wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. 'Vua sám hối'- bức dị tượng độc nhất thế giới Bức tượng được sơn son thiếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên. Tượng “Phật cưỡi vua” độc nhất vô nhị Một chiều thu lang thang trên những con phố ở Hà Nội, đi ngang qua con phố Hàng Than, thấy chùa Hòe Nhai ngày nào giờ sửa sang lại khang trang quá, cửa chùa để ngỏ, tôi chợt dừng bước ghé chân vào thăm để tìm một chút tĩnh lặng giữa những mớ bộn bề của cuộc sống. Từng ngọn gió thu mát rười rượi thổi dọc theo dãy hàng lang đi quanh chùa, lại thêm cảnh vật yên tĩnh, trong lành khiến tâm hồn thư thái đến lạ thường. Đi dạo một vòng quanh chùa, bất ngờ tôi phát hiện ở gian phòng thờ bên trái thượng điện có một bức tượng hết sức kỳ dị thật mà không một ngôi chùa nào khác có được. Đó là một bức tượng to, được sơn son thếp vàng, tượng tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen đè lên lưng nhà vua. Đem sự tò mò đến hỏi trụ trì của chùa là hòa thượng Thích Tâm Hoan, tôi mới được hay biết đằng sau bức tượng này là cả một truyền kì dài gắn với tên tuổi của một vị vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Trụ trì Thích Tâm Hoan cho biết: “Bức tượng này là độc nhất vô nhị, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, có bao nhiêu người được chiêm ngưỡng là bấy nhiêu sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên khi được nghe về huyền tích sự ra đời của tượng “vua sám hối”. Bức tượng kỳ lạ bí ẩn ở chùa Hòe Nhai, Hà Nội Nhiều người khi nhìn bức tượng này cho rằng đây là một sự trừng phạt nhưng trái lại, "Dáng quỳ gối phủ phục sát mặt đất của tượng vua thể hiện một sự quy phục tuyệt đối. Đó là sự hối lỗi chân thành, một sự thay đổi xuất phát từ sâu sắc trong tim chứ không gượngép và do đó đây là một sự nhận lỗi, sửa sai chứ không phải là một sự trừng phạt”, nhà sư Thích Tâm Hoan nói. “Pho tượng không chỉ là một sự hoài cổ, mà nó là một bài học lưu truyền cho muôn đời sau học tập. Làm người ai cũng phải sửa bỏ thói hư tật xấu thì mới đạt được kết quả tốt. Ai sống trên đời cũng đều mắc sai lầm, nhưng điều quan trọng là phải biết nhìn nhận và sửa sai, để được tha thứ. Khi biết nhận lỗi, những người khác sẽ không đánh giá và quy tội nữa," thầy Tâm Hoan giải thích thêm. Sự ra đời của pho tượng sám hối kỳ lạ Theo lời của trụ trì Thích Tâm Hoan, thì vào khoảng năm 1670, lúc này Phật giáo đang trong thời kỳ suy sụp, các nhà sư đều điêu đứng vì bị cho rằng sự tồn tại của họ là không có lợi cho xã hội, các tăng ni và phật tử trong chùa đều là những người lười nhác và sống ỉ lại vào sự hảo tâm của mọi người, lãng phí của cải. Khi vua Lê Hy Tông lên nắm quyền năm 1675 đã ra sắc lệnh đuổi hết sư sãi ở các chùa lên rừng, ai ngoan cố không đi sẽ bị khép vào trọng tội đem ra xử trảm, khiến Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh hơn bao giờ hết trong lịch sử. Chùa triền bỏ hoang, kẻ cắp vào tàn phá, các nhà sư phải bỏ lên rừng, nhiều người không chịu được đói rét lại cởi áo cà sa quay về kiếp phàm trần. Cùng thời gian này có một vị thiền sư đắc đạo tên Tông Diễn, ông thuộc thế hệ thứ hai của phái Tào Động. Ông được mọi người thời bấy giờ gọi là “tổ cua” vì tương truyền có một lần Tông Diễn mua được một mớ cua mẹ sau đó liền thả hết chúng trở về mương vì khi nhìn thấy chúng sùi bọt ông cho rằng chúng đang than khóc cho số phận của mình. Nhìn thấy sự đi xuống của Phật giáo và sự khốn khổ của các vị sư, Tông Diễn đã quyết tâm tìm cách trở về kinh thành Thăng Long nơi có vua Lê Hy Tông ngự để ngộ giác tư tưởng nhà Vua, cứu lại niềm tin Phật pháp vô biên. Tượng "vua sám hối" độc nhất vô nhị đã được ghi vào sách kỷ lục Guinness Vì khi đó vua Lê Hy Tông đang rất kì thị và căm ghét nhà sư nên Tông Diễn phải cải trang sau đó giả vờ dâng tặng nhà vua một viên ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ được viết bằng tâm huyết của Tông Diễn, giúp vua Hy Tông ngộ ra được chân lý của Phật giáo. Điều mà bức sớ của Tông Diễn muốn nói với vua Hy Tông là ở đời Trần, đời Lý, các vua hết sức coi trọng đạo Phật và rồi quốc gia thịnh trị, đạo Phật khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia, vậy tại sao cho đến giờ đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã hội... Khi truyền đến tay, vua Hy Tông sau khi đọc hết bức sớ chứa đầy những suy nghĩ đúng đắn của vị thiền sư trong giây lát như bừng tỉnh, thoát khỏi cơn mộng mị. Nhà vua liền lập tức cho triệu ngay Tông Diễn vào triều, cúi mình tạ lỗi trước nhà sư, sau đó thu hồi sắc lệnh cấm Phật giáo và hứa sẽ sửa mình với Tông Diễn. Để thể hiện lòng thành, vua cho người tạc bức tượng lớn mà trong đó có hình nhà vua lấy theo mẫu vua Hy Tông đang phủ phục dưới đất cõng trên lưng tượng đức phật Thích Ca Mâu Ni đang ngồi thiền trên đài sen và đặt tên đó là bức tượng “vua sám hối”. Bức tượng do vua Hy Tông sai tạc ngoài việc để sám hối với đức Phật vì hành động “phá đạo” của mình, ông còn muốn tất cả mọi người hãy tự biết tu thân sửa mình để sống tốt hơn, nhất là những quan lại nắm chức, cầm quyền trong tay cũng phải xem lại chính mình. Sự ngự trị trong cõi này còn có một cõi ngự trị siêu hùng ưu việt hơn, đó là lực lượng của trí tuệ, một sự tự thân, của bản thể duy nhất. Như vua Lê Hy Tông, người mang quyền lực tối cao trong một nhà nước đã biết nhận lỗi, sửa lỗi. Sự sám hối này không chỉ cho mình ông, mà còn để răn dạy bao thế hệ về sau nữa", nhà sư Thích Tâm Hoan chỉ dạy. Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo. Hiện tượng “vua sám hối” cũng được ghi vào sách kỷ lục Guinness. Bưu Điện VN
  2. GS. Ngô Bảo Châu nói chuyện về Phật giáo và cuộc sống Là nhà toán học tổi tiếng thế giới với công trình chứng minh Bổ đề cơ bản Langlands, GS. Ngô Bảo Châu là người Việt Nam đầu tiên giành được Huy chương Fields, giải thưởng toán học cao quý nhất ghế giới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia châu Á thứ hai sau Nhật có nhà toán học đoạt giải Fields. Với công trình đặc biệt vốn được Tạp chí Times liệt vào vị trí thứ 7 trong số 10 sự kiện khoa học nổi bật trên thế giới năm 2009, GS. Ngô Bảo Châu đã làm rạng danh người Việt trên khắp thế giới. Nhân chuyến về thăm Việt Nam vào tháng 7-2011, GS đã dành cho ĐPNN những chia sẽ sau đây: ĐPNN: Sau khi được bổ nhiệm là giám đốc khoa học của Viện nghiên cứu cao cấp về Toán từ ngày 9-3-2011, được biết đây là mùa hè đầu tiên, GS làm việc tại Việt Nam. Với cương vị này, trách nhiệm và chiến lược của GS trong việc phát triển toán học tại nước nhà ra sao? Những khó khăn nếu có? NBC: Chào thầy Thích Nhật Từ. Vâng thưa thầy, hè năm nay Viện nghiên cứu cao cấp về Toán (VIASM) đã có những hoạt động khoa học đầu tiên. Bên cạnh việc cùng nhau tìm hiểu một số vấn đề toán học ít được nghiên cứu ở Việt Nam, chúng tôi cố gắng tạo ra một nếp làm việc cho những hoạt động khoa học khác của VIASM sau này. Tất nhiên là vạn sự khởi đầu nan, nhưng tôi rất hy vọng VIASM sẽ là một nguồn sức sống mới cho toán học Việt Nam. ĐPNN: GS có phải là Phật tử? Việc tìm hiểu về đạo Phật của GS thế nào? NBC: Gia đình tôi theo Phật nhưng tôi không phải là phật tử theo nghĩa toàn vẹn nhất, mặc dù có lẽ văn hóa Phật giáo có thấm sâu vào con người tôi như nhiều người Việt nam khác. ĐPNN: Đạo Phật đã ảnh hưởng thế nào đối với cuộc sống của GS? NBC: Có lẽ đó là sự nhận thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống của con người cũng như của mọi sinh linh từ đó dẫn đến sự trân trọng cuộc sống của người khác và của chính mình. Có lẽ đó còn là một thái độ tương đối bình thản trước mọi biến cố của cuộc sống. Thường thì người ta đạt được sự bình thản này sau khi một phần lớn của đời mình đã trôi qua, văn hóa Phật giáo có thể giúp ta bình thản ngay cả khi một phần lớn của cuộc đời có lẽ còn ở phía trước. Có lẽ sự nhận thức về tính vô thường của thế giới và của cả con người đã giúp tôi rất nhiều để có một sự cân bằng trong cuộc sống. Một bên ta không thể buông xuôi trách nhiệm với xã hội, với những người thân thiết, với bản thân mình, một bên ta vẫn hiểu rằng cái quan trọng ngày hôm nay, ngày mai có thể sẽ không còn quan trọng nữa. ĐPNN: Giáo sư đã từng đọc kinh Phật? Nếu có thì đó là kinh gì? Ảnh hưởng của bài kinh đó đối với cuộc sống của giáo sư thế nào? NBC: Tôi được đọc kinh phật mỗi lần đến thăm bà ngoại tôi. Ngoại tôi tụng kinh hàng ngày. Khi còn là sinh viên tôi có đọc một số sách về lịch sử Phật giáo. Trải nghiệm quan trọng nhất của tôi với Phật giáo là lần đi thăm di tích Ajanta bên Ấn độ. Đó là những hang đá nơi những người tu hành đã sống từ thế kỷ thứ sáu. Những bức bích họa rất lớn trên vách hang miêu tả cuộc đời của Thích Ca Mầu Ni đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt. ĐPNN: Là một nhà khoa học toán, giáo sư đánh giá thế nào về các điều minh triết Phật dạy về con người và vũ trụ? NBC: Triết lý Phật giáo cho con người một nhân sinh quan rộng rãi, giải phóng nhiều định kiến. Đấy là một tố chất cơ bản của nhà khoa học. Có những nhà khoa học có uy tín đi tìm những điểm chung giữa triết lý tôn giáo trong đó có Phật giáo và Cơ đốc giáo và khoa học hiện đại. Cá nhân tôi thấy những cố gắng này có phần khiên cưỡng. ĐPNN: Khi tự đặt cho mình biệt hiệu “Hòa thượng Thích Học Toán” hẳn giáo sư đã thể hiện phần nào thiện cảm với Phật giáo, cụ thể hơn là tu sĩ Phật giáo? Ý tưởng của việc chơi chữ này là gì? NBC: Công việc nghiên cứu khoa học có nhiều điểm chung với cuộc sống của những nhà tu hành. Nghiên cứu khoa học cơ bản cũng có tính thoát ly khỏi cuộc sống trần tục. Tôi chọn biệt danh “Hòa thượng Thích Học Toán” để cho trò chuyện toán học trên blog được thân thiện hơn, để câu chuyện toán học thoát ra khỏi hình thức phổ biến khoa học. Sau khi một số Phật tử có nhắn với tôi không nên đùa với chức danh Hòa thượng, tôi cũng không dùng nó nữa. Tôi cũng không có ý tạo thêm những sự bực bội không cần thiết. ĐPNN: Gần đây, Giáo sư đặt trang blog cá nhân (thichhoctoan.wordpress.com) ở chế độ riêng tư, một hình thức của đóng cửa đối với độc giả quý mến giáo sư? Đâu là lý do cho việc này? NBC: Sau sự kiện giải thưởng Fields, blog của tôi có khá nhiều người đọc. Tôi nhận ra rằng cách viết hài hước mà tôi chọn cho blog cũ nay không còn phù hợp nữa. Tôi vẫn giữ ý định mở lại một trang blog mới và viết lại nhiều bài theo một phong cách nghiêm túc và có hệ thống hơn. ĐPNN: Là người sống và làm việc tại Pháp, trung tâm của văn minh châu Âu và hiện nay giảng dạy tại đại học Chicago, Hoa Kỳ, giáo sư có suy nghĩ gì về mô hình giáo dục đại học Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa? NBC: Có một khoảng cách khá lớn về chất lượng giữa giáo dục đại học ở Việt Nam và ở các nước phát triển. Vì dư luận xã hội đã quá tiêu cực với chất lượng giáo dục cho nên tôi thấy không cần phân tích thêm. Cái cần và khó hơn nhiều là tìm ra giải pháp. Có lẽ giải pháp tốt nhất là để cho mỗi ngôi trường, mỗi người thầy tìm ra giải pháp riêng cho mình. Nói cách khác là trường đại học và các giáo sư đại học cần được chủ động hơn trong chương trình và qui chế tuyển sinh. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần làm thêm nhiều điều tra để so sách chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa các trường để dựa vào đó mà có chính sách đầu tư hỗ trợ. Những thông tin này cũng cần được công bố rộng rãi để học sinh sinh viên cũng như phụ huynh có thông tin chính xác hơn cho việc chọn trường học. Việc nới quản lý từ trung ương để tăng tính chủ động cho những người trực tiếp làm công việc đào tạo và nghien cứu có thể dẫn đến bất cập ở chỗ này chỗ khác, nhưng tôi tin vào khả năng tự điều chỉnh của cuộc sống. Sự tự điều chỉnh sẽ nhanh hơn nếu thông tin được rộng đường. ĐPNN: Toán học có thể giúp gì cho việc quy hoạch đô thị Việt Nam? Kinh nghiệm của Pháp và Mỹ trong lãnh vực này thế nào? NBC: Ở nước ta, việc quy hoạch giao thông trong các đô thị vẫn dựa nhiều vào cảm tính, nên hay thay đổi. Những hệ thống có độ phức tạp cao như giao thông đô thị thực ra rất cần được thử nghiệm và thiết kế dựa trên những mô hình toán học. ĐPNN: Là người lập gia đình và có con ở tuổi đôi mươi, đâu là bí quyết duy trì “hạnh phúc gia đình” của giáo sư sau gần 20 năm chung sống? NBC: Thưa thầy, cuộc sống gia đình nào cũng có lúc sóng gió. Để sống với nhau, mỗi người cần hiểu những người mình yêu để mà sống vui với chính con người họ. Mỗi gia đình còn có một động lực rất lớn để tồn tại đó là con cái và việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái. ĐPNN: Tháng bảy trong Phật giáo là mùa báo hiếu công ân sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ như hai vị Phật trong nhà, Gs có thể chia sẻ vài kỷ niệm đẹp mà hai đấng sinh thành đã giành cho Gs thời trẻ? NBC: Cha mẹ tôi luôn dành hết cho tôi mọi sự yêu thương, ưu tiên việc nuôi dưỡng giáo tục tôi hơn tất cả. Vợ chồng tôi cũng cố gắng làm như vậy với các con, nhưng chắc chắn là không thể được như ông bà. Khi còn nhỏ, mẹ tôi dậy tôi rằng xấu nhất là nói dối. Bây giờ tôi vẫn tin và cũng dậy các con tôi như thế. ĐPNN: Với vai trò làm cha của ba đứa con hiếu thảo và thành công, xin GS chia sẻ kinh nghiệm làm cha của mình? NBC: Tôi không nghĩ các con tôi đặc biệt thành công hoặc là mình là một người bố kiểu mẫu để có thể tự tin chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Công việc bận rộn không cho tôi có nhiều thời gian để gần gũi với con cái như tôi mong muốn mà thời gian là cái mà trẻ nhỏ cần nhất ở cha mẹ. Có lẽ người lớn nên bớt thời gian xem TV, lướt web, tụ tập bạn bè để có thêm thời gian chơi với con, học với con, cùng đọc sách với con. Những cái đó có ích cho trẻ hơn là việc bỏ tiền ra cho con đi học thêm hay những khóa rèn luyện “kỹ năng sống”. ĐPNN: Theo GS, hạnh phúc là gì? Và đâu là cách thức giáo sư giữ gìn và phát triển hạnh phúc có được? NBC: Đối với tôi, cái hạnh phúc lớn nhất là cảm giác mình đang sống. Cảm giác đó bao gồm cả vị ngọt và vị đắng. Nó xuất phát quan hệ với những người thân thiết, bạn bè, công việc và xã hội, từ miếng cơm ta ăn, từ miếng nước ta uống, từ không khí ta đang thở. Để có hạnh phúc, có lẽ không có cách nào khác là yêu cuộc sống như chính nó. Để bất hạnh, có lẽ không có cách nào tốt hơn là đi đuổi theo những ảo ảnh. ĐPNN: Theo GS, “để sống một cuộc sống có ý nghĩa,” người ta phải làm gì? NBC: Tôi e mình không đủ thông tuệ để trả lời câu hỏi này của thầy một cách đầy đủ. Phần nhỏ của câu trả lời mà tôi biết là để sống một cuộc sống có ý nghĩa, ta nên tránh làm những việc vô nghĩa. Thích Nhật Từ Đạo Phật Ngày Nay Bình luận (5 đã gửi) Nguyễn Hoàng Mộng 22/09/2011 22:47:46 Tìm hiểu Phật giáo qua ông Ngô Bảo Châu, nhà toán học được Huy chương Fields, tôi cho rằng là một điều 'khiên cưỡng' như từ dùng của bài viết. Cá nhân tôi đồng thời cũng cho rằng, ông Ngô Bảo Châu không phải là tất cả, mà còn nhiều lĩnh vực khác cũng bình thường. Do vậy, nếu cá nhân ông Ngô đưa ra ý kiến rằng: "Có những nhà khoa học có uy tín đi tìm những điểm chung giữa triết lý tôn giáo trong đó có Phật giáo và Cơ đốc giáo và khoa học hiện đại. Cá nhân tôi thấy những cố gắng này có phần khiên cưỡng" thì tôi nghĩ đó đơn thuần chỉ là một ý kiến cá nhân của ông. Ông Ngô không phải là nhà vật lí học- một điều chắc chắn như thế, trong lúc tôn giáo, mà nổi bật nhất là triết lí Phật giáo có liên quan đến khoa học vật lí. Nguyễn Hoàng Mộng 2 Trọng Việt 25/09/2011 16:35:53 Bài báo này là phỏng vấn GS Ngô Bảo Châu, một người nỗi tiếng. Còn muốn tìm hiểu Phật giáo thì nên “phỏng vấn” người thực hiện là TT Thích Nhật Từ hoặc chư vị tôn đức khác.. Các câu trả lời là ý kiến của NBC, chưa chắc được sự đồng tình của ngay cả người đặt câu hỏi. NBC nỗi tiếng nhưng ngoài tri thức chuyên môn vẫn là một người bình thường. Đọc bài phỏng vấn để biết thêm về NBC , chỉ thế thôi. Reply 4 Ngông Sỹ Đồ01/10/2011 00:15:24 Tôi là người ngưỡng mộ tài năng và nhân cách của Gs Ngô Bảo Châu. Gs tuy không tìm hiểu nhiều về nền giáo dục viên mãn của Phật đà (mà nay đã biến thành tôn giáo - đó là một điều bất hạnh!) nhưng cảm nhận rất sâu sắc về giá trị của cuộc sống và nhân sinh quan của Đạo Phật. Nhưng nhận xét “ Có những nhà khoa học có uy tín đi tìm những điểm chung giữa triết lý tôn giáo trong đó có Phật giáo và Cơ đốc giáo và khoa học hiện đại. Cá nhân tôi thấy những cố gắng này có phần khiên cưỡng” lại chứng tỏ một điều là Gs cũng nhận xét theo cảm tính mà không dựa trên sự hiểu biết thấu đáo nào! Ôi Gs Ngô Bảo Châu còn vậy huống chi là người không biết đến Phật đà, không biết Kinh Phật đã nói những gì. Thế giới động loạn, thế sự đảo điên cũng là dễ hiểu!. Các nhà lí thuyết vật lí vĩ đại nếu hiểu được Kinh Hoa Nghiêm và Bát Nhã Ba La Mật thì chẳng dám nghe từ vĩ đại mà ai đó tôn vinh mình. Nếu hiểu được Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói về chư pháp thực tướng (nói rõ về chân tướng của vũ trụ, nhân sinh) thì thánh nhân Trung Hoa không chỉ giới hạn Thiên-Địa-Nhân hợp nhất, từ Democritus cho đến John Dalton chẳng dám nói nguyên tử là hạt nhỏ nhất, Einstein chẳng nói tốc độ của ánh sáng là không thể vượt qua…và triết học nào đó không thể nói bản chất tôn giáo là hiện tượng XH phản ánh sự bế tắc bất lực của con người trước tự nhiên và XH… Gs.Vs. Đào Vọng Đức (trong Lời Giới Thiệu cuốn sách “CUỘC TÌM KIẾM HÀI CỐT CỐ TỔNG BÍ THƯ HÀ HUY TẬP”) có viết: “… Theo dự đoán của nhiều học giả nổi tiếng thì thế kỷ 21 này sẽ được đánh dấu một bước tiến vĩ đại, đó là nhận thức được rằng Khoa học và Tâm linh không đối nghịch nhau, mà là hai mặt đối ngẫu bổ sung cho nhau để nghiên cứu thực tại. Einstein (…) khẳng định “Khoa học, Tôn giáo, Nghệ thuật là những cành nhánh cùng một cây… Khoa học không có Tôn giáo thì khập khiễng, Tôn giáo không có Khoa học thì mờ ảo”. … Rõ ràng rằng nghiên cứu các lĩnh vực với mức độ tinh tế khác nhau thì cách tiếp cận phải khác nhau, đặc biệt với các hiện tượng siêu tinh tế thì đòi hỏi phải vận dụng các khái niệm và các hệ tiên đề hoàn toàn mới, có thể rất xa lạ với những điều đã quen thuộc trước đó. Đây là cuộc viễn chinh khoa học gian nan nhưng đầy hứa hẹn, đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa Khoa học và Tâm linh, sự đóng góp lâu dài công sức và trí tuệ của các nhà khoa học và các nhà ngoại cảm.” Thì ra cách nhìn nhận của nhà vật lí và nhà toán học khác xa nhau! Reply 4 Duy Hưng 01/10/2011 14:52:33 Ngông Sỹ Đố đưa ra những ý kiến rất sâu sắc, tôi rất muốn được nghe ý kiến phản đối thay vì phải nhìn thấy 2 điểm trừ mà không rõ tại sao. Reply 1 công đăng đao 21/10/2011 09:40:52 ý kiến của thầy tạm được thôi.
