wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Lạt ma và Hoa hồng vườn tranh luận Ở ngoại ô thủ phủ Lhasa có một tu viện mang tên Sera Monastery mà nếu đến thăm, bạn sẽ chứng kiến một trong những phương pháp tiếp thu kiến thức độc đáo của người Tây Tạng. Sera Monastery nằm dưới chân núi đá khô cằn, ngoại ô Lhasa. Tu viện này thuộc phái Mũ Vàng (Gelugpa - Hoàng Mạo), là 1 trong 3 tu viện quan trọng bậc nhất của Tây Tạng, được xây dựng vào đầu thế kỷ 15. Sera Monastery còn được biết đến với tên gọi Tu viện Hoa hồng, bởi chữ Sera trong tiếng Tạng có nghĩa là hoa hồng, vì khi khởi công xây dựng tu viện vào năm 1419, nơi đây tràn ngập hoa hồng dại. Một khu đồi núi cằn cỗi mà lại có hoa hồng mọc lên, tô điểm thêm cho sự kỳ bí của tu viện này. Thêm nữa, trên một đất nước rộng mênh mông như thế mà các bậc đại sư thời xưa lại chọn khu đất có hoa hồng để xây tu viện, chắc không phải ngẫu nhiên. Tu viện Sera được biết đến như là Trường đại học Phật giáo của Tây Tạng. Khu vực này khá rộng, gồm 3 trường: Sera Mey Dratsang (giáo dục kiến thức cơ bản), Sera Jey Dratsang và Ngagpa Dratsang (đào tạo Lạt ma phái Mũ Vàng có trình độ tương đương cử nhân và tiến sĩ Phật học), tu sinh phải học và thi khoảng 300 loại kinh kệ, chưa kể các môn khoa học khác. Giống như các trường đại học trên giới, tu viện Sera cũng có ký túc xá dành riêng cho tu sinh. Đào tạo Lạt ma chỉ dành cho nam giới từ 16 tuổi trở lên, do đó không hề có nữ tu sinh trong các tu viện ở Tây Tạng. Hiện tại muốn vào bên trong tu viện, bạn phải trình giấy thông hành đặc biệt cho đồn cảnh sát đặt ở đầu đường vào. Vào những buổi chiều, trong vòng từ 1 - 2 tiếng đồng hồ, dưới bóng râm của những tán cây có tuổi thọ hàng trăm năm tuổi, các tu sinh của tu viện Sera tụ tập lại (giống như giờ ra chơi) để trau dồi kiến thức trong không gian gọi là Vườn tranh luận với mặt sân toàn đá cuội. Người đứng đập hai bàn tay vào nhau nghe “chát” một cái, uốn hai cánh tay nhẹ nhàng như một vũ công, rồi hỏi người ngồi một câu gì đó. Người ngồi trả lời, người đứng hỏi tiếp với cùng điệu bộ ấy. Có thể xếp Vườn tranh luận của tu viện Sera vào loại sôi động nhất trong hệ đại học trên toàn thế giới. Qua lời giải thích của anh hướng dẫn viên du lịch người Tạng, sự tranh luận ấy được thể hiện bằng kiến thức phổ thông hoặc thâm sâu tùy theo nội dung câu hỏi và câu trả lời của các tu sinh, ví dụ: Người hỏi: Lá cây có màu gì? Người trả lời: Màu xanh. Hỏi tiếp: Tại sao lá cây có màu xanh? Trả lời: Do diệp lục tố tạo nên. Hỏi tiếp: Tại sao lá cây chuyển sang màu vàng? Trả lời: Đó là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hỏi tiếp: Tại sao lá rụng? Trả lời: Là do lá chết. Hỏi tiếp: Tại sao lá chết mà cây không chết? Trả lời... Cứ như thế, “giờ ra chơi” giúp các tu sinh “truy bài” nhau đi đến tận cùng của tri thức, một cách giúp họ lĩnh hội những tinh tú của nhân loại trong vũ trụ bao la trước khi tốt nghiệp thành Lạt ma. Cuối buổi tranh luận, tất cả tu sinh đội mũ vàng lên tập trung lại để các bậc đại sư giải thích những câu hỏi có phần bí hiểm hoặc câu trả lời chưa thỏa đáng, rồi đưa ra lời giải cuối cùng cho một câu hỏi chưa có lời giải hoặc trả lời chưa trọn vẹn, coi đó như chân lý để các tu sinh nạp thêm vào kho tàng kiến thức của mỗi người. Du khách tham quan tu viện Sera - Ảnh: Đoàn Xuân Hải Trước cuộc chính biến xảy ra vào năm 1959, tu viện này có hơn 5.000 tu sinh, ngày nay con số ấy chỉ còn khoảng 800 người. Cả Lạt ma và tu sinh theo học ở tu viện Sera được đài thọ kinh phí dạy và học (giống như tiền lương cho giảng viên và học bổng cho sinh viên) cho nên không phải muốn vào học là được, phải trải qua một quá trình “xét tuyển” hạn chế và khắt khe. Không phải tất cả tu sinh đều trở thành Lạt ma, những ai không hội đủ điều kiện trong quá trình theo học tại tu viện đều có thể hồi gia hoặc ra khỏi trường, nhập thế để trở thành một con người khác. Sau khi tốt nghiệp và hành đạo, Lạt ma sẽ chọn thời điểm để di hành lên chốn thâm sơn cùng cốc, chọn cho mình một cái hang để khổ luyện trong 3 năm, 3 tháng, 3 tuần, 3 ngày. Tại sao không chọn số 2 hoặc số 4, mà phải là số 3 âu cũng là điều bí hiểm. Nếu tính đủ 1 năm 365 ngày và tháng đủ 30 ngày thì quá trình “hành xác khổ luyện” ấy diễn ra đúng 1.209 ngày. Trong quá trình ngồi thiền nơi hang núi, các Lạt ma rèn luyện và đạt được một số khả năng siêu phàm. Một trong những điều siêu phàm như vậy, theo nghiên cứu của một số nhà Tây Tạng học, là khả năng giao tiếp giữa vị Lạt ma này với vị Lạt ma nọ ngồi cách nhau vài quả núi, tựa như thần giao cách cảm. Với thời tiết khắc nghiệt như Tây Tạng, ăn uống kham khổ và điều kiện sinh hoạt ở mức tối thiểu, chừng ấy ngày ngồi thiền một mình ở chốn hoang vu giá lạnh để đắc đạo xuống núi đủ thấy cơ thể ấy, tinh thần ấy, lý trí ấy bền vững thế nào. Người phàm như tôi, không cần đến 3 tuần, chỉ sống 3 ngày như vậy thôi chắc còn lại cái xác không hồn, nói cách khác sẽ trở thành “linh hồn tượng đá”… Đoàn Xuân Hải
  2. Xác chết của nhà sư đang ngồi thiền 500 tuổi không phân hủy Trên đỉnh một trong những ngọn núi cao ngất trời của khu tự trị Tây Tạng, có một ngôi nhà cầu siêu nhỏ nằm đơn độc trên rìa núi lộng gió. Tại đây có một thi hài vô cùng đặc biệt ngồi thi gan cùng tuế nguyệt. Một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã cố gắng tìm ra những bí ẩn đằng sau các câu hỏi này. Chuyến đi của họ tới Tây Tạng đã khám ra được sức phi thường của việc ngồi thiền, các nghi lễ bí ẩn và ranh giới mỏng manh giữa khoa học và siêu nhiên. Giáo sư Victor Mair, nhà nhân chủng học và là một chuyên gia nổi tiếng về Phật giáo tại đại học Pennsylvania đã dẫn đầu nhóm nghiên cứu trong chuyến đi này. Ngôi nhà cầu siêu nhỏ nằm đơn độc trên rìa núi lộng gió. Các nhà khoa học xác định được đây là xác của một nhà sư Tây Tạng có tên Sangha Tenzin. Ông được đặt bên trong một ngôi mộ ở làng Ghuen tại thung lũng Spiti, thuộc bang Himachal Pradesh (Ấn Độ). Giáo sư Victor Mair cho hay xác ướp này ít nhất 500 tuổi: “Sangha Tenzin qua đời vào khoảng thời gian Colombus tìm ra châu Mỹ”. Nhà sư đã viên tịch trong khi đang ngồi thiền theo đúng tư thế mà người ta phát hiện ra ông hơn 500 năm sau. Người dân làng Ghuen đã biết về cái xác từ năm 1975. Năm đó, ngôi làng bị một trận động đất tàn phá và khiến cho một phần của ngôi mộ bị sụt suống. Ghuen nằm ở khu vực gần với biên giới Trung Quốc, đồng thời là một khu vực cấm dưới sự kiểm soát của cảnh sát biên giới Ấn - Tây Tạng. Do đó, hầu như không có người nào biết về cái xác này ngoại trừ dân làng Ghuen. Vào năm 1997, thi hài của nhà sư Tây Tạng được thế giới biết đến nhờ 2 lính tuần tra Ấn Độ được cử đi xem xét một đoạn đường bị sụt lún do động đất ở thung lũng Spiti. Nhà sư Sangha đã ngồi ở tư thế này hơn 500 năm qua. Dù đã hơn 500 tuổi nhưng xác của nhà sư Sangha ở trong tình trạng rất tốt, da không bị sứt mẻ và thậm chí vẫn còn tóc ở trên đầu. Không hề có bất cứ bằng chứng nào của các kỹ thuật ướp xác truyền thống. Giáo sư Mair nói rằng nguyên nhân một phần là do không khí cực kỳ khô và lạnh của khu vực và một phần có liên quan đến các trình tự ngồi thiền mà các nhà sư đạt đến trình độ luyện tập để xua trừ tà ma. “Vào những tháng cuối cùng của cuộc đời, nhà sư không hề ăn uống, chính điều đó đã làm giảm lượng mỡ trong cơ thể và khiến các bộ phận nội tạng của cơ thể co nhỏ lại mà đáng lẽ ra chúng phải bị phân hủy”. Cái xác không đổ sập và rệu rã nhờ có một chiếc dây đay quấn quanh cổ và vòng qua bắp đùi. Chiếc dây đay đóng một vai trò rất quan trọng. Qua nó, các nhà khoa học biết được đây là một phương pháp ngồi thiền bí truyền ít người biết. Chiếc dây làm cho nhà sư phải ngồi thẳng và tập trung vào việc ngồi thiền của mình. Nếu ông thả lỏng người, nút đay sẽ xiết chặt cổ, chặn đường vào của khí ô xi và khiến ông bị ngạt thở. Cho đến nay, trong các cuốn sách về đạo Phật ở Ấn độ có rất ít thông tin nói về về phương pháp ngồi thiền này. Chỉ có duy nhất một bản thảo trong thư viện của chùa Tabo đã từng nhắc đến nó. Từ những hiểu biết của mình về các nghi lễ và môn phái đạo Phật, giáo sư Mair cho biết phương pháp này rất hiếm: “Nó chỉ tồn tại trong một số môn phái ở Nhật và Tây Tạng, vô cùng bí truyền và xuất hiện trong phạm vi những vùng rừng núi hiểm trở. Phương pháp này pha trộn truyền thống Dzogchen của dòng Nyingma”. Thật tình cờ là ngôi làng Ghuen lại nằm cách chùa Tabo khoảng 50 km, đây là ngôi chùa Phật giáo nghìn năm tuổi cổ nhất còn sót lại trên dãy núi Xuyên Himalaya. Làng Ghuen cũng nằm giữa tuyến đường thông thương thường vận chuyển gia vị, len, muối, các loại đá quý và đường qua lại giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Theo lời kể của những người dân địa phương thì khoảng 600 năm trước, ngôi làng Ghuen bị bọ cạp quấy nhiễu. Nhà sư Sangha Tenzin lập tức ngồi phục xuống để thiền theo tư thế đã định trước. Người ta nói rằng khi linh hồn của ông rời thể xác, có một chiếc cầu vồng bất ngờ xuất hiện trên bầu trời, còn bọ cạp biến mất một cách bí ẩn khỏi ngôi làng. Đàm Loan-Theo Tibetanaltar
