-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Qua việc làm trên Wild thiết nghĩ AE làm Phong Thủy từ thiện đăng bài là thực hiện chuyên môn rất hay, nhưng có nên chăng chỉ ra và minh họa sự bài trí hoặc thiết kế sai mà gia chủ đang chịu ảnh hưởng đồng thời thuyết minh hướng khắc phục để các AE khác có điều kiện học tập và trao đổi.
-
Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của VTB trong việc ủng hộ bạn Trung. Chú Gà Trống có thể liên hệ Vp Trung Tâm 38 486867 để nhận số tiền VTB tặng.
-
Vitamine C và vỏ tôm. Xin lưu ý !! ; Tại Đài Loan, một phụ nữ chết thình lình với dấu hiệu chảy máu, mũi, mồm, tai và mắt. Khám phá đầu tiên được chẩn đoán là chất vì ngộ độc thạch tín. Nhưng thạch tín ở đâu ra? Cảnh Sát mở một cuộc nghiên cứu sâu rộng. Một giáo sư y khoa được mời đến giải quyết trường hợp này. Bác sĩ quan sát tỉ mỉ các thành phần trong dạ dày người chết chưa tới nửa giờ. Bí mật đã được giải quyết.. Bác sĩ nói "Người chết không tự tử, không bị giết. Bà chết tức tửi vì tội coi thường. Mọi người điên đầu ! Tại sao chết tức tửi ? - Bác sĩ nói chất thạch tín được tạo ra trong dạ dày người chết. Người uống Vitamin C mỗi ngày. Vitamin C tự nó không thành vấn đề. Vấn đề là bà ta ăn nhiều tôm vào bữa tối. Ăn tôm cũng không thành vấn đề vì nhiều người trong gia đình bà ta cũng ăn tôm tối hôm đó. Tuy nhiên, cùng lúc bà ta lại uống Vitamin C. Đó chính là vấn đề. Các nhà nghiên cứu thuộc đại học Chicago ở Mỹ qua một thí nghiệm đã tìm ra vỏ mềm của tôm chứa nhiều postasium 5 tổng hợp với thạch tín Arsenic Oxide (As2O5). Những thực phẩm tươi này cũng không độc đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, ngay lúc đó uống Vitamin C vào, phản ứng hoá học xảy ra, Arsenic Oxide sẽ chuyển thành ADB arsenic anhydride (As203) là chất thường dùng để vẽ viền vàng các chén đĩa. Chất Arsenic độc này làm tê liệt các mạch máu nhỏ của tim gan, thận, ruột và biểu mô, gây xuất huyết tai, mắt, mũi, miệng. Vậy khi uống Vitamin C, không nên ăn tôm có vỏ. Hãy chuyển tin này đến gia đình và bạn bè để phòng ngừa phải cẩn thận khi ăn Tôm và uống thuốc
-
Người Việt giải mã bí ẩn thôi miên Thỉnh thoảng đọc báo, xem mạng lại thấy đăng một vài vụ cướp, trấn lột bí hiểm đến nỗi mà nạn nhân bị tên cướp khoa tay “úm ba la” hay nhìn vào mắt “thôi miên” chỉ còn nước đứng như trời trồng, nhìn của cải đội nón ra đi mà toàn thân cấm nhúc nhích, trong tôi lại dội lên những tò mò, thôi thúc. Những kẻ cướp đó có phải là thôi miên gia? Thôi miên là gì mà có sức mạnh kinh người thế? Kỳ 1: Cuộc gặp gỡ kỳ lạ Cửa phòng bật mở, Ánh Tuyết (xin được đổi tên) một du học sinh Úc, nhà ở Tây Hồ, Hà Nội bước vào. Khó có thể hình dung một cô gái như Tuyết, tóc tém, mũi cao, mắt sắc, khuôn mặt toát lên vẻ thông minh, vận bộ quần áo rất hợp thời, gõ cửa phòng anh Quân và bước vào lại đã từng…tự tử hụt vài bận. Tuyết mới 20 tuổi, đang đi du học nhưng phải về nhà điều trị bệnh. Em bẽn lẽn chào tôi và mọi người rồi ngồi xuống. Em được anh Quân mời uống nước, vừa rót nước cho em, anh vừa nói: “Trước và sau mỗi ca trị liệu, nên cho thân chủ uống nhiều nước vì trong thời gian trị liệu, quá trình trao đổi chất của cơ thể được kích thích rất nhiều. Chính vì vậy, việc đưa nước vào cơ thể là rất tốt và cần thiết". Thôi miên gia Quân bảo thầy giáo của mình từng dặn: “Uống thật nhiều, uống thật nhiều, uống thật nhiều, uống, uống, uống nhưng không phải là bia là rượu”. Chính bản thân Tuyết cũng đã từng trị liệu tâm lý tại Úc, khi về Việt Nam cũng chữa trị tại các bệnh viện và các bác sĩ tâm lý tư. Thế nhưng, chỉ một ngày trước buổi trị liệu đầu tiên với anh Quân, Tuyết vẫn tự tử và được người nhà kịp thời phát hiện… “Hôm qua ngủ ngon không?” Anh Quân nhỏ nhẹ. “Vâng, cảm ơn anh, em ngủ ngon. Mấy ngày hôm nay, ai gặp em cũng nói là em trông hoàn toàn khác hẳn. Tuy không còn dùng thuốc ngủ, thuốc trầm cảm nữa mà vẫn ngủ rất ngon”. Anh Quân giải thích trị liệu như thế này chính là một phương pháp giúp thân chủ quay lại với con người và trí tuệ đích thực của họ… Đối với Tuyết, tuy đã tiến triển rất nhiều nhưng vẫn phải qua một số ca trị liệu nữa vì còn nhiều nguyên nhân gốc cần được tìm và loại bỏ. Đốt than hồng để đi chân trần trong trại thái thôi miên. Trong trị liệu, có những căn bệnh và có những trường hợp thì chỉ sử dụng ám thị liệu pháp là khỏi, nhưng có những trường hợp lại phải điều trị rất nhiều thời gian và sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật trị liệu khác nhau. Hiện nay, Tuyết đã khỏi mất ngủ, các ý tưởng tiêu cực đã mất, nhưng nguyên nhân chính vẫn chưa tìm được nên anh đang sử dụng phương pháp phân tích thôi miên để tìm và loại bỏ nguyên nhân nhằm ngăn chặn tuyệt đối sự quay lại của bệnh trầm cảm. Anh Quân nói: “Căn cứ vào những nghiên cứu, cứ 10 người có ý định tự tử, ngay cả sau khi đã được điều trị tâm lý và tinh thần xong, vẫn có 7 đến 8 người mắc lại chứng trầm cảm cấp và tự tử thành công”. Bao nhiêu những nguyên nhân và những giày vò vô cớ trong vô thức làm cho Tuyết sầu não, buồn tủi. Tất cả những cảm xúc này, Tuyết không hề chia sẻ với ai, mà chỉ còn biết thường xuyên khóc một mình… Rồi cũng những nguyên nhân vô cớ ấy làm cho Tuyết chán nản và đã nhiều lần không còn muốn sống. Dùng yết hầu bẻ cong thanh sắt nhọn. Em chia sẻ trong nhật ký: “Tưởng như là những ngày cuối cùng của cuộc đời tôi. Tôi phải dùng nhiều thuốc an thần, thần kinh và thuốc ngủ triền miên trong nhiều tháng để có được những giấc ngủ ngắn mỗi đêm. Tôi rơi vào trạng thái lo lắng, căng thẳng "không lý do" và thường trực với ý nghĩ kết liễu cuộc đời mình và tìm nhiều kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó, bất chấp đã bị "bắt quả tang" nhiều lần. Mặc dù tôi hoàn toàn tỉnh táo để biết việc tôi muốn làm, rằng nó trái với tất cả đạo lý, rằng nó làm tổn thương tất cả những người thân quý của tôi, nhưng tôi bất lực trong việc chiến đấu với suy nghĩ tiêu cực đó. Nó ngự trị trong đầu óc tôi, giày vò tôi khiến tôi trở nên suy sụp toàn bộ. Dẫm chân lên mảnh chai. Tôi lúc này ngoài động cơ để thực hiện mục tiêu duy nhất: chấm dứt cuộc sống của tôi, thì tôi hoàn toàn chỉ như một đứa trẻ nhỏ, không có chút xúc cảm nào trỗi dậy trong tôi. Tôi chỉ mong được nhắm mắt lại và biến mất khỏi cuộc đời này, và mỗi lần kế hoạch thất bại, thấy mình còn phải đối diện với cuộc đời, tôi càng chán nản. Bố mẹ tôi đưa tôi đến gặp anh Quân sau rất nhiều cố gắng của bố mẹ với các bác sĩ khác, với tất cả các mối quan hệ họ hàng, bạn bè, thầy cô để giúp đỡ tôi. Chỉ bằng việc nói chuyện với anh Quân qua điện thoại, tâm hồn tôi bỗng gợi lên cảm xúc về sự ấm áp, tin tưởng, và mong muốn chia sẻ, điều mà vào lúc đó, không ai còn có thể làm được, ngay cả người yêu của tôi. Và sau buổi trị liệu đầu tiên bác sĩ dành cho tôi, một sự đột biến về mặt tinh thần đến với tôi, không những tôi cảm nhận sâu sắc điều đó, mà ngay cả bố mẹ tôi cũng nhận thấy. Lần đầu tiên trong đời, tại buổi trị liệu đó, tôi được thư giãn sâu như vậy. Trước đây, từng bộ phận cơ thể của tôi luôn căng thẳng, tới mức tôi cảm thấy cả cơ thể tôi như tảng đá, khi càng vào sâu trạng thái thôi miên, tôi thấy tảng đá đó tan dần ra, tay tôi, chân tôi mềm ra, cơ thể tôi cứ như tan ra thành nước, đầu óc tôi cũng trở nên mát mẻ vô cùng. Sau hơn 2 giờ đồng hồ, tôi trở nên tươi tắn, thảnh thơi như vừa được ngủ một giấc ngủ sâu và dài sau nhiều tháng vô cùng khó ngủ. Gương mặt tôi sau buổi trị liệu đầu tiên đó đã toát lên vẻ hạnh phúc rạng rỡ mà bố mẹ tôi nhận rõ ngay lập tức. Đêm hôm đó, chỉ với một liều thuốc an thần nhẹ, tôi ngủ được một giấc ngủ dài cả đêm, không mơ mộng, không giật mình hốt hoảng giữa đêm. Buổi trị liệu thứ 2 đến, tôi chờ đợi nó ghê gớm, anh Quân tiếp tục giúp tôi thư giãn thật sâu, và bác sĩ giúp chính tôi tự tìm nguyên nhân của vấn đề của tôi, và tôi dần hiểu rõ hơn thế nào là vô thức, thế nào là sự thiếu hiểu biết về chính bản thân mình, tôi đã không biết yêu tôi như thế nào, và hé lộ dần những tác động khách quan lên tình trạng bệnh tâm lý của tôi. Quả thật là những điều vô cùng ngạc nhiên, bất ngờ đối với tôi, bởi lần đầu tiên tôi được trải nghiệm vô thức lên tiếng, còn đầu óc mà tôi vẫn suy nghĩ thì lại hoàn toàn thư giãn. Tôi đã được dự 3 buổi trị liệu của bác sĩ Quân. Tôi giờ đây hoàn toàn không dùng bất kỳ thuốc an thần hay thuốc ngủ nào cả, tôi ngủ ngon và sâu mỗi đêm, ban ngày tôi cũng dễ dàng nghỉ ngơi và ngủ, có lẽ đó là nhu cầu của cơ thể tôi sau một thời gian quá dài căng thẳng. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn tươi mới về tinh thần, tôi hạnh phúc hơn, tôi cười thật nhiều với mọi người, tôi quan tâm tới những người xung quanh tôi nhiều hơn, lần đầu tiên, cảm xúc của tôi nhẹ nhàng, tự nhiên, không cảm thấy bị "bắt buộc", hay bị "phải", "nên" làm những điều đó… Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân là Viện trưởng Viện nghiên cứu ứng dụng khoa học thôi miên AHR thành lập tại Việt Nam năm 2010, là thành viên của tổ chức thôi miên quốc tế NGH. Anh cũng là người sáng lập Trường đào tạo thôi miên y khoa tiếng Việt đầu tiên của người Việt Nam trên toàn thế giới, được cấp giấy phép đào tạo tại Berlin, Đức, kể từ năm 2009. (Theo Giáo dục Việt Nam)
-
Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Chim Chích Bông ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 1,000,000 đ + 200,000 đ = 1,200,000 đ (một triệu hai trăm ngàn đồng)
-
Wild vẫn chưa nhận được sau khi kiểm tra, Thanh huyen xem lại và vui lòng cho biết số tiền đóng góp?