  3. Tiếng đóng cửa Tôi mới chuyển đến nơi ở mới, cứ gần nửa đêm đang lúc ngủ ngon, tôi bị thức giấc vì tiếng đóng cửa rất mạnh ở lầu trên và tiếng chân lộp cộp rất khó chịu.Nhiều ngày kế tiếp nhau, vẫn tiếng đóng cửa và tiếng dép vào đúng giờ ấy khiến tôi không sao chịu nổi. Mẹ tôi khuyên : '' Thôi con à, chúng ta mới đến, con đừng vội, kẻo làm mất lòng hàng xóm ''.Tôi đem chuyện ra than thở với mấy người trong xóm. Có người khuyên : '' Bà và chị cố gắng chịu đựng tiếng đóng cửa đó một thời gian. Chắc sẽ không lâu đâu . . . Rồi người ấy nói tiếp : '' . . . Nửa năm trước, người cha bị tai nạn xe qua đời; người mẹ bị ung thư, liệt giường, không đi lại được. Tiếng đóng cửa đó là của người con. Hoàn cảnh khá đáng thương, xin bà và chị thông cảm ! ''Cậu thanh niên này mới chỉ độ 16 tuổi. Tôi tự nhủ : '' Trẻ người non dạ, cố chịu đựng thôi ''. Thế nhưng, tiếng đóng cửa vẫn tiếp tục xảy ra. Tôi quyết định lên lầu nhắc nhở. Cậu bé mở cửa, hốt hoảng xin lỗi : '' Dì thứ lỗi, cháu sẽ cố gắng cẩn thận hơn . . . '' Thế nhưng, cứ khi tôi vừa thiu thiu giấc ngủ, tiếng đóng cửa quen thuộc lại vang lên đập vào tai tôi như thách thức. Mẹ tôi an ủi : '' Ráng đi con, có lẽ nó quen rồi ! Từ từ mới sửa được. . . '' Rồi khoảng một tháng sau, đúng như lời mẹ nói, tiếng đóng cửa đột nhiên biến mất. Tôi nằm trên giường nín thở lắng tai nghe, tiếng khép cửa thật nhỏ, và bước chân nhẹ nhàng cẩn thận. Tôi nói với mẹ : '' Mẹ nói đúng thật ! '' .Nhưng tôi bỗng bất ngờ … khi thấy hai mắt mẹ tôi ngấn lệ. Mẹ tôi nghẹn ngào nói : '' Mẹ thằng bé trên lầu đã ra đi rồi, tội nghiệp thằng bé, ban ngày đi học, đêm đến quán chạy bàn, nó cố gắng đi làm thêm để kiếm tiền chạy chữa cho mẹ, nhưng rồi bà ấy vẫn không qua khỏi ''. Trong tình hàng xóm, tôi sắp xếp thời gian viếng xác người phụ nữ ấy. Cậu bé cúi thấp đầu, tiến đến gần tôi và nói : “'' Dì ! Nhiều lần cháu làm Dì mất ngủ, cháu xin Dì tha lỗi ''. Rồi cậu nói trong tiếng nấc : '' Mẹ cháu mỗi ngày một yếu, nói không được, nghe không rõ, cháu đóng cửa mạnh để mẹ biết cháu đã về, có thế bà mới an tâm ngủ, Nay mẹ cháu không còn nữa, Dì ạ . . . '' Nghe câu chuyện, tôi bỗng cảm thấy như bị ù tai, lệ từ hai khóe mắt tôi bỗng tuôn trào ra ... Tôi thấy mình quả là vô tâm, thiếu cảm thông với hoàn cảnh của người khác. Cảm thông là tối cần trong các mối quan hệ và lòng khoan dung là quà tặng đáng giá nhất trên đời, Xin Bạn đừng bao giờ khép lại lòng mình. Cầu mong cho con người chúng ta luôn hướng đến một nhịp đập trái tim quảng đại, tấm lòng vị tha, nhân ái, vượt qua những suy nghĩ tầm thường, để mặc lấy tâm tình yêu thương Tạo Hóa ban tặng riêng chỉ có ở '' Con Người '' . . .
  4. Cho Cô địa chỉ theo như các bạn khác thỉnh nhận cô sẽ gởi nhanh đến và bạn cũng nên post bài bên Chủ đề "Thần Chú giải Thoát " cho đúng với nội dung mình đang cần.
  5. Đến lúc này đây thì Wild cần phải công bố đáp án để những ai đọc qua sẽ thấy vì sao cô Chị phì cười khi đọc xong mãnh giấy với vẻ hoan hỷ hài lòng, và cũng cần xác nhận đáp án của bác Thiên Sứ gần đúng bởi đúng ý mà chưa chính xác từ, đó là 2 từ "CÂM MỒM" vì trong ý nghĩ Cô Chị đinh ninh rằng Wild thông cung riêng tư thiên vị nên rất giận dữ mà hành động mất kiểm soát.
  6. Theo cách hiểu của Wild trong từ "Cái" mà Rin86 đặt ra hàm ý là Cha Mẹ, ai cũng mặc nhiên thừa nhận vì đã là 1 thành ngữ quen thuộc, nhưng ở đây có ý tương ứng như "sòng bạc" thì "Cái" là chủ xị là người chốt của cuộc chơi, Chẳng biết có đúng không? Do đó được xem như người có trách nhiệm trực tiếp.Người ta thường gọi là "nhà cái" .
  7. Có nhận của Cháu Bảo Hằng 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ suất ăn cho bệnh nhân Ung bướu . Quỹ hiện có : 5,950,000 đ + 500,000 đ = 6,450,000 đ (sáu triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng)
  8. NHẮC NHỞ TU HÀNH NGÀY KHÁNH TUẾ 17/07 TÂN MÃO (2011) HT. THÍCH TRÍ TỊNH Tôi nói chân thành với các huynh đệ rằng, sự tướng không thể bỏ được. Lấy sự tướng của việc tụng kinh, niệm Phật để chống lại sự tướng của ba độc tham, sân, si, phiền não, già, bệnh, chết. Ngày tháng không thể bỏ qua, nó thúc đẩy mình tiến đến chỗ chết mà thôi. Như tôi năm nay 95 tuổi, qua sang năm là 96 tuổi, không thể trở lại 94 tuổi được. Thân này, mầm bệnh tật bao vây từ trong đến ngoài, nó luôn chờ dịp để sanh khởi lên. Còn trước mặt là tấm bảng già yếu, bệnh tật, chết chóc, chui đầu vào đó mà thôi. Ai cũng phải đến chỗ đó hết, chỉ sớm hay muộn. Thân này là như vậy, kết cuộc của thân là như vậy. Mọi người phải nhận hiểu rõ ràng, chớ nên mê lầm. Tôi cũng có 3 điều để dìu dắt mọi người, xuất gia cũng như tại gia. Vì người tin được thì sẽ thực hành theo: 1. Ăn chay. Phải thiết thực. Vì mỗi ngày ăn thịt chúng sanh thì điều ác nào chẳng dám làm, việc thiện nào có thể sanh khởi được? Bởi vì loài vật bị giết bị nấu bị nướng thì con người mới có thịt ăn. Vả lại, đạo Phật lấy Từ Bi làm chánh, nhưng ăn thịt chúng sanh thì đâu còn Từ Bi nữa. Ăn chay có những lợi ích gì: • Không vướng mắc vào nhân quả của nghiệp giết hại. Nghiệp sát sanh ở thế gian rất nặng, vì chúng sanh bị bắt giết thì chúng ta mới có thịt ăn. • Ăn chay vì tình thương không nỡ ăn thịt loài vật. Tình thương phát sanh thì mong muốn mọi loài đều được an vui, do đó làm các việc lành. Như thế, tâm từ đã sanh ra. Ví như mình thương người em, người cháu thì đâu muốn nó khổ, đã không muốn nó khổ thì không làm những việc bất thiện. Do vậy, tâm bi cũng sanh khởi mà làm các việc lành. Tâm từ bi có được, cội gốc do ăn chay mà thành. Thuở nhỏ, những người bạn trong xóm sắm giàn thun để bắn chim, tôi cũng làm theo. Bạn bè sắm cần câu để câu cá, tôi cũng sắm cần câu đi câu theo. Từ lúc biết ăn chay, tôi thấy con gà, con chim, các con vật khác thì thương nó lắm. Nếu người ăn thịt thì tình thương không thể phát sanh. Ví như, chúng ta có con em, mỗi ngày mình ăn thịt nó mà cho rằng thương nó thì không được. Tình thương phát sanh ảnh hưởng nơi “Từ” thì làm lành, nơi “Bi” thì không làm ác. Điều thiện lành thì tăng thêm, việc xấu ác ắt giảm dần và dứt sạch. Như vậy, chúng ta ăn chay tự nhiên làm được hai việc mà đức Phật từng dạy: “ Từ bỏ các việc ác, Luôn làm các việc lành”. Do đó, tâm từ bi là cội gốc để đi lên con đường Hiền Thánh. 2. Trong kinh Lăng Nghiêm, đoạn đức Phật nói ba món tiệm thứ. Trước tiên, không được ăn ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, ném, hung cừ). Vì tính chất của ngũ tân làm tăng tham dục và sân hận, ảnh hưởng của nó là quyến rũ Ngạ quỷ, chư thiên cùng thiện thần đều tránh xa. Nó hay trợ giúp phát sanh nghiệp phiền não. Cách đây ít hôm, có người xưng là Quỷ vương nói : “ Tôi lên đây để đấu với Hòa thượng, nếu Hòa thượng thua thì tất cả binh tướng của tôi sẽ chiếm chỗ này”. Sáng hôm đó, tôi đang ngồi uống thuốc Tam tài thấy có một người đàn ông và một người đàn bà. Người đàn ông thì đứng chắp tay, còn người đàn bà thì uốn mình như con rắn (có thể thuộc loài Ma hầu la già) rồi quỳ xuống lạy, lạy xong rồi đi xuống. Tâm tôi cũng không để ý chỉ nhìn thấy vậy thôi. Sau đó, tôi nghe mấy thầy nói, họ lên chánh điện ngồi niệm Phật một ngày một đêm. Các thầy kể lại đã hỏi họ rằng: “Sao không thấy đấu với Hòa thượng mà quỳ lạy rồi đi xuống?”. Người kia nói: “Tôi nhìn thấy Hòa thượng sợ quá nên quỳ xuống lạy chứ không dám làm gì hết”. Các thầy hỏi, lúc đó sư ông có bắt ấn hay niệm chú gì không? Thật ra, tâm tôi không để ý tới. Tôi nói việc này để các huynh đệ biết, mình sống ở đây các loài Ngạ quỷ hạng cao đầy dẫy. Cho nên Phật nói, nếu ăn ngũ tân sẽ ảnh hưởng đến các loài đó. Bây giờ, nhiều chùa ngập tràn mùi vị ngũ tân. Cho đến các chùa xung quanh, tỏi, hành (ba rô) treo đầy trong nhà bếp. Các huynh đệ muốn giữ điều này cũng khó lắm, vì mỗi ngày phải đi đám, người ta nấu thức ăn bỏ hành bỏ tỏi, nếu không dùng thì nhịn đói. Do vậy, tôi không đi dự các đám cúng. Từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ dùng năm thứ rau cay này. Có khi xuống chùa Huệ Nghiêm (Bình Chánh), tôi phải dặn không được bỏ ngũ tân vào thức ăn. Lúc đến các chùa, dùng cơm chay mà có mùi vị này thì tôi chỉ ăn chút cơm và bánh ngọt rồi về. 3. Từ trên nền tảng đó tu hành chánh niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Niệm Phật là trì niệm danh hiệu Nam Mô A Mi Đà Phật. Niệm Pháp là tụng Kinh. Niệm Tăng là niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Địa Tạng…Trong đó lấy niệm Phật làm chánh, mỗi ngày đều thực hành như thế thì chánh niệm dần dần tăng lên, thiện căn cũng từ đó thêm lớn, công đức và phước đức cũng từ đó tăng trưởng. Trong sinh hoạt hàng ngày, có những điều giúp mình tăng phước và giảm phước mà chúng ta không để tâm lưu ý. Trong Mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền, điều nguyện thứ năm là “ tùy hỷ công đức” dễ thực hành lắm, lấy công đức của người làm công đức của mình. Đây là pháp tu thong thả nhẹ nhàng. Đối với các việc lành của người, chúng ta không vui mừng lại còn ngăn cản chê trách thì tổn phước. Còn tùy hỷ (vui mừng theo) thì phước đức tăng thêm. Chẳng hạn, có người xây một ngôi nhà lớn, khách bước vào khen ngợi khang trang mát mẻ thì người chủ liền vui. Một người khác lại cho rằng, nhà rộng quá dọn dẹp mệt thêm. Người chủ nghe được cũng hơi buồn. Như lúc xây chánh điện chùa Vạn Đức, có người khen ngợi cây Bồ đề cao đẹp quá. Nhưng có người lại nói nhìn lên cây Bồ đề quá cao thật mỏi cổ. Chỉ một việc nhỏ này, một bên tăng phước, một bên tổn phước. Các huynh đệ lưu ý để ứng dụng trong đời sống thường ngày, những điều tăng phước thì nên làm. Những điều tổn phước thì nên tránh. Mỗi ngày tích lũy một ít thì phước đức từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn. Ngày tháng qua mau, các huynh đệ lấy ăn chay làm nền tảng, luôn lấy việc niệm Phật tụng kinh làm công đức xuất thế. Từ những điểm này gắng sức giữ gìn, rồi tu thêm các việc lành khác. Mong các huynh đệ ai nấy đều nhất tâm tinh tấn, vững bền ở trong giáo pháp của Phật. Phải khắc ghi hai chữ: “Vững bền” này.
  9. Thuốc gồm có: 1- Hạnh nhân . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 2- Chỉ tử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 3- Đào Nhân . . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 4- Nếp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10 hột 5- Tiêu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10 hột 6- Lòng trắng trứng gà . . . . . . . . . 1 quả Mua tại tiệm thuốc Bắc. Cách làm : Tất cả đâm nhuyễn trọn đều, để tối trước khi đi ngũ trộn thêm lòng trắng trứng gà rồi đắp vào lòng bàn chân. (lấy vải bó lại cho khỏi rớt) Nam đắp lòng bàn chân trái Nữ đắp lòng bàn chân phải Đắp ngũ qua đêm, nếu ra màu xanh cửu long (xanh biển) là hết bị tai biến từ nay về sau. Chỉ đắp một lần trong đời - Người cao máu mới dùng được Lưu ý -Nếu bị tai biến giật méo miệng, lưởi co rút không nói được, thì lấy kim châm hai dái tai (dưới lổ tai) nặn máu ra liền, miệng sẽ trở lại bình thường. -Nếu bị tai biến xụi chân tay, thì lấy kim châm mười đầu ngón tay nặn máu ra liền, chân tay sẽ trở lại bình thường.
