-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Vượt quá phước của mình Gần đây báo chí đưa tin một số công ty xe khách nổi tiếng như Mai Linh, Phương Trang giờ phải đối phó với nợ nần đến hơn mấy ngàn tỷ đồng. Kinh ngạc, bởi họ đang làm ăn rầm rộ kia mà! Có lẽ đây là bài học xương máu cho những ai đang ôm trong lòng khát vọng kinh doanh mà không biết điểm dừng. Kiểu kinh doanh phương Tây với mô hình tập đoàn đã khuyến khích đầu tư quy mô lớn, gom tất cả về tay mình, bất kể miếng bánh thị trường là bao nhiêu. Vì anh có vốn lớn nên có thể phát triển kinh doanh, sản xuất, cũng là điều tốt. Nhưng nếu anh có thực lực đúng như vậy thì không sao, đằng này anh vay mượn tùm lum để làm, và cũng đầu tư dàn trải, có nghĩa anh đã đi quá khả năng của mình, thì dễ mất kiểm soát, dễ thất bại. Thay vì đầu tư giao thông vào cả chục tỉnh, chỉ nên đầu tư vào vài tỉnh trước đã, rồi làm cho thật tốt, sau đó mới phát triển thêm. Chưa chi đã tràn lan một lúc, sức không theo kịp. Còn nói theo Phật pháp thì anh đã sử dụng vượt hơn cái “phước” mà anh có. Phước của anh chỉ đến 2.000 tỷ thôi, chẳng hạn, mà anh sử dụng đến 5.000 tỷ, vì thế anh bị tổn hại. Nhiều doanh nghiệp đã đi vay ngân hàng, dĩ nhiên được chấp nhận, nhưng vay đến mức nào đó thì sẽ quá cái phước trời cho. Chưa ai tính được mức nào để gọi là “không quá phước”, nhưng chắc chắn người làm ăn cẩn thận sẽ cảm nhận được. Nếu tiền vay của anh nhiều hơn tiền thực trong túi thì nguy hiểm vô cùng. Anh có 7, chỉ vay 3, có khi lại an toàn. Hoặc có 6, vay 4, cũng còn chấp nhận. Hoặc vay lần 1, lần 2, trời vẫn còn cho, nhưng cứ vay thêm, vay thêm, với số tiền tăng hơn quá nhiều, thì coi chừng đã vượt xa cái phước, trời nào còn cho nữa. Nợ của Mai Linh là 4.700 tỷ đồng, chiếm hơn 80% vốn, là một minh chứng cụ thể. Mô hình tập đoàn còn khuyến khích người ta kinh doanh đa dạng, cho nên mới thấy nhà xe mà lao vào bất động sản. Có thể duyên nghiệp của anh chỉ có trong lĩnh vực giao thông, nhưng anh lại thò tay vào lĩnh vực khác, thì phước không có. Người ta quên chữ “nghiệp”, cứ tưởng cái gì mình cũng có duyên với nó. Đa năng là tốt, nhưng có khi “nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Ngành kinh doanh chính quản lý chưa xong mà còn chia tâm sức cho ngành phụ, nên cả hai đều rối. Thực ra buôn bán nhà đất là một ngành thời thượng, ban đầu lãi rất cao, nên rất nhiều người lao vào, chuyên lẫn không chuyên, và bây giờ đang thê thảm. Ngay cả những doanh nghiệp chuyên về nhà đất cũng bị phá sản, bởi khi nhà đất đóng băng họ phải è cổ ra trả lãi vay ngân hàng, mà phần nợ lại lớn hơn phần vốn thật có, cho nên mới chết. Cũng là trường hợp sử dụng quá cái phước của mình. Nhiều người chỉ có tiền đủ mua 5 miếng đất nhưng lại đi vay mua tới 10, 20 miếng, không phải tham lam hay sao? Và chính vì họ đầu cơ đất đai nên mới đẩy giá nhà đất lên cao như thế, khiến người dân bình thường không mua nổi, thế là đóng băng, họ vỡ nợ. Một chuỗi nhân duyên mắt xích nhau. Có cái này nên có cái kia. Cái này sinh nên cái kia sinh. Đúng với lời Phật nói! Phật còn nói, trong các điều vui của cuộc sống con người có một điều là “không mắc nợ”. Dù làm ăn ồ ạt cách mấy nhưng đã mắc nợ thì phải canh cánh trong lòng, không sao tránh khỏi. Nợ trong khả năng chi trả thì đỡ lo, chứ nợ quá nhiều dễ bị stress, bệnh tim, cao huyết áp. Bài học này dành cho tất cả những ai đang ôm mộng làm giàu. Làm giàu chân chính đã khó, lại càng khó khi biết dừng lại ở cái phước của mình. Bởi khi làm ăn có lãi thì người ta “say” lắm, lái chiếc xe tăng tốc lúc nào không hay, mà quên “thắng” lại kịp thời. Diệu Kim =================================================== Tri túc tiện túc! phàm làm gì cũng lượng sức mình! Phước cũng thế tài cũng thế!