-
Giải mã điều 'thần bí' trên bầu trời Việt Nam Những năm gần đây, chúng ta luôn nhìn thấy một vài hiện tượng thiên nhiên kỳ thú xuất hiện trên bầu trời Việt Nam. Và đã có rất nhiều liên tưởng xung quanh những hình ảnh này, nào là hào quang linh hiển trên tượng Phật, “rồng” và “phượng” trong mây, vật thể bay tạo thành quầng sáng… Hào quang linh hiển trên tượng Phật Trong các ngày 15,18/9/2008 và ngày 18/4/2010, tại Đà Nẵng đã xuất hiện tượng mặt trời tỏa ánh hào quang lạ, tạo thành quầng sáng bao quanh. Nhiều bức ảnh chụp hiện tượng này tại tượng Phật Quan Thế Âm, chùa Linh Ứng, Đà Nẵng đã được công bố trên mạng. Hiện tượng “hào quang” đã khiến dư luận xôn xao, thậm chí làm nảy sinh những tin đồn mê tín dị đoan. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra tại Vũng Tàu vào ngày 7/10/2009, trước sự chứng kiến của hàng nghìn người dân. Theo ông Lê Huy Minh, viện phó Viện Vật lý địa cầu đã cho biết, đây là hiện tượng tự nhiên rất hiếm gặp ở Việt Nam và hiếm khi quan sát được. Hiện tượng này thường được gọi là “quầng”. Hiện tượng quầng thường xuất hiện vào ban ngày (quầng mặt trời) hoặc ban đêm (quầng mặt trăng) trong mùa hạ và mùa thu hằng năm. Bản chất của quầng mặt trời và quầng mặt trăng là tương tự nhau. Hiện tượng này được tạo ra khi ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng khi đi qua các tinh thể băng bị khúc xạ hay phản xạ sinh ra những vòng tròn. Thông thường quầng mặt trời có 7 màu rực rỡ do ánh sáng bị tán sắc, còn quầng mặt trăng chỉ có màu trắng do ánh sáng yếu. Theo kinh nghiệm dân gian, quầng xuất hiện là dấu hiệu báo trước một thời kỳ không mưa kéo dài sẽ diễn ra, có thể gây thiếu nước, hạn hán ở địa phương. Mây vảy rồng Sau một trận mưa vào chiều ngày 20/8/2009, trên bầu trời Hà Nội xuất hiện một hiện tượng kỳ thú: tầng tầng lớp lớp mây hình vảy rồng. Hiện tượng này diễn ra vào khoảng 18h, kéo dài trong vòng 40 phút sau cơn mưa. Trước cảnh tượng kỳ thú trên, không ít người liên tưởng tới sự kiện rời đô của vua Lý Thái Tổ vào năm 1010. Theo câu chuyện, đức vua đã nhìn thấy rồng bay trên thành Đại La nên đổi tên thành thành Thăng Long, kinh đô mới của Đại Việt. Mây vẩy rồng ở Hà Nội. Ảnh: Đức Long. Ông Trần Văn Sáp, phó giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng Quốc gia cho biết: "Hiện tượng trên không có gì đặc biệt và không liên quan đến các diễn biến khí tượng lớn. Tuy nhiên, tần suất lặp lại của các đám mây rất thấp nên hiện tượng trên có thể coi là hiếm có". Ông Sáp khẳng định, các đám mây đó là mây mammatus, hay còn gọi nôm na là "mây vú". Tại Việt Nam, dân gian gọi là "mây vảy rồng". Mammatus là một thuật ngữ khí tượng học áp dụng cho hiện tượng những khoang mây treo thành từng lớp dày phía dưới một đám mây khác. Đây là hiện tượng khí tượng bình thường. Trong catalogue quốc tế về mây có mô tả về loại mây mammatus. Đồng thời, tại Việt Nam đã nhiều lần ghi nhận sự xuất hiện của những đám mây loại này. Theo Peter Gibbs, nhà khí tượng học của BBC, điều kiện đầu tiên hình thành nên những đám mây mammatus là một cơn giông đi kèm với mưa lớn và sấm sét. Tuy nhiên, những đám mây mammatus này vô hại bởi sự xuất hiện của nó thường là khi giai đoạn tồi tệ nhất của các cơn giông đi qua. Mây phượng hoàng Chiều ngày 7/9/2010, một đám mây kỳ lạ đã xuất hiện trong cái nóng oi ả của tiết trời Hà Nội. Hình thù của đám mây không có gì khác thường, nhưng phía trên đám mây có những vệt như vết dầu loang với 7 sắc cầu vồng rực rỡ. Mây lạ đã làm nhiều người ở Hà Nội ngạc nhiên và bàn tán xôn xao. Một số người cho rằng mây có hình đứa bé, người thì lại bảo mây giống như cánh phượng hoàng. Thậm chí có người còn cho rằng đây là điềm báo tốt lành cho Đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Mây Phượng Hoàng ở hanội. Theo anh Lê Ngọc Linh, một nhà thiên văn nghiệp dư ở Hà Nội, hiện tượng “mây lạ” này chính là mây ngũ sắc. Đây là một hiện tượng quang học bình thường dù khá hiếm gặp trong tự nhiên. Thời xưa, theo quan niệm dân gian hiện tượng mây ngũ sắc xuất hiện là điềm báo Quốc Thái Dân An. Những người nào nhìn thấy mây ngũ sắc sẽ gặp nhiều may mắn. Ngày nay, khoa học lý giải mây ngũ sắc được tạo ra nhờ hiện tượng nhiễu xạ. Khi được mặt trời chiếu sáng, các giọt nước nhỏ hoặc các tinh thể nước đá nhỏ trong các đám mây tán xạ ánh sáng trắng, còn các tinh thể nước đá lớn tạo quầng quang với những sắc màu như cầu vồng. Hiện tượng mây ngũ sắc tương tự như hiện tượng cầu vồng. Tuy nhiên với cầu vồng cần đến một trận mưa và ánh sáng mặt trời, còn mây ngũ sắc chỉ cần những góc nhìn thích hợp giữa mây và mặt trời là ta có thể nhìn thấy. UFO phát sáng trên trời Hà Nội Vào hồi 5h - 5h30 chiều 28/102010, anh Nguyễn Xuân Vũ (Hà Nội) đã quay được hình ảnh một vật thể bay tạo thành một vệt sáng trên bầu trời tựa như một vật thể bị cháy khi từ ngoài không gian bay xuyên qua bầu khí quyển của trái đất. Vật thể lạ phát sáng trên bầu trời Hà Nội. Ảnh: VnExpress. Tuy nhiên, trả lời báo chí, ông Nguyễn Đức Phường, Hội Thiên văn Vũ trụ Việt Nam khẳng định, "vật thể lạ" nói trên chính là một chiếc máy bay dân dụng. Theo giải thích của ông Phường, do thời điểm xảy ra vào khoảng 5 giờ chiều, đầu đông (trời tối nhanh) nên chỉ những vị trí trên cao mới tiếp tục nhận được ánh sáng mặt trời, trong khi đó những nơi thấp như trên mặt đất hầu như không còn ánh nắng. Máy bay chở khách thường bay ở độ cao khoảng 10 km, luồng hơi do máy bay tạo ra tiếp tục nhận được ánh sáng mặt trời, tán xạ và phản xạ nên chúng ta nhìn rất rõ, đặc biệt là lúc hoàng hôn. Cũng theo ông Phường, nếu máy bay bay vào giữa trưa thì sẽ để lại vệt có màu trắng như mây. Còn tại thời điểm hoàng hôn hay bình minh mắt thường sẽ thấy màu vàng, hoặc da cam. Vệt hơi máy bay được giải phóng ra từ phần động cơ (chứ không phải là khói). Luồng hơi này có nhiệt độ cao hơn môi trường xung quanh vì máy bay thường bay ở độ cao khoảng 8-13km, nơi nhiệt độ có thể xuống đến âm 55 độ C. "Luồng hơi ấm hơn sẽ bị kết tinh, đóng băng và theo quán tính máy bay đang chuyển động sẽ tạo thành vệt trên", ông Phường cho biết. (Theo Đất Việt)
-
Wild sẽ gởi Linh Chú đến Thanh Ngân vào ngày mai.
