wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Hắc Đạo, Ngày 17. 18 , quẻ Thương "bất ổn" mọi bề, tuy có niềm vui do mình tạo nhưng vẫn là lo lắng nhiều, căng thẳng cho nhân vật chính và những thành viên liên quan (ái ngại cho bạn!) Có những điều.... mà thời gian dài bạn mới chứng nghiệm nếu ngày đám cưới bạn tốt đẹp! Tôi vẫn hy vọng tôi luận sai trong trường hợp này.
  2. Xác nhận có 2,000,000 đ (hai triệu đồng) của BĐG ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 5,100,000 đ +2,000,000 đ = 7,100,000 đ (bảy triệu một trăm ngàn đồng)
  3. Ngồi thiền cùng tướng Giáp Rất nhanh, hai chân bắt chéo hình hoa sen, hai bàn tay để lên hai vai, hai mắt nhắm hờ, Đại tướng hỏi tôi: “Có phải bố cháu ngồi thiền như thế này không?”... Tôi trả lời: “Ba cháu ngồi như thế nhưng hai bàn tay úp vào nhau và để trước ngực”. Thấy tôi nói thế, Đại tướng liền đổi tư thế như tôi vừa trình bày. Chưa đầy 5 phút ông đã nhập thiền, tôi lặng ngắm nhìn Đại tướng, giờ đây trông ông như một vị Bồ tát đang niệm kinh cứu độ chúng sinh. Trong miền ký ức của ba tôi - nhà văn Sơn Tùng đã có hình bóng Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngay từ khi còn là học sinh Trường tư thục Vũ Đăng Khoa, thị trấn Cầu Giát. Tiếp đến những năm tháng nghe theo tiếng gọi Tổ quốc xếp lại bút nghiên lên đường, ông cùng Phan Hồng Thực, Trịnh Keng, Hồ Hải Kháng, Đặng Văn Thắng vào Trường lục quân Trần Quốc Tuấn khóa VI năm 1950. Và sau này trên chặng đường đi tìm “Đi tìm ẩn tích Hồ Chí Minh” ba tôi mới có điều kiện được kiến diện Đại tướng và ông đã nhận được tình cảm của Đại tướng bằng những tác phẩm viết về Bác Hồ và các vị lãnh tụ kiệt xuất của lịch sử như Búp sen xanh, Bông sen vàng, Trái tim quả đất..., “Cảm” bằng sức lao động của một nhà văn thương binh hạng nặng 1/4, sức khỏe còn 19%. “Cảm” bằng nhân cách, sự khẳng khái, quan niệm và đức tin của một nhà văn. Còn tôi lại có cái may hơn mấy anh chị em trong gia đình là được sống cùng ba mẹ nên mới biết được đôi ba câu chuyện về con người vĩ đại này. Tôi nhớ, từ sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng về nghỉ hưu, hàng năm đến ngày sinh nhật (25/8), Ngày thành lập quân đội (22/12) và ngày Tết Nguyên đán, ba tôi dẫn đầu anh em chiếu văn, có khi cùng con cháu trong gia đình lên chúc mừng Đại tướng sau khi được đại tá Nguyễn Huyên, Thư ký của Đại tướng cho phép. Ngày đó chiếu văn sinh hoạt rất đông khoảng trên 30 người, họ là các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà học giả, nhà giáo, nhà báo, giáo sư, nhà ngoại giao, chuyên viên cao cấp chính phủ quân đội... như: Sơn Tùng, Minh Giang, Mạc Phi, Siêu Hải, Mai Hồng Niên, Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Đào Phan, cụ Nguyễn Trọng Phấn, GS. Viễn Đông Bác Cổ, Phan Ngọc, Hồ Sỹ Giàng, Hồ Sỹ Bằng, Hoàng Nhật Tân, Trần Bá, Cao Ngọc Thắng, Phùng Văn Mỹ, Hoàng Kính, Trần Văn Chan, Kim Côn, Thiếu tướng Đỗ Đức Dục, cụ Ngô Thức, Nguyễn Văn Hiến, Đậu Quý Hạ, Phan Hữu Phúc, Phạm Quốc Vinh, cụ Phí Văn Bái, Phạm Hiện, Trần Văn Hà, Lê Văn Điêng... Đại đa số anh em chiếu văn ngày ấy đều có hoàn cảnh khó khăn nên quà mừng Đại tướng chỉ có sách báo, tranh ảnh do anh em sáng tác, sưu tầm, hoặc góp tiền lại để mẹ tôi lên phố Hàng Quạt đặt thêu bức trướng chúc mừng, còn phần lời chúc thường do ba tôi sáng tác sau nhiều hôm trăn trở, cũng có khi là hộp bánh, bó hoa, phong kẹo sôcôla ngoại. Thường vào những ngày kỷ niệm như thế này, có hàng trăm đoàn khách từ khắp nơi trong và ngoài nước xếp hàng chờ đợi đến lượt vào chúc mừng Đại tướng, nên thời gian rất hạn chế trong khoảng 30-40 phút, vừa đủ cho anh em trong chiếu văn chào hỏi, chúc tụng và có dịp tặng sách, chụp ảnh chung với Đại tướng. Do đó, trước khi chào tạm biệt ra về, ai nấy cũng cảm thấy luyến tiếc. Trong những dịp gặp nhau hiếm hoi như vậy, tôi thấy điều đầu tiên bao giờ Đại tướng cũng chủ động cầm lấy đôi bàn tay thương tật của ba tôi vừa đưa ra chào mà nói: “Sơn Tùng có khỏe không, anh ngồi đây với tôi”. Nhiều lần ba tôi giữ ý tìm cách đứng xa một chút để anh em khác có được điều kiện chụp ảnh chung với Đại tướng làm kỷ niệm. Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi thiền Mùa thu năm 1993, tôi có may mắn được ngồi hầu chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp gần 2 tiếng đồng hồ. Nguyên do tôi có được diễm phúc đó là hôm sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp 25/8/1993, trong đoàn chiếu văn lên chúc mừng có thêm nhà thơ Hồ Khải Đại, người Quỳnh Đôi đem theo món quà mừng là một bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Nho viết trên giấy hồng điều, bài thơ đó như sau: Chung thân bằng hữu thị nhân dân Vi tướng vi sư vi nghĩa nhân Văn Võ song toàn Nguyên Giáp giả Tâm tri thiên hạ sự như thần. Sơn Tùng dịch thơ: Trọn đời vì nước vì dân Là thầy, là tướng, nghĩa nhân làm đầu Võ Văn Nguyên Giáp song toàn Như thần thấu suốt nhân gian lòng người. Vì bài thơ viết trên giấy sợ để lâu ngày sẽ phai, hơn nữa đã là trướng mừng thọ bậc “Trưởng lão” phải được thêu trên vải điều mới trang trọng. Vì vậy, sau khi ra về chú Hoàng Kính nói với mọi người: “Chúng ta nên xin lại bài thơ đó, rồi nhờ chị Mai (tên mẹ tôi) lên Hàng Hòm đặt thêu, phần kinh phí tôi sẽ chịu, còn anh Sơn Tùng dịch nghĩa để mọi người hiểu hết ý thơ”. Từ lý do trên, khoảng một tuần sau ngày sinh nhật, hai mẹ con lên nhà Đại tướng bằng chiếc xe đạp cũ mà tôi thường đi làm hàng ngày. Lúc đó vào độ 4-5 giờ chiều, có lẽ giờ này Đại tướng đã vắng khách nên tôi thấy cửa phòng khách gia đình đầu hồi hướng đối diện với phòng làm việc quân cơ không mở, mà chỉ mở cánh cửa hướng ra khu vườn phía đường Hoàng Diệu. Trước khi đi mẹ tôi đã gọi điện cho Đại tướng nói rõ lý do, nên hai mẹ con vừa bước lên bậc tam cấp vào nhà đã thấy Đại tướng ngồi đợi trên ghế salon, trên bàn để sẵn bài thơ của nhà thơ Hồ Khải Đại. -“Em chào anh, hai mẹ con em lên xin lại anh bài thơ” - Mẹ tôi chủ động chào và nói với Đại tướng - “Chị với cháu ngồi xuống đây uống nước”. Đại tướng vừa nói vừa chỉ tay xuống hai chiếc ghế salong đơn bọc nệm phía đối diện. Rồi hỏi tiếp: “Anh Sơn Tùng có khỏe không chị”. Tôi nhanh nhảu trả lời: “Thưa bác, mấy hôm nay thời tiết thay đổi nên ba cháu lại đau vết thương trên đầu”. Tôi vừa ngừng lời thì mẹ tôi nói tiếp: “Khổ quá anh ạ, anh nhà em còn mấy mảnh đạn trong đầu, thỉnh thoảng lại nhô lên làm chảy máu buốt nhói như dao đâm, nhưng em chẳng biết làm sao” Nghe mẹ con tôi nói thế, gương mặt Đại tướng thoáng buồn, đôi mắt hướng vào tôi hỏi “Thế bố cháu hàng ngày sinh hoạt thế nào, dạo này ăn uống ra sao? -“Thưa bác, ba cháu thường dậy từ lúc 2-3 giờ sáng ngồi thiền, thiền xong thì đi xuống sân tập thể lấy nước để tắm rửa vệ sinh, rồi lên thắp hương ban thờ gia tiên, sau đó mới ngồi vào bàn viết; nếu không viết được gì thì đọc sách cho đến 9-10 giờ sáng, khi có khách đến lại ra tiếp khách. Còn ăn uống thì ba cháu ăn ít lắm, mỗi bữa chừng non nửa bát cơm, chủ yếu ba cháu ăn rau nhiều”. Nghe tôi nói thế, Đại tướng trầm ngâm, đôi mắt hướng nhìn ra hàng cây cổ thụ đứng lặng trong khu vườn phía đường Hoàng Diệu một lát sau, nhìn mẹ tôi ông nói với giọng dặn dò “Tôi nghe nói rau gì bây giờ cũng nhiễm nhiều thuốc trừ sâu lắm chị nhé, bởi vậy chị nên mua giá đỗ cho anh Sơn Tùng ăn; rau giá đỗ lành, rất tốt lại bảo đảm không bị nhiễm thuốc sâu, tôi vẫn thường xuyên ăn rau giá đấy. Còn cháu nói bố cháu buổi sáng ngồi thiền là thiền như thế nào?”