wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Đã thực hiện suất ăn từ thiện ngày 15/10/2011 gồm có 400 phần quà là Nui xào thịt bằm trị giá 3,960,000 đ (ba triệu chín trăm sáu mươi ngàn dồng) và 400 phần nước V Fresh trị giá : 1,920,000 đ (một triệu chín trăm hai mươi ngàn đồng) Bao bì : 62,000 đồng (sáu mươi hai ngàn đồng) = 5,950,000 đ (năm triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng) Quỹ hiện có : 6,900,000 đ - 5,950,000 đ = 950,000 đ (chín trăm năm mươi ngàn đồng) http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/22382-suat-an-tang-benh-nhan-khoa-noi-ung-buou/page__pid__151865__st__20#entry151865
  2. Với phiếu trên tay họ yên tâm chúng tôi sẽ lần lượt trao quà đến họ.. Số người tham gia có trên ảnh thực sự chỉ là phân nữa lực lượng, số còn lại đã tản mác thăm hỏi những người không có quà hôm nay, còn các cháu bé chắc chắn sẽ có bài học về tình yêu thương chia sẽ và câu hỏi đã đặt ra "sao nhiều người XIN quá vậy bác?' câu hỏi này bỏ ngỏ bởi không thể một sớm một chiều cho các cháu hiểu về những số phận không may mà bao bàn tay nhân ái không che nổi bể khổ của bệnh tật và đói nghèo.
  3. Hôm nay có nhận của G/đ Anh Công Minh ủng hộ suất ăn cho bệnh nhân Ung bướu 1,500,000 đ (một triệu năm trăm ngàn đồng) Quỹ hiện có : 5,200,000 đ + 1,500,000 đ = 6,700,000 đ (sáu triệu bảy trăm ngàn đồng) Và của Chị Võ khắc Quốc Thái 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) Quỹ hiện có : 6,700,000 đ + 200,000 đ = 6,900,000đ (sáu triệu chín trăm ngàn đồng)
  4. Nhóm từ thiện chúng tôi đã thực hiện chuyến trao tặng quà lần 3 cho những bệnh nhân nghèo điều trị ngoại trú ngụ trong con hẻm quanh khu vực Bệnh viện, ở đây chúng tôi trực diện tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh nhiều mãnh ghép của cuộc sống tan tác đau thương. Phần quà hôm nay gồm : Còn khâu chuẩn bị vô bao từng phần. lực lượng phát quà hôm nay tương đối đông. Hậu phương của Anh Công Minh đã hổ trợ nhóm từ thiện trong việc phân quà. Rút kinh nghiệm 2 lần trước, chúng tôi tạo rào chắn bằng cách dựng 6 chiếc xe gắn máy, và chia thành 3 góc phân phối. Và những tấm phiếu được đưa ra vẫn không trật tự.
  5. Chẳng biết Bác TS có nhầm không? Thời đó mà Kim Cương 67 tuổi???? Thì bây giờ bà ấy bao nhiêu nhỉ? Thời này hiện nay Bà ấy theo Wild độ chừng ngoài 60 Bác ah!
  6. Cõi Ta-bà : Sống, Chết và Tái sinh Cõi ta-bà Ta-bà là chu kỳ sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu. Bám víu vào sự sống là một sự hão huyền Thật hoài công khi muốn bám víu vào sự hiện hữu này, dù sống đến trăm tuổi ta cũng phải chết một ngày nào đó. Hơn nữa giây phút ra đi không thể biết trước được, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Dù là người giàu có, dù được những người chung quanh chăm sóc, sự sống này sớm muộn cũng chấm dứt, không cứu vãn được. Của cải chẳng giúp được gì, cái chết của một người tỉ phú không khác cái chết của một con thú hoang. Vô thường Trong chu kỳ hiện hữu, trên dòng nối tiếp bất tận của vô số kiếp tái sinh và trong khoảng thời gian của mỗi kiếp, bất thần tất cả vụt biến đổi. Tuy không có gì báo trước, thế nhưng hình như tất cả bỗng nhiên được tháo gỡ, địa vị xã hội sụp đổ, đoàn tụ trở thành chia ly, sự sống trở thành cái chết. Hạnh phúc trôi nhanh. Tất cả những gì thuộc sở hữu của ta trở nên vô thường. Tất cả những gì trước đây ta xem là thật cũng chỉ là vô thường. Sân khấu của vô thường Tái sinh không phải là một cách tránh né cái chết. Trái lại, mỗi chúng ta trong từng ngày nhích lại gần hơn với cái chết, tương tợ như những con vật bị đưa đến lò sát sinh. Trong vũ trụ này, bất cứ gì đều bị chi phối bởi quy luật vô thường và sẽ tan rã. Ngài Đạt-lai Lạt-ma thứ VII có nói như sau : "Những người còn trẻ,cường tráng và khoẻ mạnh nhưng chết sớm chính là những vị thầy thuyết giảng cho chúng ta về vô thường. Vô thường tương tợ như một sân khấu, sau một màn trình diễn các diễn viên trở vào hậu trường thay y phục và sau đó lại trở ra ". Nguồn gốc của sự sống hiện tại và tương lai Kinh sách Phật giáo giảng rằng tâm thức (esprit - spirit) không có khởi thủy, do dó sự tái sinh cũng không có khởi thủy. Phân tích cẩn thận và nghiêm túc sẽ thấy rằng tri thức (conscience - consciousness) không hề là nguyên nhân thực thể của vật chất, ngược lại vật chất cũng không phải là nguyên nhân thực thể của tri thức. Giả thuyết duy nhất có thể chấp nhận được là nguyên nhân của tri thức là một tri thức khác đã có từ truớc.Đấy là một cách chứng minh và giải thích nguồn gốc của sự sống trong quá khứ và tương lai [sự tiếp nối của sự sống]. Tái sinh làm người là một sự quý hiếm Hãy tưởng tượng một cái ách [dùng cho bò kéo cày] bằng gỗ nạm vàng trôi dạt trong một đại dương mênh mông. Có một con rùa già mù lòa sống trong đáy đại dương, cứ cách một trăm năm lại nổi lên mặt nước để thở một lần. Vậy thì cơ may khiến con rùa chui đầu vào cái ách bằng vàng ấy là bao nhiêu? Đức Phật giảng rằng được tái sinh dưới thể dạng con người cũng hiếm hoi như thế. [cái ách nạm vàng thật quý giá tượng trưng cho sự tái sinh làm người, thế nhưng đồng thời nó cũng tượng trưng cho sự trói buộc và nhọc nhằn]. Tái sinh và đầu thai Chư Phật bảo rằng tái sinh là một sự thật. Chính thế, đây là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta tin rằng có một thứ tri thức (consciuosness) thật tinh tế làm nguồn gốc phát sinh ra đủ mọi thứ mà chúng ta gọi là sự sáng tạo. Tri thức tinh tế ấy hiện hữu trong mỗi cá thể từ lúc khởi thủy tiếp tục cho đến khi đạt được Phật tính. Đấy là gì mà người ta gọi là sự "hiện hữu" (être - being). Nó có thể mang nhiều hình tướng khác nhau, chẳng hạn như một con thú, một con người hoặc cũng có thể là một vị Phật. Đấy là nguyên tắc căn bản của giả thuyết tái sinh.Theo dòng thời gian từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, tâm thức tinh tế chuyển đổi từ hình tướng này sang hình tướng khác và tìm cách đạt được Phật tính. Nếu tái sinh là một sự bắt buộc đầu thai là một sự chọn lựa. Quyền được chọn lựa dành riêng cho một số cá thể xứng đáng, chủ động được sự tái sinh của mình trong tương lai, đấy là trường hợp của chư Phật và một số người khác nữa.Khi tâm thức đạt được một cấp bậc phẩm tính nào đó mà chúng ta gọi là tri thức tinh tế, tâm thức không còn chết nữa, ít nhất là theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Tâm thức đó hàm chứa khả năng giúp nó có thể chọn lựa một thân xác khác để đầu thai. Đấy là trường hợp đặc biệt của các vị bồ-tát (boddhisattva). Dù đang đứng ở ngưỡng cửa của niết-bàn (nirvana), người bồ-tát cũng không bước vào, vì họ nhất quyết lưu lại trong cõi ta-bà tức là chu kỳ hiện hữu để giúp đỡ chúng ta. Dưới cái nhìn của chúng tôi [những người Phật giáo], tái sinh và đầu thai là một điều hiển nhiên, một hiện tượng vật lý, có thật như những hạt nguyên tử. Sự chối bỏ Tất cả mọi cảm nhận - thích thú hay hạnh phúc trong chu kỳ hiện hữu - dù mãnh liệt hay tuyệt vời đến đâu đều chấm dứt một cách thảm thương. Hãy nghĩ đến bản chất hư ảo của chúng để hiểu rằng nên chấm dứt ngay cái vòng lẩn quẩn đó, dù cố gắng tiếp tục thêm cũng chẳng lợi ích gì. Vì thế hãy phát động trong lòng sự ghê tởm sâu xa về chuỗi dài thử thách đó [tức chu kỳ hiện hữu] và quyết tâm từ bỏ nó. Vậy chúng ta thử tìm hiểu thật chính xác xem đâu là nguyên nhân mang lại các nỗi khốn khổ và đớn đau ấy. Sự tin tưởng do bản năng về một cái tôi độc lập Khổ đau không phải vô cớ xảy ra, thế nhưng nó cũng không phải là tác phẩm của một vị Trời toàn năng nào cả. Đấy là sản phẩm phát sinh từ những lầm lẫn và những hành động thúc đẩy bởi các thể dạng tâm thức không chủ động được của chính mình. Nguyên nhân trước hết của khổ đau là vô minh, đấy là sự hiểu biết sai lạc về bản chất của mọi hiện tượng, tự xem mình hiện hữu một cách tự tại. Vô minh phóng đại cương vị của các hiện tượng và tạo ra các ranh giới phân biệt ta với người khác. Tự xem mình quý giá nhất trong vũ trụ khiến ta đối xử với người khác như chính ta là một vị Phật. Trên thực tế thái độ đó chưa bao giờ mang lại hạnh phúc lâu bền. Tính cách lừa phỉnh của các thể dạng bên ngoài Khi nào ý thức được các hiện tượng chỉ là sự lừa phỉnh khi đó ta mới đủ khả năng để hiểu là chúng không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào. Sự phủ nhận đó không có nghĩa là loại bỏ một thứ gì đã từng hiện hữu trước đây, đấy chỉ là cách đơn giản thừa nhận những gì chưa bao giờ hiện hữu sẽ đương nhiên không hiện hữu. Vì lầm lẫn chúng ta xem các thể dạng bên ngoài là thật. Thế nhưng các thể dạng bên ngoài không tương quan với bất cứ một thực thể nào. Ảo giác khiến ta tưởng lầm sợi giây thừng là con rắn Hãy lấy thí dụ một cuộn giây thừng vào lúc nhá nhem tối, ta tưởng lầm đấy là một con rắn. Sự nhận biết sai lầm cho rằng sợi giây thừng là con rắn gây ra trong tâm thức một số phản ứng chẳng hạn như sự sợ hãi, sợ hãi làm phát sinh ra hành động thí dụ như tông cửa phóng chạy hoặc tìm cách giết con rắn. Tất cả các hành động ấy xảy ra chỉ vì một sự lầm lẫn nhỏ nhặt. Cũng thế chúng ta tưởng lầm thân xác và tâm thức của mình hàm chứa một cái tôi nào đó, từ đấy sinh ra mọi thứ sai lầm khác chẳng hạn như dục vọng, giận dữ. Từ thái độ ích kỷ tức bám víu vào một cái tôi ta phân biệt mình với người khác. Tất cả đều thuộc vào một tổng thể Nếu một vật thể nào đó không thể phân tách ra nhỏ hơn nhất định vật thể ấy mang tính cách độc lập, thế nhưng chẳng có bất cứ gì không thể phân chia được. Bất cứ gì lệ thuộc vào các thành phần tạo ra nó đều được chỉ định dựa vào thể dạng tương kết giữa các thành phần ấy, và sự xác định ấy chỉ hiện hữu xuyên qua ý niệm của ta. Nếu như tất cả các thành phần hiện hữu một cách cụ thể [đúng như chúng đã hiển hiện ra], hiện thực phải được xác nhận một cách minh bạch bằng các phương pháp phân giải. Thí dụ, theo quy ước người ta chấp nhận sự hiện hữu của "cái tôi" biết biểu lộ vui thích và cảm nhận được đớn đau, thế nhưng khi sử dụng phép phân giải để khảo sát và tìm kiếm "cái tôi" ấy thì không thấy nó đâu cả. Dù có xoay chiều đổi hướng phép phân giải ta cũng không thể tìm thấy "cái tôi" ở bất cứ nơi nào. Không có một tổng thể nào khác hơn các thành phần tạo ra nó, [câu này có nghĩa là không tìm thấy một thành phần nào tượng trưng cho "cái tôi" trong một tổng thể, trong số tất cả các thành phần tạo ra một cá thể (tổng thể) con ngưởi gồm thân xác và tâm thức không tìm được một thành phần nào gọi là "cái tôi"]. Sự tiếp nối liên tục của tri thức Dù thân xác chỉ là tổng hợp của nhiêu thành phần hóa học và vật lý, thế nhưng vẫn có một tác nhân tinh tế rạng ngời và tinh khiết tạo ra sự sống của các sinh linh. Tác nhân ấy không mang tính cách vật chất nên không cân đo được, thế nhưng không phải vì thế mà