-
NGÀY XƯA CÓ MẸ Khi con biết đòi ănMẹ là người mớm cho con muỗng cháo Khi con biết đòi ngủ bằng tiết tấu Mẹ là người thức hát ru con Bầu trời trong mắt con ngày một xanh hơn là khi tóc Mẹ ngày thêm sợi bạc Mẹ đã thành hiển nhiên như trời đất như cuộc đời - không thể thiếu trong con Nếu có đi một vòng quả đất tròn người mong con mỏi mòn chắc không ai ngoài Mẹ Cái vòng tay mở ra từ tấm bé cứ rộng dần theo con trẻ lớn lên Mẹ là người đặt cho con cái tên riêng trước cả khi con biết bật nên tiếng "Mẹ" Mẹ ! Cái tiếng gọi mà từ khi bập bẹ đến lúc trưởng thành con vẫn chưa hiểu hết chiều sâu Mẹ ! Có nghĩa là bắt đầu cho Sự Sống, Tình Yêu, Hạnh Phúc. Mẹ ! có nghĩa là duy nhất một bầu trời, một mặt đất, một vầng trăng Mẹ không sống đủ trăm năm nhưng đã cho con dư dả nụ cười và tiếng hát Chỉ có một lần Mẹ không ngăn con khóc là khi Mẹ không thể nào lau nước mắt cho con là khi Mẹ không còn Hoa hồng đỏ từ đây hoá trắng... Rồi những đứa bé lại chào đời và lớn lên theo năm tháng biết bao người được làm mẹ trong ngày Tiếng trẻ con gọi mẹ ngân nga khắp mặt đất này thành âm thanh không thể nào vắng lặng Mẹ ! Có nghĩa là ánh sáng một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Cái đóm lửa thiêng liêng cháy trong bão bùng cháy trong đêm tối Mẹ ! Có nghĩa là mãi mãi là cho-đi-không-đòi-lại-bao-giờ Cổ tích thường bắt đầu từ: " Ngày xưa có một nang công chúa..." hay "Ngày xưa có một vì vua..." Cổ tích con bắt đầu từ: " Ngày xưa có Mẹ..." Thơ Thanh Nguyên
-
http://youtu.be/MMD6BhWLzx8
-
Xác nhận có sự đóng góp của Nhanqua 1,000,000 đ (một triệu đồng) cho quỹ từ thiện diễn đàn. Quỹ hiện có 1,000,000 đ (một triệu đồng)
-
Chính xác là cái điện thoại 10,000 usd và túi xách 5000 usd.Nếu cuộc hỏi đáp giữa bác TS và Mẹ của Trang Nhung là Thật ! ? Trí tưởng bở của tôi là : 1) Fan của Tr Nhung không biết làm từ thiện hoặc không biết làm phép tính nhân ái! 2) Trang Nhung không nhìn xuống những mãnh đời quanh mình. Ví như Trang Nhung từ chối món quà này mà thỏ thẻ biến nó thành 20 căn nhà tình thương có lẽ fan kia cũng phải nghĩ lại ? Vì thế cho nên 1 quy luật vô hình Thằng kẻ cắp thực hiện phi vụ trót lọt qua nó nhiều người sẽ nhận được lộc, bà chủ nhà nơi nó thuê, hàng cà phê đầu ngõ, những món nợ lỡ vay và những ân tình vệ tinh sẽ được nó hào phóng chi tặng....chia đều chia đều như sự công bằng được cài đặt mặc định. Xin phép mọi người xem qua bài viết này, tôi thường có suy nghĩ về luật vay trả một cách khiên cưỡng như thế các bạn ah!
-
Rất cám ơn sự chia sẽ của Thanh huyen, tuy nhiên cho đến lúc này Wild kiểm tra tk vẫn chưa nhận được, bạn nên xem lại có sự nhầm lẫn nào không để điều chỉnh kịp thời.
-
Nhìn Vu Lan bằng đôi mắt tình yêu Thuở nhỏ cứ mỗi lần đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn “Bông Hồng Cài Áo” của Thầy Nhất Hạnh. Rảo bước lang thang trên những con đường heo hút nhiều lá vàng cũng bắt đầu rụng đầy ngõ, từng chiếc lá như một âm hưởng tiết trời vào mùa thu hiếu hạnh và vầng trăng luôn bừng sáng khắp mọi nơi có mẹ. Vào một đêm, tôi vẫn còn nhớ cái ngày Vu Lan năm Bính Tý, hai người em rủ tôi ra sau nhà hái một vài bông hoa và mấy trái chanh, hương chanh thơm phức, lan tỏa khắp khu vườn. Tôi cố gắng hỏi cho ra lẽ, các em hái mấy này để làm gì, chúng thật bí mật chẳng chịu nói cái điều mà nó sắp thực hiện. Bầu trời đã xuất hiện những ngôi sao lấp lánh như muốn báo hiệu niềm mơ ước gì đó sẽ xảy ra!Sân nhà bỗng sập tối! Thế là hai đứa thắp đèn dầu lên, chừ tới đây tôi mới hiểu ra ý của hai đứa muốn gì và mẹ cũng bất ngờ nghe tiếng gọi mẹ.Từ trong liều bếp mẹ với hơi ra giòn tan là mẹ đang nấu nồi khoai mót cho các con đây! Tôi chợt hỏi lại, khoai mót là gì vậy mẹ? Mẹ cũng phải cười, đáp lại - khoai mẹ đi lượm nhặt lại đó con ơi! chắc có thể là mẹ cũng nghĩ tối nay trăng sáng nên mới luột khoai nóng cho tụi anh em tôi, nhưng chúng tôi thì thầm nghĩ đây là phần thưởng mẹ muốn khích lệ trước lúc vào năm học mới. Vừa chia nhau mỗi đứa mỗi phần, sau đó khoai ai nấy bỏ gọn vào túi. Thằng nhỏ cũng biết ý, giả vờ thật thà thương mẹ, nó cũng bày đặt lựa cho Mẹ củ to nhất trong rổ (nghĩ cái cảnh khốn khổ, nhà nghèo mà tủi thân buồn bã). Sau năm đó ba tôi đã trở thành người quá khứ. Chỉ còn duy nhất là có mẹ bên đời với mái nhà tranh xiêu vẹo trong những đêm khuya vắng. Chúng tôi cố cầm lại nước mắt để ngồi xích thật gần mẹ, nắm lấy bàn tay khô khan thấm mùi sương trời và liếc mắt nhìn nét mặt vất vã đơn độc của mẹ. Một bà Mẹ quê bấy lâu đã mang theo nỗi bôn ba nhọc nhằn khắp chặng đời. Ăn khoai xong, bắt đầu các anh em chúng tôi thay phiên nhau đọc bài thơ của Thầy viết: “ Năm xưa tôi còn nhỏ Mẹ tôi đã qua đời Lần đầu tiên tôi hiểu Thân phận trẻ mồ côi Quanh tôi ai cũng khóc Im lặng tôi sầu thôi Để dòng nước mắt chảy Là bớt khổ đi rồi Hoàng hôn phủ trên mộ Chuông Chùa nhẹ rơi rơi Tôi thấy tôi mất mẹ Như mất cả bầu trời” Các bạn biết không? Mẹ tôi thì vẫn ngồi lặng lẽ câm nín nhưng từng giọt nước mắt lắng đọng của Mẹ đã tuôn dài xuống đôi gò má gầy yếu. Bởi lẽ chúng tôi đọc những lời lẽ ấy ra đây không chỉ sợ mất thêm một người yêu quí nữa, mà vì quá thương mẹ của mình quá. Bởi ba chúng tôi vĩnh biệt ra đi từ lúc tôi lên năm tuổi (cái hôm ấy bầu trời hiền hòa, đất tự dưng rung chuyển như có tiếng sét đánh vô tri) kể từ đó thân phận trẻ mồ côi đã đỗ ụp xuống trên những búp măn non mới lớn. Sau phút kinh hoàng ấy! Mẹ chỉ biết cặm cụi và có những hôm chúng tôi cứ thức trắng bên mẹ. Hằng ngày bà thường thui thủi một mình gồng gánh mọi việc đồng áng chợ đò, khi tuổi vẫn chưa đủ bốn mươi. Căn nhà mục nát đầy gió và nằm heo hút cuối làng ấy giờ trở nên quạnh quẽ hơn nhiều, chắc thiếu đi bóng dáng của cha mình. (Những đêm thắp đèn đánh thức con học bài,với những đêm đông ba luôn cận kề sưởi ấm cho bảy gót chân còn non mềm vào lòng).Tôi biết đó là nỗi niềm bất hạnh lớn đã xảy ra trong đời nhưng cũng đành cam chịu theo dòng thời gian ảo hóa và định luật vô thường đến rồi đi“vô khứ vô lai” mà bất kể ai đang sống trên cõi đời dương thế này điều phải chấp nhận sự sống qua vô lượng kiếp phù sinh. Thế là mẹ tôi vẫn trầm ngâm lắng nghe tiếng đánh vần “cà lăm” từng con chữ, sau đó mới hết một bài thơ. “Thầy” thì mất mẹ khi tuổi thầy còn rất trẻ giống y hệt bảy đứa chúng tôi vậy thôi. Có lẽ đọc vần thơ ấy xong, tôi mới thấu hiểu được sự cô đơn của thầy lúc thầy mất mẹ. Và thầy đã cho tôi cảm nhận được nỗi buồn tri kỷ sinh thành khi đời mất bớt đi người Cha thân yêu. (Trong màng sương chiều giăng giăng đầy ắp con đường hôm ấy cả nhà phải chạnh lòng ngậm ngùi xót đau). Từ đó Mẹ tôi mang gióng chạy ngược lên non, quay lưng thức khuya dậy sớm, mong sao con mình đủ bữa, có cái chữ đến trường. Bây giờ lớn lên nhớ lại cái ngày tháng rát da của một gia đình miền biển xa xôi, tôi không thể nào quên nỗi hình ảnh Mẹ hiền, một bà Mẹ chân quê “buôn chín bán lân’” giã gạo nuôi con từng ngày, không lời than vãn thở dài cũng chưa bao giờ để con mình đói rách phải thiệt thòi thua chúng bạn. Mặc dù đến tận hôm nay các con đã lớn khôn, đang có