  3. Potala linh thiêng Người Tây Tạng, dù ở bất kỳ nơi đâu trên lãnh thổ Tây Tạng, cũng muốn ít nhất một lần trong đời đến Lhasa để viếng cung điện Potala Di sản thế giới Người Tạng hành hương đến Potala vì nơi đây thờ Phật, đồng thời là nơi ngự trị và an nghỉ của các Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) đã viên tịch. Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung, với tổng cộng 1.000 phòng. Công trình uy nghi này được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1994. Hành hương lên cung điện Potala - Ảnh: Đoàn Xuân Hải Chúng tôi đến viếng Potala vào một buổi sáng trời đẹp, nắng dịu dàng điểm xuyết bởi những hạt bông tuyết rơi nhẹ nhàng. Lhasa là một thung lũng được núi bao quanh. Giữa thung lũng có một ngọn đồi và người Tây Tạng đã xây dựng Potala trên ngọn đồi ấy, ở độ cao 3.600m so với mực nước biển, là cung điện cao nhất thế giới hiện nay. Muốn lên đến tầng trên cùng của cung điện - nơi linh thiêng nhất, bạn phải trải qua hơn 300 bậc thang. Ước tính có hàng ngàn người đến viếng Potala mỗi ngày, đa số là người Tạng cùng một thiểu số du khách thập phương. Trong dòng người ấy, bạn dễ dàng nhận biết đâu là người Tạng, đâu là du khách do trang phục và nét mặt. Phần lớn người Tạng hành hương đến Lhasa đều cầm trên tay tràng hạt hoặc “Kinh luân cầu nguyện” (Prayer Wheel - một vật dụng tâm linh đặc trưng của người Tây Tạng), vừa đi vừa xoay (theo chiều kim đồng hồ) và thầm đọc kinh bằng tiếng Phạn. Chúng tôi hăm hở hòa theo dòng người hành hương chậm rãi bước bộ lên Potala. Sở dĩ phải bước chậm rãi vì ở vùng không khí loãng như Tây Tạng, leo hàng trăm bậc thang rất dễ bị hụt hơi. Quan sát thấy cứ lên hết một tầng, nhiều người phải dừng lại để… thở, kể cả du khách phương Tây, đoàn nhà báo chúng tôi cũng không phải ngoại lệ. Chỉ có người Tạng hình như không biết mệt khi di chuyển trên những bậc thang ấy. Cuộc sống gắn liền với núi đồi đã giúp cho họ có đôi chân dẻo dai nên đi lên Potala chỉ là “chuyện nhỏ”, chuyện lớn chính là đức tin. Nơi an nghỉ của các Đạt Lai Lạt Ma Lên cung điện Potala, người Tạng nào cũng tâm niệm phải đặt chân đến các tầng trên cùng vì nơi đó thờ Phật, nơi đặt kim tháp (mộ táng của các Đạt Lai Lạt Ma) và cũng là nơi ngự trị quyền lực chính trị và tôn giáo cao nhất của Tây Tạng trong quá khứ. Lúc ghé thăm phòng tiếp khách của Đạt Lai Lạt Ma, khoảng sân phía trước ghế ngồi của ngài có rất nhiều tấm vải lụa trắng của người hành hương gửi lại. Khi vừa đặt chân đến Lhasa, tôi cũng được anh chàng hướng dẫn viên du lịch người Tạng tặng cho một chiếc khăn như vậy, ý nghĩa của nó là để chúc phúc. Người Tạng hành hương đến Lhasa cầm trên tay “Kinh luân cầu nguyện” - Ảnh: Đoàn Xuân Hải Sự uy nghi và linh thiêng của cung điện Potala khiến người hành hương phải cúi đầu bái lạy, những vị khách lạ cũng không dám làm điều càn quấy. Potala sở hữu vô số hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa lẫn kinh tế, trong đó phải kể đến mộ táng của Đạt Lai Lạt Ma đời trước được làm bằng vàng. Khi đế quốc Anh xâm chiếm Ai Cập, họ đã rinh về mẫu quốc khá nhiều hiện vật thời cổ đại. Trong bảo tàng Anh quốc ở London hiện nay có hẳn một khu vực riêng để trưng bày về nền văn minh Ai Cập, trong đó có cả một ngôi mộ bằng đá hoa cương khá to của Pharaon. Vậy mà lúc xâm chiếm Tây Tạng qua ngả Ấn Độ, người Anh đã không đụng đến mộ táng bằng vàng của Đạt Lai Lạt Ma. Trải qua bao cuộc thiên tai địch họa, kể cả trong cơn bão táp “Cách mạng Văn hóa” (1966-1969) dưới thời Mao Trạch Đông, cung điện Potala vẫn bảo tồn gần như nguyên vẹn những gì hiện hữu bên trong lẫn cấu trúc bên ngoài. Các công trình kiến trúc đặt trên nền đá như Potala có độ bền vững khá cao. Khu Mahattan ở thành phố New York của Mỹ cũng được xây trên một vỉa đá cứng như vậy. Người ta đã xây dựng một khu hành chính khác để các quan chức và nhân viên làm công việc điều hành Lhasa, Potala vì thế đã không còn là trung tâm quyền lực về chính trị của Tây Tạng nữa. Cung điện ấy giờ đây biến thành viện bảo tàng. Thế nhưng đối với người Tây Tạng, hình như cung điện Potala (hay bảo tàng Potala) vẫn hiện hữu với tất cả sự linh thiêng, sùng bái trong tâm tưởng của họ. Bất kể thời tiết ra sao, những đoàn lữ khách hành hương từ khắp mọi miền vẫn đổ về Potala mỗi ngày, họ đến để minh chứng lòng thành với Phật và có lẽ với một ai đó vì nguyên nhân này khác đã không còn hiện hữu nơi đây. Đoàn Xuân Hải
  4. Trường huyện và khí mạch Thành Hồ Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có lưu bút tại động Hồ Công, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa bốn chữ Thanh Kỳ Khả Ái (Xứ Thanh kỳ lạ đáng yêu). Lại hào phóng có riêng cho Vĩnh Lộc câu Đất Phúc xưa nay nhiều thắng tích cần chi tô điểm Võng Xuyên đồ (Võng Xuyên là đất Ba Thục có nhiều danh lam thắng cảnh. Đất Phúc là huyện Vĩnh Phúc thời Tây Sơn kị húy đổi thành Vĩnh Lộc bây giờ). Thắng tích Vĩnh Lộc không thể không kể đến Thành Hồ (chữ của nhà văn Nguyễn Tuân). Thành Nhà Hồ vừa được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Di sản văn hóa thế giới tôn vinh những giá trị độc đáo lạ lùng của quần thể kiến trúc Thành Hồ. Độc đáo từ tác giả, ông vua Hồ Quý Ly chỉ với 7 năm trong nhiệm kỳ mà hậu thế bây giờ vẫn chưa xong cái việc giải mã. Ba tháng xây xong thành. Cung cách, phương pháp cùng chất liệu xây thành? Đàn tế trời ở núi Đún (Đốn Sơn) vừa được phát lộ với cung cách xây cất bày biện tinh vi khiến giới sử học kinh sợ cũng chỉ được xây trong thời gian rất ngắn? Cốt lõi sự thật sau những huyền thoại nhuốm sắc màu bi kịch giữa danh tướng Trần Khát Chân và ông vua Hồ Quý Ly cùng cuộc thảm sát trên núi Đún? Rồi những cải cách đổi mới của ông vua Hồ Quý Ly thời ấy mà bây giờ hậu thế vẫn ngơ ngác lẫn bấn bíu lý giải? v.v... Đã đành là cần lắm những tiếp nối sự lý giải này khác của hậu thế, nhưng tôi mạo muội nghĩ thêm, những việc cần lý giải ấy như một thứ thông điệp, một dạng khí mạch vô hình lẫn huyền diệu dường như đã vận từ khi nào không rõ vào các thế hệ thầy trò trường huyện Vĩnh Lộc? Trường huyện Vĩnh Lộc nằm trên trục thần đạo chiếu thẳng vào Cửa Nam Thành Hồ gần 2km. Trường cũng ở khoảng giữa Thành Hồ với núi Đún (Đốn Sơn), nơi đặt địa điểm Đàn tế trời của Hồ Quý Ly. Xứ mình có ngàn ngàn những trường THPT quen gọi là trường huyện. Nhưng vẫn có cách nghĩ khang khác với trường cấp 3 hay trường THPT huyện Vĩnh Lộc này... Năm ấy tôi may mắn được về dự hội trường. Nhiều ánh mắt dồn tụ đến một học sinh cũ của trường, ông Phạm Quang Nghị. Một trưa đầu năm 1967, từ Trường cấp 3 Vĩnh Lộc, cậu học sinh Phạm Quang Nghị sau giờ tan học hối hả guồng những nhịp chân về nhà. Quê ở Định Tân, Yên Định, nhưng cậu đã theo học cấp 3 Vĩnh Lộc. Với lại đi tắt từ trường huyện Vĩnh Lộc về nhà cũng gần, chỉ phải qua con đò Hoành. Tới bến cũng đã ngả chiều, con đò chở đầy khách đã qua sông. Anh Nghị thầm tiếc phải chi mình nhảo chân thêm tí đã kịp. Bất đồ ngay khi ấy, những tiếng rít xé tai của tốp máy bay phản lực Mỹ xé toang không khí tĩnh mịch của một vùng quê ngày áp Tết. Những tưởng chúng chỉ ào qua để nhắm vào mục tiêu cố hữu mấy năm nay là cầu Đò Lèn. Nhưng bầy máy bay năm chiếc đã vòng lại Đò Hoành. Những cú bổ nhào chết chóc khi xiên xẹo khi thẳng đứng. Bom phá, bom bi, rốc két cứ vùn vụt chém xuống con đò khi ấy đương sắp cập bến Hoành của Định Tân. Và cả những vệt tre pheo làng mạc của mấy xóm ven đê ngập chìm trong lửa. Trận thảm sát dã man ấy khiến làng Hoành, Định Tân 44 năm nay cứ cữ áp Tết lại giỗ tập thể cho 42 người. 69 người bị thương đến giờ nhiều người còn đeo tật. Anh học trò trường huyện Vĩnh Lộc Phạm Quang Nghị thoát chết nhưng hai người em ruột của anh đã chết trong trận bom ấy. ... Máu ở chiến trường nhưng bom đạn Mỹ cũng ùng oàng thứ ném thứ giội hữu hình lẫn vô hình về hậu phương Vĩnh Lộc. Rưng rưng giây phút tưởng nhớ những thế hệ học trò trường huyện bỏ mình vì nước, nhiều cặp mắt đã nhòa lệ trước một cái thúng cũ mèm... Cái thúng, nếu đựng thóc phải ngót một tạ. Nhưng trong thúng không có thóc mà lèo tèo cuốn vở cuốn sách đã ố vàng. Hoàng Văn Dương (niên học 1967-1970) ở Tân Phúc, Vĩnh Phúc. Anh học lớp 10A. Đó là một thanh niên cao lớn, trắng trẻo, thông minh, học giỏi nhất lớp. Ngày anh nhập ngũ, bạn trong lớp đến chia tay, bố anh bê một chiếc thúng to để trước mặt mọi người. Trong lòng thúng một chồng sách. Bố Dương cố gượng cười: “Để lúc em nó về có sách mà học tiếp”. Nhưng Hoàng Văn Dương đã hi sinh ở chiến trường B sau đó 1 năm. Một trăm linh bảy liệt sĩ, các thế hệ học trò Trường cấp 3 Vĩnh Lộc đã thay nhau ngã xuống ở các chiến trường. Tôi không rõ cái thúng ấy gia đình anh Dương liệu giờ có còn? Bảo tàng nhà trường (nếu có) phải giữ bằng được cái thúng ấy! ... Để ý thấy Ủy viên Bộ chính trị Phạm Quang Nghị khi ngồi với các thầy cô và lứa bạn đồng môn cùng với trật môn sinh sau này của trường chả thấy khi nào ông chia sẻ những thông tin nhiều năm nay ông chững chạc ở cương vị một Tổng đốc Hà Thành. Lúc mới tới, ông sà ngay đến bên đám môn sinh người khóa trước khóa sau của trường huyện. Trong số đó, tôi nhận ra GS. TS Trần Quốc Dũng (Xây dựng), PGS. TS Phạm Văn Hảo (Ngôn ngữ học), PGS. TS Lê Văn Hiếu (Ngành Hóa dầu), PGS. TS Trịnh Thị Ngọc (Y tế), PGS. TS Nguyễn Văn Toại (Y tế), TS. Phạm Quang Nghị (Triết học), PGS.TS Nguyễn Hữu Sức (Ngành Hóa), TS. Nguyễn Tiến Dũng, Phó TGĐ Tập đoàn Dầu khí quốc gia. TS Nguyễn Trọng Tín (Dầu khí), TS. Lê Đình Ái (Địa chất), TS Vũ Đình Phú (Nông