nó không hiện hữu. Theo quan điểm Phật giáo, tri thức(consciousness) được hiểu là phi-vật-chất. Nhất định phải có một nguyên nhân sinh ra tri thức, nguyên nhân ấy thuộc bản thể tinh anh tạo ra sự sống, do đó tri thức cũng có cùng một bản thể với sự sống. Nếu không có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước đó sẽ không có một tri thức nào xảy ra tiếp theo sau, dù bất cứ dưới hình thức nào, [khi nào có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước, sau đó mới có một khoảnh khắc tri thức khác tiếp nối theo sau]. Tri thức không phát sinh từ hư vô, nó cũng không tan biến để trở thành hư vô. Vật chất cũng không thể trở thành tri thức. Khi nào hiểu được không có một sự dừng lại [chấm dứt] nào của sự tiếp nối tri thức trong một kiếp sống, khi đó ta mới nhận thấy tính cách hợp lý (lôgic) của luận cứ cho rằng sau cái chết còn có một sự sống khác. [tri thức tiếp nối liên tục hết kiếp nay sang kiếp khác không ngưng nghỉ, khái niệm đó cho thấy các kiếp sống (chết - tái sinh) thay nhau hiển hiện trên dòng tiếp nối đó, vì thế sự tiếp nối liên tục của tri thức không thể đứt đoạn (ngưng nghỉ) trong một kiếp sống] Tâm thức là gì ? Khảo sát cẩn thận sẽ thấy tâm thức (esprit - spirit) là một thứ gì đó tương tợ như một không gian trong suốt, hoàn toàn trống không, trong đó tất cả mọi sự hiển hiện (appartions -appearances) đều đình chỉ [có nghĩa là tất cả mọi tư duy và xúc cảm đều là những sự hiển hiện, do đó chúng không phải là các thành phần tự tại của tâm thức, người ta thường lầm tưởng những sự hiển hiện ấy là "cái tôi"]. Tư duy là gì Đối với cá nhân tôi, tôi tin chắc tất cả mọi hiện tượng trước hết đều phát sinh từ tư duy (pensée - thought) [chủ trương của học phái Duy thức]. Tư duy tạo ra nhiều tác động hơn hẳn so với vật chất. Theo triết học Phật giáo,tư duy dù kỷ cương hay không đều làm phát sinh ra nghiệp (karma), nghiệp nhất thiết ảnh hưởng đến các yếu tố bên trong, các yếu tố này sau đó mới tác động vào các yếu tố bên ngoài. Nghiệp là gì ? Nghiệp (karma) có nghĩa là một "hành động". Nghiệp tác động bằng ba cách : thân xác, ngôn từ và tâm ý [khái niệm về ba cửa ngõ trong giáo lý Phật giáo : thân, khẩu, ý]. Nghiệp tạo ra ba thứ hậu quả : đạo hạnh, không đạo hạnh và trung hòa. Quá trình vận hành của nó gồm hai giai đoạn : thí dụ ta suy tính trong đầu sẽ làm một việc gì đó, đấy là một hành động duy ý ; sau đó sự suy tính chuyển thành hành động trên thân xác hoặc ngôn từ, đấy là hành động thực thi đã được suy tính trước [cố tình]. Những hành động tiêu cực nhất định mang lại khổ đau, các hành động tích cực đương nhiên mang lại tốt đẹp. Các hành động tạo nghiệp theo đuổi chúng ta từ kiếp này sang kiếp khác. Tích lũy được các hành động tích cực sẽ mang lại lợi ích trong tương lai và các kiếp sống về sau, ngược lại nếu liên tiếp phạm vào những hành động tai hại nhất định ta sẽ phải nhận lãnh các hậu quả phát sinh từ những hành động đó. Quy luật nguyên nhân và hậu quả Nếu muốn biết ta đã làm những gì trước đây chỉ cần nhìn vào thân xác ta hôm nay sẽ rõ [thân xác đó xinh đẹp, khoẻ mạnh, thông minh..., hay xấu xí, bệnh tật, đần độn...?] Nếu muốn biết sau này ta sẽ ra sao, hãy quan sát xem tâm thức ta đang vận hành như thế nào. Thích thú và đớn đau Thích thú và đớn đau là hậu quả. Bản chất khác biệt và đa dạng của chúng cho thấy chúng lệ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế muốn tìm thấy sự thích thú, ta phải tạo ra các nguyên nhân làm phát sinh ra nó, muốn lẫn tránh khổ đau ta cũng phải tìm cách loại bỏ nguyên nhân làm phát sinh ra khổ đau. Khi một nguyên nhân mang lại khổ đau được ghi khắc trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức, dù muốn tránh xa khổ đau cách mấy ta cũng sẽ phải đối đầu với nó. Lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt Hậu quả của các hành động tai hại tùy thuộc vào cường độ của ảo tưởng (illusion) làm phát sinh ra chúng. Hậu quả tương xứng với nguyên nhân của nó. Thí dụ, tái sinh trong một cõi thấp hơn vì vi phạm vào hành động sát nhân chẳng hạn, kể cả trường hợp vẫn còn giữ được thể dạng con người đi nữa thì sự hiện hữu đó sẽ rất ngắn. Phạm vào hành động trộm cắp sẽ tái sinh trong cảnh thiếu thốn, phạm vào hành vi dục tính thiếu đạo hạnh sẽ gặp người phối ngẫu ngoại tình ; lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt, bất hòa đưa đến chia rẽ giữa bạn bè, cứ như thế mà tiếp tục. Quán nhận sai lầm sẽ tạo ra tình trạng hoang mang bất định hướng. Hanh phúc hay khốn cùng trong hiện tại là hậu quả của những hành động mà ta thực thi trong quá khứ, không hơn không kém. Quy luật chi phối sự tái sinh Vô số kiếp tái sinh đang chờ đợi ta, các kiếp ấy có thể tốt hay xấu. Không thể tránh được hậu quả của nghiệp. Không thể đảo ngược các hành động. Ta sẽ gặt hái hậu quả một ngày nào đó. Khi một hành động được thực thi, nguyên nhân sẽ sinh ra, nó hiện hữu và tăng trưởng cho đến khi nào tạo ra hậu quả. Hành động dù được thực thi từ nhiều kiếp trước, tác động của nó vẫn luôn tiềm tàng, dù trải qua những khoảng thời gian thật lâu dài. Chìa khoá mang lại sự may mắn và kém may mắn Các thành phần cá nhân rất khác biệt nhau trong tập thể con người. Nhiều người luôn gặt hái được thành công, một số khác chỉ gặp toàn thất bại. Một số người dù không mong muốn nhưng cứ gặp đủ mọi thứ bất hạnh, trái lại một số khác tưởng chừng khó tránh khỏi những chuyện tệ hại, thế nhưng chẳng có gì xảy ra. Nêu lên các sự kiện trên đây để thấy rằng không bắt buộc mọi chuyện phải xảy ra theo như ý mình muốn. Đôi khi ta cố gắng tìm đủ mọi cách để mang lại thành công thế nhưng chỉ thấy toàn thất bại. Người ta nghĩ rằng có người may mắn có người không, thế nhưng may mắn phải có một lý do tức phải có một nguyên nhân nào đó tạo ra nó. Theo Phật giáo đấy là hậu quả mang lại từ các việc đã làm trong kiếp trước hay trong kiếp sống hiện tại. Kể cả trường hợp phải đối đầu với nghịch cảnh, thế nhưng nếu tiềm năng [của nghiệp tích cực mang lại sự "may mắn"] đã chín, sức cố gắng sẽ mang lại thành công. Trách nhiệm Hậu quả phát sinh từ nghiệp thật sự chỉ có ý nghĩa tốt đẹp khi nào chúng mang lại lợi ích góp phần vào sự cải thiện đời sống xã hội và giúp chống lại các kẻ thù nguy hiểm nhất tức vô minh, bám víu và hận thù. Dù tin hay không tin, trên thực tế quy luật nhân quả luôn tác động vào cuộc sống thường nhật của ta. Khi tất cả mọi người đều ý thức được tính cách chặt chẽ của quy luật nhân quả, có lẽ khi đó cũng không cần đến cảnh sát vì tâm thức sẽ đóng vai trò đó. Vì thế, phương pháp hiệu quả nhất ngăn ngừa sát nhân là tự mình phải cảnh giác lấy mình. Khi nào ý thức được tương lai hoàn toàn nằm trong tay mình, khi đó ta sẽ không phạm vào tội sát nhân [có thể áp dụng cho những người gây ra chiến tranh và điều khiển các cuộc tàn sát]. Biến cải nội tâm sẽ giúp tránh được các hành động phạm pháp mang lại sự an bình trong xã hội, thế nhưng muốn biến cải nội tâm phải hiểu được bản chất của chính mình là gì. Tất cả đều bắt nguồn từ tâm thức Các sự kiện, các biến cố nhất thiết tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy làm phát sinh ra chúng. Hãy lấy bối cảnh gia đình để làm thí dụ : nếu mọi người đều cư xử tốt đẹp với nhau không khí gia đình sẽ êm ấm, nếu một người bực dọc tức thời căng thẳng sẽ phát sinh. Dù bữa cơm có thịnh soạn, chương trình truyền hình buổi tối thật lý thú cũng không đủ sức mang lại sự an bình trong gia đình. Bối cảnh tùy thuộc vào thể dạng tâm thức bên trong nhiều hơn các điều kiện môi trường bên ngoài. Cộng nghiệp Nhiều chúng sinh lệ thuộc vào các bối cảnh thời gian và không gian khác nhau, thế nhưng họ có thể tích lũy một thứ nghiệp tương tợ nhau. Họ tái sinh chung trong một thời đại và trong cùng một nơi chốn. Khổ đau mà họ gánh chịu là kết quả mang lại từ cộng nghiệp của họ [thí dụ nhiều cá thể cùng tái sinh trong một xứ sở nào đó, họ chịu chung những đại nạn xảy ra cho xứ sở ấy, đấy gọi là cộng nghiêp. Ở một mức độ nhỏ hơn chẳng hạn như tai nạn máy bay, hành khách thật đa dạng thế nhưng tất cả gánh chịu một hậu quả giống nhau] Tác động do mỗi người tạo ra đối với môi trường chung Nói một cách tổng quát người ta có thể bảo rằng sự tiến hóa của vũ trụ nhất thiết liên hệ với nghiệp của chúng sinh. Sự kiện này thật vô cùng phức tạp, thế nhưng ta thử lấy thí dụ về sự thay đổi khí hậu chẳng hạn. Hãy tưởng tượng ra một tập thể con người bị chi phối bởi hận thù và giận dữ, tôi nghĩ rằng thể dạng xúc cảm tiêu cực đó tác động vào môi trường chung quanh tạo ra nóng bức và khô cằn [Trung đông ?]. Nếu sự bám víu và ham muốn của tập thể quá mạnh và lan rộng sẽ tạo ra ẩm thấp hoặc ngập lụt [Trung quốc, Nam Mỹ, Á châu...?]. Tôi chỉ muốn nêu lên các suy diễn trên đây thế thôi và không khẳng định gì cả. Dù là một cá thể hay một tập thể, sự sinh hoạt, thái độ và tâm thức của từng người, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác đều góp phần tác động vào môi trường chung. Ai tạo ra vũ trụ Hiện tượng tiến hóa nhất định phải có một nguyên nhân, thế nhưng sự giải thích nguyên nhân đó lại có hai cách khác nhau. Hoặc ta chấp nhận vũ trụ do Trời sáng tạo, điều đó mang lại nhiều mâu thuẫn vì nhất thiết khổ đau và những gì xấu xa cũng phải do Trời sáng tạo. Hoặc có thể giải thích là tiềm năng cộng nghiệp của vô tận chúng sinh có giác cảm làm phát sinh ra vũ trụ, tượng trưng cho một môi trường chung thích nghi với sự hiện hữu của các sinh linh ấy. Vũ trụ mà chúng ta đang sống được tạo dựng từ các hành động và tham vọng của chính chúng ta. Và cũng chính vì thế mà chúng ta đang hiện diện tại nơi này. Ít ra điều đó cũng tỏ ra hợp lý (lôgic). [một cách giải thích vô cùng cao siêu, cần mở thật rộng tâm thức vượt lên trên định kiến và các khái niệm quy ước mới nắm vững được chiều sâu của cách lý luận trên đây, nên liên tưởng đến học thuyết Duy thức]. Bản chất không tì vết của tâm thức Nếu các thứ nọc độc của tâm thức - như bám víu, hận thù và vô minh - là những thành phần tự tại của tâm thức, sẽ không có cách nào loại bỏ chúng khỏi tâm thức, và nếu đúng như thế hận thù chẳng hạn sẽ thường xuyên ngự trị trong ta, nó chỉ chấm dứt khi nào tri thức chấm dứt ; đối với các trường hợp bám víu và dục vọng cũng thế. Thật ra thì không đúng, ta có thể loại trừ tận gốc bám víu, hận thù và vô minh bởi vì chúng không thuộc vào thành phần tự tại của tri thức, điều đó cho thấy bản thể của tâm thức không hề bị các khiếm khuyết [bám víu, hận thù và vô minh] làm cho sứt mẻ. Bản chất rạng người của tâm thức Tâm thức mang bản chất hoàn toàn rạng ngời và "sáng suốt", vì thế sự giải thoát có thể thực hiện được. Tìm thấy bản thể đích thật của tâm thức có nghĩa là đạt được sự giải thoát. Tánh không Con người sinh ra và chết đi. Khổ đau, hạnh