wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. ỨNG DỤNG TỨ TẤT ĐÀN VÀO ĐỜI SỐNG Ý nghĩa của Tứ tất đàn Tứ Tất Đàn, tiếng Phạn là catvari siddhanta; catvari có nghĩa là tứ và siddhanta phiên âm là tất đàn, có khi còn được phiên âm là “ Tất Đàm”, và dịch là “Tác Thành Tựu”, có nghĩa là làm cho công việc thuyết pháp của Đức Phật được thành tựu. Chữ siddhanta, Hán dịch là “thành tựu”, nghĩa là nhờ dựa vào bốn phương pháp này, mà Đức Phật thuyết pháp và thành tựu được sự nghiệp hoằng hóa, giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh từ mê lầm đến giác ngộ, từ sinh tử đến Niết Bàn, từ phàm lên Thánh, từ mê lầm đến sự hiểu biết cao thượng. Người hiểu và ứng dụng tứ tất đàn vào cuộc sống như hoa sen giữa ao báu Nội dung của Tứ tất đàn 1. Thế giới tất đàn Thế giới tất đàn có nghĩa là thành tựu đối với thế gian. Đức Phật có cái nhìn thành tựu về thế gian và cái nhìn chính xác về các pháp thế gian, nên Ngài có thể chuyển hóa, đưa các chúng sinh đang sống trong thế gian đi về với Phật đạo, đi về với sự giác ngộ. Đức Phật ứng dụng Pháp này vào trong thế gian, tức là tùy thuận theo các pháp của thế gian để giảng dạy giáo pháp do tự thân Ngài chứng ngộ. Chẳng hạn, thế gian là vô thường thì Ngài nói là vô thường, và Ngài đã sử dụng những ngôn ngữ của thế gian để diễn tả những tính chất vô thường ấy của các pháp thuộc về thế gian như là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, như là khổ đế, tập đế v.v. Chính những pháp này gọi là pháp thế gian. Đức Phật đã thành tựu khi diễn giảng giáo pháp này đến cho những người trong thế gian hiểu, để từ đó họ chuyển cái tâm mê lầm của họ thành tâm giác ngộ, tâm phàm phu thành tâm bậc Thánh, tâm chúng sinh thành ra tâm Phật. Chuyển hóa được như vậy là nhờ đức Phật đã sử dụng Thế giới tất đàn. Và sau khi chuyển hóa như vậy, tùy thuận để thuyết pháp như vậy, Đức Phật đã đưa họ về với Đệ nhất nghĩa đế tức là chân lý rốt ráo. Ở đây, Thầy nói rõ thêm rằng: “thế gian là vô thường”, vậy thì cái gì trong thế gian là vô thường? Sắc uẩn thuộc về thế gian, nên Sắc uẩn là vô thường; Thọ uẩn thuộc về thế gian, nên Thọ uẩn là vô thường; Tưởng uẩn thuộc về thế gian, nên Tưởng uẩn là vô thường; Hành uẩn thuộc về thế gian, nên Hành uẩn là vô thường; Thức uẩn thuộc về thế gian, nên Thức uẩn là vô thường. Nói một cách khác, thân năm uẩn của mỗi chúng sinh đều là vô thường. Vì vậy, pháp thuộc về thế gian dù là pháp hữu tình hay vô tình đều là vô thường. Và tại sao nó vô thường? Bởi vì nó duyên khởi, quan hệ hỗ tương với nhau. Do sự quan hệ hỗ tương duyên khởi, cho nên gọi là vô thường. Như vậy, Đức Phật nói thế gian vô thường là Ngài thuận theo các chân lý thế gian mà nói. Và Ngài đã sử dụng ngôn ngữ của thế gian để nói, để trình bày pháp vô thường đó cho thế gian. Đức Phật nói mười hai xứ hay mười tám giới là pháp thuộc về thế gian. Mười hai xứ là gì? Đó là sáu căn và sáu trần. Sáu căn gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các căn này không tự thân hiện hữu mà hiện hữu do quan hệ nhân duyên. Cái gì do quan hệ nhân duyên mà có, cái đó là vô thường. Như vậy, Đức Phật đã dùng con mắt thế gian để nhìn thế gian và nói chuyện thế gian cho thế gian; Đức Phật đã sử dụng lỗ tai của thế gian để nghe và nói sự thật của thế gian cho thế gian; Đức Phật đã dùng lỗ mũi của thế gian để ngửi và nói lên sự thật cho thế gian; Đức Phật đã dùng ngôn ngữ, thiệt căn để tiếp xúc với thế gian và nói rõ sự thật của thế gian cho thế gian; Đức Phật đã dùng cái thân hình năm uẩn này để tiếp xúc với thế gian và nói rõ sự thật cho thế gian; Đức Phật đã dùng ý căn thuộc về thế gian để tiếp xúc các pháp của thế gian và nói rõ sự thật của thế gian cho thế gian. Vì vậy mà gọi là Thế gian tất đàn, tức là thành tựu về mặt thế gian. Đức Phật đã nhìn sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, Ngài thấy từ bản chất cho đến hiện tượng của chúng một cách như thực và Ngài nói sự thực đó cho chúng sanh trong thế gian và chúng sanh trong thế gian lãnh hội được những gì do Ngài trình bày, nên gọi là Thế gian tất đàn. Ở trong Pháp Tứ diệu đế, Đức Phật nói: đây là Khổ thánh đế; đây là Tập thánh đế. Đây là Khổ thánh đế; đây là Tập thánh đế , đó là pháp thế gian. Đức Phật nói “đây là Khổ thánh đế” mà thế gian nhận ra được; “đây là Tập thánh đế” mà thế gian nhận ra được và đoạn trừ được tập đế để xa lìa khổ đế. Với cách thuyết pháp như vậy, đức Phật đã thành tựu về Thế giới tất đàn. Và chính nơi những pháp thế gian này, Đức Phật lại chỉ rõ nhân duyên sinh khởi và bản thể không sinh diệt của mỗi pháp, khiến cho những người trong thế gian khi nghe Phật pháp liền sanh được chánh kiến, liền sanh khởi được chánh trí và sinh ra hỷ lạc, sinh ra niềm vui lớn và khởi tâm tu tập, đoạn trừ các phiền não; sinh ra đời sống giải thoát ngay ở trong thế gian này, ngay trong thế giới này. Như vậy, các anh/chị/em thấy rằng, bằng phương pháp Thế giới tất đàn, Đức Phật đã thuyết Pháp không phải chỉ đúng cơ, đúng thời mà còn đúng lý. Thuyết pháp đúng cơ mà không đúng thời, thuyết pháp như vậy là thất bại. Thuyết pháp đúng thời mà không đúng cơ, thuyết pháp như vậy cũng không thành tựu. Thuyết pháp đúng lý mà không đúng cơ, không đúng thời, thuyết pháp như vậy cũng không đạt được thành công trong sự nghiệp hoằng pháp. Vì vậy, thuyết pháp phải đúng cơ, đúng thời, đúng lý. Đúng cơ, là đúng với căn cơ trình độ. Đúng thời là đúng thời điểm, đúng vào từng thời đại. Đúng lý là đúng với chân lý tất yếu. Thuyết pháp vừa đúng cơ, đúng thời, đúng lý là sự thuyết pháp được thành tựu. Mà việc thuyết pháp này được thành tựu là nhờ sử dụng pháp Thế giới tất đàn. Và do thuyết pháp bằng Thế giới tất đàn như vậy, do hoằng pháp bằng Thế giới tất đàn như vậy, nên đem lại niềm vui chính đáng và sự hướng thượng cho chúng sinh ở trong thế gian, hay nói cách khác là cho xã hội con người. Vì vậy, Thế giới tất đàn còn gọi là Lạc dục tất đàn. Thuyết pháp mà đem lại ưa muốn và niềm vui cao thượng cho thế gian, làm thay đổi những niềm vui thấp kém của thế gian thành niềm vui cao thượng, biến niềm vui tầm thường của thế gian thành niềm vui cao cả, niềm vui giải thoát, thuyết pháp như vậy gọi là thành tựu về mặt Thế giới tất đàn. 2. Vị nhân tất đàn Vị nhân tất đàn nghĩa là sự thuyết pháp, hoằng pháp, làm việc đạo thành tựu đối với từng người, đối với từng đối tượng. Việc thuyết pháp đó là vì con người mà nói, vì con người mà diễn giảng chánh pháp, vì con người mà làm việc đạo. Muốn vì con người mà làm việc đạo để giúp cho họ được thành công thì phải hiểu tâm lý của họ, phải hiểu rõ hoàn cảnh của họ, phải hiểu rõ nghiệp báo, nhân duyên, nhân quả của họ để chuyển vận bánh xe chánh pháp giúp họ, giúp họ tiến bộ, xả bỏ được khổ đau trong đời sống để đi tới với đời sống hạnh phúc; giúp họ giải thoát khỏi những trói buộc để đi đến với đời sống tự do đích thực; giúp họ thoát khỏi sự chậm tiến, đi tới với đời sống tiến bộ, văn minh. Do đó, Vị nhân tất đàn nghĩa là khi mình thuyết pháp cho ai, thì phải hiểu được người đó, hiểu được tâm lý, trình độ của họ, phải hiểu được nhân duyên hoàn cảnh họ đang sống, thì mình mới giúp họ thoát khỏi được tình trạng của họ. Các anh/chị/em hướng dẫn gia đình Phật tử, thì ngay tại đơn vị của mình, nếu mình muốn giúp một em đoàn sinh nào đó, thì mình phải hiểu tâm lý của em đó. Mà muốn hiểu được tâm lý của em, mình phải hiểu được nhân duyên của em, tại sao chiều nay em không đi sinh hoạt, vì lý do gì? Bản thân em đó nhác; hay em đó siêng năng, nhưng không khắc phục được hoàn cảnh của mình, hay vì cha mẹ em gây nhau khiến việc đi sinh hoạt của em bị trở ngại…Mình phải hiểu rõ điều đó thì mới có thể giúp được cho đoàn sinh của mình và đưa em đó trở lại sinh hoạt với gia đình. Còn nếu mình không hiểu được tâm lý, hoàn cảnh, những vướng mắc của đoàn sinh đó mà chỉ sử dụng kỷ luật, nội quy của gia đình một cách cứng nhắc, máy móc thì mình sẽ thất bại trên con đường chuyển hóa em đó. Do đó, Vị nhân tất đàn rất quan trọng. Muốn thành tựu được Pháp này, chúng ta phải nghiên cứu, phải hiểu được tâm lý đối tượng, hoàn cảnh của đối tượng, nghiệp báo của đối tượng, nhân quả của đối tượng. Lúc đó, chúng ta mới có thể chuyển vận Pháp luân thành công, mới thành tựu được việc giáo hóa. Vị nhân tất đàn còn được gọi là Các các vị nhân tất đàn. Ngày xưa, Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa thành tựu là do Ngài trình bày Pháp một cách thực tiễn và phù hợp với từng căn cơ, hoàn cảnh của từng người. Đối với người có căn cơ thấp, Ngài dạy giáo lý vừa phải cho họ để họ có thể thực tập được giáo pháp của Ngài ngay trong điều kiện của mình. Đối với người có căn cơ cao thì Ngài cũng trình bày giáo lý theo căn cơ của họ và phù hợp với điều kiện thực tập của họ. Có những người căn cơ cao, nhưng điều kiện thực tập không có, hoàn cảnh không thuận lợi, Ngài cũng biết rõ để giúp, để chỉ cho họ cách hành trì Pháp hiệu quả. Như vậy gọi là Vị nhân tất đàn. Ngày xưa, Đức Phật đã từng giáo hóa những nhà ngoại đạo, giúp họ trở về với Phật. Thậm chí, các giáo chủ tôn giáo khác cũng được Đức Phật giáo hóa, chẳng hạn như ba anh em ngài Ca Diếp, đều là giáo chủ của đạo thờ Thần Lửa, đều có đông đảo quần chúng. Khi đã giáo hóa được Ngài Đại Ca Diếp, nhưng còn hai người em của Ngài vẫn đang còn đi theo tà kiến, nên Đức Phật biết rất rõ những khó khăn mà Ngài Đại Ca Diếp sẽ gặp phải khi đi theo mình. Biết được như vậy, nên Đức Phật đã có cách hỗ trợ, giúp đỡ, giáo hóa thích hợp khiến cho Ngài Đại Ca Diếp quay về được với Phật Pháp mà không bị một trở ngại nào. Sự giáo hóa thành công của Đức Phật đối với ba anh em Đại Ca Diếp là do Đức Phật đã sử dụng pháp Vị nhân tất đàn. Do đó ngày nay, các anh/chị/em học pháp Vị nhân tất đàn này cũng vậy. Khi muốn giáo hóa một người ngoại đạo, thì mình phải hiểu tôn giáo của người ta, chẳng hạn, mình phải biết chủ trương của tôn giáo đó đúng ngang đâu, sai ngang đâu; chỗ nào rốt ráo, chỗ nào chưa rốt ráo. Sau đó, mình phải tìm cách trình bày giáo lý của mình thật khéo léo, mình đừng tấn công họ, đừng đã kích họ mà chỉ đưa ra những ví dụ, những ẩn dụ, làm sao thông qua các ví dụ, ẩn dụ đó, chân nghĩa hiện ra, rồi người ta tự nhận thấy và chuyển hóa hoàn cảnh, tri thức và niềm tin của họ. Như vậy, trong suốt cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật, Ngài không xem bất cứ một đối tượng nào là đối lập hay đối kháng của Ngài cả. Do đó mà Ngài thành tựu được trên con đường hoằng pháp. Trong kinh, Đức Phật đã nói: “Như Lai không tranh cãi với đời, chỉ có đời tranh cãi với Như Lai”. Bởi vì đời còn hơn thua, thị phi, đúng sai. Còn Phật đã vượt hẳn ra khỏi tầm đúng sai nhị nguyên đối đãi của thế gian rồi. Cho nên, những cái đúng sai của thế gian không chao động tới được cái tâm của Ngài. Và trong cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật, đối với căn cơ của người nghe như thế nào, Ngài trình bày Pháp đúng như thế ấy, để cho người nghe có thể phát khởi niềm tin đối với chánh Pháp và thực hành theo Pháp mà khởi sanh được chánh kiến, chánh trí và dẫn sinh được niềm vui trong sự tu học. Các anh/chị/em trại sinh Vạn Hạnh I, Hoa Kỳ sau khi học Tứ tất đàn này rồi cũng vậy, quý vị phải tùy theo hoàn cảnh, trình độ của từng đoàn sinh trong gia đình mình; tùy theo hoàn cảnh, trình độ của từng đơn vị, từng nền văn hóa, từng xã hội của mình mà ứng dụng. Mà muốn được như vậy, chúng ta phải thực tập Thế gian tất đàn, tức là đi đến đâu, chúng ta phải học hỏi văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng ở nơi vùng đó. Ngày trước, khi học tại Quảng Hương Già Lam- Sài Gòn, quý Ôn, quý Thầy dạy Thầy đi về miền Tây để tiếp xúc với Tăng Ni Phật tử ở đó. Khi đi nghiên cứu và tiếp xúc với Phật giáo vùng nầy, Thầy ứng dụng các Pháp tất đàn. Về đó, có những vấn đề Phật Pháp, họ nói không phù hợp với cái mình đã học, nhưng mình vẫn nghiên cứu những điều của họ trình bày, nhưng không chống đối họ, để mình có thể xâm nhập được vào trong họ và cuối cùng mình có thể trình bày giáo lý một cách khoa học hơn, có tính cách thực nghiệm hơn cho họ, và từ từ họ sẽ chấp nhận và đi theo mình. Còn nếu đi tới đâu, mình chỉ biết nói theo cái hiểu của mình, mà không biết nghe và hiểu theo cái hiểu của người ta, thì mình sẽ không giúp được họ mà trở thành đối lập với họ, như vậy là mình sẽ thất bại. Dù cho mình có tài giỏi đến mấy cũng sẽ thất bại. Đó là điều mà các anh/chị/em phải lưu ý để ứng dụng Tứ tất đàn vào việc hoằng pháp và trong sự nghiệp tu tập của mình. Như vậy, hoằng pháp bằng phương pháp Vị nhân tất đàn, Đức Phật thuyết Pháp không chỉ đúng cơ, đúng thời mà còn phải đúng lý, có khả năng phát khởi thiện căn nơi người nghe và khiến cho người nghe có thể tu tập và tiến tới thành tựu được các pháp tối hậu. Vì vậy, Vị nhân tất đàn còn gọi là Thiện sanh tất đàn. Khi thuyết pháp, mình phải làm thế nào để người nghe phát sinh được thiện tâm, phát khởi được niềm tin Phật Pháp Tăng, có được niềm tin nhân quả nghiệp báo, có được niềm tin yêu mến điều thiện. Khi một người đã có được sự yêu mến điều thiện rồi, thì từ từ mình sẽ dìu dắt họ đi từ một điều thiện chưa hoàn chỉnh tới một điều thiện hoàn chỉnh, xuất phát từ một điều thiện thấp dẫn sinh ra điều thiện cao. Đó là công việc mà các anh/chị/em sau khi học Vạn Hạnh I rồi, phải biết ứng dụng phương pháp Vị nhân tất đàn để có thể chuyển hóa xã hội, góp phần vào xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo. Đối tượng cho các anh/chị/em hướng tới là đồng niên, thanh thiếu niên, như nội quy, quy chế gia đình phật tử đã quy định: “mục đích của gia đình phật tử là đào tạo, huấn luyện những thanh thiếu đồng niên trở thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”. Vậy, mình đào tạo và huấn luyện thanh thiếu đồng niên bằng phương pháp nào? Bằng phương pháp của Tứ tất đàn này. Khi mình hướng dẫn bằng phương pháp Tứ tất đàn này, thì mình mới có thể thành tựu được các mục đích của mình. 3. Đối trị tất đàn Đối trị có nghĩa là trị liệu, chuyển hóa. Đối trị tất đàn có nghĩa là chuyển hóa thành tựu hay đối trị thành tựu. Pháp Đức Phật dạy nhắm tới chuyển hóa những phiền não nơi tâm chúng sinh. Mọi phương pháp mà Đức Phật dạy, Ngài nói bằng cách này hay bằng cách khác, Ngài nói cao, nói thấp; Ngài nói rộng, nói hẹp; Ngài nói một cách tha thiết hay nói một cách khắc khổ hay nói một cách sâu sắc, tất cả là nhằm mục đích làm cho người nghe, nghe hiểu, thực hành được và chuyển hóa những phiền não ở nơi tâm họ. Ví dụ, đối với những chúng sinh nặng về tham dục, thì Ngài nói về những nguy hiểm của các dục đem lại. Nhưng, muốn nói được sự nguy hiểm do các dục đem lại, thì trước hết, Đức Phật vẫn nói về vị ngọt hấp dẫn của thế gian. Nếu nói rằng “danh không có sự hấp dẫn”, thế gian sẽ không tin. Cho nên, Đức Phật nói các danh tướng của thế gian vẫn có vị ngọt, vẫn có sự hấp dẫn của nó, nhưng người đời chỉ thấy được sự hấp dẫn, thấy được vị ngọt mà không thấy được nguy hiểm của nó. Do đó, đằng sau vị ngọt của các dục thế gian là cả một sự đắng cay, nguy hiểm. Cũng giống như con cá chỉ thấy được miếng mồi mà không thấy được lưỡi câu ở trong miếng mồi. Mình nói với cá rằng “cá ơi, đừng ăn miếng mồi mà mắc lưỡi câu” thì chắc chắn cá sẽ không nghe, vì nó chỉ thấy được miếng mồi là vị ngọt. Nhưng, người có trí sẽ thấy được đằng sau miếng mồi là lưỡi câu. Cũng vậy, các dục thế gian có sự hấp dẫn, có sự lôi kéo, có sự cuốn hút vì nó có vị ngọt. Nhưng thế gian không hiểu rõ, sau vị ngọt đó là lưỡi câu, là sự nguy hiểm, là hạnh phúc tan nát, nên Đức Phật nói các dục thế gian có vị ngọt, nhưng Ngài còn nói, sau vị ngọt đó là sự nguy hiểm. Nguy hiểm đó là gì? Đó là các dục thế gian đều dẫn tới sanh, già, bệnh, chết và bất như ý, cho nên các dục thế gian không bao giờ đáp ứng được nhu cầu của con người, tham dục của con người. Cho nên, Đức Phật nói tham dục là nguy hiểm, ly dục là để đối trị và chuyển hóa tính tham dục ở trong con người. Chắc chắn, các anh/chị/em đã đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, đã biết câu chuyện giữa nàng Ma Đăng Già và Ngài A Nan. Nàng Ma Đăng Già rất mê ngài A Nan. Nàng mê cái gì? Không phải mê sự tu học, cái đức độ của ngài A Nan mà mê cái sắc của Ngài, vì ngài A Nan khi trẻ rất đẹp, xuất thân hoàng gia và lại rất thông minh. Vì vậy, suýt nữa ngài A Nan bị nạn, được Đức Phật cứu, đưa về. Nàng Ma Đăng Già đi theo, đến gặp Phật, đòi cho nàng được sống cùng ngài A Nan. Đức Phật cười, nói với Ma Đăng Già rằng “cũng được, nhưng trước tiên hãy nghe Như Lai hỏi đôi điều”. Đức Phật hỏi Ma Đăng Già rằng “con yêu cái gì ở ngài A Nan?”