  10. CHÚNG TA LÀ NHỮNG CỨU TINH CỦA CHÍNH MÌNH Ðôi khi là một nhà sư tôi được yêu cầu đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn cho gia quyến của người chết nhưng đôi khi tôi cũng cảm thấy không giúp được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai trò của một nhà sư đi tụng kinh đám tang. Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ tuổi đến gặp tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến: “Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở con đường cho cha tôi”. Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm lòng từ bi mà tôi có thể tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối rối và đau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20 tuổi và là một người con gái có hiếu. Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình: “Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người như thế nào đây? Con đường tưởng tượng nào tôi sẽ vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng đặt chân lên? Làm sao tôi có thể nói với người phụ nữ trẻ tuổi tội nghiệp đang ở trong tình trạng buồn phiền và bối rối rằng:” không có con đường nào như cô có lẽ đã tưởng tượng như thế?” Ðức Phật cũng có lần ở trong tình thế như vậy và Ngài đã trả lời ra sao? Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Ðức Phật và hỏi Ngài: “Bạch Thế Tôn, cha con chết. Xin mời Ðức Phật đến và cầu nguyện cho cha con, cứu độ linh hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên đàng. Những người Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Ðức Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều. Nếu Ngài sẽ làm điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về thiên đàng”. Ðức Phật trả lời, “Rất tốt, hãy đi ra chợ và đem về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ”. Người trẻ tuổi sung sướng vì Ðức Phật đã hạ cố thi hành một số thần thông để cứu linh hồn cha của mình. Anh ta vội vã đi ra phố và mua các thứ mà Ðức Phật bảo. Ðức Phật chỉ dẫn cho anh ta để bơ vào một bình và để đá vào bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao. Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình đều chìm xuống đáy ao. Rồi Ðức Phật tiếp tục: “Bây giờ hãy lấy một cái gậy và đập vỡ hai bình đó ở dưới ao”. Người trẻ tuổi làm theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì nhẹ đã nổi lên còn hòn đá vì nặng nên vẫn ở dưới đáy ao. Rồi Ðức Phật nói: “Bây giờ nhanh lên đi tập họp tất cả những thầy tu. Hãy nói với họ đến và tụng kinh để bơ chìm xuống và viên đá nổi lên.” Người trẻ tuổi nhìn Ðức Phật, sửng sốt, nói, “Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. Ðiều đó ngược lại với qui luật tự nhiên.” Ðức Phật mỉm cười và nói: “Này con, con đã thấy nếu cha con có một cuộc đời LƯƠNG THIỆN thì những HÀNH VI của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông cũng lên thiên đàng. Không ai có thể cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống lại NGHIỆP luật thiên nhiên. Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc đời BẤT THIỆN thì cũng giống như hòn đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào địa ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nữa bởi tất cả các thầy tu trên thế giới này cũng không thể gây thành khác được.” Người trẻ tuổi hiểu rõ. Anh chữa lại quan niệm sai lầm của anh và ngừng đi loanh quanh đòi hỏi cái không thể được. Nụ cười của Ðức Phật đã đi tới điểm: Không ai có thể cứu chúng ta, tối thiểu của tất cả sau khi chúng ta chết. Theo NGHIỆP luật, chúng ta là sở hữu chủ của những hành vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những hành vi của chúng ta. Những hành vi của chúng ta thực sự là tài sản của chúng ta. Chúng là chỗ nương tựa thực sự của chúng ta, là những thân nhân thực sự của chúng ta. Chúng là trung tâm từ đó chúng ta xuất phát. Khi chúng ta chết, chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất cứ thứ đồ gì của cá nhân chúng ta. Cũng chẳng có thể mang được một trong những người thân để cùng đi với chúng ta. Giống như chúng ta đến một mình theo NGHIỆP của chúng ta thì chúng ta cũng phải ra đi một mình. Nếu chúng ta hiểu rõ NGHIỆP luật, thì chúng ta sẽ cảm niệm thấy sống một cuộc đời LƯƠNG THIỆN quan trọng đến như thế nào trong khi chúng ta còn sống. Ðợi đến lúc chết thì sẽ quá muộn. Có một chút gì đó có thể làm được.. (CHẾT TRONG AN BÌNH – TỳKheo Visuddhacara – ThíchTâm Quang dịch)
  11. Gởi các bạn 1 vài hình ảnh về Lễ di quan truyền thống của người Tạng, người chết được đặt ở tư thế ngồi trong kiệu và ướp muối trong vòng 7 ngày sau đó đưa ra Đài hỏa táng.
  12. Giáo sư Phạm Xuân Yêm SGTT.vn - Là thủ khoa kỳ thi tú tài năm 1954 toàn vùng Hà Nội, đến nay nhìn lại ông đã có hơn 100 công trình nghiên cứu vật lý đăng trên các tạp chí khoa học uy tín toàn cầu, như một sự góp mặt đáng tự hào của người Việt trong cộng đồng khoa học thế giới. Là một nhà vật lý danh tiếng, nguyên giám đốc nghiên cứu trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), giáo sư đại học Paris VI, từ xa ông vẫn đau đáu với những vấn đề nóng của đất nước. Trong môi trường đầy thách thức tại trung tâm khoa học số một của thế giới, làm thế nào một nhà khoa học Việt Nam có được tiếng nói riêng? Thật khó nói. Riêng nhóm vật lý lý thuyết thuộc đại học Paris VI gồm khoảng 40 giảng viên – nghiên cứu (mà tôi là một thành viên), có chừng mươi quốc tịch đến từ bốn châu lục Âu, Mỹ, Á, Phi. Đó là một môi trường cạnh tranh lành mạnh và khắc nghiệt theo tiêu chuẩn quốc tế, sự tuyển chọn đều công khai, không hề có một đặc chế về vấn đề quốc tịch. Có được tiếng nói riêng của mình là do rèn luyện bền bỉ để có hay không khả năng chuyên môn cao, hoà nhập với cộng đồng. Có lẽ đối với bất kỳ nhà nghiên cứu bình thường nào, phần thưởng lớn nhất nhận được là khi công trình của mình được đồng nghiệp khắp nơi quan tâm và triển khai mạnh hơn nữa, được trích dẫn nhiều lần, thậm chí vài chục năm sau còn được nhắc đến và khai thác. Cá nhân tôi cũng vài lần hạnh phúc như vậy. Làm thế nào để cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam tại Pháp cũng như ở các nước khác có thể đóng góp lớn vào khoa học quốc tế? Câu hỏi khó vì theo tôi, muốn có đóng góp lớn vào khoa học quốc tế, thì phải có một số lượng tới hạn nào đó để tạo nên một cú hích, mà con số đó ta chưa đạt được, không chỉ ở Pháp mà ở nhiều nước phát triển khác cũng vậy. Nhìn con số các sinh viên Việt Nam theo lớp cao học, tiến sĩ về khoa học và công nghệ cao ở vài trường lớn tại Mỹ (như Harvard) thì thấy mình hãy còn quá ít so với Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ. Hiện tượng Ngô Bảo Châu phải hàng thập niên, thậm chí dài hơn nữa, mới có thể lập lại trong cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam. Trong điều kiện của đất nước, tư chất nào của các nhà khoa học Việt Nam giúp chúng ta có được những tên tuổi lớn? Muốn có những nhà khoa học tên tuổi tại quê nhà, xã hội cần có cơ sở hạ tầng tri thức tốt, hiện đại; có những thể chế học thuật phù hợp với quy luật phát triển của khoa học trên thế giới. Và con người cần phải có đam mê, tận tuỵ. Nhưng trước hết nhà khoa học cần phải đủ sống, và có quỹ để phát triển ngành mình, kết nối thế giới. Không có những điều kiện đó, khoa học sẽ bó tay, sẽ không thể có nền khoa học quốc gia, mà chỉ có những cá nhân riêng lẻ, nhưng phải dựa vào môi trường nước ngoài như hiện nay. Tôi tin chắc rằng trong môi trường thuận lợi và cạnh tranh ráo riết nhưng lành mạnh ở các nước phát triển, thế hệ các bạn trẻ Việt Nam du học còn vươn hơn nữa so với thế hệ trước. Tôi có thấy những gương mặt đó như Đinh Tiến Cường, Nguyễn Tiến Dũng về toán, Đặng Đình Thi về công nghệ hàng không, Nguyễn Thắng về sinh học, Giáp Văn Dương, Lê Đức Kiên về vật lý, nhưng chắc chắn còn nhiều mà tôi chưa biết ở mọi ngành. Theo ông, làm thế nào để bảo vệ tinh thần tự chủ và tự do trong môi trường học thuật? Môi trường xã hội Việt Nam đang bị “méo mó” trong hầu hết mọi lãnh vực: con người, đạo đức, nhận thức, tôn chỉ giáo dục... tất cả đều méo mó quá độ. Dân chủ, giáo dục, khoa học và công nghệ là những cột trụ của xã hội phương Tây để làm cho họ mạnh. Những thứ đó đang bị xuống cấp và biến dạng ở nước ta. Việc quan trọng nhất là phải “kéo thẳng” những thứ đó lại, phải “ngay thẳng” lại, phải chăm sóc cho những thứ đó phát triển đúng cách. Mỗi quốc gia muốn canh tân, đều phải đi đúng quy luật. Nhật Bản và tất cả các quốc gia khác đều làm như thế. Ông coi trọng điều gì nhất khi viết? Có nhà văn nào ông ngưỡng mộ? Rất ngại phải nói đến cái ngã đáng ghét, nhưng thôi cũng đành liều nhắm mắt đưa vài nét sở thích. Cũng như nhiều bạn cùng lứa tuổi, tôi mê say thi văn tiền chiến, thơ Đường, nhạc cổ điển Tây phương... Hai nhà văn hoá cận đại mà tôi ngưỡng mộ là Nguyễn Hiến Lê sâu sắc, đồ sộ mà dễ hiểu; và Bùi Giáng khi điên lúc tỉnh mà tuyệt phẩm Giảng luận về Tản Đà ai cũng nên đọc. Không có khoa học, con người dễ sa ngã vào mê tín, “dị giáo”. Nhưng không có văn hoá, nghệ thuật, con người dễ cằn cỗi về tâm hồn. Và không có đạo đức, con người dễ sa đoạ. Ông đánh giá thế nào về hiện tượng những nhà khoa học cuối cùng lại trở thành những nhà văn hoá, đầy trách nhiệm với đất nước trong những vấn đề nóng của đời sống nhân sinh? Thử hỏi có nhà khoa học nào từng bao năm sinh hoạt ở các nước phát triển mà chẳng ước mong đóng góp cho đất nước, dân tộc mình cũng được như người? Nó tự nhiên như hơi thở mà thôi. Để kết nối nhiều nguồn chất xám cho hoạt động khoa học tại Việt Nam, mấy đức tính như chân thành, bao dung, nhún nhường, tránh đố kỵ có lẽ là những điều kiện cần? Mấy năm qua trí thức đã kết nối nhau nhiều hơn qua nhiều hoạt động, như dịch thuật, biên soạn, giảng dạy, diễn thuyết, hay làm những số kỷ yếu, như Kỷ yếu Lê Thành Khôi, Kỷ yếu Hoàng Tuỵ, Max Planck, Galilei, Darwin và Đại học Humboldt 200 năm để tạo ra một văn hoá trí thức. Họ càng muốn dấn thân hơn cho đất nước. Nhà nước cần mở cửa với trí thức. Đất nước chỉ có lợi trong một sự hợp tác giữa nhà nước và với trí thức, hay ngược lại. “Tri thức là sức mạnh”, đối với cá nhân cũng như đối với quốc gia. Để quy tụ được tiềm năng chất xám quý báu của các thành phần đến từ nhiều chân trời văn hoá khác nhau trong cộng đồng ba triệu người Việt trên khắp năm châu, các nhà khoa học cần tìm đến nhau để có diễn đàn chung, để tập hợp trí tuệ, đoàn kết, và có những hoạt động chung. Việc này đã manh nha thời gian qua, qua các hoạt động biên soạn kỷ yếu chẳng hạn. Và trí thức đã tức khắc có những hành động chống đối việc các nhà khoa học Trung Quốc lồng đường lưỡi bò vào các bài viết của họ đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế. Ông nghĩ gì khi tiếng nói của những nhà trí thức vẫn chưa đủ sức lay động xã hội? Tôi cảm thấy buồn, nhưng chúng ta đang ở bước ngoặt, sớm muộn gì những giá trị phổ quát đó sẽ đến. Chúng ta không thể nào đi khác hơn con đường thế giới đã và đang đi, không thể nào chối bỏ các giá trị phổ quát của cả thế giới, nền tảng của sự phát triển nói chung. Ông thích một vẻ đẹp như thế nào của con người, của văn chương, nghệ thuật? Có lẽ là tính nhân bản vị tha chăng? Để xây dựng môi trường sống lành và sạch, mỗi chúng ta phải nỗ lực như thế nào, theo ông? Tôi thực sự buồn khổ khi biết những tin tức về sự thờ ơ, vô cảm đang lan tràn xã hội. Thôi thì trước hết mỗi chúng ta trong khả năng của mình hãy nỗ lực sạch và lành đã. Xã hội dựa trên hai trụ cột: tri thức và lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn mà không có tri thức thì vô dụng, còn tri thức mà không có lòng trắc ẩn sẽ là vô nhân đạo và độc ác. Những kỷ niệm nào đáng nhớ nhất về mái trường Chu Văn An – Hà Nội, nơi ông đã lớn lên? Phải chăng ân tình với trường xưa là lý do ông hết lòng giúp đỡ sinh viên và nhiều trường hợp khó khăn của trí thức trong nước? Còn nhớ năm 1953, tôi được giải về luận văn trong cuộc thi hàng năm trung học toàn quốc và được hưởng chuyến du ngoạn bằng máy bay tham quan Sài Gòn và Huế do hội phụ huynh học sinh tặng. Sau này trở lại thăm bạn bè cùng học Chu Văn An, thực là xúc động thấy các bạn, đặc biệt GS Đặng Mộng Lân trong muôn vàn khó khăn đã thực hiện cuốn từ điển Vật lý Anh – Việt và âm thầm đóng góp cho nền vật lý. Đỡ được ai phần nào là như trả món nợ ân tình với thầy với bạn thiếu may mắn đã cho mình những kỷ niệm quý báu. Ông có thể kể một chút về cha mẹ mình, những người thầy đầu tiên dạy ông bài học làm người? Nhà tôi ở Bắc Ninh, bố tôi là hiệu trưởng trường tiểu học Vọng Cung, ru tôi ngủ bằng thơ Kiều. Còn mẹ tôi có một cửa hàng nhỏ bán tạp hoá, nước mắm, chè mạn, măng khô... Trong nạn đói Ất Dậu 1945, với chum đất nung cao hơn đầu tôi, mẹ tôi mỗi sáng nấu một nồi cháo thêm vào chút mắm để phát chẩn. Quên sao nổi cảnh người hàng hàng nối nhau húp cháo. Để nuôi dưỡng “giấc mộng dài”, ông đã trải qua những khó khăn khắc nghiệt như thế nào? Tôi không nghĩ là khắc nghiệt những buổi làm việc thâu đêm, hoặc mệt mỏi tranh cãi với đồng nghiệp, bạn bè về đề tài nghiên cứu vì mỗi người có một cách tiếp cận khác nhau. Nhưng có nhiều lúc, thậm chí hàng tuần hàng tháng chán chường, bế tắc, không thấy ngõ ra, không biết phải làm gì. Có lẽ chẳng phải riêng tôi mà bất cứ ai trong nghề cũng ít nhiều trải qua. Nhưng tôi không mong “làm cây thông đứng giữa trời mà reo” ở kiếp sau và mong tiếp tục mê say khoa học và nghiên cứu. Trong những lúc cùng cực nhất, điều đã giúp ông vượt qua khủng hoảng? Triết lý phương Tây dạy tôi tư duy logic, khoa học, tôn trọng và biết nhìn nhận sự thật, khiêm tốn trước “đại dương tri thức” còn ẩn chứa. Triết lý phương Đông dạy cho tôi sống có xã hội, gia đình, cộng đồng, có trách nhiệm và đóng góp xã hội. Sau những đắng ngọt của cuộc đời, đọng lại trong ông điều gì quý nhất? Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn? Cái quý nhất còn đọng lại là những đóng góp cá nhân trong khoa học cũng như trong xã hội là sống chân thật, có bằng hữu; là sống tự tại. Cái ác là gió thoảng qua. Cái thiện là vĩnh cửu. thực hiện Kim Yến chân dung hội hoạ Hoàng Tường
  13. Đã nhận của Phu Nhân Compack 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ chương trình "suất ăn cho bệnh nhân nghèo . Quỹ hiện có: 5,450,000 đ + 500,000 đ = 5,950,000 đ (năm triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng)
  14. Xem qua câu chuyện của Bác TS liên quan đến việc giấm dúi 1 mãnh giấy, Wild chợt nhớ câu chuyện thời xa vắng của mình đứng giữa trung gian 1 cuộc cãi cọ mà cả 2 đều là bạn của Wild, 1 bên là chị bạn, 1 bên là cô em bạn có nghĩa đằng tả lớn tuổi hơn đằng hữu ít tuổi hơn Wild,Cuộc tranh luận nẩy lửa càng lúc càng to tiếng không cách nào can gián được, Wild thật bất lực bí tò! Chợt nghĩ ra 1 cách lấy mãnh giấy viết vội 2 chữ " ...... " ném khéo vào bên hữu phía cô bạn (em), chẳng may cô bạn kia nhìn thấy được hành động này ném ngay cho mình tia nhìn tóe lửa và im lặng chờ cô kia đọc xong giật phăng mãnh giấy ngay trên tay cô bạn (em), đồng thời khi đó cô bạn em cũng đang ném cho mình tia nhìn nguýt ngoáy. Về phần cô bạn (chị) đọc xong phì cười cuộc đấu khẩu gay go tan như bọt xà phòng không khí lắng đọng và hòa bình. Đố các bạn 2 chữ trong mãnh giấy ấy là 2 từ gì ? Có thưởng cho ai có đáp án chuẩn nhé!
  15. Bạn có thể vào xem Topic :Thần Chú giải thoát..." ở mục tiềm năng và tâm linh, hy vọng có chuyển biến nếu kết hợp trì tụng Dược sư Chú. Tôi sẽ gởi tặng bạn.