phúc đến với họ rồi cũng ra đi. Các biến đổi ấy hiện ra và biến mất. Nếu khổ đau và phúc hạnh đúng là những sự kiện độc lập chúng sẽ bất biến, tức không đổi thay. Nếu phúc hạnh, khổ đau và ba thứ nọc độc là bám víu, hận thù và vô minh không lệ thuộc vào những nguyên nhân bên ngoài, chúng sẽ giữ nguyên như thế không hề biến đổi. Thế nhưng [không đúng như thế] tất cả các hiện tượng ấy chỉ có thể quan niệm được bằng thể dạng tánh không và vô ngã của chúng. Do đó tất cả mọi hiện tượng đều được tạo dựng bởi thực thể trống không, [nói cách khác] sự tạo dựng đó chỉ là các biểu tượng hay cách hiển hiện của thực thể trống không. Tánh không và con số 0 Tánh không tương quan với sự trống không, sự vắng bóng hoàn toàn của bất cứ một sự hiện hữu nội tại nào. Tôi thường giải thích tánh không tương tợ như con số không (0). Con số 0 có nghĩa là không có gì cả, thế nhưng nếu không có nó ta không thể tính toán gì được. Vì thế con số 0 là một thứ gì đó, đồng thời cũng không có gì cả. Sự trống không cũng tương tợ như thế. Trống không là trống không, thế nhưng đồng thời nó cũng là nền móng của tất cả. Không gian và vụ nổ lớn Big Bang Rất nhiều triết gia Đông phương, đặc biệt là các triết gia Phật giáo, nêu lên bốn yếu tố : đất, nước, lửa và khí, kèm theo với chúng là không gian. Bốn yếu tố đầu tiên sở dĩ tồn tại là nhờ vào yếu tố thứ năm tức không gian làm cơ sở chuyển tải cho chúng. Theo một số kinh sách Phật giáo chẳng hạn như kinh Kalachakra Tantra [kinh Thời luân], không gian hay không trung (ether) không phải là một sự trống không hoàn toàn hay một sự trống rỗng không có bất cứ gì trong đó. Không gian được cấu hợp bởi những "hạt vi tế trống không". Các hạt vi tế trống không làm phát sinh ra bốn yếu tố dưới các thể dạng vật chất tiên khởi thật tinh tế và sau đó mới trở nên thổ thiển hơn (tức là khí, lửa, nước và đất), người ta gọi đấy là quá trình của sự hình thành. Sau đó chúng tan biến dần, bắt đầu từ thể dạng vật chất thô thiển nhất (đất, nước, lửa và khí) chuyển sang các thể dạng vật chất thật tinh tế để hội nhập trở lại với các hạt vi tế trống không, đấy là quá trình của sự tan biến. Không gian hay tánh không toàn cầu làm cơ sở vận hành cho cả hai quá trình Vụ nổ lớn Big Bang tượng trưng cho sự hình thành của vũ trụ cho thấy có những điểm tương đồng với tánh không toàn cầu [trong Phật giáo]. Các hạt vi thể tinh tế nhất do các ngành khoa học vật lý tân tiến khám phá cho thấy khá tương đồng với những gì mà chúng ta [những người Phật giáo] gọi là các "hạt vi tế trống không". Vì thế tôi thấy hết sức quan trọng phải nghiên cứu về các sự tương đồng trên đây. Nguồn gốc của vũ trụ Phật giáo cho rằng thế kỷ chúng ta đang sống là hậu quả để lại từ các thế kỷ trước, có thể tiếp tục sự suy luận trên đây ngược về khởi thủy của thời gian, tức cách nay khoảng hai mươi hay hai mươi lăm tỉ năm. Thế nhưng tại sao và bằng cách nào vụ nổ Big Bang đã xảy ra ? Điều đó không ai trả lời được. Đối với tôi có hai cách giải thích tuy cả hai không thể chấp nhận được. Cách thứ nhất cho rằng không có nguyên nhân nào cả, mọi sự vật tự nó xảy ra như thế. Theo tôi thì cách giải thích này không hiểu nổi. Đối với Phật giáo bất cứ một hiện tượng nào cũng phải có một nguyên nhân làm phát sinh ra nó. Cách giải thích thứ hai mang tính cách thần thánh : vào một ngày đẹp trời nào đó Trời quyết định sáng tạo ra thế giới. Chúng ta cũng không thể chấp nhận sự giải thích này. Theo kinh sách Phật giáo những hạt vi thể tinh tế hiện hữu từ trước trong không gian, trước khi vũ trụ được hình thành, và hiện thời chúng vẫn đang hiện hữu. Các hạt vi thể tinh tế mang đặc tính tinh thần cấu tạo ra các sinh linh và làm phát sinh ra Big Bang. Tại sao ? Bằng cách nào ? Bất cứ một vũ trụ nào sau khi được phát sinh sẽ biến mất sau đó. Vô số chu kỳ [sinh diệt] tiếp nối nhau bất tận. Thế nhưng vũ trụ trong tổng thể của nó tức là "vũ-trụ-tâm-thức" vẫn luôn hiện hữu. Người ta cũng có thể cho rằng "tâm-thức-tinh-tế" trên đây ["vũ-trụ-tâm-thức"] hàm chứa một sức mạnh [tiềm năng] vô song, đấy chính là nguyên tắc sáng tạo nguyên thủy. Một số chúng sinh vào một lúc nào đó có thể tận hưởng sự hiện hữu của vũ trụ ấy [khi đã đạt được giác ngộ]. Vì thế mà vũ trụ ấy đang hiện hữu. [giác ngộ là khả năng hội nhập với sức mạnh vô song của "vũ-trụ-tâm-thức"]. "Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng" Chúng ta là trống không, hay ít ra các chất liệu cấu tạo ra chúng ta là trống không. Cũng cần nhắc lại là chữ trống không không có nghĩa là "hư vô". Một số người hiểu sai cho rằng Phật giáo chủ trương chủ nghĩa "hư vô" ("nihilism"). Theo Phật giáo, thế giới trong đó gồm có chúng ta là một thể chất lưu chuyển, một dòng chảy của các thể dạng. Điều đó không có nghĩa là không có gì cả. Tất cả mọi sự vật đều lệ thuộc vào nhau. Không có gì hiện hữu riêng biệt được. Các vật thể này gánh chịu tác động của các vật thể khác, khiến chúng xuất hiện, hiện hữu, biến mất và lại hiện ra. Thế nhưng tự chúng chúng không thể tự hiện hữu. Vì thế hình tướng là "trống không", có nghĩa là hình tướng không thể tách rời một cách riêng rẽ ra được, nó không thể độc lập. Hình tướng này lệ thuộc vào vô số hình tướng khác [để hiện hữu] Trống không là hình tướng bởi vì bất cứ hình tướng nào cũng bắt buộc hình thành trong cái trống không đó, tức trong thể dạng vắng mặt của sự hiện hữu nội tại. Trống không tham gia vào việc hướng dẫn hình tướng, (Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng" là một trong những câu nổi tiếng nhất trong Bát nhã Tâm kinh). Con đường trực tiếp : thuyết thần bí, du-già, thiền định và thể dạng xuất thần. Tư duy thuộc lãnh vực khái niệm mang tính các hạn hẹp, như chúng ta đều biết. Chính vì thế hầu hết các tín ngưỡng trên đường dò tìm sự hiểu biết [bằng khái niệm] đều vấp phải thật nhiều khó khăn nan giải, vì thế tất cả đều tìm cách dựa vào một "con đường trực tiếp" hơn. Trên con đường đó người ta thấy xuất hiện đủ các phương pháp như : thần bí, du-già, một số hình thức thiền định, sự xuất thần với mục đích mang lại sự giác ngộ. Phương pháp tiếp cận trực tiếp của Phật giáo Tây tạng dựa vào "kinh nghiệm" có thể đưa chúng ta trở về cội nguồn của thế giới, thế nhưng phương pháp này thật vô cùng gay go, đòi hỏi phải có một tâm thức thật tinh luyện đạt đến cấp bậc cao nhất của sự tinh tế, giúp nó tách rời ra khỏi các chu kỳ thời gian [thời gian theo Phật giáo mang tính cách chu kỳ, chu kỳ thời gian nêu lên trong câu trên đây ám chỉ các chu kỳ sinh diệt của các vũ trụ nối tiếp nhau, xin xem lại mục Nguồn gốc của vũ trụ trình bày trên đây]. Một số bạn hữu của tôi hiện còn sống đã đạt được thể dạng ấy [Đức Đạt-lai Lạt-ma không bao giờ tuyên bố là Ngài thực hiện được bất cứ một điều gì "siêu nhiên", Ngài chỉ là một nhà tu hành rất bình dị và Ngài chỉ kể ra các phép mầu nhiệm mà người khác làm được]. Sự xuất thần và phúc hạnh Khi xuất thần ta đạt được một trạng thái tâm linh thật tinh tế ; khi cường độ của nó đạt đến điểm tột đỉnh ta có thể cảm nhận với tất cả niềm hân hoan thể dạng vắng bóng của sự hiện hữu nội tại, tức là tánh không, sự trống không. Thân xác và chiêm bao Thừa hưởng hậu quả từ nghiệp của mình trong quá khứ, một số người thực hiện được những việc khác thường trong kiếp sống hiện tại. Chẳng hạn như các trường hợp tâm thức xuất khỏi thân xác, sở dĩ đạt được khả năng đó là nhờ vào các thành quả tu tập từ các kiếp trước. Các khả năng trên đây phát lộ như là năng khiếu sẵn có. Tuy nhiên trong một số trường hợp đấy là kết quả do sự tu tập ngay trong kiếp sống này mang lại. Thiết nghĩ cũng nên xác nhận rõ ràng "thân ảo mộng" [hiện tượng "xuất hồn"] không phải là một sự quán thấy tâm thần nhưng đấy là một thân xác tinh tế thật sự, có khả năng tách rời khỏi thân xác thông thường và cảm nhận được thế giới bên ngoài đúng như chúng ta cảm nhận trong trạng thái bình thường. Đây là một đường hướng khảo cứu quan trọng nên quan tâm. Khoa học và tri thức Các khảo cứu khoa học sở dĩ tiến hành được là nhờ vào các dụng cụ và máy móc. Các khảo cứu mang tính cách tâm linh trái lại tiến hành nhờ vào các kinh nghiệm nội tâm và thiền định. Thiết nghĩ cần phải phân biệt thật minh bạch giữa những gì khoa học bó tay và những gì khoa học chứng minh là không hiện hữu. Phải hiểu rõ có vô số hiện tượng rất thần bí. Giác quan của con người có khả năng cảm nhận thật giới hạn, vì thế ta không thể bảo rằng bên ngoài khả năng nhận biết của ngũ giác không có gì cả. Đối với việc tìm hiểu tri thức (consciousness), rất nhiều sinh linh [ám chỉ các sinh linh ngoại lệ, các thánh nhân] kể cả một số người, từ thật nhiều thế kỷ trước đã từng cảm nhận trực tiếp được tri thức, thế nhưng ngày nay chúng ta vẫn còn mù tịt không hiểu tri thức là gì [tức không hiểu phương thức vận hành và bản chất của tri thức là gì]. Các sự nhận biết của tri thức không mang hình tướng, không màu sắc, đấy là các hiện tượng không thể nhận biết bằng các phương pháp thông thường dùng để khảo sát các hiện tượng bên ngoài. Phật giáo có phải là một khoa học tâm linh hay không ? Các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mở rộng thêm không gian cho chúng ta. Thật tuyệt vời ! Từ thuở nhỏ tôi đã say mê lãnh vực khảo cứu khoa học này ; các khám phá về không gian thật vô cùng lợi ích cho nhân loại. Thế nhưng các khảo cứu nội tâm cũng đáng cho chúng ta chú ý. Trong lãnh vực tâm thức còn nhiều khoảng không gian rộng lớn chờ được khám phá. Nhiều khoa học gia không xem Phật giáo như một tôn giáo cứng nhắc mà họ đánh giá Phật giáo như một ngành khoa học, và cũng nên hiểu đấy là một ngành khoa học vô cùng phức tạp. Phương pháp tiếp cận của Phật giáo căn cứ vào thực nghiệm giống như tất cả các ngành khoa học khác. Niết-bàn là gì ? Niết-bàn là một thứ " phẩm tính nào đó của tâm thức". Bản chất con người chỉ bị ô nhiễm tạm thời. Sự giao tiếp bình thường giữa chúng ta với cái mà chúng ta gọi là hiện thực hoàn toàn bị lệch lạc. Luôn nên nhớ đến sự kiện này. Vì căn cứ trên ảo giác nên sự tương giao đó [giữa ta và hiện thực] sai lầm từ căn bản. Chỉ khi nào chúng ta ra thoát được mọi ảo giác khi ấy chúng ta mới thấy sự kiện trên đây là một sự thật. Phải loại bỏ sự ô nhiễm đó [tức là sự cảm nhận sai lầm về hiện thực] ra khỏi tâm thức, và điều đó có thể thực hiện được như chúng ta đều biết [tức là đạt được giác ngộ, mục đích tối thượng của Phật giáo]. Sau khi thực hiện được sự tinh khiết hóa gọi là giác ngộ trên đây, tâm thức sẽ đạt được thể dạng phẩm hạnh cao nhất gọi là niết-bàn.Trong thể dạng đó tâm thức biến thành trí tuệ và thoát ra khỏi các chu kỳ hiện hữu. Đã từng có rất nhiều vị hiền triết đạt được niết-bàn và họ chỉ cần tu tập trong một kiếp sống duy nhất. Cái chết và ánh sáng trong suốt Cái chết nhất định sẽ đến với ta một ngày nào đó không sai chạy. Nếu phí phạm những giây phút tốt đẹp nhất đời mình vào những việc phù phiếm, không chuẩn bị cho cái chết, khi giây phút cuối cùng đã đến ta sẽ mất hết khả năng suy nghĩ vì chỉ biết lo âu. Quá sợ hãi ta không còn đủ trầm tĩnh để tu tập nữa. Khi giây phút cuối cùng gần kề ta phải tập trung tư duy vào những gì thiết thực. Thể dạng tâm thức đúng vào lúc đó sẽ quyết định cho những gì xảy ra sau này. Những giây phút cuối cùng hàm chứa một sức mạnh quan trọng hơn cả những gì xứng đáng mà ta thu góp trong suốt cuộc sống. Vì thế phải sử dụng thiền định để tìm hiểu quá trình của cái chết và tập cho quen dần với nó. Chính tôi thường xuyên tu tập theo cách ấy. Mỗi ngày tôi sử dụng thiền định để vượt qua tám giai đoạn tan biến của cái chết. Quá trình của cái chết khởi đầu bằng sự tan biến của cấu hợp hình tướng ; các thành phần đất suy yếu, thành phần nước thay thế và trở thành cơ sở chống đỡ cho sự hiểu biết bình thường. Người hấp hối có cảm giác như thân xác bị lún sâu xuống đất [cảm thấy thân xác cứng đơ và rất nặng]. Hai mắt hoa lên [khả năng thị giác suy yếu]. Người hấp hối có cảm giác nhìn thấy một ảo ảnh nào đó bên trong nội tâm. Sau đó cấu hợp xúc giác tan biến [không còn cảm thấy quần áo mặc trên người, lưng chạm xuống giường cũng không biết, người khác hay vật gì va chạm vào thân xác cũng không hay biết]. Tiếp theo đó sức mạnh của thành phần nước giảm xuống, thay vào đó thành phần lửa trở nên lấn lướt hơn. Miệng khô, mắt đờ đẫn. