũng vô thường sinh diệt; chỉ có cái hằng tri hằng giác, không hình không tướng đó mới thật là mình. Cái đó có bị lửa đốt cháy không? Không. Vì vậy nên nói hoa sen trong lò lửa. Nói thân vô thường vì thân bị lửa vô thường thiêu đốt, cháy mòn dần. Thí dụ như một cây củi tươi, đút vô lò lửa. Ban đầu củi tươi cháy chậm, lần lần củi khô cháy nhanh hơn, cuối cùng nó bắt cháy hết. Cũng như vậy, hồi ta sinh ra đến lớn lên năm mười tuổi, đầu tóc xanh. Năm tháng chất chồng, lửa vô thường đốt riết bây giờ đầu bạc trắng. Hồi xưa mặt mày no đầy, bây giờ bắt đầu nhăn nheo. Nó hiện tướng khô đó, khô rồi thì tới cháy rụi. Rõ ràng chúng ta mang thân vô thường, bị lửa vô thường đốt cháy. Có khi nó cháy gấp, có khi nó cháy muộn, nhưng nhất định phải cháy. Song trong cái vô thường đó, ngầm có một cái chân thường, tức là cái không có hình tướng, hằng giác hằng tri. Không hình tướng nên đâu bị vô thường, hằng giác hằng tri nên đâu phải là không. Trong nhà Phật nói chỗ đó "không phải có, không phải không" (phi hữu, phi vô). Bởi vì nó không phải có theo hình tướng vô thường, không phải không vì nó hằng giác hằng tri. Trên đường tu chúng ta nghiệm, nhận kỹ mới thấy, từng phút từng giây chúng ta đang tiến chứ không phải là vô ích. Nhưng vì lâu nay không ai giảng trạch cho mình biết, cứ cho rằng ngồi thiền phải yên, phải lặng; mà sao mình ngồi vọng tưởng hoài, chưa yên chưa lặng nên coi như mình tu chưa có kết quả. Năm năm, mười năm nhìn lại thấy cũng còn vọng tưởng, bèn than: Ôi, mười năm rồi mà tu vẫn không có kết quả gì, nên thối Bồ đề tâm. Nếu quý vị ngồi thiền từ đầu giờ đến cuối giờ, chịu khó để ý ngày nay nghĩ mười lần, ngày mai còn chín lần, ngày khác còn tám lần… Như vậy là đã thấy bước tiến của mình. Niệm khởi là vô thường là điên đảo. Qua những cái đó chúng ta có những phút giây sống với cái chơn thường. Từ niệm điên đảo mà thức tỉnh, chúng ta sống lại với cái bình lặng vô thượng chánh giác. Như vậy là mình có giác, chứ đâu phải hoàn toàn mê. Giả sử chúng ta còn vọng tưởng mà ông chủ vẫn hiện tiền hoài thì có thiệt thòi gì đâu. Mỗi niệm dấy lên ông chủ thấy quở nó, nó liền mất. Lát sau nó dấy lên niệm khác, ông chủ thấy lại quở nó, nó liền mất. Cứ như vậy, trong nhà có khách bước vô, chủ chào hỏi, xong khách bước ra. Đến người khác bước vô, chủ cũng chào hỏi… Cả ngày khách tới lui tấp nập, nhưng ông chủ vẫn có mặt để chào hỏi khách thì có thiệt thòi gì đâu! Chỉ sợ không có ông chủ, khách vô làm quyền ở trong nhà thì mới nguy. Chứ còn trong nhà có chủ, khách bước vô, chủ chào rồi đưa ra. Như vậy ông chủ có thiếu vắng lúc nào đâu? Vậy mà nhiều người than thở hoài, "tu lâu mà không có kết quả", vì quên ông chủ của chính mình. Nên biết giờ ngồi thiền không phải thiệt thòi, mà chẳng những giờ ngồi thiền thôi, cho tới giờ đi tưới hoa, nhổ cỏ, nấu cơm, lặt rau v.v… quý vị cũng biết rõ từng niệm khởi. Đó là quý vị không thiếu ông chủ. Ông chủ vừa thấy dấy nghĩ liền đuổi đi, như vậy có gì mất mát đâu? Nếu giờ nào cũng có ông chủ, tức là giờ nào mình cũng có ông Phật. Tuy tu chưa thành Phật, mà lúc nào cũng có Phật hộ cho mình. Đó là Phật luôn luôn gia hộ cho mình không bị mấy đứa phàm tục chen vô. Ngược lại cứ dong ruổi, thả trâu chạy cùng đường cùng sá, chiều lại thắp hương cầu Phật phù hộ cho con, mà không chịu nhận ông Phật thường trực gia hộ bên mình. Đó là lối tu quên gốc chạy theo ngọn ngành. Cái gốc đó không xa, ở gần bên mình. Nên chúng ta thường hay nói tu là cốt trở về cố hương. Cố hương ở đâu? Nếu nghĩ cố hương cách đây chừng năm trăm hay một ngàn cây số là sai lầm. Chúng ta phải nhớ cố hương ở ngay dưới gót chân mình chứ không ở đâu xa hết. Chúng ta đang đứng trên cố hương mà quên mình đang đứng trên cố hương, cứ nhìn đằng này đằng kia kiếm tìm cố hương. Đang đứng trên đất cố hương, mà cứ nhìn ra ngoài nên nói quê hương xa mù, không biết ở đâu. Như vậy mới thấy chúng ta hết sức điên đảo. Cái thật hiện tiền lại quên, chỉ đuổi theo cái tưởng tượng, cái mình ước mơ. Bây giờ muốn trở về cố hương, chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải chịu khó nhìn xuống chân mình thì thấy chớ gì. Vì muốn cho quý vị thấy cố hương nên tôi mới khuyên mỗi khuya mỗi tối, quý vị ngồi dòm xuống một chút. Đừng nhìn đi xa, nhìn xa thì quên bẵng quê mình. Nhìn xuống để thấy mình đang ngồi, đang đứng tại quê hương cũ của mình. Đó là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Còn nếu quên, chạy đi tìm đầu này góc nọ là chúng ta mê. Quên là mê. Mê cố hương hiện tiền nên chạy tìm nơi nọ nơi kia. Tất cả chúng tu hành là quay lại, nhận thẳng nơi mình, chứ không có ở đâu xa. Như vậy ngay nơi thân phàm tục này cũng vẫn có Niết bàn. Nhưng Niết bàn đó chưa trọn vẹn, chỉ là Niết bàn từng chặng, từng khoảng thôi. Lát thì sinh tử, lát thì Niết bàn, còn chập chờn chứ chưa hoàn tất Niết bàn. Chừng nào như Tổ Huệ Khả, mọi duyên đều sạch, không còn một niệm nào nữa, lúc đó chúng ta vẫn sống, vẫn đi lại, mọi công tác chúng ta vẫn làm mà tâm hằng giác, hằng thanh tịnh, đó là Hữu dư y Niết bàn. Như vậy Niết bàn xa không? Kiếm ở đâu? Chúng ta có quyền được Niết bàn không? Có ai không có quyền đó không? Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật, Bồ tát mới có Niết bàn, còn mình là phàm phu ngu si nên vô phần. Bởi vì chúng ta cứ ngỡ Niết bàn chỉ có khi tu đến hoàn toàn viên mãn. Chúng ta biết mình có nhân Niết bàn rồi, thì quả Niết bàn sớm chầy gì cũng sẽ được. Như vậy ai cũng có khả năng, ai cũng có thể tu được quả Niết bàn. Khi niệm khởi là sanh tử, khi lặng lẽ hằng tri là vô sanh. Sanh tử với vô sanh ở cạnh bên, một giờ ngồi thiền ít ra cũng được phân nửa thời gian của vô sanh. Như vậy có buổi nào quý vị không có Niết bàn đâu. Ngày nào cũng có Niết bàn nhưng nhiều ít vậy thôi. Do đó trên đường tu không có chuyện luống công vô ích mà chỉ vì chúng ta không nhận ra. HT Thích Thanh Từ __._,_.___