  16. Chuẩn bị như thế nào cho cái chết của mình Khi vừa mới một tuổi thì Dagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIII xác nhận là vị hóa thân (toulku) của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097) một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy của Đại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135). Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vào chùa từ lúc sáu tuổi, học tại các tu viện đại học danh tiếng nhất ở Tây tạng, tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Ngài rời Tây Tạng vượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó thì lưu trú tại Pháp từ năm 1960. Hiện nay Dagpo Rimpoché là một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu. Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một tài liệu ghi chép lại buổi thuyết trình của ông ngày 19 tháng 9 năm 2003 tại một ngôi chùa Tây tạng trên đất Pháp. Thông dịch viên : Marie-Stelle Boussemart. Ghi chép : Laurence Harié, Michel Langlois, Cathérine Baguet, Marie-Stella Boussemart. Trong số quý vị đến đây hôm nay tôi nhận ra một vài người đã đến nghe tôi thuyết giảng tại Genève cách đây khoảng hai hay ba năm. Các vị khác thì có lẽ mới đến nghe lần đầu. Ngoài ra tôi cũng được gặp lại vài người bạn cũ mà từ nhiều năm nay tôi chưa có dịp gặp lại. Thật vô cùng vui sướng cho tôi được tiếp xúc tối nay với từng vị một. Thật là một niềm hân hoan khi được tiếp xúc với quý vị. Tuy nhiên nếu tôi chỉ biết hân hoan khi gặp lại bạn cũ và được quen thêm bạn mới thì e rằng điều đó chưa tương xứng với tầm quan trọng của buổi hội ngộ hôm nay. Tất nhiên là quý vị đã phải cố gắng rất nhiều để đến đây tham dự, như vậy để có thể bù đắp được phần nào cho sự cố gắng ấy thì tôi phải làm gì đây để mang lại một chút gì thiết thực mà quý vị có thể đem ra áp dụng vào đời sống thường nhật, hoặc biết đâu cũng có thể áp dụng được ngay tối nay. Chúng ta sẽ bàn luận với nhau về một vài quan điểm. Tuy nhiên điều quan trọng hơn hết vẫn là niềm ước mong quý vị có thể rút tỉa được từ cuộc bàn luận này một vài ứng dụng trong đời sống gia đình, trong sự giao tiếp với bè bạn, đồng nghiệp... Nếu những quan điểm mà chúng ta sắp trao đổi rồi đây sẽ có thể góp phần tích cực để cải thiện phần nào cuộc sống hằng ngày giúp cho quý vị giao tiếp dễ dàng hơn với những người chung quanh thì thật là không có gì mong mỏi hơn. Muốn thực hiện được những mong mỏi này thì chúng ta phải hội đủ một số điều kiện cần thiết nào đó. Tuy nhiên dù cho chúng ta có khả năng hội đủ được những điều kiện tất yếu ấy đi nữa thì trước hết và ngay trong lúc này quý vị và cả tôi phải tạo ra một "thể dạng tâm thức lợi ích". (état d'esprit bénéfique) Vậy thì thế nào là một " thể dạng tâm thức lợi ích" ? Thể dạng tâm thức đó không nhất thiết phải được thực hiện trong khuôn khổ của một tôn giáo hay một tín ngưỡng nào cả. Tuy nhiên nếu có thể hình dung được trong lãnh vực của một tín ngưỡng thì vẫn tốt hơn, mặc dầu cũng có thể đặt thể dạng tâm thức đó vào một bối cảnh tổng quát và toàn cầu hơn. Trong trường hợp có thể giới hạn nó trong khuôn khổ của một tôn giáo thì một người Phật tử đương nhiên sẽ phải hiểu rằng tạo ra một thể dạng tâm thức đúng như mong muốn có nghĩa là tạo ra một dòng tư duy thật minh bạch. Những người Phật giáo đang ngồi trong gian phòng này tất nhiên sẽ hiểu tôi muốn nói đến điều gì. Các vị khác có thể là người Thiên Chúa giáo hoặc cũng có thể không theo một tôn giáo nào cả, nhưng dù trong bất cứ trường hợp nào thì tất cả đều có thể tự tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức lợi ích, tức là một tâm thức biết quan tâm đến hạnh phúc của mọi người và của cả ta nữa. Chúng ta tự nhủ rằng : "Trong lúc này đây tôi đang được hưởng mọi sự an lành, vì thế trong lúc mà những điều kiện tốt đẹp đang hội đủ thì tôi cũng muốn nhân đấy mà làm được một điều gì ích lợi cho thật nhiều người và cả cho tôi". Một người Phật giáo sẽ phải nghĩ rằng : "Tôi vẫn hằng ước mơ giúp đỡ người khác một cách thiết thực vì thế mà tối hôm nay tôi cố gắng đến đây nghe giảng để biết đâu nhờ đó mà tôi sẽ thực hiện được những gì tôi ước mơ". Suy nghĩ như thế tức là biết tự đặt mình vào một thể dạng tâm thức lợi ích. Thể dạng tâm thức ấy sẽ mang lại những thành quả cụ thể và hết sức lớn lao cho quý vị. Vậy thì mỗi người trong chúng ta trước hết nên tạo ra cho riêng mình một thể dạng tâm thức lợi ích. Sau đó thì chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu nhau, vì nếu tôi chỉ biết nhắm mắt thuyết giảng những điều tối mịt rồi chẳng ai hiểu gì cả thì thật là hoài công cho quý vị và cho cả tôi. Vì thế chúng ta nên thảo luận với nhau như thế nào để mỗi vị đều có thể hiểu được một cách minh bạch từng điểm một, vì sẽ thật đáng tiếc là nếu ngày mai đây khi quý vị gặp bạn bè và nói với họ rằng : "Tôi hôm qua tôi có đi dự một buổi diễn thuyết, người ta giới thiệu diễn giả là một vị lạt-ma Tây tạng, nhưng thật ra thì suốt một tiếng hay một tiếng rưỡi đồng hồ ông ta nói cho có nói vậy thôi. Xin đừng hỏi tôi rằng ông ấy nói gì vì tôi chẳng nhớ gì hết. Chỉ toàn là những chuyện mơ hồ chẳng có ai hiểu gì cả". Nếu đúng như thế thì quý vị đã đánh mất thì giờ một cách vô ích. Tôi xin đề nghị ngay với quý vị các phương pháp giúp chúng có thể bàn thảo với nhau một cách hiệu quả. Trước hết chúng ta nên tìm cách tránh bớt những tình trạng bất lợi, chẳng hạn như tôi cứ nói, người thông dịch cứ dịch, quý vị thì cứ nghe, nhưng thật ra thì chẳng có gì lọt vào tai quý vị. Như thế thật đáng tiếc, và để khỏi rơi vào tình trạng đó, trước hết tôi sẽ trình bày một số quan điểm và sau đó thì xin quý vị cứ mạnh dạn phát biểu và nêu lên các thắc mắc. Nếu đủ sức trả lời thì tôi sẽ rất vui mà trả lời ngay. Nếu các thắc mắc của quý vị vượt quá tầm hiểu biết của tôi thì tôi cũng sẽ xin thành thật thú nhận. Ngoài ra hôm nay cũng thật may mắn cho chúng ta là có một vài người Tây tạng cùng tham dự trong gian phòng này nếu cần thì tôi cũng có thể nhờ họ giúp được. Ngoài ra tôi cũng muốn nói rõ thêm là nếu như quý vị không có câu hỏi nào để đặt ra thì tôi cũng sẽ có nhiều câu hỏi để nêu lên với quý vị đấy. Vậy thì chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề : ta phải chuẩn bị cho cái chết của chính mình như thế nào? Thật ra thì chuẩn bị cho cái chết lại có nghĩa là phải tập sống thế nào để tạo ra cho kiếp nhân sinh này được tốt đẹp hơn và để kiếp sau sẽ tái sinh trong những hoàn cảnh hạnh phúc hơn. Thiết nghĩ rằng nếu muốn trình bày thỏa đáng một chủ đề bao quát như thế thì bắt buộc chúng ta phải tìm hiểu cặn kẽ toàn bộ những lời giảng huấn của Đức Phật. Vì thế trong phạm vi một buổi nói chuyện như hôm nay chúng ta đành phải tóm lược và đơn giản vấn đề đi rất nhiều. Nếu vậy thì chúng ta hãy đặt lại câu hỏi ngắn gọn hơn : tại sao người ta lại chết ? Câu trả lời thật là đơn giản : chỉ vì người ta đã được sinh ra, chỉ có thế thôi. Nói một cách khác và bằng những thuật ngữ khác thì sẽ là : chúng sẽ phải chết bởi vì chúng ta là những hiện tượng cấu hợp, tạo ra từ sự kết hợp của nhiều thành phần, sự kết hợp ấy liên hệ đến một số nguyên nhân và điều kiện nào đó. Trong từng giây phút một, các cấu hợp biến đổi không ngừng, và các biến đổi ấy một lúc nào đó sẽ kết thúc bằng một hiện tượng mà người ta gọi là cái chết. Cách nay khoảng 2700 năm, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng rằng bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào cũng đều là vô thường. Đức Phật đã khám phá ra quy luật đó nhờ vào sự suy nghiệm trong tri thức của Ngài, căn cứ vào những gì Ngài quan sát được và các kết quả suy tư của Ngài. Ngày nay thì khoa học và kỹ thuật có thể sử dụng các phương pháp thực nghiệm để chứng minh điều đó một cách dễ dàng. Chúng ta không thể làm gì khác hơn là phải chết bởi vì chúng ta đã được sinh ra. Như vậy đối với Phật giáo thì sinh đươc định nghĩa như thế nào ? Sinh có nghĩa là giây phút xảy ra thụ thai : đó là lúc hai tế bào của cha và của mẹ kết hợp lại và đồng thời thâm nhập vào đó một dòng tiếp nối liên tục tâm thần (continuum mental) hay tri thức (conscience-conciousness). Tóm lại thụ thai hay sự sinh xảy ra khi dòng tiếp nối liên tục tâm thần thâm nhập vào sự kết hợp giữa hai tế bào của cha và của mẹ. Theo quan điểm Phật giáo thì bất cứ một vật thể nào cũng đều được cấu tạo bởi vô số các thành phần kết hợp lại với nhau. Đúng vào giây phút thụ thai tức là giây phút mà bào thai được cấu tạo thì năm thứ cấu hợp (1) cũng xuất hiện và dựa vào đó một cá thể cũng được hình thành. Từ sự kết hợp đó phát sinh ra sáu cơ sở hiểu biết (2) và bốn thành phần (3). Tất cả gồm có hai mươi bốn chất liệu vật chất tạo ra cơ sở chuyển tải dòng lưu chuyển của tri thức, và dòng tri thức lại bám víu vào cơ sở chuyển tải ấy và xem đấy là của nó. Đấy là căn bản sơ khởi tạo ra một cá thể. Cái cá thể ấy lại tiếp tục biến dạng, lớn lên và phát triển thêm. Nhờ vào cơ sở vật chất dòng tiếp nối liên tục của tri thức cũng phát triển theo để đảm trách những sinh hoạt ngày càng phức tạp hơn. Đấy là gì mà người ta gọi là sự sống, nó tương ứng với khoảng thời gian mà dòng tiếp nối liên tục tâm thần còn sử dụng một cơ sở vật chất để chuyển tải nó. Tuy nhiên các thành phần vật chất cũng là những cấu hợp, vì thế không những chúng biến đổi trong từng giây phút một mà chúng còn phải gánh chịu hiện tượng già nua và hao mòn. Sau một khoảng thời gian nào đó có thể dài hay ngắn thì các thành phần kết hợp lúc thụ thai sau khi đã phát triển trong suốt cuộc sống sẽ bắt đầu suy thoái. Các thành phần vật chất suy thoái dần và khả năng chuyển tải dòng tiếp nối liên tục tâm thần của chúng cũng theo đó mà suy giảm đi. Dòng tiếp nối liên tục tâm thần vì thế cũng trở nên "thu hẹp" hơn và mất đi một số tính năng, và các tính năng này cũng sẽ tiếp tục tan biến dần. Cuối cùng thì đến một lúc nào đó cơ sở vật chất sẽ suy thoái đến độ không còn đủ sức chuyển tải dòng tiếp nối liên tục tâm thần nữa. Dòng tiếp nối tâm thần bắt buộc phải rời bỏ cơ sở vật chất của nó, và chính vào thời điểm ấy thì cái chết sẽ đến với sự sống hiện tại này. Vậy thì cái chết là sự tách rời giữa tri thức (hay dòng tiếp nối liên tục tâm thần) và cơ sở vật chất. Theo quan điểm Phật giáo thì dòng tiếp nối liên tục đó không chấm dứt. Dù nó không thể tiếp tục lưu trú trong cơ sở vật chất thô thiển nữa nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại. Tùy theo trường hợp, nó có thể chuyển sang một thể dạng trung gian gọi là bardo (trung ấm) hay là không. Dầu sao đi nữa thì nó sẽ hướng vào một sự tái sinh mới. Nó hướng vào một cơ sở vật chất mới, thâm nhập vào đấy và làm phát sinh ra một sự thụ thai mới, tức là điểm khởi đầu của một cuộc sống mới. Cuộc sống mới ấy sẽ kéo dài một thời gian nào đó và rồi cũng sẽ chấm dứt, và cứ tiếp tục như thế. Người ta gọi đấy là chu kỳ của những sự hiện hữu phát sinh do điều kiện, nghĩa là do nghiệp mà ra (4). Thật ra thì những gì xui khiến dòng tiếp nối liên tục của tri thức hướng vào một cơ sở vật chất cá biệt nào đó không tùy thuộc vào quyết tâm của một cá thể - ít ra thì đây cũng là trường hợp của những cá thể bình thường - mà duy nhất do sự tác động của nghiệp mà cá thể ấy đã tích lũy từ trước. Đối với một người chấp nhận sự tái sinh thì khi cái chết gần kề sẽ hiểu rằng tâm thức của mình sẽ rời bỏ cơ sở vật chất của nó. Dòng tiếp nối liên tục tâm thần của mình sẽ tiếp tục tồn tại, vậy trong giây phút đó những gì quan trọng hơn hết ? Có phải là thân xác mình, của cải, gia đình, danh vọng hay uy quyền...? Tất cả những thứ ấy không có một giá trị nào cả, vì người sắp ra đi sẽ bỏ lại tất cả những thứ ấy. Chỉ có dòng tiếp nối liên tục tâm thần là tồn tại và những gì mà nó có thể mang theo là những vết hằn (của nghiệp) đã in sâu vào nó. Những gì tiếp tục tồn tại và kéo dài từ kiếp sống này sang kiếp sống khác trên dòng liên tục tâm thần chính là nghiệp của chúng ta. Dù đấy là nghiệp tốt hay nghiệp xấu thì cũng đều gom lại thành một tổng hợp các vết hằn hay là các tiềm năng hay xu hướng mà dòng tiếp nối tâm thần sẽ mang theo với nó. Đối với quý vị nào trước đây chưa hề hiểu nghiệp là gì thì cũng xin giải thích thêm đấy là những xu hướng tích tụ trên dòng tiếp nối liên tục tâm thần. Những xu hướng ấy mang tính cách "tích cực" khi chúng có khả năng mang lại những giác cảm hạnh phúc, những cảm nhận về hạnh phúc. Ngược lại thì những nghiệp "tiêu cực" là những vết hằn hay những tiềm năng lắng đọng trong tâm thức mà chúng sẽ mang lại những cảm nhận khổ đau. Chủ đề buổi nói chuyện tối nay là "Chuẩn bị cho cái chết". Vậy chúng ta hãy đi thẳng vào chủ đề đó. Chúng ta hãy xét xem điều gì có thể giúp ích cho chúng ta khi hấp hối và khi phải hướng vào một sự tái sinh mới. Có rất nhiều phương pháp kể cả một lô các phương pháp đặc thù của Phật giáo. Tuy nhiên không cần bắt buộc phải là một người Phật giáo mà chỉ cần tin có sự tái sinh thì cũng đủ để hiểu rằng cái chết không phải là một sự chấm dứt vĩnh viễn vì sau đó sẽ còn phải hướng vào một sự tái sinh mới, và trong trường hợp đó thì bất cứ ai cũng đều hiểu rằng cái thể dạng tâm thức cuối cùng đúng vào lúc sắp chết sẽ giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Nếu vào giây phút đó ta tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức tốt thì nó sẽ giúp ta hướng vào một sự tái sinh thuận lợi. Nói một cách khác là ta phải làm thế nào để gợi lên cho ta một thể dạng tâm thức lợi ích đúng vào lúc mà ta sắp chết. Phương pháp ấy có thể áp dụng cho bất cứ ai, không nhất thiết phải là người Phật giáo mới làm được. Bất cứ ai cũng có thể là một người tốt được, dù cho họ theo một tín ngưỡng nào cũng vậy. Dù đứng trên quan điểm nào thì bất cứ ai cũng đều có thể tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức đầy yêu thương và từ bi hay đức tin vào lúc hấp hối. Vậy đối với Phật giáo thì ý nghĩa của tình thương là gì ? Tình thương hiểu theo Phật giáo là mong cầu hạnh phúc cho người khác. Nếu trong lúc hấp hối mà ta đủ sức gợi lên trong tâm trí mình một lời nguyện cầu đơn giản như sau : "Tôi chỉ cầu mong sao cho tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc !", tức là " Tôi chỉ ước mong làm sao để giúp cho tất cả chúng sinh đạt được hạnh phúc", thì lời nguyện cầu đó sẽ hướng ta vào một sự tái sinh tốt đẹp. Từ bi chính là ước vọng tất cả chúng sinh loại bỏ được khổ đau. Chẳng hạn như những ước vọng như sau đây : "Tôi cầu mong tất cả chúng sinh vượt thoát khỏi khổ đau, cầu xin cho họ đạt được một tâm thức luôn luôn an bình không còn phải chiến đấu với khổ đau". Bất cứ một thể dạng tâm thức đạo hạnh nào cũng thế, dù đấy là đức tin hướng vào một vị Trời, vào Đức Phật hay là một vị Thầy tâm linh, thì cũng đều mang lại hiệu quả. Mọi thể dạng tâm thức lợi ích đều giúp cho cái chết được thanh thản và hướng vào một sự tái sinh thuận lợi. Một thể dạng tâm thức lợi ích không nhất thiết phải được quy định trong một khuôn khổ hay một giới hạn nào cả mà có thể mở ra thật rộng lớn, chẳng hạn như ta có thể nguyện cầu như sau : "Tôi cầu mong cho hòa bình sẽ tỏa rộng và bao trùm lên cả thế gian này. Cầu mong sao cho tất cả nhân loại trên địa cầu đều được an bình. Ước mong sao cho tất cả mọi xung đột dù đang tác hại ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này cũng đều sẽ chấm dứt". Ta cũng có thể ước mong như sau : "Nếu trong kiếp sống này tôi không thể giúp được nhiều chúng sinh như tôi hằng nguyện cầu thì xin cho tôi được tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hơn để có thể giúp được nhiều chúng sinh hơn nữa". Ngoài ra cũng không nên quên rằng chúng ta phải làm sao để thể dạng tâm thức lợi ích đó được hiển hiện khi mà chúng ta vẫn còn thì giờ, tức là không nên chờ đợi đến giây phút chót khi quá trình của cái chết đã bắt đầu xảy ra . Cái chết sẽ xảy ra khi cơ sở vật chất