- Ông nhìn tôi hỏi.Tôi trả lời: “Thưa bác ba cháu ngồi thiền theo lối “tọa thiền”, nhưng cháu chịu không làm được” Vừa nói dứt câu, tôi thấy Đại tướng ngồi lùi sát thành ghế salon rồi co hai chân lên để chuẩn bị ngồi theo lối “tọa thiền”. Tôi sợ ông ngồi “tọa thiền” trên ghế salon bọc nệm mút sẽ rất khó nếu không khổ luyện qua hàng chục năm trời, nên vội bước tới đỡ chân, nhưng Đại tướng xua tay và nói, “Không cần đâu, bác tự làm được”. Rất nhanh, hai chân bắt chéo hình hoa sen, hai bàn tay để lên hai vai, hai mắt nhắm hờ, Đại tướng hỏi tôi: “Có phải bố cháu ngồi thiền như thế này không?” - Tôi trả lời: “Ba cháu ngồi như thế nhưng hai bàn tay úp vào nhau và để trước ngực”. Thấy tôi nói thế, Đại tướng liền đổi tư thế như tôi vừa trình bày. Chưa đầy 5 phút ông đã nhập thiền, tôi lặng ngắm nhìn Đại tướng, giờ đây trông ông như một vị Bồ Tát đang niệm kinh cứu độ chúng sinh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà văn Sơn Tùng trong buổi trò chuyện về thiền(Ảnh được công bố lần đầu tiên) Sau khi nhập “thiền” xong, Đại tướng trở lại thế ngồi bình thường rồi nói với hai mẹ con. “Tôi có nghe nói người ta xây nhà tình nghĩa cho Sơn Tùng nhưng không hiểu sao anh chị không nhận?”. Mẹ tôi có ý để tôi thưa chuyện với Đại tướng nên ngồi im; biết ý, tôi thay mẹ kể hết cho ông nghe đầu đuôi câu chuyện. Cuối cùng tôi nói thêm: “Thưa bác, ba cháu rất cảm động khi biết Thành đoàn Hà Nội chủ động khởi xướng và bỏ ra 13 triệu đồng để xây nhà tình nghĩa và ba cháu cũng rất biết tấm lòng của lãnh đạo quận Đống Đa lo cấp đất gần nơi ở cũ để xây nhà, những nghĩa cử đó không bao giờ quên. Nhưng ba cháu cũng nghĩ rằng: Nơi ở hiện tại tuy chật không được khép kín, nhưng bù lại sống ở đấy cũng thấy yên tâm, vì xung quanh là bà con trong khu tập thể đều nghèo, chất phác, hơn nữa mọi người ở đấy sống được thì mình cũng sống được. Vì vậy ngôi nhà tình nghĩa kia xin nhường cho người khác có khó khăn hơn”. Sau khi nghe tôi kể xong câu chuyện trên, không biết trong lòng Đại tướng nghĩ gì, nhưng tôi thấy ông ngồi im, đôi mắt trĩu xuống. Đại tướng cứ ngồi lặng đi như thể hóa đá, cho đến khi giáo sư Đặng Bích Hà từ phía sau phòng khách bước ra, tôi nghĩ chắc đến giờ ăn cơm, nên hai mẹ con tôi đứng dậy chào và nhận lại bài thơ trên tay Đại tướng, rồi xin phép ra về khi trời đã nhá nhem tối. Chuyện Đại tướng biết thiền tôi về kể lại với ba tôi, ông nói: “Anh Văn có hai sở thích là đánh đàn pianô và chụp ảnh.Trong album của gia đình, có rất nhiều ảnh do ông tự chụp và chụp bằng máy ảnh của mình, còn việc đánh đàn ngay từ sau khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc, anh Văn đã tập học đàn do cô giáo Nguyễn Thị Hồng Hạnh, vợ nhà văn Đào Vũ hướng dẫn. Và cách nay chừng 30 năm, ba có diễm phúc đã được nghe Đại tướng công diễn bản giao hưởng bốn chương: “Điện Biên Phủ” do Đại tướng và ông Lê Liêm sáng tác. Riêng chuyện Đại tướng ngồi tọa thiền có lẽ ít người được chứng kiến, nhưng ba tin anh Văn từ nhỏ đã tinh thông “nho học”, sau này lại là một cử nhân luật kinh tế, một nhà giáo, một nhà báo, nhà sử học, luật học, nhà khoa học, nhà chiến lược và một thiên tài quân sự. Chừng ấy vốn liếng cũng đủ nói lên anh Văn là một nhân tướng phương Đông tinh thông “nho, y, lý, số” lại sống gần Bác Hồ nhiều năm, nên chuyện anh Văn biết thiền cũng là lẽ tự nhiên thôi”. Tôi nhớ, sau khi thêu xong bức trướng về bài thơ của nhà thơ Hồ Khải Đại trên nền lụa điều, ba phía viền tua vàng rất trang trọng, ba tôi cùng hai cha con chú Hoàng Kính lên nhà Đại tướng. Tại phòng khách gia đình, hai người lại có dịp ngồi đàm đạo thêm với nhau những kinh nghiệm về các thế thiền và lợi ích của thiền trong nỗi lo công việc hàng ngày “Vạn sự như lôi nhất tâm thiền định”. Sơn Định (theo SK&ĐS)
  4. (Tham khảo bài này) “Ngày tận thế năm 2012” dưới cái nhìn Phật giáo GNO - Chấp vào ý tưởng rằng người ta sẽ chết hoặc bị thảm họa trong năm 2012 có thể dẫn đến sự tự mãn tinh thần rất nguy hiểm... Chúng ta nên sống trọn vẹn trong từng phút giây, càng thực hành lòng từ bi và trí tuệ càng nhiều càng tốt. Hỏi: Các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới nói gì về năm 2012?- Đáp: Theo NASA: “Không có điều gì xấu sẽ xảy ra với Trái Đất vào năm 2012. Hành tinh của chúng ta đã và đang tốt đẹp trong hơn 4 tỷ năm qua, và các nhà khoa học đáng tin cậy trên toàn thế giới cho biết sẽ không có mối đe dọa nào liên quan trong năm 2012”. Hỏi: Thế còn cái gọi là thảm họa sắp xảy ra mà mọi người đang nói đến thì sao? - Đáp: Họ có đáng tin cậy hơn so với NASA và những cơ quan tương tự như NASA không? Hay họ chỉ là những người giả danh khoa học, tự xưng là “chuyên gia” dựa trên những huyền thoại, những tin đồn và những điều phi khoa học? Nếu họ đáng tin cậy, họ nên chia sẻ những phát hiện của họ với các tổ chức khoa học hàng đầu, từ đó sẽ công bố công khai bất cứ điều gì là "hợp lý". Nếu vì một lý do nào đó mà họ không thể chia sẻ thì họ phải có trách nhiệm làm cho tiếng nói của mình được nhiều người lắng nghe nhằm thuyết phục mọi người vượt ra khỏi cái bóng của sự nghi ngờ. Hỏi: Liệu NASA và các tổ chức khoa học nhằm che giấu sự thật với chúng ta? - Đáp: Điều này còn tùy thuộc vào việc chúng ta sử dụng trí tuệ của mình để quyết định có nên tin hay không. Các tổ chức khoa học hàng đầu không đạt được lợi ích gì khi che giấu sự thật trong khi những kẻ lừa đảo thì thu được rất nhiều, chẳng hạn như tiền bạc hay có thêm nhiều tín đồ truyền bá những điều không thật mang tính giật gân. Hỏi: Tuy nhiên, dường như là có rất nhiều những lời tiên tri về "ngày tận thế” và những thảm họa? - Đáp: Nhớ lại sự kiện Y2K (năm 2000), là thời điểm chuyển giao của thiên niên kỷ, cũng được tiên tri là “ngày tận thế”. Thế nhưng đã không trở thành sự thật. Ngoài ra còn có nhiều lời tiên tri rằng năm 2012 là “ngày tận thế” dựa trên bộ phim nổi tiếng hư cấu và rất có lợi nhuận “2012”. Kỳ lạ thay, một số người tin rằng những cảnh trong phim được xác định chính xác sẽ xảy ra vào năm 2012, trong khi đó đạo diễn của phim hiện đang lập kế hoạch cho ra tiếp phần tiếp theo có tên là “2013”. Rõ ràng, đạo diễn cũng không tin vào ngày tận thế do chính mình tạo ra. Hỏi: Không phải là sẽ an toàn hơn khi tin rằng một cái gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra sao? - Đáp: Sẽ là an toàn hơn nếu điều khủng khiếp ấy thực sự sẽ xảy ra, nhưng những điều khủng khiếp hơn có thể xảy ra do các báo động giả. Hỏi: Những điều khủng khiếp do báo động giả có thể xảy ra là