mặt khắp mọi, nẻo đường mưu sinh chông gai và dần lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của mọi người, nhưng đôi mắt hiền hậu của Mẹ lúc nào cũng mỏi mòn vì luôn dõi theo hành trang trên bước đường tha phương của mỗi đứa con yêu… Có lần mẹ ngồi im lặng, nghẹn ngào trong giọt nước mắt khô, nhắc thằng ở Cần Thơ, đứa giờ Sài Gòn, tận Mỹ, Ca Na Da… còn lại hai thằng có biết chúng chịu sống chung với tui hôm sớm nữa không? (Nói như vậy không phải Mẹ tự hào bầy con của bà sải bước đi xa thế đâu) Ân tình! Thầy Minh Niệm viết: “Trong bản chất của tình thương chân thật phải có chất liệu của sự nâng đỡ, của hy sinh, của hiến tặng”. Có lẽ vì thế mà mối liên hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái không bao giờ có thể rứt ra được. Và có một người kể rằng “…Có hôm, tôi không làm xong bổn phận, đến bữa cơm ông phạt tôi ăn cơm lạt. Nghĩa là chỉ ăn cơm không thôi, không có đồ ăn và phải quay mặt vào tường bưng tô cơm mà ăn để sám hối về sự lười biếng của mình. Tôi vừa thút thít vừa cố nuốt muỗng cơm đầu tiên nhạt thếch. Đến muỗng thứ hai, thì, ô cái gì thế này? Dưới mặt tô cơm trắng là cả một “kho tàng”. Nào thịt kho, nào tôm rim, nào đậu hũ, được chôn giấu và “ngụy trang” cẩn thận. Tôi ngưng khóc, lấm lét vừa ăn vừa thủ tiêu tang vật. Chắc các bạn biết kẻ nào là thủ phạm của hành vi mờ ám, thông đồng với tội phạm này rồi. Quả là mẹ tôi yêu tôi, một tình mẫu tử mù quáng”. Nam Đan còn thốt lên: …Giá mà mẹ tôi còn tại thế thì tôi đã có một người sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho cái sự đàng hoàng của tôi, tiếc thay! Nhìn lại đời mình, những khi mà tôi đàng hoàng thì chỉ có mình mẹ tôi chứng kiến mà thôi, nay bà đã qua đời thì lấy ai làm chứng bây giờ? “Xin có mặt cho người Bằng tất cả trong tôi Phút giây này tỉnh thức Với ân tình chưa vơi” Như Đức Phật có dạy Có bốn chữ Hiếu trong kinh: tiểu hiếu, đại hiếu, chân hiếu, cận –viễn hiếu. “ Hạnh Hiếu tức Hạnh Phật ” Gốc rễ của cách làm người là ta phải biết bổn phận hiếu thảo với cha mẹ. Bởi vì cha mẹ chính là trời đất, cha mẹ là Sư trưởng, cha mẹ cũng là chư Phật. Nếu như quý vị không có cha mẹ thì quý vị sẽ không có được thân thể này, mà không có thân thể này thì quý vị sẽ không bao giờ thành Phật. Cho nên quý vị muốn thành Phật thì trước tiên phải hiếu thảo với cha mẹ. "Dù xây chín đợt phù đồ Không bằng hiếu thuận mẹ cha một ngày.” "Một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, như vậy suốt 100 năm, cũng không đủ để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của mẹ cha" (Tăng Chi I, 75). Hoặc "Này các Tỳ kheo, cái này là nhiều hơn, tức là sữa mẹ các người đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chứ không phải là nước trong bốn biển" (Tương Ưng II, 208). Hiếu thảo với cha mẹ có công đức lớn như vậy, lại phù hợp với đạo lý thế gian cũng như với đạo lý nhà Phật. Ở đời chớ đừng: "Mẹ nuôi con, như trời như bể, con nuôi mẹ, con kể từng ngày.” Được lớn lên trong vòng tay ấm áp của mẹ và mẹ tôi từng trải qua cuộc sống không có chỗ dựa. Thế mà Mẹ đã gánh vác che chở cho đàn con nương tựa tới tận bây chừ! Phận làm con khi nghĩ về tình Mẹ thiêng liêng, lấy gì đền trả cho hết công đức sâu nặng như biển rộng rì rào với sóng muôn năm: "Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con.” Có một lần, tôi nắm tay một người sư em đi thiền hành, dọc theo con suối nhỏ, nước trong veo, hoa rừng ở đây thơm nức nở. Dòng nước cứ muốn lặn lội cuốn mình về đại dương, hai bên lối đi là một màu xanh thăm thẳm của trà non Bảo Lộc. Đôi chân, có lúc dừng lại để tự thưởng thức món quà Mẹ cho. Thật hạnh phúc biết bao, từng bước, như từng nấc thang đi trên cõi đời mênh mông. Sự tạo hóa... mầu nhiệm chỉ có hơi thở chánh niệm mới nhận ra lòng biết ơn vi diệu ấy thôi; huynh đệ chúng tôi khép mắt để cảm nhận nguồn năng lượng thương yêu từ con tim chảy dài xuống gót chân, có lúc Mẹ muốn chúng tôi đứng thật vững chãi, có lúc mẹ dìu bước bên cạnh những khi giông tố khó khăn, nhưng mẹ chỉ muốn đôi chân tự bước vào đời. Tôi hiểu được Mẹ, tôi còn thấy cả khuôn mặt mẹ hiện về thật rõ mỗi lần mẹ nở nụ cười thắm thiết. Một hôm trên con phố nhỏ, lát đát hàng ngàn cánh hoa phượng vàng, tôi chợt nhận ra rằng mẹ là tình yêu, thứ tình yêu ngọt ngào nhất trong đời , chỉ đến một lần bên ta và lòng mẹ mở ra trước mắt tôi, Chiều nay tóc mẹ phủ bóng tuyết Nụ cười mẹ còn trong gương nguyệt Cánh hoa thuỷ triều dâng đâu đó Mẹ mãi dòng Hậu Giang trôi êm. Dường như bức thư tình gửi về cho Mẹ mỗi năm trong mùa báo hiếu Vu Lan là một lần được minh chứng sự tri ân và sẽ chia vào trái tim biết nói, hai tiếng Mẹ ơi! Một lần nữa, thiết nghĩ có lúc mẹ phải giã từ chia tay em tôi, các anh tôi, chị gái của tôi nên mỗi khi tiếng kinh chiều vang lên là lúc tôi nhận lại tình yêu thương của mẹ biểu hiện như một khung trời hiện hữu “mẹ vẫn còn đó, nắng chiều như hơi thở”. Lời tỉnh thức gọi tôi về giữa trang kinh niệm Phật chính là thời gian chúng ta trân quí sự có mặt của Mẹ. Ý thức nhận ra lẽ thường nhiên của cuộc đời là vô thường, sinh diệt là tiếp nối thì tôi mới hiểu Đức Phật trong lòng tôi. Mỗi ngày giúp tôi tiếp xúc chừng ấy chất liệu thôi là đến một lúc nguồn từ bi sống dậy giữa muôn loài gần gũi bên nhau. Trong phút khoảng lặng buổi sáng, trong lúc ngồi thưởng thức chén trà độc ẩm, múc nước tưới rau, ngắm trăng lên hay bữa cơm chiều dưa muối đạm bạc. Đó là những khi dòng suy thức hiện tại đi ngang qua thì càng cho ta cảm nhận về chân dung Mẹ, với ý niệm là mình đang có may mắn lớn “và diễm phúc cho ta hơn thế nữa, Có pháp môn, tăng chúng giữa bụi hồng” Đã bao kiếp mẹ làm dòng sông lặng Để chiều về phủ kín ánh tà dương Từng hạt nắng mẹ chắt chiu gói lại Để đêm về sưởi ấm mái đầu xanh. Những ngày Vu Lan sau này, có Thiền sư Tuệ Nguyên dạy về tình yêu khi còn có mẹ trong bài thơ “Tình hoa trắng” lòng tôi càng khắn khít, hiểu hơn về cuộc đời của người mẹ ở cái tuổi thời gian lam lũ, ôm ấp nhiều đắng cay bởi vì con. Qua nhiều cái nhìn, hóa thân của mẹ vào đại dương, trăng ngàn hay một bông hoa ven đồi, giọt sương lam, bờ cát mịn và đôi khi mẹ biếng thành trang kinh giữa nghìn trùng vì sao: “Áo tôi vàng em cài tình hoa trắng, Đoá hoa xưa ngày mẹ xới đất trồng. Giữa những ngày mưa chang và nắng quái, Giữa biển cồn đời mẹ hóa thành bông”. Với mẹ, tôi không bao giờ nghi ngờ điều gì cả, dù điều mẹ dạy có khác với lời cô giáo dặn, công thức hóa học để chế tạo ra vũ khí mang đi lấn chiếm đất liền. Bởi vì công thức đó ta sẽ nhanh chóng tìm ra ở mọi cột mốc thời gian nhưng công thức tình thương của mẹ chỉ dành riêng cho ta lúc ta đau ốm, lắng nghe lời vỗ về dạy bảo và tận mắt nhìn mẹ mỉm cười. Đó chính là thứ tài sản quí báu mà bạn không thể nào tìm lại được. “Dù bạn có đội lưng lên non, mang mình xuống biển” dám chắc rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra dù có phép màu hiện hữu… vô vàn kiếp sau. … “như cuộc đời - không thể thiếu trong con Nếu có đi một vòng quả đất tròn người mong con mỏi mòn chắc không ai ngoài mẹ Cái vòng tay mở ra từ tấm bé cứ rộng dần theo con trẻ lớn lên” Thầy còn khuyên chúng ta: “Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!"… Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa! Vu lan về cũng là dịp chúng ta biết sử dụng đôi mắt nhìn mẹ thật rõ ràng, một cách cung kính tràn đầy niềm biết ơn sâu sắc, quỳ xuống dưới chân mẹ, để nói lời thỏ thẻ “con cám ơn mẹ” đã sinh ra con và đó là lúc tình yêu đạo lý lên ngôi. Tôi muốn chia sẻ thêm với các bạn rằng, điều đó chính là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa tâm linh cho tình mẹ con luôn gần bên nhau và bạn nên tận hưởng nữa hạnh phúc còn lại giữa cuộc đời càng thêm ý nghĩa. Lấy nguồn cảm hứng, Võ Tá Hân chấp bút mấy dòng thương yêu: “Mẹ cho ta một tình yêu thương, mẹ cho ta một mùi thanh hương, con tim mẹ truyền đạt tất cả, mẹ dạy rằng yêu thương quê hương.Tình của mẹ vời vợi trời cao, tâm của mẹ như vầng trăng sao, đôi mắt mẹ mặt trời ánh sáng, bàn tay mẹ cứu vớt thương đau. Mẹ là Phật đại nguyện hóa thân, mẹ là hoa, hoa đẹp tuyệt trần, mẹ là nước nước nguồn vô tận, cuộc đời mẹ chỉ biết hiến dâng Con chắp tay chiêm ngưỡng ơn người, con nhiếp tâm khấn chúc vạn lời, mẹ là Phật là Phật hằng hữu, cho cuộc đời con mãi thắm tươi”. Khúc ca ấy, ngợi ca lòng mẹ và Ông đã mời mẹ lên một tầm nhìn mới trong chiều sâu của đất trời. Đó là Phật hóa thân, là dòng suối mát róc rách tuôn chảy ở mọi ngóc nghách tâm hồn như mẹ tôi sẽ sống mãi với trái tim thời gian . Kinh Tâm - Thích Pháp Bảo
-
Trị ung nhọt bằng rau mùi tây Rau mùi tây có nơi gọi là ngò tây, tên khoa học là Petroselinum crispum. Đây là loại rau có rất nhiều công dụng trong y học mà dễ chế biến và hiệu quả, nhất là khi điều trị ung nhọt. Để chế biến thành thuốc trị ung nhọt, chúng ta dùng cối giã nhuyễn lá rau mùi tây. Trong lúc giã nên bỏ thêm một ít nước sạch đun sôi để nguội nhằm tạo nên một dịch sánh. Dùng dịch sánh này thoa trực tiếp lên vết ung nhọt, vừa thoa vừa ấn nhẹ (không ấn quá mạnh để tránh đau). Rau mùi tây trị ung nhọt rất tốt. Ảnh: Internet Dùng vải mùng quấn vết ung nhọt trong 15 phút để hạn chế dịch rơi ra ngoài. Sau đó xem thử vết ung nhọt đã mềm chưa, nếu mềm, có thể lấy cùi nhọt ra ngoài, nếu vẫn còn cứng thì tiếp tục dùng dịch thoa và cột vết ung nhọt bằng vải mùng thêm 15 phút nữa. Tiếp đó, dùng vải mùng sạch và nước ấm để rửa vết ung nhọt rồi lấy băng keo cá nhân băng lại cho đến khi vết ung nhọt lành. Thay băng keo mỗi ngày 2 lần.Để tăng hiệu quả trị liệu, nên ép chanh, tỏi, hành lấy dịch thay cho việc dùng nước trong quá trình giã lá mùi tây. Dược sĩ Nguyễn Bá Huy Cường (ĐH Dược Murdoch - Úc)
-
Vào cuối mỗi mùa xuân, công viên Hitsujiyama ở Chichibu, tỉnh Saitama (Nhật Bản) lại như được phù phép trở thành những thảm hỏa rực rỡ sắc màu. Và tất nhiên, nơi đây có sức hút khó cưỡng đối với những tín đồ thích pose ảnh. Hoa Chi Anh thuộc loại thảo, cây hoa chỉ cao từ 20-30 cm vậy nên khi trồng sát với nhau, chúng có thể tạo ra một thảm cây phủ kín, thấp dưới mặt đất. Loài hoa 5 cánh đơn mỏng manh này có nhiều màu sắc khác nhau, có màu tím, tím viền trắng, tím đỏ hay trắng. Ngoài nghề chăn thả cừu truyền thống, Chichibu được biết đến là địa điểm du lịch hấp dẫn, đặc biệt vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5 khi những thảm hoa Chi Anh nở rộ trên những sườn đồi. Tại công viên Hitsujiyama, hoa Chi Anh được trồng theo khóm cùng màu xen kẽ lẫn nhau để tạo ra những họa tiết trong bức tranh hoa tổng thể. Nhìn từ xa, những thảm hoa Chi Anh hệt như những miếng bánh ngọt sặc sỡ trải rộng trên diện tích 16.500 mét vuông của công viên. Để đắm chìm trong thiên đường hoa Chi Anh, các bạn cần 300 yên Nhật (khoảng 80K) để mua vé vào cổng. Công viên Hitsujiyama chỉ cách thủ đô Tokyo 90 phút tàu điện ngầm và 30 phút đi bộ từ ga Yokoze.
-
Bài viết trên đây Wild đã xem qua! Ngẫm lại một con người khi đi qua những thăng trầm của cuộc đời họ mới có dịp nhìn lại ..... cũng như khi ta có đủ kinh nghiệm (giáp sắt) để đối phó với những cạm bẫy thì cơ hội đã không còn, hay sẽ mệt mỏi mà quay về chánh pháp bởi nhận thức được vô thường.
-
Nếu luận theo ngũ hành tương sinh thì bạn đã nghĩ đúng Thổ sinh Kim nhưng còn nhiều yếu tố cần và đủ để bước vào kinh doanh đất đai hay bất động sản đó là một mặt hàng chứa nhiều rủi ro trong thời khủng hoảng này bạn ah.
-
Đã chi cho chuyến viếng thăm Bệnh Nhi Ung bướu http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/21892-den-voi-khoa-nhi-ung-buou/ Chi 12,500,000 đ (mười hai triệu năm trăm ngàn đồng) Quỹ hiện bằng KHÔNG
-
Trưa qua chúng tôi gồm : Thiên Đồng, Thiên Anh, Thiên Việt và Wild đã đến với các em ở Khoa nhi BV Ung Bướu. Cũng không lâu lắm tôi trở lại nơi này với các em, ai cũng ngao ngán trước cảnh sống của thân nhân bệnh nhi đang điều trị gần như là nhà, Thật quá tải cho một cơ sở vật chất xuống cấp mà số lượng người lưu trú lại tăng cái tỷ lệ nghịch này là điều nhói lòng cho bất cứ ai đi qua và nhìn thấy nó. Giờ đây khoa Nhi (nói riêng) hay BV Ung Bướu là một địa chỉ từ thiện cho nhiều nhà hảo tâm, tiếc rằng nếu chia đều sự dư thừa của những người giàu có (trên thế gian) may ra cân bằng được nỗi khổ của những con người nơi đây..vừa đau đớn tuyệt vọng vừa khốn khó cho con đường đi tiếp. Lạy Đức Phật từ bi! Ngài thương xót chúng sinh hãy đoái tưởng lời vọng mong của con cho những mãnh đời nhiều kiếp nạn. Xin hồi hướng công đức này đến tất cả ACE đã đóng góp hiện tài để chúng tôi có chuyến viếng thăm các em mùa Vu Lan năm 2011. Một ông Bố trẻ có con bị ung thư máu. Và một ông Bố khác cùng cảnh ngộ... Một cháu bé đã được hóa trị nhiều lần và một bà ngoại phải ở lại chăm sóc cháu cho Me cha kiếm sống bởi để cứu cháu bà còn phải dài ngày ở nơi đây Và còn nhiều bà mẹ trẻ khác cùng hoàn cảnh gắn đời mình với căn bệnh quái ác của con mình Chúng tôi đã trao tặng 24 phần mỗi phong bì 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) cho các em có hoàn cảnh đặc biệt từ danh sách của Khoa gọi tên. Và còn nữa những người phụ nữ mồ côi trong đời thường cũng gây cho tôi sự xúc động khi thời khắc gặp tôi họ không có được 100,000 đ cho một liều thuốc giảm đau. Đành phải san sẽ một phần phong bì cho Chị biết đâu được cơ duyên của chúng tôi với Chị chỉ 1 lần này thôi. Sẽ còn còn nhiều nữa nếu chúng ta có khả năng đến với tất cả và chúng tôi cũng đã làm tròn công việc của mình "một chuyến viếng thăm như giọt nước mặn mà nghĩa tình giữa bể khổ của đời người" Riêng tôi cũng không quên gởi kèm một Thần Chú Giải Thoát cho một phong bì với lời dặn dò "Ngoài một chút tiền mặt tặng các em còn có một phần quà khác lớn hơn sẽ giúp cho các em đi qua bệnh tật nhẹ nhàng" Ra về chúng tôi lại gặp ở chân cầu thang những đứa trẻ và tại bãi giữ xe 4 người phụ nữ mà cá nhân tôi không thể giữ lại những đồng tiền hiện có trong túi mình. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn họ đã cho tôi và các AE những bài học về sự chia sẽ giữa sự an lành và bất hạnh luôn đan chéo nhau trong cuộc sống và chúng ta đã không quên họ. Ngày 12/8/2011 vào lúc 13g30.