nghiệp), TS. Phạm Thanh Bình (Lâm nghiệp), PGS. TS Nguyễn Văn Viết (Công nghiệp), NSƯT Hương Thơm (Tuồng), NSƯT Quốc Anh (Chèo) v.v... Các thầy cô trường huyện Vĩnh Lộc Chất giọng rủ rỉ của ông đương bộc bạch với TS Nguyễn Đình Thắng (thời điểm ấy Thắng đương là Phó Chủ tịch Hội Phần mềm Việt Nam) và mấy doanh nhân rằng, trong phạm vi của mình cố gắng tạo mọi điều kiện hỗ trợ để học trò Vĩnh Lộc nói chung và trường huyện nói riêng đang gặp nhiều thiếu thốn có điều kiện để tiếp cận, để làm quen với các loại hình tin học hiện đại. Cũng cần nói qua về ông “phó mềm” nước Việt này một chút. Thắng là cháu đích tôn của cụ Nguyễn Đan Quế, nghị sĩ dân biểu Trung Kỳ nổi tiếng liêm chính, tiết tháo. Thời điểm cụ làm báo Tiếng Dân cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, Viện trưởng dân biểu Trung Kỳ, cụ Quế kéo được cụ Huỳnh và cụ Phan Bội Châu (khi đó cụ Phan đương làm cố vấn cho báo Tiếng Dân, tên tờ báo cũng do cụ Phan nghĩ ra) về làng Sóc Sơn của cụ Quế chơi. Tiếng là chơi nhưng làng Sóc Sơn, Biện Thượng quê của chúa Trịnh Kiểm (năm 1946 đổi thành xã Vĩnh Hùng) đã trở thành một địa điểm hội họp bí mật của những người đồng chí hướng. Mật thám Pháp lẽo đẽo mò về tận Sóc Sơn nhưng không làm gì được các cụ! Sau này cụ Quế được cử làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt tỉnh Thanh Hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1947 cho ông Trần Đăng Ninh đón cụ Quế ra Việt Bắc. Nhưng thời điểm ấy cụ Quế không may bị bạo bệnh và mất ở làng Sóc Sơn. Một trong những người con của Cụ Nguyễn Đan Quế là ông giáo Biển. Thầy Biển dạy lũ chúng tôi thuở trường làng. Thầy Biển là thân phụ của TS Nguyễn Đình Thắng. Thắng có chị gái là Nguyễn Thị Lan cùng lứa với tôi ở trường huyện Vĩnh Lộc. Lan học giỏi lắm. Được chọn đi học ở Liên Xô và sau này là TS về môi trường. Có chuyện vui. Tháp tùng chuyến thăm hữu nghị chính thức CH Ấn Độ cuối năm 2006 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trên chuyên cơ có 3 người cùng làng. NSND Lê Tiến Thọ, Thứ trưởng Bộ VHTT. Người thứ hai là Nguyễn Đình Thắng, Phó CT Hội Phần mềm Việt Nam. (Người thứ 3 là tác giả bài báo này đều ở Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc). Tôi không rõ có phải vì những lời rủ rỉ bộc trực ngày ấy của ông Bí thư Thành ủy không mà Nguyễn Đình Thắng đã làm được nhiều việc thiện? Lên hai chức ( Phó chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn cầu AVG kiêm Phó TGĐ Ngân hàng Liên Việt), Thắng cũng làm được hai thứ cho quê nhà Vĩnh Lộc còn đang nghèo khó. Một là thành lập Quỹ Khuyến học mang tên Nguyễn Đan Quế trợ cấp học bổng cho hàng trăm học sinh nghèo vượt khó. Hai là xây trường THCS trị giá 8 tỷ đồng cho xã nghèo Vĩnh Hùng. Nhà văn Nguyễn Khải, một năm đã xa trong một đận đáo Thành Hồ ngồi bấm bấm đốt ngón tay cười, một cái huyện trung du nghèo như Vĩnh Lộc lại là xứ cố đô đế đô lý ra phải nảy nòi ra những nhà cải cách này khác hoặc bét ra cũng là những nhà kinh tế tài danh hằng tâm hằng sản nhưng lại trồi lên những anh chữ nghĩa thế này. Ông hướng cái cười ấy về phía cánh nhà văn nhà báo đi theo là học sinh cũ của trường huyện Vĩnh Lộc - Nguyễn Bảo này, Phạm Hoa này... (sau này có thêm Hoàng Đức Nhuận rồi Lê Quang Sinh và mấy anh nữa). Tôi biết nhà văn Phạm Hoa (tác giả Đùa của tạo hóa nổi danh) nhà ông bên cạnh Thành Hồ đang ấp ủ lẫn triển khai một cách khổ sở cái thi tứ cho một cuốn văn xuôi. Đại để ông đang tìm cái khí mạch cùng sự liên hệ từ vị trí khai quật Đàn tế trời của Hồ Quý Ly cạnh Thành Hồ cùng những hiện vật long ly quy phượng được bốc lên từ hố thám sát do các nhà khoa học của Trường Chiêu Hòa Nhật Bản thực hiện trong nền cũ Thành Hồ đến cái thúng đựng sách của liệt sĩ Dương thời chống Mỹ và gì nữa, cái va ly đựng USD cùng ngân phiếu quốc tế của một doanh nhân người Vĩnh Lộc thành đạt về thăm trường huyện cũ... Xin chúc cho nhà văn làm liền cái khí mạch thăm thẳm ấy, trong đó có việc âm phò dương trợ của cụ Phạm Đốc, hiện mộ vẫn để bên Thành Hồ. (Nhà văn Phạm Hoa là cháu viễn tổ cụ Phạm Đốc, vị đại tướng lừng danh từng tả phù hữu bật cho nghiệp nhà Lê thế kỷ XVI). Cũng xin nhà văn Nguyễn Khải yên lòng. Âm thanh những bước hài nhịp guốc của những Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên... từng lê gót ở Thành Hồ trong kỳ thi đầu tiên Thái học sinh của triều Hồ năm 1401 ấy ít nhiều đã quện hòa với nhịp bước của 17.447 học sinh cấp 3 Vĩnh Lộc các thế hệ từ thuở thành lập trường năm 1961. Khí mạch ấy, sự mách bảo thôi thúc huyền diệu ấy thế nào mà chả nảy nòi, chả phát lộ những danh đấng này khác? Và còn bao thế hệ sau này của trường huyện sẽ làm cái việc dưỡng nhân loại chi công kế tổ tông chi nghiệp nữa chứ? Với lại nửa thế kỷ của trường huyện Vĩnh Lộc vừa qua cũng chỉ là thứ chớp my nhẹ của lịch sử! Chót thu năm Mão Xuân Ba congannhandan.online
  5. Phật Độ Ông Gánh Phân Khi Phật còn tại thế, ở thành Vương Xá có ông Ni Đề thuộc giai cấp hà tiện chuyên làm nghề gánh phân. Mỗi buổi sáng, ông gánh phân trong các nhà trong phố rồi đem ra ngoại ô mà đổ. Thân ông ốm gầy, quần áo rách nát. Phật biết thời kỳ ông Ni Đề được độ. Hôm ấy, đức Phật cùng ngài A Nan đi du hành về phía ông Ni Đề. Ni Đề thấy Phật liền cố tránh né. Phật đi chận đầu và giáp mặt ông. Ông hổ thẹn, quay mặt vào tường và bạch Phật, “Bạch đức Thế Tôn, thân con nhơ uế, xin đức Thế Tôn đừng lại gần, mất sự thanh tịnh.” Đức Phật đến gần bên nói, “Này con, Ni Đề, con có muốn xuất gia học đạo không?” Ni Đề thưa, “Con muốn lắm, nhưng thân con ô uế, nếu xuất gia tu, sẽ làm mất thanh tịnh cho giáo đoàn.” Phật dạy, “Giáo pháp của ta như nước, có thể rửa tất cả vật sạch, vật dơ, không có phân biệt. Giáo pháp của ta như lửa, có thể đốt tất cả vật thơm, vật hôi, không phân biệt. Con muốn xuất gia, ta sẽ độ cho.” Rồi Phật sai A Nan dắt ông ra sông tắm sạch. Phật gọi “Thiện lai tỳ kheo,” râu tóc ông liền rụng, áo pháp mặc tại mình, đủ tướng tỳ kheo. Nghe Phật thuyết pháp, ông tinh tấn tu hành, chứng quả A La Hán. Việc Phật độ tỳ kheo Ni Đề thuộc giai cấp hạ tiện, các nhà giàu có bàn tán với nhau rằng tại sao Phật độ ông Ni Đề làm trở ngại sự cúng dường, lễ bái của họ. Nếu khi họ trai tăng mà có tỳ kheo Ni Đề đến, họ sẽ mời ra. Nếu Ni Đề ngồi chỗ nào, họ sẽ lau quét chỗ đó. Vua Ba Tư Nặc hay tin ấy, đến hỏi Phật. Khi vua đến trước cổng tịnh xá, thấy một vị tỳ kheo tướng hảo quang minh, oai nghi đĩnh đạc, đang ngồi vá y trên tảng đá, có đông chư thiên đứng hầu hai bên. Vua thưa với thầy tỳ kheo, “Nhờ thầy vào bạch Phật, có vua Ba Tư Nặc đến ra mắt đức Thế Tôn.” Thầy tỳ kheo đi xuyên qua tảng đá, vào bạch Phật rồi trở ra lại đi qua tảng đá như đi qua khoảng không. Vua Ba Tư Nặc vào đảnh lễ Phật và bạch Phật, “Vị tỳ kheo ngồi trên tảng đá vá y là ai mà có thần thông tự tại, có đông chư thiên theo hầu?” Đức Phật mỉm cười nói, “Chính là người mà bệ hạ muốn đến hỏi ta, đó là tỳ kheo Ni Đề, đã chứng quả A La Hán.” Phật dạy, “Ví như trong hồ có hoa sen tươi đẹp thơm ngát, bệ hạ có vì bùn nhơ mà bỏ hoa sen tươi đẹp đó không?” Vua Ba Tư Nặc thưa, “Con sẽ nhận lấy hoa sen và xem bùn nhơ như chất liệu để sanh hoa Sen thơm ngát.” Vua sám hối quan niệm phân chia giai cấp và xin tứ sự cúng dường tỳ kheo Ni Đề. Đây là câu chuyện nói lên đạo Phật là đạo bình đẳng không phân biệt giai cấp. Phật thường dạy: Không có giai cấp khi mọi người có nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ.
  6. "Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về". Một hôm, một sinh viên trẻ có dịp đi dạo với giáo sư của mình. Vị giáo sư này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên "người bạn của sinh viên" vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với học sinh. Trên đường đi, hai người bắt gặp một đôi giày cũ nằm giữa đường. Họ cho rằng đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở một cánh đồng gần bên, có lẽ ông ta đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình. Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư: "Chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu giày của ông ta rồi thầy và em cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi không tìm thấy đôi giày." Vị giáo sư ngăn lại: "Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra để trêu chọc mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãv đặt một đồng tiền vào mỗi chiếc giày của ông ta và chờ xem phản ứng ông ta ra sao." Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó. Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến nơi đặt giày và áo khoác của mình. Người nông dân vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày thì cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong, ông ta cúi xuống xem đó là vật gì và tìm thấy một đồng tiền. Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày còn lại. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một mòn quà đúng lúc cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn. Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo sư lên tiếng: "Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem ông ta ra làm trò đùa không?" Người thanh niên trả lời: "Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà trước đây em không hiểu: "Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về".