trở nên quá suy yếu hoặc rơi vào một tình trạng quá tệ hại không còn đủ sức chuyển tải được tâm thức nữa. Tuy nhiên thì trước đó cũng sẽ qua một giai đoạn mà cơ sở vật chất trở nên suy thoái thật nặng nề và tâm thức không còn sử dụng được các khả năng của nó một cách bình thường như trước, thì trong tình trạng đó tâm thức sẽ rơi vào một trạng thái trung hòa (mê man). Vì thế phải hành động ngay để tạo ra một thể dạng tâm thức tích cực và lợi ích trước khi nó rơi vào tình trạng trung hòa như trên đây. Phải làm hiển hiện thể dạng tâm thức lợi ích trước khi đến giai đoạn suy thoái nặng nề thì thể dạng lợi ích ấy mới có thể tác động và ảnh hưởng đến tình trạng tâm thức trung hòa khi đã gần kề cái chết. Thể dạng tâm thức lợi ích sẽ giúp tăng cường thêm sức mạnh cho các nghiệp tích cực và cũng từ đó sẽ hướng vào một sự tái sinh thuận lợi. Những điều vừa được trình bày trên đây có thể xem là kết quả mang lại từ một sự chuẩn bị thật lâu dài, có nghĩa là từ khi mà ta còn đang khoẻ mạnh. Không phải chờ đến lúc hấp hối ta mới bắt đầu tập thương yêu người khác và làm hiển hiện lên trong ta lòng từ bi. Tình thương và lòng từ bi chỉ có thể hiển hiện lên trong lúc nguy kịch khi mà chúng đã được thấm nhuần từ trước bằng những cố gắng lâu dài. Nói một cách khác là ta nên tập luyện ngay bây giờ để quen dần với thể dạng tâm thức đó dù đấy là tình thương yêu, lòng từ bi, đạo đức, hay đức tin cũng thế. Phải tập thế nào để tất cả những thứ ấy trở thành thói quen và chúng sẽ tự động hiển hiện lên vào giây phút mà ta sắp ra đi. Khi phải đối đầu với những thử thách khó khăn tức vào những lúc sắp gặp nguy cấp thì các phản ứng dưới các thể dạng tâm thức quen thuộc nhất thường sẽ được biểu lộ. Phản ứng của một đứa bé là một thí dụ điển hình hơn cả. Khi đứa bé cảm thấy nguy hiểm thì tiếng kêu cứu đầu tiên phát ra từ miệng nó là tiếng gọi : "Mẹ ơi !". Đơn giản chỉ vì mẹ là người thân thiết nhất của nó, gần gũi nhất với nó, luôn hiện hữu trong tâm thức nó. Chỉ cần vấp ngã hay va đầu vào vật gì làm cho nó đau đớn thì nó khóc và kêu lên : "Mẹ ơi !". Phải chọn lựa một thể dạng thích hợp nhất với bản tính của mình để làm hiển hiện ra trong tâm thức - chẳng hạn như tình nhân ái, tình thương yêu người khác, v.v... - phải luyện tập thường xuyên để giúp chúng ngày càng vững mạnh hơn. Tập như thế cho đến khi nào thể dạng tâm thức đó trở thành một phản ứng tự nhiên và đột phát khi ta phải bất thần đối đầu với những tình huống đang xảy ra. Ta có thể tập luyện để phát huy tâm thức ấy, dù cho trên thực tế ta không thể giúp đỡ người khác một cách cụ thể đi nữa. Chỉ cần tạo được thói quen trong tâm thức luôn luôn nghĩ đến người khác, lúc nào cũng cảm thấy gần gũi với người khác và trực tiếp liên đới với hạnh phúc của người khác. Như thế đến khi hấp hối thì những ý nghĩ và xúc cảm đó sẽ hiển hiện lên một cách tự nhiên trong tâm thức ta. Không phải cứ chuyên cần tập luyện theo các giờ giấc đều đặn trong ngày là đủ mà đúng hơn phải cố gắng hơn thế nữa để theo dõi tư duy hiển hiện ra trong tâm thức mình vào bất cứ lúc nào. Chúng ta không ngừng múa may tay chân, nói năng huyên thiên, đàm thoại với hết người này đến người khác, đi tới rồi lại đi lui... Nên cố gắng nhìn lại chính mình gần hơn để nhận thấy mình và thốt lên : "À thì ra không ngờ trong đầu lại có lắm thứ tư duy đến thế, thật là nhiều và đủ loại và chúng đang bộc phát ra trong tâm thức ta. Một số thì tốt, một số thì kém hơn, hoặc có thể rõ ràng vô phương chối cãi là rất tệ hại, hoặc một số khác thì chỉ có tính cách trung hòa". Khi ta có thể nhận biết và phân loại được chúng thì đó là lúc mà ta đã đạt được một bước tiến bộ rồi đấy. Cả ba thể loại tư duy ấy đều là những gì thật tự nhiên, tuy thế nếu khi nào đã đủ sức phân loại được tư duy nào là tốt, xấu hay trung hòa, thì cũng nhân đó mà so sánh tỷ lệ xuất hiện của chúng trong đầu ta ra sao để xác định xem ta có xu hướng tốt một cách tự nhiên, hay ngược lại ta chỉ là một người có xu hướng xấu hoặc trung hòa. Sau khi xác định được như thế ta phải cố cảnh giác trong từng giây phút một trong cuộc sống để chủ động tâm thức mình, kiểm soát những tư duy của mình. Cuộc sống thường nhật buộc ta phải nói năng với người khác, dù những lời đàm thoại đó mang nội dung như thế nào thì ta cũng nên tự hỏi tại sao ta lại thốt lên những lời như thế. Nếu nhận thấy rằng những lời mà ta thốt ra mang chủ đích mong muốn người đối thoại được hạnh phúc và trong lòng ta cầu mong cho họ gặp được những điều tốt đẹp, như thế thật không còn gì để nói thêm ! Nếu trong trường hợp ta phải nói một cách máy móc vì nghề nghiệp để thực hiện một công việc nào đó, thì chủ đích những lời nói ấy chỉ mang tính cách trung hòa. Tuy nhiên nếu ta ngỏ lời với một người nào đó mà lại chỉ cầu cho họ gặp những điều bất hạnh và trong thâm tâm ta chỉ muốn làm hại người ấy, thì đấy thật rõ ràng là không tốt. Nếu nhận biết được như thế thì dần dần về sau chúng ta cũng sẽ không phát ra những ngôn từ thuộc vào loại đó nữa, tức là những ngôn từ bề ngoài không nhất thiết là xấu, nhưng bên trong thì lại tiềm ẩn những ý đồ tiêu cực. Khi đã quen với sự cảnh giác để luôn luôn tự hỏi chủ đích của mình là gì, thì đến một lúc nào đó ta sẽ có thể chủ động hoàn toàn được tâm thức của mình và cả những hành động phát sinh từ thân xác của mình nữa. Phải thú nhận rằng hầu hết chúng ta không mấy ai có thể tự cho rằng mình hoàn toàn được tự do, bởi vì chưa ai có thể bảo đảm rằng mình có thể hành động theo đúng như ý mình muốn. Thật sự mà nói là ta vẫn thường xuyên bị tâm thức khống chế, nó chỉ huy và ra lệnh cho ta phải hành động theo những quyết định của nó. Nhưng nếu nghĩ kỹ thì chính tâm thức ta cũng lại bị nô lệ bởi sự khống chế của những yếu tố bấn loạn, sự yếu đuối và các thứ dục vọng của chính nó. Chính đấy là những gì đã đứng ra điều khiển nó ! Hãy lấy thí dụ về sự giận dữ, và tiếc thay đôi khi chúng ta vẫn còn giận dữ, và khi đã giận dữ thì ta sẽ hoàn toàn bị nó khống chế. Khi cơn giận đã bộc phát ra rồi thì ta không thể cưỡng lại được nữa. Nó kiềm tỏa tất cả và chỉ huy mọi tư duy của ta, xúi dục ta phạm vào những hành động mà chính ta không muốn. Kích động bởi sự giận dữ, ta sẽ phát ra những ngôn từ làm mếch lòng người khác, chỉ trích và nguyền rủa người khác, thế rồi ta không còn tự chủ lấy mình được nữa. Đừng nghĩ rằng trong thoáng chốc là ta có thể loại bỏ được sự giận dữ vì giận dữ là một thành phần của tâm thức, tiềm ẩn trong tâm thức và đã quen tác oai tác quái quá lâu đời. Ta đâu có thể loại bỏ chúng dễ dàng như thế được. Trước hết ta phải tập khám phá thật sớm sự xuất hiện của giận dữ. Nếu thấy nó vừa ló dạng thì tức thời ta phải tự cảnh giác ngay vì biết rằng sự bực bội đang tìm cách xâm chiếm ta và nếu cứ để cho nó bùng lên thì ta sẽ không còn cưỡng lại được nữa. Ý thức được điều đó có nghĩa là ta đã đạt được một bước tiến đáng kể. Nếu tiếp tục tập luyện theo cách đó thì dần dần ta cũng sẽ loại bỏ được các yếu tố bấn loạn, chẳng hạn như sự giận dữ, đồng thời lại phát huy được các phẩm tính tốt của mình, và rồi ta sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn. Một người dễ nổi nóng sẽ thường xuyên gây ra tình trạng căng thẳng và xung đột với những người chung quanh, suốt ngày họ cãi vã trong gia đình, với đồng nghiệp và họ hàng, họ chẳng bao giờ biết an vui là gì. Đối với trường hợp như thế thì cách tập luyện trên đây sẽ giúp họ làm giảm bớt sự nóng giận. Sự giao tiếp với người chung quanh do đó cũng sẽ được cải thiện hơn và cuộc sống hằng ngày cũng sẽ thay đổi tốt hơn: họ cảm thấy an vui hơn, công việc mang lại nhiều kết quả hơn... Nói một cách khác, nếu muốn chuẩn bị cho cái chết thì ngay lúc này trong cuộc sống thường nhật ta cũng nên bắt đầu tập cho quen dần với các thể dạng tâm thức lợi ích, và các thể dạng lợi ích ấy cũng sẽ mang lại cho ta nhiều điều cải thiện trong cuộc sống hằng ngày của ta. Ta nên sống như thế nào để đến lúc lâm chung thì thể dạng tâm thức thuận lợi sẽ đến với ta một cách tự nhiên. Nếu không đủ sức tạo cho mình một cuộc sống như thế, thì ít ra cũng cố tránh không để cho tâm thức bị dao động và tràn ngập bởi sự giận dữ hay bám víu. Một tâm thức an bình sẽ trợ giúp cho ta hay cho bất cứ ai trong giây phút hấp hối. Vì thế, khi đang ở cạnh người sắp ra đi thì ta phải tránh tất cả những gì có thể làm cho người ấy bị rối loạn hay dao động tức là tránh tạo ra cho họ một thể dạng tâm thức tiêu cực. Cố gắng giúp họ tạo ra một thể dạng tâm thức lợi ích và tích cực. Nếu biết được họ theo tôn giáo nào thì cứ nhắc đến tín ngưỡng của họ, giúp họ phát lộ đức tin. Dù trong bất cứ trường hợp nào thì cũng cố gắng giúp người hấp hối yên lòng, nhắc cho họ biết là họ đã sống một cuộc sống trọn vẹn, đã làm được nhiều điều tốt đẹp, mục đích là giúp cho họ ra đi trong an bình và mãn nguyện, dù cho những lời khuyên nhủ của ta có đúng với sự thật hay không. Ngay cả trong trường hợp mà ta biết là người ấy có một cuộc sống không mấy tốt lành đi nữa thì ta cũng không nên nhắc đến những gì kém tốt đẹp trong cuộc sống trước đây của họ. Trái lại phải an ủi họ, nói với họ là họ đã từng làm hết sức mình, đã thực hiện được nhiều điều tích cực trong đời họ và giờ đây thì họ có thể yên lòng ra đi. Phải cố gắng giúp họ ra đi thật thanh thản và êm ả. Ta cũng phải cẩn thận trong từng cử chỉ, phải chú ý đến sự dịu dàng trong từng lời nói để cho người hấp hối vững tâm . Không nên tỏ ra bồn chồn hay khóc lóc, không nên nói lớn tiếng, cũng không nên lay người hấp hối. Tiếc thay đó lại là phản ứng rất thường thấy của những người thân thuộc chung quanh. Đôi khi người thân ôm người hấp hối vào lòng. Một số người thường có những cử chỉ như thế, họ ôm người hấp hối và thốt lên : "Không, đừng ra đi, hãy ở lại với chúng tôi...". Nên tránh những cử chỉ thô bạo như thế. Trái lại phải làm thế nào để tạo ra một bầu không khí êm dịu, thanh thản và an bình chung quanh người sắp ra đi, bằng một giọng thật thấp hãy nói với người hấp hối những lời lẽ ngọt ngào. Tóm lại, tất cả chúng ta đều ước mong đạt được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau. Vậy nếu muốn thực hiện được điều đó thì phải tìm hiểu chính mình, theo dõi được những gì đang diễn biến trong tâm thức của mình. Dù ta đang hạnh phúc hay khổ đau thì cả hai thể dạng ấy đều phát sinh từ rất nhiều nguyên nhân và điều kiện, và những nguyên nhân và điều kiện chính yếu hơn hết tạo ra các thể dạng ấy lại tùy thuộc vào tâm thức của chính mình, phát sinh từ tâm thức của chính mình. Tạo ra những thể dạng tâm thức tích cực sẽ mang lại cho ta sự thư giãn và hạnh phúc và cũng sẽ giúp cho ta làm giảm bớt tác động của những thể dạng tâm thức tiêu cực mang lại khổ đau. Thực hiện được như thế là cách giúp cho ta chuẩn bị cho lúc lâm chung và đồng thời cũng tạo ra những tác động tích cực ngay trong cuộc sống thường nhật của ta trong lúc này. Cách tập luyện vừa trình bày trên đây không nhất thiết là những gì đặc thù dành riêng cho Phật giáo, mà bất cứ ai cũng có thể tập được, không cần phải tin vào một tôn giáo nào cả. Bất cứ một sinh linh nào hàm chứa một tâm thức đều nên tìm hiểu chính mình để chủ động lấy tâm thức của mình. Thật vậy, không phải chỉ cần vơ vét của cải vật chất cho thật nhiều là có thể tìm thấy hạnh phúc. Không phải những người giàu sụ đương nhiên là những người hạnh phúc. Hạnh phúc không nhất thiết lệ thuộc vào của cải và những gì ta chiếm hữu, mà tùy thuộc vào những tư duy đang diễn biến trong tâm thức của mình. Dù thật giàu có nhưng ta lại không đủ sức tạo ra cho mình một khả năng cảm nhận đúng đắn về mọi sự vật thì của cải của ta cũng sẽ không thể cứu ta thoát khỏi những khổ đau khủng khiếp. Có những người giàu có nhưng lại vô cùng khổ sở không đủ nghị lực để vượt lên những hành động tuyệt vọng, như tự tử chẳng hạn. Những chuyện đại loại như thế vẫn thường xuyên được báo chí đưa tin. Ngược lại, có nhiều người phải đối đầu với những khó khăn vật chất, sống trong hoàn cảnh khiêm tốn, nhưng lại tỏ ra hết sức hạnh phúc, chẳng qua đấy là vì họ biết nhìn mọi sự một cách khác hơn. Chủ đề nêu lên được trình bày khá bao quát và có phần vắn tắt. Vậy có quí vị nào cần hỏi thêm hay chăng ? Phần Hỏi - Đáp - Một thính giả : [...lời phát biểu quá nhỏ không nghe rõ... ] (người ghi chép có thể không nghe rõ nhưng người thuyết giảng theo dõi được câu hỏi, có lẽ vì ban tổ chức không dự trù "micro" cho người hỏi ngồi bên dưới - ghi chú thêm của người dịch)- Rimpoché : Như đã được trình bày trong bài thuyết trình, cái chết là một hiện tượng xảy ra vào lúc mà cơ sở vật chất dùng để chống đỡ tâm thức bị thoái hóa, và sự thoái hóa đó có thể xảy ra vào bất cứ giai đoạn nào trong cuộc sống. Không nhất thiết là phải xảy ra khi già nua, mà cả lúc còn trẻ, chẳng hạn các trường hợp bị tai nạn. Trong trường hợp tai nạn xe cộ hay bất cứ một tai nạn vì một nguyên nhân nào khác, thì cơ sở vật chất đang trong thể dạng hoạt động đột nhiên mất hết những khả năng bình thường của nó và không còn chuyển tải tâm thức được nữa. - Một thính giả : Tôi không phân biệt được thế nào là hạnh phúc và thế nào là sung sướng. Có thể dùng chữ "hài hòa" thì có lẽ thích hợp hơn chăng ? - Rimpoché : Khi nói đến hạnh phúc thì đấy cũng chỉ là quy ước mà thôi, chẳng qua cũng là một cách phát biểu dựa vào ngôn từ, dầu sao thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận trong thế giới ta-bà, và ta-bà có nghĩa là chu kỳ của sự hiện hữu mà ta phải gánh chịu. Dù phát biểu rằng đấy là sự hài hòa nội tâm hay hạnh phúc nội tâm hay một thứ gì khác nữa thì tất cả cũng không phải là hạnh phúc thật sự, không phải là một thể dạng hân hoan tuyệt đối và trường tồn. Dầu sao thì tất cả cũng chỉ là quy ước, chỉ đơn giản là một cách chọn chữ, nếu muốn thay chữ hạnh phúc bằng chữ hài hòa nội tâm thì cũng không có vấn đề gì cả. - Một thính giả : Tôi không có ý muốn nói là có một sự khác biệt giữa hai chữ ! - Rimpoché : Vậy thì bạn có thể giải thích minh bạch hơn hay không ? Bạn có thể hình dung được một người đang thụ hưởng hạnh phúc theo đúng với ý nghĩa thông thường của nó mà lại không có sự hài hòa nội tâm hay chăng ? - Một thính giả : Nếu biểu lộ sự thương cảm đối với thế giới này, đối với con người và muôn thú thì đến một lúc nào đó người ta sẽ nhận ra sự bất hạnh của người khác, theo tôi thì một thứ tình cảm hiện lên [...nghe không rõ...]