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giống như khói.Trong giai đoạn thứ ba, cấu hợp của khả năng nhận biết tan biến. Thể dạng lửa không còn chuyển tải được tri thức, thể dạng khí thay thế vai trò đó và trở nên quan trọng hơn. Đối với môi trường chung quanh người hấp hối không còn nhận biết được người thân. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giống như đom đóm, tương tợ như các đốm lửa bắn ra từ một chiếc pháo bông. Trong giai đoạn thứ tư, các cấu tạo tâm thần tan biến. Thể dạng gió (khí) yếu dần không còn chuyển tải được tri thức. Triệu chứng bên ngoài là ngưng thở. Triệu chứng bên trong là cảm giác nhìn thấy một ngọn lửa màu đỏ nhạt. Thông thường vào giai đoạn này các bác sĩ y khoa xác định quá trình của cái chết đã kết thúc theo tiêu chuẩn y khoa. Thế nhưng theo chúng tôi [những người Phật giáo Tây tạng] quá trình của cái chết chưa chấm dứt, tuy rằng bắt đầu từ thời điểm này khả năng cảm nhận của các giác quan đã mất, thế nhưng tri thức vẫn hoạtđộng, điều đó không có nghĩa là người hấp hối có thể hồi tỉnh lại được. Bốn cấp bậc thô thiển và tinh tế vẫn còn tiếp tục tồn tại trong giai đoạn này, chúng chỉ tan biến sau này khi bốn giai đoạn cuối cùng bắt đầu diễn tiến [tất cả là tám giai đoạn]. Cấp bậc thô thiển nhất [thứ năm, tức giai đoạn đầu của bốn giai đoạn cuối cùng] tan biến trước nhất, dấu hiệu bên trong là sự quán thấy một màu trắng tương tợ như bầu trời mùa thu thật tinh khiết chan hòa ánh trăng rạng rỡ. Bên ngoài không còn một dấu hiệu nào phát hiện. Sự quán thấy màu trắng và khí lực hay "gió" chuyển tải nó tan biến [giai đoạn thứ sáu]. Một sự quán thấy khác tinh tế hơn xuất hiện : đó là một màu đỏ rực rỡ tỏa rộng, tương tợ như bầu trời mùa thu trong suốt chan hòa ánh sáng màu đỏ của mặt trời. Trong giai đoạn thứ bảy, phát sinh một sự quán thấy khác, tinh tế hơn các cấp bậc trước : đó là sự quán thấy một màu đen bóng loáng gần như dầy đặc. Hình ảnh này tương tợ như bầu trời mùa thu thật tinh khiết vào lúc gần nửa đêm. Trong phần đầu của giai đoạn này, người chết vẫn còn ý thức, thế nhưng khả năng yếu dần và cuối cùng lắng vào một trạng thái vô tri. Khi sự cảm nhận màu đen bóng loáng và dầy đặc cùng với năng lực chuyển tải nó tan biến, một sự cảm nhận tinh tế hơn hết so với tất cả các cảm nhận trước đây hiển hiện : đấy là "ánh sáng trong suốt của cái chết". Thể dạng cảm nhận đó tương tợ như bầu trời bình minh vào mùa thu, trong vắt không một gợn mây. Người ta gọi đấy là tri thức nguyên thủy, bởi vì nó là nguồn gốc làm phát sinh ra tất cả các thể dạng tri thức khác. Đấy chính là lúc sự sống chấm dứt thật sự. Đối với những người bình thường, giai đoạn trên đây hoàn toàn vô thức, tương tợ như bất tỉnh. Riêng đối với những người luyện tập du-già thì đấy lại là giây phút phải đem ra ứng dụng các kết quả tu tập của mình trước khi các tế bào trong cơ thể thoái hóa [trong giai đoạn này các cơ quan trong cơ thể không còn dùng được để ghép cho các bệnh nhân khác]. Người du-già có khả năng nhận biết được thể dạng tinh tế cao nhất trên đây : đấy là "tri thức ánh sáng trong suốt", [người luyện tập ý thức được thể dạng ánh sáng trong suốt và hội nhập với ánh sáng đó, không chuyển sang quá trình thô thiển của sự tái sinh] Ba cấp bậc tri thức Tri thức được phân chia thành ba cấp bậc tinh tế khác nhau : thể dạng đang trong lúc thức (hay thể dạng thô thiển của tri thức), thể dạng chiêm bao (tinh tế hơn) và thể dạng ngủ thật say (tinh tế hơn hết, hoàn toàn không còn chiêm bao). Người ta có thể so sánh ba thể dạng ấy với ba giai đoạn sinh, chết trên phương diện vật chất và thể dạng trung gian gọi là bardo [trung ấm hay trung hữu] trước khi xảy ra sự tái sinh [thụ thai]. Ba giai đoạn vừa kể [sinh, chết và trung gian] được phân biệt thành ba cấp bậc khác nhau, căn cứ vào ba cấp bậc tri thức tinh tế của chúng. Trong khi xảy ra quá trình của cái chết, người đang chết lắng thật sâu vào tri thức tinh tế. Thế nhưng sau khi đã chết, và sau giai đoạn trung gian hay bardo, cá thể ấy lại bị chi phối trở lại bởi sự tái sinh, theo đó tri thức cũng dần dần trở nên thô thiển hơn. Tri thức càng lúc càng trở nên dầy đặc trong quá trình diễn tiến của sự tái sinh và đầu thai. Rất nhiều tập sách thuật lại trường hợp nhiều người nhớ lại kiếp trước của mình. Nghiên cứu thêm về các hiện tượng trên đây sẽ mang lại nhiều lợi ích và mở rộng thêm kiến thức cho nhân loại. Phép luyện tập du-già Đối với một số người phép luyện tập du già quá khó, tạo ra đau đớn và chẳng giúp ích được gì cho tâm thức. Đối với một số người khác đó là một phương pháp đơn giản và tự nhiên, giúp mang lại sự thoải mái trên phương diện tổng quát. Tuy nhiên phương tiện dùng để tinh khiết hóa tâm thức vẫn chính là tâm thức. Nếu cảnh giác cẩn thận, theo dõi các quá trình vận hành của tâm thức, ta sẽ vô cùng ngạc nhiên nhận thấy tầm quan trọng vô song của nó. Tâm thức chính là trung tâm của tất cả [từ các biến cố và hiện tượng cho đến sự giải thoát và giác ngộ]. Con đường trí tuệ Trí tuệ cần thiết cho việc tìm hiểu sự thật sâu xa hay tối thượng, tức là tánh không - trí tuệ dùng để cảm nhận sự vắng mặt của cái ngã - nó có thể mang tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trí tuệ dựa vào sức mạnh duy nhất của nó và được bổ khuyết thêm một số khả năng khác - sự tin tưởng, sự tập trung và cố gắng - có thể phá tan được sức mạnh của ảo giác. Sự tiếp cận hợp lý (lôgic) đối với hiện thực Những người tu tập Phật giáo luôn chú tâm vào chủ đích tìm kiếm sự thật hay hiện thực. Thế nhưng đồng thời họ cũng khẳng định không nên hoàn toàn tin tưởng vào sự cảm nhận của mình đối với hiện thực, bởi vì có một sự cách biệt giữa các thể dạng hiển hiện của các sự vật và phương cách hiện hữu của chúng. Tuy nhiên sau đây là các phương pháp tốt nhất có thể sử dụng để tiếp cận và tìm hiểu hiện thực : phương pháp suy luận căn cứ trên sự hợp lý (lôgic), phương pháp suy diễn (phân tích), tam đoạn luận mang lại sự hiển nhiên, đấy là ba thứ khí cụ chính yếu được sử dụng để chứng minh sự hợp lý (lôgic). Đấy là các modus operandi [tiếng La-tinh, tạm dịch là các "phương thức hành động] giúp chuyển một sự quán nhận sai lầm trở thành một sự cảm nhận vững chắc, [Phật giáo xem các hiện tượng chỉ là ảo giác không phải hiện thực, bản chất của hiện thực là tánh không, muốn quán nhận được tánh không rất khó, phải dựa vào nhiều phương pháp khác nhau]. Sự hợp lý (lôgic) và trí tuệ tự tại Trí tuệ dùng để quán nhận sự vắng mặt của cái ngã. Sự quán nhận đó được căn cứ vào sự hợp lý (lôgic) thật vững chắc và khi ta đã quen với quá trình phân tích sự vững chắc của nó [tức sự vắng mặt của cái ngã] trí tuệ tự tại sẽ phát hiện để loại bỏ vô minh. Không những trí tuệ có thể tự hiển hiện mà còn có thể tỏa rộng đến vô biên nếu ta biết phát huy nó. Khi trí tuệ nẩy nở sẽ khiến các ý nghĩ về sự hiện hữu tự tại suy yếu dần và sau cùng sẽ hoàn toàn biến mất. Mọi sự khổ nhọc và lầm lẫn sẽ tan biến khi tiếp xúc với hiện thực. Chúng không còn lưu lại một dấu vết nào trong bầu không gian của hiện thực tinh khiết, kết quả thực tiễn là trong trường hợp đó ta không còn tạo nghiệp [phát huy được trí tuệ, quán nhận được tánh không, loại bỏ được vô minh, nhìn thấy được bản chất vô ngã của mọi hiện tượng, ta không còn tạo nghiệp nữa và đấy cũng là thể dạng giải thoát]. Tu tập Đạo Pháp mang lại sự an bình Đạo Pháp giải thích tại sao lại có nhiều cấp bậc khổ đau khác nhau. Theo thuyết nhân quả nghiệp chi phối hành động và hậu quả của nó, dựa vào đó chúng ta tin có kiếp sau [nếu không có kiếp sau không thể giải thích sự bất hạnh quá ư khác biệt giữa các cá thể con người]. Sự tin tưởng đó góp phần mang lại cho chúng ta một sự an bình trong cuộc sống và giúp chúng ta chấp nhận các biến cố tiếp nối nhau xảy ra trong cuộc đời mình. Chúng ta hiểu rằng mọi sự lo âu và toan tính đều hoàn toàn vô ích, không nên quá âu sầu về những nỗi khổ đau của mình, [vì đó là hậu quả do chính mình tạo ra]. Dù quán nhận được bản chất khổ đau có tính cách tạm thời thế nhưng không nên khinh thường hoặc nghĩ rằng : "chẳng có gì quan trọng". Khả năng ý thức được sự khổ đau đúng với bản chất của nó [vì đôi khi ta hiểu lầm khổ đau là hạnh phúc, chẳng hạn như sự thích thú do giác cảm mang lại] là một phẩm tính giúp khơi động niềm khát vọng loại bỏ nó, [vì khổ đau mang tính cách tạm thời không phải tự tại và vĩnh viễn, vì thế phải ý thức được điều đó để loại bỏ nó]. Bốn sự thực cao quý Đức Phật dạy rằng : "Đây là khổ đau đích thực, đây là nguyên nhân đích thực, đây là con đường đích thực".Ngài nói thêm : "Hãy ý thức khổ đau, loại bỏ những nguyên nhân của nó, đạt được sự chấm dứt khổ đau, bước theo con đường đúng đắn" [tức là bát chánh đạo]. Đức Phật lại giảng thêm : "Hãy ý thức được khổ đau, mặc dù chẳng có gì để ý thức, hãy từ bỏ các nguyên nhân mang lại khổ đau, mặc dù chẳng có gì để từ bỏ, hãy xa lánh thế tục một cách nghiêm túc, mặc dù chẳng có gì để xa lánh" [có nghĩa tất cả đều là tánh không, nắm vững tánh không của mọi hiện tượng mới có thể đạt được giác ngộ tối thượng, loại bỏ khổ đau chỉ là sự giải thoát]. Đấy là ba thể dạng của bản thể tự tại, của hành động và kết quả tối thượng của Tứ Diệu Đế.