  8. Cám ơn Mihanhna và Longphibacai nhiều nhiều nha !
  9. 24 Triệu Chứng Bệnh Không Nên Coi Thường Các vụ đau đớn hay bệnh tật thông thường rất có thể là chẳng có gì quan trọng… nhưng đôi khi lại vô cùng nghiêm trọng. Vì vậy chúng ta cẩn phải cẩn thận cân nhắc những gì phải làm mỗi khi sự việc xẩy ra cho chúng ta. 1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở Lý do: có thể là do nghẽn mạch phổi(pulmonary embolus). Nhận xét: Cảm thấy khó thở sau khi tập thể dục hay đang ngồi có thể là do vận động hay do ưu tư lo lắng. Nhưng nếu đột nhiên bị khó thở có thể là do chứng nghẽn mạch phổi do cục đông máu làm nghẹt mạch máu trong phổi. Bệnh này có thể nguy hiểm tới tính mạng. Một lý do khác là tim lên cơn đau hoặc trụy tim. Cả hai tình huống trên đều làm cho bệnh nhân thở gấp hay khó chịu hoặc cảm thấy thiếu không khí . Cẩn đưa bệnh nhân đi cấp cứu. 2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên Lý do: có thể là do lên cơn đau tim (heart attack). Nhận xét: Đánh trống ngực (palpitations) có thể chỉ là vì ưu tư lo lắng, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của cơn đau tim hay chứng loạn nhịp tim (arrhythmia) .Nên liên lạc với bác sĩ ngay. 3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường Lý do: có thể là do huyết áp thấp. Nhận xét: Chóng mặt vào buổi sáng được gọi là "huyết áp thế đứng thấp" (orthostatic hypotension) gây ra bởi sự loại nước (dehydration) , bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, bệnh trụy tim, hay thuốc men bao gồm cả thuốc lợi tiểu và thuốc huyết áp. Một lý do khác có thể là chứng "chóng mặt tư thế nhẹ " (benign positional vertigo) gây ra bởi sự xáo trộn của các bộ phận cân bằng của tai trong. Nên đi gặp bác sĩ để chẩn đoán. 4- Nước tiểu rò rỉ Lý do: có thể là do chứng són đái (urinary incontinence) mà nguyên nhân không phải vì lão hoá, nhiểm khuẩn đường tiểu (urinary tract infection-UTI) , bệnh tiền liệt tuyến, dây thẩn kinh bị ép. hoặc tiểu đường Nhận xét: đi gặp bác sĩ để chẩn đóan 5- Đầu đau như búa bổ Lý do: có thể là do xuất huyết não Nhận xét: Trong phần lớn trường hợp đó là triệu chứng của chứng nhức nửa đầu (migraine) chỉ cần uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi là hết. Nhưng một vài trường hợp hiếm xẩy ra là chứng nhức đầu có thể là dấu hiệu có khối u hay xuất huyết trong não. Cẩn đặc biệt chú ý là khi bị đau nhiều nửa bên đầu một cách đột ngột và kéo dài mà lại kèm theo buồn nôn, ói mửa, và chảy nước mắt. Trong trường hợp sau này phải đi bệnh viện gấp. 6- Mắt bị sưng vù Lý do: có thể là do viêm dây thần kinh mắt (optic neuritis). Nhận xét: Dây thần kinh mắt có thể bị nhiễm khuẩn hay bị dị ứng. Nếu chữa sớm thì không hại gì cho mắt vì vậy cần đi bác sĩ khẩn cấp. 7- Tai đau và mắt nhìn thấy hai hình (song thị) Lý do: có thể do tai giữa bị nhiễm khuẩ Nhận xét: Bệnh có thể trở thành nghiêm trọng bất ngờ vì vậy cần đi bác sĩ cấp thời nếu chứng đau không dứt và/hoặc có bị thêm chóng mặt lảo đảo, nhức đầu, ói mửa, song thị, nửa ngủ nửa thức, cổ cứng đơ, sưng ở sau tai, sốt nhiều và liệt mặt. 8- Tự nhiên giảm sút ký Lý do: có thể là do ung thư. Nhận xét: Nếu ăn uống vẫn bình thường như cũ mà đột nhiên bị sút cân thì có thể là bị bệnh ác tính. Một nguyên nhân khác cũng ó thể là do sự bất bình thường nội tiết (endocrinic abnormality) như bệnh tuyến giáp trạng (thyroid disorder), trầm cảm hay tiểu đường. Nên đi gặp bác sĩ ngay để chẩn đoán. 9- Đột nhiên đau háng Lý do: có thể là do tinh hoàn bị xoắn Nhận xét: Đây là một khuyết tật bẩm sinh khá thông thường. Ống dẫn tinh trùng bị xoắn làm máu không chạy tới tinh hoàn. Cơn đau cũng giống như bị đá vào háng. Đôi khi ngoài cơn đau còn thấy bị sưng nữa. Trong vòng 4 hay 6 tiếng thì còn cứu đươc, chứ trễ từ 12 đến 24 tiếng thì coi như phải cắt bỏ. Một nguyên nhân khác có thể là nhiểm khuẩn mào tinh hoàn (epididymis) tức là bộ phận trữ tinh trùng. Trong trường hợp này có thể dùng trụ sinh để chữa trị. 10 - Đau nhói gan bàn chân Lý do: có thể là do bệnh thần kinh (neuropathy) . Nhận xét: Đau nhói cứ tái phát ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể có thể là do sự nén ép dây thần kinh, tăng thông khí phổi (hyperventilation) hoặc bệnh thần kinh. Liên lạc với bác sĩ càng sớm càng tốt. 11- Vết thâm tím mãi không tan Điều gì xẩy ra: bệnh tiểu đường. Nhận xét: Vết đứt hay thâm tím chậm lành có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường (dấu hiệu khác gồm có da bị ngứa hoặc đau nhói bàn tay hay bàn chân). Nên tìm cách giảm cân (giảm 10 phẩn trăm trọng lượng ảnh hưởng đáng kể lên mức đường trong máu), tập thể dục và coi chừng thói quen ăn uống. 12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la Điều gì sẽ xẩy ra: viêm lợi. Nhận xét: Một trong những dấu hiệu đầu tiên của sâu răng là nhạy cảm với đồ ngọt. Dấu hiệu đầu tiên khác là răng mất mầu và có mùi khi cà răng. Kỹ thuật laser có thể phát hiện sớm các ổ răng sâu và tiêu diệt các vi khuẩn trước khi làm sâu răng. 13 - Vòng eo rộng 42 inch Điều gì sẽ xẩy ra: bất lực. Nhận xét: Có thể bây giờ chưa có vấn đề nhưng trong tương lai bạn có thể bị loạn năng cường dương (erectile disfunction) Nguyên do là vì khi đàn ông quá mập các động mạch thường hay bị nghẹt nên dòng máu không đủ làm cho cương. Hãy tập thể dục đều cho đến khi eo thon lại, thắt vừa dây lưng 34 inch. 14 - Mắt thoáng không thấy gì - chỉ trong một giây Lý do: có thể là do đột quỵ (stroke). Nhận xét: Các yếu tố rủi ro chính của đột quỵ là cao huyết áp (trên 140/90) và