. Tôi chỉ thấy đấy là lãnh vực của sự hài hòa hơn là một sự thán phục [...nghe không rõ...] - Rimpoché : Bạn đưa ra một số các thể dạng tâm thức khác biệt nhau và đề cập đến lòng thương cảm và cả các phản ứng có thể xảy ra khi nhìn thấy sự đau khổ của người khác. Có lẽ bạn muốn nêu lên lòng từ bi, và nhất là những gì bạn vừa nêu lên lại thuộc vào một thể dạng tâm thức khá chuyên biệt. Nhất định là không thể phát biểu đấy là một một sự thán phục. Hơn nữa còn có thể xem đấy là một cách phát biểu lạc đề. Đúng hơn thì đấy chỉ là một thể dạng hài hòa nội tâm giúp cho mình cảm nhận được người khác đang phải gánh chịu khổ đau. Thật hiển nhiên là bạn đang mở rộng sự suy tư theo một chiều hướng nào đó. - Một thính giả : Xin nêu lên một câu hỏi liên quan đến dòng tiếp nối liên tục tâm thần. Những gì tôi không hiểu được là tại sao [...không nghe rõ...] lại không phát sinh từ các kiếp trước của mình ? - Rimpoché : Đề cập đến dòng tiếp nối liên tục tâm thần không nhất thiết phải liên kết với hiện tượng chuyển tiếp từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Ngay cả trong kiếp sống hiện tại, từ lúc mà chúng ta bước vào gian phòng này cho đến giây phút này, tâm thức chúng ta hoạt động không ngưng nghỉ. Vậy theo bạn thì tâm thức của chúng ta đang trong tình trạng hoạt động ngay trong giây phút này có giống với tình trạng tâm thức của chúng ta khi chúng ta vừa bước vào gian phòng này hay không ? Như vừa trình bày trên đây, ít ra thì chúng ta cũng đồng ý với nhau trên một điểm là tâm thức biến đổi liên tục, do đó dùng cụm từ "dòng tiếp nối liên tục tâm thần" (continuum mental) có lẽ thích nghi hơn là dùng chữ "tâm thức" (esprit - mind - spirit) vì chữ tâm thức hàm chứa ý nghĩa quá tĩnh lặng hoặc quá bao quát. Mặt khác, dòng tiếp nối liên tục tâm thần còn hàm chứa một ý nghĩa khác nữa đó là thể dạng tâm thức vào một thời điểm nhất định nào đó không phải tự nhiên mà vụt xuất hiện ra như thế một cách vô cớ mà đúng hơn chỉ là một sự tiếp nối của một hiện tượng cùng một bản chất với nó đã xuất hiện trước nó, bản chất chung ấy là bản chất tâm thần. Hơn nữa bạn có nói là bạn nhớ lại được những sự kiện xảy ra đối với bạn và những gì mà tâm thức của bạn đã suy nghĩ vào lúc mà chúng ta cùng bước vào gian phòng này. Sở dĩ bạn có được những ký ức đó là chính nhờ vào dòng tiếp nối liên tục tâm thần của riêng bạn, và cũng chính vì thế mà những ký ức của bạn không giống với những ký ức của tôi. Bạn nói rằng điều đó làm cho bạn mơ ước được biết về các kiếp trước của bạn, bởi vì bạn không còn nhớ gì cả. Thế thì bạn còn nhớ được tất cả các tư duy của bạn khi còn nhỏ hay không, bởi vì sau một thời gian dài thì vô số những sinh hoạt và tư duy khác dồn dập hiện ra làm cho một số tư duy trước đây phải bị gạt sang một bên. Tình trạng đó tạo ra sự quên lãng tức là không còn nhớ được một số sự kiện nào đó ngay cả trong kiếp sống này. - Một thính giả : Vậy thì dòng tiếp nối liên tục còn có ích lợi gì nếu tôi không còn nhớ lại những gì trong kiếp trước của tôi. Nếu ngày mai tôi chết và tái sinh, tôi sẽ trở thành một đứa bé và tôi sẽ có một não bộ của một đứa bé. Vậy thì tôi chất chứa được những gì từ các kiếp trước ? - Rimpoché : Theo cách nhìn của Phật giáo thì vào đúng giây phút tái sinh dòng tiếp nối tâm thần thâm nhập vào tế bào của cha và của mẹ thuộc trong kiếp sống sắp tới, dòng tiếp nối đó không phải là một dòng tiếp nối hoàn toàn mới mẻ. Thực ra thì nó chuyên chở theo nó vô số những vết hằn tích lũy từ các kiếp trước. Có phải điều đó có nghĩa là bào thai bắt buộc phải ghi nhớ tất cả các thứ ấy hay không ? Nhất định là không. Bào thai có sẵn một số vốn nhưng nó lại còn đang trong tình trạng vô thức. Nếu muốn bào thai có đủ khả năng ý thức thì bào thai phải là một cá thể đã được tập luyện tích cực trên phương diện tinh thần. Nếu dùng thuật ngữ thông thường để nói thì cá thể ấy phải biết suy tư thật mãnh liệt, tóm lại chỉ bằng cách đó thì bào thai mới có thể nhớ lại một cách hiển nhiên và minh bạch những gì mà nó đã từng làm trong các kiếp trước. - Một thính giả : Vậy cái vốn liếng đó sẽ phát hiện như thế nào ? - Rimpoché : Nhiều trường hợp có thể xảy ra, tất cả tùy thuộc vào sức mạnh của các tiềm năng. Nếu tiềm năng cực mạnh thì ngay tuổi ấu thơ chỉ cần một chút gì đó khơi động cũng đủ mang lại cho đứa bé mọi thứ hiểu biết, giúp nó hiểu được những chủ đề thật sâu sắc làm ngạc nhiên người lớn chung quanh. Nếu những vết hằn tương đối mạnh nhưng vẫn còn thiếu cường lực, thì đứa bé chỉ cần học qua loa là đủ khơi động lại cho nó những gì mà nó có từ trước và từ đó nó sẽ suy luận để biết được nhiều hơn. Đối với những người mang những vết hằn kém cường lực thì phải cố gắng thật nhiều để tập tành và tiến bộ. - Một thính giả : [...nghe không rõ...] - Rimpoché : Đối với những người bị bệnh tâm thần thì trong khoảng thời gian trước khi chết họ không còn kiểm soát được tư duy của mình nữa thì việc gì sẽ xảy ra ? Tất nhiên lúc đó họ không còn khả năng nào để phát huy một tâm thức lợi ích nữa. Tuy nhiên trước khi bị bệnh nếu họ đã từng tập luyện thì đến lúc hấp hối các điều kiện thuận lợi sẽ hội đủ (5), dù cho vào thời điểm đó tình trạng tâm thần của họ đã sa sút. Trong trường hợp một người từng tích lũy được nhiều nghiệp thật thuận lợi từ trước thì đến khi hấp hối tình thương hay lòng từ bi cũng có thể tự nhiên hiển hiện ra trong tâm thức họ đúng theo những gì mà họ đã tập luyện được trước khi ngã bệnh. - Một thính giả : Sự giúp đỡ của một người khác có thể ích lợi hay không ? - Rimpoché : Nhất định là có. Sự giúp đỡ từ bên ngoài có thể giúp ích được, với điều kiện là sự giúp đỡ đó phải được thực hiện thật đúng. Vai trò của những người thân chung quanh thật quan trọng, những người đang hiện diện bên cạnh người hấp hối phải ân cần và tránh cho người hấp hối mọi dao động, nói lên với họ những lời thật thích nghi. Tuy nhiên những gì tối cần thiết là người bên cạnh họ phải tràn đầy lòng nhân từ và tình thương đối với họ, bởi vì người hấp hối sẽ cảm nhận được điều đó. Nếu như người giúp đỡ thành thực, thì sự giúp đỡ sẽ hữu ích. - Một thính giả : Người bên cạnh có thể trấn an người hấp hối, nói với họ là trước đây họ đã từng có một cuộc sống trọn vẹn. Tuy nhiên tôi tự hỏi có nên nhắc nhở họ một cách thẳng thắn và không có ý kết án họ, những lỗi lầm trong những hành động tiêu cực của họ trước đây hay không ? Sự hối hận có phải là một thể dạng thuận lợi hay không ? - Rimpoché : Trong hoàn cảnh bình thường thì tất nhiên là có lợi, cảm thấy sự hối tiếc vì một hành động tiêu cực là một thể dạng tâm thức tích cực. Tuy nhiên trong trường hợp được đề cập lại là một trường hợp quá sức đặc biệt, nó liên quan đến giây phút đang xảy ra cái chết. Thông thường rất khó cho một người hấp hối cảm thấy ân hận về những lỗi lầm của mình và chuyển sự ân hận ấy thành một thể dạng tâm thức ích lợi. Nhắc nhở người hấp hối những chuyện sai lầm của họ có thể phạm vào nguy cơ mang lại một tâm thức tiêu cực cho người sắp ra đi. Ngược lại, một người nào đó từng phạm nhiều hành động tiêu cực vô cùng tệ hại trong cuộc sống của mình, nhưng vẫn có thể vụt thay đổi hẳn và làm được những việc thiện. Nếu trước đây người giúp đỡ có quen biết đôi chút với người hấp hối thì hãy cố nhớ lại xem người này đã từng làm được những gì tốt lành để thuật lại với họ, dù đó chỉ là những việc nhỏ nhoi đi nữa. - Một thính giả : Có phải dòng tiếp nối liên tục đồng nghĩa với tri thức hay không... ? - Rimpoché : Nhất định là có một sự liên hệ giữa cái mà người ta gọi là sự tiếp nối liên tục tâm thần (continuum mental) và tri thức (conscience - consciousness), riêng tri thức cũng có một sự tiếp nối liên tục của nó. Tri thức mang bản thể tâm thần, do đó có thể hình dung nó như là một sự tiếp nối liên tục và trong trường hợp này thì lại gọi đấy là sự tiếp nối liên tục của tri thức. Có một phần trùng hợp giữa hai thứ, tuy nhiên hai thứ không hoàn toàn giống nhau. Để trả lời cho phần câu hỏi là dòng tiếp nối liên tục tâm thần và tri thức có phải là những hiện tượng cá biệt riêng cho mỗi cá thể hay không, câu trả lời là đúng như thế ! - Một thính giả : Riêng đối với tôi thì tôi có thể bịa ra mọi chuyện chẳng hạn như tưởng tượng ra mọi sự tốt đẹp để hướng vào tất cả chúng sinh, ước mong tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau. Nhất định là phải ngu ngốc lắm mới có thể tin vào đấy để ra đi trong những điều kiện thuận lợi, đạt được một cuộc sống tốt đẹp trong tương lai. Vậy làm thế nào để biết được những ước vọng ấy là đích thực ? - Rimpoché : Bạn hoàn toàn có lý, chính vì thế nên phải tập cho quen dần với một số tư duy nào đó. Tuy nhiên không nên hiểu đấy là một thứ phản ứng có mục đích lập đi lập lại một câu nói hay một công thức rỗng tuếch, mà đúng hơn là phải tự đặt mình trong một thể dạng tâm thức thành thực và tự nhiên mà mình đã quen thuộc. Nếu chỉ biết lập đi lập lại như một câu kinh cầu nguyện hay làm phát hiện những tư duy giả tạo thì sẽ chẳng mang lại một kết quả nào cả. Chính vì thế mà phải luyện tập lâu dài từ trước. Phải tập luyện như thế nào để làm hiển hiện trong ta những phẩm tính thật sự chẳng hạn như tình thương và lòng từ bi. - Một thính giả : Vào ngày hôm trước thì tôi cảm thấy phát lộ trong lòng một chút từ bi, một ý tốt nào đó, sang ngày hôm sau bỗng nhiên, đùng một cái.... Thế thì phải làm sao để có thể thẩm định được sự tiến bộ ? - Rimpoché : Bạn hoàn toàn có lý. Bất cứ ai không cần tập luyện gì cả vẫn có thể một hôm nào đó vụt phát lộ được lòng từ bi, nhưng sang hôm sau thì lại rơi vào một thể dạng tâm thức hoàn toàn khác hẳn. Đó là dấu hiệu cho thấy ta chưa hoàn toàn quen thuộc với loại tâm thức lợi ích, chưa hội đủ được sự bền vững và kiên trì. Trên một bình diện khác thì sự tập luyện để cải thiện chính mình thuộc vào lãnh vực tâm linh, vì thế phải cần đến một số phương pháp thích nghi, do đó khó mà tự mình có thể khám phá ra được. Vì vậy phải cần nhờ đến một người nhiều kinh nghiệm chỉ dẫn. Tuy nhiên nếu chỉ biết nghe theo những lời chỉ dẫn thì quả thật không đủ, phải đem chúng ra để áp dụng, để suy tư cho đến khi nào tất cả đều hiển hiện ra một cách tự nhiên. - Một thính giả : [...không nghe rõ...] - Rimpoché : Nhất định là như thế, cùng một câu hỏi nhưng có thể hình dung dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Theo quan điểm của Phật giáo thì dòng tiếp nối liên tục tâm thần chính là tri thức (conscience - consciousness) khi hình dung nó liên hệ với chuỗi dài lôi kéo của những khoảnh khắc nối tiếp nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên không thể đồng hóa một cá thể (individu - individual) với dòng tiếp nối liên tục tâm thần (continuum mental), mà đúng hơn là một cá thể được tạo dựng bởi dòng tiếp nối liên tục tâm thần. Cá thể ấy hiện hữu dựa vào nền tảng của dòng tiếp nối liên tục tâm thần, nhưng không phải hai thứ (cá thể và dòng tiếp nối liên tục tâm thần) kết hợp với nhau để trở thành ra một thứ. - Một thính giả : [...nghe không rõ...] - Rimpoché : Trước hết cũng phải công nhận là không phải ai cũng chết trong sự đau khổ. Có những người nhắm mắt hoàn toàn trong sự an bình, không hề cảm nhận một chút khổ đau nào. Đó là trường hợp của những người biết suy tư và hiểu cái chết là gì, họ ý thức được cái chết là một quá trình tự nhiên, một sự chuyển tiếp như bất cứ mọi sự chuyển tiếp nào khác, từ một cơ sở vật chất này sang một cơ sở vật chất khác. Họ cũng hiểu rằng những gì mà họ đã chuẩn bị từ trước sẽ giúp cho họ tiếp tục bước theo con đường mà họ đã chọn, mọi sự sẽ xảy ra một cách tốt đẹp. Họ không có một lý do nào để đau khổ khi hấp hối. Trong trường hợp một người sắp lìa đời và phải chịu đựng sự đau đớn thể xác quá mức thì hai trường hợp có thể xảy ra. Nếu một người đã tu tập tinh thông, thường xuyên thiền định và đã chuẩn bị sẵn thể dạng tâm thức mà mình muốn có khi hấp hối, thì trong trường hợp đó không nên dùng các loại thuốc (chống đau đớn, như morphine...) có thể làm phương hại đến việc thiền định của họ, tốt hơn cứ để cho họ trực tiếp chống chỏi với sự đau đớn thể xác vì đấy cũng là một cách tập luyện nội tâm. Ngược lại, nếu là một người không được chuẩn bị từ trước để đối diện với cái chết gần kề và không biết phải làm sao để tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức lợi ích trong lúc quá sức đau đớn, thì trong trường hợp đó nếu có cho họ dùng thuốc để giảm bớt đau đớn thì cũng không làm cho tình thế thay đổi bao nhiêu. Vì thế cứ tìm cách giúp cho người ấy tránh khỏi sự đau đớn quá mức. Trở lại trường hợp của một người tu tập tinh thông đã hoàn toàn kiểm soát được tâm thức của mình, thì sự đau đớn thể xác quá mức không hẳn là một trở ngại. Nhờ vào sự tu tập tâm linh từ trước, người này sẽ biết nhìn vào những đau đớn mà mình đang chịu đựng để nghĩ đến người khác cũng phải chịu như thế và từ đó phát động lòng từ bi cầu mong cho sự đau đớn của chính mình sẽ hóa giải được hết sự đau đớn của người khác. Trong trường hợp nhận chịu sự đau đớn như thế sẽ phát huy được những thể dạng tâm thức vô cùng lợi ích. Xin một câu hỏi chót trước khi chia tay ? - Một thính giả : [...nghe không rõ...] - Rimpoché : Chu kỳ về sự sinh và cái chết mà chúng ta vừa đề cập lệ thuộc vào nghiệp của chúng ta và nhất là các yếu tố bấn loạn, các thứ dục vọng và khiếm khuyết của chúng ta. Đúng thế, có thể làm cho chu kỳ ấy chấm dứt được và người ta gọi sự chấm dứt ấy là sự giải thoát khỏi thế giới ta-bà (6) : tức là không còn phải nhận chịu sự tái sinh và cái chết ngoài ý muốn của mình. Hãy lấy thí dụ trường hợp của một người đã được giải thoát khỏi ta-bà. Tuy đã được giải thoát nhưng người này vẫn tiếp tục hiện hữu, sự khác biệt là người này có thể chọn lựa sự tái sinh mới trong những điều kiện mới đúng với ý muốn của mình. Tuy nhiên người ấy cũng có thể chấm dứt chuỗi dài tái sinh để nhập vào một thứ gì khác và đấy cũng hoàn toàn do sự quyết định của người ấy. Tóm lại người ấy có thể tiếp tục sinh ra và chết đi nhưng không phải vì bắt buộc và cũng sẽ không hề gánh chịu khổ đau. Phương pháp mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa ra giúp giải thoát khỏi mọi khổ đau trong thế giới ta-bà là trước hết phải nhận biết những thứ gì đang trói buộc ta trong cái thế giới ấy, những thứ ấy là cội rễ của ta-bà. Sau khi đã hoàn toàn nhận biết được các mối dây buộc ta vào thế giới ta-bà thì sau đó ta mới có thể xác định được các phương pháp hữu hiệu để loại bỏ chúng. Kết quả nghiên cứu của Phật giáo cho biết những gì buộc ta vào thế giới ta-bà chính là sự nắm bắt cái tôi. Phương cách đơn giản để hóa giải sự nắm bắt ấy là sự vắng mặt của một cái tôi (Tánh không). Đạt được sự hiểu biết đó tức là một sự hiểu biết gọi là trí tuệ, là cách giúp cho ta thoát ra khỏi chu kỳ lệ thuộc vào vô số điều kiện tức là cái chu kỳ mang lại khổ đau. - Một thính giả : Có một cấp bậc cao hơn gọi là niết-bàn [...không nghe rõ...] - Rimpoché : Niết-bàn (Nirvana) là một tiếng Phạn. Đó là một thuật ngữ gồm có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất là chữ niết-bàn chỉ đơn giản có nghĩa là "giải thoát khỏi ta-bà", tức đạt được một cấp bậc nào đó cao hơn nhưng chưa phải là tối hậu, dù sao thì ý nghĩa này không phải là ý nghĩa chính yếu của chữ niết-bàn. Cách hiểu thứ hai là niết-bàn hàm chứa một tính cách tối thượng có nghĩa là tương đương với thể dạng của Phật. - Một thính giả : Trên bình diện một con người như trường hợp của tôi đây thì sự bám víu vào gia đình, vào bạn hữu có vẻ hàm chứa một khía cạnh tích cực. Nhưng khi nghe những người Phật giáo nói chuyện thì tôi hiểu sự bám víu mang tính cách tiêu cực. - Rimpoché : Thật ra đấy chỉ đơn giản là một vấn đề thuộc lãnh vực ngôn từ. Đối với Phật giáo thì "bám víu" có nghĩa là biểu lộ sự quan tâm đến người khác, nhưng lại không nhất thiết có nghĩa là âu lo cho hạnh phúc của người khác, chính thực thì đấy chỉ có mục đích tìm kiếm quyền lợi cho riêng mình xuyên qua những người khác. Thái độ đó được xem như mang tính cách thật ích kỷ và tiêu cực. Ngược lại nếu sự bám víu thực sự hướng lòng yêu thương, sự trìu mến, sự thân thiện vào người khác, thì đấy là một thái độ không có gì tích cực hơn. Chúng ta có dịp hội họp đông đảo như hôm nay để cùng nhau tìm hiểu thể dạng tâm thức tích cực. Chúng ta bàn thảo với nhau để cùng suy tư trong mục đích đào sâu thêm một số khái niệm. Điều đó giúp chúng ta thực hiện được một chút gì tốt đẹp. Thuật ngữ Phật giáo gọi đấy là sự tích lũy những nghiệp lành. Chúng ta đây đều mang thân xác của con người, hàm chứa đủ loại cảm nhận, từ hạnh phúc cho đến bất hạnh. Nếu chúng ta tiếp tục cố gắng suy tư để tìm cách nắm bắt được cội nguồn của mọi sự vật, thì chúng ta sẽ thấy rằng những cảm nhận của chúng ta lệ thuộc vào những yếu tố nằm bên ngoài chúng ta, nhưng thật ra thì từ nguyên thủy chúng bắt nguồn từ những gì xảy ra bên trong tâm thức của chính mình. Vì thế dù chúng ta là người Phật giáo hay không phải Phật giáo, dù có chấp nhận hiện tượng tái sinh hay không thì tất cả chúng ta cũng đều là những chúng sinh có giác cảm, hàm chứa một tâm thức, biết cảm nhận khổ đau và hạnh phúc, luôn ước vọng được khoẻ mạnh và tạo ra những tác động thuận lợi đối với người khác. Phương pháp để giúp thực hiện những điều đó có lẽ là sự tập luyện để cải