. Ma Đăng Già trả lời “con yêu đôi mắt đẹp của Ngài”. Đức Phật nói đôi mắt ngài A Nan đâu có đẹp, trong con mắt đẹp đó, cả ghèn trong, chứ có gì đẹp đâu! Ma Đăng Già : “Con yêu lỗ tai của Ngài A Nan”- Phật nói “lỗ tai A Nan đầy cứt ráy, chứ có gì mà đẹp!” Ma Đăng Già : “Con yêu cái miệng của Ngài A Nan”- Phật nói “miệng A Nan ngủ dậy mà không súc, không đánh răng thì hôi lắm, chứ có gì mà đẹp!”. Ma Đăng Già : “Con yêu cái mũi của Ngài A Nan”- Phật nói “mũi đó cũng đầy chất dơ bẩn, chứ có gì mà đẹp!”. Ma Đăng Già : “Con yêu cả thân thể của Ngài A Nan”- Phật nói “thân thể A Nan nếu hai ngày mà không tắm thì chẳng có ai chịu nổi, chứ có gì mà đẹp, có gì đâu mà đáng yêu!”. Từ đó, Ma Đăng Già nhận ra được thân thể này không có gì gọi là trong sạch, không có gì đẹp đẽ như mình tưởng tượng, nên nàng nhàm chán tham dục, phát tâm xuất gia, được Đức Phật hướng dẫn, đã tu tập rất giỏi và thành công. Như vậy, các anh/chị/em thấy rằng, Đối trị tất đàn là tùy theo căn cơ, tùy theo tham dục của từng người mà Đức Phật thuyết pháp để giáo hóa cho họ, chuyển hóa tâm thấp kém nơi họ. Người tham sắc, thì Ngài nói sự nguy hiểm của sắc dục. Người tham tài, thì Ngài nói về nguy hiểm của tài dục. Người tham danh, thì Ngài nói sự nguy hiểm của danh dục. Người tham ăn uống, thì Đức Phật nói về nguy hiểm và lợi ích do sự ăn uống đem lại. Có người ham ngủ, thì Đức Phật nói về nguy hiểm và lợi ích do ngủ đem lại. Tuy, đối trị như vậy, nhưng không dồn người khác vào chỗ bế tắc, mà đưa họ đến chỗ nhận ra được chân lý và cuối cùng, Ngài hướng dẫn cho họ thực tập theo pháp Trung đạo, tức là không thái quá, không bất cập, biết vừa phải. Sống cuộc đời biết vừa phải, sống trung đạo như vậy, thì xa lìa được hai cực đoan là ép xác khổ hạnh và buông lung trong các dục. Cho nên, Đối trị tất đàn không có nghĩa là dồn người khác vào chỗ bế tắc, mà chỉ rõ cái chân nghĩa cho họ, để họ thực tập và từ đó có sự an lạc, hạnh phúc. Đối trị tất đàn là phương pháp trị liệu, là dược liệu trị bệnh chúng sinh. Do Pháp này mà thế gian nhìn Đức Phật như là một vị Y Vương, là vị vua trong ngành y học, biết tùy bệnh cho thuốc. Pháp của Phật trình bày giống như lương dược, là diệu dược mà tùy theo bệnh trạng, thực hành Pháp đó sẽ được chuyển hóa, đưa lại sự an lạc của thân và tâm. Đối với những chúng sinh đầy sân hận, Đức Phật dạy cho họ pháp từ bi, thực hành tâm từ bi, thương người như thể thương thân. Mình thương người khác chính là mình đang thương thân thể mình. Mình thương cuộc đời cũng chính là đang thương mình. Mình giận người khác, là mình đang gây thiệt hại cho chính mình. Khi mình làm cho ai khổ đau, thì bản thân mình khổ đau trước người đó. Đọc trong các kinh, chúng ta sẽ thấy Đức Phật nói rất nhiều ví dụ về điểm này. Chẳng hạn, mình có tâm sân hận muốn hại người khác, thì trong kinh Tứ Thập Nhị chương, Đức Phật nói “nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn phấn kỷ thân. Ngưỡng diện thóa thiên, thóa bất chí thiên hoàn tùng kỷ đọa“, nghĩa là người ác mà hại người lành, thì giống như người đi ngược gió dê bụi, bụi không tới người kia mà lại vướng vào nơi mình. Kẻ ác mà hại người hiền thiện, người đạo đức, cũng như người giận trời, ngửa mặt nhổ nước miếng lên trời, nước miếng không thấu trời mà rơi lại nơi mặt mình. Do đó, người ác mà hại người lành; người kém đạo đức ganh tị với người đạo đức; người không có tài năng ganh tị với người có tài năng, thì chỉ gây thiệt hại cho chính mình mà thôi. Người nghe hiểu được như vậy, họ sẽ bỏ tâm ganh tị đi, bỏ tâm giận hờn đi, bỏ tâm trách móc vì ganh tị. Giận hờn, trách móc đều gây thiệt hại cho tâm mình, cho đời sống của mình nhiều hơn cho đối tượng mà mình ganh tị. Nhờ vậy, người đó thành tựu được tâm an lạc, tâm giải thoát, tâm cao quý. Đó gọi là pháp Đối trị tất đàn. Đối với những người ngu si, vô trí, tà kiến, cho rằng thế giới này do thần linh tạo nên, do một thần minh tạo nên, do một thượng đế tạo nên, thì Đức Phật không bác bỏ trực tiếp cái đó, mà Ngài nói về giáo lý duyên khởi. Nghĩa là mọi sự hiện hữu giữa thế gian này, không có cái gì hiện hữu đơn thuần mà có thể tồn tại, mà mọi thứ chỉ có thể tồn tại trong quan hệ nhân duyên. Nếu mình quán chiếu nhân duyên này thật sâu sắc, thì niềm tin đối với một thượng đế, một thần linh, một nhất thần giáo sẽ tự động rơi rụng đi, chứ Ngài không hề tấn công bất cứ một thượng đế hay thần linh nào cả. Ngài chỉ bật ngọn đèn cho người khác thấy. Khi họ đã thấy, họ sẽ tự thay đổi tâm của chính họ, thay đổi cái nhìn của chính họ, thay đổi niềm tin của họ. Họ tự thay đổi và tự hoàn thiện niềm tin của họ, đó mới là điều quan trọng. Họ tự thay đổi, tự hoàn chỉnh nhận thức, hiểu biết của họ, đó mới là điều quan trọng. Khi một người nhận ra được và tự hoàn chỉnh niềm tin của mình, thì ngay nơi sự hoàn chỉnh đó, họ có hạnh phúc, an lạc. Khi một người có được ánh sáng soi rọi vào và tự hoàn chỉnh hiểu biết của mình, thì ngay nơi sự hoàn chỉnh đó, họ có an lạc hạnh phúc, có cơ sở vững chãi để tiến lên những mức độ cao hơn, hiểu biết cao hơn, đời sống cao hơn. Đó chính là tác dụng của Đối trị tất đàn. Nói một cách khác, chúng sinh có bao nhiêu phiền não, thì Phật có bấy nhiêu pháp môn, bấy nhiêu phương tiện để chuyển hóa phiền não cho chúng sinh. Cho nên chúng sinh có vô lượng phiền não, thì Phật Pháp có vô biên pháp môn tu tập để chuyển hóa. Khi nhận ra được điều này rồi, thì người Phật tử chúng ta không còn tu tập một cách cực đoan và cục bộ, không còn bị mắc kẹt bởi trường phái này hay trường phái kia, mà thấy được rằng, trường phái nào cũng là những khía cạnh của Phật pháp. Chúng ta đến với đạo Phật, chứ chúng ta không đến với trường phái này hay trường phái nọ, với pháp môn này hay pháp môn kia. Nếu chúng ta đến với bất kỳ một trường phái nào, là chúng ta đánh mất đạo Phật toàn thể. Đến với đạo Phật mà bị kẹt vào một khía cạnh, một trường phái, một pháp môn, thì đó là một sự mất mát thiệt hại cho ta. Đặc biệt trong thời đại của chúng ta, các anh/chị/em phải lưu ý điểm này. Đôi khi mình tu học Thiền tông, nên mình tấn công Tịnh độ; mình tu học Tịnh độ thì mình tấn công Thiền; mình tu học Mật tông thì lại tấn công Thiền, tấn công Tịnh độ; tu học theo Hiển giáo lại tấn công Mật giáo hay mình tu theo phương pháp theo dõi hơi thở, thì mình tấn công người niệm Phật. Như vậy rõ ràng là mình đã không hiểu về giáo pháp của Đức Phật, không hiểu về phương pháp Đối trị tất đàn. Các anh/chị/em đã từng nghe câu chuyện người mù rờ voi. Có mấy người mù rờ voi, người rờ được cái đuôi thì họ nói con voi giống cái chổi; người rờ được cái chân thì nói con voi giống cái chày; người rờ được lỗ tai, thì nói con voi giống cái quạt. Người rờ cái đuôi và nói rằng, con voi giống cái chổi, người ấy nói không sai, nhưng lại không phải đúng hoàn toàn. Người ấy chấp một bộ phận con voi thành toàn thể. Chỉ có người mắt sáng mới biết tất cả những gì người mù ấy nói không sai, nhưng cũng không đúng, vì người mù đã chấp một bộ phận của con voi là toàn thể con voi. Sai là sai ở chỗ đó. Mặc dù người mù có xúc chạm con voi, bằng chính bản thân họ, nhưng vì xúc chạm bằng đôi mắt mù lòa, nên vẫn không thấy được thực tại của voi là gì. Phật tử chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta tu học mà không có tuệ giác, chúng ta kẹt vào từng pháp môn, từng đối tượng, từng trường phái của mình là mình chưa có sự toàn giác, chưa đi đúng hướng của Phật pháp. Vì vậy mà trong Phật giáo chia bè, chia nhóm. Nhóm này nói xấu nhóm kia, nhóm kia tấn công nhóm này. Cuối cùng là thân thể của Phật Pháp, thân thể đạo Phật bị phanh, bị xẻ, mà không ai khác hơn, chính là “sư tử trùng trung, thực sư tử nhục”. Đó là điều mà các anh/chị/em khi học pháp Đối trị tất đàn này phải nhận ra cho rõ, để mình có được con đường vững chãi mà tu học, phụng sự chánh pháp, phụng sự dân tộc và nhân loại đúng như trong lời mở đầu của hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã nêu. Vì vậy, Đối trị tất đàn còn gọi là Đoạn ác tất đàn, nghĩa là Đối trị tất đàn giúp cho chúng sinh đoạn trừ tất cả những ác kiến, những nhận thức sai lầm dẫn tới những việc làm ác; giúp cho chúng sinh đoạn trừ những phiền não chấm dứt khổ đau. Nói một cách đúng với Phật học chuyên môn, Đối trị tất đàn giúp cho người thực tập đoạn trừ phiền não chướng, là những chướng ngại thuộc về phiền não ở nơi tâm, để có tâm giải thoát, tâm an vui; đoạn trừ sở tri chướng, là những chướng ngại đối với sở tri, đối với sự giác ngộ để có tuệ giác toàn bộ. Chốt lại, Đối trị tất đàn có tác dụng đoạn trừ hai mặt, mặt phiền não chướng ở nơi tâm và sở tri chướng là những chướng ngại đối với trí tuệ, để có được tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Một người có tâm giải thoát, có tuệ giải thoát, thì ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì cho bất cứ ai, cũng đều thành tựu. Đó là Đối trị tất đàn. 4. Đệ nhất nghĩa tất đàn Đệ nhất nghĩa tất đàn tức là sự thành tựu tối thượng. Đó là sự thành tựu tuyệt đối. Đó là mục đích hoằng Pháp của Đức Phật. Nên, Đức Phật thuyết pháp bằng Thế giới tất đàn, bằng Vị nhân tất đàn, bằng Đối trị tất đàn, với mục tiêu cuối cùng là để hiển thị Đệ nhất nghĩa tất đàn. Nghĩa là Đức Phật thuận theo thế gian để làm gì, thuận theo từng người để thuyết pháp, nhằm mục đích gì, đối trị với từng căn bệnh phiền não, sở tri của từng người để làm gì? Để đưa họ đi về với Đệ nhất nghĩa tất đàn, tức là cuối cùng sẽ hiển thị cho họ thấy được chân lý tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối mà Đức Phật giảng cho mọi người, nói cho mọi chúng sinh là gì? Đó là “tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật”. Muốn thành Phật thì phải chứng nhập Phật tính. Muốn chứng nhập Phật tính thì phải từ nơi tâm bồ đề hay từ nơi bản giác mà phát khởi đại nguyện lợi hành, giáo hóa hết thảy chúng sinh bằng phương pháp này hay phương pháp khác. Giáo hóa nhưng không mắc kẹt vào nơi phương pháp giáo hóa, nơi hình thức giáo hóa, khiến cho chúng sinh được giáo hóa đi tới được với chân lý tuyệt đối, với hạnh phúc an lạc. Đó là Đệ nhất nghĩa đế tất đàn. Do đó, trong Luận đại trí độ, ngài Long Thọ nói “trong Tứ tất đàn thâu nhiếp hết thảy mười hai thể loại kinh và tám vạn bốn ngàn pháp tạng” đều là thực mà không có gì mâu thuẫn nhau. Trong Phật Pháp hết thảy đều là thực, có pháp thực, vì theo nghĩa của Thế giới tất đàn; có pháp thực vì theo nghĩa của Các các vị nhân tất đàn; có pháp thực vì theo nghĩa của Đối trị tất đàn và có pháp thực, vì theo nghĩa của Đệ nhất nghĩa đế tất đàn. Như vậy, các anh/chị/em thấy rằng, mỗi thời Đức Phật thuyết pháp, thì ngay trong pháp được thuyết bởi Ngài, đều chuyển tải đầy đủ cả Tứ tất đàn; ba tất đàn trước thuộc về phương tiện, tất đàn sau, tức là Đệ nhất nghĩa tất đàn, là cứu cánh. Cứu cánh, nhưng không rời phương tiện. Cứu cánh có mặt ngay nơi những phương tiện mà Đức Phật sử dụng để thuyết pháp. Nghĩa là trong khi Đức Phật thuyết pháp, Ngài sử dụng những phương tiện của thế gian như ngôn thuyết, những tư duy… để chỉ bày chân nghĩa cho người nghe, chân lý cho người thấy. Nên, những phương tiện Đức Phật đã sử dụng đó, không còn là những phương tiện đơn thuần, mà là những phương tiện có nội dung, có tác dụng hiển thị chân lý, tức là hiển thị Đệ nhất nghĩa đế tất đàn. Bởi vậy, nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy ngay trong Thế giới tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, ngay trong Vị nhân tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, ngay trong Đối trị tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn. Đây là điều các anh/chị/em cần lưu ý khi trình bày và thực hành giáo lý Tứ tất đàn, nghĩa là mục đích không rời phương tiện; phương tiện phải được bảo chứng để đi tới mục đích. Tức là chúng ta tùy duyên mà bất biến; bất biến ngay nơi cái tùy duyên của mình, chứ tùy duyên và bất biến không phải là hai cái tách rời nhau. Tùy duyên phải bảo chứng được cho nội dung bất biến; bất biến phải bảo chứng để tùy duyên đi tới. Bất biến phải là lực hút để hút tùy duyên đi tới mà không bị chệch hướng và tùy duyên phải hàm chứa nội dung bất biến. Khi học Tứ tất đàn rồi, chúng ta mới có thể ứng dụng được giáo lý của Phật vào trong đời sống xã hội. Do đó, chúng ta sang phần IV, tính chất tùy duyên và bất biến của Tứ tất đàn. Tính chất tùy duyên và bất biến của Tứ tất đàn Trong Tứ tất đàn, thì Thế giới tất đàn hay Thế gian tất đàn, Vị nhân tất đàn, Đối trị tất đàn thuộc về tùy duyên ở trong đạo Phật, tùy duyên hành đạo, tùy duyên hoằng Pháp ở trong đạo Phật; còn Đệ nhất nghĩa tất đàn là cứu cánh, là mục đích của đạo Phật. Tùy duyên là để đạt mục đích, chứ tùy duyên mà không đạt được mục đích của mình thì tùy duyên sẽ trở thành tùy tiện, như vậy sẽ đi chệch hướng của đạo Phật, đi chệch hướng với lý tưởng của mình. Do đó, chúng ta phải nắm cho được cái tùy duyên bất biến và bất biến tùy duyên ở trong đạo Phật. Ngày nay, người ta lạm dụng cái tùy duyên bất biến này hơi nhiều. Một người đã thực sự lên đến đỉnh núi rồi, đã thực sự ngồi trên đỉnh núi tuệ giác rồi, người ấy quán chiếu thấy được căn cơ của chúng sinh như thế nào rồi, mới bắt đầu xuống núi để tùy duyên giáo hóa. Còn chúng ta, phần nhiều là những người đang còn leo núi, chưa lên đến đỉnh mà chúng ta tùy duyên, thì nghe người này nói leo đường này thì mình cũng leo đường này; nghe người kia nói đi đường kia mới tới, mình liền chạy qua đường đó; rồi lại có người nói có con đường khác nhanh hơn nữa, mình liền bỏ đường cũ, leo theo con đường người đó nói. Cuối cùng, vì tùy duyên nên mình đi loanh quanh. Loanh quanh hoài, nên chẳng bao giờ đạt tới được mục đích của mình. Cũng như Trịnh Công Sơn nói “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Cho nên thế gian là pháp loanh quanh. Chỉ có khi nào, ta có Phật Pháp, có chánh đạo mới có trực đạo đi thẳng. Quý vị phải biết rằng, trong Thế gian tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, nên nói theo thế gian mà không sai với chính nghĩa; nói thuận theo với thế gian mà không sai với Niết bàn; ở trong sinh tử mà không sai với Niết bàn giải thoát. Cũng vậy, trong Vị nhân tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, trong Đối trị tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn. Chúng ta phải tùy căn cơ, tùy từng hoàn cảnh của con người, từng hoàn cảnh xã hội mà giáo hóa, chúng ta tùy thuận mà không tùy thuộc. Vì sao? Vì trong Đối trị tất đàn, trong Vị nhân tất đàn, trong Thế gian tất đàn, mỗi cái đều có Đệ nhất nghĩa tất đàn. Cho nên, trong cái tùy duyên có tính chất bất biến bên trong. Đây là điều mà các anh/chị/em cần phải học tập, chiêm nghiệm để có thể hành đạo được ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Thương Tọa Thích Thái Hòa (theo Thư Viện Cổ Pháp)
  2. Đã gởi đến bạn hôm nay.