gì? - Đáp: Có thể là việc tự sát, tự sát cá nhân hay tập thể do quá sợ hãi, trầm cảm, mất hy vọng ... nhiều người sẽ chối bỏ các điều kiện vật chất, các mối quan hệ và trách nhiệm, họ sẽ trở nên vô gia cư và túng thiếu, không có gì để tồn tại sau khi chẳng có việc gì xảy ra. Những chuyện như vậy thường xảy ra trong quá khứ do các báo động giả. Có thể sẽ xảy ra bạo loạn do hoảng loạn từ đại chúng. Hậu quả từ việc lây lan ý tưởng năm 2012 là ngày tận thế là rất đáng quan tâm. Trong thời đại Internet, sự lây lan dễ dàng và nhanh chóng của những ý tưởng sai lầm sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực không thể lường trước được. Hỏi: Có cảnh báo giả nào về vấn đề này gần đây không? - Đáp: Công bố rộng rãi “ngày tận thế” gần đây nhất là vào ngày 21-10-2011. Mặc dù người dự đoán đã dự đoán sai về “ngày tận thế " mười hai lần, nhưng nhiều người vẫn còn tin ông, dẫn đến nhiều tổn thất. Hỏi: Có nhiều báo động giả trong quá khứ không? - Đáp: Trong quá khứ đã có ít nhất 146 dự đoán “ngày tận thế”. Hỏi: Có cách nào nhanh chóng nhận biết một dự đoán "ngày tận thế” hoặc thảm họa là không đúng sự thật hay không? - Đáp: Không có cách để đánh giá chính xác, nhưng hầu hết những người dự đoán hoặc những người có nghĩa vụ phải tin rằng có "ngày tận thế” hoặc thảm họa là họ không từ bỏ tất cả, chẳng hạn như tài chính của bản thân để cảnh báo những người khác về "ngày tận thế". Đây có lẽ là bởi vì họ không tin vào điều đó, hoặc không chắc chắn ở chính mình. Tại sao phải giữ rất nhiều thứ nếu ngày tận thế xảy ra thực sự? Thay vì tất cả các tài sản của họ nên được dùng để tài trợ cho quỹ cảnh báo chung. Như thường lệ, khi ngày được dự đoán trôi qua mà không xảy ra việc gì, họ sẽ tuyên bố rằng do tính toán sai lầm hoặc do thay đổi cộng nghiệp của thế giới, kỳ tích lại xảy ra. Các nhà dự báo có xu hướng thường xuyên cập nhật “những lời tiên tri” của họ trong một nỗ lực nhằm giữ lại các tín đồ theo họ. Bởi vì mỗi năm có có xu hướng có nhiều thảm họa tự nhiên cho nên bất kỳ một thảm họa nào cũng có thể sẽ được dán nhãn là kết quả của việc giảm nhẹ của một thảm họa lớn hơn nhiều. Cần lưu ý cũng có nhiều giáo phái tự tử cho "ngày tận thế” với các nhà lãnh đạo và những tín đồ thực sự từ bỏ tất cả mọi thứ bằng cách tự giết chết lẫn nhau do niềm tin của họ. Hỏi: Báo động giả như vậy có thể gây nguy hiểm về mặt tinh thần không? - Đáp: Có, bởi vì cuộc sống là không thể đoán trước được, cái chết có thể tấn công bất cứ ai ở bất kỳ thời điểm nào trước khi "ngày tận thế” được dự đoán xảy ra. Bám theo niềm tin rằng người ta sẽ sống đến "ngày tận thế” có thể dẫn đến sự trì hoãn trong việc thực hành tâm linh do nghĩ rằng vẫn còn dư nhiều thời gian. Mỗi giây, có nhiều người chết do nguyên nhiều nhân khác nhau trên khắp thế giới, nhiều người trong số họ không mong đợi cái chết đến sớm như vậy. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta phải hoảng loạn bởi vì việc thực hành tâm linh đòi hỏi sự điềm tĩnh về tâm trí và sáng suốt. Tất nhiên, cái chết cũng có thể xảy ra sau ngày dự đoán. Trong thực tế, về mặt thống kê điều này có thể xảy ra nhiều hơn đối với hầu hết chúng ta. Hỏi: Có quan điểm của Phật giáo về năm 2012? - Đáp: Có thể nêu ra một trích đoạn quan trọng sau: "Mặc dù không có lời tiên tri nào của Phật giáo (trong các Kinh điển) về bất kỳ sự kiện đặc biệt xảy ra vào năm 2012, thế nhưng tôi cũng muốn nói đến một lời “tiên tri” về một sự thật khách quan. Như thế này ... Do cái chết sẽ xảy ra và ta không biết chắc chắn khi nào nó đến, chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào trước năm 2012. Chúng ta thậm chí có thể chết vào ngày hôm nay, bởi vì cuộc sống này không chắc chắn, trong khi cái chết là điều chắc chắn. Cho dù bạn có tin vào một cái gì đó tệ hại sẽ xảy ra vào năm 2012 hay không, thì bạn cũng nên luôn có ý thức sống một cuộc sống trọn vẹn với chánh pháp - tức là hiện tại. Bởi vì Phật tử tin vào hiện tượng tái sinh (khi chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi), cả chúng hữu tình cũng như toàn bộ hệ thống thế giới, thì sự "kết thúc của thế giới" vật chất này là điều có thể chấp nhận được đối với chúng ta, trái lại sự kết thúc đời sống tinh thần của chúng ta mới thực sự là đáng sợ nhất. Đức Phật đã khuyến khích các đồ đệ bằng những lời cuối cùng sau: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tận lực liên tục chuyên cần". Hỏi: Có lời khuyên nào đó của Đức Phật về vấn đề này không? - Đáp: Dưới đây là lời dạy vượt thời gian của Đức Phật trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: Đại ý như sau: “Đức Phật hỏi một Sa môn: "Tuổi thọ của con người dài trong bao lâu?" Vị sa môn trả lời: "Một vài ngày". Đức Phật bảo: "Ông chưa hiểu Đạo”. Ngài lại hỏi một Sa môn khác: "Tuổi thọ của con người dài trong bao lâu?". Câu trả lời là: “Bằng thời gian của một bữa ăn". Đức Phật bảo: "Ông chưa hiểu Đạo". Ngài hỏi một Sa môn khác nữa: "Tuổi thọ của con người là bao lâu?". Vị Sa môn trả lời: "Chỉ dài bằng một hơi thở". Đức Phật nói: "Đúng vậy! Ông là người hiểu Đạo”. Hỏi: Điều đó có nghĩa là gì? - Đáp: Có nghĩa là cuộc sống chỉ dài lâu như mỗi hơi thở, hơi thở tiếp theo có thể không đến sau khi hơi thở này kết thúc. Đây là “lời tiên tri” xác thực nhất, bởi vì cuộc sống thực sự là không chắc chắn trong từng khoảnh khắc. “Ngày tận thế” chính xác, hay nói đúng hơn, ngày chết của mỗi người là khác nhau, trừ một số trường hợp chết cùng nhau. Nếu cho rằng thế giới sẽ không kết thúc vào năm 2012, nhưng sẽ vẫn có thảm họa lớn với một số người đang sống, bằng chứng là vẫn có nhiều người chết do thảm họa mỗi năm. Đối với những người đang bị trọng bệnh hay đang chịu khổ đau thì đó đã là "ngày tận thế” hay ngày thảm họa. Chúng ta đã và đang trải nghiệm với những thứ đó. Mặc dù những thảm họa này không phải là ngày tận thế đối với chúng ta, nhưng khả năng phải đối mặt với một thảm họa chết người đã hiện diện trong mọi thời điểm trong tất cả mọi người. Không có cách nào để nói chắc chắn khi nào ta sẽ chết. Chấp vào ý tưởng rằng người ta sẽ chết hoặc bị thảm họa trong năm 2012 có thể dẫn đến sự tự mãn tinh thần rất nguy hiểm. Vì thế, chúng ta nên sống trọn vẹn trong từng phút giây, càng thực hành lòng từ bi và trí tuệ càng nhiều càng tốt. Những thảm họa trong thời gian gần đây dường như ngày càng nguy hiểm hơn là một lời nhắc nhở tốt đối với chúng ta về một cộng nghiệp xấu trong quá khứ. Hỏi: Nhưng tôi vẫn còn lo lắng về cái chết bất ngờ sẽ xảy ra vào một ngày nào đó, có thể là vào năm 2012 hay một lúc nào đó? - Đáp: Trong quan điểm Phật giáo, nơi an toàn nhất và tốt nhất để tái sinh là cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, được đánh giá cao bởi tất cả chư Phật trong Kinh A Di Đà, nơi đó không có đau khổ hay thiên tai, nơi đó chỉ có hạnh phúc tinh thần. Đây là trường học lý tưởng để được giác ngộ và hướng dẫn người khác tiến tới giác ngộ. Bạn có thể tìm hiểu thêm về giáo lý Tịnh Độ, để biết cách tu hành nhằm được vãng sinh nơi đó thông qua việc niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà và các thực hành khác có liên quan. Đối với các hành giả tu theo Tịnh Độ, khi nhận thức được rằng cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, họ sẽ bình tĩnh và tinh tấn niệm Phật A Di Đà càng nhiều càng tốt trong cuộc sống hàng ngày nhằm đạt đến cảnh giới nhất tâm, sẵn sàng cho ngày về Tịnh Độ - cho dù thời điểm đó có xảy đến bất ngờ hay không. Vì thế lời tiên tri về ngày tận thế không còn là vấn đề to tát. Văn Công Hưng (Theo The Buddhist Channel)