  7. Sống thật với lòng mình Một trong những nguyên nhân khá tế nhị nhưng quan trọng khiến người ta hay bực mình vì những chuyện vặt chính là vì họ đã không sống thật với lòng mình. Thay vì vậy, nhiều người chạy theo những thói quen ngoài ý muốn, hoặc vì thấy những người khác đang làm điều đó, hoặc vì điều đó có vẻ như nên làm. Lấy ví dụ như, mọi người thường chọn những nghề nghiệp mà cha mẹ họ muốn, hay vì một địa vị được thừa nhận nào đó, hoặc vì một sự đánh giá bề ngoài. Một số bậc cha mẹ thường đẩy con cái họ vào một số hoạt động, hay muốn con cái may mặc những loại áo quần nào đó, chỉ đơn giản là vì những người khác đang làm như thế. Lại cũng có những người phải vất vả để mua cho bằng được một căn nhà, thay vì thuê một căn hộ, hoặc là sống xa xỉ vượt quá mức lương bẩn chật của mình, chỉ là vì cố theo cho kịp người khác. Sống thật với lòng mình có nghĩa là bạn chọn một đời sống, một phong cách sống phù hợp với chính mình và gia đình mình. Điều đó có nghĩa là bạn đưa ra những quyết định quan trọng bởi vì chúng xuất phát từ tự tâm, từ sự cân nhắc của chính mình, không cần thiết phải xuất phát từ những gì của người khác. Sống thật lòng có nghĩa là bạn tin tưởng vào chính bản năng của mình hơn là những áp lực từ sự quảng cáo, hoặc là theo như suy nghĩ của mọi người trong xã hội, hàng xóm, bạn bè. Tuy nhiên, sống thật với lòng mình không có nghĩa là bạn trở thành một tên nổi loạn, phá vỡ truyền thống gia đình, hay trở nên lập dị với người khác. Ý nghĩa của nó tinh tế hơn thế nhiều. Sống thật với lòng mình là biết tin cậy vào tiếng nói tự đáy lòng mình mà chỉ có thể lắng nghe được mỗi khi bạn biết lắng lòng yên tịnh. Chính tiếng nói này đã xuất phát từ sự khôn ngoan và cảm nhận chung, thay vì là từ những huyên náo căng thẳng và thói quen hàng ngày. Khi bạn biết tin vào cảm nhận của mình hơn là vào thói quen, những tia sáng mới sẽ soi rọi vào tâm trí bạn. Những tia sáng nội tâm này có thể rất đa dạng, từ ý định dời nhà đến một thành phố khác, cho đến việc nhận ra sự cần thiết phải từ bỏ một thói quen có hại, hay phương thức làm sao để giao tiếp một cách tốt hơn với người mà bạn yêu thương. Bạn cũng có thể sẽ thấy được việc nên chọn ai để chơi cùng, hoặc cách thức như thế nào để giải quyết những rắc rối. Tất cả đều bắt đầu từ việc biết lắng nghe tiếng nói tự lòng mình. Không sống thật với lòng sẽ tạo ra rất nhiều mâu thuẫn nội tâm, và điều này tiếp đó sẽ tạo điều kiện cho bạn dễ dàng trở nên người cáu gắt, dễ chán nản và hay phản ứng quá khích. Tận đáy lòng mình, bạn thừa biết những gì là chân thật đối với bạn, đời sống như thế nào bạn thích, và bạn muốn trở thành loại người như thế nào. Tuy nhiên, nếu những hành động của bạn không phù hợp với trí khôn ngoan nội tâm đó, bạn sẽ cảm thấy chán nản và căng thẳng. Khi bạn biết sống thật với lòng mình, những cảm giác này sẽ dần dần tan biến đi, bạn sẽ trở nên điềm đạm hơn, vui tươi hơn, và ít căng thẳng hơn. Bạn sẽ thật sự sống cuộc đời của chính mình, thay vì là sống cho người khác. Phương thức để sống thật hơn với lòng mình là tự nguyện sống như thế. Tự hỏi mình những câu như thế này: «Tôi thật sự muốn sống cuộc sống của tôi như thế nào?» «Tôi đang làm theo cách của tôi, hay tôi đang thực hiện mọi thứ đơn giản chỉ là vì thói quen lâu nay, hay bởi vì tôi đang sống phụ thuộc vào những điều mong đợi của người khác?» Rồi hãy lắng lòng xuống và lắng nghe. Thay vì cố tìm ra câu trả lời, hãy xem bạn có thể để cho câu trả lời tự nó đến với bạn thật bất ngờ hay không. Nếu bạn muốn trở nên một người hiền hòa hơn, và được nhiều hạnh phúc hơn, thì đây chính là một điểm khởi đầu rất tốt. Sống thật với lòng mình là một trong những nền tảng của sự an ổn nội tâm và phát triển nhân cách. Điều này giúp bạn trở nên tử tế hơn và kiên nhẫn hơn nhiều. Hãy thử một lần xem. Rồi bạn sẽ ngạc nhiên, thậm chí sung sướng nữa, với những gì mà bạn hiểu được ra. nguồn rongmotamhon.net
  8. Gừng chữa ung thư đại trực tràng Sử dụng gừng hàng ngày sẽ giúp chúng ta giảm nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng, theo một nghiên cứu mới của các nhà khoa học Mỹ. Nghiên cứu được tiến hành trên 30 người có sức khoẻ bình thường bởi các nhà khoa học tại Đại học Y Michigan. Những người tham gia nghiên cứu nhận được hoặc 2g rễ gừng hoặc một viên thuốc giả dược, một loại thuốc mà không phải là thuốc vì không có tác dụng dược lý, mỗi ngày. Sau 28 ngày, các nhà khoa học nhận thấy PGE2, một nội tiết tố giải phóng khi bị một khu vực của cơ thể bị viêm, giảm 28% trong khi nội tiết tố này gần như không thay đổi ở những người sử dụng giả dược. Theo Suzanna Zick, trợ lý giáo sư tại Đại học Y Michigan và là người đứng đầu nhóm nghiên cứu, một thử nghiệm lớn hơn là cần thiết để chứng thực cho kết quả của ông là đúng và để tìm ra liều lượng thích hợp có tác dụng ngăn chặn ung thư đồng thời chỉ ra tại sao gừng có thể làm giảm PGE2. Nếu gừng cũng có tác dụng giống như thuốc ức chế COX-2 thì rất có khả năng thảo dược này có thể được sử dụng để làm giảm các bệnh tim mạch. Kết quả nghiên cứu đầy hứa hẹn”, Patricia Thompson làm việc tại Trung Tâm Ung Thư của ĐH Arizona, người không tham gia nghiên cứu nói. Ung thư đại trực tràng có thể phát triển ở đại tràng và trực tràng, là căn bệnh cướp đi sinh mạng của người dân Mỹ hơn bất kỳ căn bệnh ung thư nào khác, ngoại trừ ung thư phổi. Theo ước tính của Viện Ung Thư Quốc Gia Mỹ, có đến 142.000 người Mỹ được chẩn đoán mắc phải ung thư đại trực tràng năm 2010 và có đến 51.000 người thiệt mạng vì căn bệnh này. Theo Báo Đất Việt
  9. Chương trình tặng Suất Ăn Bệnh Nhân Ung Bướu sẽ được tiếp tục thực hiện vào ngày 14/10 phát phiếu , 15g 30 ngày 15/10 Phát Quà. tại cổng BV xéo qua bên kia đường Ngã Ba Nguyễn Huy Lượng & Nơ Trang Long. Q Bình Thạnh.Mời ACE ai có thời gian phù hợp tham gia. Đăng Ký tại đây! Rất mong sự có mặt của ACE ! Chúng ta cứ đi để thấy "cuộc đời không có gì để than phiền than chán nữa" Lần này theo kế hoạch chúng ta sẽ phát ra 360 phiếu cho 360 người và 40 suất dự phòng.
  10. Phật tử trẻ học được gì từ sự ra đi của Steve Jobs Steve Jobs ra đi không chỉ dân công nghệ mà cả thế giới bàng hoàn tiếc thương một con người tuyệt đỉnh tài năng. Steve Jobs là một trong những thần tượng của tôi. Tôi sắm chiếc Ipod đầu tiên của tôi cách đây 4 năm cũng từ đó tôi trở thành tín đồ của một tôn giáo mà vị giáo chủ luôn xuất hiện trước công chúng với chiếc quần jean xanh bạc màu, chiếc áo thun đen cổ lọ. Mỗi năm ông chỉ xuất hiện có vài chục phút để thuyết tình về những sản phẩm mới của Apple và như thường lệ ông luôn làm cho mọi người bất ngờ kể cả đến cái chết của chính ông. Ông mất và cả thế giới thất vọng vì ngay sau đó ở Apple người kế nhiệm ông đã không trình làng Iphone 5. Có hàng trăm triệu bài báo, hàng ngàn bài học được rút ra từ sự thành công của Steve. Chúng ta hãy bỏ qua sự liên hệ mỏng manh của ông với đạo Phật, hãy học thực sự từ chính cuộc hành trình của Steve. Nếu học một Phật tử trẻ cần phải học gì từ cuộc đời đầy thăng trầm và đam mê của ông? Năm 2007 học cách sử dụng Ipod, tìm hiểu về Apple và tất yếu đọc qua tiểu sử của Steve. Đó cũng là năm mà lần đầu tiên tôi nghe được đoạn videos ông chia sẻ trước sinh viên tốt nghiệp của đại học danh tiếng Standfor (2 năm sau khi ông thuyết trình) . Đó cũng là lúc tôi được ông khai sáng. MỘT SỐ HÌNH ẢNH CUỘC ĐỜI CỦA STEVE JOBS Tin Steve Jobs - cựu Tổng giám đốc điều hành của hãng Apple - qua đời ở tuổi 56 đã khiến nhiều người hâm mộ sững sờ. Steve Jobs và Steve Wozniak khởi nghiệp hãng Apple trong một gara ôtô ở Thung lũng Silicon. Steve Jobs phải bán chiếc xe VW của mình để có đủ tiền đầu tư vào kế hoạch kinh doanh này. Chiếc máy tính đầu tiên được chào hàng với giá 666,66 đôla vào năm 1976. Hãng Apple lên sàn chứng khoán năm 1980, biến Steve Jobs trở thành triệu phú. Hai năm sau, doanh thu của Apple lên đến 1 tỷ đô la Năm 1985, Steve Jobs và giám đốc điều hành Apple John Sculley bất đồng với nhau, khiến ông Jobs từ nhiệm. Wozniak cũng từ nhiệm. Một năm sau (1986), Jobs thành lập công ty mới mang tên NeXT. Ba năm sau, máy tính của hãng này được bán với giá 6.500 đôla Jobs quay trở lại hãng Apple vào năm 1997 với vai trò cố vấn sau khi hãng này mua công ty NeXT với giá 430 triệu đôla Chiếc máy tính iMac được tung ra thị trường vào năm 1998 làm thay đổi tài vận của Apple. Hai năm sau, Steve Jobs được bầu làm giám đốc điều hành. Apple mở rộng loạt sản phẩm iPod sang phiên bản Nano và video. Sản phẩm này tạo ra một cuộc cách mạng thay đổi cách người ta nghe và mua âm nhạc Năm 2006, Disney mua hãng Pixar với giá 7,4 tỉ đôla, khiến Steve Jobs trở thành người nắm giữ nhiều cổ phiếu của hãng Disney nhất. Năm 2007, Apple tung ra chiếc máy điện thoại di động thông minh đầu tiên. Người ta đổ xô nhau 'cắm trại' bên ngoài cửa hàng từ đêm hôm trước để mua bằng được chiếc điện thoại iPhone Cái bóng của Steve Jobs. Cái chết của Steve Jobs không chỉ ảnh hưởng tới Apple mà còn lan ra toàn bộ lĩnh vực công nghệ. nguồn : nguoi ao lam http://www.nguoiaolam.net/2011/10/nal-phat-tu-tre-hoc-uoc-gi-tu-su-ra-i.html?utm_source=feedburner&utm_medium=email&utm_campaign=Feed%3A+nguoiaolam+%28ng%C6%B0%E1%BB%9Di+%C3%A1o+lam%29#
  11. http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/13743-xot-long-ong-lao-80-muu-sinh-nuoi-con-bi-dien-vo-tai-bien/page__st__20 Qua bài viết của HQH, tôi có đôi lời bày tỏ với các ACE hội viên Diễn Đàn Lý Học Đông Phương. Chúng ta xúc động trước những hoàn cảnh trước những mãnh đời đó là cảm xúc thật nhân ái, tuy nhiên nên xem và lượng sức mình bởi 1 hành động nhân ái bị nhầm lẫn bị lạm dụng vô tình lại gây cho ta cảm xúc tổn thương hoặc mất niềm tin vào cuộc sống. Lý do mà Wild cần phải dông dài bởi trường hợp Cụ Mười Kinh đã được chúng tôi đích thân tôi thẩm tra và tìm hiểu trước khi đưa ra quyết định giúp Cụ thế nào để chấm dứt cuộc sống mỏi mòn và tiêu hao sức khỏe ở cái tuổi gần đất xa trời, sau khi được sự gợi ý của Chú Thiên Sứ kết hợp với nguyện vọng của Cụ, Ban Từ thiện đã tận dụng số Quỹ hiện có tối đa để thực hiện, xem đường Link trên. Do đó chúng tôi đề nghị tất cả các bạn! từ nay khi đưa bài (có nên bổ sung qui định này vào Diễn Đàn) cũng nên đưa ngày/tháng / năm bên cạnh trích nguồn vừa mang tính thời sự vừa xác định thời gian. Như bài trên nếu là bài cũ thì Diễn Đàn ta đã giúp Cụ "cần câu chứ không giúp cá" (mất tính thời sự) nếu là bài mới thì xét lại sức khỏe hay điều kiện của Cụ có phải hành trình Cụ đang tiếp tục có nhàn nhã hơn phửơng án mà cũng là ước mơ của Cụ khi bày tỏ với chúng tôi không? Với bài viết trên tôi nghi ngờ 1) Bài viết đã cũ. 2) Động cơ của Cụ gây xói mòn lòng tin và cảm xúc của tôi.Với một trách nhiệm thường xuyên phụ trách công việc từ thiện, Sự xót xa của tôi trước những nỗi đau của con người có khi còn nhạy cảm hơn những người bình thường khác.