thiện lấy chính chúng ta, bất kể mục đích tối hậu của sự luyện tập ấy là gì, chỉ cần biết là nó có thể giúp chúng ta đạt được một cách nhanh chóng một số lợi ích nào đó cho chúng ta và cho người khác. Tôi chỉ biết khuyên quý vị hãy cố gắng thêm một chút theo chiều hướng trên đây. Sự kiện quý vị đến dự buổi nói chuyện hôm nay cho thấy quý vị có thể đã quan tâm một chút nào đó đến nền văn hóa Tây tạng. Đối với những người Tây tạng đang hiện diện hôm nay, tôi xin được nhân danh họ với tư cách là những người đồng hương và cùng với tất cả những ngưởi đồng hương của tôi trong gian phòng này, chúng tôi cùng nhau xin nhân danh tất cả những người Tây tạng trên quê hương chúng tôi để xin được cám ơn quý vị. Nếu chúng ta cùng nhau được hưởng một buổi tối an bình, với mọi tiện nghi như thế này, ấy là nhờ một số người trong chúng ta đã đứng ra tổ chức. Tôi không nhìn thấy họ trong gian phòng này, nhưng tôi vẫn xin được cám ơn họ. Bởi vì chúng ta cùng nhau trải qua một buổi tối trong sự cố gắng chung, do đó chúng ta cũng tích lũy được một chút nghiệp tích cực. Để giúp cho những nghiệp tích cực đó được vững chắc và cường lực hơn, chúng ta hãy mang chúng ra để hồi hướng. Vậy hồi hướng có nghĩa là gì ? Đấy là cách biến những gì tốt đẹp mà chúng ta đã thực hiện được trở thành kết quả. Vậy chúng ta hồi hướng cho ai tất cả những điều xứng đáng mà chúng ta vừa thực hiện được tối hôm nay ? Chúng ta thật đông, vậy hãy lợi dụng ngay lợi điểm đó : ấy là sự đoàn kết sẽ tạo ra sức mạnh. Chúng ta nhận thấy hầu hết chúng sinh đang gặp phải khó khăn, đấy chỉ vì họ đang bị những thể dạng tâm thức kém tốt đẹp chi phối. Chúng ta hãy hồi hướng tất cả những nghiệp tích cực của chúng ta cho tất cả chúng sinh không phân biệt một chúng sinh nào, để giúp họ làm bớt đi mọi cảm nhận sai lầm và những suy tư tiêu cực, và để cầu mong cho tất cả chúng sinh phát huy được những thể dạng tâm thức và những sự cảm nhận đúng đắn và tốt đẹp. Vì lẽ người ta gán cho tôi cái tước hiệu lạt-ma cho nên tôi đành phải xin phép quý vị mang cái tước hiệu đó ra để nguyện cầu và ước vọng cho từng quý vị hôm nay tất cả đều thực hiện được bất cứ hoài bão nào hay ước vọng nào của quý vị. Về phần quý vị cũng thế nếu muốn thực hiện được ước vọng của mình thì cũng phải cố gắng, bởi vì nếu tôi có cầu nguyện cho quý vị nhiều cách mấy đi nữa mà quý vị không động đậy gì cả thì cũng không mang lại một hiệu quả nào... Vài lời góp ý của người dịch : Bài thuyết giảng trên đây mang tính cách khá đại chúng, thính giả gồm những người Phật giáo và không Phật giáo. Vì thế những gì ngài Dagpo Rimpoché thuyết giảng mang tính cách rất thực tế giúp người hấp hối phản ứng một cách thuận lợi và đồng thời cũng giúp cải thiện được cuộc sống thường nhật của mỗi người chúng ta. Một trong những đặc tính đặc thù của Phật giáo Tậy tạng là tính cách thực tế và tích cực, đi thẳng vào áp dụng. Đối với Phật giáo Tây tạng tu tập phải đi đôi với cứu cánh tức là phải mang lại kết quả. Từ bi phải mang lại trí tuệ. Nếu không có kết quả và không thấy trí tuệ ở đâu cả thì sự tu tập cũng chỉ vô ích mà thôi. Các nhà sư Tây tạng cao thâm thường xuyên thiền định về cái chết, hội nhập vào quá trình diễn biến của cái chết. Đức Đạt-lai Lạt-ma cho biết là Ngài thiền định về quá trình của cái chết từ 6 đến 7 lần mỗi ngày và Ngài tuyên bố thật khiêm tốn là trên nguyên tắc thì Ngài đã thuộc lòng những gì sẽ xảy ra sau khi chết, nhưng đến lúc đó thì mới biết được là Ngài có chủ động được hay không. Khi cái chết xảy ra thì tứ đại tuần tự thoái hóa, tâm thức cũng thoái hóa, dòng tiếp nối liên tục tâm thần khi loại bỏ được các cấu hợp thô thiển trên đây cũng dần dần trở nên tinh khiết hơn và đạt được thể dạng gọi là "ánh sáng trong suốt của cái chết" trước khi quay trở lại trạng thái thô thiển của sự tái sinh hay thụ thai, tức là giai đoạn hình thành. Người tu tập cao thâm có thể dừng lại trong thể dạng ánh sáng trong suốt và không tái sinh nữa, hoặc quyết định tái sinh nhưng sẽ tái sinh trong những điều kiện vô cùng thuận lợi để có thể giúp đỡ người khác. Bài thuyết giảng của ngài Dagpo Rimpoché chỉ nêu lên giai đoạn khởi đầu của quá trình cái chết và khuyên chúng ta phải chuẩn bị như thế nào để tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi. Thật vậy nếu tái sinh trong một môi trường mà chung quanh không ai biết đến Đạo Pháp là gì thì sẽ khó cho ta tiếp tục tu tập trong kiếp sau. Vì thế ngoài những điều chỉ dạy của ngài Dagpo Rimpoché chúng ta cũng nên hằng nhắc nhở với mình ước vọng sẽ được tái sinh trong một môi trường có thể giúp cho mình biết được Đạo Pháp để tiếp tục tu nữa, vì chắc chắn là còn lâu lắm ánh sáng của trí tuệ mới hé lộ ra trong tâm thức đầy dục vọng, hận thù và bấn loạn của chúng ta. (Đức Đạt-lai Lạt-ma có thuyết giảng về vấn đề này và các lời giảng của Ngài đã được in thành sách. Ấn bản tiếng Anh : Advice on Dying, and Living a better life, nhà xuất bản Atria Books, 2002. Ấn bản tiếng Pháp : Vaincre la mort et vivre une vie meilleure, nhà xuất bản Plon, 2003. Hoang Phong chuyển ngữ dưới tựa đề : Chủ động cái chết để tái sinh trong một kiếp sống tốt đẹp hơn, hiện được lưu trữ tại các trang web Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức, v.v...) Ghi chú : 1- Tức là ngũ uẩn, gồm có: hình tướng, giác cảm, sự nhận biết, sự diễn đạt và tri thức, tức là những gì tạo ra thân xác và tâm thức của một cá thể. 2- Sáu cơ sở hiểu biết là : thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và tri thức. 3- Bốn thành phần là : đất, nước, lửa và khí. 4- Chữ nghiệp "karma" bao gồm nhiều nghĩa, các nghĩa chính là : a) "yếu tố" hay "tác nhân" tâm thần đảm trách sự linh động của tri thức hướng vào một vật thể. B) "một vết hằn" hay một "tiềm năng" hay "một "xu hướng" tàng ẩn trong tâm thức. 5- Nếu một người biết tập luyện và phát huy một tâm thức an bình và lợi ích thì rất có thể họ sẽ không bị bệnh tâm thần. Tuy nhiên trên phương diện y học cũng phải chấp nhận là các loại bệnh tâm thần có nhiều nguyên nhân khác nhau và theo quan điểm Phật giáo thì các nguyên nhân ấy là do nghiệp mà ra. Phát huy một tâm thức an bình và lợi ích cũng có thể là một cách trực tiếp hóa giải các nguyên nhân ấy. 6- Ta-bà có nghĩa là phải sinh ra và phải chết đi ngoài ý muốn của mình, lệ thuộc và chi phối bởi tác động của nghiệp và các yếu tố bấn loạn của tâm thức. Yếu tố bấn loạn chính yếu và quan trọng hơn hết là vô minh (sự hiểu biết sai lầm). Bures- Sur-Yvette, 20.10.10 Hoang Phong
  17. Chuyện đàn chim sa bẫy do bất hoà Vào một kiếp xa xưa, Bồ-tát (tiền thân đức Phật) sanh làm một con chim cút, thủ lĩnh của hàng ngàn con chim cút sống ở trong rừng. Bấy giờ, một người bẫy chim vì muốn bắt chim cút nên tìm đến nơi đàn chim sống. Ông ta thường bắt chước tiếng kêu chim cút để dụ chúng đến. Rồi chờ khi bầy chim kéo đến tập họp lại một chỗ, ông ta tung lưới chụp lên chúng và rút các mép lưới lại, tóm tất cả vào một mối, sau đó nhét chúng vào trong một cái giỏ, mang về nhà bán kiếm tiền sinh sống. Một hôm, Bồ-tát nói với bầy chim: – Thưa chư vị, người bẫy chim này đang tàn sát thân tộc của chúng ta. Ta có một phương kế khiến ông ta không thể bắt được chúng ta nữa. Từ nay trở đi, mỗi khi ông ta tung lưới lên, các vị hãy thò đầu của mình qua các lỗ lưới và sau đó cùng mang lấy cái lưới bay đến một nơi mà các vị muốn, và ở đó, hãy hạ cái lưới xuống trên một bụi cây gai. Làm như vậy, tất cả chúng ta sẽ thoát khỏi nhiều mẻ lưới. – Kế sách thật hay. Cả bầy chim cùng đồng ý. Ngày hôm sau, khi người bẫy chim chụp lưới lên bầy chim, chúng đã làm theo những gì mà Bồ-tát đã dặn. Chúng mang cái lưới bay lên và hạ lưới xuống trên một bụi cây gai rồi trốn thoát từ phía dưới, làm cho người bẫy chim phải đứng đấy gỡ lưới mãi cho đến khi chiều tối, sau đó trở về nhà mà trong tay chẳng có thứ gì. Bầy chim sử dụng mưu kế ấy liên tiếp nhiều ngày sau đó. Và như thế, người bẫy chim cứ phải chịu cái cảnh loay hoay gỡ lưới cho đến chiều tối và trở về nhà tay không. Thấy chồng trở về nhà tay không hoài như vậy, người vợ tức giận nói: – Ngày nào ông cũng trở về tay không. Tôi nghĩ là do ông nuôi dưỡng một cơ sở thứ hai nào đó. Người bẫy chim nói: – Không đâu bà ơi, tôi không nuôi dưỡng một cơ sở thứ hai, thứ ba nào cả. Sự thật là do những con chim cút đó bây giờ đã cùng hợp tác làm việc. Khi tôi tung lưới lên chúng, cả bầy cùng mang cái lưới đi, để lại nó trên một bụi cây gai và bỏ trốn. Nhưng chúng sẽ không thể sống mãi trong hòa hợp được đâu. Bà đừng lo, khi nào chúng bắt đầu cãi vã nhau, tôi sẽ bắt hết cả bọn chúng. Rồi bà sẽ vui cười cho coi. Nói vậy xong, ông ta đọc cho bà vợ nghe mấy câu thơ: Khi hòa hợp có mặt Chim mang lưới bay xa Khi tranh cãi xuất hiện Chúng rơi vào tay ta. Không lâu sau đó, một con chim cút khi đậu xuống bãi đất kiếm mồi đã vô ý đạp lên đầu một con chim cút khác. Con chim cút này kêu lên một cách giận dữ: – Kẻ nào đạp lên đầu ta thế. – Ôi! Xin lỗi bạn. Tôi đấy. Nhưng không phải tôi cố ý đâu. Xin đừng giận tôi nhé! - Chim cút thứ nhất thành khẩn nói. Nhưng không thèm đếm xỉa đến câu trả lời phân trần này, chim cút thứ hai cứ ôm lòng sân hận, tiếp tục nói: – Ngươi nghĩ là một mình ngươi có thể nhấc bổng cái lưới kia lên được sao? Và thế là chúng bắt đầu lời qua tiếng lại, lớn tiếng mắng nhiếc lẫn nhau. Khi nhìn thấy chúng cãi vã nhau như vậy, Bồ-tát nghĩ: “Mỗi khi đã có tranh cãi thì không có an toàn. Giờ thì bầy chim sẽ không còn nhấc nổi cái lưới lên được nữa rồi, và do đó chúng sẽ nhận lấy sự đại diệt vong. Gã săn chim rồi sẽ tìm được cơ may của mình. Thôi, ta không nên ở đây nữa.” Nghĩ là làm, Bồ-tát cùng với đàn chim của mình bay đến một chỗ khác. Đúng như dự đoán, một vài ngày sau, gã bẫy chim lại đi đến chỗ đó. Trước tiên gã dụ đàn chim lại bằng cách giả tiếng chim cút, sau đó gã tung lưới lên chúng. Thế rồi một con chim cút nói: – Nghe nói khi ngươi nhấc bổng lưới lên thì lông trên đầu của ngươi rơi xuống cả. Bây giờ có ngon thì hãy nhấc lưới lên đi! Con chim kia đáp trả: – Khi ngươi nhấc lưới lên, nghe nói lông cánh của ngươi đều rụng cả. Bây giờ hãy nhấc lên thử coi! Trong khi chúng đang còn đề nghị nhau nhấc lưới như vậy, thì người bẫy chim đi đến, rút các mép lưới lại và nhấc lên, tóm chúng lại thành một mối và nhét vào trong giỏ mang về nhà. Bà vợ thấy vậy thì cười sung sướng. Jātaka Sammodamāna, truyện số 33 Nguyên Hiệp dịch ============================================================================= Liên Tưởng Từ Câu Chuyện Đoàn kết được nghĩ là yếu tố cần thiết giúp tạo nên sức mạnh cho một nhóm hay một tổ chức, rộng ra là một xã hội hay một quốc gia. Nói chung thì ai cũng biết đoàn kết là quan trọng, là cần thiết để giữ sự cố kết nhóm, tổ chức hay cộng đồng. Do vậy nên người ta luôn luôn kêu gọi, thậm chí kêu gào, phải đoàn kết. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh cho một nhóm hay một tổ chức, nên nó cũng tạo nên mối lo sợ cho nhóm hay tổ chức khác. Và vì vậy phá đoàn kết cũng rất được nhiều người thực hiện, tất nhiên là bí mật và sử dụng thủ đoạn. Đoàn kết, nói chung, là tốt (xét ở khía cạnh tích cực, bởi vì cũng có khi “đoàn kết” để đi làm bậy). Nhưng để cho có… đoàn kết, thiết nghĩ cũng cần phải nghĩ đến vấn đề là nên đoàn kết như thế nào và đoàn kết vì mục đích gì. Học Phật, mình biết đến sáu pháp lục hoà, đó là sáu phương pháp giúp cho một tổ chức (ở đây là tổ chức thuộc Phật giáo) có sự đoàn kết và hoà hợp, và khi có hoà hợp thì “có lợi ích an vui.” Như vậy để đoàn kết, chúng ta cần phải có một số quy định hay luật lệ chung nào đó để thực hiện, chứ không phải nói đoàn kết một cách chung chung. “Chín người mười ý” thì làm sao kêu gọi đoàn kết một cách chung chung được. Luật tạng thường nhấn mạnh vào sự đoàn kết; và việc thực hiện đoàn kết được xây dựng trên việc tuân thủ các giới luật. Tăng đoàn duy trì sự cố kết của nó dựa trên giới luật, không phải dựa trên một cá nhân nào, cho dù đó là đức Phật. Và chính điều này mà khi nghiên cứu về Tăng đoàn Phật giáo người ta xem nó là một tổ chức có tinh thần dân chủ rất cao. Trong Tăng đoàn không ai có quyền phán xét ai. Người nào phạm giới luật thì lấy giới luật ra xử trị. Giới luật là những quy định chung giúp tăng sĩ sống có phạm hạnh, là chất keo nối kết cộng đồng và cũng là những biện pháp “chế tài”. Ví dụ khi một người vi phạm giới luật, sẽ có những luật định dành cho việc đó, như phải sám hối, mặc tẩn hay bị trục xuất khỏi tăng đoàn chẳng hạn. Nói vui một chút là Tăng đoàn sống và làm việc theo… giới luật. Vậy nên khi người đứng đầu một nhóm kêu gọi sự đoàn kết thì cần nên tính đến việc đặt ra những quy định nào đó để các thành viên của nhóm thực thi theo cho có… đoàn kết. Tức là những thành viên thực hiện đoàn kết dựa trên những quy định đó, chứ không phải thực hiện đoàn kết là bảo sao nghe vậy, hay thực thi tuyệt đối theo mệnh lệnh của người đứng đầu nhóm. Khi một nhóm có đoàn kết thì công việc sẽ hiệu quả hơn (khi không có đoàn kết), và sự hiệu quả của công việc sẽ đem lại những lợi ích nào đó cho các thành viên trong nhóm. “Chế tài” là một yếu tố quan trọng trong việc giữ quy củ và sự vững mạnh của một nhóm. Nhưng để cho việc chế tài có hiệu quả ta cần nên xem xét yếu tố lợi ích. Một người tham gia nhóm hay tổ chức hiếm không tính đến yếu tố lợi ích. Lợi ích đó có thể là vật chất, có thể là tinh thần. Tinh thần ở đây có thể là thoả mãn một lý tưởng, tìm kiếm một niềm vui, tìm lấy một sự chia sẻ, tìm cơ hội học hỏi, hoặc chí ít là để có bạn chơi hay để cho có người trò chuyện. Chẳng lẽ tham gia vào một nhóm hay một tổ chức nào đó mà không có mục đích gì hết, tham gia chỉ vì thích tham gia? (chắc cũng có người như vậy, nhưng không nhiều). Nhờ có yếu tố “lợi ích” nên việc chế tài mới có hiệu quả. Còn khi tham gia vào một tổ chức mà thấy tham gia cũng được, không tham gia cũng được - tức không thấy sự cần thiết hay lợi ích gì từ việc tham gia đó - thì những biện pháp chế tại hẳn nhiên là vô dụng. Có những hội đoàn và tổ chức mà các thành viên tham gia vào đều không được trả lương và không nhận được bất cứ sự lợi ích vật chất nào, thế nhưng họ lại rất gắn kết và có khi rất sợ bị loại trừ. Ví dụ có những tổ chức tôn giáo, tín đồ của họ rất sợ bị cấm tham gia sinh hoạt. Tại sao họ lại sợ như vậy? Bởi vì không được tham gia, họ nghĩ sẽ mất lợi ích! Các nhóm, theo cách này hay cách khác, xem ra đều là… “nhóm lợi ích” cả… Liên tưởng từ câu chuyện, có vài dòng lan man như vậy, có thể chỉ là “hý luận.” Nhưng nói tóm lại, tôi nghĩ rằng, những ai kêu gọi đoàn kết thì cũng nên đặt tiếp vấn đề là đoàn kết như thế nào và đoàn kết vì mục đích gì. Sau khi trả lời được câu hỏi đoàn kết vì mục đích gì thì những câu hỏi tiếp theo sẽ xuất hiện, ví dụ như mục đích đó tạo nên điều gì, đem lại lợi cho ai.v.v… Ở câu chuyện trên, mục đích của đoàn kết là để có sức mạnh mang cái lưới đi, và lợi ích là cả bầy chim thoát khỏi tay người bẫy chim. Nhưng đáng tiếc, cuối cùng cả bầy chim đều vô… giỏ do ham cãi lộn! Nguyên Hiệp
  18. Đã nhận của chipchip 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ quỹ từ thiện. Quỹ hiện có : 4,950,000 đ + 500,000 đ = 5,450,000 đ (năm triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng)
  19. AE ở Hà Nội cũng đã xuất tâm cùng Bác Thiên Sứ đến thăm và trao tặng tiền cho trường hợp của Anh Thắng, thật đáng quý khi ở đâu và nơi nào có tình người với nhau chúng ta đều san sẽ được cả! Theo Tạng Lịch ngày này là Ngày cát tường Tích ca Mô Ni Phật và ngày hộicúng Tích ca Mô Ni Phật, ngày giữ giới,ngày tụng kinh, ngày cát tường để cúng khói,ngày hỏa cúng, làm việc thiện hay việc ác đều tăng gấp 900 triệu lần. Ngày đảnh sinh của Dược sư Phật. Như vậy các bạn đã nhân việc Thiện này lên đến 900 triệu phước báu và gia đình Chị Minh cháu Thắng cũng thọ nhận bấy nhiêu lần hoan hỷ.