  5. Lời tiên tri trong văn hóa dân gian. QUA HÌNH ẢNH CON RỒNG Lúc còn nhỏ, tôi cùng các bạn trong “khu chợ” (vì tôi sống khu chợ), thường hay tụ họp vào buổi tối chơi đàn, ca hát cùng chơi nhiều những trò chơi. Trong đó, có trò chơi: “Rồng rắn lên mây”. Có người gọi đó là trò chơi: “Rồng rắn cắn đuôi”. Thật tâm mà nói, tôi không biết trò chơi này từđâu ra? Nguồn gốc xuất xứ nó thế nào? Có từ bao giờ? Ai chỉ dạy cho? Chịu! Chỉ biết lúc còn nhỏ, tôi hay chơi trò chơi này. Trò chơi đó như sau: Một em làm thầy thuốc, số còn lại bám nhau sắp hàng một, tay người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía trước. Sau đó, tất cả đi lượm qua lượm lại. Em đi đầu dẫn cảđoàn, vừa đi vừa hát: "Rồng rắn lên mây, có cây lúc lác, có nhà hiển vinh. Thầy thuốc có nhà hay không?" Người đóng vai thầy thuốc trả lời: „Thầy thuốc đi chơi!“ (hay đi chợ, đi câu cá… tùy ý mà chế ra). Thường thầy thuốc không có nhà để rồng rắn đi lượn quanh sân hai ba lượt. Cuối cùng thầy thuốc có nhà. Thầy thuốc hỏi: "Rồng rắn đi đâu?". Em cầm đầu đáp: "Rồng rắn đi lấy thuốc cho con". Thầy thuốc hỏi: "Con lên mấy?" Rồng rắn đáp: "Con lên một". Thầy thuốc nói: "Thuốc chẳng ngon". (Cuộc đối đáp tiếp diễn cho đến khi rồng rắn trả lời "con lên mười"). Khi ấy thầy thuốc kết luận: "Thuốc ngon vậy!". Ðoạn thầy thuốc lên tiếng: "Xin khúc đầu". Rồng rắn cho biết: "Những xương cùng xẩu!" – Thầy thuốc nói: "Xin khúc giữa." Rồng rắn nói: "Những máu cùng me." Cuối cùng thầy thuốc: "Xin khúc đuôi"; thì con Rồng nói: "Tha hồ thầy (mà) đuổi!". Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách nào mà bắt cho được người cuối cùng trong hàng. Ngược lại, thì em cầm đầu rồng rắn phải giang thẳng hai tay để chắn không cho thầy thuốc bắt được cái đuôì (người cuối cùng) của mình. Thầy thuốc cố gắng chạy qua để tóm được em đứng sau rốt. Ðoàn rồng rắn càng dài thì cuộc đuổi bắt càng náo nhiệt. Khi bắt được, em đó phải thay thầy thuốc và cuộc chơi lặp lại từ đầu. Ý nghĩa tiên tri trong trò chơi này Trò chơi này có thể xếp vào thể loại đồng giao. Tại sao trò chơi này có thể là một sấm ngữ? Trước hết, chúng ta chú ý đến chữ Rồng. Chữ Rắn thêm vào để chỉ con Rồng léo lắt uyển chuyển như con rắn. Ngoài ra, con rắn không có nghĩa gì trong trò chơi này. Dân tộc Việt Nam chúng ta tự hào là có nguồn guốc xuất phát từ Con Rồng Cháu Tiên. Như vậy, Rồng là biểu tượng đặc trưng cho người Việt Nam. Nếu chúng ta đọc kỹ cách đối thoại giữa thầy thuốc và con Rồng rắn, chúng ta sẽ thấy câu đối thoại không có liên quan (logic) gì với nhau. Nếu nói: „Xin thuốc“ thì nhìn bệnh mà chuẩn bệnh, không ai đòi tuổi cho thuốc. Sắp chết đến nơi, mà thầy thuốc còn nói, „thuốc chưa ngon“, thì có lẽ con bệnh sẽ chết mất! Do đó, câu hỏi và câu trả lời không ăn khớp với nhau. Sự không logic thứhai nữa, đó là khi nói: „Lên một tuổi“, thì „thuốc chẳng ngon“. Thì cùng lúc tăng tuổi lên tới mười, để có „thuốc ngon“. Như vậy, sự kiện tăng tuổi để thích ứng với thuốc, chứ không ngược lại. Chỉ có duy nhất „thuốc dùng cho trẻ em lên mười!“. Ta hiểu lời sấm truyền trong trò chơi này ở chỗ nào? Dân tộc Việt Nam là biểu tượng con Rồng, không thoát được mệnh trời. Đó là „có nhà Hiển Vinh“, một đấng Trời cao. Cứ mỗi lần tăng năm, là tăng vận mệnh của dân tộc càng gần tới thời vận. Con Rồng xin được chữa bệnh, thoát khỏi số mạng. Nhưng Thầy thuốc không ban. Mà thầy thuốc đợi tới hạn để „ra tay“. Khi „thuốc ngon vậy“ là lúc Thầy thuốc xin con Rồng, chứ không phải con Rồng xin thầy có thuốc chữa bệnh. Vậy, thầy thuốc xin cái gì? Thầy thuốc xin cái mạng sống của con Rồng. Như vậy, Rồng đi xin thuốc, không phải là để chữa bệnh cho con, song là để nộp mạng sống cho thầy thuốc. Và con Rồng trả lời rất ư đầy huyền bí. Nào là: „Những xương cùng xẩu“; và „Cùng máu cùng me!“,Cuối cùng: „Tha hồ mà đuổi!“. Lạ! Trả lời gì mà đau thương đến thế! Có ai hỏi tới đâu? Chẳng câu nào liên quan tới câu nào. Sao lại có những câu trả lời tan thương như thế, trong trò chơi của trẻ em chứ?
  6. Tết Dương Lịch Mới Năm 2011 đã trôi qua, vào dịp cuối năm, tạp chí Time ngoài bìa đã nêu lên tựa đề chính cho một năm qua “Người của năm”. Báo đã đưa ra một loạt những nhân vật và hình ảnh đáng chú ý nhất, kể cả những cưộc chạy đua tranh cử hay những hình ảnh thời sự không mấy ai quan tâm. Nhưng đặc biệt tờ tạp chí nổi tiếng trên thế giới trong dịp cuối năm đã dành nhiều trang cho một chủ đề “Người Phản Kháng”. Vậy vào năm 2012 những chuyện gì có thể xẩy ra? Thông thường không ai dự đoán được tương lai, nhưng tôi thiết nghĩ trừ những thiên tai do ông Trời tạo ra, còn mọi biến cố đều bắt đầu từ những suy nghĩ ở trong óc của con người, rồi từ tư tưởng đưa đến hành động là chuyện thường tình. Bởi vậy chúng tôi muốn nhìn trước hết đến lãnh vực khoa học thay vì chính trị. Tạp chí Khoa học Discover trong số ra ngày Dec 10, với lời ghi chú nhỏ: Báo dành cho tháng January/February 2012, và bìa ngoài ghi “100 chuyện hàng đầu của năm 2011”. Bài đầu tiên số 1 có tựa đề Nhanh hơn Ánh sáng, trong đó nóí đến vụ Cơ quan Khảo cứu Hạt nhân (CERN) ở Geneva Thụy Sĩ, sau 3 năm khảo cứu đã tìm thấy những hạt neutrino đạt được tốc độ nhanh hơn ánh sáng 1 phần 17 triệu của giây đồng hồ.Một chút thời gian nhỏ xíu đó có ý nghĩa gì mà phải nói đến? Nhưng trong khoa học cấp cao, nó có một ý nghĩa đặc biệt. Thời gian có thể chảy ngược giòng, tức là trước khi nó được gửi di, nó đã tới dích rồi chăng? Cố nhiên theo lý lẽ thông thường nhất, hạt không thể nào chạy tới đích nếu ta không nhấn nút cho nó chạy. Dù vậy điều đó vẫn có ý nghĩa là ta đã nhìn thấy tương lai trong hơn 1 phần triệu của giây đồng hồ. Chuyện của các nhàn khoa học cao cấp có vẻ như một chuyện khôi hài.Thực tế về ước lượng tương lai. Chúng ta không thể nào quên thuyết tương đối của nhà bác học Albert Einstein. Năm 1905, nhà bác học lừng danh này đã tìm ra thuyết tương dối với tốc độ của ánh sáng. Như vậy ông đã đoán chắc đuợc về tương lai, khi ánh sáng phát ra từ đâu và trong bao lâu nó sẽ tới đích.Và các nhà thiên văn có thể đo được khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt trời, cũng như khoảng cách giữa chúng ta và các vì sao.Trong các ngành khoa học khác, người ta còn thể dự đoán được tương lai một cách rất hữu ích. Chẳng hạn về Y học người ta có thể tìm cách lọc máu để chống bệnh nan y AIDS. Ngoài ra trong các bệnh như bệnh lao,ung thư, người ta cũng có