-
Wild đóng góp 286,000 đ (hai trăm tám mươi sáu ngàn đồng) cho Quỹ từ Thiện .Quỹ hiện có: 12,214,000 đ + 286,000 đ = 12,500,000 đ (mười hai triệu năm trăm ngàn đồng)
-
Tri thức về thực chất của sự vật là vô thường và vô ngã là điều kiện để cho khả thể giải phóng. Giải thoát theo Phật có điều kiện tiên quyết là trí tuệ. Từ đó tri thức luận và giải thoát luận liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức Phật cho biết giải thoát cần đến sự liễu tri sự vật trong bản chất thực sự của nó: chính là sự vật nằm trong điều kiện tính hay trong chuỗi điều kiện. 2 C-. Thập nhị nhân duyên Khởi điểm là một chủ thể, một vô ngã có thói quen chấp ngã như là một thực thể bất biến trong dòng đời của nó (vô minh). Với chấp trước này, cái ngã ấy đã được bồi dưỡng một cách giả tạo như là cái gì bất biến trong thế giới luôn luôn biến đổi. Ngoài ra cái ngã vô minh này còn tìm mọi cách để đứng vững trong chuổi luân hồi. Ý niệm chủ thể này bao lâu có ý thức và có sắc thân sẽ được xuất hiện qua sáu giác quan. Nhờ sáu giác quan nó va chạm với thế giới bên ngoài và huân tập tri thức. Qua tri thức chủ thể biết được thế giới bên ngoài. Khi biết được thế giới bên ngoài thì phát sinh sự ham muốn cho rằng cả thế giới đều là một ngã bất biến. Chính cái ngã bất biến này tìm sự thoả mãn và tránh xa những khó chịu, những bấp bênh, ví dụ ở với người mà mình không thích, xa người mà mình thích sẽ đem đến khổ đau, muốn giữ mãi niềm vui vừa có được, nhưng bất hạnh, là nạn nhân của tai ương, và chiến tranh…Chính sự chấp trước vào ngã và thế giới bên ngoài đã tạo nên tái sinh và với tái sinh sinh lão bệnh tử sẽ đi kèm theo. Đó là nội dung của thập nhị nhân duyên Lý thuyết này giải thích toàn bộ sự xuất phát của khổ và bao lâu cái khổ này không được chấm dứt thì luân hồi sẽ tiếp diễn và toàn bộ luân hồi là nguyên nhân của khổ. Quan điểm này là nội dung của hai diệu đế đầu. Diệu đến thứ ba và thứ tư đưa ra viễn tượng giải thoát và phương pháp thực hiện giải phóng ra khỏi khổ đau. 7 Chính từ kinh nghiệm KHỔ, hay ý niệm KHỔ, đạo đức học Phật giáo khởi sự. Có thể nói đạo đức học Phật giáo có hai tầng lớp: đạo đức học về giải phóng toàn diện nỗi khổ của con người và thực hiện giải thoát. Từ viễn tượng giải thoát hoàn toàn này Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn cách sống ở trong vòng luân hồi, cách xử thế và đối xử giữa con người với nhau cũng như những hướng dẫn sống theo trì giới. 2d. Dị biệt với đạo đức học siêu nghiệm của Kant: Có thể nói rằng với khổ đế như là khởi điểm và động cơ thúc đẩy con người hành động đạo đức, theo Kant, chưa phải là nền tảng của đạo đức học bởi vì nền tảng của đạo đức học như chúng ta đã thấy dựa trên cơ sở của một chủ thể tự do với một ý chí tự do. Một nền đạo đức học xây dựng trên ý niệm khổ đối với Kant thật xa lạ, có vẻ không có tính phổ quát khách quan cũng như còn bị lệ thuộc vào kinh nghiệm thường nghiệm. Những yếu tố chủ quan như lòng mong muốn xây dựng tính bản thiện, ước mong hạnh phúc, ước mong được nhiều của cải là những ước muốn chung của tất cả mọi người, nhưng phương pháp để thực hiện mục đích này lại khác nhau ở mỗi người. Nếu các qui luật đạo đức được triển khai một cách thường nghiệm theo sở thích và thị hiếu của mỗi cá nhân thì không thể được xem như là những qui luật phổ quát. Theo Kant “Trong tất cả mọi trường hợp, mỗi khi một đối tượng của ý muốn được đưa ra làm cơ sở hành động cho riêng mình thì qui luật này không gì khác hơn là dị biệt; tính cách mệnh lệnh bị điều kiện hoá” bởi nó tùy thuộc vào những động lực thúc đẩy từ bên ngoài. Theo Kant, môt qui luật được xem là đạo đức phải phổ quát và tiên thiên. Trước hết nó phải được diễn dịch từ một ý chí độc lập với sở thích lợi ích cá nhân. Ý chí độc lập theo Kant luôn luôn là một ý chí tự do. Tất cả những lý do hành động đều đi ngược lại tự do ý chí như: bản năng, nhu cầu, ham muốn, kiêu ngạo, tự ái, thế lực, độc quyền…những lý do này không phải là nội dung mà ý chí tự do bao hàm. Theo Kant chúng chỉ là những động cơ bên ngoài qui định ý chí cho nên chúng chưa phải là động cơ chính của hành động đạo đức. Ý chí chính nó trong bản chất không đặt cho mình một mục đích khi nó muốn cái gì, với tư cách là ý chí tự do, ý chí tự xác nhận mình chỉ khi nào nó gột rửa tất cả những nội dung. Tự do tự chủ là một đặc tính của ý chí, được hiểu theo Kant, có nghĩa tự cho mình là qui luật của chính mình. Kant đã đưa ý niệm tự do như là đặc tính của ý chí cho tất cả những thực thể có lý tính, theo đó tự do là điều kiện thực hiện của ý chí. Không có tự do này thì con người sẽ không thể nào đưa ra những qui luật thoát khỏi những ham muốn. Tự do có nghĩa độc lập khỏi những ham muốn riêng tư, là một ý niệm phổ quát. Tự do theo Kant là cơ sở của tất cả những hành động đạo đức. Ngược lại khi chúng ta quan sát lý thuyết nhân duyên của Đạo Phật, chúng ta thấy rằng hầu như tất cả mọi ý chí đều hoàn toàn nằm trong chuỗi điều kiện, do đấy ở đây vắng mặt khái niệm ý chí tự do và ý niệm tự do tiên thiên. Trong chuỗi điều kiện tính ấy mọi ý muốn đều bị qui định và thường được xem như là tiêu cực, vì chính ý muốn, theo Đạo Phật, là nguyên do của tái sinh. Tuy nhiên, Đạo Phật cho rằng, chính trong chuỗi điều kiện này,- có nghĩa trải nghiệm khổ đế- con người mới cảm nhận được ý chí muốn thoát khỏi phiền não và luân hồi, như một người mang bệnh, sống trong bệnh thì ý muốn thoát khỏi bệnh cụ thể hơn tất cả mọi lý thuyết về bệnh tật. Chính vì con người, như Đức Phật đã nói, là một thực thể chịu khổ não nhưng đồng thời con người cũng có khả năng diệt khổ. Khả năng diệt khổ này con người có được từ tri thức đúng đắn về nguyên nhân của mọi khổ não mà con người đang hứng chịu. Như trên đã nói chính tri thức về mọi nguyên nhân của khổ não cho ta cơ hội để diệt khổ, có nghĩa con người có khả năng hành động đạo đức. Có thể nói cách khác hay để dùng thuật ngữ của Kant về Ý chí, thì chính ý muốn giải thoát khỏi khổ não là động lực nội tại để con người hành động diệt khổ. Nền tảng đạo đức học của Phật Giáo như thế khởi từ ý chí muốn trở thành tự do hay nói cách khác ý muốn thoát khỏi khổ não là điều kiện để giải thoát khổ não. Tự do do đấy theo đạo đức học Phật giáo là viễn tượng thoát khổ, trong đó quá trình giải phóng mới thật sự là quá trình thực hiện đạo đức học . Xét về cơ cấu của quá trình này ta có hai điểm chính cần triển khai: 3. Nền tảng đạo đức học Phật giáo. a) Ý niệm về khổ như là lý do thúc đẩy hành động đạo đức: Phật giáo quan niệm chữ khổ không chỉ là một cảm giác chủ quan cũng không phải là một cái nhìn yếm thế, cũng không theo định mệnh bị bắt buộc trong biển khổ của nhân loại, cũng không phải là sự chán nãn văn minh đã bị lão hoá. Theo Đức Phật KHỔ phổ quát hơn cả ý niệm tự do, nếu không có khổ, nếu không bị ràng buộc thì tự do không được biện minh. 1a. Khổ đế có một ý nghĩa bao trùm cả vũ trụ khởi từ suy nghĩ này: không phải sinh vật nào cũng biết tư duy (chỉ riêng con người hãnh diện biết suy tư, theo Pascal) nhưng mọi sinh vật có thể trải nghiệm đau khổ. Ví dụ: lão, bệnh, tử là những kinh nghiệm có thể dùng làm gạch nối giữa thế giới con người và thế giới loài vật, thế giới cỏ cây. Từ ý niệm KHỔ, con người trở nên một một “LIÊN CHỦ THỂ”, một thứ vô ngã như khả năng mở ra với tha nhân và thế giới. Khởi từ cảm nghiệm khổ về thân xác và khởi từ kinh nghiệm khổ về tinh thần, ước mong diệt khổ không những chỉ cho cá nhân riêng lẻ hay xã hội loài người mà trở nên một ước muốn phổ quát và thiết yếu cho tất cả mọi chúng sinh. Kinh nghiệm khổ do đấy là một kinh nghiệm có thể giúp ta thông cảm với tất cả muôn loài, từ đó ta có thể hiểu được một nguyên tắc cơ bản thường được nêu ra trong các học thuyết đạo đức như Đức Phật đã nói trong kinh Pháp cú: “Mỗi chúng sinh đều không thích đau khổ” và “Mọi chúng sinh đều sợ chết”. Do đó cần phải tự biết bản lai của mỗi thể tính và hãy đừng hành hạ cũng như hãy đừng giết chết các sinh vật. AHIMSA (Bất bạo động, không giết hại) là nguyên lý đạo đức của Đạo Phật Đó là mệnh lệnh đạo đức tiên thiên và quyết liệt hơn cả “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” không xa lạ từ Khổng Tử cho đến Aristote, Kant và những học thuyết đạo đức Đông Tây: “Điều gì mình không muốn thì không nên làm điều ấy cho người khác” ”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.” "Ne faites pas à autrui ce que vous ne voudriez pas qu'on vous fit." Chính khả năng có thể cảm thông với nỗi khổ người khác qua kinh nghiệm về cái khổ của bản thân, ta tránh không làm hại người khác. Khổ không phải là một ý niệm suông mà là một trải nghiệm phổ quát. Có thể nói đây là khởi điểm của hành động đạo đức trong Phật giáo, trong đó khái niệm cơ bản về bất bạo động đóng một vai trò chính yếu trong lời dạy của Đức Phật, không những cho con người mà cho mỗi chúng sinh. Từ trải nghiệm thấu đáo sự khổ, TỪ BI phát sinh, hành động đạo đức, diệt dục, giới hạnh phát sinh. Đạo đức học Phật giáo căn cứ vào hai yếu tố quan trọng là “trí” và “bi”. Trí cho ta khả năng nhận định nguyên nhân của khổ, đồng thời cho ta biết được chân tướng hay thể tính của sự vật từ đó tìm ra được con đường đúng đắn cho đạo đức. “Bi” cho ta khả năng hành động theo đúng với tinh thần đạo đức (không làm điều ác, thực hiện điều lành) dàn trải cho tất cả chúng sinh (vật thi ư nhân). Tri thức luận do đó là điều kiện cho giải thoát luận Ngày hôm nay đạo đức học của Phật giáo, hiểu theo nghĩa năng động của chính lời dạy Đức Phật về khổ và vô ngã, về liên chủ thể chúng sinh (-bởi lẽ cảm nghiệm khổ là chứng thực vô ngã, không có một ngã trường tồn) thích hợp với tư duy khoa học và cảm nghĩ của thời đại hơn những phán đoán mệnh lệnh có tính tiên thiên về NGÃ, THỰỢNG ĐẾ, BẤT TỬ. Do đó đạo Phật được truy nhận như một nền đạo đức học chân chính và khả thi. Nhưng cũng cần nhấn mạnh là đạo đức học Phật giáo không lấy sự phân biệt giữa thiện và ác làm tiêu chuẩn của hành động giải phóng. Hành động giải phóng này nằm trong tiêu chuẩn lành và không lành (có tính cách trị liệu bệnh lý chứ không có tính cách phán xét thiện ác). 