  7. Đã nhận của Chipchip 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ Suất ăn từ thiện. Quỹ hiện có : 1,500,000 đ + 500,000 đ = 2,000,000 đ (hai triệu đồng)
  8. Mang lại ý nghĩa cho sự sống và cái chết Lời giới thiệu: Bài viết được trích từ một quyển sách của Đức Đạt-Lai Lạt Ma mang tựa đề "Tâm Thức Giác Ngộ, Những lời khuyên Trí tuệ cho con người ngày nay" (L'Esprit en Eveil, Conseils de Sagesse aux hommes d'aujourd'hui, nxb Presses du Chatelet, 2009. Phiên bản tiếng Anh: In My Own Words, nxb Hay House, 2008). Phần chuyển ngữ gồm toàn bộ một chương ngắn (chương 9, tr. 131-140) nêu lên những suy tư về sự sống và cái chết và những lởi khuyên của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giúp chúng ta phải sống và ra đi như thế nào. Tất cả chúng ta đều ít nhiều ray rứt về vấn đề : làm thế nào để tìm thấy sự thanh thản trong lúc sống cũng như khi cái chết xảy đến? Chết là một hình thức của khổ đau, một thứ kinh nghiệm mà tất cả chúng ta đều tìm cách tránh né, thế nhưng sớm hay muộn thì cái chết cũng sẽ đến với mỗi người trong chúng ta. Dầu sao thì đối diện với sự kiện đáng tiếc đó chúng ta vẫn có thể chọn cho mình một cách đối xử hầu giúp chúng ta đương đầu với sự sợ hãi. Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thản và điềm tĩnh trong giây phút lâm chung. Nếu biết cố gắng tạo cho cuộc sống của mình một ý nghĩa nào đó, thì đến giây phút hấp hối ta sẽ cảm thấy ít hối tiếc hơn. Xúc cảm phát sinh trong lúc hấp hối tùy thuộc vào cách sống của chính mình khi còn khoẻ mạnh. Sự tu tập hướng vào những khoảng thời gian vô tận xuyên qua vô lượng kiếp sẽ mở ra cho chúng ta những tầm nhìn xa hơn… Khi chúng ta chấp nhận sự hiện hữu của mình gồm có nhiều kiếp sống nối tiếp nhau, thì cái chết đối với chúng ta cũng chẳng khác gì như thay quần áo thế thôi. Khi quần áo cũ hư nát thì lại thay quần áo mới. Cách suy nghĩ ấy sẽ tác động và ảnh hưởng đến phản ứng của ta khi phải đối đầu với cái chết, nó giúp ta nhận thấy cái chết chỉ là một thành phần bất khả phân của sự sống. Các cấp bậc thô thiển nhất của tâm thức lệ thuộc vào não bộ, chúng tiếp tục vận hành cho đến khi nào não bộ vẫn còn duy trì được sự hoạt động. Khi não bộ ngưng hoạt động thì phần tâm thức thuộc các cấp bậc thô thiển trên đây cũng sẽ bị hủy diệt theo. Não bộ tạo ra các điều kiện cần thiết giúp tâm thức phát lộ những cảm nhận thô thiển. Đối với tâm thức thì các nguyên nhân chính yếu tạo ra nó phát sinh từ dòng tiếp nối liên tục của tâm thức tinh tế, và dòng tiếp nối đó không có khởi thủy. Người thân chung quanh nên nhắc nhở người hấp hối cố gắng phát lộ một thể dạng tâm thức tích cực và duy trì thể dạng đó cho đến khi nào các cấp bậc tri thức thô thiển tan biến hết (tri thức thô thiển gồm các giác cảm, tư duy kể cả sự nhận thức thông thường). Khi đã bắt đầu chuyển sang thể dạng tri thức tinh tế, thì khi ấy người hấp hối chỉ còn biết trông cậy vào tác động phát sinh từ các xu hướng tồn lưu từ trước (tức là nghiệp do mình tạo ra). Khi đã bước vào giai đoạn này thì thật vô cùng khó khăn cho người chung quanh nhắc nhở người hấp hối về các thể dạng đạo hạnh cần phải giữ. Vì thế thật hết sức quan trọng cần phải tập luyện thế nào để tạo ra tri thức trong sáng của cái chết (còn gọi là ánh sáng trong suốt của cái chết) ngay từ lúc còn trẻ để quen dần với nó, hầu sau này giúp ta đương đầu với sự tan biến của tâm thức. Điều đó có thể thực hiện được nhờ vào cách lập đi lập lại các thể dạng của quá trình cái chết nhờ vào phép quán tưởng (tức phép thiền định về quá trình diễn tiến của cái chết). Tóm lại thay vì chỉ biết sợ hãi thì ta nên hăng say suy tư về chuyện ấy. Sau nhiều năm luyện tập kiên trì nhất định ta sẽ cảm thấy mình có đầy đủ khả năng để đối đầu một cách hiệu quả với sự thách đố của cái chết (có nghĩa là khi đã nắm vững được quá trình của cái chết thì ta không còn sợ hãi gì nữa khi cái chết xảy đến thật sự, và hơn thế nữa ta còn có thể hướng quá trình ấy vào sự tu tập để tự giải thoát và không còn phải tái sinh). Vượt lên trên sự sợ hãi Khi đã nắm vững được các thể dạng thâm sâu và tinh tế của tâm thức nhờ vào thiền định (nhận biết và theo dõi được các thể dạng tâm thức thuộc quá trình của cái chết), thì nhất định ta sẽ chủ động được một cách hữu hiệu cái chết của chính mình. Tất nhiên điều ấy chỉ có thể thực hiện được sau khi đã đạt được một cấp bậc tu tập nào đó. Trong tan-tra thừa có nhiều phép tu tập rất cao, chẳng hạn như các phép hoán chuyển tri thức (còn gọi là chuyển di thần thức), tuy nhiên tôi vẫn tin rằng phép luyện tập hữu hiệu nhất trong lúc hấp hối là cách phát huy một tâm thức tỉnh giác. Đấy là phép luyện tập mạnh hơn hết so với tất cả các phép luyện tập khác. Dù rằng cách tu tập hằng ngày của tôi là thiền định từ sáu đến bảy lần về quá trình của cái chết và kèm theo cả các phép luyện tập tan-tra khác, thế nhưng tôi vẫn tin rằng đến khi hấp hối thì thể dạng tâm thức tỉnh giác là thể dạng dễ nhớ hơn hết cho tôi. Đấy cũng là phép tập luyện tâm linh mà tôi quan tâm nhất. Cũng xin ghi nhận là thiền định về cái chết cũng là một cách chuẩn bị cho mình trước khi cái chết thật sự xảy đến, sự chuẩn bị đó sẽ giúp cho ta bớt sợ hãi hơn. Dù chưa thật sự chuẩn bị sẳn sàng để đối đầu với cái chết cụ thể của tôi, thế nhưng đôi khi tôi vẫn tự hỏi rồi đây tôi phải đối đầu với nó như thế nào khi thật sự nó xảy đến. Thật vậy nếu cuộc sống của tôi còn kéo dài thêm thì nhất định tôi sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy là tôi sẽ còn thực hiện được nhiều việc. Thế nhưng ý chí muốn được tiếp tục sống đó của tôi cũng phải tương đương với sự hăng say tập luyện để đối đầu với cái chết. Suy tư thường xuyên về cái chết là một yếu tố không thể thiếu sót trong việc tu tập Phật giáo. Sự suy tư đó mang nhiều sắc thái khác nhau. Trước hết là phải thường xuyên thiền định về cái chết, đấy là cách giúp ta không quá bám víu vào sự sống và những quyến rũ của nó. Phương pháp tu tập thứ hai là nhẩm đi nhẩm lại quá trình của cái chết để quen dần với nó hầu giúp ta nhớ lại dễ dàng hơn các giai đoạn mà tâm thức sẽ phải gặp trong lúc hấp hối. Sau khi các cấp bậc thô thiển nhất tan biến, thì tâm thức tinh tế sẽ hiển lộ một cách rõ rệt hơn. Thật hết sức quan trọng phải thiền định về quá trình của cái chết hầu giúp ta quán nhận được thể dạng tâm thức tinh tế một cách minh bạch. Cái chết là một bằng chứng cho thấy thân xác chỉ hàm chứa một tiềm năng giới hạn. Khi nó không còn đủ sức để duy trì sự sống nữa thì ta sẽ chết, và sau đó ta mang một thân xác mới. Cá thể hay cái tôi căn bản, biểu trưng cho một sự kết hợp giữa thân xác và tâm thức sẽ tiếp tục tồn tại sau khi chết (xin chú ý đây là một cách giảng dễ hiểu bằng cách nêu lên "cá thể" hay "cái tôi" trong lãnh vực quy ước, biểu trưng cho cấu hợp thân-xác-tâm-thức, bởi vì khái niệm về "vô ngã tuyệt đối" khá khó để nắm bắt cho tất cả mọi người), và mặc dù phần thân xác mang tính cách cá thể có tan biến hết thì thân xác tinh tế vẫn tồn tại. Nhìn trên khía cạnh đó thì một cá thể không có khởi thủy cũng không có chấm dứt, nó hiện hữu cho đến khi nào đạt được Phật tính. Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng cứ vẫn sợ chết. Ngoại trừ trường hợp khi còn sống ta từng thực hiện được nhiều điều tích cực bảo đảm cho tương lai tốt đẹp của mình trong kiếp sống sau, tức có nghĩa là sẽ không tái sinh trong một thể dạng hiện hữu bất thuận lợi. Trong cuộc sống này dù cho ta chỉ là một người tị nạn bị cắt đứt mọi liên hệ với quê hương mình thì ta vẫn có thể tiếp tục sống còn trong lòng tập thể nhân loại, và vẫn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ cũng như sự tương trợ giữa con người với nhau. Thế nhưng khi chết, ta sẽ rơi vào một cảnh huống hoàn toàn khác lạ. Các kinh nghiệm thường nhật thu đạt được trong cuộc sống hiện tại sẽ không còn giúp ích được gì nữa cho ta khi hấp hối. Nếu ta không chuẩn bị cẩn thận thì tất nhiên mọi sự xảy ra sẽ không được suôn sẻ. Luyện tập tâm thức là cách chuẩn bị cho cái chết. Trên một cấp bậc nào đó sự luyện tập ấy là cách phát huy lòng từ bi chân thật và nhiệt thành, hầu thực hiện những hành động tích cực hướng vào sự giúp đỡ các chúng sinh khác (tích lũy đạo hạnh và những điều xứng đáng). Ở một cấp bậc khác, thì đấy là cách luyện tập để chủ động tâm thức của mình (phát huy trí tuệ), và đấy cũng là cách chuẩn bị sâu xa hơn cho tương lai. Sự tập luyện kiên trì sẽ giúp ta chủ động được tâm thức của mình và đấy cũng là mục đích quan trọng nhất của thiền định. Những ai hoàn toàn không tin vào bất cứ thứ gì sau khi chết thì cũng nên xem cái chết là một thành phần đơn giản của sự sống. Sớm hay muộn thì ta cũng phải đối đầu với nó, cách suy nghĩ đó ít ra cũng có thể giúp ta xem cái chết như một sự kiện tự nhiên. Dù cho ta cố tình tránh né và nhất định không nghĩ đến nó đi nữa, thì nào ta có tránh được nó đâu. Để giải quyết vấn đề nan giải ấy, ta có hai giải pháp. Thứ nhất là không nghĩ đến cái chết, tống cổ nó ra khỏi tâm trí - ít ra thì giải pháp này cũng giúp cho tâm trí nhẹ nhõm được đôi chút. Thế nhưng giải pháp ấy lại quá ư phiêu lưu, lý do là vấn đề vẫn còn nguyên và sớm muộn gì thì ta cũng sẽ chạm trán với cái chết. Giải pháp thứ hai là nhìn thẳng vào vấn đề và suy tư thật mãnh liệt đến cái chết. Tôi quen biết một số quân nhân và họ nói với tôi rằng trước khi lâm trận thì họ cảm thấy có nhiều can đảm hơn. Nếu thường xuyên nghĩ đến cái chết thì tâm thức ta cũng quen dần với nó và bớt sợ nó hơn, đến khi cái chết thực sự xảy đến ta sẽ ít cảm thấy bất ngờ và chao đảo hơn. Theo tôi thì sự kiện nghĩ đến cái chết và luôn nhắc nhở đến nó là một điều lợi ích. Chúng ta nên sống một cuộc sống có ý nghĩa. Kinh sách cho rằng sự hiện hữu của chúng ta cũng tương tự như những đám mây trên bầu trời mùa thu. Ta cứ nhìn vào các diễn viên đang trình diễn một vở bi kịch trên sân khấu thì sẽ rõ, sự xuất hiện và biến mất của họ cũng chẳng khác gì với sự sinh và cái chết của con người. Các diễn viên thay hết y phục này sang y phục khác. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, thế mà hình tướng của họ biến dạng không biết bao nhiêu lần. Sự hiện hữu của ta cũng thế mà thôi. Sự suy sụp của một con người cũng chẳng khác gì một tiếng sét nổ trên không trung hay một khối đá lăn xuống từ một bờ vực thẳm. Trên triền dốc nước bao giờ cũng đổ xuống, không chảy ngược lên được. Sự sống âm thầm rảo bước, thế nhưng hình như ta cứ vẫn vô tình không hay biết. Nếu ta tin rằng việc tu tập tâm linh sẽ mang lại một sự ích lợi nào đó thì biết đâu ta cũng có thể nghĩ đến các kiếp sống tương lai đang chờ đợi mình, thế nhưng thói thường thì không phải thế, từ trong thâm tâm ta chỉ lo đến việc thực hiện các mục tiêu trước mắt trong cuộc sống hiện tại này. Chính vì thế mà mọi sự hoang mang (vô minh) xâm chiếm lấy ta và buộc chặt ta vào chu kỳ hiện hữu. Thật thế ta đang phung phí kiếp sống này của ta. Ngay lúc vừa mới sinh ra đời ta đã bắt đầu tiến dần đến cái chết. Thế nhưng trong khoảng thời gian tốt đẹp nhất của cuộc sống thì ta chỉ lo tích trữ đủ mọi thứ thực phẩm, mua sắm quần áo, tìm thêm bạn bè. Đến khi cái chết xảy đến, nào đâu ta có đem theo được những thứ ấy. Ta dấn thân trong một cuộc hành trình đơn độc đưa ta sang một thế giới khác, không một người đồng hành bên cạnh. Chỉ có một điều duy nhất có thể mang lại lợi ích cho ta: ấy là những gì tích cực mang lại từ sự tu tập trước đây của ta, dù sự tu tập ấy được thực hiện theo phương cách nào đi nữa thì cũng đều lưu lại những vết hằn ăn sâu vào tâm thức của mình (tức là nghiệp lực). Nếu không muốn phung phí một cách vô ích cuộc sống này thì ta nên hướng nó vào việc tu tập, tức có nghĩa là phải biết suy tư về vô thường và các cảnh huống có thể xảy ra cho cái chết của ta, và ý thức được khi vừa mới sinh ra đời thì thân xác của ta đã phải gánh chịu cái bản chất vô thường của chính nó, và chắc chắn là nó sẽ không thể nào tránh khỏi sự tan rã. Sử dụng cái chết để tu tập tâm linh Việc tu tập không nhất thiết chỉ mang mục đích tìm kiếm một số lợi ích trong kiếp sống hiện tại mà đúng hơn là nhắm vào các kiếp sống tương lai sau cái chết. Trở ngại lớn nhất ngăn chận sự tu tập chính là cảm tính cho rằng mình còn sống lâu. Thái độ đó có thể hình dung qua hình ảnh một người quyết tâm xây dựng vĩnh viễn sự sống của mình tại một nơi nào đó. Người ấy lăn xả vào những sinh hoạt thường tình của thế tục, chẳng hạn như vơ vét của cải, xây cất nhà cao cửa rộng, gieo trồng gặt hái, v.v... Trái lại đối với một người biết quan tâm đến các kiếp sống sẽ xảy ra sau này, thì họ sẽ có thái độ của một người đang chuẩn bị đi xa. Một người du hành thận trọng sẽ chuẩn bị trước để đối phó với các khó khăn có thể xảy ra, và nhất định họ sẽ đến đích. Càng suy tư về cái chết lại càng giúp ta ít bị ám ảnh hơn bởi những gì thuộc vào sự sống này, dù đấy là danh vọng hay ngợi khen, của cải hay địa vị. Một người tu tập suy tư về cái chết trong mục đích mang lại những gì thiết thực cho sự hiện hữu của chính mình, đương nhiên sẽ phát huy được một nghị lực khả dĩ mang lại an bình và hân hoan cho những kiếp sống tương lai. Tri thức của cái chết (tức tri thức xảy ra trong khi quá trình của cái chết đang diễn tiến) có thể tạo ra được bằng hai phương pháp thiền định: tức là phép thiền định thông thường và phép thiền định bằng sự phân tích. Dù sao thì trước hết cũng phải chấp nhận bằng lý trí là cái chết không thể tránh khỏi được. Đấy không phải là một thứ luận thuyết tối nghĩa mà đúng hơn là một sự kiện hiển nhiên có thể quan sát được. Người ta ước tính vũ trụ đã được sinh ra cách nay năm tỉ năm, và loài người hiện hữu từ một trăm nghìn năm. Vậy qua cái khoảng thời gian đằng đẳng ấy, đã có người nào thoát chết hay chưa? Cái chết nhất định không thể tránh khỏi, dù có trốn xuống đáy đại dương hay bay bổng lên trời thì cũng không thoát được. Bất kể ta là ai, nhất định ta phải chết. Staline và Mao có phải là hai nhân vật uy quyền nhất trong thế kỷ XX hay không, thế nhưng cả hai cũng chết, và hình như cả hai đều rất khiếp sợ và vô cùng khổ sở khi cái chết gần kề. Lúc còn sống họ là những người cai trị độc tài, chung quanh họ đám hầu cận và bề tôi xun xoe và sẵn sàng tuân lệnh, họ chỉ cần dùng một ngón tay hay một cái liếc mắt là cũng đủ để sai khiến đám người ấy. Họ sử dụng quyền hành một cách thật tàn ác, không tha thứ bất cứ ai tỏ ra không tùng phục họ. Thế nhưng trước cái chết, tất cả những người mà trước đây họ đặt hết tin tưởng và tất cả những gì mà họ hằng trông cậy - uy quyền, khí giới, quân đội - tất cả đều không còn ích lợi gì nữa. Trong hoàn cảnh ấy ai mà chẳng khiếp sợ. Tập luyện phát huy tâm thức của cái chết [bằng thiền định] thật lợi ích: nó [gián tiếp] mang lại ý nghĩa cho sự sống của chính mình, có nghĩa là đối với mình thì sự an bình và niềm hạnh phúc lâu bền sẽ trở nên quan trọng hơn những thú vui hời hợt khác. Luôn nhớ đến cái chết là một cách đập tan các xung năng tiêu cực và các xúc cảm bấn loạn bằng những nhát búa thật mạnh. Muốn khơi động ý thức về cái chết trong tâm thức thì trước hết phải ý thức được bản chất bất định của nó. Có một câu ngạn ngữ như sau: "Giữa ngày mai và một kiếp sống mới, không thể biết được cái nào sẽ xảy đến trước với ta ". Tất cả chúng ta đều hiểu rằng cái chết nhất định sẽ xảy ra một ngày nào đó, thế nhưng chúng ta lại cứ tin rằng cái chết vẫn còn xa, và đấy chính là trở ngại tạo ra mọi thứ khó khăn. Chúng ta thường xuyên bị bủa vây bởi các lo toan vật chất. Chính vì thế mà phải suy tư về cái chết. Kinh sách xưa cho biết rằng không thể đoán trước được kiếp sống của con người trong thế giới này sẽ kéo dài bao lâu, nhất là trong thời buổi nhiễu nhương này thì lại còn khó hơn nữa. Cái chết không tuân theo một quy luật hay một mệnh lệnh nào cả. Bất cứ ai cũng đều có thể chết vào bất cứ lúc nào, dù họ đã già hay còn trẻ, giàu sang hay nghèo khó, bệnh tật hay đang khoẻ mạnh. Không thể nào nắm vững hết các cảnh huống đưa đến cái chết. Nhiều người đang khỏe mạnh không ốm đau gì cả thế nhưng bỗng ngã lăn ra chết một cách thật bất ngờ, trong khi ấy các người đang đau ốm liệt giường thì lại vẫn chưa chết. Nếu đem so sánh giữa con số thật lớn các nguyên nhân đưa đến cái chết và con số thật nhỏ các nguyên nhân bảo toàn sự sống, thì chúng ta sẽ hiểu ngay tại sao cái chết lại hết sức bất định. Chúng ta trân quý cái thân xác con người của chúng ta và tin rằng nó vẫn còn cứng cáp và còn đủ sức chống chỏi được lâu. Thế nhưng thực tế thì lại thường không đi đôi với sự mong ước của chúng ta. Nếu đem so sánh thân xác của mình với đá hay sắt thép thì sẽ thấy ngay là nó mong manh hơn nhiều. Chúng ta ăn để duy trì sự sống và bảo vệ sức khoẻ, thế nhưng trong một số trường hợp thì chính thức ăn lại là nguyên nhân làm cho ta ốm đau và đưa đến cái chết. Tóm lại, không có gì bảo đảm là ta sẽ sống mãi mãi. Ta lo sợ cái chết và xem đấy là một sự chấm dứt cuối cùng của sự sống. Tệ hơn nữa là những gì mà ta gom góp với tất cả hơi sức của mình - nào tài sản, quyền lực, uy danh, bạn hữu hay gia đình - tất cả đều trở nên vô ích không mang lại một sự giúp đỡ thiết thực nào trong những giây phút hấp hối. Dù cho ta là một người đầy quyền lực, dưới tay có cả một quân đội hùng mạnh bảo vệ, thế nhưng khi cái chết xảy đến thì toàn thể đám quân đội ấy cũng chẳng làm gì được. Có thể ta là một người giàu có, sắm được những chiếc xe lộng lẫy, thế nhưng khi đã ngã bệnh và cái chết gần kề thì lúc ấy sẽ không còn cách nào tìm được ai đủ sức cứu ta khỏi chết để bỏ tiền ra mà thuê. Khi phải rời bỏ thế giới này, ta bỏ lại cả tài sản, một đồng xu cũng không mang theo được. Người bạn thân thiết nhất của mình cũng không đi theo mình được. Ta sẽ đơn độc đương đầu với cái thế giới bên kia. Tóm lại chỉ có những gì do sự tu tập mang lại mới có thể giúp đỡ cho mình mà thôi. Thân xác của ta thật quý giá. Ngay từ lúc thụ thai nó đã là người bạn đồng hành vững chắc và đáng tin cậy nhất của ta. Ta cố gắng tối đa để chăm sóc cho nó, cho nó ăn vì sợ nó đói, cho nó uống vì sợ nó khát. Ta tìm cách để nghỉ ngơi khi nó mệt mỏi. Ta sẵn sáng làm bất cứ gì để trau chuốt nó, mang lại mọi thứ tiện nghi cho nó, bảo vệ nó. Thế nhưng trên một khía cạnh khác cũng nên thành thật mà nói: thân xác chính là một kẻ hầu cận trung thành, luôn tìm cách chiều chuộng mình. Thí dụ như sự hoạt động của quả tim chẳng hạn, tuy đơn giản nhưng thật ra sự hoạt động ấy là cả một sự tuyệt vời. Trái tim làm việc không ngừng, có thể nói là không bao giờ ngưng nghỉ dù cho ta đang làm gì, đang thức hay đang ngủ. Thế nhưng khi cái chết xảy ra thì cái thân xác tuyệt vời ấy sẽ bỏ rơi ta. Tri thức (consciousness) của ta và thân xác tách rời nhau, và cái thân xác quý báu của ta trước đây trở thành một thây ma thật ghê tởm. Vì thế, đối diện với cái chết, sự giàu sang và của cải, bạn bè và người thân thuộc, kể cả thân xác của chính mình, tất cả đều không giúp ích cho mình được gì nữa. Chỉ có một thứ duy nhất có thể giúp ta đối đầu với sự xa lạ đang chờ đón ta, ấy là hạt giống đạo hành mà ta đem gieo vào dòng tri thức luôn chuyển động của mình. Hạt giống ấy chính là ý nghĩa của sự sống mà chỉ có sự tu tập mới có thể mang lại cho ta. Vào giây phút hấp hối nếu nhớ lại được thể dạng tỉnh giác của tâm thức sẽ tức khắc mang lại cho ta sự lắng dịu và an bình trong tâm thức (ý thức được ý nghĩa của cái chết, giữ được sự thanh thản, phát lộ được lòng tư bi...). Phát huy một thái độ đạo đức trong khi quá trình của cái chết đang diễn tiến sẽ tạo ra những ảnh hưởng tốt mang lại một sự tái sinh thuận lợi. Vì thế đối với một người tu tập Phật giáo, nếu muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa thì phải biết phát huy những thể dạng tâm thức đạo hạnh, vì đấy là những gì sau này có thể giúp ta đối đầu với cái chết. Những cảm nhận tích cực hay tiêu cực của ta trong giây phút lâm chung tùy thuộc vào cách cư xử trong cuộc sống hằng ngày của mình từ trước. Cuộc sống của ta phải hàm chứa một ý nghĩa nào đó, ta phải tạo ra cho mình một thái độ tích cực thoát ra từ hơi ấm tình người và niềm hạnh phúc trong ta. http://www.daobingan.com/news/?type=news&gid=19&nid=81
  9. Vậy thì hãy cạn nghĩ " nỗi bất hạnh của người này thường là ước mơ của người khác" ví dụ như: Đàn ông thành đạt đam mê công việc thường lơ là vợ và gia đình, đàn ông thất nghiệp thường quanh quẩn gia đình và vợ thế nên mọi thứ đều theo tỷ lệ nghịch nếu người phụ nữ đòi hỏi quá nhiều thì sẽ luôn bất như ý với người hiện tại của mình. Đúng bao nhiêu %?