  3. Chữa ho bằng vỏ bưởi Bạn nên giữ lại vỏ khi ăn bưởi vì vỏ bưởi có thể chữa được khá nhiều chứng bệnh hay gặp, chẳng hạn như ho, hen... Dưới đây là một số cách chữa bệnh bằng vỏ bưởi. Chữa ho có nhiều đờm: Vỏ bưởi 10 gr, thêm đường kính, hấp uống dần dần. Chữa sản giật: Vỏ bưởi khô và ích mẫu bằng nhau tán nhỏ, uống mỗi lần 8 gr với rượu vào lúc đói hoặc dùng mỗi vị 20 - 30 gr sắc uống. Chữa hen: Vỏ bưởi (lấy ở quả bưởi từ 0,5 - 1 kg), một miếng bách hợp, 120 gr vảy hành khô, đường trắng 120 - 250 gr, nấu nước uống, chia làm ba lần uống trong ngày, liên tục trong 9 ngày. Chữa phù thũng: Vỏ bưởi đào, mộc thông, bồ hóng mỗi vị 20-30 gr, diêm tiêu 12 gr, cỏ bấc 8 gr, sắc uống mỗi ngày hai lần vào lúc đói và ăn một khẩu mía trước và sau khi uống thuốc. Kiêng muối và chất mặn. Theo Lương Y Nguyễn Nam Đất Việt
  4. Ý nghĩa, công năng, lợi ích hành giả trì Chú Đại Bi Lời nói đầu: A Di Đà Phật hàng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày: 19/02, 19/06 và 19/09 đều theo âm lịch. Ngày 19/02 là vía Quán thế Âm Đản Sanh. Ngày 19/06 là vía Quán thế Âm Thành Đạo. Ngày 19/09 là vía Quán thế Âm Xuất Gia. Ngày 19-09, tưởng niệm ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát. Trí Giải xin chia sẻ vài điều về công năng diệu dụng lợi ích của Chú Đại Bi chia sẻ đến quý Phật tử và bạn đọc gần xa Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni của Phật Quán Thế Âm. Gọi tắt là Chú Đai Bi. Chú Đại Bi có thảy là 84 câu, 415 chữ. Định nghĩa danh hiệu Bồ Tát -Bồ Tát: Nói cho đủ là: “Bồ Đề Tát Đỏa” tiếng Phạn: Bodhisattva dịch nghĩa là “Giác hữu tình,” Bodhi=Giác, sattva=hữu tình. Từ “Giác” nghĩa là Giác ngộ, giác tri, giác kiến…Hữu tình nghĩa là các loài có tình thức do duyên hợp lại mà thành, “giác hữu tình” trên cầu Phật đạo để tự giác, dưới hóa độ chúng sinh để giác tha. Lòng đại từ đại bi của Bồ tát phát tâm nguyện cứu độ chúng sinh thoát khổ đau, đó là ý nghĩa danh từ Bồ Tát Giải thích về Chú Đại Bi. Trong tất cả Kinh điển và Mật Chú của Phật giáo đều chia làm hai phần: Phần hiển (Phần Kinh) và Phần mật (phần câu Chú). Phần hiển: Là hiển bày ra ý nghĩa và chân lý trong Kinh để hành giả tụng niệm, hoặc nghiên cứu theo đó áp dụng tu tập, thì gọi là: “Tụng Kinh minh Phật chi lý,” để hiểu biết công năng của câu kinh và câu chú gọi là phần hiển. Ví dụ: Kinh Bát Nhã phần hiển từ “Quán tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã cho đến câu…..Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết”: phần mật là phần câu chú: “Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha” Kinh Lăng Nghiêm: phần tựa là từ “Diệu Trạm Tổng….cho đến hết lời tựa là phần hiển còn phần mật là 5 đệ Lăng Nghiêm Phần hiển: Chú Đại Bi “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi” câu Kinh này là phần hiển giải thích công năng và diệu dụng của 84 câu Chú ở sau, để giúp hành giả hiểu mà hành trì cho đúng mới có hiệu nghiệm. Còn phần mật của Chú Đại Bi là phần “câu Chú” từ câu chú “tâm đà la ni cho đến câu 84. Ta bà ha” phần câu Chú là phần ẩn nghĩa chỉ là phạn ngữ chỉ có chư Phật mới thấu hiểu còn hàng phàm phu không hiểu ý nghĩa, chỉ biết công năng và lợi ích để hành trì. Giải thích phần hiển: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi” </H3>Câu Kinh này là phần hiển muốn nói về Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân thành Phật Chuẩn Đề có nghìn tay, nghìn mắt, trong mỗi tay có một con mắt và mỗi tay cầm mỗi khí cụ khác nhau. Vì thế trong Phát Bồ Đề Tâm Luận của Bồ tát Thiên thân nói rằng: “Bồ tát phát tâm lấy lòng từ bi làm đầu. Lòng đại từ của bồ tát vô lượng vô biên nên sự phát tâm cũng vô lượng vô biên mênh mông như chúng sanh giới. Như hư không giới, không chỗ nào là không cùng khắp, sự phát tâm của Bồ Tát cũng như thế, vô lượng vô biên không có cùng tận” [1] Trong Kinh Duy Ma Cật đức Phật dạy rằng: “Người có trí không nên so sánh với các hàng Bồ Tát. Biển sâu còn có thể dò được, chớ thiền định, trí tuệ, tổng trì, biện tài, tất cả công đức của Bồ Tát không thể đo lường được” [2] Như vậy mỗi bàn tay là biểu trưng cho công hạnh của Bồ tát vào đời độ sinh với lòng Đại từ đại bi. Bởi vì chúng sinh căn cơ không giống nhau, cho nên Ngài Quan Thế Âm hóa hiện ra nghìn tay (tức nghìn muôn hạnh) phương tiện để độ sinh viên mãn, Bồ Tát có tâm đại từ đại bi nhưng cần phải có đại trí tuệ, vì vậy mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt, con mắt là biểu trưng cho trí truệ, một nghìn con mắt biểu trưng cho đại trí tuệ Nếu hành giả thực hành con đường Bồ Tát hạnh vào đời độ sinh, chỉ có từ bi mà không có trí tuệ, khi gặp chướng duyên dễ bất thối tâm bồ đề, và sự việc hoằng Pháp độ sinh sẽ gặp trở ngại Ví dụ: Khi chúng ta thực hành Bồ Tát đạo vào đời độ sinh thấy một người nghiện rượu, nghiện thuốc,..không có tiền mua uống nằm than thở kêu rên. Bấy giờ chúng ta động lòng từ bi thương xót lấy tiền ra để bố thí, để giúp họ vượt qua cơn nghiện. Như vậy, chúng ta có từ bi mà thiếu trí tuệ, chúng ta đã giúp những người ấy, vô tình lại tạo thêm khổ đau vì rượu là chất hại người, tai nạn làm mất hạnh phúc gia đình, rượu là nguyên nhân làm mất đi hạt giống trí tuệ, vì thế trong giới thứ năm Sa Di giới cấm uống rượu, đức Phật đã dạy, thà uống nước đồng sôi mà chết còn hơn uống ly rượu. Bởi vì chúng ta uống nước đồng sôi mà chết còn giữ được hạt giống trí tuệ, còn chúng ta uống rượu làm mất đi trí tuệ Như vậy chúng ta hành Bồ Tát đạo múc đích cứu độ chúng sinh, nhưng ngược lại gây hại đau khổ thêm cho chúng sinh và chúng ta lại vi phạm tinh thần Bồ Tát giới, chẳng những tự mình không uống rượu còn cấm cấm bán rượu: “Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán, rượu là nhơn duyên sanh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội.” [3] Như vậy chúng ta hành Bồ Tát đạo vì lòng từ bi cần phải có trí tuệ thì chúng ta không có gặp chướng ngại (vô = không, ngại = chướng ngại) “Bồ tát phát tâm bằng cách thân cận thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập thiện căn, lập chí cầu chánh pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ chịu nhẫn nhục được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, ưa thích pháp đại thừa, mong cầu được trí huệ Phật. Nếu ai có đầy đủ mười điều nói trên mới có thể phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.” [4] Bồ Tát phát tâm tu tập Vô thượng Bồ đề lại cần có bốn duyên; “Một là suy nghĩ đến chư Phật; Hai là quán các tội lỗi của tự thân; Ba là thương xót chúng sanh; Bốn là cầu quả tối thắng, tức quả Phật.” Nhờ có bốn nhân duyên kia mà tâm bồ đề thêm kiên cố [5] Trong Đại Trí Độ Luận có nói “Bậc Bồ Tát luôn có tâm dõng mãnh bất thoái ở giữa chúng sinh khởi đại bi tâm thành lập Đại thừa, thực hành đại đạo, thuyết Pháp phá trừ đại tà kiến, đại phiền não, đại ái mạn, đại ngã tâm cho mình và hết thảy chúng sinh” Đó là tâm “Đại Bi” của Bồ Tát thật bao la rộng lớn hạnh nguyện của Ngài vô cùng tận. “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi” Vì thế trong Phổ Môn phẩm 25 trong Kinh Pháp Hoa: Phật mới bảo:“Hỡi này nam tử Có chúng sanh quốc độ xa gần Muốn cầu thân Phật độ dân Quán Âm liền hiện Phật thân hộ trì Cõi muốn được Bích Chi hóa độ Hiện Bích Chi vì đó giảng Kinh … … Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ Tát, Thành tựu phần công đức oai linh Thần thông hiện các thân hình Dạo cùng khắp cõi độ sinh thoát nàn” Bồ Tát hành Bồ tát đạo dùng vô số phương tiện quyền xảo để phù hợp căn cơ của mỗi chúng sinh hóa độ (thiên thủ = nghìn tay chỉ cho phương tiện, hay công hạnh) còn nghìn mắt là chỉ cho Trí tuệ thậm thâm của Bồ Tát để thấu hiểu hết thảy các Pháp, độ tận hết thảy chúng sinh. Nếu còn một chúng sinh đau khổ, Bồ Tát thệ nguyện không thành Vô thượng Bồ đề như Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã phát nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” Có nghĩa là Địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ-đề. Khi đức Phật hỏi ngài Địa Tạng đã bạch Phật rằng: “con ở trong cõi đời xấu ác này độ sanh, nhưng vẫn cảm thấy an lạc như đang an trú trong cảnh giới Niết Bàn.” Phẩm chất của Bồ Tát: Tinh thần là Trí tuệ (nghìn mắt), Sức mạnh là Thiền định, Sắc thái Đại từ bi (nghìn tay) Bồ Tát có ba sắc thái này thì hành Bồ Tát đạo đạt đến chỗ “vô ngại” Khi vị Bồ Tát có đại bi thì cũng đạt được đại trí tuệ (nghìn mắt nằm trong nghìn cánh tay.) Trí tuệ và từ bi là hai diệu tánh của Bồ Tát Quan Thế Âm để độ sanh. Khi Ngài có đầy đủ hai đức Đại bi, và Đại trí thì trên con đường độ sinh tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ viên mãn (vô ngại). “Tự tại tiêu dao suốt tháng ngày, Tùy duyên phóng khoáng cõi trần ai, Rửa sạch lòng trần đầy nhiễm uế Cuộc đời chi sá bận tâm đâu” [6] Đó là ý nghĩa: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi” Hạnh Nguyện khác nhau của Bồ Tát: lấy “Hạnh” để hóa độ chúng sinh gọi là “Đại Hạnh” Phổ Hiền Bồ Tát lấy “Nguyện” để độ sinh như “Đại Nguyện” Địa Tạng Vương Bồ Tát lấy “Đại Hùng”, “Đại Lực” để làm động cơ thú đẩy độ sinh như “Đại Hùng”, “Đại Lực” Đại Thế Chí Bồ Tát Lấy “Trí làm yếu chỉ như “Đại Trí” Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Lấy Đại Từ, Đại Bi để hóa độ chúng sinh gọi “Đại Từ” “Đại Bi” Quan Thế Âm Bồ Tát Hình Tướng khác nhau của Bồ Tát: Hình tướng xuất gia: Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát Hình tướng tại gia: Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát. Hạnh nguyện của quý Ngài độ sinh ở trần gian, Tinh thần nhập thế nên hiện tướng tại gia, để hòa vào thế gian độ sinh vì lòng từ bi. Hành động vị tha ấy trong Đại Thừa gọi là: “Vô Công Dụng Hạnh-Anābhoga) tức là hành động không dụng công không vì mục đích tư lợi, chính vì lòng từ bi trí tuệ như thế giúp cho hàng Bồ Tát có được tâm vô phân biệt. Hàng Bồ Tát tu diệt hết phiền não và đạt đến vô sanh pháp nhẫn, đạt đến vô ngã, không còn chấp vào hình tướng, nên hình tướng xuất gia hay tại gia, có tóc hay không có tóc điều đó không quan trọng (tóc = phiền não) Riêng Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát vì hạnh nguyện độ chúng sinh ở Địa ngục, ở trong địa ngục không có Tam bảo, Chúng sinh thọ quả báo đau khổ khi nhìn hình tướng Ngài Địa Tạng là hình tướng xuất gia đầu tròn áo vuông, giúp cho phạm nhân khi nhìn Ngài để phát khởi tâm Bồ Đề, giác ngộ nghiệp ác của mình đã tạo và quy hướng Tam bảo, phát lồ sám hối thoát khỏi địa ngục. Trong Phật giáo mục đích duy nhất: “Duy tuệ thị nghiệp = lấy trí tuệ làm sự nghiệp” Tức là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Đại trí biểu trưng cho sự nghiệp. Nhưng ít Phật tử nhắc đến Ngài Văn Thù Sư Lợi, Ngài Thế Chí, Ngài Phổ Hiền. Bởi vì Phật tử chủ yếu tín ngưỡng Ngài Quan Thế Âm và Ngài Địa Tạng. Bởi vì Đại hạnh, Đại Nguyện, Đại Lực hay Đại Trí cũng đặt trên nền tảng là Đại Bi. Đại bi là lẽ sống là hạnh nguyện độ sinh, trái tim của Bồ tát đau quằng quại khi nhìn thấy chúng sinh đau khổ biết bao tiếng rên xiết trong địa ngục, trong đêm trường sinh tử. Vì vậy, chư vị Bồ tát hóa thân vào Địa Ngục để độ sinh như ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát vì lòng đại từ, đại bi không ngần ngại (vô ngại) Hoặc như Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân thành Tiêu Diện vào cảnh giới Ngã quỷ để độ chúng ma mà không có một chút ngần ngại nào cả, cho nên Bồ Tát có 32 ứng hóa thân là để tùy thuận chúng sinh mà hóa độ. Trái tim Bồ Tát luôn tuần hành nhịp nhàng, trong sáng, thanh tịnh không vướng vào “tự ngã,” đạt đến sự vô phân biệt, không có ranh giới, tâm từ bi ấy thể hiện tính bình đẳng giữa mọi người, như mặt trăng không phân biệt quốc gia nào. Nó luôn vận hành liên tục để tỏa sáng trong đêm trường. Đó là ý nghĩa câu Chú Đại Bi: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi” Phần Mật: Của Chú Đại Bi Từ câu: “Tâm đà la ni” cho đến câu 84. “Ta bà ha” là phần ẩn nghĩa, hàng phàm phu không có hiểu được Phần này, chỉ có chư Phật mới hiểu. Như vậy, phần hiển là để chúng ta hiểu nghĩa công dụng lợi ích của Kinh, Chú mà hành trì. Còn phần mật hành trì để tâm chúng ta thanh tịnh và an lạc (vô ngại) niệm Chú Đại Bi là đọc xưng danh hiệu của 84 vị Hộ Pháp Kim Cang Thần hóa thân của ngài Quan Thế Âm Bồ Tát để đối trị tiêu diệt 84 phiền não chướng tư hoặc và lậu hoặc. Tuy thần chú là những lời nói nhiệm mầu, bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát ta khó thể lãnh hội được nội dung, ý nghĩa. Nhưng phần hiển là phần giúp hành giả hiểu rõ công năng và lợi ích cho việc hành trì Chú Đại Bi. Khi hành trì chú Đại Bi để đạt quả vị Vô thượng Bồ đề đòi hỏi hành giả phải: Tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm đạt đến vô niệm, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không, tâm phải cung kính, tâm biết khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không cố chấp, phát tâm Vô thượng Bồ đề. Công năng lợi ích hành trì Kinh, Chú: Ngài Tuyên Hóa dạy rằng: Người trì kinh, chú sẽ được ba nghiệp thanh tịnh, khi ba nghiệp lắng đọng thì trí huệ sinh (nhân định tức huệ) đồng Phật vãng Tây Phương 1. Thân ngồi ngay thẳng trước Phật là thân thanh tịnh 2. Miệng không nói dối, không đùa giỡn là khẩu nghiệp thanh tịnh 3. Ý không tán loạn, không phan duyên đó là ý nghiệp thanh tịnh “Mỗi niệm chân thành mỗi niệm thông Tịch lặng cảm ứng tịch lặng trong Cho đến non cao nước cùng tận Rong chơi pháp giới khắp Tây Đông” Niệm Kinh Chú mục đích nhiếp phục tam nghiệp hằng thanh tịnh để trừ được ba ác nghiệp thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp 1. Thân nghiệp gồm ba: (Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm) 2. Khẩu nghiệp có bốn: (Không nói dối, không nói ác khẩu, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêu dệt” 3. Ý nghiệp có ba: Tham, sân, si. Như vậy niệm Kinh, niệm Chú, niệm Phật cũng đều mục đích như nhau để tam nghiệp hằng thanh tịnh. Khi tâm mình thanh tịnh tức tâm bình, tâm bình tạo ra thế giới bình “tướng tự tâm sanh,” mây tan thì trăng tự nhiên hiển bày tỏa sáng. Khi chúng ta niệm chú một cách nhất tâm thì sẽ đoạn trừ được phiền não. Kinh chú của Phật, tất cả mọi người có thể trì, nhưng muốn được lợi lạc trong khi tụng Kinh trì Chú người Phật tử cố gắng giữ tam nghiệp thanh, giữ giới dứt các điều ác làm các việc lành mới được công đức tốt đẹp, hành giả có thể áp dụng theo phương cách trì tụng Chú Đại Bi như sau, tùy theo căn cơ mỗi người mà hành trì để có hiệu quả. Cách trì Chú Đại Bi có nhiều cách: *Tụng nhanh, lớn tiếng: Đọc rõ ràng, âm thanh trầm hùng, mục đích khỏi buồn ngủ tránh giải đãi, tránh tâm tán loạn. Nhờ âm thanh trầm hùng đó tạo nên sự mầu nhiệm đánh thức tâm Bồ đề của mình và những người xung quanh. Cho nên khi tụng Chú Đại Bi trong Đại chúng, bao giờ cái tâm của mình cũng phấn khởi, nghe mầu nhiệm hơn là tụng một mình. Cách tụng này dễ dàng cho những người mới hành trì Chú Đại Bi *Niệm thầm: Chữ niệm được ghép hai chữ kim có nghĩa hiện tại, bây giờ. Nó được nằm trên chữ tâm, như vậy chữ niệm là cái gì đó hiện diện nay trên một khoảnh khắc của ý thức Phật giáo gọi là sát na, vì thế niệm thầm còn gọi là: “Duy niệm” tức là niệm không ra tiếng, ngồi niệm bằng cách tư duy quán tưởng nhớ nghĩ từng câu chú ngay lúc đó, cách niệm này rất khó cho những người mới tập niệm, dễ sinh chán nản, buồn ngủ và giải đãi, tâm dễ tán loạn khó hành trì, cách niệm này dành cho những vị hành trì lâu năm Hai cách niệm trên là còn niệm tướng, còn thấy người niệm và câu Chú Đại Bi để niệm, cách niệm này gọi là phương tiện niệm, nhờ phương tiện niệm để đạt đến trạng thái tâm vô niệm, là xa lìa tất cả tướng, không trụ vào bất kỳ hình tướng nào để tâm thanh tịnh, thì trí tuệ mới hiển bày. Cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi không cần ngón tay chỉ nữa, tức dùng sự đạt lý, qua sông thì cần chiếc bè để qua, qua rồi chúng ta không nên chấp chiếc bè, vì thế đức Phật dạy “Chư Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy” (Trung Bộ Kinh 1, Kinh Ví Dụ Con Rắn, trang 305). *Niệm vô niệm niệm Đồng nghĩa vô niệm tức là niệm, “vô niệm” có hai ý “vô tướng” và “vô trụ” vì thế Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói: “Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng Vô niệm là ngay nơi niệm mà lìa niệm Vô Trụ là bản tính của con người” [7] Tức là hành giả đừng để tâm mình bị ô nhiễm tức phan duyên theo “trần cảnh”* tức là ngay lúc niệm của mình thường lìa cách cảnh, đừng để tâm mình lay động chạy theo trần cảnh, niệm là niệm bản thể của tâm “Chân Như” đó là chơn niệm, quán tưởng kỳ danh’ quán tưởng 84 câu chú Đại bi (niệm trong tâm), niệm mãi, niệm hoài đến khi trong óc, rồi trong tâm luôn có niệm, nhưng về cơ thể thì ‘vô niệm.’ Khi đầy tâm rồi thì mỗi cử động của Tâm đều là niệm (niệm nhập tâm) Thế là niệm đến chỗ vô niệm: thì bấy giờ đạt đến trạng thái nhất tâm bất loạn. Đó là chơn niệm vậy Như vậy, niệm Chú Đại Bi là mình luôn luôn nhớ cái tâm đại từ, đại bi của mình là niệm (Phật tính) trong tứ oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, đều trong chánh niệm đều nghĩ đến Phật, chúng ta không tạo nghiệp bất thiện như không sát sinh giết người hại vật, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không tham, không sân, không si…thì chắc chắn trong cuộc sống của chúng luôn luôn an lạc, không sợ hãi, không gặp chướng ngại (vô ngại). T. Trí Giải nguồn nguoiaolam
  5. Xác nhận có 1,500,000 đ (một triệu năm trăm ngàn đồng) ủng hộ Quỹ từ thiện và đóng góp cho Vp Điều Hành. Quỹ hiện có : 2,200,000 đ + 1,500,000 đ = 3,700,000 đ (ba triêu bảy trăm ngàn đồng)
  6. Hiểu đúng về viêm đường tiết niệu Khoảng 20-40% phụ nữ từng bị viêm đường tiết niệu. Vậy, bạn hiểu về bệnh này đến đâu? Viêm bàng quang là một phần của viêm đường tiết niệu? Đúng. Người ta phân chia thành 3 loại viêm đường tiết niệu: viêm niệu đạo, viêm bàng quang, viêm thận. Vi khuẩn là nguyên nhân chính gây viêm đường tiết niệu? Đúng. Phần lớn viêm đường tiết niệu do vi khuẩn xâm nhập vào đường niệu. Đại đa số các trường hợp do vi khuẩn có tên gọi “Escherichia coli” gây ra. Viêm đường tiết niệu không gây hại? Sai. Mức độ nguy hiểm phụ thuộc vào cơ quan bị viêm. Nếu vi khuẩn “đóng quân” ở bàng quang, tức viêm bàng quang, việc viêm nhiễm không mấy nghiêm trọng. Nhưng nếu vi khuẩn “xâm nhập” tới thận, tức viêm thận, tính chất viêm nhiễm trong trường hợp này lại trở nên nghiêm trọng và cần phải đi khám ngay lập tức để được điều trị kịp thời. Quan hệ tình dục tăng nguy cơ viêm đường tiết niệu? Đúng. Đây chính là lý do tại sao nên đi tiểu ngay sau khi quan hệ tình dục để loại bỏ vi khuẩn có thể xâm nhập vào bên trong. Bao cao su cũng là một biện pháp phòng tránh cần thiết nhất là với các cuộc tình “một đêm” hay quan hệ không có chủ định trước. Tiểu đường tăng nguy cơ viêm đường tiết niệu? Đúng. Bệnh tiểu đường với sự tăng cao đường trong máu sẽ kích thích sự phát triển của vi khuẩn viêm nhiễm và nấm, gây ra viêm đường tiết niệu và viêm da. Viêm bàng quang tự khỏi? Đúng. Tuy nhiên, vẫn cần điều trị với kháng sinh để chắc chắn rằng viêm nhiễm hoàn toàn biến mất và hạn chế các nguy cơ tái nhiễm bệnh. Chữa trị viêm đường tiết niệu cần đến thuốc giảm đau? Sai. Viêm đường tiết niệu không cần thuốc giảm đau mà chỉ cần thuốc kháng sinh vì nguyên nhân chính gây bệnh là do vi khuẩn. Chỉ phụ nữ mới bị viêm đường tiết niệu? Mặc dù đại đa số bệnh nhân viêm đường tiết niệu là nữ nhưng không vì thế mà không có bệnh nhân nam. Đặc biệt, nguy cơ viêm đường tiết niệu ở nam giới sẽ tăng theo tuổi tác. Vitamin C ngăn ngừa viêm bàng quang? Đúng. Vitamin C tăng axit trong nước tiểu, vì thế, hạn chế được sự bùng phát của các loại vi khuẩn. Theo Khiết Linh Dân Trí
  7. Gần đây nhiều phát ngôn chính thức của cơ quan điều tra cho rằng hung thủ Luyện gây án 1 mình và phù hợp với hiện trường, dù rất nhiều tiếng nói phân tích logic trong đó có luật gia Phạm Thanh Bình xác định không thể không có sự góp sức của đồng phạm. Cá nhân tôi đồng tình với ý kiến của các chuyên gia và dư luận, kết hợp với sự bình tĩnh đối mặt với pháp luật của Luyện tôi có suy luận như sau : bản thân Luyện đã được cũng cố tư tưởng và kịch bản hoàn hảo đến mức sự sợ hãi hay hối hận của Luyện gần như không có. Để trả lời câu hỏi này Wild ra được quẻ : Sinh lưu niên.
  8. Nhờ cái sai của facebook ACE biết ngày sinh của SP, để sửa cái sai này chúng ta off 1 chầu hoành tráng để chúc mừng Sp đi nhỉ ? Ai ủng hộ post vào nhé!
  9. PHƯƠNG PHÁP THỞ LÀM HẠ ÁP HUYẾT SAU 5 PHÚT. Một món qùa tặng dành cho những bệnh nhân cao áp huyết trên thế giới : PHƯƠNG PHÁP THỞ LÀM HẠ ÁP HUYẾT SAU 5 PHÚT. Đỗ đức Ngọc Vì nhận thấy rằng bệnh Cao áp huyết không được theo dõi và kiểm soát thường xuyên mỗi ngày, sẽ đem lại hậu quả tai biến mạch máu não gây tử vong hoặc tê liệt bán thân bất toại cho nhiều người, đã làm cho mọi người phải lo lắng sợ hãi, nên chúng tôi đã nghiên cứu và thực tập thành công một phương pháp thở làm hạ áp huyết sau 5 phút để cống hiến cho qúy vị bệnh nhân bị bệnh cao áp huyết trên toàn thế giới biết cách kiểm soát được áp huyết của mình ngỏ hầu thoát khỏi được căn bệnh nan y này. 1-Cách tập thở và dụng cụ cần thiết trong khi tập: Chúng ta cần một máy đo áp huyết (hiệu microlife tiện lợi hơn), một cây đèn cầy (nến).Qúy vị ngồi vào bàn, đặt đèn cầy được thắp sáng, cách 60cm. Dùng máy đo áp huyết bên tay trái, đo áp huyết trước khi tập thở (thí dụ áp huyết đo được 185/120mmHg). Tắt máy và giữ nguyên máy đo ở tay. Hai tay đặt trên bàn tự nhiên, người ngồi trong tư thế thoải mái. Tưởng tượng cây đèn cầy đang cắm trên bánh sinh nhật trong một bữa tiệc mà mọi người khách đang ngồi chung quanh. Chúng ta thở hơi ra đều đặn, đủ để thổi cho ngọn lửa đèn cầy lung lay liên tục như gặp gió nhưng không tắt, và tập hơi thở làm sao mà không cố sức, bụng không gò cứng, không nâng ngực, nâng vai, nhất là không cho mọi người biết là mình đang thổi ngọn đèn cầy. Khi thổi vào ngọn đèn cầy khoảng 6-10 hơi, thì bắt đầu bấm máy đo áp huyết, rồi vẫn tiếp tục thổi hơi ra đều đều cho đến khi máy ngưng, xem áp huyết xuống được bao nhiêu, nếu thở đúng, áp huyết sẽ xuống ngay (thí dụ 120/70mmHg), thở chưa đúng lắm, áp huyết xuống chậm (thí dụ 170/100mmHg hoặc 160/100mmHg). Tắt máy đo, lập lại cách thở như trên một lần nữa rồi đo lại, áp huyết sẽ xuống tiếp ( thí dụ 140/90mmHg). Tắt máy đo, lập lại lần thứ ba, áp huyết sẽ xuống đến mức lý tưởng của người không bị bệnh ( thí dụ 120/80mmHg). Nếu cứ tiếp tục thở như trên, có thể áp huyết xuống thấp nhất dưới 100/60mmHg, nhưng có một điều lạ chỉ hơi choáng váng, rồi không cần tập thở nữa, đo lại áp huyết sẽ giữ ở mức trung bình, thí dụ như 120/75mmHg chẳng hạn, nó không bị nguy hiểm giống như trường hợp uống thuốc bị tụt áp huyết làm mệt, chóng mặt xây xẩm. 2-Trên đây là phương pháp căn bản để hướng dẫn qúy vị biết cách tập thở làm hạ áp huyết sau 5 phút tập luyện. Đã có người hỏi tôi rằng, áp huyết được ổn định bao lâu, nếu không uống thuốc áp huyết lên lại thì sao ? Để tránh tình trạng áp huyết lên trở lại, chúng ta không cần phải tập một ngày 2-3 lần với máy đo, với đèn cầy nữa, mà khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, thay vì khi chúng ta vui vẻ chúng ta huýt sáo, thì chúng ta tập thổi hơi ra suốt ngày, đó là cách tập thở khí công, chứ không cần phải đợi khi áp huyết lên cao mới tập thở, được như thế, áp huyết của qúy vị lúc nào cũng được ổn định, tránh được bệnh căng thẳng thần kinh (stress), nhức đầu, chóng mặt, đi lảo đảo, đau nhức chân tay, đau cổ gáy vai, mất ngủ, ăn uống không tiêu, táo bón. Cuối cùng, cũng xin qúy vị nên tham khảo với bác sĩ gia đình của mình để xem có cần uống thuốc hay thay đổi liều thuốc hay không để tránh bị phản ứng phụ của thuốc . 3-Nguồn gốc của phương pháp làm hạ áp huyết sau 5 phút, được rút ra từ kinh nghiệm văn hóa cổ truyền Việt Nam. Khi những người dân quê thổi bếp lửa để nấu cơm, họ nhóm lửa và thổi lửa làm sao cho ngọn lửa mau cháy nhanh, và thổi 20-30 hơi không bị mệt, đó chính là cách làm hạ áp huyết, cho nên họ không bao giờ bị bệnh cao áp huyết. Nếu qúy vị không biết tập thổi ngọn đèn cầy, qúy vị thử thổi mạnh 20-30 hơi như những người thổi bếp lửa thì áp huyết cũng xuống dưới mức bình thường ngay, nhưng sau đó nhịp tim sẽ đập rất mạnh trên 100, xuất mồ hôi trán và xây xẩm, còn tập thở khí công là một phương pháp luyện hơi thở nhẹ nhàng đều đặn, có lợi ích tăng cường sức khỏe, tăng hồng cầu và sức đề kháng của cơ thể hơn là những người không tập luyện. Mức độ áp huyết CategorySystolic (mm Hg) Diastolic (mm Hg)Blood Pressure Reading (mm Hg)Bình thường- Normal**dưới 120 vàdưới 80dưới120/80Tiền cao áp120-139or80-89120/80 - 139/89Cao áp thời kỳ 1140-159or90-99140/90 - 159/99Cao áp thời kỳ 2160+or100 +160/100 + Đây là một món qùa của Khí công y đạo Việt Nam dành cho qúy vị bị bệnh cao áp huyết trên toàn thế giới, chúc qúy vị tập luyện có kết qủa, và không còn sợ hãi bị bệnh cao áp huyết nữa. Nếu qúy vị nhận thấy phương pháp này có lợi ích thiết thực cho nhiều người, xin qúy vị vui lòng hướng dẫn cho những vị trong Hội Cao Niên, Hội Rồng Vàng, Hội Người Gìa, hoặc dịch ra các ngôn ngữ địa phương nơi qúy vị cư ngụ, để truyền bá phổ biến rộng rãi trên báo chí cho mọi người, đó cũng là một công tác từ thiện cứu người vậy.