  12. Trong kinh điển, Đức Phật có kể lại một ngụ ngôn như sau: Một người băng qua cánh đồng và gặp một con cọp. Anh ta bỏ chạy, con cọp đuổi theo. Chạy đến một bờ vực sâu, anh ta nắm chặt lấy một cái rễ dây leo và buông mình xuống vực. Con cọp đứng trên bờ vực gầm gừ ngó xuống. Run rẩy, anh ta nhìn xuống đáy vực và thấy một con cọp khác đang chờ để đớp lấy anh! Anh chỉ còn bám víu duy nhất vào sợi dây leo. Nhưng rồi hai con chuột xuất hiện, một trắng một đen, bắt đầu gặm đứt dần từng chút một vào sợi dây leo. Anh ta chợt nhìn thấy một trái dâu rừng chín mọng ngon lành ở gần đó. Một tay nắm chặt sợi dây leo, anh ta đưa tay kia với hái lấy trái dâu. Ôi trái dâu thơm ngọt biết bao! Viết sau khi dịch Không chỉ ở bên trên và bên dưới, mà cuộc sống quanh ta bốn phương tám hướng đều là những con cọp hung dữ, sẵn sàng đẩy ta vào địa ngục để nhận chịu những ác nghiệp đã tạo ra. Sợi dây leo mong manh mà ta đang nắm lấy là mạng sống được duy trì trong từng hơi thở này, vốn dĩ thở ra không hẹn thở vào! Nhưng hai con chuột thời gian ngày và đêm đang kiên trì gặm đứt dần mạng sống, vì mỗi ngày trôi qua ta càng đến gần hơn với cái chết. Thế mà trái dâu ngũ dục vẫn làm cho ta ngày ngày vui thích, say mê không thức tỉnh. Ăn ngon, mặc đẹp, sắc dục, tiền tài... Nếu biết đó chỉ là một trái dâu rừng trong lúc mạng sống đang nguy cấp, sao còn có thể say mê quên cả hiểm nguy? nguồn: rongmotamhon.net
  13. Đã trao tặng Cháu Uy trường hợp "cần lắm những tấm lòng vàng" 3,000,000 đ (ba triệu đồng)http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/22485-can-lam-nhung-tam-long-vang/page__pid__150615#entry150615 Quỹ hiện có: 8,200,000 đ - 3,000,000 đ = 5,200.000 đ (năm triệu hai trăm ngàn đồng)
  14. Từ Bình Thuận Chị Dung và cháu Uy đã trở lại Trung Tâm huyết Học tại Tp hcm để hóa trị tiếp cho cháu. Sau khi xin cái hẹn Wild đã tìm thăm cháu tại khoa Nhi Bạch Cầu Cấp chiều nay. Không quên ghé mua cho cháu và Mẹ vài chiếc bánh ngọt Như đã hứa, Wild chuyển giao 3,000,000 đ của Minh Chau gởi tặng cháu Uy. và tặng kèm 1 Linh Chú, may ra Cháu sẽ nhận được sự chuyển hóa và chấm dứt bệnh tật Chị đã nhờ giấy viết để chuyển lời cám ơn đến MC và Trung Tâm NCLH ĐP. Giấy biên nhận của Chị Dung
  15. Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Nguyên Anh ủng hộ Quỹ từ Thiện. Quỹ hiện có : 8,000,000 đ + 200,000 đ = 8,200,000 đ (tám triệu hai trăm ngàn đồng)
  16. Thiếu nữ xinh đẹp sau 5 năm... biến thành bà lão ANTĐ - Mới 26 tuổi nhưng trông chị Phượng già như một bà lão thất thập, nguyên nhân bởi một căn bệnh lạ. Hẹn gặp trước Bệnh viện Đa khoa huyện Giồng Trôm (tỉnh Bến Tre), đang loay hoay ngó trước ngó sau để tìm, bỗng bà cụ khoảng 70 tuổi bước đến hỏi: “Có phải anh là phóng viên không?”. Chúng tôi ngỡ ngàng. “Bà lão” giới thiệu: “Tôi là Phượng đây”. Chị Phượng thời xuân sắc ở tuổi 21, cách đây năm năm... Tai họa bất ngờ Chúng tôi không thể tin được đứng trước mặt mình là cô gái mới 26 tuổi. Nhưng giọng nói đã giúp chúng tôi tin đây chính là Nguyễn Thị Phượng (trú tại thị trấn Giồng Trôm). Vừa ngồi xuống nhà, Phượng lấy một xấp ảnh chụp năm 21 tuổi (khi lấy chồng) ra cho chúng tôi xem. “Cách đây năm năm tôi là một cô gái có chút nhan sắc chứ không đến nỗi tệ phải không? - Phượng nói - Tôi có tiền sử dị ứng với thức ăn hải sản. Khoảng năm 2008, sau một lần ăn hải sản tôi bị dị ứng nổi mẩn trên mặt và ngứa rất khó chịu. Ngứa đến mức đi ngủ vẫn phải gãi. Chồng bảo ngủ mà còn “gảy đàn”. Khổ lắm”. Anh Nguyễn Thành Tuyển (34 tuổi, chồng chị Phượng) nói thấy vợ bị dị ứng, anh ra hiệu thuốc tây ở khu vực giáp ranh huyện Mỏ Cày Nam - Chợ Lách mua thuốc chống dị ứng cho vợ uống. Uống suốt mấy ngày không khỏi, anh Tuyển chở vợ đến bác sĩ trong huyện khám và được chẩn đoán “viêm da”, cho thuốc uống một tuần. Tuy nhiên, uống hết số thuốc này thì mặt chị Phượng bị sưng và nổi mề đay sần sùi trên da. Sợ quá, chị không dám uống thuốc tây nữa mà đến các phòng khám đông y ở thị trấn Giồng Trôm khám và xin thuốc uống.Suốt thời gian đó chị Phượng đi khám khá nhiều ở các phòng khám đông y và được chẩn đoán bị... bệnh gan, tích nước nên bị sưng(?). Uống thuốc đông y sáu tháng trời, mặt có giảm sưng nhưng người mập thêm. Thế là hai vợ chồng quyết định chuyển sang thuốc bắc. Các lương y ở hiệu thuốc bắc vẫn cho rằng chị Phượng bị bệnh gan và bốc thuốc sắc uống suốt hai tháng ròng, tiền thuốc mỗi ngày 30.000 đồng. Năm 2009, chị Phượng phải đeo khẩu trang che kín mặt suốt ngày để tránh ánh mắt tò mò của mọi người. Thương vợ, anh Tuyển dò hỏi thầy thuốc nào hay là anh đưa vợ đi khám. Nhưng uống bao nhiêu thuốc, gặp bao nhiêu thầy cũng không có dấu hiệu cho thấy bệnh thuyên giảm. Vợ bệnh, anh Tuyển phải bỏ việc làm để lo cho vợ. Rồi đến lúc hai vợ chồng cạn sạch tiền nên không uống thuốc nữa. “Vợ chồng tôi coi đó là số phận mà ông Trời bắt phải chịu nên không chạy chữa nữa” - chị Phượng buồn bã nói. Do không có tiền nên hai vợ chồng này chưa một lần đến các bệnh viện lớn ở TP.HCM để khám xem mình bị bệnh gì, có chữa được hay không. “Nhận dạng” bằng giọng nói Bà Hồ Thị Hiệp, hàng xóm của chị Phượng, nói cách đây mấy năm Phượng là cô gái đẹp có tiếng trong vùng. Bẵng một thời gian đi làm ăn xa về, mọi người gặp lại Phượng đều giật mình, không ai nhận ra. Bà con thân tộc và hàng xóm nghe giọng nói mới tin đó là Phượng. Ông Lê Văn Thiệm, trưởng ấp 6, thị trấn Giồng Trôm, kể: “Mấy hôm rồi Phượng về quê giỗ ngoại, tôi gặp mà cứ nghĩ bà nào ở đâu tới chơi. Đến khi nghe giọng nói của Phượng tôi mới dám chắc. Nhìn thấy già nhưng giọng nói của Phượng vẫn còn trẻ và không có gì thay đổi so với năm năm trước”. Chị Phượng và chồng hiện nay Chúng tôi về quê chồng Phượng ở xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày Bắc để tìm hiểu thêm. Ông Nguyễn Thanh Hùng (trưởng ấp Thanh Sơn 2) xác nhận Phượng có chồng là anh Tuyển, con dâu bà Nguyễn Thị The. Phượng về ấp Thanh Sơn 2 làm dâu được khoảng hai năm thì bị bệnh, mặt sưng lên rồi da bị nhăn lại trông già đi thấy rõ. Vì mặc cảm, Phượng cùng chồng và anh rể tên Nghiệp lên Bình Phước làm ăn. Phó công an xã Lê Phước Bình cũng khẳng định trước đây khi mới về làm dâu bà The thì Phượng rất xinh đẹp. Sau đó Phượng bị bệnh, sưng mặt và bị già đi rất lạ. Phượng nói thêm: “Không chỉ gương mặt bị chảy xệ mà bụng cũng bị. Tôi chưa sinh đẻ lần nào nhưng da bụng giống như đã có 2-3 đứa con vậy. Da tay và vùng cổ cũng có hiện tượng lão hóa, nhăn nheo. Hồi tháng 9 đi khám bệnh đau dạ dày, một bác sĩ ở Bến Tre mới nói cho tôi biết mình bị bệnh lão hóa sớm”. Hỏi chuyện vợ chồng trong thời gian chị bị bệnh, anh Tuyển bảo vẫn yêu thương vợ và gần vợ bình thường như hồi mới cưới. “Vì hai người cưới nhau lúc Phượng là một cô gái xinh đẹp và biết rõ diễn biến bệnh của vợ nên tôi không có cảm giác sốc như người ngoài gặp Phượng lần đầu. Chuyện vợ chồng khó nói, nhưng hãy hiểu đơn giản là tôi vẫn rất yêu thương vợ mình” - anh Tuyển tâm sự. Về chuyện con cái, anh Tuyển nói: “Cũng có tính, nhưng bây giờ còn khó khăn quá nên phải lo làm để dành tiền chữa bệnh cho vợ cái đã”. Phượng kể bốn năm nay hai vợ chồng lên Bù Đốp (Bình Phước) sinh sống. Phượng nhận hạt điều nguyên liệu về bóc vỏ gia công cho các doanh nghiệp, còn anh Tuyển đi làm thợ mộc. *** Phượng kết câu chuyện của mình: “Dù tôi già nua, xấu xí thế này nhưng ổng vẫn thương tôi như hồi trước. Có ổng tôi thấy tự tin hơn để làm ăn sinh sống”. Rõ ràng trong câu chuyện mang màu sắc “liêu trai chí dị” này, những người trong cuộc đang lấy tình nghĩa làm thứ quý nhất để đối đãi nhau vượt qua bệnh tật... Có thể do ngộ độc thuốc Nói về trường hợp của chị Phượng sau khi dùng thuốc một thời gian có biểu hiện già cơ thể, theo PGS.BS Mai Thế Trạch - nguyên chủ tịch Hội Nội tiết TP.HCM, có thể do những biểu hiện của dị ứng làm thay đổi da mặt, dáng vẻ của bộ mặt da cơ thể chứ chưa thể gọi là già vì các chức năng khác của tuổi già trên bệnh nhân không xuất hiện. Cụ thể là bệnh nhân không bị suy giảm trí nhớ hay bị suy giảm các chức năng sinh học của tim, thận, gan, phổi... Ngay cả khi có biểu hiện tóc bạc thì cũng chỉ có thể do các độc tố có trong thuốc làm thay đổi sắc tố của tóc. Có thể chị Phượng là một trường hợp ngộ độc thuốc chưa rõ loại gì. Nếu bệnh nhân xác định được đã uống thuốc gì thì đem mẫu đi phân tích để xác định nguyên nhân có chất nào đó gây ra biểu hiện già cơ thể như vậy không. Ông Mai Thế Trạch cho rằng trước tiên chị Phượng có thể đến Bệnh viện Da liễu TP.HCM khám kiểm tra xem có phải những biểu hiện do dị ứng cũ của chị gây ra biến đổi vậy không. Nếu không xác định được thì bệnh nhân có thể đến Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) để xét nghiệm tìm độc chất tồn dư trong máu. Tuy nhiên, phải xác định loại thuốc nào bệnh nhân dùng nhiều nhất để chú ý tìm hiểu về loại thuốc đó nhiều hơn. Còn nếu đã dùng nhiều loại thuốc quá thì rất khó tìm tuoitreonline
  17. Cô gái bị biến thành bà lão đang chọn bệnh viện Sau khi liên lạc với chị Nguyễn Thị Phượng qua điện thoại, phóng viên VietNamNet biết được hiện tại chị vẫn chưa quyết định chính xác sẽ lên TP.HCM chữa bệnh vào ngày nào. Ngay bản thân chị Phượng cũng còn đang đắn đo, lựa chọn bệnh viện để được điều trị một cách tốt và hiệu quả nhất. Chưa đưa ra con số cụ thể về chi phí cho việc điều trị bệnh của chị Phượng, nhưng theo bác sĩ Hoàng Văn Minh, Trưởng khoa Da Liễu - Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, sẽ phải tốn rất nhiều tiền bạc và bệnh nhân cũng như bác sĩ cần kiên trì trong một thời gian dài. Bác sỹ Hoàng Văn Minh là người đã trực tiếp xuống Bến Tre khám cho nữ bệnh nhân trên. Khẳng định với Báo điện tử VietNamNet sáng 6/10, bác sỹ Minh cho hay, cô gái 26 tuổi không phải bị lão hóa do uống thuốc dị ứng mà có tiền căn bị bệnh vón tế bào trước đó. Ngay chính bản thân bác sĩ Minh trong suốt mấy chục năm công tác cũng chỉ mới gặp phải một trường hợp như vậy nhưng đã cách đây tới 8 năm. Bệnh nhân đó cũng bị bệnh vón tế bào nhưng ở thể ác tính và đã tử vong ngay khi ấy. Theo thông tin mới nhất từ bác sĩ Minh, chị Phượng sẽ chính thức được ông điều trị trực tiếp tại Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM. Ngay khi chị nhập viện, bác sĩ Minh dự tính sẽ cho làm các cận lâm sàng, giải phẫu bệnh để tìm rõ nguyên nhân gây bệnh. Tiên lượng về khả năng phục hồi của bệnh nhân, bác sĩ Minh nói: “Sau khi điều trị nội khoa mặt của bệnh nhân sẽ được cải thiện sưng phù. Những phần cơ, da nhăn nheo trên cơ thể người bệnh sẽ được dùng laser trị liệu, nhưng hồi phục rất khó. Đối với trường hợp này, phẫu thuật thẩm mỹ không có tác dụng”. Trả lời câu hỏi của phóng viên VietNamNet về việc dùng thuốc dị ứng của chị Phượng trước đó có phải là nhân tố gây bệnh không, bác sĩ Minh trả lời: “Thuốc có chứa corticoide có thể gây ra tác dụng phụ như rạn da mà thôi, chứ không phải là nguyên nhân khiến chị Phượng trở nên như vậy”. Như báo chí đã thông tin về chị Nguyễn Thị Phượng, 26 tuổi, ngụ tại thị trấn Giồng Trôm, huyện Giồng Trôm (Bến Tre), cách đây 4 năm đang là một cô gái trẻ đẹp bỗng dưng mắc bệnh lạ khiến bề ngoài trông như một bà lão. Theo chị Phượng, chị bắt đầu xuất hiện triệu chứng nói trên kể từ sau khi mua thuốc điều trị bệnh dị ứng về dùng. Tuy nhiên, cách đây vài ngày, sau khi tận mắt thăm khám, bác sĩ Minh cho rằng chị Phượng mắc phải một căn bệnh xưa nay hiếm. Được biết, bệnh vón tế bào là bệnh vô cùng hiếm gặp, nếu mắc thì cũng thường thấy ở trẻ em nhiều hơn. Tế bào vón có hai dạng bệnh là đơn thuần và dạng bệnh hệ thống. Nếu là dạng hệ thống thì bệnh thường là ác tính, có thể làm ảnh hưởng đến tủy xương gây tử vong. Dấu hiệu của bệnh tế bào vón thể hiện qua những vùng mặc đồ chật da vẫn còn bị nổi đỏ, một số nơi trên da vẫn còn những nốt sẩn phù. Bệnh gây ra các vùng thâm nhiễm dưới da… Chị Phượng bị bệnh tế bào vón nhưng ở thể đơn thuần nên tiên lượng tốt và khả quan hơn Thanh Huyền
  18. Dịp này my2407 được học chữ Nhẫn đó thôi! Yên chí đi vì Wild gởi dạng "Thư Bảo Đảm" không mất đâu!
  19. Đã nhận tn của PhaLê.