những phương pháp phòng bệnh kiến hiệu hơn, chống lại bệnh và chữa hết bệnh rất rẻ tiền. Tóm lại đó không phải là những căn bệnh của các con nhà giầu.Tạp chí Scientific American trong ấn bản tháng 3 năm 2011 đã nêu ra chủ đề về khoa Thần kinh học cho thấy một sự kiện li kì là suy tư, sự nghĩ ngợi trong óc của con người, sau một thời gian qua thường nẩy trở lại như thế nào để khám phá ra những sự bí mật của vũ trụ bao la và những biến cố thiên nhiên có thể xẩy ra trên Trái Đất để từ đó có những sự chuẩn bị và biện pháp thích ứng để chống lại mọi sự nguy biến.Carl Schoonover là một nhà não học tại Đại học Columbia và tác giả cuốn sách “Hinh ảnh của Tâm trí: Một cái nhìn về bộ óc từ thời cổ xưa cho đến Thế kỷ 21”, trong đó ông nói đến một kỹ thuật mới về tạo hình ảnh trong máy computer để cho thấy các phân tử trong óc thông tin cho nhau như thế nào. Các nhà bác học đã thí nghiệm vào một bộ óc của con chuột để xem thấy hình ảnh ba chiều của bộ óc, từng tế bào một trong bộ óc đã thông báo cho nhau như thế nào.Bộ óc của con người cũng vậy.Hiển nhiên đó cũng là vật thiên tạo, tức là do một bộ máy của Trời tạo ra cho mọi loài sinh vật.Bộ óc người và bộ óc vật càng ngày càng mạnh hơn, dó là cái trí đã tuân theo luật Trời. Riêng tôi có một suy nghĩ nho nhỏ xin bàn góp. Riêng bộ óc của con người ngày càng mạnh hơn, giỏi hơn, vì còn có một yếu tố khác vô củng quan trọng. Đó là ngoài cái trí, còn có cái tâm đức độ của con người. Chính cái tâm đó đã làm con người hơn con vật. Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh sites blog
  7. BÀI HỌC TỊNH TÂM Một thiền sinh hỏi: “ Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, vợ con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để rũ bỏ được oán hờn và thù ghét đây? ”/Vị sư phụ đáp: “ Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ ”. Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “ Con đã tha thứ cho họ sư phụ ạ. Nhẹ cả người! Coi như xong ”. Sư phụ đáp: “ Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra và thương yêu họ ”. Người đệ tử gãi đầu: “ Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương họ thì...Thôi được con sẽ làm ” Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình. Sư phụ gật gù bảo: “ Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy ”. Lần sau người đệ tử trở lại, lần này tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Người đệ tử hớn hở thưa rằng mình đã ghi ơn hết mọi người vì nhờ họ mà anh đã học được sự tha thứ! Sư phụ cười: “ Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ? ”. Sưu Tầm & Chia Sẻ
  8. Sáng nay Cô đã gởi Thần Chú Giải thoát đến các thành viên Rest in Peace, ThuyAnh88, Dzule, Bác của Ajinomoto,BuiBaochau2506.Hy vọng các bạn sớm nhận được và hồi đáp.
  9. Cô xin gởi lời trân trọng đến mục đích phát triển Thần Chú của nhanqua việc làm nào xuất phát từ động cơ cao đẹp cũng tốt cả " từ thiện giúp người nghèo và bệnh tật, thần chú giúp giải nghiệp cho kiếp nạn." Thần chú được phát triển rộng rãi cũng nhờ vào sư phát tâm của nhiều ACE như con, Cô chỉ là người đưa đò hay ăn mày công đức thôi chứ riêng cô có sức nào 1 mình mà làm nổi việc Phật Sự to lớn này,!Tuy nhiên cô không thể xác nhận tại Topic trên đây bởi 2 chữ Từ Thiện đã bị quá nhiều người vay áo nên chủ trương của Diễn đàn cần phải công khai thu chi để chính danh cùng các nhà hảo tâm đồng thời cũng là 1 cách tường minh việc mình đảm đương, Sự tín nhiệm có tăng trưởng đều đặn nói lên việc làm hợp lòng người thì luôn nhận sự ủng hộ của cả tâm và tài con ah.Vài hàng dông dài mong con thông tư tưởng, sau khi đọc dòng xác nhận theo nội dung của Topic này. Xuân mới về Chúc con vạn sự an lành.! Xác nhận có 3,000,000 đ (ba triệu đồng) của nhanqua ủng hộ Quỹ từ thiện. Quỹ hiện có : 2,100,000 đ + 3,000,000 đ = 5,100,000 đ (năm triệu một trăm ngàn đồng)
  10. Đã nhận 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Longphibaccai ủng hộ Quỹ Từ Thiện.Quỹ hiện có: 1,900,000 đ + 200,000 đ = 2,100,000 đ (hai triệu một trăm ngàn đồng)
  11. Chuyển giờ và khắc giao thừa ! Kính chúc Bác Thiên Sứ Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Lý học Đông Phương bước sang 2012 đạt nhiều bước tiến trong việc vinh danh nền VĂN HIẾN VIỆT. Chúc toàn thể ACE thành viên hội viên 1 năm mới thành công hạnh phúc thắng lợi hoàn mỹ.
  12. TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN 2011 Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Wildlavender Quỹ từ Thiện của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương đã được sự tín nhiệm của quí vị hội viên giầu lòng hảo tâm đóng góp, nhằm giúp đỡ cho những mảnh đời bất hạnh. Qua một năm tích cực hoạt động, nhân Tất Niên năm 2011 và chuẩn bị bước sang năm mới, thay mặt ban Tử Thiện của Trung Tâm, chúng tôi công bố tường minh tổng kết hoạt động của Quỹ Từ Thiên như sau: Được sự đóng góp của ACE sinh hoạt trong và ngoài diễn đàn từ tháng 1/2011 đến 31/12/2011. Số tiền tổng cộng nhận được là: 135,100,000 đ (một trăm ba mươi lăm triệu một trăm ngàn đồng). Đã trao tặng 133,000,000 đ (một trăm ba mươi ba triệu ngàn đồng) 25 trường hợp và các hoàn cảnh đặc biệt trong đó gồm có: * 1 chương trình Tôn tạo Tịnh Thất Quan Âm tỉnh Lâm Đồng. * 1 chương trình chia sẽ Nhân Dân Nhật Bản trong trận Động đất sóng thần lịch sử. * 5 Chương trình trao tặng suất ăn cho Bệnh nhân nghèo đang điều trị tại BV Ung Bướu TP HCM. * 3 trường hợp Các cháu mồ côi. * 15 cá nhân hoạn nạn hiểm nghèo. Thay mặt Ban Điều hành Diễn Đàn, xin chân thành tri ân những tình cảm đóng góp của tất cả ACE xa gần đã tạo điều kiện cho chúng tôi làm chiếc cầu nối đến với bao mãnh đời.Nguyện hồi hướng những phước báu này đến với toàn thể chúng sanh đang còn ngập chìm trong bể khổ nhân gian. Xin nhận con làm công cụ hòa bình, nơi nào hận thù xin cấy trồng yêu thương.Nơi nào hận thù ,xin cấy trồng tha thứ..........
  13. Danh sách này còn thiếu Trung(Phu Nhân) phải ko ah?
  14. Happy Birthday and Enjoy TuyetMinh! Năm mới ! Xinh tươi mới !
  15. Rest in Peace và các bạn thân mến! Đây là tâm nguyện và cũng là đại nguyện mong đem lại lợi lạc cho toàn thể chúng sinh của những ACE đã đóng góp tài vật cùng công sức hành trì của các Thánh Tăng Rinpoche để Wild thực hiện, một lời cám ơn của các bạn đủ tăng nhiều phước báu, nhưng ở đây chúng tôi "nguyện hồi hướng tất cả công đức này đến những ai còn đang vướng kiếp nạn và nguyện không giữ lại chút gì cho riêng mình"" vì lẽ trên Wild chỉ mong sao các bạn nhận được nhiều sự chuyển hóa từ thần chú GIẢI THOÁT màu nhiệm.
  16. Đã xem tin nhắn của ajinomoto, những gì cần kíp để giúp gia đình Ajinomoto, Cô gởi đầy đủ hơn! Cần thêm thông tin trao đổi với cô qua dt đính kèm ngoài bì thư. Chúc các thành viên của gia đình tai qua nạn khỏi !
  17. Bác sẽ gởi đến con 15 bản chú có được không? Có thể vào ngày mai nhưng không biết Bưu Điện có nghĩ lễ thì gián đoạn 1,2 ngày chậm đến. Hy vọng con phân đủ cho các bạn và hồi đáp Bác ở đây nhé!