  10. Chào bạn! Trung tâm và cá nhân Wild sẵn lòng trao tặng tất cả mọi người (dù có tốn phí gởi bảo đảm qua Bưu Điện), sao bạn không sẵn sàng cho địa chỉ để được nhận vì khi khởi tâm ấn tống Thần Chú chúng tôi phải thực hiện tuần tự sự gia trì của Thánh Tăng của các bạn tham gia hoàn thành in ấn vô bao bì để hoàn chỉnh 1 bản chú chỉ với mong muốn mọi người nhận được lợi lạc từ nơi ấy !
  11. Có nhận của Bác Lãn Miên 1,000,000 đ (một triệu đồng) ủng hộ từ thiện. Quỹ hiện có : 1,200,000 đ + 1,000,000 đ = 2,200,000 đ (hai triệu hai trăm ngàn đồng)
  12. 'Luyện không thể là thủ phạm duy nhất cướp tiệm vàng' Thạc sĩ luật học Phạm Thanh Bình đánh giá, nếu việc giết hại gia đình chủ tiệm vàng Ngọc Bích diễn ra đúng như lời khai của nghi can Lê Văn Luyện thì việc hắn nhận là thủ phạm duy nhất "hoàn toàn không có cơ sở". Với gần 20 năm kinh nghiệm làm việc tại tòa hình sự TAND Tối cao, luật sư Bình cho biết ông nhận thấy nhiều điểm mâu thuẫn trong lời khai của nghi can Lê Văn Luyện trong những ngày qua. Tại cơ quan điều tra Luyện khai khoảng 2h ngày 24/8, hắn trèo theo cây trước cửa nhà bán bánh mì (cạnh tiệm vàng Ngọc Bích) để lên mái tôn rồi tiếp tục đu lên ban công tầng 3, cậy cửa rồi lọt vào nhà. Luyện ngắt điện camera và thiết bị báo động. Sau 3 giờ ẩn nấp, thấy anh Trịnh Thành Ngọc (chủ tiệm vàng, 37 tuổi) lên phơi quần áo, hắn đã rút dao đâm trúng ngực... Ông Bình phân tích, vào mùa hè lúc 5h30 trời đã sáng nên nhiều gia đình hàng xóm có thể đã thức dậy. Hơn nữa ở vùng quê vào ban sáng thường yên tĩnh, khu vực xảy ra vụ án nhà cửa san sát, theo tâm lý bình thường khi anh Ngọc bị Luyện đâm chắc chắn "phải có sự giằng co, chống trả". Luyện còn thừa nhận trong lúc đánh nhau với anh Ngọc thì chị Chín (vợ anh Ngọc) chạy lên tầng và phát hiện. "Chẳng lẽ lúc đó, người vợ lại không tri hô?", ông nêu giả thiết. Tiệm vàng Ngọc Bích nằm trên con phố buôn bán sầm uất tại huyện Lục Nam, Bắc Giang. Ảnh: Tiến Dũng Theo ông, một mình Luyện giết hại dã man 3 thành viên của gia đình anh Ngọc; chặt đứt bàn tay bé Bích (con gái lớn nạn nhân) mà hàng xóm không "phát hiện hoặc nghe thấy tiếng động gì từ ngôi nhà này là điều vô lý". Ông đặc biệt lưu tâm đến thông tin cháu Bích nói với người nhà lúc trên đường đi cấp cứu rằng "thấy hai người đầu xanh đầu đỏ". "Cháu Bích có thể nhìn thấy cả màu tóc, chứng tỏ thời điểm đó trời đã sáng và cô bé không thể nhầm lẫn được", ông nói. Từ những phân tích trên, luật sư cho rằng một thanh niên chưa tròn 18 tuổi, vóc dáng nhỏ như Luyện không thể một mình lọt vào tiệm vàng và hành động một cách "bài bản" như vậy. “Tôi cho rằng phải có thêm người tham gia gây án cùng Luyện thì mới có thể sát hại tới 4 người, ung dung cậy mặt kính tủ trưng bày trang sức, cướp hết vàng ta rồi tẩu thoát”, ông nhận định. Lê Văn Luyện khi bị bắt đã hỏi cảnh sát: "Tội cháu có chết không các chú". Theo ông Bình, với việc đột nhập vào nhà bằng cạy cửa ở lan can tầng 3, thông thạo vị trí bên trong, lại biết các chỗ để ngắt điện camera cùng hệ thống báo động thì với một thanh niên nông thôn mới học hết cấp 2, đi làm thợ hồ như Luyện là "điều rất phi lý". Một cách hành xử nữa của Luyện được ông Bình cho rằng không bình thường, đó là "khi gây án trong nhà nạn nhân, hắn tỏ ra chuyên nghiệp bao nhiêu thì lúc thoát ra ngoài lại ngô nghê bấy nhiêu”. Luật sư phân tích, với tâm lý tội phạm thông thường, sau khi gây án hung thủ phải đi một nơi xa để băng bó vết thương ở ngón tay, vì biết chỉ một vết máu lạ, cảnh sát cũng có thể truy tìm ra. Tuy nhiên, Luyện không làm như vậy. Anh ta khai đã đi bộ ra ngoài đường, đứng chờ người thân đến đón đưa đến trạm xá gần nhà băng bó vết thương và lại khai đầy đủ tên thật trong sổ theo dõi. Theo lời khai của Luyện, do cần tiền nên chọn tiệm vàng Ngọc Bích làm ăn phát đạt tại địa phương để ra tay. Nhưng theo nhận định của vị luật sư nhiều năm kinh nghiệm này thì mục đích của hắn không phải là cướp. "Nếu chỉ có ý định ăn trộm, cướp thì sau khi đột nhập nhân lúc vợ chồng gia chủ đang ngủ hắn phải nhanh tay cuỗm vàng rồi tẩu thoát nhanh chóng. Nhưng ở đây, Luyện khai hắn nấp ở trong nhà hẳn 3 tiếng chờ vợ chồng chủ tiệm thức giấc để sát hại họ rồi mới cuỗm vàng?", ông nói. Ông bảo tâm lý thông thường của kẻ trộm ít khi dùng vũ lực với chủ nhà mà chỉ ra tay khi hành tung bị phát hiện, ngăn chặn. "Đằng này anh ta chờ giết người, sau đó mới thực hiện việc cướp của. Nếu như diễn biến sự việc theo đúng lời khai thì không phù hợp với diễn biến tâm lý của kẻ ăn trộm cướp", ông nhìn nhận. Từ những đánh giá trên, luật sư Bình cho rằng Luyện vào nhà anh Ngọc với mục đích giết người, cướp tài sản. Theo ông, cơ quan chức năng cần làm rõ những mâu thuẫn trong lời khai của Luyện để xác minh sự thật của vụ án. Để thẩm định lời khai có phù hợp với chứng cứ, dấu vết hiện trường, cơ quan công an cần dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra vụ án. Anh Thư
  13. Bã cà phê cũng có nhiều công dụng Khi bỏ bã cà phê vào thùng rác, nó giống như bất kỳ chất hữu cơ nào khác sẽ giải phóng mêtan, chất khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn 20 lần so với khí CO2. Hơn nữa, bã cà phê khi phơi khô 1-2 nắng còn nhiều cách tái sử dụng ích lợi hơn nhiều. Bã cà phê giúp chăm sóc vườn tược rất tốt, nó có thể trộn lẫn với các loại phân bón có sẵn hoặc dùng để bón cho cây ưa axit như cà chua, cà rốt… Công dụng khử mùi hôi của cà phê khá đa dạng: Từ việc rửa tay sau khi thái tỏi, thực phẩm có mùi mạnh hay cho chúng vào tủ lạnh hoặc tủ đá để loại bỏ mùi hôi; rồi đánh sạch lớp mỡ trên chậu và chảo trong bếp đến việc bỏ một gói bã cà phê khô vào giầy để tránh mùi hôi chân. Mùi cà phê khô với con người là thơm nhưng lại “khó chịu” với một số động vật, vì thế muốn chặn mèo ở phòng nào cứ rắc bã cà phê xung quanh. Cách này cũng hiệu quả tương tự khi muốn chặn kiến, ốc sên vào nhà. Về tác dụng làm đẹp, trộn bã cà phê với bơ nghiền nát sẽ được hỗn hợp đắp mặt nạ rất tốt. Nhiều người còn sử dụng bã cà phê để tẩy tế bào da chết. Còn nếu tóc bạn đen, có thể massage bã cà phê trên da đầu để ngăn ngừa gàu. Hải Yến
  14. Bi hài chuyện "con thần nước tái sinh" Sau những cuộc mua vui, dấu tích của thần Aul để lại là những đứa con sinh ra khác thường: Người trắng hoàn toàn từ tóc, da cho đến lông mi, lông mày. Những đứa trẻ này sinh ra, người Cơtu gọi đó là những đứa con của thần A'ul. Từ bao đời, người Cơtu sinh sống trên dãy Trường Sơn hùng vỹ vẫn kể cho con cháu nghe những câu chuyện ly kỳ về thần A'ul - vị thần nước có uy quyền với khả năng siêu đẳng, có thể tìm gặp con người thông qua những giấc mơ.Cũng theo truyền thuyết thì, những đêm có trăng, trời thanh gió mát, thần A'ul thường xuất hiện, tìm về đến nhà người mà thần đã trót lòng thương nhớ. Sau những cuộc mua vui, dấu tích của thần Aul để lại là những đứa con sinh ra khác thường: Người trắng hoàn toàn từ tóc, da cho đến lông mi, lông mày. Những đứa trẻ này sinh ra, người Cơtu gọi đó là những đứa con của thần A'ul. Thời gian gần đây có không ít lời đồn thổi về một trường hợp được cho là con của thần A'ul xuất hiện làng Gừng, thị trấn Prao (huyện Đông Giang, Quảng Nam). Chúng tôi đã băng rừng lội suối khắp những vùng có người Cơtu sinh sống và đến tận làng Prao để tìm hiểu thực hư. Từ truyền thuyết về vị thần quyền năng Từ TP. Đà Nẵng, dọc theo hơn 100km đường xuyên giữa rừng núi của tỉnh lộ ĐT 604, những bản làng của đồng bào Cơtu ẩn nấp dưới các chân núi giữa lưng chừng trời. Nơi đây, những câu chuyện ly kỳ về thần A'ul vẫn được người dân lưu truyền. Bên ánh lửa bập bùng, câu chuyện về thần A'ul được già làng kể cho con cháu nghe cứ thế kéo dài đến khi ngọn lửa vụt tắt trong màn đêm tĩnh mịch. Vừa đặt chân đến các bản làng của đồng bào Cơtu ở huyện miền núi Đông Giang (Quảng Nam), câu chuyện về thần A'ul huyền bí, ly kỳ qua lời kể của đồng bào khiến chúng tôi tò mò, như bị cuốn hút. Khi chúng tôi đặt vấn đề muốn được tận mắt chứng kiến nơi ở của thần A'ul thì ngay lập tức, một người đàn ông đã ngoài 50 tuổi xua tay bảo: "Anh định đùa à? Đồng bào ở đây không ai dám nói chuyện như thế vì sợ thần A'ul nghe được, phiền phức lắm! Nghe đâu, nơi ở của thần nằm sâu dưới lòng đất, chỗ có mạch nước ngầm"! Những bậc cao niên người Cơtu thì khẳng định rằng, thần A'ul vẫn tồn tại trong thế giới siêu nhiên, người phàm không thể nhận thấy được. Tuy nhiên, chỉ với những người (thường là phụ nữ), khi thần A'ul cho gặp, họ sẽ thấy được thần thông qua giấc mộng (!?). Theo một số già làng Cơtu, những đêm có trăng, trời thanh gió mát, thần A'ul thường xuất hiện, tìm về đến nhà người phụ nữ mà thần đã trót lòng thương nhớ. Sau cuộc mặn nồng, "dấu tích" của thần để lại là những đứa con sinh ra khác thường: Người trắng hoàn toàn từ tóc, da cho đến lông mi, lông mày. Những đứa trẻ này sinh ra, người Cơtu gọi đó là những đứa con của thần A'ul (!). Bên ánh lửa bập bùng, những câu chuyện về thần Aul được già làng kể cho con cháu nghe Em Atinh Thái (ở giữa) đang đùa vui bên những đứa em của mình. Theo người Cơtu, ở những nơi gần sông suối, thác ghềnh là chỗ sinh sống của thần Aul. Trong chuyến công tác lên vùng cao Đông Giang này, chúng tôi tìm gặp già làng Bhriu Prăm (86 tuổi, nguyên Chủ tịch UBND huyện Đông Giang; nguyên ĐBQH khóa VI, VII, VIII), hiện đang sinh sống tại thôn Bhờ Hồng 1, xã Sông Kôn, huyện Đông Giang - người được mệnh danh là nhà Cơtu học để nhờ ông giải mã về câu chuyện thần nước. Già Prăm xác nhận, câu chuyện về thần A'ul đã có từ rất lâu đời trong cuộc sống của đồng bào Cơtu. Theo quan niệm của đồng bào Cơtu, A'ul không phải là ma hay một thứ thần thánh gì, mà đó là một dạng người, sống ở gần bờ sông, dưới lòng đất. Theo quan niệm, A'ul có hai dạng, một là dạng thấy được (nguyên hình -PV) và dạng không thấy được (hồn vía). "Do đó, có thể được xem A'ul như một người ngoài hành tinh khác", già Prăm cho biết. Theo già Prăm, lần đầu tiên nghe kể về thần A'ul, già cũng không tin bởi đó hoàn toàn là những câu chuyện không có thật, gây mê tín dị đoan. Già Prăm cho biết, lúc còn làm lãnh đạo huyện, già cũng đã có cuộc nói chuyện với đồng bào về việc không nên tin vào những chuyện mê tín dị đoan, viển vông, không có cơ sở khoa học nhưng rất khó vì những câu chuyện như nằm sâu trong tiềm thức của họ khiến họ tin. Già kể, cách đây mấy năm, người em trai của ông vào rừng bỗng trở về báo tin đã vô tình gặp thần A'ul trong rừng sâu với mái tóc trắng dài, da trắng, cao lêu nghêu khiến cả làng lo sợ. Câu chuyện tưởng như đùa nhưng theo già Prăm thì mấy chuyện như thế này, dù biết là không có căn cứ nhưng rất khó thuyết phục bà con rằng đó là một hiện tượng mê tín theo tín ngưỡng. Thậm chí ngay cả người thân của mình cũng rất khó để giảng giải cho họ hiểu sự thiếu khoa học của vấn đề này. Già Prăm cũng nói thêm, những câu chuyện ly kỳ về thần A'ul vẫn tiếp tục được lưu truyền, thêu dệt, nhưng những người cho là đã từng gặp thần A'ul rất ít và hầu như đều không đưa được bằng chứng thuyết phục cho những lời kể của mình. Tuy nhiên, vì tín ngưỡng lâu năm nên bà con đều tin vào những lời đồn thổi vô căn cứ đó! Đến những câu chuyện đồn thổi kỳ bí Bà Đinh Thị Ben, người dân tộc Cơtu, ở thôn Đào, xã Sông Kôn (huyện vùng cao Đông Giang, Quảng Nam) kể về thần A'ul thường xuất hiện trong căn nhà của một người thân của bà (!). Theo lời kể của bà Ben, mỗi đêm trăng, ngôi nhà của người thân của bà thường có những tiếng động kỳ lạ. "Tiếng leng keng như người gõ chén, tiếng lạo xạo như bàn chân người đi, diễn ra suốt đêm, khiến người nhà không thể chợp mắt. Có thể ở dưới nhà là nơi ở của thần A'ul. Do đó, mỗi đêm trăng, thần A'ul thường hiện về, khiến nhà cửa rung chuyển (!)",bà Ben nói.b Bà Ben khẳng định chắc nịch: "Mấy năm trước đây A'ul vẫn thường xuất hiện trong ngôi nhà của bác tôi. Nó không hiện hình nhưng ban đêm vẫn nghe tiếng động. Gần 3 năm nay, tôi không về thăm bên đó nữa, không biết bây giờ còn không?", bà Ben khẳng định. Theo bà Ben, ngôi nhà của người bác ở tận thôn Pà Nai, xã Tà Lu (huyện Đông Giang). Bà Ben còn kể thêm: "Gần chục năm trước, tất cả người thân trong gia đình đều ngạc nhiên khi thấy một vài vật dụng như: Bót, kem, bánh, kẹo, được đặt ngay chiếc bàn thờ tổ tiên, đúng vào dịp Tết Nguyên đán (?)Trong khi đó, phía dưới nền nhà cũng xuất