  10. Trong thuyết nhà Phật thì có chữ nhân duyên, thuyết của Lý Học Đông Phương thì mọi sự đều tương tác lẫn nhau và không có gì ngẫu nhiên trên vũ trụ này, nghiệp của ta cũng thế và nhân của ta cũng thế. Có 1 câu chuyện nhỏ mà cũng đem lại cho Cô sự giác ngộ về lòng từ, Dịp giỗ đầu của Bố Cô trùng hợp với tai nạn xảy ra trên Tàu Dìn Ký ở Bình Dương, Cô có tác bạch với Thầy "nhân đây con khởi tâm 1 mâm cúng cầu siêu cho các nạn nhân trong đêm mưa giông gây chìm tàu mà trên đó có tiệc sinh nhật" Thầy đã từ chối với lẽ " Nghiệp ai người nấy trả tội ai người ấy mang, người ta giàu, đã có trai đàn cầu siêu tại chỗ' có nghĩa Thầy từ chối không nhận thực hiện khóa lễ cầu siêu cho các nạn nhân vụ đó, và tôi đã ngộ hay Thầy đã đúng ? Bởi lòng thương người thì tốt, nhưng phải có trí huệ để nhận biết nơi nào cần giúp nơi nào để luật nhân định tự xét. Góp đến M A câu chuyện mà tôi trãi nghiệm và nhận được sự phản hồi tự Thầy trụ trì và nhận được cả kinh nghiệm chưa hẳn điều ta muốn tốt đều đúng cả!
  11. Gặp bậc hiện thân Phật Quan Thế Âm TP - May mắn được tham dự Đại Pháp hội cầu Quốc thái dân an do Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa chủ trì tại chùa Vân Sơn (Tam Đảo, Vĩnh Phúc), tôi cảm nhận chữ “an” theo cách của riêng mình Đức Pháp vương Gyalwang Drukpa trên đàn tràng. Sự kiện Đức Pháp vương Gyalwang Drukpa - bậc được tôn kính là hóa thân của Phật Quan Thế Âm cùng nhiều bậc thượng sư giác ngộ khác- và Tăng đoàn Truyền thừa Drukpa viếng thăm Việt Nam hẳn rất có ý nghĩa với các Phật tử. Bản thân người viết mù mờ Phật pháp nhưng cũng biết được rằng những đại lễ do Đức Pháp vương chủ trì sẽ đem đến cho người tham dự và đất nước Việt Nam một lợi ích tinh thần nào đó nên tự nhủ lòng chớ bỏ qua thỉnh hưởng và cũng tò mò muốn tận thấy các vị cao tăng đến từ Ấn Độ và các nước quanh dãy Himalaya. Lúc khởi hành, thông tin duy nhất chúng tôi biết là buổi lễ ngày 7-11 diễn ra tại chùa Vân Sơn, xã Hồ Sơn, Tam Đảo. Giữa đường lại nghe nói phải có một cái thẻ gì đó mới được vào hội trường dự lễ. Mọi người lấy làm hoang mang. Lát sau qua điện thoại lại có người hứa hẹn đến nơi sẽ cho thẻ. Rồi cuối cùng chả cần thẻ gì. Còn “hội trường” là một bãi đất trống vuông vức phủ bạt, giữa rừng cây cao. Ở nơi bán các ấn phẩm của Pháp Vương và dòng Truyền thừa Drukpa, ai cũng được phát một tờ thông bạch ghi rõ lịch trình của đoàn, với đầy đủ các số điện thoại để liên hệ. Đặc biệt có một dòng mở ngoặc nhỏ: Thông báo này thay cho giấy mời, không yêu cầu phải đăng ký trước. Con đường từ cổng chùa lên đến đàn tràng được phủ bạt trên đó in các biểu tượng Bát đại cát tường nhiều màu sắc của Kim Cương Thừa. Hầu như không ai bước lên đó, mà chỉ đi bên rìa, muốn băng ngang đường, lại lật một đoạn bạt lên. Sau độ hai tiếng chờ đợi, có tiếng loa thông báo đoàn xe của Pháp Vương đã tiến vào cổng chùa. Tất cả thiện nam tín nữ đứng lên niệm Nam mô A Di Đà để nghênh đón. Dẫn đầu đoàn là các vị sư trẻ cầm các nhạc khí, đeo ba-lô, đi giày thể thao. Họ nổi bật bởi màu áo huyết dụ, để trần một cánh tay. Nam cũng như nữ hầu hết đều cao lớn, khỏe khoắn, sắc diện ửng hồng trong làn nắng bỗng trở nên rực rỡ. Nếu không vận đồ nhà Phật, họ khá giống một đoàn vận động viên. Một số người cười và gật đầu với những Phật tử xếp hàng chắp tay hai bên đường. Các chú tiểu đến từ Tịnh Thất Tây Thiên đến dự Pháp hội để tóc trái đào mặc áo nâu xem ra nhận được nhiều nụ cười của tăng đoàn nhất. Nghe nói một trong hai chú là con của một giám đốc ngân hàng ở Hà Nội đã được gửi lên chùa vài năm nay. Em bé thích sống ở đây, không muốn về nhà. Kế đó mới đến chú tiểu bưng lư hương đi trước dọn đường cho đoàn có Pháp Vương. Đức Pháp Vương đi dưới một cái lọng phủ lông công, về nhìn lại ảnh tôi mới biết. Lúc đó mải bấm máy, chưa kịp thấy Ngài thì Tăng đoàn đã đi qua mất. Sự kiện buổi sáng có tên đầy đủ là Đại Pháp hội Quán đỉnh cộng đồng Mandala Quán Âm Lục Độ Phật Mẫu Tara Cầu nguyện quốc thái dân an. Buổi lễ bắt đầu với những âm thanh trầm hùng như của một bè nam cực trầm. Là người ngoại đạo, tôi chỉ thấy tiếng tụng kinh rất hay, có giai điệu như hát với giọng nữ và nam lĩnh xướng. Đặc biệt giọng nữ có phong độ của sao ca nhạc thứ thiệt. Thỉnh thoảng rộ lên những tiếng gì như của một đàn voi rống - chắc âm thanh của dàn tù và. Đàn tràng được dựng lên ở rất cao trên triền đồi dốc, nên chúng sinh ngồi dưới khó có thể biết được các tăng sĩ làm cách nào để tạo ra những âm thanh đẹp lạ kia. Trong khi phần lớn Tăng đoàn ngồi dưới Pháp tòa của Đức Pháp vương thì thỉnh thoảng có một vị hộ đàn ăn mặc nổi bật hơn với áo ngũ sắc hay mũ có gù cao lại đứng đỉnh lễ Pháp Vương hoặc cầm một dải vải trắng múa, hay rảy nước phúc bằng một cái quạt lông công để sái tịnh phẩm vật cúng… Chờ Pháp Vương ban phúc.Nói chung phần lễ buổi sáng đã giải tỏa phần nào những tò mò về nghe và nhìn của tôi, và tôi cũng không mong chờ gì hơn. Nhưng hóa ra còn có những cách khác để cảm nhận một buổi lễ, nhất là nếu lễ đó dành cho chính mình. Những người có mặt ở chùa Vân Sơn hôm đó may mắn được dự Đại đàn Hỏa tịnh. Lịch trình cho thấy lễ này chỉ được tổ chức một lần vào 3-11 tại chùa Hà Tiên (thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc). Nhưng theo nguyện vọng và thỉnh cầu của nhiều người, vả lại nhà chùa cũng đã chuẩn bị, nên Pháp Vương đã ưng thuận cử hành khóa lễ Hỏa tịnh. Được biết nghi lễ này có tác dụng “tiêu trừ nghiệp chướng, tịnh hóa thân tâm”, nên tôi quyết định không xoi mói chụp ảnh nữa, mà ngồi nhắm mắt định tâm quán tưởng Đức Phật theo như hướng dẫn của người dẫn chương trình. Tất cả những ai tránh nắng trong các bóng cây ở hai bên triền đồi cũng được hướng dẫn ra sân ngồi hướng lên Pháp Vương để cùng cầu nguyện giúp khóa lễ được viên mãn. Không biết rõ về đặc tính của buổi lễ và dĩ nhiên là mù tịt về nội dung của các lời tán tụng, tôi chỉ ngồi xếp bằng nhắm mắt lắng tâm để thưởng thức lời tụng du dương và âm thanh pháp khí trầm hùng. Cứ để nhạc của Phật đi vào tâm thức, một lát sau, người tôi tự nhiên dao động nhẹ nhưng đều đặn theo chiều kim đồng hồ. Tôi cứ để tự nhiên, coi giống như việc nghe nhạc sôi động thì người mình cũng lắc theo vậy. Thậm chí tôi còn mở hé mắt ra để thấy người mình đang xoay vòng vòng thật. Sự hận thù mang lại rất nhiều hậu quả tiêu cực cho chính bạn. Nhưng bạn cũng cần cảnh giác với tình yêu thương thiên chấp mù quáng, bởi tình cảm này chỉ tạo thêm cho chúng ta những chướng ngại khổ đau. Bí mật của tình yêu thương là lòng Vô ngã - Vị tha, vì đó mới chính là tình yêu thương tràn đầy minh triết tuệ giác. Chúng ta cần trưởng dưỡng tình yêu thương vô điều kiện để có thể cùng sống tương thân tương ái. Hãy loại bỏ ngã mạn, loại bỏ mong chờ đáp trả, loại bỏ hy vọng, hãy biết Sống Để Yêu Thương vì một thế giới tốt đẹp hơn - Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa Bạn tôi lại cảm nhận khóa lễ theo cách khác, chủ yếu qua việc nhìn thấy các màu sắc trong khi ngồi quán tưởng. Một điều cũng thú vị nữa là lúc MC kiêm phiên dịch bảo mọi người tụng một câu gì đó (về sau mới biết là Om Ami Dewa Hrih - phiên ra tiếng Việt chính là chân ngôn A Di Đà Phật), tôi cũng tụng theo và càng lúc càng nhanh, với cảm giác môi mình cứ tự động mấp máy mà vẫn không sai lệch. Tất nhiên là tôi không nhịn được chụp ảnh, nên trong khi quán tưởng, có vài lần vẫn mở mắt ra và thấy mọi người theo chỉ dẫn của các sư xếp hàng tuần tự đi quanh một đống lửa. Sau khi đưa vài đồng tùy tâm cho nhà chùa, họ được nhận vài phẩm vật như: bơ sữa, bánh trái, hoa, quế, hồi, trầm… để tung vào đống lửa, rồi được phát lộc về chỗ. Rồi thì ai cũng đều được gia lộc, là những sợi chỉ ngũ sắc, là bánh kẹo, tấm hình nhỏ của Phật A Di Đà hay của Đức Pháp Vương, cả những túi gạo nhỏ… Tất cả phẩm vật đều đã nhận được sự gia trì của Pháp Vương để đem lại bình an cho người nhận nó. Sau phần tụng kinh và tấu nhạc, Đức Pháp Vương trực tiếp giảng pháp bằng tiếng Anh. Với tôi, có phần còn dễ hiểu hơn phần dịch tiếng Việt sử dụng khá nhiều thuật ngữ nhà Phật. Ngài nói một lúc lâu, nhưng đọng lại trong tôi đại ý: “Nếu để cho dục vọng mặc sức phát tác thì dục vọng chỉ là dục vọng, còn khi ta tập trung xem xét nó thì nó sẽ trở thành biểu hiện của tình yêu…” (Nguyên văn: “When we don’t manage to cultivate the desire in to the Path, then it is become just desire, a burning desire, just causes a lot of problems, but if you have the great skills of the Path of the Budda Amitabha, then you manage to cultivate the desire, so that it will be expressing the love and benifiting all others through different means”). Và Ngài còn khuyên, yêu là phải hành động, chứ không chỉ nghĩ và nói. Tất nhiên đó cũng là tình yêu lớn, bao trùm vạn vật. Trong lúc đang ngồi quán tưởng lời kinh, nhà chùa đến từng người ban cho một ít nước phúc. Tôi bắt chước xung quanh cũng lấy nước đó xoa lên đầu lên mặt. Thấy thơm thơm mùi quế. Lễ đã xong xuôi, Đức Pháp Vương và Tăng đoàn đã ra về, mọi người đang dọn dẹp thì có tiếng trao đổi trên đàn tràng do loa mic vẫn chưa tắt: “Còn nhiều nước gia trì lắm, hay bảo mọi người lên lấy” “Rồi lại chen lấn xô đẩy nhau cho mà xem!”. Nhưng cuối cùng vẫn có lời mời chính thức qua loa: “Mọi người cứ từ từ xếp hàng, nước có đủ cho tất cả”. Và quả thực cảnh chen lấn có diễn ra thật. Mọi người cuống quít đi kiếm chai nhựa rỗng để đựng nước. Có người tranh thủ uống ngay tại nồi, có người mang về dành để… xoa bóp. Khi đã vãn người xúm quanh hai nồi nước, tôi mon men đến múc nước. Đúng là nước có đủ cho mọi người thật. Buổi trưa, mọi người được chiêu đãi một bữa chay gồm cơm trắng, chuối xanh kho, sung muối và bí xào. Đạm bạc nhưng ăn rất vào trong cảnh chùa chiền, giữa thiên nhiên. Lễ kết thúc trước 5 giờ chiều, đã lại có cơm canh chờ sẵn với thực đơn lạc rang, dưa cải xào. Vậy là chúng tôi tự nhiên có trọn một ngày ăn chay niệm Phật theo đúng nghĩa. Trên đường về, người đi cùng xe chép miệng: “Kể làm Pháp Vương cũng khổ. Cứ phải đi suốt. Đến cả bắt tay người hâm mộ cũng không được…” Theo người đó kể khi Pháp Vương đã ngồi trên ô tô, có người giơ tay ra định chạm vào Ngài thì bị người hộ tống gạt ra. Có vẻ như người nói đang hình dung Pháp Vương theo kiểu… sao nhạc pop. Tôi tự hỏi, một bậc dành hết nỗ lực đem lại bình an cho mọi người và lại được tha nhân cảm thương lại như thế có thể gọi là khổ được chăng?! Nguyễn Mạnh Hà tienphongonline