2a. Ý niệm chuyển nghiệp: Khái niệm KHỔ được phân tích gồm khổ thân xác (lão, bệnh, tử), khổ tinh thần, và nhất là khổ trên bình diện thể tính, con người nằm trong điều kiện tính, mắc xích của sự trở thành, biến đổi, có nghĩa vô thường và vô ngã nhưng lại chấp ngã do vô minh. Nằm trong chuỗi thập nhị nhân duyên, điều kiện sống của con người là quả của nghiệp (hành động) do con người tạo ra. Con người chịu nhận nghiệp quả nhưng đồng thời tạo nên nghiệp quả trong quá trình biến đổi, vô thường. Nghiệp không phải là một khái niệm định mệnh, nghiệp bao gồm cả quả lẫn nhân, trong nghĩa con người nhận nghiệp quả của mình tạo ra nhưng cũng có thể là nguyên nhân của chuyển nghiệp, chính nhờ sự biến đổi như là vô thường và vô ngã. Như thế khác hẳn với lối giải thích hành động đạo đức tiên thiên từ một ý niệm tuyệt đối và mệnh lệnh của đấng toàn năng, mà Đức Phật cho là có hại cho việc tu chứng giác ngộ, diệu đế thứ nhất hay Khổ đế của Đức Phật đã xây dựng tiền đề cho một nền tảng đức lý từ chuỗi tương quan nhân quả hay từ điều kiện tính của chúng sinh trên thế gian. Liễu tri bản thể của tương quan nhân quả (như là hiện tượng vô ngã, vô thường) là điều kiện nội tại cho tiến trình chuyển nghiệp.Ý muốn chuyển nghiệp (thoát dữ làm lành) là khởi điểm để con người có thể thay đổi nghiệp cũ. Muốn thay đổi nghiệp cần có trí tuệ phá vô minh, chuyển đổi ngã chấp và tạo nên nghiệp lành cho những quả về sau. Có thể nói tiến trình thay đổi GÓC NHÌN (tri thức) để phá tất cả những ảo tưởng, ảo vọng, ảo hoá từ chấp NGÃ là một tiến trình thực hiện giải phóng khỏi mọi ràng buộc mà con người hứng chịu để thực hiện tự do. Như thế mô hình đạo đức học Phật giáo không viện dẫn đến một đấng tuyệt đối toàn hảo làm khởi điểm, mà ngược lại chủ trương chính cuộc đời vô thường vừa là nguyên nhân và môi trường cho sự thực hiện đạo đức cứu khổ. Với khái niệm chuyển nghiệp trong dòng biến đổi luân hồi, ý muốn tự do và cùng với nó, ý chí tự do phát khởi nhằm xây dựng con đường hành động giải phóng khổ đau, giác ngộ chân lý mà diệu đế thứ ba và thứ tư đã đưa ra. Tự do như thế vừa là nền tảng vừa là mục đích của đạo đức học Phật giáo. Ở đây ta thấy, nếu bỏ những vướng mắc về ý niệm Thượng đế, Linh hồn bất tử, tư tưởng của Kant có thể gặp Phật giáo khi cho rằng tương quan nhân quả là hòn đá tảng của tri thức lý thuyết và hành động con người. b. Hành động đạo đức 1b. Tuy nhiên Kant có thể không công nhận khái niệm “khổ” như là động cơ cho hành động đạo đức. Bởi vì “khổ”, khác với tự do, là một cảm giác chủ quan, riêng lẻ cho từng cá nhân, không thể là động cơ thực sự cho hành động đạo đức. Ngay cả khái niệm hạnh phúc theo nghĩa mục đích luận đạo đức của Aristote cũng không được Kant công nhận là động cơ và mục đích của hành động đạo đức vì hạnh phúc là một khái niệm thường nghiệm do đấy không thể được xem là một động cơ nền tảng cho qui luật đạo đức phổ quát. Ngay cả quyền lợi của xã hội cũng không được xem là nguyên do thúc đẩy hành động đạo đức. Theo Kant tất cả những lý do dùng làm động cơ thúc đẩy hành động đạo đức đều bị loại trừ do tính ước lệ ngoại tại của nó. Bởi vì một qui luật đạo đức phải được có giá trị cho tất cả mọi thực thể có lý tính và tiên thiên chứ không phải thường nghiệm hay thực nghiệm. Bao lâu người ta có một dụng ý hay là một mục đích thì người ta đã bị vướng theo qui luật dị biệt của thiên nhiên. Kant cho rằng nơi mỗi thực thể có lý tính đã có sẵn một thiện chí tốt. Thiện chí này nhất thiết phục tùng qui luật đạo đức bởi vì thiện chí này là một ý chí tự do. Người ta có thể nói động cơ thúc đẩy hành động đạo đức đến từ lý tính thực tiễn “thích thiện”, đến từ ý chí đã có sẵn trong mỗi thực thể có lý tính từ trong bản chất của nó. Ý muốn thực hành điều thiện như vậy là nguyên nhân và động cơ cho hành động đạo đức. Kant đã nhấn mạnh nhiều lần rằng trong hành động đạo đức thực thụ, không có cảm giác đạo đức bao hàm. Ngay cả sự thoả mãn sau khi đã làm trọn nghĩa vụ đạo đức cũng bị ông từ chối. Kant cho rằng …qui luật đạo đức có giá trị không phải vì nó hấp dẫn chúng ta. Hấp dẫn không phải là tiêu chuẩn của hành động đạo đức. Sở dĩ nó hấp dẫn vì nó có giá trị cho tất cả mọi người, trong mọi trường hợp. Qui luật ấy phát xuất từ ý chí của một thực thể trí tuệ thuần tuý, không phải là hiện tượng Mệnh lệnh đạo đức như “ điều gì mình không thích thì đừng làm cho người khác” có giá trị phổ quát vì nó làm nền tảng cho mọi hành động đạo đức, và như thế trở nên mệnh lệnh phạm trù. Kant nêu ra điều kiện mà từ đó mệnh lệnh này có khả năng hiện hữu đó là khái niệm về tự do. Nhưng khi viện dẫn “bản tính thiện của lý tính” ông đã không chứng minh tại sao lại “lý tính thiện” mà không là “ác”,- trong lúc cái ác đang vận hành,- là nền tảng đạo đức. 2b. Đạo đức học Phật giáo đi từ một hướng khác: thay vì đưa ra một tiền đề có tính đất yếu và xác quyết siêu nghiệm, đạo đức học Phật giáo tìm cách triển khai khả năng thực hiện giải phóng. Hay nói cách khác đạo đức học Phật giáo chuẩn bị một không gian trong đó hành động đạo đức được xảy ra tự do như Kant đã đề ra. Nếu ta trở lại sơ đồ về tương quan giữa trí tuệ và từ bi thì ta có thể nói rằng trí tuệ đã lấy khởi điểm tự do của Kant để có một cái nhìn siêu việt về thể tính của sự vật trong đó có chủ thể lẫn khách thể nằm trong tương quan nhân quả. Như trên đã nói, triết học Phật giáo tìm cách triển khai nguyên nhân của KHỔ và nhận ra quan niệm về chủ thể tuyệt đối, về ngã bất biến là sai lầm cơ bản trong tri thức luận của con người. Đức Phật cho rằng nếu Tự Ngã được định nghĩa như là một thực thể trường tồn và là nguyên nhân của chính nó, nghĩa là không cần có một nguyên nhân nào khác thì ý niệm tự ngã này không thể có trên thế gian. Trên thế gian, tính vô thường của chủ thể là hiện tượng vô ngã. Chủ thể vô ngã này là một tập hợp của ngũ uẩn và cần phải nhìn nó trong tương qua với khách thể trong ý nghĩa của một thể tính trở thành. Chính ý niệm trở thành này là cơ hội để cho sự chuyển nghiệp có thể thực hiện được. Do đấy chủ thể cần phải huỷ bỏ ảo tưởng sai lầm, nó là một thực thể bất biến vĩnh cữu. Chính ý niệm sai lầm này là nguyên nhân của sự khổ và luân hồi. Sự thấu triệt bản chất của sự vật trong bản chất vô thường của nó làm cho con người có thể phát triển được đức tính từ bi và đức tính từ bi này đã giúp cho con người có thể cảm thông với người khác. Đức Phật tìm ra phương thức tu chứng có hiệu quả đoạn trừ chấp trước mà chính Đức Phật đã thực chứng. Thực hành bát chánh đạo có thể giúp ta đạt được giải thoát khổ đau và giác ngộ Niết bàn Ngoài ra Đức Phật cũng đưa ra ngũ giới cho người thường và sáu giới luật để người hành đạo có thể thực hiện. Ngũ giới và sáu giới hạnh bao gồm hai khía cạnh. Giới thuộc khía cạnh thực tiễn, hành vi thực tiễn và hành động thực tiễn có thể giúp kẻ thống khổ vượt khổ. Đồng thời Tuệ giúp ta chánh kiến về bản chất và tương quan với thế giới, trí tuệ này hướng dẫn hành động thực tiễn của người hành đạo bằng cách chỉ cho thấy những con đường ra khỏi những giới hạn ngẫu nhiên. Sáu giới hạnh đó là: bố thí (giảm thiểu tính ích kỷ), đức hạnh (nhân từ đối với người khác), đạo đức, kiên nhẫn (không bị giận giữ, thực hiện điều lành), quán tưởng (tĩnh tâm và tuệ), từ bi với tất cả mọi chúng sinh và tâm cùng trí phát triển từ bi. Trí tuệ còn được gọi là mẹ của Bồ Tát, không có nghĩa gì khác hơn là tri thức chân thực đem đến giải thoát, trong lúc từ bi diễn tả sự ước muốn, hạnh nguyện của vị Bồ Tát được thoát khỏi luân hồi. 3b. Biểu hiệu của tự do: Nhưng hành trạng đạo đức đặc thù nhất của vị Bồ Tát, theo quan điểm Đại thừa, lại nằm ở chí nguyện bất ngờ này: Bồ Tát mong muốn được giải thoát (ra khỏi luật nhân quả) nhưng khi được giải thoát lại không chấp nhận giải phóng cho riêng mình mà tự nguyện trở lại thế gian để cứu độ chúng sinh. Ý muốn trở lại thế gian là ý muốn hoàn toàn tự do, không còn bị hấp lực của luân hồi. Hành động của vị Bồ Tát hoàn toàn vô bị lợi chỉ dựa vào tâm từ bi. Chính tâm từ bi này làm cho vị Bồ Tát trở lại thế gian mặc dù vị Bồ Tát đó đã hoàn tất hành trình giải phóng, không trở lại thế gian (Bất hối Bồ Tát). Khi Bồ Tát hành động như thế thì Bồ Tát có thể chọn lựa một cách tự do thế gian