hiện những nét chữ tượng hình nguệch ngoạc được tô bởi màu đỏ, giống như màu sơn. Vì lo sợ nên không một ai dám dùng những món quà đó của thần A'ul "! Hay như câu chuyện đồn thổi ngay tại thị trấn Prao, thủ phủ của huyện Đông Giang còn ly kỳ hơn. Theo một số người dân khu vực kể lại, mấy năm gần đây, một người phụ nữ tên N. không hiểu lý do gì mà bị đau ốm liên miên, sức khỏe ngày càng yếu ớt. Gia đình đã đưa đi chữa trị ở nhiều bệnh viện nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Thời gian sau, qua các giấc mộng, người phụ nữ này báo tin là mình bị thần ám. Theo như lời kể lại, thì ban đêm khi tất cả mọi người đều đã đi ngủ, thần A'ul thường về đến nhà của người phụ nữ đó, khiến mọi người hoang mang. Để canh cho người phụ nữ này hằng đêm, rất đông thanh niên trong làng đến ngủ lại tại nhà bà với ý định thức thâu đêm. Nhưng không hiểu sao trong đêm khuya, họ lại lăn đùng ra ngủ say cho tới sáng, không còn hay biết nhiệm vụ của mình. Do đó, rất nhiều tin đồn thổi rằng, rất có thể thần A'ul đã làm phép khiến mọi người đều không hay biết gì cả (?). Những câu chuyện ly kỳ về thần A'ul , qua lời kể của một số nạn nhân đồng bào Cơtu nơi núi rừng Trường Sơn vẫn còn khá mới mẻ. Thậm chí, theo họ có những câu chuyện cũng vừa mới xảy ra cách đây vài năm trước, kéo theo đó là những tin đồn thổi được thêu dệt cứ thế lan truyền đến tận khắp các buôn làng. Có rất nhiều lời cảnh báo của già làng đối với trẻ em Cơtu, đó là không nên tìm đến chơi tại các khu vực gần sông suối, nơi được cho là khu vực sinh sống của thần Aul, sẽ dễ bị thần Aul bắt về, hoặc gây đau ốm (?). Giáp mặt "con của thần A'ul" Và câu chuyện thời sự nhất gắn với một cậu bé tại làng Gừng, thị trấn Prao (huyện Đông Giang, Quảng Nam). Theo mô tả của người dân đứa trẻ được sinh ra giống y như mô tả về những đứa con của thần A'ul trong tuyền thuyết: Da trắng toàn bộ, tóc bạc, mắt mờ không nhìn được vào ban ngày. Và đồng bào ở đây đều cho rằng đó là "con của thần A'ul". Làng Gừng nằm ngay tại trung tâm thị trấn Prao, nơi đây đa phần là đồng bào Cơtu sinh sống từ rất lâu đời. Căn nhà gỗ của ông Ating Đhươi (38 tuổi), người có đứa con được đồng bào đồn đại là con của thần A'ul nằm sâu cuối con đường bê tông đi vào bản. Hôm chúng tôi đến, vợ ông bà Ating Thị Brơớih (34 tuổi) đã lên nương từ sớm, nên không gặp được. Khi nghe chúng tôi hỏi chuyện về đứa con A'ul, không biết từ khi nào đã có rất nhiều người dân khu vực tìm đến xem, chật kín nhà. Ngồi nói chuyện với chúng tôi, ông Đhươi cho biết, trong số 6 đứa con của mình, có hai đứa tóc bạc, da trắng bệch (một trai, một gái). Chính vợ chồng ông cũng cảm thấy bất ngờ và ngạc nhiên khi cả hai đứa trẻ lần lượt ra đời có hình dạng như vậy. Ai cũng bảo chúng là con của thần A'ul, nên bỏ đi. "Nhưng vì lương tâm của người làm cha, không cho phép mình vứt bỏ đứa con tội nghiệp này", ông Đhươi nghẹn ngào nói. Nói rồi, ông Đhươi cho đứa con gái chừng hơn 6 tuổi đến nhà bà ngoại gọi người anh Ating Thái (15 tuổi), người được đồn thổi là con thần A'ul về. Khoảng 10 phút sau, Thái trở về trong căn nhà, ngoài mang ngoại hình da trắng, tóc bạc, Thái vẫn như một đứa trẻ hoàn toàn bình thường khác. Chiếc mũ lưỡi liềm được em đội úp che gần hết phần mặt, hỏi chuyện, chúng tôi được Thái cho biết: "Đội mũ để che ánh sáng mặt trời. Nếu không có chiếc mũ này thì khi ra ngoài sẽ bị ánh nắng chói lóa, khiến mắt em không nhìn thấy được”. Rót chén nước mời khách, ông Ating Đhươi cho biết: "Thằng Thái là con thứ hai, trước nó cũng có một người chị cũng trắng người như nó. Nhưng được hơn 3 tuổi thì bị bệnh nặng, mất rồi". Theo ông Đhươi, con gái đầu lòng của ông cũng có ngoại hình da trắng, tóc bạc giống như em Thái. Từ lúc con gái đầu lòng của ông qua đời, khắp vùng ai cũng đồn thổi là con bé đã được người cha (là thần A'ul -PV) đem về sống với mình. Chính những lời đồn thổi mê muội đó càng khiến người Cơtu tin vào chuyện thần A'ul là có thật. "Khắp đồng bào Cơtu ni (này) ai cũng nói thế nên dù không muốn tin, tôi cũng không biết làm thế nào. Con của mình sinh ra nên mình phải chấp nhận nuôi nó thôi!", ông Đhươi nghẹn ngào. Cũng theo ông Đhươi, trước đây Ating Thái cũng được gia đình cho đến trường đi học. Nhưng do cháu bị dị ứng với ánh sáng của bảng đen nên không đọc được chữ. Do đó, đến lớp 3 cháu đã được nhà trường cho nghỉ học. Khi cháu Thái còn rất nhỏ, có hai người miền xuôi tình cờ gặp nên xin đưa về nuôi nhưng vợ chồng ông không đồng ý. Khi chúng tôi nói về chuyện có rất nhiều tin đồn thổi rằng, vợ ông là bà Ating Thị Brơớih đã kể với nhiều người việc bà thấy có rất nhiều lần thần A'ul về với bà, thì ông Đhươi xua tay, bảo: "Vợ chồng chung sống với nhau đã mấy chục năm nay nhưng chưa có bao giờ tôi nghe vợ tôi kể về chuyện đó cả. Miệng đời mà, họ nói vậy, ai mà tin được". Nói rồi, ông gầm mặt nhìn đứa con của mình và trong từng câu nói ấy, chúng tôi cảm nhận được nỗi niềm riêng của một người cha. Chính vì vậy bị coi là con của thần A'ul nên những đứa trẻ này phải hứng chịu biết bao lời cay nghiệt từ miệng người đời. Thậm chí, những đứa trẻ cùng lứa tuổi, khi có chút xích mích cũng sẵn sàng phân biệt không chơi với con của thần A'ul. Sự thật đau xót về "con thần A'ul" Tâm sự với chúng tôi, em Ating Thái cho biết, mỗi lần em ra ngoài trời nắng, hai mắt bỗng có cảm giác đau rát, rất khó chịu. Bây giờ, mỗi khi có đi đâu, ra ngoài em cũng đều đội chiếc mũ lưỡi liềm để che bớt ánh nắng mặt trời. Trong khi đó, nếu ở trong nhà hoặc đứng dưới bóng râm của nhánh cây lớn ngoài trời, em cảm thấy dễ chịu hơn. Mặc dầu vậy, tất cả cũng chỉ dừng lại ở mức giảm bớt đau mắt; trên thực tế, mắt em rất yếu, không nhìn rõ vật gì. "Rất nhiều lần em nghe tin đồn rằng mắt em nhìn rất rõ vào ban đêm. Nhưng có phải vậy đâu, ban đêm thì cũng thế thôi, nhìn rất mờ nhưng đỡ cái là không có cảm giác đau rát như ban ngày", Thái cho biết. Nói đoạn, Thái vén tay áo đưa chúng tôi xem những vết da bị tróc do đi nắng. Theo quan sát, ở hai cánh tay của Thái, từng mảng da bị bóc mẻ, xuất hiện những đốm đỏ nhưng không gây mẫn ngứa. Thái cho biết, nguyên nhân khiến da tay em bị bóc là do mấy ngày trước em đi ra ngoài dang nắng, mặc áo ngắn tay. Theo ông Ating Đhươi, mặc dù căn bệnh của Thái rất lạ, song do điều kiện gia đình rất khó khăn nên vợ chồng ông không có tiền để đưa con đến trung tâm y tế để khám chữa bệnh. "Thời gian trước, có người mách tôi đưa cháu đi khám tại bệnh viện da liễu xem có thuốc gì chữa trị không? Nhưng hoàn cảnh khó khăn, gia đình lại làm nông; hơn nữa, tôi bị què chân bẩm sinh nên không có tiền đưa xuống", ông Đhươi rơm rớm nước mắt. Ông Đhươi cũng cho biết, mặc dù con ông bị chứng bệnh kỳ lạ như vậy, không có khả năng lao động nhưng vẫn không được xét chế độ trợ cấp xã hội như nhiều trường hợp khác. "Bây giờ, mắt không nhìn thấy được, không dám ra ánh nắng mặt trời. Không biết sau này, khi bố mẹ đều già cả rồi, ai sẽ nuôi nó đây?", ông Đhươi nói trong nghẹn ngào. Qua tất cả lời kể của gia đình và em Thái, theo nhận định cá nhân của người viết, rất có thể em Thái đã mắc chứng bệnh bạch tạng, một loại bệnh thường gặp ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Để làm rõ thêm, sáng 22/8, PV báo ĐS &PL đã tìm gặp bác sĩ Nguyễn Đức Long trưởng khoa Da liễu, Bệnh viện Trung ương Huế để trao đổi về vấn đề này. Sau khi xem hình ảnh về em Ating Thái được PV cung cấp, bác sĩ Long khẳng định em Thái đã mắc chứng bệnh bạch tạng. Hai cha con Thái "Về chẩn đoán lâm sàng, với những di chứng cụ thể, chúng tôi có thể khẳng định cháu Thái đã mặc chứng bạch tạng toàn thân. Loại bệnh này rất khó chữa, bệnh nhân nên tránh tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời nhằm đề phòng bị ung thư da. Tuy nhiên, để biết chắc chắn hơn, cũng nên đưa bệnh nhân đến khám, xét nghiệm máu tại các bệnh viên da liễu”, bác sĩ Long cho biết. Từ những tư liệu và bằng chứng trên đây có thể khẳng định, những lời đồn thổi, thêu dệt về đứa con của thần A'ul như đồng bào Cơtu vẫn thường nghĩ là không có cơ sở khoa học. Những câu chuyện ly kỳ về thần Aul theo quan niệm của bà con chỉ là những câu chuyện mê tín dị đoan được thêu dệt. Và những đứa trẻ vô tội chỉ vì mắc bệnh bạch tạng mà bị gán ghép là con của thần Aul là hoàn toàn không có căn cứ. Ngày nay, đời sống kinh tế của đồng bào đã được cải thiện, dân trí cũng được nâng cao, tiếp xúc với nhiều phương tiện thông tin nên cũng có rất nhiều người không tin vào thần Aul như lời đồn nữa. Thế nhưng, trong một số bộ phận bà con vẫn lưu truyền nhiều điều mê tín dị đoan về thần Aul đầy ma lực, uy quyền. Câu chuyện về thần Aul vì thế vẫn còn được rỉ tai nhau như những truyền thuyết dân gian đầy huyền bí của riêng người Cơtu trên dãy Trường Sơn đại ngàn. Theo Đời sống và Pháp luật
  15. Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Nguyên Anh ủng hộ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 1,000,000 đ + 200,000 đ = 1,200,000 đ (một triệu hai trăm ngàn đồng)
  16. Làng biệt thự Tây… kêu cứu ANTĐ - Cách Hà Nội chưa đầy 60 cây số, có một làng cổ với kiến trúc Pháp từng là hình mẫu lý tưởng cho những “đại gia” thời Pháp thuộc đến chiêm ngưỡng trước khi dựng nhà. Giờ làng cổ ấy vẫn còn, bóng dáng xưa vẫn hiện hữu nhưng lay lắt giữa những mối lo: Nay còn, mai mất. Biệt thự kiểu Pháp của ông Phạm Khắc Tiệp xây dựng năm 1930 Từ làng dệt cổ Khoan nói đến kiến trúc Pháp ngự trị ngay giữa một làng quê chiêm trũng “đồng trắng nước trong” như Hà Nam. Thuần Việt hơn đó là một làng có truyền thống dệt cổ xưa thuộc hạng nhất ở Việt Nam chỉ sau lụa Hà Đông. Làng ấy, dân quen gọi là Nha Xá thuộc xã Mộc Nam (Duy Tiên - Hà Nam) nép mình bên dòng sông Hồng đầy ắp phù sa. Nếu so sánh với lụa Hà Đông thì tiếng tăm của sản phẩm vải, lụa Nha Xá được xếp hạng nhì, người dân vẫn quen gọi “lụa Á hậu”. Từ đầu thế kỷ 18, các lái buôn từ Sài Gòn - Chợ Lớn đã chấp nhận vượt nghìn cây số đến Nha Xá đặt hàng bởi chất lụa non tơ, óng mượt mà những người nông dân thuần phác làm ra. Đây cũng chính là thời kì những người nông dân Nha Xá được tiếp xúc với giới buôn bán để mở rộng tầm mắt. Đặc biệt sau này, nhà tư sản Bạch Thái Bưởi “bắt mùi” lợi nhuận từ lụa Nha Xá nên đã tìm cách tiếp cận với người dân nơi đây, cho tàu cập mạn đê hữu sông Hồng lấy hàng đưa sang Tây. Sau này, khi cố GS. Trần Quốc Vượng về nghiên cứu làng Nha Xá đã viết rằng, Bạch Thái Bưởi đã truyền nghề buôn cho dân làng Nha Xá hay chính người dân nơi đây đã học từ thương gia họ Bạch cách làm ăn để phất lên giàu có không kém gì các quan sếp Pháp thuộc. Theo ông Đặng Văn Bằng, cán bộ phụ trách văn hóa xã Mộc Nam thì, các cụ trong làng ngày xưa đã ra Bắc vào Nam buôn bán vải lụa. Thậm chí, nhiều cụ không dừng lại ở việc buôn bán trong nước mà mua tàu đi sang Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhằm quảng bá lụa Nha Xá và học cách làm giàu từ họ. Khoảng những năm 1920 là thời gian thịnh vượng nhất của làng dệt Nha Xá, lụa dệt ra bao nhiêu là tất cả được đưa lên tàu sang nước ngoài. Người nông dân bắt đầu đổi đời, chuyển mình từ việc làm ruộng dệt vải sang thành những lái buôn xuyên quốc gia. Chuyện ấy, thời ấy có lẽ chỉ có Nha Xá. Đình làng độc đáo ở Nha Xá Đến biệt thự… Tây Buôn bán thuận lợi, phát đạt nên những biệt thự kiểu Pháp bắt đầu mọc lên thay thế cho những ngôi nhà gỗ “ba gian hai chái”. Biệt thự Pháp giữa làng quê Việt đứng vững chãi kiêu kì trước những ngỡ ngàng của khách lạ. Điều ấy là có thật, dấu tích ấy còn lưu lại đến ngày nay, tuy nhiều biệt thự đã bong tróc hay ố màu thời gian nhưng vẻ tráng lệ vẫn rất mãn nhãn kẻ hiếu kỳ. Theo chân ông Bằng, chúng tôi được “mục sở thị” từng ngôi nhà mang dấu ấn một thuở giàu sang ấy. Như biệt thự nhà ông Lê Thiều xây dựng từ năm 1929 đặc sệt kiến trúc Gootich Pháp. Từ mái hiên thoải cong vút mềm mại đến cách xây dựng phòng mang dáng dấp Tây khiến chủ nhân khá tự hào. Ở giữa làng, thụt sâu trong một khu vườn rộng là ngôi nhà có tên rất đẹp “Biệt thự đường loan”. Ông Bằng chỉ tay bảo, đây thực sự là “điền trang thái ấp” của chủ nhân một thời giàu có hàng “đệ nhất Nam Hà” xưa. Tiếc rằng, chiến tranh và mưa nắng đã làm cho ngôi nhà xuống cấp. Phía cuối làng, biệt thự hai tầng của cụ Lê Thị Đằng được xây dựng từ năm 1932 vẫn còn rất uy nghi, vững chắc đứng song song với