cholesterol toàn phần cao hơn 200. Bị tê một bên người và tạm thời hai mắt không nhìn thấy gì là những dấu hiệu đáng chú ý nhất. Đột nhiên bị tê, nói liú lưỡi, hay mất thăng bằng có thể là bẳng chứng của một cơn đột quỵ nhẹ gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack- TIA). Đột quỵ nhẹ này thường báo trước một đột quỵ thật sự nên khi có triệu chứng của TIA thì phải gặp bác sĩ ngay. 15 - Có cảm giác như bị ợ nóng (heartburn) Lý do: có thể là do chứng đau thắt (angina). Nhận xét: Đau ngực cả hàng giờ, lúc có lúc không, được bác sĩ gọi là "hội chứng mạch vành không ổn định" (unstable coronary syndrome). Nguyên nhân là vì các cục đông máu đươc tạo thành bên trong thành động mạch vành ngay tại chỗ mảng (plaque) bị bể vỡ. Khoảng 50 phẩn trăm những người có hội chứng trên đây sẽ bị lên cơn đau tim trong vòng 6 tháng sau. Mỗi khi thấy đau thắt ngực, cần phải đi bệnh viện. 16 - Đau lưng nhiều Lý do: có thể là do chứng phình mạch (aneurysm). Nhận xét: Đau cũng tương tự như vừa dọn dep xong tủ quẩn áo bề bộn. Thế nhưng chườm nóng, nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau thông thường lại không khỏi. Nếu không phải vì tập thể dục thì đau lưng bất chợt như vậy có thể là dấu hiệu của chứng phình mạch. Chứng đau này chỉ hết khi động mạch chủ bị bể. Một nguyên nhân khác của chứng đau lưng này - kém phần nguy hiểm hơn - là sạn thận. Bác sĩ cho chụp CT scan để xác định vị trí và hình dạng của chỗ mạch phình, sau đó cho uống thuốc huyết áp hay giải phẫu ghép nối nhân tạo. 17- Ngồi lâu trên ghế không yên Lý do : có thể do các cơ lưng bị căng thẳng. Nhận xét : Nếu cứ phải thay đổi vị thế ngồi luôn tức là có dấu hiệu các cơ lưng bị căng thẳng và điều này có thể dẫn đến đau lưng dưới. Cẩn phải lựa chọn ghế ngồi cho thoải mái, sao cho đầu ở vị trí ngay đối với cột sống để giảm tối thiểu sức căng thẳng trên cổ, vai và lưng dưới. 18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp Điều gì sẽ xẩy ra: bạn cũng sẽ bị cao huyết áp luôn. Nhận xét: Vì bệnh cao huyết áp vừa phải không có dấu hiệu bên ngoài nên cẩn phải đo huyếp áp mỗi năm một lần, nhất là nếu trong gia đình có tiền sử bị cao huyết áp. Nghiên cứu cho thấy là những người bị căng thẳng tinh thần vì cha mẹ mắc bệnh cao huyết áp cũng có nhiểu rủi ro bị bệnh này luôn. Nếu số đo huyết áp cao hơn 140/90, bạn nên tập thể dục nhiều hơn, tìm cách sụt cân, giảm sodium trong chế độ ăn uống, ăn loại cá tốt cho tim, uống nhiều vitamin C. 19 -Tay bị run khi tập thể dục Lý do: có thể là do cơ bắp bị mỏi mệt. Nhận xét: Nếu bạn đã bỏ tập cả nhiều tháng thì cơ bắp bị run có thể là vì mệt mỏi. Vì vậy khi mới tập trở lại bạn nên tập vừa phải, đừng tập quá mệt. Bạn hãy ngưng tập khi cảm thấy các cơ bắp bắt đầu run. 20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng Lý do: do bạn đã quá chén. Nhận xét: Rượu làm suy yếu hệ thần kinh trung ương. Vì vậy nếu bạn uống quá nhiều, tất cả những gì trong cơ thể có liên quan tới hệ này sẽ đều bị suy yếu: trí phán đoán, khí sắc, khả năng phối hợp và quân bình, sự nhạy cảm với đau đớn, khả năng sinh dục. Bạn nên tránh đừng uống rươu nhiều. Bạn nên nhớ là nếu nồng độ rượu trong máu hơn 0.06 phần trăm là trên pháp lý bạn đã bị coi như là say rượu. 21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân Lý do: nhiều triển vọng là do gẫy xương vì sức nén (stress fracture). Nhận xét: Cũng giống như các mô khác trong cơ thể, xương tự tái tạo. Nhưng nếu bạn tập thể dục quá mạnh, xương không có cơ hội để lành trở lại nên một vết gẫy vì sức nén (stress fracture) sẽ có thể xuất hiện. Vì thế mu bàn chân và phiá trước cẳng chân sẽ đau dai dẳng. Bạn càng tập thể dục thì càng đau và ngay cả khi ngưng nghỉ cũng đau. Uống thuốc ibuprofen hay paracetamol không ăn thua gì. Thuốc mầu phóng xạ cho thấy chỗ xương gẫy qua hình chụp tia X, và bác sĩ sẽ bắt bạn phải nghỉ tập cho đến khi xương lành. Trường hợp xấu nhất là bạn phải bó bột vài tuần. 22 - Đau như cắt ở bụng Lý do: Vì vùng giữa xương sườn và háng có kẹt đầy các bộ phận nên đau có thể là triệu chứng hoặc của viêm ruột thừa, viêm tụy tạng hoặc của túi mật bị sưng. Cả ba trường hợp đểu có cùng một nguyên nhân : vì một lý do nào đó các bộ phận này đã bị nhiễm khuẩn nguy hại đến tính mạng. Nhận xét : Nếu để bộ phận nói trên bể vỡ ra thì bệnh nhân có thể bị chết, vì vậy cẩn đi bệnh viện cấp thời. 23- Cẳng chân bị đau và sưng to Lý do: có thể là do chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis –DVT). Nhận xét: Chỉ cẩn ngổi một chỗ liền chừng 6 tiếng hay hơn là máu sẽ tụ ở cẳng chân dưới tạo thành cục đông máu (gọi là chứng huyết khối tĩnh mach sâu). Cục đông máu đủ lớn sẽ làm nghẹt tĩnh mạch bắp chân gây đau và sưng. Xoa cẳng chân là điểu đầu tiên bạn sẽ làm nhưng cũng là điều tệ hại nhất vì cục đông máu lớn có thể chạy ngược lên phổi, điều nầy gây nguy hiểm đến tính mạng của bạn. Muốn chụp hình tia X để định bệnh DVT bác sĩ phải chích chất mẩu vào tĩnh mach. Bác sĩ sẽ cho thuốc làm tan cục đông máu hoặc đặt cái lọc vào tĩnh mạch để chặn cục đông máu không cho chạy lên phổi. 24 - Tiểu tiện bị đau Lý do: có thể là do ung thư bàng quang (bọng đái). Nhận xét: Rặn tiểu là cả một cực hình và nước tiểu lại có màu rỉ sắt. Đau và máu trong nước tiểu là hai triệu chứng của ung thư bàng quang. Hút thuốc là yếu tố rủi ro bị bệnh lớn nhất. Nếu khám phá sớm bệnh có 90 phẩn trăm triển vọng được chữa khỏi. Nhiễm khuẩn bàng quang cũng có cùng các triệu chứng như trên (Theo "24 warning signs you cannot afford to ignore").