  12. Bá Kiến này suốt ngày cứ lảm nhảm mấy điều chí phải !chí phải!
  13. Sp cứ nhận đi! mấy cái rơi vải kia, Sp cứ rót xuống cho Ban Từ Thiện nhờ, lọt sàng rồi lại xuống nia thôi mừ!
  14. Oh ! Máy của bác Thiên Sứ XỊN quá auto chỉnh sửa ! Thảo nào đẹp giai lão !
  15. Cứ cái đà này thì trong tương lai gần, các tay chơi đàn (nhac công) cũng như các Ban Nhạc sẽ phải giải nghệ vì sự xuất hiện của loại Animusic này. Xin mời thưởng thức một đoạn hòa tấu đàn giây ở cái Link dưới đây http-~~-//youtu.be/toXNVbvFXyk
  16. Nhưng TM ơi! Chúng sinh khổ ta nên cứu độ! Thân ta khổ, ta nên tự độ!
  17. Người say không giữ lời hứa mật! nhưng lại phun lời nói thật giữ lâu ngày! hi hi
  18. Tọa cung phu không được đẹp lắm ...nếu bên ngoài bạn xinh hơn ảnh thì phu quân sẽ mang sắc diện ngược lại.
  19. Sài Gòn và những địa danh mang tên 'Ông', 'Bà' Từ Lăng Ông Bà Chiểu, đến xã Bà Điểm "18 thôn vườn trầu", cầu Thị Nghè, chợ Bà Hoa... đều mang những câu chuyện lịch sử của một thành phố hơn 300 năm tuổi. Lăng Ông Bà Chiểu (quận Bình Thạnh) có tên chữ là Thượng công miếu. Đây là khu lăng mộ, nơi thờ cúng Tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân, khuôn viên rộng rãi, thoáng mát. Lăng nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu nên nhiều người thường nhầm rằng đây là lăng thờ ông bà tên Chiểu. Những ngày này (1-3/8 âm lịch) là ngày giỗ của Tả quân nên Lăng rất đông người về dự lễ. Nằm ở trung tâm quận Bình Thạnh, được xây dựng năm 1942, khi mới hình thành tỉnh Gia Định và nâng cấp sửa chữa vào cuối những năm 90, chợ Bà Chiểu là một trong những ngôi chợ lâu đời nhất TP HCM. Theo nhà văn Sơn Nam, Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Đức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên. Chợ Bà Chiểu đã đi vào ca dao với câu “Xe mui chiều thả chung quanh/ Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi” . Chùa Ông Bổn (hay còn gọi là miếu Nhị Phủ) nằm trên đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5. Được xây dựng từ cuối thế kỷ 17 bởi những người Hoa di cư, miếu Nhị Phủ là nơi duy nhất thờ Bổn Đầu Công. Tương truyền ông Bổn vốn là thái giám Trịnh Hòa dưới thời vua Vĩnh Lạc. Ông chu du nhiều nơi, đem về nhiều báu vật cho nhà vua. Ông còn có công giúp cho người Hoa xây dựng cuộc sống nên được người dân kính cẩn thờ phụng. Xã Bà Điểm thuộc huyện Hóc Môn, TP HCM, nổi tiếng với “18 thôn vườn trầu”. Theo học giả Trương Vĩnh Ký thì Bà Điểm cùng với Bà Rịa, Bà Chiểu, Bà Quẹo, Bà Hom là 5 bà vợ của một viên lãnh binh, người đã xây cầu ông Lãnh. Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đã lập ra 5 ngôi chợ, giao cho mỗi bà cai quản một nơi. Chợ Bà Điểm, gần làng Tân Thới - quê hương cụ Đồ Chiểu, là nơi bán trầu ngon có tiếng ở miền Nam. Cầu Ông Lãnh nối dài quận 1 và quận 4. Cây cầu được đặt theo tên của ông Lãnh binh tên là Nguyễn Ngọc Thăng sống vào khoảng cuối thế kỷ 18, giữa thế kỷ 19. Ngoài ra, tên của vị võ tướng có công này còn được đặt cho một con đường ở quận 11 (đường Lãnh Binh Thăng) và một ngôi chợ (chợ Cầu Ông Lãnh). Tên đường ở TPHCM bắt đầu bằng chữ “Bà” cũng khá nhiều như đường Bà huyện Thanh Quan, đường Bà Hạt, Bà Lê Chân… Đường Bà huyện Thanh Quan thời Pháp thuộc có tên là Rue Nouvelle, năm 1920 đổi thành Pierre Fladin, năm 1955 đến nay đường mang tên Bà huyện Thanh Quan, một nữ sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ XIX. Cầu Thị Nghè (trước là cầu Bà Nghè) bắc qua Rạch Thị Nghè, là cầu nối giữa quận 1 và Bình Thạnh. Theo sử sách, cầu do bà Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân xây dựng để tiện việc đi lại, thủa bà mới khai hoang đất ở. Chồng bà là thư ký đỗ cử nhân (đương thời gọi là ông Nghè). Cầu được gọi là cầu Thị Nghè từ giữa thế kỷ XIX. Đến năm 1970, cầu được xây mới bằng xi măng cốt thép. Cư dân tại nhiều địa phương ở miền Nam có tập tục thờ bà Chúa Xứ. Nổi tiếng nhất là miếu Bà Chúa Xứ núi Sam ở thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Ngoài ra, ở Bình Dương cũng có nhiều nơi thờ vị nữ thần có nguồn gốc từ Ấn Độ này. Ngay tại khu Cây Sộp thuộc phường Tân Hưng Thuận, quận 12, cũng có một ngôi miếu khang trang thờ bà Chúa Xứ. Một góc đường Phạm Văn Hai trong khu Ông Tạ, quận Tân Bình. Khu vực này vốn nổi tiếng bởi vì từng tồn tại phòng khám của lương y Nguyễn Văn Bi (thường được người dân gọi là ông Tạ). Ngoài ra, nó còn nổi tiếng bởi món thịt chó. Chợ Bà Hoa, nằm trong làng dệt Bảy Hiền (Tân Bình) thường được gọi là chợ quê Quảng Nam với đủ các mặt hàng đặc trưng từ Quảng Nam nói riêng và miền Trung nói chung, như hành tỏi nhỏ mà thơm của miền Trung, bánh nổ, bánh tổ, mắm nêm, các loại rau lá xứ Quảng... Chợ lấy theo tên một người phụ nữ tên Hoa, người đã lập nên khu chợ này vào năm 1967. Trước kia chợ có tên là Linh Hoa (Linh là tên chồng bà Hoa), sau này dù đã đổi lại thành chợ phường 11 nhưng người dân vẫn quen gọi là chợ Bà Hoa, như một xứ Quảng thu nhỏ giữa lòng Sài Gòn.
  20. Khôi Nguyên có vẻ như thạo việc rồi đấy! Đi nữa nhé! còn nhiều chuyến đi nữa nếu có lòng... Chỉ còn 50 suất dự phòng mà dòng người vẫn chưa tan, vì họ hy vọng sẽ là người tiếp theo Có những phút dừng hiếm hoi vì số quà có hạn mà người chờ quá đông, khá lúng túng trong trường hợp này, đó là lý do mà chúng tôi luôn nao lòng bởi cảm thấy sự chia sẽ của mình thật ít ỏi so với đói kém của đồng loại. Tuyetminhnguyen, Trung Nhân, Hoàng Anh, Sư Phụ tham gia nên chuyến đi lần này thật đông và ý nghĩa.
  21. Nụ cười như bán đắt hàng... SP với nụ cười quen thuộc, hôm nay SP mới chứng kiến buổi phát quà này vẻ như cũng hài lòng về hoạt động của nhóm. Từng thùng quà trống được chuyền ra ngoài có nghĩa vợi đi rất nhanh Những cánh tay bên ngoài đưa vào... liền khi đó cũng có đôi tay được đưa ra với quà.. Cô gái hà nội tham gia Từ Thiện Trung tâm, cảm giác thế nào? Vất vả không dành cho khách mời chứ? Cuối buổi, những người tham gia hồ hởi với công việc mà mình đem lại cho những bệnh nhân nghèo.