cây cổ thụ bóng tỏa rợp sân. Ấy thế nên có đận mấy đại gia từ Hà Nội mê nhà Tây mới lần về hỏi mua. Nhưng ai bán, dại gì lại đem báu vật bán cho người lạ. Không mua được, có tiền cũng chịu nên họ đành xin cụ cho chụp mấy kiểu ảnh kỷ niệm đem về Hà Nội. Những năm sau chiến tranh, ở Nha Xá nhà biệt thự kiểu Pháp còn nhiều lắm nhưng rồi hết dần. May giờ cũng còn trên ba chục ngôi nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà tầng kiểu mới. Nhưng vậy đã là quý rồi, vào làng mà cứ ngỡ như lạc sang Tây hay giống như sống giấc mơ lạ. Nhưng quý hơn cả là biệt thự của ông Phạm Khắc Tiệp. Ngôi nhà xây giữa năm 1930 sừng sững cho đến nay chưa một lần phải sửa chữa. Khi xây như thế nào giờ còn nguyên vậy, mái giữa kiểu “con tôm vắt ngang qua cổng” hay phòng bên hình cầu cong ưỡn ẹo… Ngay đến cánh cửa gỗ vẫn còn nguyên vẹn hình hài, chỉ cháy đen một góc do hỏa hoạn. Ông Tiệp kể, thời chiến tranh, địch ném bom ghê quá, sợ sập nhà hỏng cửa nên ông cụ tháo mấy cánh gỗ dìm xuống ao chống cháy. Lúc sắp lâm chung cụ cố nhắc nhở vớt cửa lên mà lắp vào nó mới hợp với nhà. Con cháu chắt chít phải giữ lấy biệt thự ấy, nó quý lắm. Ở Nha Xá bây giờ có lẽ chỉ còn mình biệt thự của ông Tiệp là còn bản vẽ. Bản vẽ tổng thể, cắt ngang vẫn còn nguyên vẹn do kỹ sư người Pháp thiết kế chữ ký vẫn rõ mồn một. Nghe ông Bằng nói, xã và gia đình ông Tiệp đang nhờ người bên Pháp tìm con cháu người kỹ sư ngoại quốc ấy để làm dự án bảo tồn vĩ mô lắm. Ngự chính giữa làng Nha Xá bây giờ lại còn một biệt thự mà ông Bằng băn khoăn không biết có nên gọi là biệt thự không vì đó là đình làng. Ngôi đình lạ nhất Việt Nam đúng như cố GS. Trần Quốc Vượng đã nói. Điều lạ nữa là cả làng chẳng ai biết đình xây năm nào theo kiến trúc gì, vừa Tây, vừa ta, vừa Tàu bề thế nhưng lại ấm cúng. Đình xây trên mảnh đất “chó đẻ” như lời thầy địa lý khuyên, tất nhiên đó là giai thoại mà chỉ GS. Vượng và các bậc cao niên mới nhớ. Nỗi lo “không còn gì để ngắm”! “Mang tiếng làng biệt thự Pháp nhưng tôi lo lắm chú ạ! Mình không giữ được, không bảo tồn thì chỉ dăm năm nữa là coi như không còn cái nào mà ngắm mà khoe…”. Ông Bằng buồn bã nói vậy. Dẫn chứng rõ ràng, năm 1980 biệt thự trong làng còn nhiều vô kể, thế rồi mỗi năm giảm dần. Biệt thự Pháp xuống cấp dần, tiếc nhưng nhiều người đành phá xây nhà mới. Nhà ngói cũng được, mái bằng cũng xong miễn sao an toàn chứ để biệt thự Pháp xuống cấp quá hở toang toác nhỡ bão gió thì nguy hiểm. Đến nay, trong gần ba chục ngôi nhà kiểu Pháp còn giữ được, có quá nửa số đang xuống cấp trầm trọng. Có những ngôi nhà chủ nhân không dám ở đành dọn ra vườn nhưng vì tiếc nên không dám phá. “Chú tính, phá dễ làm khó, hơn nữa đấy là di tích… Di tích thì quý hơn vàng” - ông Tiệp thở dài. Dẫu biết rằng, những ngôi nhà cổ kia quá đẹp. Đó là lí do mà năm nào sinh viên kiến trúc tận Hà Nội cũng lặn lội về ngồi thu lu ở một góc ngắm nghía vẽ vời làm luận văn tốt nghiệp. Nhưng “Tôi lo, sắp tới chẳng còn gì để ngắm nữa, rồi họ sẽ phá hết, bỏ hết…”, ông Bằng lo lắng. Trao đổi với chúng tôi, cán bộ phụ trách văn hóa xã Mộc Nam Đặng Văn Bằng cho hay, UBND xã đang lập đề án trình UBND tỉnh Hà Nam có phương án bảo tồn các biệt thự kiểu Pháp tại làng Nha Xá không chỉ với mục đích giữ gìn di tích mà còn kết hợp du lịch làng nghề bởi Nha Xá còn là một làng dệt truyền thống nổi tiếng. Nhưng theo ông Bằng, lập dự án vẫn chỉ kêu cứu thử mà thôi, vì xem ra khó lắm, tiếc thay! Nam Trần
  17. Những dấu vết giúp lần tìm “ác thú” ANTĐ - Sau vụ thảm án kinh hoàng tại hiệu vàng Ngọc Bích, các lực lượng tinh nhuệ nhất của Công an tỉnh Bắc Giang có sự hỗ trợ của Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm (Bộ Công an) đã nhanh chóng vào cuộc. Hành trình khám phá án với quãng ngày gian khổ, ăn bờ nằm bụi, dưới sức ép nặng nề của dư luận nhưng bằng ý chí, quyết tâm và bản lĩnh tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ cùng sự nhạy bén, những bí ẩn đằng sau đêm mưa gió chết chóc và bộ mặt của hung thủ đã được làm sáng tỏ. Lực lượng công an khám nghiệm hiện trường vụ án Vết xước trên cửa sổ Cho tới thời điểm này, khi hung thủ gây án trong hiệu vàng Ngọc Bích đã bị bắt giữ, chúng tôi mới có dịp gửi tới bạn đọc những thông tin chi tiết, cả những câu chuyện bây giờ mới có thể kể trong quá trình điều tra của các lực lượng tham gia khám phá án của Ban chỉ đạo án và Ban chuyên án. Ngay sau khi nhận được thông tin, trong sáng 24-8, một mặt Công an tỉnh Bắc Giang tập trung các lực lượng đặc biệt quan trọng như Phòng CSHS, Phòng Kỹ thuật hình sự… nhanh chóng xuống phong tỏa và khám nghiệm hiện trường, song song với việc báo cáo xin cấp trên tăng cường lực lượng chi viện. Bất kể vụ án nào dấu vết để lại hiện trường cũng vô cùng quan trọng, thảm án giết cả gia đình chủ hiệu vàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Đây chính là chìa khóa mở ra những nút thắt, bức màn bí ẩn che giấu chân dung hung thủ. Tại tầng 1 của hiệu vàng được gia đình anh Ngọc lắp tới 2 lần cửa. Dấu vết bị cậy phá ở những cánh cửa này hoàn toàn không có. Nghi vấn hung thủ đột nhập vào trong nhà bằng lối này bị loại bỏ. Nhiều người đã đặt dấu hỏi phải chăng hung thủ đã vào nhà nạn nhân bằng lối cửa sau khi ở phía này là cả một cánh đồng rộng mênh mông và khá vắng vẻ? Tuy nhiên, trái với nhận định này, phía sau ngôi nhà nạn nhân hoàn toàn là một bãi đất trống, những mô đất cao hay cây cối mọc um tùm là điều kiện cho hung thủ ẩn nấp cũng không hề có. Toàn bộ mặt sau từ tầng 1 lên tới tầng 3 của ngôi nhà cũng được gia đình anh Ngọc bịt kín bằng khung sắt loại lớn. Trên tầng 3 nơi cao nhất của ngôi nhà và cũng là nơi phát hiện ra xác của chị Chín, các điều tra viên đã phát hiện cánh cửa sổ làm bằng nhôm kính có 1 vết xước. “Do vết cậy khá “ngọt” bằng một vật rất sắc và nhỏ nên phải vô cùng tinh mắt mới có thể phát hiện vết xước này” - một điều tra viên cho chúng tôi biết. Từ vết xước trên, lối đột nhập vào nhà của hung thủ đã được làm rõ. Dù trước cửa nhà có cây cột điện hay mái nhà xung quanh và cửa sổ ô thoáng hình cầu thang từ tầng 2 kéo dài lên tầng 3 vô hình trung có thể tạo thành “cầu thang” nhưng để lên được cửa sổ tầng 3, hung thủ chắc chắn phải là đàn ông hoặc thanh niên khỏe mạnh, leo trèo giỏi. Nhận định này của Ban chỉ đạo án và Ban chuyên án càng được củng cố bởi những dấu vết để lại tại hiện trường khi các nạn nhân bị giết hết sức dã man trong đó có anh Ngọc là người đàn ông khá to khỏe. Bí ẩn dưới sàn nhà Cùng với các phòng nghiệp vụ của Công an tỉnh Bắc Giang, Trung tướng Phạm Quý Ngọ - Thứ trưởng Bộ Công an và những tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm điều tra khám phá các vụ án đặc biệt nghiêm trọng của Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm như Thiếu tướng Phan Văn Vĩnh-Tổng cục trưởng, Thiếu tướng Đỗ Kim Tuyến, Phó Tổng cục trưởng… đã đến hiện trường trực tiếp chỉ đạo án. Những dụng cụ, phương tiện kỹ thuật tối tân của Viện Khoa học Kỹ thuật hình sự, các Cục nghiệp vụ… cũng được huy động tập kết ở hiện trường. Hiện trường vụ án mạng vô cùng thương tâm với những nạn nhân bị giết chết không nhắm được mắt đã khiến những người điều tra viên, khám nghiệm dù kỳ cựu nhất cũng không thể cầm lòng. Quyết tâm khám phá nhanh vụ án càng thôi thúc trong suy nghĩ của các thành viên trong Ban chỉ đạo án và Ban chuyên án. Sau khi bắt được hung thủ, một điều tra viên nằm trong Ban chuyên án cho chúng tôi biết, hầu như cả ngôi nhà trên chỗ nào cũng có vết máu của các nạn nhân. Ngoài các vật dụng lộn xộn do quá trình chống cự giữa nạn nhân và hung thủ ở tầng 2 và những mẫu tóc của nạn nhân ở tầng 3, dưới sàn nhà tầng 1 các điều tra viên còn phát hiện thấy những dấu chân trần dính máu và lẫn với dấu dép. Cùng với thông tin ban đầu của cháu Bích khi nhìn thấy “2 thanh niên tóc xanh, tóc đỏ”, khả năng hung thủ là 1 nhóm người cũng đã được Ban chỉ đạo án và Ban chuyên án đặt ra. Nguồn An Ninh Thủ Đô.
  18. Chủ đích là nước cờ cao mang tính nghiệp vụ thôi! Chứ 1 mình hung thủ không thực hiện được trọng án này đâu! Nguyên tắc của C.A là đánh lừa hoặc rung chà cá nhảy.
  19. Đừng khiến các gia đình mất ngủ vì Lê Văn Luyện (TT&VH) - 1. Đã hơn chục ngày kể từ khi xảy ra vụ cướp tiệm vàng Ngọc Bích ở Bắc Giang (24/8), và cũng tròm trèm một tuần từ ngày bắt được nghi phạm. Thế nhưng người ta vẫn không ngừng kể về nó, khai thác nó, lật đi lật lại nó, và đương nhiên, có thể câu view nhờ nó. Những ngày nghỉ lễ với biết bao kế hoạch vui chơi, những chương trình văn hóa văn nghệ giải trí, những tấm gương điển hình, rồi tiếp theo chuẩn bị cho ngày khai trường... nhưng chẳng hiểu sao, “cướp tiệm vàng” vẫn là chủ đề được nhắc đến nhiều nhất. Mức độ “hot” của Lê Văn Luyện còn hơn cả hung thủ Nguyễn Đức Nghĩa trong vụ “xác chết không đầu” cách đây ít lâu. Tôi vừa lượm được những cái tít đang ở trên “top” tối qua: Những điều chưa kể về chuyên án hiệu vàng ngọc Bích/ Lê Văn Luyện đêm nào cũng mất ngủ/ Vợ chồng chủ tiệm vàng chống trả tên Luyện như thế nào?/ Hung thủ có thể chỉ bị 18 năm tù/ Luật sư nói gì về mức án Lê Văn Luyện phải nhận... Và các thông tin này không chỉ dừng ở đó. Hàng trăm hàng nghìn comment bày tỏ sự xót xa, tiếc nuối, bức xúc, căm giận ở dưới một số bài viết. Và cũng không chỉ dừng lại ở trên các phương tiện truyền thông, ở các công sở, chốn chợ búa, các quán nước vỉa hè... cũng râm ran bàn tán... Và sau khi đã “buôn đi, buôn lại” với nhau, quanh quẩn cũng chỉ ngần ấy thông tin (chứ làm gì có hơn), thì hậu quả là nhiều ông bố, bà mẹ rơi vào trạng thái bất an mỗi khi đi ngủ... Có lẽ chưa bao giờ, người ta lại cảnh giác với việc đóng hết các cửa trên gác thượng hay chốt trong, chốt ngoài cửa chính, cửa sổ như bây giờ. Và hơn thế, một thói quen truyền lại từ thời “dưới ánh đèn dầu” lại quay về: Trước khi đi ngủ, tay cầm cán chổi, tay cầm đèn pin soi hết các gậm giường, xó tủ... xem có “thằng Lê Văn Luyện” nào đó nấp sẵn trong đó hay không? 2. Vụ án cướp tiệm vàng đúng là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây chấn động trong dư luận. Tuy nhiên, sau khi Lê Văn Luyện bị bắt và những lời khai đầu tiên của anh ta cho thấy khả năng vụ án này sẽ không quá phức tạp để điều tra, xét xử, vì việc gây án của anh ta mang tính manh động, liều lĩnh, chứ chưa có dấu hiệu là “tội phạm có tổ chức”. Hung thủ thì cũng đã khai nhận tương đối chi tiết quá trình gây án và chạy trốn rồi. Các báo có tường thuật kiểu gì thì quanh quẩn cũng chỉ ngần ấy chi tiết thôi. Có lật đi, lật lại thì cũng chỉ là “phỏng đoán” hoặc “làm mới” lại những thông tin cũ. Theo tôi, việc lật ra tình tiết Lê Văn Luyện chưa tới 18 tuổi và như thế chỉ có thể xử phạt tối đa 18 năm tù là làm “nóng” vấn đề lên một cách không cần thiết. Những vấn đề ấy đương nhiên sẽ được giải quyết trong quá trình tố tụng, có bàn hay comment cũng không giải quyết vấn đề gì. Và nếu quả thực “sát thủ” chưa đến 18 tuổi thật, thì mức án dành cho một kẻ phạm pháp vị thành niên như anh ta, chiếu theo các quy định của luật pháp, cũng không có gì là bất công. Pháp luật cần thể hiện tính nhân văn của nó. Nếu anh ta thoát án “tử hình” vì dưới 18 tuổi thì thay vì bất bình, trái lại, chính chúng ta, những người lớn lại phải suy nghĩ một cách có trách nhiệm hơn về việc giáo dục trẻ vị thành niên. 3. Cuộc sống thì luôn có bất ổn, bất trắc. Đâm chém, cướp, giết, hiếp... ngày nào cũng có và có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Trong xã hội ta còn ít, ở một số nước phương Tây còn xảy ra các vụ xả súng giết người hàng loạt (như ở “thiên đường” Na Uy vừa qua là một ví dụ). Vì thế, con người ở bất kỳ xã hội nào, thời điểm nào cũng phải chung sống với những bất ổn. Tội phạm là đối tượng cần đấu tranh chứ không phải là đối tượng phải sợ hãi. Mong sao các thông tin tới đây về vụ cướp tiệm vàng sẽ khiến cho các chủ tiệm vàng cùng tất cả các gia đình cảnh giác hơn trong phòng chống tội phạm. Nhưng không vì thế mà các gia đình phải rơi vào lo âu, đêm đêm phải chẹn cửa, phải soi đèn pin khắp nhà mới dám tắt đèn đi ngủ. Ngô Khởi
  20. Nếu đến Vp Trung Tâm tại quận tân bình đt số : 08 38 486867 gặp Anh Thiên Đồng lúc nào cũng sẵn sàng ah!
  21. http://www.balok.com...00/js.asp?id=13 Link này có Logo Bảo Long đây Sp! Có 2 chấm xanh & đỏ, nhưng bị khuất bởi đầu rồng e có nạn.