  10. Phục HC lắm nghen! Say lúy túy đã thành danh Túy Lão mà HC dẫn dắt ghé hoài hoài quán thơ của HC là giỏi rồi ha!
  11. Bạn có thể treo 1 quả bầu khô (tên gọi là hồ lô) ngay trên đầu giường hay nơi nào cháu ngủ, thử 1 tuần lễ nếu còn tình trạng như vừa qua. Wild sẽ gởi tặng bạn Bản Chú Giải Thoát TerMa. http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/19985-than-chu-giai-thoat-qua-su-nhin-ngam/
  12. Thực và hư quanh cái tên Phan Thị Bích Hằng Được cho là xuất hiện năng lực sau một lần “thập tử nhất sinh”, Phan Thị Bích Hằng đã trở thành một trong những nhà ngoại cảm nổi tiếng nhất Việt Nam. Bên cạnh những thành công được báo chí nhắc đến, cũng có không ít những tin đồn không hay về người phụ nữ đặc biệt này. Một hiện tượng của khoa học tâm linh Theo từ điển Wikipedia, Phan Thị Bích Hằng sinh ngày 15/2/1972, ở Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình. Bích Hằng đã tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân và Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh. Từ năm 1999 đến nay Bích Hằng công tác tại Trường ĐH Quản trị Kinh doanh Hà Nội. Phan Thị Bích Hằng cũng là một trong những cán bộ của bộ môn Cận tâm lý, Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Có nền tảng là một gia đình gia giáo, cuộc đời của cô thiếu nữ Phan Thị Bích Hằng sẽ êm ả trôi đi nếu như không có một biến cố lớn khiến người phụ nữ này đã trở nên nổi tiếng nhất Việt Nam. Thành nhà ngoại cảm sau lần bị chó dại cắn Hầu hết các nhà ngoại cảm đều nói rằng họ phát hiện khả năng của mình sau một biến cố rất lớn nào đó trong cuộc đời. Có người bị ốm gần chết, có người bị tai nạn suýt chết, thậm chí đã bị “chết lâm sàng” và riêng Bích Hằng thì bị chó dại cắn và rơi vào tình trạng “thập tử nhất sinh”. Theo báo Công an nhân dân, vào mùa hè năm 1990, Bích Hằng và một người bạn cùng bị một con chó dại cắn, bạn gái của cô sau đó đã chết. Hằng được gia đình đưa đi chữa trị nhiều nơi, song tất cả đều bất lực. Một thầy lang đã chữa cho cô bằng bài thuốc của ông, sau một đợt lên cơn dại Hằng tỉnh lại và khỏi bệnh. Sau đó, khi đã khỏe mạnh hẳn, Phan Thị Bích Hằng đã dần dần phát hiện năng lực được cho là kỳ lạ của mình. Những trường hợp tìm mộ bí ẩn Trang kynguyentamlinh.com đánh giá, theo thời gian, Phan Thị Bích Hằng đã và đang có những khả năng ngoại cảm sau đây: Khi nhìn vào mặt một số người quen có thể biết họ còn sống được mấy tháng nữa (khả năng này hiện nay đã mất); Nhìn xuyên mặt đất; Nhìn thấy và nói chuyện được với vong linh người đã mất. Một trong những trường hợp được giới truyền thông nhắc đến nhiều nhất là việc Bích Hằng đã tìm mộ cô em gái của giáo sư Trần Phương, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội. Loạt bài dài kỳ này được giới thiệu trên báo Công an nhân dân vào năm 2007. Em gái của giáo sư Phương tên là Vũ Thị Kính (SN 1929), chỉ huy Đội nữ du kích Hoàng Ngân nổi tiếng một thời. Tháng 6/1950, trong trận càn quét, địch đã bắt được bà. Sau khi tra tấn dã man, chúng đã ra tay giết hại nữ du kích quả cảm này. Nhờ năng lực ngoại cảm của mình, Phan Thị Bích Hằng đã thông qua một tấm ảnh của bà Kính để “trò chuyện” từ đó hỏi thông tin về phần mộ của bà. Phan Thị Bích Hằng đã giúp gia đình giáo sư Phương tìm lại phần mộ của cô em gái sau hàng chục năm trời gia đình đi tìm mà không có kết quả. Ngoài ra, Phan Thị Bích Hằng cũng được biết đến qua việc tìm mộ tướng công Hoàng Công Chất. Tháng 3/2007, trên tờ An ninh thế giới đăng bài “Tìm những linh hồn ở K’Nác” nhắc đến thành công của Bích Hằng trong việc ngoại cảm tìm thấy 400 thi thể liệt sĩ ở cánh rừng K"Nác, huyện K"Bang, tỉnh Gia Lai. Những chuyện thị phi… Đã có một thời gian, tên tuổi của người phụ nữ đặc biệt này liên quan đến hàng loạt tin đồn về “số phận” của cầu Bãi Cháy, cầu Thăng Long rồi Long Biên... Tin đồn còn khẳng định Phan Thị Bích Hằng đã bị bắt giữ ngay sau khi có những phát ngôn gây sốc. Câu chuyện này càng khiến dư luận tò mò khi cho rằng, chính nhà ngoại cảm Bích Hằng tuyên bố sẽ chịu ngồi tù đến hết đời nếu chị dự báo sai. Những tin đồn lan truyền với tốc độ chóng mặt, qua mỗi làng quê câu chuyện càng được thêu dệt, trở nên ly kỳ hơn. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã không giấu nổi bức xúc với những tin đồn trên. Chị khẳng định chưa bao giờ đưa ra phán đoán nào như thế và cho biết từ trước đến nay, chị chỉ có một công việc duy nhất là đi tìm mộ. Sau tin đồn về số phận những cây cầu, Bích Hằng lại dính vào một vụ lùm xùm khác là dự đoán sai vị trí của chiếc xe khách bị cuốn trôi ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh trong đợt lũ lụt lịch sử năm ngoái. Trước đó, để hỗ trợ thêm cho công cuộc tìm kiếm, Ban Chỉ huy tìm kiếm cứu nạn đã liên lạc nhờ sự giúp đỡ của hai nhà ngoại cảm là Phan Thị Bích Hằng và Nguyễn Văn Liên. Trên tờ Tiền phong ngày 20/10/2010 có trích dẫn lời ông Nguyễn Nhật, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh rằng, các nhà ngoại cảm (Phan Thị Bích Hằng và Nguyễn Văn Liên) cho biết: Vị trí xe bị nạn cách cầu Bến Thuỷ trong vòng bán kính 1,2 km về phía hạ lưu (thuộc vị trí xã Xuân An, Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Tuy nhiên, vị trí chiếc xe khi được vớt lên hoàn toàn