  20. Xác nhận có 3,000,000 đ (ba triệu đồng) của ntpt ủng hộ chương trình "suất ăn..." Cám ơn sự góp ý về chuyên môn của ntpt nhiều nhé! Qũy hiện có : 1,950,000 đ + 3,000,000 đ = 4,950,000 đ (bốn triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng)
  21. Chào cả nhà Lý Học! Chào góc nhỏ Từ Thiện! Hôm nay chuyển tiếp ở Thai Lan mới có thời gian Check online, Wild xin được ủng hộ 1,000,000 đ (một triệu đồng) cho trường hợp trên đây, Bác Thiên sứ có thể tạm ứng giúp em cho kịp thời sau khi về đến vn , E, sẽ western union cho Bà xã của bác tại Tp HCM. Cám ơn Bác nhiều.
  22. Phá tướng cả cuộc đời vì hình xăm không đúng chỗ? Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân... Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân. Trước đây, chỉ những thành phần ra tù vào khám, “tiền án nhiều hơn tiền túi” mới xăm trổ đầy mình, vì vậy khi thấy ai đó có hình xăm trên người là bị liên tưởng ngày đến những thành phần bất hảo trong giới giang hồ. Ngày nay, hình xăm thậm chí còn được coi là mốt của 1 số bạn trẻ, nhưng ít ai biết có quan niệm cho rằng nếu xăm không đúng chỗ sẽ là một kiểu phá tướng. Mạng nhỏ đòi gánh… rồng Theo quan niệm của một số bạn trẻ ngày nay, hình xăm thậm chí đã trở thành một trào lưu trong giới trẻ, là một hình thức thẩm mỹ, gây ấn tượng, thể hiện đẳng cấp, ghi dấu tình yêu của các bạn trẻ hoặc xua đuổi vận hạn… Thế nhưng, một nhà nghiên cứu cho biết, nếu bạn nghĩ rằng mình có thể tùy tiện xăm lên cơ thể bất kỳ hình thù gì mình muốn thì nên bỏ ngay suy nghĩ đó, vì nó hoàn toàn sai lầm trong quan niệm của thuật phong thủy và nhân tướng học: Xăm hình thường là xấu nhiều tốt ít, xăm hình mà không thận trọng, hậu quả tai hại sẽ theo mình suốt đời. Bởi vậy, có người xăm hình xong thì mọi việc hanh thông thuận lợi (số này rất ít), có người xăm xong thì làm gì cũng gặp rắc rối, nhẹ thì có chút khó khăn rồi cũng qua, nặng thì tai nạn xe cộ phạm đến thân thể. Một nam thanh niên từng đến than thở với một chủ tiệm hình xăm tại Hà Nội: “Từ lúc xăm hình con rồng này, cháu thấy mình số đen lắm, làm gì cũng “chết”, chắc tại con rồng nhỏ quá. Chú xem cháu đang định sửa con rồng to hơn, xăm từ bắp tay đến ngực luôn có được không”. Chủ tiệm nhìn thoáng qua đã có thể nói được ngay, vấn đề ở chỗ không phải con rồng to hay nhỏ, mà chẳng qua vì mạng của bạn không thể gánh nổi con rồng đó thôi. Nói không gánh được tức là mệnh lý khắc, xăm lên xong không những không đem lại may mắn, mà ngược lại toàn đem đến những điều đen đủi. Vì vậy, dù sao mọi người cũng nên suy nghĩ trước vì xăm thì dễ mà xóa thì khó. Kỳ thực, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cuộc sống của một con người, trên đây chỉ là một cách nhìn về hình xăm trên góc độ phong thủy học và nhân tướng học. Nói về xăm hình, không đơn thuần chỉ là người thợ xăm dán hình xăm lên người bạn rồi chấm mực di mũi kim mà nó có nguyên lý của nó, nguyên lý ấy là giữa người xăm và hình xăm. Theo những người trong nghề, trong dòng xăm chính thống, khó xăm nhất là hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long vì không phải ai cũng gánh được mấy hình này. Có người xăm hình Thanh Long quá vai chưa đến 1 tháng thì bị ngã xe gãy tay, mọi ngày chạy bạt mạng thì không sao, hôm ấy chỉ đi từ từ một tay rút cái điện thoại trong túi quần, không để ý quệt vào đuôi xe đằng trước, ngã rất nhẹ mà gẫy tay. Một người khác sau khi xăm hình cá chép hóa rồng trên vai bỗng nhiên làm ăn rất thuận lợi, chưa đến 1 năm gặp lại mà đã mua nhà, mua xe. Nhưng từ khi xăm chữ nhẫn ở sau lưng thì lại xuống dốc không phanh, tài sản hầu như tiêu tán hết, may là còn giữ được cái mạng.Trước khi xăm, người này đã được cảnh báo là không hợp với chữ nhẫn nhưng không tin, thấy thích thì cứ xăm lên, giờ lại phải xóa hình đi, người chằng chịt vết xóa. Phải đến lúc đó, người này mới đi tìm hiểu và biết được ý nghĩa của chữ nhẫn: bên trên là cây đao đè lên tim, nhúc nhích là đao đâm vào tim ngay. Với những người tính hay vội vàng, dễ kích động và hơi có chút giảo hoạt không nên xăm chữ này. “Trước khi xăm chữ nhẫn tuyệt đối phải nên xem tính cách của mình có hợp với ý nghĩa hay không”, một nhà nghiên cứu phong thủy cho biết. Suýt chết vì “phạm thượng” Theo một chủ tiện xăm lâu năm am hiểu về phong thủy, hình xăm phải tương thích với thực lực, tính cách, mệnh lý của từng người, nếu không hiểu biết thì may mắn và đại họa chỉ cách nhau gang tấc. “Cách đây không lâu có một thanh niên cùng bạn đến tiệm nằng nặc đòi xăm hình “Quan âm ngồi đài sen” trên lưng, tôi hỏi liệu cậu có gánh được không, người thanh niên quát bảo tôi có tiền thích xăm gì chẳng được, ông cứ xăm cho tôi, không phải lằng nhằng. Lúc ấy, tôi nói không phải do vấn đề tiền nong mà thấy cậu còn trẻ giống một anh bạn giang hồ mới nổi chỉ nên xăm hình “hổ hạ sơn” là hợp lý, ra ngoài gặp giang hồ cộm cán thấy cậu chỉ là con hổ mới xuống núi, vừa bước chân vào xã hội thì họ cũng không gây khó dễ cho cậu. Cậu thanh niên kia nhất quyết không chịu, còn đe dọa quậy phá để cho tôi đóng cửa tiệm để xăm hình bằng được mới thôi, tôi cũng đã cảnh báo trước nếu có chuyện gì xảy ra thì đừng trách không nói trước”, vị chủ tiệm này kể lại. Hôm đó, xăm mất 8 tiếng đồng hồ mới xong, chủ tiệm cũng đã nhắc nhở thanh niên đó phải tắm rửa sạch sẽ, thắp hương chay tịnh 1 tuần rồi sau làm gì thì làm. Ai ngờ, 4 hôm sau anh ta đi mát xa, thư giãn, đến lúc dẫm lưng bỗng nhiên thanh sắt là tay bám bên trên tuột ốc rơi xuống, cô gái mát xa trượt chân ngã, khuỷu tay của cô gái chống thẳng vào gáy cậu thanh niên kia. Hậu quả ai cũng đoán ra, cậu thanh niên đó bị tổn thương đốt sống cổ, điều trị hơn 3 tháng mới đỡ. Vị chủ tiệm xăm giải thích: “Anh thử nghĩ xem liệu có thể dẫm lên mặt Quan âm được không, như vậy là bất kính với Phật. Tuy cậu thanh niên kia đã xăm hình Phật lên người nhưng trong tâm niệm không có thần phật tồn tại, thường hay tà niệm, tính tình ngang ngược vốn đã không có duyên với Phật rồi, tôi đã biết trước thế nào cũng có ngày xảy ra chuyện nhưng cậu thanh niên kia không tin”. Một chủ tiệm xăm khác tại Hà Nội cũng cho rằng: “Chỉ lấy một vài ví dụ đa phần mang tính trùng hợp này để chứng minh thì không có tính thuyết phục lắm, bạn có thể tin hoặc không tin, chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng không phải cứ thích xăm hình gì là xăm, vì có nhiều cái mệnh của bạn không hợp, may mắn không thấy đâu, có khi còn bị nó…vật”. Ông giải thích: “Nghĩa là người như thế nào thì xăm hình ấy, không thể tùy tiện, cái này một phần có nguyên lý bắt nguồn từ Chu Dịch. Ví dụ người mệnh kim thì dương khí tương đối vượng nên không thể xăm Thanh Long (thuộc tính dương), nếu xăm lên sẽ thành ra lửa cộng lửa, âm dương không điều hòa, sớm muộn gì cũng tự… đốt chết mình. Một số quan niệm về xăm hình trong phong thủy và nhân tướng học Xăm hình “tứ thú” có thể gây tổn nguyên khí: Nhiều bạn trẻ lý giải về xăm hình “tứ thú” trong thuật phong thủy và cho rằng khi đã xăm thì phải là: tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ (bên cánh tay trái xăm hình rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm hình chim công, sau lưng xăm hình Huyền vũ (Huyền vũ là một trong tứ tượng của thiên văn học Trung Quốc, là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con rắn quấn quanh con rùa màu đen)). Nhưng trước khi xăm, bạn nên cân nhắc kỹ vì tuy nó là 4 linh vật thánh đem lại may mắn nhưng không phải cho tất cả mọi người, chỉ một số người gánh được 4 linh vật này, còn lại với đa số người thì được coi là hung. Xăm ngực hoặc phần dưới cơ thể dễ loạn hậu thế: Hiện nay có nhiều người xăm vào ngực, bụng, eo, đùi,… quả thật những hình xăm rất tinh tế, nhưng trong quan niệm của thuật phong thủy thì những hình xăm phá tướng đó khiến phần hạ thế, nơi cất giữ phong khí lớn nhất của con người bị tổn hại, khí thoát ra ngoài nên nếu chưa có gia đình thì ảnh hưởng đến tình duyên, nếu không thì sau này ảnh hưởng đến sinh nở hoặc sẽ phát sinh rắc rối trong mối quan hệ giữa con cái và bản thân. Xăm hình ở ngón tay sẽ khắc chồng, khắc vợ. Nữ xăm hình ở ngón tay của cánh tay trái, chồng bạc duyên; xăm ở ngón tay của cánh tay phải thì nhân duyên kém; con trai thì ngược lại. Xăm vào mông có thể gặp nhiều điều thị phi: Theo vị lý học phong thủy thường đề cập đến các “luân đầu”, phần mông trên cơ thể người là nơi “luân đầu” quan trọng nhất của con người, một khi luân đầu này bị “tấn công”, bị cắt đứt, thị phi cũng theo đó mà đến (giống như bị triệt long mạch). Đi đến đâu bạn cũng sẽ gặp “quỷ con – chỉ vận hạn nhỏ nhưng thường xuyên”, khó mà dứt ra được. Xăm hoa văn bên đùi khiến đường đời gập ghềnh: Nếu bạn vốn có vận may rất tốt bỗng nhiên trở nên gặp khó khăn sau khi xăm hình trên đùi thì có thể bạn bị phạm rồi. Xăm hình để che vết sẹo: Nhiều bạn vì trên cơ thể có vết sẹo xấu nên xăm hình nhằm che đi chỗ xấu ấy nhưng lại không biết rằng sẹo trong phong thủy vốn dĩ đã là chỗ gây tổn hại đến khí, xăm hình lên chỗ sẹo thành ra là loạn lại càng thêm loạn; nếu vết sẹo không ảnh hưởng nhiều thì không nên can thiệp. Xăm ở vai, ở cổ gây mệnh khổ: Xăm hình sau lưng biểu thị cả đời lúc nào cũng vất vả, gánh vác, áp lực lớn. Trong nhân tướng học, vai, cổ là đại diện cho hệ thống hô hấp vì vậy khi xăm hình lên bộ phận này dễ gặp vấn đề liên quan đến hệ hô hấp. Xăm hình động vật dễ gây hỗn loạn trong tâm tưởng: Xăm hình nhân vật, động vật hoặc côn trùng biểu thị suốt đời bị người khác sai khiến, chỉ huy, không có chủ kiến. Đồng thời khi xăm hình động vật cần chú ý đến vấn đề xung khắc các con giáp. Người tuổi Thìn, Tuất, Mão, Hợi đặc kị xăm hình Rồng; người tuổi Thân, Tỵ đặc kị xăm hình Hổ; người tuổi Mão, Dậu, Tuất đặc kị xăm hình bướm. Xăm thực vật, cây cỏ: Thực vật thuộc hành Mộc, da thuộc hành Thổ, Mộc khắc Thổ vì vậy dễ gây ra sự cố bất thường, tai bay vạ gió, bị thương tích. Xăm hình thần phật: Một số người thích xăm hình thần phật trên người vì nghĩ rằng làm như vậy sẽ luôn được thần phật bên cạnh phù hộ, nhưng thử nghĩ xem, lúc tắm rửa, đi vệ sinh và các hoạt động phòng the thì sao? Thực ra là toàn cho thần “xơi” những thứ xú uế, trần tục. Xăm lên xong mà không biết chay tịnh, kiềm chế thì ắt rước họa vào thân. Xăm lên tay chân gây điều tiếng thị phi: Khi xăm lên tay chân, bất kể là màu sắc gì đều đem lại thị phi suốt đời, phong ba luôn ập tới bất ngờ, làm việc gì cũng không được thuận lợi. Xăm ở bắp chân trở xuống dễ gây tranh chấp trong chuyện tình cảm nam nữ, luôn trong trạng thái bị áp lực, căng thẳng, tài vận đi xuống. Tục xăm hình xuất hiện cách đây vài chục ngàn năm, tồn tại song song cùng nhiều làn sóng văn minh nhân loại. Xăm hình không chỉ thể hiện sự nhận dạng sắc tộc, mà trong nhiều trường hợp còn là phương cách chữa bệnh. Tại eo biển Bering, nhà dân tộc học George B. Gordon từng gặp nhiều người ở đảo Diomede với vết xăm ở gò má và thái dương đó là những sẹo nhỏ sau khi người ta châm ra hút máu độc. Ở Alaska, hiện vẫn có tục chích da để “rút máu độc” cho vài căn bệnh. Dân Chugach Eskimo cũng có cách chữa tương tự. Khi bị đau mắt, họ chích ra lấy máu ở chóp mũi và thái dương…. (Theo Pháp luật & Thời đại)
  23. Còn đây những cánh tay đưa ra với 40 suất ăn dự phòng... Các thành viên của nhóm lại tiếp tục công việc trao quà .... Những suất quà cuối cùng được trao đi cho những người kiên nhẫn chờ, giống nhau về suất ăn nhưng khác nhau vì không phiếu.
  24. Xác nhận có 1,000,000 đ (một triệu đồng) của Bác Thiên Sứ ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 950,000 đ + 1,000,000 đ = 1,950,000 đ (một triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng)
  25. Chứng từ của Big C, Wild chỉ có thể thu gọn theo số thứ tự như trên đây để tường minh.