  22. Sát thủ tiệm vàng và số phận 2 cháu bé 04/09/2011 09:52 (GMT +7) Số phận hai cháu bé là con của vợ chồng chủ tiệm vàng bị sát hại đã gây sự chú ý và xúc động đặc biệt cho hàng triệu độc giả. Sau sự ra tay tàn ác của tên cướp Lê Văn Luyện, hai vợ chồng chủ tiệm vàng Ngọc Bích (ở phố Sàn, Phương Sơn, Lục Nam, Bắc Giang) và cô con gái nhỏ 18 tháng tuổi đã ra đi vĩnh viễn, còn lại duy nhất cháu Bích với sự sống sót kỳ diệu. Hiện giờ, cháu đang hồi phục sức khỏe, bàn tay đã bắt đầu cử động được và có thể đi lại trong phòng bệnh. Mỗi sự hồi phục của cháu là niềm vui lớn của tất cả mọi người xung quanh, từ các y bác sỹ đã tận tâm cứu chữa cháu trong những ngày vừa qua, lực lượng Công an bảo vệ sự an toàn cho cháu đến tất cả mọi người dân khi họ biết và xót xa cho hoàn cảnh của gia đình cháu… Cháu Trịnh Ngọc Bích, học lớp 3, thông minh, có trí nhớ tốt, thêm vào đó là bản lĩnh hiếm thấy ở một bé gái chưa đầy 10 tuổi. Tuy rất đau đớn bởi bao vết thương, nhưng mọi người ít thấy giọt nước mắt hay sự khóc quấy của cháu Bích. Theo hồi ức của cháu, sau này khá trùng khớp với lời khai của tên tội phạm Lê Văn Luyện, đêm hôm đó, cả nhà cháu ngủ trong phòng ngủ phía sau của tầng 2 (do có máy điều hòa). Người thân của gia đình cháu Trịnh Ngọc Bích cảm ơn lực lượng Công an tại cuộc gặp với lãnh đạo Bộ Công an và Ban chuyên án 5 giờ sáng 24/8, giống như mọi ngày, gia đình cháu để chuông báo thức dậy. Anh Ngọc, chị Chín, cháu Bích lần lượt vào phòng vệ sinh tầng 2 để làm vệ sinh cá nhân. Khoảng 20 phút sau, bố cháu lên tầng 3 phơi quần áo ở máy giặt, còn 2 mẹ con xuống tầng 1, chuẩn bị mở cửa ra ngoài mua đồ ăn sáng. Bỗng hai mẹ con Bích nghe thấy tiếng hét thất thanh của bố trên tầng 3. Chị Chín chạy lên, còn cháu Bích đứng dưới chân cầu thang tầng 1 nhìn lên.Giây lát sau, cháu nghe thấy tiếng mẹ kêu: "Con ơi, nhà mình bị cướp rồi!". Bích chạy lên tầng 2, đến chiếu nghỉ thì thấy bố nằm gục tại đó và có một con dao dài rơi từ tầng 3 xuống. Cháu Bích chạy vội vào phòng ngủ của gia đình, lấy điện thoại di động trên bàn bấm gọi Cảnh sát 113. Nhưng trong suy nghĩ của cháu, cháu chỉ biết bấm 113 chứ không biết rằng gọi bằng điện thoại di động phải bấm mã đầu của tỉnh Bắc Giang là 0240. Cháu bấm mãi không được, vừa lúc đó, tên cướp (sau này xác định là đối tượng Lê Văn Luyện) cầm dao lao vào. Thấy cháu Bích đang đứng ở góc phòng (gần cửa mở ra ban công), bấm điện thoại di động, tên cướp vung dao chém đứt luôn cánh tay phải của cháu. Cháu ngã xuống, hắn còn tiếp tục vung dao chém một nhát suốt dọc gương mặt cháu và một bên má… Đau quá, cháu Bích kêu lên một tiếng thất thanh. Nghe tiếng động của tên cướp và tiếng kêu của cháu Bích, em cháu là Trịnh Phương Thảo, 18 tháng tuổi, đang nằm ngủ trong giường giật mình thức giấc, khóc toáng lên. Tiếng khóc của cháu bé khiến tên cướp giật mình, hắn vội vàng chạy ra chui vào trong màn (phía giường gần cửa ra vào) dỗ cháu Thảo: "Nín đi". Lợi dụng lúc đó, cháu Bích đã chạy, chui vào trốn trong gầm bàn học cạnh giường (phía đối diện tên cướp), đậy chiếc ghế che khuất. Vì điện trong nhà bị cắt nên trong phòng lúc này vẫn tối nhờ nhờ. Tuy cánh tay bị chặt đứt cùng những vết thương trên người đau đớn, nhưng cháu Bích lúc đó nhận thức rất rõ sự nguy hiểm đang rình rập cùng sự hiện hữu của tên cướp. Cháu nằm im trong góc trốn, môi mím chặt, gồng người lên chịu đau mà không kêu rên bất cứ tiếng nào.Trong lúc ấy, cháu thấy em Thảo vẫn khóc. Bởi cháu Thảo còn nhỏ quá, đâu ý thức được sự việc, cháu không thấy bố mẹ đâu, chỉ có gã người lạ đứng bên giường thì càng khóc to hơn. Sợ tiếng khóc của cháu bé kinh động xung quanh, tên cướp đã tàn bạo vung dao chém cháu Thảo. Cháu Bích nhìn thấy cảnh tên cướp chém em Thảo, bởi từ gầm bàn học nơi cháu trốn đến chiếc giường em cháu nằm cách chưa đầy 2 mét. Nhưng ý thức sinh tồn đã khiến cháu thêm nghị lực, không kêu, không bật lên bất cứ một tiếng rên nhỏ dù các vết chém vẫn chảy máu, đau lắm. Nghĩ là cả 2 đứa trẻ đã chết, tên cướp cầm dao bỏ ra khỏi phòng. Lúc này, cháu Bích rất sợ hãi, không dám chui ra. Cháu bảo, không còn nhớ gì nữa cho đến lúc nghe thấy tiếng điện thoại di động reo. Cháu thấy số điện thoại của chị Vũ Thị Mến, chị dâu của anh Ngọc nhà gần đấy nên bật nghe máy và mếu máo: "Bác ơi, nhà cháu bị cướp, bố mẹ cháu bị bọn cướp gí vào tường". Lúc đó là hơn 9 giờ cùng ngày và là cuộc điện thoại thứ 8 chị Mến gọi cho máy điện thoại di động của nhà cháu Bích. Áp giải hung thủ Lê Văn Luyện về Trại tạm giam để điều tra Theo phán đoán của chúng tôi, lúc trước có thể cháu Bích đã ngất đi và thời điểm này cháu mới tỉnh lại và nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Nghe tiếng kêu cứu qua điện thoại của cháu Bích, chị Mến vội vàng gọi mọi người xung quanh tìm đường vào nhà. Trên tầng 3, họ phát hiện xác chị Chín. Ở chiếu nghỉ cầu thang tầng 2, mọi người thấy anh Ngọc nằm chết gục. Đau đớn nhất là khi họ vào phòng ngủ, nơi cháu Thảo bị giết. Cháu gái bụ bẫm, xinh xắn là thế, vẫn nằm với tư thế như đang ngủ, 2 tay giơ lên ngang đầu, miệng há ra. Nhưng ở cổ cháu bị chém gần như đứt lìa… Mọi người vừa òa khóc, vừa cất tiếng gọi cháu Bích thì thấy tiếng thưa yếu ớt từ gầm bàn học cạnh giường ngủ. Mọi người bế cháu ra thì thấy một cánh tay cháu đã bị chặt đứt, trên cánh tay kia và trên mặt cũng có nhiều vết thương. "Bàn tay bị đứt của cháu đâu?" - mọi người cuống quýt hỏi. Đã rất yếu, cháu Bích vẫn chỉ tay về phía góc nhà, nơi cháu bị tên cướp chém đứt cánh tay để mọi người nhặt lên, đem bảo quản trong thùng đá. Ngay sau đó, lực lượng Công an đã có mặt, cùng người nhà cháu Bích đưa cháu đi cấp cứu. Cho đến lúc này, nhiều người vẫn rất thắc mắc không hiểu vì sao cháu Bích lại có thể sống sót sau khi bị tên cướp chặt đứt cánh tay. Bởi thông thường, một người muốn tự tử, chỉ cần cắt động mạch tay trong khoảng từ 30 phút đến một tiếng là có thể tử vong vì mất máu. Đằng này, từ khi cháu bị chặt đứt tay cho đến khi được phát hiện, đưa đi cấp cứu là gần 4 tiếng. Góc nhà - nơi cháu Bích bị chém đứt bàn tay Ở chiếu nghỉ cầu thang tầng 2, mọi người thấy anh Ngọc nằm chết gục. Đau đớn nhất là khi họ vào phòng ngủ, nơi cháu Thảo bị giết. Cháu gái bụ bẫm, xinh xắn là thế, vẫn nằm với tư thế như đang ngủ, 2 tay giơ lên ngang đầu, miệng há ra. Nhưng ở cổ cháu bị chém gần như đứt lìa… Giải thích thắc mắc này, các bác sỹ điều trị cho cháu Bích cho biết, mỗi người có một khả năng thích nghi khác nhau. Cháu Bích có cơ chế đông máu thuộc nhóm đặc biệt, vì vậy, ngay sau khi bị chặt đứt tay, máu của cháu chảy ra nhưng đông lại rất nhanh. Chính khi khám nghiệm hiện trường, điều này cũng thể hiện khá rõ. Tại vị trí góc nhà nơi tên Luyện chém cháu Bích, có rất nhiều máu. Thế nhưng, tại gầm bàn, nơi cháu bò vào trốn suốt gần 4 tiếng, chỉ có lấm tấm một vài giọt máu, chứ tuyệt nhiên không có nhiều máu đọng. Có lẽ thời điểm này, máu của cháu Bích đã đông lại nên không bị chảy tiếp. Chính cơ chế đông máu đặc biệt của cháu, cùng với sự thông minh, bản lĩnh của cô bé, sự cố gắng của các chú Công an trong việc bảo quản an toàn cánh tay cho cháu, sự tiến bộ của y học và sự nỗ lực tột cùng của các y, bác sỹ Bệnh viện Việt - Đức đã tạo nên sự sống kỳ diệu, có lẽ đó là ân huệ của trời đất dành cho gia đình anh Ngọc, chị Chín.Hiện sức khỏe cháu đang hồi phục dần, tuy vẫn còn nhiều đau đớn, nhưng trong suốt quá trình điều trị tại bệnh viện, ít ai thấy cháu khóc vì đau. Chúng tôi chỉ biết cầu mong rằng, với nghị lực đặc biệt của mình, cùng với thời gian, cháu Bích sẽ dần vượt qua và trưởng thành vượt lên những biến cố quá đau thương của gia đình. Theo CAND
  23. 10 công dụng độc đáo của vàng Chữa viêm khớp chỉ là một trong số rất nhiều công dụng của vàng mà từ thời xa xưa con người đã khám phá ra. Dưới đây là 10 cách sử dụng độc đáo nhất. 1. Chữa bệnh về răng Vàng đã được sử dụng trong nha khoa suốt gần 3.000 năm về trước. Cuốn sách đầu tiên được xuất bản về nha khoa do Artzney Buchlein chủ biên xuất hiện năm 1530 cho thấy các nha sĩ thời xưa đã chữa sâu răng và các bệnh về răng bằng vàng lá. 2. Nha khoa thẩm mỹ Hàng ngìn năm sau đó vàng vẫn còn được sử dụng trong nha khoa như trám răng và chỉnh hình răng. Trên thực tế, vàng là một kim loại có khả năng tương thích sinh học với con người, có nghĩa là nó có thể trực tiếp tiếp xúc với cơ thể người và không gây hại cho sức khỏe. 3. Điện thoại di động Vàng thường có mặt trong các mối nối, thiết bị chuyển mạch… giúp điện thoại không bị ăn mòn. Theo Hội đồng Vàng thế giới, một chiếc điện thoại di động chứa 50 mg vàng, đó là một lượng rất nhỏ. Tuy nhiên, nếu nhân với con số 1 tỷ điện thoại di động sản xuất mỗi năm, khối lượng vàng đã lên một con số đáng kể, khoảng gần 500 triệu đô la. 4. Máy tính Vàng cũng có thể được tìm thấy trong các linh kiện máy tính để bàn và máy tính xách tay. Kim loại quý này được sử dụng trong các chip bộ nhớ và bộ mạch chủ của CPU, cho phép các bộ phận của máy tính kết nối với nhau một cách trơn tru. 5. Làm dây dẫn Vàng vốn là một chất dẫn điện khá tốt, nó cho phép chuyển tải một cách nhanh chóng và chính xác dữ liệu từ thiết bị kỹ thuật số này đến một cái khác. Trên thực tế, bạc và đồng vẫn là những chất dẫn điện tốt hơn vàng. 6. Chữa bệnh về da Vào năm 2500 trước Công nguyên, người Trung Quốc được cho là những người tiên phong trong việc dùng vàng để chữa bệnh. Họ sử dụng vàng nguyên chất để chữa mụn nhọt, viêm loét da và thậm chí cả bệnh đậu mùa. 7. Chữa viêm khớp Ngày nay, kim loại quý đã được sử dụng để điều trị bệnh nhân viêm khớp. Trong đó vàng được sử dụng để làm giảm sưng, làm lành những vết tổn thương xương, giảm đau và sưng khớp. Quá trình chữa trị bằng vàng rất chậm, bệnh nhân thường phải được “tiêm” vàng trong vòng 22 tuần liên tiếp mới mong khỏi bệnh. 8. Làm nhà thờ. Nhờ tính năng dễ dát mỏng, linh hoạt trong cách sử dụng, vàng thường được hiện diện tại nhiều tòa nhà trên thế giới. Điển hinh là nhà thờ St Michael ở Kiev tại Ukraine. Được biết, có thể dát vàng mỏng đến mức có độ dày chỉ một phần triệu inch mà thôi. 9. Đền làm từ vàng. Ngôi đền Sripuram ở Ấn Độ Đền được coi là cấu trúc đền vàng lớn nhất thế giới bởi nó được làm từ 1,5 tấn vàng. Loại vàng được sử dụng tại ngôi đền này có độ bền cao, và khả năng chịu mài mòn. 10. Làm tàu vũ trụ Đây là một tàu vũ trụ bằng vàng độc đáo, được mạ một lớp vàng phía ngoài để tránh tia bức xạ hồng ngoại và giúp ổn định nhiệt độ bên trong của con tàu. Nếu không có vàng, phần màu tối hơn của tàu vũ trụ này sẽ hấp thụ nhiều nhiệt, gây ra sự mất cân bằng. Tạ Linh (theo BusinessInsider)
  24. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vứt làm nùi giẻ lau nhà cho xong. Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ. Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai. Xa nàng nhớ cái bạt tai. Giỡn chơi chút xíu bị hai cái liền. Cô kia má đỏ hồng hồng. Dừng chân anh hỏi có chồng hay chưa. Có chồng năm ngoái năm xưa. Chẳng may chồng bỏ nên chưa có chồng. Cô kia chải tóc đuôi gà. Dừng chân anh hỏi một và vài câu. Tóc em là tóc trên đầu. Hay là em mượn ở đâu gắn vào. Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông hết tiết, canh giờ chạy ra. Mịt mù bóng của học sinh. Chạy đi mua bánh, nhanh không hết giờ. (Nhiều độc giả sưu tầm)
  25. Lạ kỳ cây thị nghìn tuổi trên vùng Thất Tinh ANTĐ - Cây thị đại thụ có đến nghìn tuổi, là một trong bốn cây đại thụ nằm trên mom cao của vùng Thất Tinh có nhiều huyền tích nhất, giờ lá vẫn xanh um tùm cả góc sân đình. Bao giờ cũng vậy, cây to luôn được người dân tôn thờ và xưa nay có nhiều suy nghĩ cho rằng, ở gốc cây đại thụ là nơi thiêng hoặc là nơi của những hồn ma thường hay trú ngụ. Chính vì vậy mà mỗi gốc cây to luôn chứa đầy hơi hướng tâm linh ở đó. Chẳng có kiểm chứng về điều này, song, ở bất cứ gốc đa hay cây cổ thụ xù xì gốc dễ thì luôn có những chân hương đã cháy hoặc những ban thờ nho nhỏ, điều đó đã chứng tỏ từ xưa nay người ta đều có chung một suy nghĩ, hướng tâm tín về những giá trị riêng của cây đại thụ. Cây thị cổ thụ này theo người dân mỗi năm chỉ ra 1 quả “Cây thị có ma, cây đa có thần” “Làm gì có ai kiểm chứng được lời nói ấy thực hư ra sao, nhưng tôi đố ai dám động đến cây cổ thụ đấy, không tin anh cứ để ý mà xem, chỗ nào có cây cổ thụ khi làm đường đi người ta còn phải tránh đấy”- Thủ từ Nguyễn Văn Lương triết lý. Thực tế tôi cũng kiểm chứng, và khớp với quan điểm của cụ Lương. Dễ thấy nhất là cây đề đứng giữa phố Trấn Vũ, đường đi cũng phải tránh nó, rồi cây đề đứng xẻ đôi đường phố Thụy Khuê…những cây ấy, nó tồn tại được thế cũng là vì tuổi tác và sự huyền tích về thế giới tâm linh nào đó. Cây thị nghìn tuổi ở đình Quán La, phường Xuân La nó được người dân trong vùng biết đến như câu chuyện cổ tích. Cây thị thân to, cành tán rộng nằm trên mom cao trước cửa sân đình Quán La. Theo cụ thủ từ Nguyễn Văn Lương thì, cây thị này đặc biệt lắm,mùa xuân thì lộc non xanh biếc, mùa hạ chim về ríu rít, nhưng bặt nỗi nó chỉ ra 1 quả trong mỗi mùa. Lạ thế! Người dân không biết về sao nó lại thế, có nhiều đồn thổi, thêu dệt liêu trai, còn theo ý kiến chủ quan của thủ từ Nguyễn Văn Lương thì thuộc tính tự nhiên của giống cây cối ra quả là giống cái, còn cây không có quả là cây giống đực. Cây đa nghìn tuổi đang được đệ trình di sản thiên nhiên Người dân trong vùng quen rồi thì thấy ít sự khác lạ, có người thấy nó bình thường như bao cây cối khác. Còn khách vãng lại thì cứ xuýt xoa về câu chuyện cây thị chỉ có 1 quả vào mùa mà thủ từ Nguyễn Văn Lương kể. Nhiều người hiểu biết về văn hóa lịch sử còn bảo, sao không đề xuất nghiên cứu về sự đặc biệt của giống cây này. Nhiều người nói, nhiều lần các vị giáo sư về lịch sử cũng đánh giá, thế nhưng mãi đến năm 2010 bà con người dân ở Xuân La, mà khởi xướng là ông Nguyễn Văn Ngư, Trưởng BQL di tích đình Quán La mới họp bàn rồi làm đề xuất gửi quận, rồi gửi thành phố đề cử mấy cây đại thụ này vào di sản thiên nhiên. Điều đặc biệt, đứng ở cổng tam quan đình Quán La người ta hướng mắt về phía trước mặt sẽ thấy được cây thị và cây đa có cành hướng vào như như 2 cánh tay của 2 người với lại nhau. Khoảng trống rỗng trong thân gốc đa có thể chứa được hàng chục người lớn, bóng tỏa mát cả chợ cóc họp bên đường làng. Chị Nguyễn Thị Tuyết bán rau dưới gốc đa cho biết: “Sóc trên cây này gan lắm, chẳng sợ người đâu, có hôm đang bán hàng, nó đuổi nhau rơi cả xuống người, sợ hết vía”… Cây đại thụ chỉ có 1 quả mỗi mùa Cây thị ở đình Quán La đối diện với cây đa thì người ta cho rằng có nhiều điều lạ và khác biệt. Thậm chí nhiều người còn gán cho nó như sự tích thần kỳ trong truyền thuyết. Nào là vị thần Duệ Trang đã hóa thân vào cây thị, nào là vùng đất Thất Tinh nên mới có cây cổ thụ đặc biệt này. Đình Quán La di tích lịch sử đặc biệt, có 18 sắc phong của 18 triều đại. Huyền tích hay sự tích đều là câu chuyện của người tâm tín về giá trị của thiên nhiên, cây cối có bề dày thời gian. Và chính cái thời gian đã làm cho những cây đại thụ trở nên có giá trị đặc biệt về tâm linh, về mặt sinh thái. Theo như quan sát thực tế, cây thị nằm trên mô đất cao hơn cả ở trước cửa đình Quán La. Cây thân gỗ khoảng 3 người lớn vòng tay, có miếu thờ trang trí hoa văn rồng phượng. Được biết, vào ngày tuần rằm, mồng 1 người dân thường đến thắp hương cầu bình an. Trong sách Tây Hồ chí thì đình Quán La có từ thế kỷ thứ 11. Khi đó, vùng này nước mênh mông, sông Già La uốn lượn quanh ôm 7 quả núi nhô lên cao. Vì thế nơi này còn gọi là vùng Thất Tinh. Và đình Quán La là nơi người dân thờ vị sơn thần Duệ Trang có công giúp dân bớt khổ ải. Quần thể di tích đình, chùa Quán La đã được nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu đánh giá cao về bề dày lịch sử. Cùng với di tích là hai cây đại thụ hai bên cửa đình, có thời gian đến nghìn năm, như tô thêm giá trị vốn có về cụm di tích phía tây thành phố. Tại sao cây thị chỉ ra một quả vào mỗi mùa, điều này ngay chính cả người gắn bó với nó qua 70 mùa cũng không thể biết được. Và điều đặc biệt này, đến nay cũng chưa có ai nghiên cứu để lý giải về sự lạ kỳ ấy. Song, điều quan trọng hiện nay không phải cây thị có 1 hay sai trĩu quả và cây đa có hàng nghìn tuổi, mà cái quan trọng là nó đã từng gắn bó với làng xã nơi này từ thuở xa xưa như sự minh chứng về thời gian giữa thiên nhiên trời đất ở phía Tây hồ Tây mang đầy huyền bí, sự tích. Đón đọc bài 2: Bí ẩn hầm luyện đan sa dưới ngôi đình nghìn tuổi Đức Trí