  20. Bạn hãy ký tên vào giấy sau đó chụp ảnh lưu vào Photobucket và copy đường link đưa vào ô vuông của hàng ký hiệu bên trên " nhấn vào chữ CHÈN HÌNH"
  21. 24 mẹo hay trị bệnh từ nhà bếp Những loại cây cỏ gia vị hay mật ong, trứng, lá ổi, dứa… vẫn được ưa dùng bởi sự an toàn và hiệu quả của nó. Dưới đây là tập hợp những mẹo hay bỏ túi giúp bảo vệ sức khoẻ mà không tốn tiền 1. Để giảm ho, lấy một lát mỏng hành tươi trộn với hai thìa mật ong, sau đó để khoảng 3 đến 4 tiếng thì bỏ miếng hành ra và ăn mật ong sẽ giúp giảm ho, rát họng đáng kể. 2. Nhai lá ổi sống để trị tiêu chảy một cách nhanh chóng và hiệu quả. 3. Để chữa ợ chua sau bữa ăn nên uống một cốc nước có pha một miếng đường thốt nốt (đường sống màu nâu chưa qua chế biến). 4. Bạn bị nấc? Hãy rang nóng hạt hồ tiêu sau đó hít thật sâu. Cách này sẽ giúp bạn hết nấc ngay. 5. Một cách khác để trị tiêu chảy là dùng hạt cỏ cà ri cho vào trong nửa cốc nước ấm để uống. 6. Cải thiện sức khoẻ gan bằng cách ăn một miếng dứa tươi đã được ướp lạnh nhúng trong mật ong, ngày ăn một lần. Bạn sẽ thấy sức khoẻ cải thiện trong vòng 15 ngày. 7. Để làm giảm tình trạng táo bón mãn tính hãy ăn nửa cốc rau bina. 8. Nhai đinh hương là một cách rất hay để bảo vệ răng và tránh được hôi miệng. 9. Bạn có cần chữa đau nhức cơ bắp? Hãy thử tắm với mù tạt. Lấy khoảng 15 đến 20 gam bột mù tạt cho vào trong một miếng vải, buộc chặt lại và nhúng vào một xô nước nóng khoảng 10-15 phút rồi dùng nước đó để tắm. Nó sẽ giúp bạn chữa đau nhức và chuột rút. 10. Bạn có biết bắp cải sống và nước ép bắp cải giúp phục hồi các niêm mạc bị tổn thương do quá trình co bóp thức ăn bên trong dạ dày và ruột không? Nếu có điều kiện hãy uống nước ép bắp cải nhé. 11. Giảm nọc độc do ong đốt, lấy một thìa cà phê nước ép củ hành xoa vào vùng bị ong đốt sau đó dùng nhíp gắp ngòi ra. Ngoài ra, có thể dùng aspirin xoa lên chỗ ong đốt để giảm đau. 12. Chữa hôi miệng bằng cách đun sôi một vài lá cỏ cà ri (khoảng 4-6 lá) trong một cốc nước sau đó súc miệng khi nước còn ấm. Hãy thử làm trong vòng 7 ngày, mỗi ngày hai lần bạn sẽ thấy tình hình cải thiện đáng kể. 13. Ngâm một thìa bột mỳ trong khoảng 150ml nước để qua đêm. Uống lớp nước trong thu được mỗi sáng sẽ giảm nồng độ axit và các vấn đề về dạ dày. 14. Nhai khoảng 5 lá húng quế vào lúc vừa ngủ dậy để giữ cho họng khỏi bị viêm nhiễm, các bệnh về miệng và nướu lợi. Thực hiện điều này như một thói quen thường xuyên đề tránh mắc các bệnh về họng. 15. Bạn cảm thấy khó tiêu? Một thìa nước ép từ cây bạc hà trộn với một lượng mật ong mật ong và nước chanh sẽ giải quyết vấn đề này nhanh chóng. Thử áp dụng trong 3 ngày sau bữa ăn chính, bạn sẽ cảm nhận được sự khác biệt. 16. Bạn muốn che giấu vết thâm, bầm tím để còn tham dự cuộc đi chơi quan trọng nào đó? Hãy dùng bông nhúng vào giấm nguyên chất và băng vùng bị thâm tím lại cho đến khô thì thôi. 17. Có thể dùng lòng trắng trứng để thay thế cho công dụng của thuốc mỡ. 18. Bị hen suyễn có thể dùng mật ong pha trong một cốc nước sôi uống hàng ngày. 19. Để thoát khỏi bệnh ho dai dẳng, hãy ăn một quả ổi đã được nướng trong lò vi sóng hoặc trên than củi. Áp dụng cho 4-5 ngày liền. 20. Dùng nước dừa non xoa lên da thường xuyên trong khoảng 6 tháng để làm giảm và xoá những sẹo nhỏ. 21. Uống nước ép từ tiểu mạch thảo (cỏ mỳ non) để bồi bổ sức khoẻ. Uống nước ép này hằng ngày giúp cơ thể cường tráng hơn. 22. Ngâm chân tay vào nước muối nóng trước khi ngủ để giảm bớt sự đau nhức. 23. Một thìa cà phê dầu thầu dầu uống với nước ấm vào sáng sớm (chưa ăn gì) để chữa bệnh khó tiêu đồng thời giảm đau nhức cơ bắp. 24. Giảm đau bụng kinh bằng cách dùng một vài nhánh tỏi rán qua bơ, để nguội thêm một ít đường rồi nuốt. Chỉ sau khoảng 15 phút bạn sẽ thấy đỡ ngay.
  22. Maya - Khi sự thật được khai phá. Nền văn minh Maya là nền văn minh cổ đặc sắc, được xây dựng bởi người Maya, đây là một bộ tộc thổ dân châu Mỹ sinh sống ở bán đảo Yucatan cách đây 2000 năm, thuộc đông nam Mexico, Honduras ngày nay. Cư dân Maya tồn tại từ năm 250 – 900 sau Công nguyên, văn minh của người Maya đạt một trình độ rất cao về nhiều lĩnh vực Kiến trúc, Toán học, Điêu khắc, Thiên văn học. Đây là các lĩnh vực mà các nhà khoa học ngày nay vẫn chưa thể lý giải vì sao! Ở thời đại đó, người Maya lại có thể làm được như vậy? Nhiều người đã nghĩ, phải chăng trước đây đã từng tồn tại một nền văn minh cấp cao. Khi thế giới của chúng ta đã tồn tại hơn 4 tỷ năm, mà nền văn minh của chúng ta cho tới bây giờ chỉ là một phần nhỏ, vậy trước kia thì nền văn minh của ai và phát triển như thế nào, câu trả lời để tìm về nguồn gốc đang được mổ sẻ đó chính là nền văn minh Maya. Công trình vĩ đại của người dân Maya - Uxmal, nằm ở phía Tây Yucatán, Mexico Căn cứ vào các di vật khám phá ngày càng phong phú, người ta xác định được rằng vào khoảng thế kỷ thứ nhất các quốc gia cổ đại của người Maya đã được thành lập. Phần lớn các quốc gia người Maya bị diệt vong do nhiều lý do ở vào khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 10. Duy chỉ có quốc gia thành thị trên bán đảo Yucatán, thuộc Mexico tiếp tục tồn tại cho đến khi thực dân Tây Ban Nha đến xâm chiếm vùng này vào thế kỷ 16. Hậu quả của cuộc xâm lăng đã tàn phá rất nhiều các di sản của người Maya. Văn minh đỉnh cao của người Maya được thể hiện qua các công trình còn lại với thời gian như: sân chơi bóng, lâu đài đá và kim tự tháp bậc thang, vô số đền thờ, cung điện, quảng trường thi đấu, trụ đá kỷ niệm, mỗi kiến trúc đều đẹp tinh tế vô ngần, tất cả đều là tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói đây là một quần thể kiến trúc quy mô lớn nhất, bảo tồn hoàn chỉnh nhất kể từ khi con người phát hiện ra các di chỉ Maya cổ đại tới nay. Lịch "Long Count" trên đá của người Maya Người Maya có nhiều loại lịch, họ ghi chép và tính toán chính xác các chu kỳ thiên nhiên và có các biện pháp để đối phó phù hợp với thiên nhiên. Họ tạo ra những chiếc “đồng hồ” các dạng khác nhau để xác định thời gian. Điển hình là lịch "Long Count" được người Maya sử dụng để thu thập thông tin về các sự kiện trong quá khứ và tương lai. Nền văn minh Maya cổ đại đã biến mất 500 năm trước khi người châu Âu khám phá ra châu Mỹ. Sự biến mất của dân tộc này được đặt ra theo hai giải thuyết: Một giả thuyết mang tính hoang đường cho rằng: "Sau khi đã sử dụng hết những kiến thức độc nhất của mình, người Maya đã chuyển sang một dạng tồn tại khác", và giải thuyết khác mang tính khoa học: "Các nhà khoa học tin rằng, người Maya đã tự gây ra ngày tận thế cho chính mình. Họ đã làm kiệt quệ vùng đất mà họ sử dụng để làm hệ thống nông nghiệp, nên họ buộc phải rời bỏ thành phố của mình và di tản ra khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm những vùng đất màu mỡ hơn". Người Maya cổ đại được điêu khắc trong bảo tàng Quai Ranly Nhiều câu hỏi được đặt ra, người Maya đã biến mất không có một lời giải thích, tại sao nền văn minh Maya đã đạt đến trình độ đỉnh cao rồi đột nhiên biến mất! rồi cho đến thế kỷ thứ chín và mười những kẻ thập tự chinh Tây Ban Nha đã hủy rất nhiều văn tự, đốt tất cả các bản chép tay tìm thấy, phá hủy rất nhiều di sản văn hóa và khoa học của người Maya. Đó là một sự mất mát lớn cho đời sau này, nên những nghiên cứu gần đây rất khó khăn. Hầu hết các tàn tích để nghiên cứu chỉ dựa vào các văn bản của người Maya nằm trên bia đá và các chữ khắc trên đá khác vốn đã bị bỏ rơi từ trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm. Rất nhiều chữ tượng hình của người Maya được tìm thấy nhất là đồ gốm dùng trong tang lễ mô tả về cuộc sống ở kiếp sau. Tượng điêu khắc của người dân Maya ở bảo tàng Quai Branly Mãi cho đến bây giờ, sau bao năm khám khá và giải mã từ những đống hoang tàn còn lại, một khám phá bất ngờ đến kinh ngạc, Maya một dân tộc yêu hòa bình và thiên nhiên đã tự đưa nhau đến chỗ diệt vong - đây là những bí ẩn được giải mã trong những văn bản ghi chép của người Maya do Tom Sever (nhà khảo cổ học làm việc với NaSa) phát hiện. Hiện hay, dấu tích của người Maya chỉ có ba bản chép tay còn giữ được đến ngày nay ở Madrid (Tây Ban Nha), Dresden (Đức), Paris (Pháp). Thực ra còn một vài trang sót lại từ bản thứ tư, gọi là bản chép tay Grolier. Phần lớn bản thứ tư chứa đựng một số mảnh vữa hình chữ nhật có hình ảnh và chữ viết bằng sơn bên trên vốn trước kia đã từng là những bản chép tay khác, đều đã bị hủy hoại trầm trọng và không thể đọc được nữa. Tuy nhiên, chỉ nhiêu đó thôi cũng đã khiến cả nhân loại phải kinh ngạc, bởi chúng chứng tỏa tri thức của người Maya là rất cao cấp. Việc giải mã và khôi phục những kiến thức đã mất của người Maya là một công việc gian khổ kéo dài, ít hiệu quả, bởi những thứ đã bị hủy hoại năm xưa là không thể phục hồi. Người ta đã phát hiện ra những bức tượng tại một số tàn tích Maya được lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng Quai Branly: bảo tàng Quai Branly là bảo tàng chuyên về văn hóa Phi - Tây - Phương, tọa lạc ngay bên bờ sông Seine và cách tháp Eiffel. Bảo tàng được xây dựng theo kiến trúc hiện tại bởi kiến trúc sư nổi tiếng người pháp, Jean Nouvel, bao gồm khu vườn với nhiều thực vật "viễn xứ", khu trưng bày thường trực, khu triển lãm... Vật linh thiêng của người dân Maya trong tư thế thủ ấn của một môn tu luyện bí ẩn Tượng người đàn ông trong tư thế thủ ấn của một môn tu luyện bí ẩn Hình khắc chúa Maya lưu giữ trong bảo tàng Quai Branly Hình khắc Maya lưu giữ trong bảo tàng Quai Branly Hình khắc Maya - lưu giữ ở bảo tàng Quai Branly - Pari Người Maya cổ xưa được trưng bày ở bảo tàng Quai Branly Tác phẩm điêu khắc người Maya lưu giữ ở Quai Branly Điêu khắc văn hóa tín ngưỡng tôn thờ thần thánh của người dân Maya (Quai Branly - Pari) Vật linh thiêng của ngừơi dân Maya được lưu giữ ở bảo tàng Quai Branly - Pari Hình thật được tạo từ điêu khắc vật linh thiêng của người dân Maya (Quai Branly) Tấm phù điêu được khắc trên vách đá của người Maya Có một điều giải thích về sự duyệt vong của nền