khác, cách cầu Bến Thủy khoảng 3km chứ không phải 1,2km về phía hạ lưu cầu Bến Thủy như các nhà ngoại cảm đoán. Từ vụ việc này, dư luận lại dấy lên nghi ngờ: Phải chăng Phan Thị Bích Hằng đã mất khả năng? Thậm chí trên nhiều diễn đàn mạng còn cho rằng, Bích Hằng đã mất khả năng từ khi sinh con thứ hai! Gần đây nhất trên tờ Pháp luật Việt Nam cũng đăng tải những ý kiến nghi ngờ năng lực của một số nhà ngoại cảm nổi tiếng trong đó có Phan Thị Bích Hằng. Bà Ngô Thị Thúy Hằng - Giám đốc Trung tâm Quản lý dữ liệu về liệt sĩ và người có công đã dẫn chứng về trường hợp liệt sĩ Lê Tiến Hệ, gia đình sinh sống tại phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, Hà Nội. Gia đình liệt sĩ Hệ đã cậy nhờ nhà ngoại cảm Bích Hằng tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm. Qua áp vong, nhà ngoại cảm Bích Hằng cho gia đình biết mộ liệt sĩ Hệ đang ở Kon Tum. Tuy nhiên, giấy báo tử của liệt sĩ này lại cho biết anh không hy sinh ở Kon Tum! Sau đó, gia đình liệt sĩ Hệ đã đưa mẫu hài cốt thu được ở Kon Tum tìm thấy bằng phương pháp ngoại cảm đi xét nghiệm ADN và kết quả cho thấy nhà ngoại cảm đã đoán sai. Giải nghệ Giữa lúc những lời thị phi về khả năng tìm mộ của chị lên cao và hồ sơ nhờ tìm mộ còn xếp đầy ở nhà, Phan Thị Bích Hằng lại đột ngột tuyên bố giải nghệ và chuyển sang một lĩnh vực hoàn toàn khác là kinh doanh bất động sản. Trên VTC News, Phan Thị Bích Hằng đưa ra rất nhiều lý do cho việc giải nghệ này như: sức khỏe không đảm bảo, muốn dành thời gian cho việc học hành và gia đình… tuy nhiên, độc giả thì không thể không đặt dấu hỏi. Bích Hằng và gia đình. Báo Lao động online ngày 30/10/2010 dẫn ý kiến của bạn đọc Trần Hoàng Châu Phố (TP.HCM) cho rằng: “Đây là việc riêng của cá nhân nhà ngoại cảm. Báo chí đăng thông tin này sẽ “vô tình” tạo tâm lý đối với những người có nhu cầu tìm mộ và tìm đến nhà ngoại cảm ngày một đông hơn. Đại loại lời tuyên bố “tạm ngừng” này cũng giống như một số ca sĩ, diễn viên, người mẫu hay có những lời “tuyên bố” gây sốc trong dư luận hoặc tạo những scandal để đánh bóng tên tuổi của mình”. Tuyên bố giải nghệ của Phan Thị Bích Hằng còn khiến dư luận “đoán già đoán non” liệu có phải Bích Hằng đã thực sự bị mất năng lực nên mới tuyên bố giải nghệ? Thực hư của tin đồn này khó ai có thể kiểm chứng nhưng điều chắc chắn rằng, sau những sự cố trên, niềm tin của dư luận đối với nhà ngoại cảm đã có phần bị lung lay. Bởi vậy, thiết nghĩ, thân nhân liệt sĩ cũng cần lưu ý lời khuyến cáo của bà Ngô Thị Thúy Hằng: “Không nên bỏ qua khâu giám định ADN đối với hài cốt liệt sĩ tìm thấy theo hướng dẫn của nhà ngoại cảm". Theo Lan Châu VietNamNet
  13. Ngôi chùa nhỏ và những đứa trẻ.... Hôm nay ACE chúng tôi đã tổ chức chuyến thăm ngôi chùa nhỏ đã cưu mang những đứa trẻ tội nghiệp. Ngôi chùa nhỏ như một căn hộ bình thường lọt thỏm giữa con hẻm hẹp gần chợ Trần hữu Trang Quận Phú nhuận, Tp HCM. Mang tên BẢO AN NI TỰ ở số 74/3 do ni sư Như Hải trụ trì gọi là Sư Bà đúng hơn vì năm nay Bà đã 78t. Thật bất ngờ khi biết Sư Bà đã nuôi tám trẻ mồ côi ở các độ tuổi từ 7 đến 15 tuổi từ lúc các cháu bị bỏ rơi qua nhiều hoàn cảnh khác nhau. Càng bất ngờ hơn khi biết trên căn gác ở lầu 1 Bà còn có trách nhiệm cưu mang một vị Sư sống đời thực vật với một căn phòng hoàn toàn bế khí. Một sự sống như cây cỏ... Tính nhân ái cao của trung tâm chúng ta ngoài việc ủng hộ tiền bạc từ các ACE thành viên hảo tâm còn có trách nhiệm can thiệp cải tạo Phong Thủy cho những mãnh đời mà cơ duyên đã đưa chúng tôi đến với họ. Để họ có một cuộc sống sinh khí với đầy đủ sức khỏe vốn có. Tôi đã trao tặng Sư bà một ít thuốc cảm Efferalgan. Tôi có kinh nghiệm nhận thức được một yếu tố quan trọng cho tất cả chúng ta qua những lần đi từ thiện, hầu hết những số phận nghiệt ngã hay sự bệnh tật đầy bế tắc đều là những con người những mãnh đời đều vô tư sống trong một điều kiện hoàn toàn bế khí hay hội tụ quá nhiều âm khí . Vẫn có một chánh điện với tât cả ban bệ thờ dù chật hẹp, khó khăn lắm chúng tôi mới có thể ghi nhận một số hình ảnh để chuyển tải sinh hoạt nơi đây đến với các bạn. căn phòng khoảng 10m2 dành cho tám trẻ. Thì đây với thực tế của căn chùa này(xin phép gọi thế cho đúng với chức năng của nó) người bệnh, trẻ mồ côi tù túng với căn gác đó làm sao họ có đời sống tốt hơn? Tất cả sẽ cam phận lắng đọng chống chỏi với những khó khăn ngày nối tiếp ngày... Tôi thay mặt ACE trung tâm trao tặng địa chỉ này 6,000,000 đ (sáu triệu đồng) Một trong các cháu đã viết lời cám ơn. Sư Bà cũng đã gởi chúng tôi 1 thư ghi nhận công đức, Công đức này có được cũng từ đóng góp của ACE. ACE chúng tôi đang triễn khai các hạng mục có thể thay đổi vận khí của căn chùa.
  14. Chị Wild cám ơn Minh Chau và Linh Trang nhiều về lời chúc Birthday, riêng LT, Wild cũng không quên chúc Cậu sớm tìm lại được thăng bằng cho mùa Vu Lan tới đây.
  15. Vấn đề là ở đây! Bác Thiên Sứ đã yêu cầu chụp lại hình ảnh Tượng Vương để xem xét, nay Bác Tầm Nhìn Mới đưa thông tin này quả là Thiện tai.
  16. Kinh nghiêm đâu khó tìm! SC cứ NHÌN và THẤY Chú Giải Thoát mỗi khi lâng lâng mơ hồ tâm trí toàn tâm ý vào 2 câu chú thực hành Quán tưởng hình ảnh Đức Phật nhận ra ngay sự chuyển hóa. Chúc SC nhận được sự vi diệu của Bản chú!