  18. Ngọn tháp 'chọc trời’ trong lòng đất ở Việt Nam Đó là tòa bảo tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11, gắn liền với truyền thuyết về chiều cao “chọc trời” mà những người đứng ở kinh thành Thăng Long (cách 20km) vẫn có thể nhìn thấy. Cuối năm 2008, trong quá trình đào móng xây dựng lại tòa Tam bảo trong Dự án trùng tu, tôn tạo chùa Phật Tích (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nền móng của một tòa bảo tháp kỳ vĩ được xây dựng từ thời Lý mà sử sách đã ghi lại. Theo các sử liệu, tòa tháp 1.000 tuổi này có chiều cao 42m, tương đương với một tòa nhà 10 tầng thời hiện đại. Trải qua nhiều thế kỷ, bảo tháp đã bị đổ và mất dần dấu tích trong các triều đại sau nhà Lý. Nền móng bảo tháp được phát lộ có hình vuông, trong lòng rỗng, được xây dựng trên sườn đồi và nằm sâu trong lòng đất 3,2m, xung quanh được gia cố, đầm chặt bằng sỏi và đất sét đồi. Phần đáy của móng tháp cao 8,7m so với bờ giếng cổ thời Lý dưới cổng chùa Phật tích. Kích thước chân tháp 9,1m x 9,1m, tường tháp mỗi cạnh dày trung bình 2,4m đến 2,43m, lòng tháp rộng 4,18 đến 4,20m, diện tích 82,81m2. Móng tháp có hai tầng xây giật cấp, chồng lên nhau. Gạch xây tháp được xếp theo hàng ngang, phần đầu gạch đâm ra ngoài, mỗi hàng trung bình xếp 6 viên gạch với nhiều kích thước khác nhau. Chất kết dính để xây dựng tháp hoàn toàn là đất sét nhuyễn, không hề có bất kỳ một chút vôi vữa hay chất kết dính nào khác. Các mạch vữa mỏng đến nỗi nhìn bề ngoài chẳng khác gì các viên gạch được xếp chồng lên nhau… Với các đặc điểm trên, các chuyên gia đã nhận định kỹ thuật xây nền móng tháp ở chùa Phật Tích là hết sức độc đáo, chưa bao giờ thấy trong các công trình khảo cổ ở Việt Nam. Bởi vậy, các nhà khoa học đã nhất trí bảo tồn nền móng tháp trong lòng chùa Phật tích bằng một phương pháp táo bạo, chưa bao giờ thực hiện ở Việt Nam, đó là xây dựng chùa mới phía trên nền móng tháp nhưng vẫn bảo toàn nguyên vẹn di tích này bằng một khu vực bảo tồn và trưng bày trong lòng đất. Giờ đây, những khách thập phương lần đầu tiên đi thăm chùa Phật Tích sau quá trình trùng tu sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi đặt chân vào tòa Tam bảo của chùa. Tại đây, ngay dưới chân pho tượng A-di-đà làm bằng đá – một bảo vật quốc gia có từ thời Lý, du khách sẽ nhìn thấy nền móng tòa bảo tháp hoành tráng nằm trong lòng đất thông qua một lớp kính trong suốt thay cho mặt sàn. Phía sau tòa Tam bảo là hai lối đi xuống tầng hầm, nơi có thể quan sát cận cảnh di tích nghìn tuổi này từ nhiều góc độ khác nhau… Dưới đây là một số hình ảnh PV ghi nhận: Tòa tam bảo của Chùa Phật Tích là nơi đặt tượng A Di Đà bằng đá - bảo vật quốc gia có từ thời Lý. Ngay dưới chân tượng nền móng tòa bảo tháp hoành hiện ra nằm trong lòng đất, sau một lớp kính trong suốt thay cho mặt sân. Dưới ánh đèn huyền ảo và không gian thanh tịnh của ngôi chùa, tàn tích của tòa tháp thiêng liêng như gợi lại vầng hào quang của triều Lý- triều đại lập quốc của người Việt. Phía sau tòa tam bảo là 2 lối đi xuống tầng hầm nơi có thể quan sát cận cảnh di tích. Nền móng bảo tháp có hình vuông, trong lòng rỗng. Mỗi cạnh của tháp rộng 9,1m Mỗi cạnh của tháp rộng 4m2. Tường tháp dày 2m4 Gạch xây tháp được xếp theo hàng ngang phần đầu gạch đâm ra ngoài mỗi hàng trung bình xếp 6 viên gạch với nhiều kích thước khác nhau. Chất kết dính để xây dựng tháp hoàn toàn la 2đất sét nhuyển, các mạch vữa mỏng đến nỗi nhìn bề ngoài chẳng khác gì các viên gạch xếp chồng lên nhau. Trên mỗi viên gạch có đề: Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo (Vua thứ ba, đời Lý , năm Long Thụy Thái bÌnh tứ niên tạo) hoặc "Chương Thánh Gia Khánh". Theo sử sách, Long Thụy Thái Bình là niên hiệu của Vua Lý Thánh Tông từ năm 1504 - 1508. Đến năm 1509 , Vua đổi sang niên hiệu " Chương thánh Gia Khánh" cho đến năm 1065 . Long Thụy Thái Bình năm thứ tư tức là năm 1507. Tượng A Di đà nhìn từ nền móng của tòa bảo tháp chọc trời một thuở. Các chuyên gia nhận định kỷ thuật xây nền móng tháp ở chùa Phật Tích là hết sức độc đáo chưa bao giờ thấy trong các công trình khảo cổ khác ở VN. Chùa Phật Tích (Vạn Phúc tự) nằm dưới chân núi Phật Tích (còn gọi là núi Lạn Kha) thuộc huyện Tiên Du,tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong những ngôi chùa đầu tiên ở nước ta có dấu ấn Phật giáo Ấn Độ, truyền vào từ khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên. Nơi đây từng là một trong những trung tâm của Kinh đô Phật giáo Luy Lâu, với những công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ. Trong đó, nổi tiếng nhất là tòa bảo tháp được xây dựng từ thời Lý, kết tinh của nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật đương thời được nhiều sử liệu ghi lại. Hồng Quân ( Đất Việt
  19. Chỉ cần có tín tâm vì đây là Thần Chú của Đức Phật không đòi hỏi một nghi thức nào cả!
  20. Bản chất của khổ đau Giác Ngộ - Đức Phật đưa ra bốn chân lý là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Mở đầu Phật dạy Khổ đế, cho nên nhiều người lầm tưởng đạo Phật là yếm thế vì cho rằng cuộc đời này là biển khổ. Nhưng thực chất của đạo Phật ở Diệt đế, tức Niết bàn. Tập đế là nguyên nhân đưa đến khổ đau và Đạo đế là phương pháp tu tập để thoát khỏi khổ đau, chứng Niết bàn an lạc. Vì vậy, đạo Phật là đạo dẫn đến sự an lạc, không phải khổ đau. Đức Phật nói rằng thế giới không khổ đau, mà hoàn toàn an lạc thanh tịnh; khi tâm chúng ta thanh tịnh thì thế giới an lạc - Ảnh minh họaĐức Phật dạy rằng do vô minh, vọng kiến ngăn che, nên sanh các tánh ham muốn khác nhau mà tạo ra các tội sai biệt, mới bị khổ đau. Như vậy, khổ không có thực, nhưng do con người tạo ra. Khổ đau này ở đâu? Khổ đau có trong sinh tử, hay trên hiện tượng giới là thế giới sanh diệt, tức thế giới ảo mới có sanh diệt thì mới có khổ đau. Vì khổ đau là ảo, không thực, nên tùy theo tham vọng của từng người mà có khổ đau khác nhau. Đức Phật tu đắc đạo, được an lạc hoàn toàn, tức Ngài trở về sống với thể tánh sáng suốt. Và từ thể tánh khởi lên mới có tư tưởng chơn như duyên khởi, tức từ bản thể sáng suốt khởi, cho nên tạo thành thế giới quan an lạc hoàn toàn là Niết bàn và Tịnh độ. Thế giới an lạc là Tịnh độ, tâm Phật là Niết bàn. Đức Phật nói rằng thế giới không khổ đau, mà hoàn toàn an lạc thanh tịnh; khi tâm chúng ta thanh tịnh thì thế giới an lạc. Vì tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt, sẽ không khởi vọng kiến vô minh. Vọng kiến vô minh là thấy sai, chấp sai và hành động sai dẫn đến vô số tội lỗi, cho nên kết cuộc là khổ đau. Vì vô minh vọng kiến sanh ra khổ đau, nên Đức Phật đưa ra phương pháp thấp nhất cho loài người tu là 37 trợ đạo phẩm, gọi là Đạo đế, tức pháp tu diệt khổ từ thấp đến cao. Bước thứ nhất, Phật dạy muốn phá bỏ ảo giác này, chúng ta mượn đối tác với ảo giác để dứt trừ nó. Nghĩa là từ thế giới hiện tượng vật chất là Hữu, Phật đưa ra pháp Không để làm đối tác tu hành. Vì vậy, bước đầu Phật dạy chúng ta quán Không để thấy tất cả mọi hiện tượng trên cuộc đời này là Không, thì sẽ chấm dứt được khổ đau trong sinh tử. Vì nghĩ mọi thứ là có, là sung sướng, mới chạy theo ảo giác này, khiến cho ta phải bị hết khổ này đến khổ khác. Đức Phật ví như người khát nước trong sa mạc thấy nước, nhưng cái thấy đó chỉ là ảo giác, không phải nước thật, cho nên càng tiến sâu vào để lấy nước thì càng khát thêm mà thôi. Vì vậy, khổ đau phát xuất từ cái thấy có, mới khởi tâm ham muốn, để rồi phạm phải những tội lỗi khác nhau. Từ thế giới sanh diệt quán Không để đối trị với Hữu, tức nhìn thế giới này là Không, nên vọng tâm không sanh, chúng ta có được cái ảo giác thứ hai là Niết bàn. Mặc dù Niết bàn này tuy không thực, chỉ là ảo giác, nhưng không làm chúng ta đau khổ như ảo giác sanh diệt. Vì vậy, người phát tâm tu