  22. Cẩn trọng khi sử dụng nha đam PN - Vài năm gần đây, cây nha đam được nhiều người sử dụng để làm đẹp và trị bệnh. Nha đam cung cấp hai chất chính: gel (phần trắng, nhớt sau khi gọt bỏ vỏ xanh) và nhựa cây (màu vàng, chảy ra ở mặt cắt của lá).Gel nha đam được ghi nhận có tác dụng tốt trong những bệnh lý như: đái tháo đường, vảy nến, tăng cholesterol máu, bỏng, tổn thương da do tia xạ sau điều trị ung thư, giúp nhanh lành vết thương... Còn phần nhựa cây, là vị thuốc lô hội trong Đông y, vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, thông tiện, là chất tẩy xổ mạnh trị táo bón. Ảnh: Internet Tuy nhiên, không phải nha đam đều tốt cho mọi người. Khi sử dụng cần thận trọng đối với những đối tượng sau: - Phụ nữ có thai và đang cho con bú: Một vài báo cáo cho thấy, nha đam có thể liên quan với sẩy thai, dị tật bẩm sinh. Phụ nữ có thai và đang cho con bú không nên dùng các sản phẩm từ nha đam. - Trẻ em dưới 12 tuổi: Nha đam gây đau bụng, vọp bẻ và tiêu chảy. - Bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị thuốc: Một vài nghiên cứu cho thấy, gel nha đam có tác dụng giảm mức đường huyết. Nếu bạn bị đái tháo đường và đang điều trị thuốc mà muốn dùng nha đam, hãy theo dõi chỉ số đường huyết chặt chẽ hơn để phòng ngừa biến chứng hạ đường huyết quá mức, có biểu hiện nhịp tim nhanh, vã mồ hôi, đánh trống ngực, run… nếu nặng hơn có thể gây giảm khả năng tập trung, lú lẫn, hôn mê... - Người mắc bệnh trĩ: Khi dùng nha đam, đặc biệt là có lẫn nhựa cây sẽ gây kích thích đại tràng, có thể làm bệnh nặng hơn. - Người có bệnh lý thận: Không nên dùng liều cao hoặc kéo dài vì một số hợp chất trong nhựa cây khi tích lũy sẽ gây suy thận. - Phẫu thuật: Do tác dụng làm giảm đường huyết nên nha đam sẽ gây khó khăn trong việc kiểm soát mức đường huyết trong và sau phẫu thuật. Nên ngưng dùng nha đam ít nhất hai tuần trước khi phẫu thuật. Ảnh: Internet - Người đang dùng thuốc Digoxin chữa suy tim, thuốc lợi tiểu, thuốc kháng đông, thuốc chống rối loạn nhịp… chú ý vì nha đam nhuận tràng, gây tiêu chảy và làm giảm ion kali trong cơ thể, gây tăng tác dụng phụ của thuốc. - Người cao tuổi hay người thường bị đầy bụng, ăn không tiêu, đi cầu phân sống, tiêu chảy: Theo Đông y, những chứng trên gọi là bệnh lý tỳ vị hư hàn, không nên dùng nha đam. Một số cách chế biến nha đam đơn giản, dễ thực hiện, có tác dụng tốt trong các bệnh lý đường tiêu hóa như nhiệt miệng, viêm loét dạ dày-tá tràng, viêm gan, hội chứng đại tràng kích thích, táo bón... đồng thời giúp tăng sức đề kháng và miễn dịch cho cơ thể: - Sơ chế: gọt bỏ phần vỏ xanh và gai hai bên lá, rửa kỹ với nước muối loãng nhiều lần để làm trôi sạch phần nhựa màu vàng, sau đó xắt hạt lựu hay thành từng miếng nhỏ vừa ăn. - Nha đam, mật ong (ba-bốn muỗng cà phê): dùng tươi hoặc xay sinh tố. - Nha đam trộn sữa tươi (200ml) hoặc sữa chua (một hũ). - Nha đam, nghệ vàng (dạng bột từ một-hai muỗng cà phê), có thể kết hợp thêm cam thảo 6-8g. - Canh nha đam, rong biển, có thể nấu với thịt hoặc tôm, tép: sau khi nấu nước dùng, nêm vừa ăn, đợi nước sôi lại, bạn hãy cho nha đam và rong biển vào sau cùng . Dùng nha đam làm thực phẩm sẽ đem lại nhiều tác dụng tốt nếu chúng ta sơ chế đúng cách, loại bỏ sạch phần nhựa màu vàng, đồng thời dùng phần gel nha đam với lượng thích hợp, thường trong khoảng 100-200mg trong một ngày. Lưu ý, những thực phẩm chế biến có sử dụng nha đam chỉ nên dùng hai-ba lần trong một tuần. Nếu dùng với mục đích nhuận trường, chữa táo bón không nên dùng quá hai tuần . BS Nguyễn Văn Đàn (GV Đại học Y Dược TP.HCM)
  23. Hay và cảm động Một ông lão người Italy sống 1 mình tại New Jersey, Mỹ. Người đàn ông này muốn trồng những cây cà chua trong khu vườn nhỏ của mình, nhưng ông không thể làm được việc đó, vì đất trong khu vườn rất cứng và khó đào. Trước đây, con trai Vincent của ông thường giúp ông lão làm công việc này, nhưng giờ nó đã vào tù. Ông lão viết 1 lá thư gửi cho con trai mình đang ở trong tù, nội dung bức thư như sau:“Vincent à, bố cảm thấy khá buồn vì có lẽ con không thể giúp bố đào xới khu vườn để trồng cà chua như mọi năm, bố đã quá già để làm việc đó. Nếu có con ở đây, chắc chắn mọi việc sẽ ổn, và con cũng sẽ rất vui khi giúp bố như vậy, như những ngày xưa ấy. Yêu con, papa.” Vài ngày sau, ông lão nhận được lá thư trả lời của người con trai:” Bố, đừng đào xới khu vườn. Con chôn những kẻ mà con giết ở dưới đất đấy.Yêu bố, Vincent” 4 giờ sáng hôm sau, đặc vụ FBI và cảnh sát địa phương ngay lập tức tới nhà ông lão, phong tỏa mọi thứ và đào xới tung khu vườn để tìm kiếm những thi thể. Nhưng lạ thay là họ không thể tìm thấy thứ gì. Ngay hôm đó, ông lão lại nhận được lá thư của người con trai:“Bố thân yêu, giờ bố có thể trồng cà chua được rồi đấy. Đó là điều tốt nhất con có thể làm cho bố trong hoàn cảnh này. Yêu bố, Vincent”.
  24. ĐOẠN TRỪ PHIỀN NÃO I. Sắc uẩn (uẩn vật chất) Rūpakkhanda: Một thuở nọ Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, ngôi chùa do ông Cấp cô Độc dâng cúng. Một vị sư tên là Rādha đến yết kiến Đức Thế Tôn và bạch rằng: “Bạch Ngài chữ Satta có nghĩa là gì? Xin Ngài giảng giải cho con rõ.” Đức Phật trả lời: “Này Rādha, satta có nghĩa là chúng sanh, là kẻ còn có sự tham ái, dính mắc vào các tập hợp vật chất (Rūpakkhanda: sắc uẩn). Và sư tham ái dính mắc vào các hiện tượng vật chất cũng được gọi là satta”. Nghĩa thứ nhất, Satta, là chúng sanh còn tham ái, dính mắc. Tham ái, dính mắc bao gồm các mức độ của tham ái, dính mắc, luyến ái, bám víu. Tất cả đều có cùng nghĩa chung là tham ái. Nghĩa thứ hai, dưới hình thức một động từ, Satta có nghĩa là “dính mắc vào”. “Dầu dính mắc vào vật chất một cách thích thú hay dính mắc vào vật chất một cách tự nhiên cũng đều là dính mắc”. Và sự dính mắc có nguyên nhân là si mê. Nếu phân tích một cách sáng suốt thì chúng ta sẽ thấy vật chất của cơ thể này là gì? Cơ thể con người là sự tập hợp của nhiều thành phần vật chất. Ta có thể chia cơ thể con người thành ba mươi hai thành phần. Hai mươi phần đầu tiên thuộc về nhóm Paṭhavīdhātu (địa đại). Nhóm địa đại có đặc tính cứng mềm và chắc chắn. Tại sao gọi hai mươi thành phần đầu tiên thuộc về nhóm đất bởi vì yếu tố đất chiếm ưu thế. Ba yếu tố khác là Āpodhātu (thủy đại), Tejodhātu (hỏa đại,) và Vāyodhātu (phong đại). Hai mươi thành phần thuộc về đất gồm: Tóc, lông, móng răng, da Thịt, gân, xương, tủy, thận Tim, gan, ruột, lá lách, phổi Phèo, bao tử, thực phẩm chưa tiêu, phẩn, óc Sợi tóc, khi quán sát một cách kỹ càng, chúng ta cũng thấy bốn yếu tố, nhưng yếu tố cứng nỗi bật hơn cả cho nên, tóc được xếp vào nhóm thứ nhất, nhóm địa đại. Cũng vậy, mười chín thành phần còn lại do yếu tố cứng mềm nỗi bật nên cũng được xếp vào nhóm địa đại. Lúc quán sát vật chất mà thiền sinh cảm nhận được yếu tố cứng là đã có kinh nghiệm về địa đại. Tương tự như vậy, yếu tố lửa được kinh nghiệm khi cảm nhận được nhiệt độ. Yếu tố gió được kinh nghiệm khi cảm nhận sự căng kéo, rung động, giãn nở, và yếu tố nước được kinh nghiệm khi cảm nhận được sự dính hút, thấm ướt. Khi chú tâm quán sát vật chất xuyên qua tứ đại, chúng ta hãy chú tâm vào đặc tính của chúng là sự cứng mềm, dính hút, nóng lạnh, chuyển động chứ không chú ý đến ý niệm, hình dáng, hay tư thế của chúng. Tại sao vậy? Nếu không chú ý vào đặc tính của tứ đại mà chú ý đến ý niệm, hình dáng, tư thế thì tâm thiền sinh sẽ lang thang với ý niệm: đây là đàn ông, đàn bà, tóc, lông, móng, chân, tay v.v… Trong lúc hành Thiền Minh Sát, chúng ta phải đặt trọng tâm vào việc quán sát tứ đại mà bỏ qua ý niệm chế định như chân, tay, mặt, mũi, đàn ông, đàn bà… Điểm cốt yếu để thiền sinh chú tâm vào là những hiện tượng tự nhiên của tứ đại. Mười hai thành phần tiếp theo là: Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, Nước mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu Những yếu tố hay thành phần này có đặc tính lỏng, dính hút nên được ghép vào thủy đại. Chúng ta có thể nhận ra được hỏa đại trong cơ thể chúng ta. Có bốn loại lửa. - Thân nhiệt và - Sức nóng làm cho cơ thể tưởng thành, già nua - Nhiệt độ quá cao khiến chúng ta khó chịu và than phiền là quá nóng. - Nhiệt độ cần thiết để tiêu hóa thức ăn. Bốn loại nhiệt độ này có đặc tính chính là nóng và lạnh. Bởi vậy, khi chú ý đến hỏa đại, chúng ta chỉ chú ý đặc tính nhiệt độ chứ đừng quá chú ý đến đặc tính này. Có sáu loại gió: - gió hướng lên khiến ta nôn - gió hướng xuống giúp nước tiểu và phẩn ra ngoài - gió trong ruột - gió ngoài ruột nhưng nằm trong bụng - mọi tác động của cơ thể như đi, đứng, ngồi, co, duỗi v.v… - hơi thở vào ra Tất cả sáu loại gió này đều có đặc tính bành trướng, rung chuyển, chẳng có cái gì có thể gọi là tôi, ta, linh hồn, vật thể vĩnh cữu, đàn ông, đàn bà, anh, chị v.v… Chúng ta đã nói sơ lược đến tứ đại và biết rằng cơ thể này chỉ là sự tập hợp của tứ đại. Khi các “đại” tập hợp lại thì chúng ta có hình dáng. Và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm vào đó tôi, ta, đàn ông, đàn bà v.v… Do ý niệm sai lầm này nên sự dính mắc phát sinh trong tâm ta. Thật ra, cơ thể chúng ta được so sánh như “mảng bọt trên mặt nước” bao gồm những bong bóng nước mà sự hiện hữu của nó là không khí bên trong. Thọat nhìn những mảng bọt lớn chúng ta có thể thấy chúng là một khối bền vững, nhưng nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy chúng chỉ là những mảng bọt vật chất tạm bợ. Cũng vậy, khi nhìn cơ thể vật chất bằng mắt thường chúng ta thấy nó bền vững, tồn tại lâu dài, hấp dẫn, đẹp đẽ với những bộ phận riêng biệt chẳng hạn như đầu, tay chân v.v… như là một chúng sanh. Dưới con mắt của người không hành thiền thì cơ thể này là một thực thể trường tồn, đáng yêu, có thể kiểm soát, điều khiển được với cái tôi, cái ta được thêm vào trong đó. Và vì thế họ sẽ dính mắc vào chúng một cách đầy tham ái. Tuy nhiên, dưới nhãn quang của người hành thiền thì cơ thể này chỉ là mảng bọt nước trống rỗng, không có cốt lõi, không có gì bên trong, chúng chỉ là sự tập hợp của ba mươi yếu tố đáng ghê tởm, chẳng có gì trường tồn, đẹp đẽ. Đó là cách quán sát cơ thể vật chất xuyên qua trí tuệ của người hành Thiền Minh Sát. Đức Phật dạy rằng: “Dính mắc mạnh mẽ vào các hiện tượng vật chất, Như Lai gọi đó là satta", có nghĩa là chúng sanh, là kẻ còn tham ái vào những hiện tượng vật chất”. __._,_.___ Sayadaw U. Paññādipa Giảng - Hòa Thượng Kim Triệu Sư Khánh Hỷ soạn dịch http://www.thuvienhoasen.org