  17. Chân thành cám ơn những lời chúc tốt đẹp của tất cả dành cho Wild nhân ngày Sinh Nhật và hãy nhận lại từ Wild lòng tri ân tri ngộ. @ ntpt & Thiên Luân : Merci pour tes souhaits même belle chanson "On ne peut pas choisir le destin de notre vie, il faut que pouvoir d'augmenter la meilleur charité pour changer"
  18. NGƯỜI QUÉT CHỢ "Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi thấy chú sửa soạn lên chánh điện để cúng ngọ. "Bạch thầy, con nhớ," chú đáp. Đó là câu mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng biết sư thúc là ai, dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình ảnh gì cả. Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ nhắc. Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng quen. Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái máy chứ không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh thoảng như một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu lý do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú lớn lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì. Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được cái tên đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được thanh nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa của cái tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa, chú hỏi: "Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?" "Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời. "Lâu nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩa là đây, như vầy, giống như chữ thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện... nhưng mới hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con không rõ là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải thích cho con." Thầy nghiêm giọng nói: "Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi." Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi: "Con biết đó chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một cái gì, một ý nghĩa gì chứ." "Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp. "Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không à. Con không tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt tên con, chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì đó về cái chợ, phải không, bạch thầy?" "Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi." Chú im lặng nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu nẩy ra những suy tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú nghĩ, năm nay chú đã mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng thành để nghe thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết. Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết rằng chú là một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có. Cái thực tế đó làm gì thầy che giấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là Thị, có nghĩa là chợ? Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán hàng ngoài chợ, hoặc là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho thầy phải đặt tên? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú. Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà, và chú vẫn còn người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là... hay là thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)? "Bạch thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình, lại mở miệng hỏi. "Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú. "Có phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay không?" Thầy ngưng tay nhổ cỏ. Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, vừa nói: "Nhổ cỏ." Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy trò tản bộ cho đến vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy thầy ra thắp hương. Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm. "Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy hỏi. "Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy. Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh hai ngôi mộ. Rồi thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe. * Thầy Hải Chấn đang ngồi đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước vào, mặt buồn dàu dàu. Hải Chấn hỏi: "Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy?" Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói: "Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt. Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về: "Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?" "Đã sám hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn cảnh." "Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không." "Huynh đừng trách mắng đệ nghe..." "Phạm tội thì sám hối; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi, đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương. Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói: "Cô ấy đã có mang." Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi: "Cô ấy là ai vậy?" "Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình." "Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..." "Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một điều là đệ phải làm sao đây?" Hải Chấn nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong các tội Ba-la-di, tức những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả giới thể, không còn là tỳ-kheo thanh tịnh nữa, không thể chữa được nữa—như cây dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh điều gì nữa. Hải Chấn thở dài nói: "Huynh cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra..." Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể: "Cũng vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét thì cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh tịnh của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã." "Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?" "Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi." "Vậy bây giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện gì đó chưa?" "Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu." "Tự liệu?" "Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với gia đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa." "Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?" "Chứ biết sao bây giờ. Huynh có cách gì hay hơn không?" Hải Chấn ứa nước mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ đường tu, nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng thinh. Một chặp, Hải Chấn nói: "Huynh chẳng biết cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của huynh. Huynh nghĩ chắc phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra thôi. Mà cho dù chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi..." "Đệ hiểu." Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng. Hải Chấn nhớ lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi chùa này từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn mà lại siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi sư phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn. Lúc đó Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá nhiều. Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất quyết phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh thức tỉnh, nỗ lực hành trì, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một ngày đó, Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa. Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính hạnh nguyện cao đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót. Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt. Hải Thanh nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp và là một tiểu thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại thêm sự giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết mình rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn thì khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng. Đêm đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải Thanh mới rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che dấu cái đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục rồi từ giã Hải Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi: "Đệ đi đâu vậy?" "Đến tư dinh quan huyện nói chuyện thẳng với cha cô ấy." "Sao huynh thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?" Hải Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc vải của sư đệ một túi tiền nhỏ: "Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang theo để có gì..." "Cám ơn huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé thăm huynh trước khi rời xứ này." Và Hải Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả ngày và đêm hôm đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở. Hải Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên. Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi dinh, mang con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc. Quan huyện lâu nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi; ông bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã từ đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm về cái chết của Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người quét chợ. Thông cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi. Người ta gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt nó nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người phật-tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa. * Nước mắt ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống chân thầy: "Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con." Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp: "Sư thúc của con có linh vị thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học với nhau từ nhỏ nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột. Chuyện của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách nào. Nuôi dưỡng con chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa trẻ kêu khóc không người đoái hoài..." Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa. "Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?" "Không. Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới được bổ nhiệm." "Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?" "Mười sáu năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết, chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên khuấy đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?" "Bạch thầy không phải, không phải." "Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính giá trị thực có của mình." "Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ. Theo như lời thầy kể, rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc những chữ Hán viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của mình. Chú quỳ xuống nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc lâu, chú bật khóc thảm thiết. Vậy đó mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm khảm mình: rằng chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một người cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ sự tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi chú hỏi chuyện: "Con sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi nỗi đau khổ biệt ly như thế!" Chú lặng thinh không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa đầu chú: "Thương cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ thông minh, có tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà đánh mất sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó mới phải, sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi lên tụng kinh." Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói: "Chỉ có thầy mới là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!" Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững sờ ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy lặng lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng kinh thay chú. Suốt mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười sáu năm rồi, chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho nên, khi chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ nỗi đau khổ nặng nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy tay xoa đầu chú. Hai thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để chú tự do trong những suy tưởng riêng tư chứ không gợi chuyện gì với chú cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi cùng làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong lòng. Chú thưa với thầy: "Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ." "Tốt, con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ giọt máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả, bao trận đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ đức hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị tinh thần nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với ước mong là cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều bị lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh mạng của con, phải không? Ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục, gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi." "Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo. Chú không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày, chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không còn gọi hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt ngào và khiến chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình vô ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn không sao tẩy xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ, bàn tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi. Vì thương chú, và vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông. Trải qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự tu tập thiền định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết vậy, cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói chuyện sau thời tụng kinh khuya: "Thanh Thị, con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần xứng đáng cho đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn còn ôm ấp cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi, cái gì khiến con nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não nhỏ nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát hay không?" Thanh Thị không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa, đứng ngoài cửa nói vọng vào: "Hãy nhìn kỹ những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy không xứng đáng là thầy của con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!" Nói rồi thầy bỏ đi. Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu và làm gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã làm trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao nhiêu ý nghĩa cao đẹp. Khi thầy quét chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm bếp, năn nỉ: "Lạy thầy, xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi." Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết: "Ta chỉ ngưng khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ cho rằng quét chợ là việc xấu hay thấp hèn. Con không thay đổi, sẽ không giải thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù đang khoác mặc tăng bào. Và nếu con không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới thôi." Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến nỗi, chú bỏ thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi tham học ở phương xa. Chú đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa đi bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận. Chú tìm tới nhiều vị thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của chú. Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc, chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng mang một cái tên không được tao nhã, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để chữa căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng cay chua buồn cười chứ chẳng không. Thiền sư Đại Ngốc ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới nơi, chú thấy một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am". Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay: "Bạch thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình những buồn phiền, khổ đau?" "Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!" "Nhưng... rõ ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ nhiều năm nay." "Đeo bám chỗ nào? Gợi lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!" Thanh Thị hốt nhiên giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối. * Từ hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy Hải Chấn cứ mang chổi ra quét sân chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng như công dụng tu tập ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập trung tâm mình vào từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không lắng lòng vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy, âm thanh náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự tâm thanh tịnh của thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch lặng. Và thầy có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng ngày.Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ đời cũng làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta cũng bớt cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người ta bỗng dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt. Hôm nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của thầy, nói với giọng cung kính: "Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy." Thầy ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không còn dấu vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm. Từ đó, cứ mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường, quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó. Hai năm sau, thầy Hải Chấn viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy thường dùng để quét chợ hàng ngày: "Đời thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con." Nói rồi thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình như một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của thầy mình. Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất. Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây giờ Thanh Thị đã trở thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi tiếng với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm. Hải Chấn quét chợ bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi năm. Bao khuôn mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở khu chợ, không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh Thị đã trở nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người nẩy ý lấy tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một cái chợ sạch. Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày ấy, bầu trời u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng Thanh Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người ở khu chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách mua đều sụt sùi khóc.