hành đầu tiên phải thực tập pháp này. Thực chất cửa chùa gọi là Không môn. Thiền sư Thanh Từ nói Phật tử đứng trước cửa chùa, không chịu bước vô. Đừng hiểu lầm rằng tới chùa mà không chịu vô, lại đi trở ra. Ý Ngài muốn nói rằng đã đi thẳng vô chùa rồi, nhưng không vào được cửa Không, giải thoát của Phật. Họ vẫn đi chùa, lạy Phật, tụng kinh, nhưng không hiểu Phật pháp, mà cứ chấp vào văn tự kinh, chấp vào tượng, là họ làm nô lệ vật chất của đạo Phật, trong khi không nô lệ vật chất thế gian. Phật tử từ nhà đến chùa, trên đường đi, đầu óc nghĩ đủ thứ, bước vô chùa tâm trí lại tiếp tục lăng xăng, nói năng lăng xăng và hành động lăng xăng, là họ đã vào chùa, nhưng sống ngoài cửa Không. Với tâm đầy ắp những dữ kiện như vậy, nên quỳ trước tượng Phật mà khóc sướt mướt, kể lể đủ chuyện, là chưa vào chùa. Bước vào chùa, ta phải được giải thoát. Điển hình như Mã Thắng nhập cửa Không, tâm Ngài hoàn toàn trống không, không khởi bất cứ vọng niệm tham đắm. Thân tâm và hoàn cảnh hoàn toàn giải thoát như vậy, dù Ngài không sở hữu tài sản gì, nhưng Trưởng lão Xá Lợi Phất trông thấy liền được giải thoát theo. Quý vị làm thí nghiệm trên bước đường tu, sẽ nhận ra lý này. Riêng tôi, trong khoảng thời gian dài suốt 20 năm cầu đạo, đi từ vị trưởng lão này đến trưởng lão khác, nhìn thấy các Ngài, phiền não tự rơi rụng, không cần nói gì cả. Thầy và ta mỉm cười, im lặng vào cửa Không; đó là thực chất của đạo. Còn thầy nói hết lời, ta cũng không hết phiền não là những người trong sinh tử nói chuyện với người sinh tử. Có vị dạy chúng ta đủ thứ, nhưng càng dạy thấy mình bị gò bó ràng buộc, không an lạc; còn không dạy mà mình an lạc. Câu chuyện giữa Ca Diếp với Đức Phật đưa hoa sen lên, Ca Diếp mỉm cười là bài pháp vô ngôn. Thực tế Phật có đưa hoa sen hay không và Ca Diếp có mỉm cười thật hay không, điều này không quan trọng. Quan trọng là chúng ta thấy Đức Phật hiện hữu trên cuộc đời như hoa sen. Vì vậy, Phật được tiêu biểu bằng hoa sen, mà về sau, người ta lại chạm tượng Phật ngồi trên hoa sen và Đức Phật Di Đà ngồi trên hoa sen lớn như bánh xe; nhưng chúng ta hiểu như vậy không được, vì Phật được biểu tượng bằng hoa sen không dính nước, nở trong bùn mà bùn không làm ô nhiễm hoa sen được. Hoa sen tỏa hương là gì? Nghĩa là sanh tử và Niết bàn là một; bùn cũng là hương, hương này do bùn mà tạo thành, còn không biết thì biến hương thành bùn. Ngày nay chúng ta dễ chứng minh điều này. Các loại hương mà chúng ta tổng hợp được là trích từ hoa mới có nước hoa, nhưng hoa hút phân và nước mà cho hương. Vì vậy, trên bước đường tu, chúng ta bắt đầu nhận thức được thực chất của sự vật. Kinh Hoa Nghiêm nói quả Bồ đề thuộc về chúng sinh, vì không có chúng sinh, Bồ tát không thành Vô thượng Đẳng giác. Chúng ta nghĩ Bồ tát tìm đạo ở đâu? Phật dạy tìm ngay trong chúng sinh, hay kinh Duy Ma, Phật dạy tìm Phật đạo trong 64 dị kiến ngoại đạo, tức tìm trong vô minh, chấp trước, khổ đau của chúng sinh thấy có dị kiến ngoại đạo. Thật vậy, vì có vô minh, vọng kiến, nên tạo vô số tội lỗi, mới có khổ đau và đáp ứng khổ đau của quần chúng mới có dị kiến ngoại đạo sinh ra. Đức Phật cho biết nếu Ngài nói ngay rằng chân lý không có khổ đau, thì người ta sẽ theo ngoại đạo. Vì vậy, Phật phải dùng phương tiện nói cuộc đời là khổ, tức nói như vậy cho người trong sinh tử. Ngoại đạo thì cứ khai thác cái khổ và tham vọng của chúng sinh. Họ nghe và theo mới đi sâu vào tội lỗi, như có người tham nghĩ cách kiếm tiền nhiều, mua đất, coi ngày mở cửa hàng, mới tìm đến thầy bói và thầy bói khai thác cái mảng tham lam này của chúng sinh. Nếu người có phước đời trước, may mắn được một chút, lại tiếp tục đến thầy bói nhờ lần thứ hai, thứ ba, chắc chắn sẽ thất bại. Thầy bói không bao giờ nói đúng quá ba lần, vì lúc cái phước của người tham lam chấp trước này cạn kiệt, nên họ phải khổ đau. Có thể nói mọi suy tính do vô minh khởi, thì vô minh này là ảo, nên tạo thành tội lỗi cũng là ảo. Vì vậy, Đức Phật dạy trong kinh Nguyên thủy rằng tất cả chúng ta tu đều có thể đạt được an lạc giải thoát. Đầu tiên Phật dạy thực tập pháp quán Tứ niệm xứ để dứt tham vọng, hết khổ đau, vì càng tham vọng thì càng khổ, hạn chế tham vọng thì ít khổ và không có tham vọng thì không khổ. Biết vạn vật vô thường, sinh diệt biến dị, nếu theo con đường này phải khổ, vì kết thúc của tất cả sự vật đều là Không. Cho nên, Phật dạy quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. (Còn tiếp) HT.Thích Trí Quảng
  21. Bản chất của khổ đau (tiếp theo & hết) Giác Ngộ - Vì sự vật vô thường, nhưng muốn nó vĩnh viễn làm sao có được. Tất cả mọi việc là vô thường, biến đổi, nhưng người khôn thì đổi được, như Phật, Bồ tát chuyển đổi phân, nước, bùn thành hương sen. Kinh Hoa Nghiêm gọi là chúng hoa, nghĩa là tất cả mọi người, ai cũng tốt được, cũng an lạc được, cũng có hương đặc thù; nhưng chúng ta không biết sử dụng cho tỏa hương, vì tham vọng và vô minh mà làm khổ đau cho mình và người. Nếu không biết cách chuyển hóa, khổ đau sẽ chất chồng - Ảnh minh họa Có một vị Tỳ kheo thưa với Phật rằng lúc chưa xuất gia, họ có tiền, có quyền; nhưng theo Phật tu, bỏ hết, nay lại thấy Phật dạy Bồ tát làm các việc công đức, thì họ không làm được nữa. Đương nhiên có quyền, có tiền thì mình làm người mỉm cười dễ, lấy an vui của người làm mình an vui là dễ. Cho người đói miếng bánh mì, họ mỉm cười, ta cũng sung sướng khi thấy họ vui. Vì vậy, người có quyền, có tiền hành Bồ tát đạo dễ; nhưng hết tiền, hết quyền vẫn làm được việc. Như Tỳ kheo Mã Thắng chỉ với tâm an lạc cũng làm cho người giải thoát... Các bậc chân tu làm cho cuộc đời tốt đẹp bằng tâm an lạc của các Ngài. Chúng ta tu hành, từ bỏ đời sống vật chất, có thế giới tâm linh, từ bỏ khổ đau, có đời sống an lạc, mới làm cho người an lạc thật sự. Còn ta cho họ một ổ bánh mì, họ mỉm cười lúc đó thôi, vì sau đó, cái đói của họ cũng tăng lên mà chúng ta không thể giúp họ no mãi được. Vì vậy, kinh Niết Bàn nói rằng ta bố thí mà làm cho chúng sinh tăng thêm tham vọng là người bố thí tự chuốc họa vào thân, vì không thể tiếp tục đáp ứng tham vọng của họ, họ trở thành thù và giết ta. Còn ta bố thí cho họ và giúp họ hiểu đạo, được giải thoát, thì giải thoát của họ là giải thoát của ta. Bỏ tục xuất gia là bỏ thế giới khổ đau, ta sống với thế giới Niết bàn an lạc, tác động cho người an lạc theo. Thật vậy, thực tế nếu chúng ta được tiếp cận với các bậc chân tu đức hạnh, họ sẽ ảnh hưởng tâm ta được an lạc. Bỏ thế giới vật chất, ta phải có thế giới tâm linh; còn bỏ vật chất mà không có tâm linh là mất hết. Trước có nhiều vật chất theo Phật tu hành, nhưng không nhập được cửa giải thoát là mất trắng. Phật tử đừng phạm sai lầm này. Ta bỏ gia đình và công việc, tìm đến tu Một ngày an lạc, nhưng không an lạc là mất trắng thì càng tu càng khổ. Tu hành chúng ta được gì? Bồ tát biến đổi phân, nước, đất thành hương. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng ai phát tâm tu theo Phật cũng tỏa hương, nếu là công nhân thì là công nhân tiên tiến, nếu là học sinh là học sinh giỏi, nếu là lãnh đạo là người tài ba được mọi người yêu quý, v.v… Nói chung, làm việc theo tâm niệm của Bồ tát đều đạt kết quả tốt, giả sử làm một việc nhỏ nhất như lượm một cây gai bỏ giữa đường vứt vào thùng rác để người khác không giẫm phải, thì việc đó cũng có công đức. Còn ác ma thì đem đinh rải trên đường đi, làm khổ mọi người. Bồ tát làm an lạc cho cuộc đời, trong khi ác ma làm cuộc đời đau khổ thêm. Tất cả mọi người tự giải thoát cho mình và cho người, vì Niết bàn và khổ đau đều là ảo, do chúng ta tạo ra. Chúng ta không tạo nguyên nhân khổ, nhưng tạo con đường giải thoát, thì càng tu càng giải thoát, cho đến đạt được quả vị Phật. Bước đầu, Phật dạy thấp nhất phải suy nghĩ kỹ rằng thân này bất tịnh để chúng ta không khởi tâm tham ái, đoạn trừ tham dục. Đối với người nhiều tham đắm sắc, Phật dạy ra nghĩa địa, nhìn xác chết để thấy thân bất tịnh của ta và của đối tác, chúng ta liền sanh tâm ghê tởm, thì cắt được cái khổ của tham dục. Kinh Bát Đại Nhân Giác dạy rằng: “Tham dục nhiều lụy khổ thêm nhiều. Dạt dào sanh tử bao nhiêu. Cũng vì tham dục mọi điều gây nên”. Trên bước đường tu, nhìn lại dòng lịch sử dài của loài người, chúng ta bắt gặp được các vị hiền thánh, Như Lai và bạo chúa, thì thấy Phật hạnh phúc nhất, rồi đến các vị Bồ tát, hiền thánh, ẩn sĩ. Còn người đau khổ nhất là vua chúa, đau khổ thứ hai là các nhà kinh doanh và đau khổ thứ ba là các tiểu thương, thứ tư là các thợ thuyền. Và người không đau khổ là các thầy tu, vì tâm họ là Không, nhưng không phải vật chất Không. Chúng ta đừng hiểu lầm điều này. Tâm không tham đắm vật chất, mà phước báu họ có đầy đủ là thế giới vật chất có đủ, như Đức Phật Di Đà có vô lượng công đức ở thế giới Cực lạc, không thể đo lường được. Ngài trang nghiêm cuộc sống bằng công đức, không tham vọng. Có công đức và có trí tuệ mới từ không tạo thành có. Quá trình hành Bồ tát đạo của Phật Di Đà tạo được vô lượng công đức, ngày nay chúng ta gọi là sức người, sức của. Công đức đó là phước báu có nhiều của, nhưng nếu không có trí tuệ và không có người hợp tác, thì sự nghiệp cũng dễ mất. Sức người rất quan trọng và xây dựng được người tốt cho đến thành hiền thánh là những người có năng lực cao tột, chắc chắn sẽ tạo thành xã hội tốt đẹp. Còn tập hợp toàn người xấu, xã hội phải xấu. Đầu tiên Phật Di Đà xây dựng An dưỡng quốc, không phải bỏ hết để không có gì. Tu không có gì để trắng tay là sai. Tuy “Bản lai vô nhất vật”, nhưng phải nhớ thêm rằng “Vô nhất vật trung vô tận tạng”; nghĩa là trong cái không có, nhưng công đức phải sanh mới thành kho vô tận. Người Việt chúng ta cũng có câu “có đức mặc sức mà ăn” là nghĩa này. Thực tế chúng ta thấy người có đức khi bị sa cơ thất thế cũng có người thương giúp đỡ họ. Phật Di Đà thành tựu như thị công đức trang nghiêm do hành Bồ tát đạo, do cứu nhân độ thế, mới có được vô lượng công đức. Người thủ đắc sự nghiệp vật chất là mối tranh chấp lớn của lòng tham, sẽ dẫn đến tai họa, khổ đau. Đức Phật buông bỏ tất cả, nhưng Ngài tại thế, những cơ sở vật chất quan trọng nhất đều là của Phật, điển hình là vườn ngự uyển của vua Tần Bà Sa La trở thành Trúc Lâm tịnh xá của Phật, hoặc Kỳ Hoàn tịnh xá của Phật được lát vàng đổi đất. Và Phật Niết bàn cả mấy ngàn năm mà ngôi chùa Phổ Quang này và tất cả ngôi chùa trên thế giới, ai cũng nghĩ là của Phật. Khối Phật ngọc đẹp nhất thế giới cũng khắc thành tượng Phật và Thái Lan có tượng Phật bằng 5 tấn vàng. Có thể khẳng định rằng Phật buông bỏ tất cả, nhưng công đức của Ngài lớn đến độ tồn tại từ nghìn xưa cho đến ngày nay và mãi đến nghìn sau chắc chắn vẫn còn. Đó chính là Chân không diệu hữu. Chúng sinh vì quá tham lam nên cánh cửa tâm linh bị bít kín mà chỉ mở toang cánh cửa đau khổ; nhưng nếu biết đóng cánh cửa vật chất, mở cánh cửa tâm linh thì công đức sẽ sinh ra rất nhiều. Tóm lại, bản chất của khổ đau và Niết bàn là một. Nếu vô minh khởi là sinh tử khổ đau. Chơn như khởi là Niết bàn, Cực lạc. Mong rằng tất cả Phật tử tu hành, từng bước tiến vào thế giới tâm linh cho đến ngày thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác. HT.Thích Trí Quảng
  22. Hôm nay nhận của chauthevinh : 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng)Baby Wolf : 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) Tổng cộng : 3,600,000 đ (ba triệu sáu trăm ngàn đồng) Sẽ chuyển ra Đà Nẵng theo tk của VusongAnh
  23. Hôm nay Wild nhận được 300,000 đ của ChautheVinh và 200,000 đ của Babywolf trao tặng Bác Cho ở trường hợp trên, Wild kết sổ được tổng số tiền là 3,600,000 đ (ba triệu sáu trăm ngàn đồng) sẽ chuyển ra cho VusongAnh đến trao cho Bác.
  24. Địa chỉ này, cô sẽ chuyển phát tay đến dzule gần nhà Cô.
  25. NHÂN NÀO QUẢ NẤY Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị ‘pan’ đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống xe. Chiếc xe Pontiac củ kỉ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói. Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta. Anh nói: - “Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson.” Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chổ khớp xương bàn tay một hai lần gì đó. Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe. Nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau xát. Trong khi anh đang siết chặt ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kiếng và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cám ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến hai lần là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ là giúp người đang cần được giúp đỡ và Chúa, Phật biết đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó, và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại. Anh nói với bà cụ: nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ thì bà có thể cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: “Và hãy nghĩ đến tôi…” Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà và biến mất trong hoàng hôn. Chạy được vài dặm trên con lộ bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ. Bà ghé lại để tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào trước khi bà đi đoạn đường chót để về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù phải đứng suốt ngày để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ. Bà cụ thắc mắc không hiểu: tại sao khi cho, một người dù có ít, lại cho một người lạ mặt rất nhiều. Rồi bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy. Sau khi bà ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc một trăm của bà cụ nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi mất. Chị hầu bàn thắc mắc không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi để ý trên bàn chị thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng. Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: - “Cô sẽ không nợ tôi gì cả. Tôi cũng đã ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô. Có ai đó đã một lần giúp tôi giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô.” Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô-la. Thật ra, có những bàn ăn cần lau dọn, những hủ đường cần đổ đầy, và những khách hàng để phục vụ nhưng chị hầu bàn đã hoàn tất việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai. Tối hôm đó khi chị đi làm về và leo lên giường nằm thì chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào bà cụ đã biết chị và chồng của chị cần số tiền ấy? Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn…. Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào, và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh: - ‘Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan Anderson, ạ.’ Có một cổ ngữ “NHÂN NÀO QUẢ NẤY”. Hôm nay tôi gửi bạn câu chuyện này, và tôi yêu cầu bạn chuyển tiếp nó. Hãy để cho ngọn đèn này chiếu sáng. Đừng xóa nó, đừng gửi nó trở lại. Chỉ việc chuyển câu chuyện này đến một người bạn. Những người bạn tốt, giống như những vì sao…. Bạn không luôn luôn trông thấy họ, nhưng bạn biết họ luôn luôn có mặt ở đó. Tôn Thất Bàng chuyển ngữ ====================================================================== Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi đây! Tôi muốn mượn câu nói của Bà Cụ để kết câu chuyện này, trong quan hệ xã hội con người ta hay nói đến sự sòng phẵng hay công bằng nhưng đằng sau đó vẫn có những toan tính "được phần ta thiệt phần người" chỉ có sự sòng phẵng 1 cách vô vu lợi như câu chuyện trên mới thật sòng phẵng tình người và cứ thế x lên x lên nhiều hơn nữa.