hay hạnh nguyện Bồ tát đã giải thoát. Trong lúc Bồ Tát quyết định giúp đỡ cho chúng sinh để đem lại an lành cho chúng sinh, Bồ Tát cũng chứng minh được các sự mong muốn được giải thoát của chính mình và qua đó có thể chuẩn bị cho sự viên tròn Phật tính trong chính bản thân của Bồ Tát. Theo ngài Long Thọ, giải phóng luận có nghĩa là ngay trên đường hành đạo thực hiện hạnh Bồ Tát, Phật tính được trọn thành và từ đó con người được giải phóng hoàn toàn. Nằm trong hệ tư tưởng nhất nguyên, vị Trưởng lão của phái Không Luận đã từng tuyên bố, mục đích rốt cùng của tri thức luận về tính không chính là để phơi bày khả thể của hành động đạo đức, ở đây, là hành trạng và hạnh nguyện của vị Bồ Tát. Đối với nhà Không luận tuyệt hảo của Phật giáo,- người đã sử dụng lý thuyết nhân duyên để hủy cấu trúc của mọi lý thuyết và chỉ ra Tính Không của tất cả các pháp,- không phải lý thuyết Phật giáo, mà chính đạo đức Phật giáo là điều có ý nghĩa nhất cho con người trong viễn tuợng tự do. Tự do trong nghĩa đem đến hoà bình và an lạc. Long Thọ đã nhìn thấy vị Bồ Tát toàn hảo trong Đức Phật và đã ca ngợi hết lời Ngài là Đạo sư đẫn đường cho cuộc giải phóng rốt ráo với vô lượng từ bi. Đức Phật là hiện thân của nhất thể Bi-Trí-Dũng trên phương diện đạo đức. Hủy bỏ mọi cấu trúc lý thuyết, đó là công việc trí tuệ mà Long Thọ đã sử dụng triệt để, nhưng khác với thuyết hủy cấu trúc (Deconstructionisme) của Jacques Derrida (1930-2004) trong trào lưu hậu hiện đại Tây phương, công việc của Long Thọ duy nhất nhằm mục đích độ con người lên đường thực hiện đạo đức để tự giải phóng. Là nhà ảo thuật tuyệt hảo của tư duy, Long Thọ vẫn dựa lưng vào Đức Phật như nguồn suối chảy không ngừng của trái tim vô lượng đại bi, ý nghĩa của cuộc sống. Long Thọ Bồ Tát đã để lại những tác phẩm diễn giải và hướng dẫn thực tiễn về tu chứng không những cho người đi tu mà còn cho cư sĩ. Ngài ghi:“Pháp của Phật dạy cho chúng ta hai điều là tránh việc không an lành và hướng về những điều an lành với thân, khẩu, ý” Phương pháp của giải phóng luận này bao gồm con đường thực tiễn được đưa ra để có thể đạt được mục đích cao đẹp. Ngài Long Thọ đã đưa ra những lời khuyên cụ thể về chánh kiến (nhìn rõ bản chất sự vật), quán sát (thấm đượm sự khổ qua chuỗi điều kiện nhân duyên, luân hồi) và hội nhập ý thức (cởi bỏ tâm phân biệt, tư duy, hoà nhập thể tính). Những lời khuyên về hành động chuyển nghiệp gồm có 10 điều liên hệ đến thân khẩu ý như không được uống rựợu, không được sát hại, nói sai sự thật, tránh tà kiến… và phải phát triển sở thích sống tinh tấn. Những hướng dẫn về thực hành đạo lý trong lối sống thường nhật như kính trọng cha mẹ, hiếu thảo với anh em và người ngoài đều được ngài nêu ra cho cư sĩ tại gia.Với tư cách tu sĩ thì phải giữ các hạnh giới như nhẫn nhục, không được ganh ghét, phải quan sát các giác quan của mình, đừng luôn luôn tự mãn. Về việc thực hành quán tưởng còn có những lời khuyên phải luôn luôn thức tỉnh để thấy rõ hoàn cảnh xung quanh của mình, nên tập thiền quán cũng như tập nhìn tất các sự việc trong sự toàn diện của nó và thử nghiệp để biết điều gì, hành động nào có thể đem đến an lành và hành động nào gây ra sự bất an và phải luôn luôn thâm nhập vào trong mỗi kinh nghiệm. Nói tóm lại đạo đức học Phật giáo, không chỉ chú trọng đến giải thoát khỏi luân hồi mà còn đưa ra tất cả những lời khuyên bao gồm phương pháp thực hiện để đạt được một đời sống lợi lộc cho sự giải thoát khổ đau. 4b. Bồ Tát và mệnh lệnh phạm trù: Có thể nói với hình ảnh con người hành động Bồ Tát thích hợp với khái niệm con người có ý chí tự do theo Kant. Với sự tự chủ và ý chí tự do, con người có thể xây dựng qui luật đạo đức và qui luật đó là bao gồm mệnh lệnh phạm trù. Qui luật phạm trù này cho phép con người rút ra bổn phận của mình trên nguyên tắc mà không bị điều kiện thường nghiệm hay vô thường chi phối. Theo Kant, chỉ khi nào ý chí không bị những ham muốn cảm tính thu hút, thì ý muốn có thể trở thành “bổn phận nên làm” có tính cách phạm trù đạo đức. Ý niệm của tự do được nổi bật qua tính độc lập của nó đối với một số nguyên nhân có được trong thế giới cảm năng. Ngoài ra, mệnh lệnh phạm trù còn được Kant nhấn mạnh là hoàn toàn độc lập với tất cả những mục đích ngay cả khi mục đích này là tính toàn diện hoàn hảo hay là hạnh phúc của con người. Một hành động đạo đức theo Kant chỉ được xem là thích hợp với hành động phạm trù khi hành động này hoàn toàn thuần tuý và không bị nhiểm bởi ý thức vụ lợi nào, ngay cả khi ý thức vụ lợi này là hạnh phúc chung cho nhân loại. Từ nhận định trên, thoạt tiên dễ bị cám dỗ để phủ nhận tất cả những động cơ thúc đẩy cho một vị Bồ Tát hành động cứu khổ nhân loại, vì chúng vẫn còn là hành động được ấn định bởi một mục đích bên ngoài nhưng nếu chúng ta khảo sát sâu hơn ý niệm giải phóng của Phật giáo thì chúng ta sẽ thấy ý niệm giải phóng này là tiến trình của sự vươn tới cũng như thực hiện ý niệm tự do bởi vì Niết Bàn mà các vị Bồ Tát mong muốn cho tất cả chúng sinh đạt tới là môt Niết Bàn hoàn toàn độc lập không còn dính líu đến thực nghiệp. Sự giải phóng này được thực hiện khi con người thấy được tính không của tất cả các pháp (Dharma). Thấy được tính không hay nguyên nhân của khổ là điều kiện giúp con người đạt được hoà bình vĩnh cữu. Hoà bình vĩnh cữu không phải là một ý niệm chính trị mà là một ý niệm hội nhập vào thể tính trong đó mọi con người đều đồng đẳng theo đúng với mệnh lệnh đạo đức đã được xem như là qui luật phổ quát: “điều gì ta không muốn làm cho mình thì cũng không nên làm cho người khác”. Châm ngôn này là một trong những châm ngôn làm thành qui luật phổ quát của nhân loại, được thực hiện bằng hạnh Bồ Tát cứu khổ. Tương đương với mệnh lệnh phạm trù của hành động đạo đức trong nghĩa hoàn toàn độc lập với mục đích của chính hành động đạo đức, chúng ta cũng có thể tìm thấy trong Phật giáo điều kiện khả thể của hành động đạo đức qua lời phát biểu trong kinh Kim Cương: Mỗi một đức hạnh được thực hiện đều nên được thực hiện với một ý niệm như sau: “Bồ Tát bố thí cho chúng sanh nhưng khi bố thí lại không được dấy lên một ý nghĩ nào về người bố thí”. Điều đó có nghĩa, hành động bố thí chỉ nên được hoàn tất duy nhất từ ý chí tự do, tự do ngay cả đối với chủ thể là người hành động đạo đức. Bố thí trong trường hợp này mới chính là bố thí, trong đó “cho” và “nhận” đều bình đẳng. Con người bình đẳng trong “sợ chết” cũng như trong thành tựu “đạt Niết Bàn”. Theo Đạo Phật đây mới là khái niệm tự do tuyệt đối mà con người vươn tới để có thể thiết lập một thế giới hoà bình bao gồm tương quan giữa cái ta với toàn thể vũ trụ. Tất cả những suy nghĩ trên cho ta nhận thấy rằng tuy đi hai con đường Đông Tây khác nhau nhưng sự đòi hỏi hành động đạo đức rốt cùng cũng chỉ là một. Trong đó: tự do của con người vừa là điều kiện vừa là mục đích của hành động đạo đức theo Kant và của hành trạng thể hiện Phật tính vì Phật tính trong mỗi chúng sinh đều không khác theo Đức Phật. Cơ hội thành Phật là của tất cả mọi chúng sinh. Cơ hội ấy con người có được tốt nhất khi trải nghiệm “nỗi khổ chung” của nhân quần và chúng sinh và phát tâm cứu độ chúng sinh. Hoàn tất mùa Phật Đản 2011 1 K. Schmidt, Leer ist die Welt, Nxb Christiani, Konstanz, 1953. Tiểu luận “Leer ist die Welt”, Thái Kim Lan dịch Việt “Thế giới rỗng không” đã đăng trên trang talawas ngày 22. 4. 2004. 2 D. Hume (1711-1776, người Scottland), triết gia của học thuyết thường nghiêm Anh, cho rằng tương quan nhân quả là chuỗi liên hệ mà con người nhận ra do kinh nghiệm được lặp lại nhiều lần, từ đó do thói quen được huân tập lại, vì thế mang nhiều tính chủ quan hơn là tiên thiên và phổ quát. Thái Kim Lan (Tia Sáng)
-
Tập làm người bình thường Khi 1 việc xảy ra: Bình thường là tìm ra cái gì là đúng cái gì là sai Khi gặp 1 người: Bình thường là Cười, Chào, Khen và Lắng nghe họ Khi bạn phạm sai lầm: Bình thường là nhận lỗi, sửa lỗi và rút ra bài học áp dụng bản thân. Khi đứng trước một thách thức: Bình thường là đương đầu và chinh phục Khi gặp nhiều rủi ro trong đời: Bình thường là mỉm cười và tiếp tục cuộc sống Khi tình yêu rời bỏ ta: Bình thường là luôn tin rằng còn có những cánh cửa Hạnh phúc khác vẫn đang rộng mở Khi đánh mất lòng tin của người khác: Bình thường là hãy cố gắng gấp nhiều lần để khôi phục lòng tin Khi cảm thấy vất vả mệt mỏi: Bình thường là làm việc thật nhiều và tìm đến những người vui vẻ. Khi thấy mình bất hạnh: Bình thường là hãy mang Niềm vui và Hạnh phúc cho mọi người Khi thấy mình thiệt thòi: Bình thường là hãy cống hiến nhiều hơn gấp 10 lần Khi thấy mình không được quan tâm: Bình thường là dành sự quan tâm hơn nữa tới những người xung quanh Khi được giao một nhiệm vụ: Bình thường là thực thi Khi bạn có một lời hứa: Bình thường là thực hiện Khi bạn muốn Nhận Bình thường là hãy Cho đi Khi không muốn khó chịu Bình thường là chịu khó Khi bạn muốn trở nên vĩ đại: Bình thường là cứ Bình thường đi, khắc thành vĩ đại Lời bình: Đúng là “bình thường tâm thị đạo “
-
Mời xem! không thể bỏ qua cho những phút giải trí! http-~~-//www.youtube.com/watch?v=yFvkUnnhuUo
-
Những cảnh quay giá trị. http://www.youtube.c...lOz4UQ&vq=large