  19. Bát cơm cúng Phật Ngày xưa, ngoài thành Xá Vệ, có một nữ Phật tử thuần thành, nhưng cô ta lại gặp một người chồng, không tin có đạo đức, nhân quả, tội phước dù cô ta đã nhiều lần giảng giải. Một hôm, đức Thế Tôn mang y, ôm bát đến nhà cô khất thực, gặp lúc chồng vắng nhà, cô mang đồ ăn ra cúng dường đức Thế Tôn, rồi đảnh lễ dưới chân Ngài, đức Phật chú nguyện cho cô: “Gieo một gặt mười, gieo mười gặt trăm, gieo trăm gặt ngàn. Nhờ công đức bố thí bát cơm này, thí chủ sẽ được vô lượng phước báu!”. Trong lúc Thế Tôn đang chú nguyện, thì người chồng từ thành Vương Xá trở về. Nghe đức Phật nói như vậy, chẳng hiểu nghĩa lý gì cả, anh sấn tới trước đức Phật: - Này Sa-môn Cù Đàm, làm gì mà được nhiều như vậy? Sa-môn nói láo? Sa-môn nói không thật! Sa-môn hãy đi khỏi chỗ này đi! Dù anh ta nói lỗ mãng, nhưng đức Thế Tôn vẫn mỉm cười.Ngài ôn tồn bảo: - Này anh, anh từ đâu mà đi về đây? - Từ trong thành về! - Anh đi ngang qua khu rừng, có thấy cây Ni Câu Loại không? - Thấy! - Anh thấy nó cao bao nhiêu? - Cả hàng mấy chục thước. - Mỗi năm nó được bao nhiêu trái? - Ồ không kể hết, chỉ có đem thúng mà lường thôi! - Này anh, đầu tiên chỉ có một hạt bé tí mà sanh ra cây Ni Câu Loại cao hàng mấy chục thước, cành lá sum suê chiếm một khoảng rừng rộng lớn, mỗi năm nó cho ta hàng trăm ngàn quả. Này anh, đó là loài vô tri còn như vậy, huống là thí chủ hoan hỷ cúng dường cho Như Lai một bữa ăn, phước đức ấy không thể đo lường được! Nghe đức Thế Tôn thuyết giảng, anh chàng hồ đồ ấy trong tâm bừng tỉnh, rất lấy làm ăn năn về hành động thô lỗ của mình vừa rồi, liền đến quỳ dưới chân Thế Tôn cầu xin sám hối: - Kính bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn từ bi tha lỗi cho con, từ đây con xin quy y Phật, Pháp và Tăng mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử! - Lành thay cư sĩ!
  20. Dịp này Wild cũng đã dâng tặng Thần chú Giải Thoát cho Bảo An Ni Tự, việc làm này được Sư Bà ở đây đón nhận hoan hỷ bởi được dán ngay khi Wild còn ở đây. Chú Giải Thoát cũng được Sư Bà đặt để nơi đây... Phần quà gồm có 50kg gạo, Đường, bột nêm, bột sữa, nước khoáng tăng lực trị giá là: 886,000 đ (tám trăm tám mươi sáu ngàn đồng) Wild ghi lại hình ảnh toàn cảnh Bảo An Ni Tự khi bước vào...
  21. Đã chi tặng cho trường hợp thăm Sư Cụ ở Bảo An Ni tự phần quà gồm 50kg gạo, đường, bột ngũ cốc, nước khoáng tăng lực C, trị giá 886,000 đ (tám trăm tám mưoi sáu ngàn đồng) Quỹ hiện có : 12,300,000 đ - 886,000 đ = 11,414,000 đ (mười một triệu bốn trăm mười bốn ngàn đồng)
  22. Wild đã trở lại Bảo An Ni Tự với 1 ít quà dành cho Sư Ông, hình ảnh Sư Ông hôm nay thật không khá hơn sau thời gian được đưa về quê để đổi không khí, nhưng dù sao vẫn tốt hơn lần đầu chúng tôi biết đến Ông. Khỏe hơn nhưng vết thương nơi có mãnh đạn ghim vào đầu đã di chứng qua những cơn bộc phát do thần kinh, Sư Ông trở nên điên loạn lành (không phá phách) chỉ chửi mắng khi có người vào thăm. Tất nhiên Wild phải vui vẻ đón nhận tình huống này, bởi trong vô thức Sư Ông chẳng biết mình đang nói gì và vì thế Sư Ông cũng chẳng cảm nhận được nỗi đau thể xác hay cuộc sống thực tại của mình. Và rồi sau đó là thiền định? Ôi nỗi khổ hay nghiệp chướng của kiếp người ! Có một bức tượng như trên đây đã được an vị ngay khi bước vào mà mấy lần trước đến thăm, chúng tôi không thấy có? (còn tiếp)
  23. Vụ ly hôn 'triệu đô' - Tiền mặt và lòng tự trọng (VEF.VN) - Trái ngược với tình yêu là lòng thù hận. Tình yêu càng nồng nàn đến bao nhiêu thì lòng hận thù càng sâu sắc bấy nhiêu. Vậy nên, nếu có bàn thêm về chuyện phải trái trong bất cứ vụ ly hôn nào cũng là vô ích. Chuyện ly hôn giữa ông Bùi Văn Minh và bà Nguyễn Thanh Thủy - con gái của Chủ tịch Tập đoàn Bảo Sơn, đồng thời là Tổng giám đốc công ty TNHH giải trí Thiên đường Bảo Sơn đang tốn không ít giấy mực của báo chí. Vấn đề trở thành tâm điểm của dư luận không chỉ vì liên quan đến các dự án bất động sản của tập đoàn này mà còn là chuyện tranh chấp về khối tài sản ước tính khoảng 10.000 tỷ đồng. Kết hôn, rồi ly hôn vẫn là chuyện nhân tình thế thái, ngày nào chả có chuyện, vậy chuyện ly hôn ở đây có gì đáng bàn. Thêm nữa, việc tranh chấp khối tài sản 10 ngàn tỷ, tương đương khoảng 500 triệu USD, so với thiên hạ, cũng không còn là chuyện lạ. Trong phạm vi bài viết này, ta thử bàn thêm về chuyện tiền mặt và lòng tự trọng trong một xã hội đang chuyển đổi. Theo diễn biến của vụ việc được các báo đăng tải, trong đó có một số chi tiết đáng lưu ý: Ngày 21/4/2011, Tòa án quận Hoàn Kiếm - HN đã xét xử sơ thẩm và quyết định bà Nguyễn Thanh Thủy được ly hôn với ông Bùi Đức Minh. Con chung giữa hai người được giao cho vợ - là bà Thủy - nuôi dưỡng. Tại quyết định này, về tài sản chung, nhà đất ở, công nợ chung không được quyết định phân chia tại phiên tòa. Lý do, phía nguyên đơn là bà Thủy chỉ yêu cầu ly hôn và nuôi con sau khi ly hôn. Về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng, theo trình bày trong đơn là không có, không yêu cầu tòa giải quyết. Về phía bị đơn là ông Minh, trong quá trình giải quyết vụ án cũng đã cho rằng vợ chồng không có tài sản, công nợ chung và không yêu cầu giải quyết. Ngay trước khi xảy ra phiên tòa, ngày 19/4/2011, ông Minh đã bất ngờ nộp đơn bổ sung yêu cầu chia tài sản chung, công nợ chung và các tài liệu chứng cứ kèm theo. Đề xuất này đã không được tòa sơ thẩm chấp nhận vì nộp yêu cầu muộn và việc thay đổi bổ sung vượt quá phạm vi yêu cầu của bị đơn trước đó. Vì thế Toà đã dành quyền khởi kiện tranh chấp tài sản qua một vụ khác. Dường như để tăng thêm áp lực với cơ quan hành pháp, ông Minh còn tuyên bố: nếu việc kiện tụng không được giải quyết ổn thỏa thì việc tiến hành các thủ tục cấp sổ đỏ cho hàng trăm lô biệt thự, liền kề trong dự án Bảo Sơn có thể bị ảnh hưởng. Bàn về chuyện này, bạn tôi một doanh nhân hiện đang làm trong ngành