văn minh Maya, bằng chứng được tìm thấy trên bức phù điêu: "Nó minh họa một ngôi đền đã bị phá hủy bởi động đất, một người đàn ông đang chết đuối, một núi lửa đang phun trào, những cơn sóng thần cuộn dâng cao, một người đàn ông đang trốn chạy trên một con thuyền. Tổng thể bức phù điêu bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy: Đó là một trận Đại Hồng Thủy". Nghệ thuật Maya ở Kỷ nguyên Kinh Điển (khoảng từ năm 200 đến 900) được đánh giá rất là tinh xảo và đẹp nhất của Tân Thế Giới cổ. Những tác phẩm chạm khắc và nghệ thuật đắp nổi bằng vữa tường ở Palenque và những tượng của Copán đáng ngưỡng mộ, nó phô bày dáng vẻ tinh tế, yêu kiều, chính xác của con người ở Nam Mỹ làm các nhà khảo cổ nhớ đến các nền văn minh kinh điển. Ngoài những tác phẩm hội họa kinh điển Maya, còn rất nhiều những đồ gốm tùy táng hay hiến tế với độ chắc chắn và tinh xảo. Tại những công trình của Maya ở Bonampak còn lưu giữ những bức tranh tường cổ đại với vẻ đẹp trường tồn. Bảo tàng Quai Branly - Pari Chủ thịch: Mr, Stéphane Martin * Hiện nay ở Trung Mỹ còn khoảng 4,2 triệu hậu duệ người Maya. Hồi tưởng đậm nét nhất của lớp con cháu hôm nay là năm 1511, khi những thực dân Tây Ban Nha xuất hịên. Người Maya kháng cự dũng cảm, quốc gia cuối cùng của họ - Tayasal - mãi đến năm 1697 mới bị chinh phục. Cuộc vùng dậy muộn màng hồi năm 1901 cũng bị quân đội Mexicoo đập tan. Và cuối cùng là chữ cái Latin củ người Tây Ban Nha cũng đã góp phần tiêu diệt hết mần mống cuối cùng của một nền văn minh cổ xưa. Trường Nguyễn nguồn Blog.youme.vn
  23. Hong Kong và những nét phong thủy độc đáo Repulse Bay, khu căn hộ cao cấp xa xỉ vào loại bậc nhất nơi đây, bị đục “thủng ruột”. Toàn bộ tầng một của trụ sở ngân hàng HSBC, một cao ốc bề thế, bị bỏ trống. Các cạnh nhọn của Sun Hung Kai Center, tòa nhà cao 215 mét, bị cắt lẹm. Tất cả đều được thực hiện một cách có chủ ý. Nếu có dịp tới thăm Hong Kong, dù là ở khu vực trung tâm sầm uất hay dọc theo các bãi biển thơ mộng, bạn đểu có thể cảm nhận hơi thở mãnh liệt của phong thủy. Từng tòa nhà, góc phố nơi đây đều ẩn chứa những nét độc đáo của môn nghệ thuật sống hài hòa với thiên nhiên. Khu chung cư 'thủng ruột' Thật khó tìm thấy ở nơi nào khác ngoài Hong Kong kiểu kiến trúc độc đáo này. Nằm dọc theo khu bờ biển sầm uất nhất ở phía nam đảo Hong Kong, Repulse Bay thuộc loại khu hộ cao cấp xa xỉ đắt giá nhất Hương Cảng. Tòa nhà này được khoét một lỗ hổng lớn, tương đương 8 căn hộ theo chiều cao và 4 căn hộ theo chiều ngang. Toà nhà Repulse Bay được khoét một lỗ hổng. Xét về phong thủy, Repulse Bay nằm ở vị trí đắc địa: “tọa sơn vọng thủy” nghĩa là lưng tựa núi, mặt nhìn ra biển, được coi là hết sức lý tưởng. Người ta tin rằng có một con rồng sống ở dãy núi phía sau tòa nhà. Chính hơi thở của nó đem lại sự thịnh vượng cho Repulse Bay. Lỗ hổng lớn trong lòng tòa nhà được thiết kế để rồng có thể thỏa sức xuống biển uống nước và quay trở về núi. Khách sạn với bức tường kính khổng lồ Hong Kong nhìn từ bên trong khách sạn Inter Continental.Inter Continental là khách sạn 5 sao nổi tiếng, nằm ở Tsim Sha Tsui, phía nam đảo Cửu Long, mặt trước hướng ra vịnh Victoria, về phía trung tâm Hong Kong. Nó được thiết kế đặc biệt để rồng trên đảo có thể đi xuyên qua, xuống tắm ở vịnh. Đài phun nước trước cửa khách sạn được lắp đặt nhằm thu hút rồng và một bức tường kính khổng lồ chạy suốt từ trần tới sàn nhà cho phép rồng đi qua một cách dễ dàng. Kiến trúc độc đáo này tạo ra một tầm nhìn mê hồn về phía đảo Hong Kong. Tòa cao ốc với tầng trệt 'rỗng' Bên ngoài toà nhà HSBC.Trụ sở của ngân hàng HSBC là một trong kiểu mẫu của tinh thần phong thủy. Được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng người Anh Norman Foster, HSBC là một trong những tòa nhà đắt tiền nhất thế giới tại thời thiểm khánh thành năm 1985 (gần 1 tỷ USD). Giải pháp này tương đối tốn kém khi bỏ trống cả một tầng.Theo các chuyên gia phong thủy, nhờ thế đất quý lưng dựa núi mặt nhìn ra biển, khí tốt từ trên núi xuống sẽ tụ lại ở biển, biến khu này thành một hồ khí lớn. Trước mặt tòa nhà HSBC là quảng trường Statue. Người ta đồn rằng ngân hàng đã bỏ tiền ra mua và tặng mảnh đất này cho chính quyền Hong Kong để làm công viên. Và do đó, ít có khả năng một tòa nhà cao tầng khác sẽ được xây trên mảnh đất này. Theo quan điểm phong thủy, khoảng trống phía trước tòa nhà (minh đường) rất quan trọng, giúp khí tích tụ, mang lại nhiều may mắn. Xét về nội thất, chủ nhân của tòa cao ốc 180 mét này cũng chọn một giải pháp hết sức tốn kém: bỏ trống toàn bộ tầng trệt, chuyển khu sảnh của tòa nhà lên tầng 2. Điều này được lý giải như sau: Ở Hong Kong các tòa nhà mọc lên san sát, khoảng trống phía dưới tòa nhà sẽ giúp mở đường cho rồng xuống biển, hay nói cách khác là giúp khí từ trên núi di chuyển tới phía mặt tiền của tòa nhà. Nếu không có khoảng trống này, khí sẽ phải khó khăn len lỏi qua khoảng trống eo hẹp giữa các tòa nhà. Khi đi qua các khe hẹp, khí sẽ di chuyển với tốc độ quá lớn, không có lợi cho HSBC cũng như những tòa nhà xung quanh. Các thang cuốn đưa khách lên tầng trên được chăm chút đặc biệt. Từ điểm xuất phát, góc nghiêng đến hướng chạy, tất cả đều được tính toán cẩn thận để không gây phiền nhiễu cho các “thần linh” của khu đất và giúp mang khí tốt lành tới toàn bộ tòa nhà. Bắt đầu từ góc Tây Bắc, nơi được coi là vượng khí, các thang cuốn đi dần vào trung tâm khu nhà. 62 chiếc thang cuốn hoạt động liên tục giúp mang năng lượng từ “hồ khí” ở dưới lên toàn bộ tòa nhà, góp phần mang lại sự thịnh vượng cho HSBC. Tòa nhà được xây bằng hai vật liệu chính là kính và thép cho phù hợp với vận 7 (1984-2003), khi Kim là hành chủ đạo. Khu nhà với các cạnh bị cắt vẹt Dưới góc độ phong thủy, các nhà thiết kế tránh tạo nên các cạnh hoặc góc nhọn vì cho rằng chúng là nguồn sát khí, ảnh hưởng xấu tới môi trường và những công trình kế bên. Để tránh hiểm họa này, các cạnh nhọn của tòa cao ốc 53 tầng Sun Hung Kai Center tại khu vực Trung tâm Hong Kong đã được cắt vẹt để trở nên thân thiện với môi trường. Các góc của toà nhà Sun Hung Kai Center được cắt vẹt để thân thiện với môi trường.Trên đây mới là vài nét chấm phá, một phần hết sức nhỏ bé của bức tranh phong thủy đầy kỳ thú của hòn đảo Hong Kong .Hùng Sơn ngoisao.net
  24. Tòa nhà có phong thủy 'hung hãn' nhất thế giới Tòa nhà 72 tầng, trụ sở của Ngân hàng Trung Quốc chi nhánh tại Hong Kong, bị giới phong thủy coi là khu cao ốc “hung hãn” nhất thế giới. Nổi bật trên bầu trời, tòa nhà 288 mét này được tạo thành từ 4 khối hình tam giác cao thấp khác nhau. “Sát khí” từ các góc cạnh sắc nhọn của chúng trở thành nỗi kinh hoàng của những người sống trong các công trình lân cận. Được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ gốc Hoa I.M. Pei, Ngân hàng Trung Quốc hoàn thành năm 1989 và chính thức khai trương năm 1990. Pei gửi gắm vào đây hình ảnh búp tre đang mọc, biểu tượng của sự tăng trưởng, lớn mạnh và phồn thịnh. Trong thời gian xây dựng tòa nhà, ông không tham khảo ý kiến của chyên gia phong thủy. Và khi công trình được công bố, nó đã vấp phải những chỉ trích nặng nề liên quan tới thiết kế của tòa nhà cũng như ảnh hưởng xấu của nó tới môi trường xung quanh. Ngân hàng Trung Quốc tại Hong Kong.Những ý kiến phản đối cho rằng, các cấu trúc hình tam giác của Ngân hàng Trung Quốc khiến người ta liên tưởng tới “kim tự tháp”, cụm từ này đồng âm với cụm từ chỉ “tiểu đựng hài cốt” trong tiếng Quảng Đông. Hai “chiếc đũa” trên nóc tòa nhà chĩa thẳng lên trời trông chẳng khác gì hai nén hương được thắp để tưởng nhớ người quá cố. Hơn nữa, các cạnh nhọn của tòa nhà trông giống như những chiếc dao găm: một số chĩa vào bên trong, một chiếc chĩa vào Tòa nhà Hội đồng Lập pháp Hong Kong, và một chĩa thẳng vào Tòa nhà Chính phủ. 'Sát khí' từ các cạnh nhọn của tòa nhà ảnh hưởng tới các công trình kế cận.Người ta cho rằng Ngân hàng Trung Quốc đã ảnh hưởng rất xấu tới Tòa nhà Chính phủ (theo đồn đại thì trước đó đã được cố vấn về mặt phong thủy để có vị trí đẹp). Chẳng bao lâu sau khi cao ốc Ngân hàng Trung Quốc hoàn thành, chủ nhân của Tòa nhà Chính phủ, Thống đốc Hong Kong người Anh qua đời. Ngài Thống đốc kế nhiệm bị sa thải. Và rồi ông Thống đốc của nhiệm kỳ tiếp theo cũng gặp rất nhiều rắc rối. Năm 1997, khi Anh chuyển giao chính quyền cho Trung Quốc, Trưởng đặc khu đầu tiên của Hong Kong, ông Đổng Kiến Hoa, đã cương quyết từ chối vào sống trong khu nhà này. Ngay sau khi được công bố, thiết kế của tòa nhà Ngân hàng Trung Quốc đã bị chỉ trích nặng nề. Để hóa giải ảnh hưởng xấu của các góc nhọn, biểu tượng của hành “hỏa”, kiến trúc sư Pei quyết định bổ sung sự hiện diện của hành “thủy” xung quanh tòa nhà. Rất không may, một số đài phun nước lại bị đặt sai vị trí. Việc đặt chúng ở cung Tây và cung Tây Bắc (thuộc hành kim) làm cho phong thủy của tòa nhà xấu thêm. Theo nguyên tắc ngũ hành, thủy làm suy yếu kim, cung Tây Bắc (chủ về người đàn ông, ông chủ của tập đoàn) đã bị nước làm suy yếu. Các thác nước đặt hai bên toà nhà giúp khí tụ vào phần cửa chính.Sau này, rất nhiều chuyên gia phong thủy đã hiến kế cải thiện tình hình. Để giúp điều hòa khí và mang năng lượng vũ trụ vào tòa nhà, người ta đã trồng thêm nhiều cây xanh, cắm thêm các cột cờ ở phía trước tòa nhà. Các thác nước đặt hai bên tòa nhà giúp khí tụ vào phần cửa chính. Trở lại với Tòa nhà Chính phủ, người ta có thể thắc mắc tại sao đương kim Trưởng đặc khu Tăng Âm Quyền, chủ nhân của tòa nhà này, lại tại vị lâu thế. Câu trả lời là sát khí của Ngân hàng Trung Quốc đã bị hóa giải bởi một bể cá được xây ngay cạnh Tòa nhà Chính phủ. Bể cá này đã hấp thu “sát khí” từ các góc nhọn của tòa nhà Ngân hàng Trung Quốc. Hùng Sơn
  25. Chị đã nhận được của Minh Chau 5,000,000 đ (năm triệu đồng) đã xác nhận bên Topic "Quỹ Từ Thiện" Ngày mai Chị sẽ liên hệ Mẹ cháu Uy nếu còn lưu bệnh tại Tr tâm Huyết Học Đường Phạm Viết Chánh Q.1. Wild sẽ đến tận nơi trao tặng kèm hình ảnh. Cám ơn sự chia sẽ M.C.