du lịch cho rằng: Là đàn ông khi vợ chồng "cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt", sẵn sàng ra khỏi nhà với chiếc... quần đùi và làm lại từ đầu. Với những người có lòng tự trọng, chinh phục cuộc sống, tạo dựng cho mình một sự nghiệp luôn là một niềm vui. Khi tình đã hết thì tiền cũng chẳng có ý nghĩa gì. Với một số người thực dụng lại có cách nghĩ khác: Thời buổi suy thoái kinh tế, tiền hiếm như nước trên sa mạc. Ly hôn với vợ là con nhà đại gia có tài sản cả triệu đô, tại sao không nhân cơ hội này gỡ gạc tý?. Phải chăng cách ứng xử của ông Minh thuộc nhóm người thứ hai? Đất nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, theo đó là cả một hệ thống luật được ra đời và hoàn thiện không ngừng để điều tiết các mối quan hệ ấy. Cũng vì lẽ ấy, đang có xu hướng sùng bái một xã hội pháp quyền, theo đó mọi việc lớn bé của đời sống đều đưa ra toà, nhờ luật sư giải quyết tranh chấp. Các văn phòng luật mọc ra như nấm và ngày càng trở nên đông đúc, làm không hết việc. Đơn thư gửi đến các cơ quan hành pháp ngày một nhiều như truyền đơn thời chiến. Thực tế ở các nước có nền pháp quyền lâu đời không hẳn đã như vậy. Luật pháp không phải là công cụ vạn năng, chữa trị được mọi lệch lạc của đời sống. Đặc biệt là trong lĩnh vực tình yêu và hôn nhân. Khi người ta phải lòng nhau, yêu nhau, trao cho nhau những lời thề non hẹn biển. Cái tưởng đáng giá ngàn vàng còn chẳng tiếc nói chi chuyện tiền bạc. Trước hấp lực của tình yêu, sự can gián của bạn bè, người thân cũng chỉ vô ích. Trong trường hợp này, luật pháp cũng bất lực. Nhà thơ Hồng Thanh Quang có câu nổi tiếng: "Khi yêu nhau, luật Trời ta cũng sửa". Trái ngược với tình yêu là lòng thù hận. Tình yêu càng nồng nàn đến bao nhiêu thì lòng hận thù càng sâu sắc bấy nhiêu. Khác với những lời vàng ngọc người ta giành cho nhau khi yêu là đủ thứ lời lẽ cay độc, thậm chí cho nhau "ăn" đủ thứ mà những người buôn bán chợ giời cũng không thể nghĩ ra. Lại còn chuyện chia chác tài sản thì thiệt một xu cũng không chịu. Vậy nên, nếu có bàn thêm về chuyện phải trái trong bất cứ vụ ly hôn nào cũng là vô ích. Đời sống doanh nhân cũng vậy. Đã là tổ chức kinh doanh phải tính đến lợi nhuận. Lợi nhuận là thứ đo đếm bằng những con số, tiền tươi, thóc thật, quy ra một thước đo là Tiền mặt. Tuy nhiên, không phải vì thế mà mọi thứ đều có thể quy ra tiền mặt. Gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện khái niệm: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đó là những khoản đầu tư vì lợi ích cộng đồng, vì một mục tiêu rộng lớn hơn, nhân văn hơn mà một doanh nghiệp muốn đi đường dài không thể bỏ qua. Một cá nhân cũng như một doanh nghiệp, muốn thành đạt, muốn làm nên sự nghiệp cần phải có cái nhìn xa hơn về tiền mặt. Chính xác hơn cần phải biết cân bằng lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Tiền mặt là quan trọng nhưng đó chỉ là những thứ trước mắt, cái cần cho sự nghiệp hơn là lòng tự trọng. Đừng để tiền bạc che mờ lòng tự trọng. Tác giả: Phan Thế Hải
  24. Đã nhận của Thiên Luân & Thiên Đồng 400,000 đ (bốn trăm ngàn đồng) ủng hộ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 11,900,000 đ + 400,000 đ = 12,300,000 đ (mười hai triệu ba trăm ngàn đồng)
  25. Bắt Chước Thầy Thuở xưa, tại một vùng biên địa hạ tiện, dân chúng đều mù chữ. Mãi cho đến một hôm, có một ông thầy giáo đến thăm làng và dõng dạc tuyên bố:- Mọi người ai ai cũng có khả năng biết chữ hết ... Nhiệm vụ của tôi khi xuất hiện ở ngôi làng này là giúp cho bà con cô bác phát triển khả năng đó ... để thành một người biết chữ như tôi không khác. Mọi người nghe nói đều phấn khởi. Với sự hướng dẫn của thầy giáo, một lớp học được thành lập. Nhiều người đến lớp học. Thầy giáo phát cho mỗi người một quyển vần ABC. Trong nhóm người tụ hội nơi lớp học, người ta ghi nhận có những hiện tượng sau: Một số người cho rằng khả năng biết chữ chỉ là một ân sủng thiêng liêng dành cho hạng người ưu tú nhất trong nhân loại, nên sau khi trêu chọc số người ghi danh học, họ bỏ ra về. Riêng phần học trò, với chút ít niềm tin rằng mình có thể biết chữ, đã tìm cách phát triển khả năng ấy bằng những cách như sau: 1. Những người vì cảm kích trước tấm lòng của thầy giáo đã khổ công lặn lội đến đây, đã xin ảnh của thầy giáo đem về thờ chung với quyển vần ABC, sớm hôm lễ bái, dâng hương hoa không hề chểnh mảng. 2. Hạng người kế tiếp vì vô cùng cảm phục tài năng của thầy giáo nên cùng nhau rắp tâm bắt chước thầy, từ cách đi đứng, nói năng, ăn mặc, đến nếp sống sinh hoạt hằng ngày ... Họ bắt chước tài tình đến độ giống thầy giáo như đúc, có khác chăng là họ hoàn toàn không biết chữ ... Dĩ nhiên, bằng những lối học trên, chúng ta dư đoán được kết quả là sau bao nhiêu cố gắng không anh học trò nào biết chữ cả! Lời Bàn Em thân mến! Câu chuyện được ngừng lại nơi đây vì trên thế giới này không có một lớp học nào kỳ quặc như thế cả. Các học trò đi học dần dần đều được biết chữ hết. May mắn biết là dường nào. Nhưng còn chúng ta, những người học Phật và chưa giác ngộ như Phật, có nên xét lại lối học của mình hay không? Như ông thầy giáo kia, chư Phật đều tuyên bố: "Tất cả mọi chúng sanh đều có Phật tánh và chư Phật ra đời đều vì lý do duy nhất: Chỉ cho chúng sanh nhận ra và hằng sống với Tri Kiến Phật của chính mình". Và chúng ta đã học đạo giác ngộ bằng cách nào? Nếu chúng ta chỉ tôn thờ, lễ bái, và cúng dường kinh tượng bên ngoài thì coi chừng, ta sẽ vấp phải lỗi lầm của hạng học trò thờ cuốn vần ABC như trên. Hoặc chúng ta chỉ hâm mộ tôn kính Thầy Tổ Chư Phật ... rồi rập khuôn cuộc đời ta y hệt như cuộc sống của những người mà ta hâm mộ thì ... có lẽ ... bề ngoài chúng ta sẽ được một cái vỏ đỉnh đạt nghiêm trang, nhưng bên trong lại dẫy đầy phiền não, tương tự như hạng học trò bắt chước thầy trên không khác. Vậy thì chúng ta nên học Phật bằng cách nào đây?