-
Tất cả những gì theo duyên khởi cũng đều theo duyên diệt". Trong bài này Ðaị sư Ajahn Chah, có lối giảng dậy thật giản dị, chân thực đã nói chuyện với một nữ đệ tử già yếu đang sắp chết. Bằng một giọng trầm tĩnh sâu xa, đại sư nhắc lại cho bà nghe về lý vô thường, và dạy những phương tiện để đối phó với những đau khổ, dùng những câu nói có năng lực tốt lành diệu dụng để bảo vệ tâm trí khỏi những khởi niệm về trạng thái đau khổ của một người đang nằm trên giường bệnh. Ðức Phật đã thường xuyên nhắc nhở các đệ tử rằng:tất cả những gì theo duyên khởi cũng đều theo duyên diệt". Hôm nay thầy không đem đến những gì vật chất cho con, mà chỉ đem đến những lời dậy của Ðức Phật. Con phải hiểu rằng ngay Đức Phật với phước huệ vô biên cũng không thể tránh được cái chết. Khi Phật đến tuổi già ngài đã buông bỏ cái xác thân già yếu và những gánh nặng của nó. Bây giờ con cũng phải tập bằng lòng với những tháng năm con đã ở trong thân xác này. Con phải cảm thấy rằng như vậy là cũng đủ rồi. Con có thể so sánh thân như những vật gia dụng đã dùng đến lâu năm-- những ly tách, đĩa bàn v.v... Khi con mới có chúng, trông chúng thật là sạch sẽ và bóng láng, nhưng bây giờ, sau một thời gian dài đã dùng lâu, chúng bắt đầu mờ xấu đi. Có cái đã vỡ rồi, có cái thì mất đi, và những cái còn lại cũng tàn tạ dần, chúng không giữ mãi được hình dạng cũ, và đó là bản chất của chúng. Thân của con cũng như vậy - nó thường xuyên thay đổi ngay từ ngày con chào đời, trải qua tuổi thơ ấu và thiếu niên, cho đến tuổi già hiện nay. Con phải chấp nhận điều đó. Phật đã nói rằng những duyên hợp, dù là duyên hợp trong tâm thân hay ở ngoài, đều là vô ngã, bản chất của nó là luôn luôn thay đổi. Khối thịt đang nằm đây suy hoại chính là sự thật. Phật dậy rằng bản chất của thân là như vậy, sanh ra , già yếu đi, mang bệnh rồi chết, không thể nào khác hơn được. Ðó là một sự thật lớn mà con đang gập phải đây. Hãy nhìn thân xác mình với trí tuệ và nhận thức được sự thật đó .Ngay cả khi nhà con đang bị đe dọa bởi bão lụt hay lửa cháy , dù hiểm nguy ấy có đến cỡ nào, cũng chỉ cho nó ảnh hưởng đến cái nhà thôi. Nếu có bão lụt, đừng để nó ngập lụt tâm mình. Nếu có lửa cháy, đừng để cho lửa cháy tâm mình, mà chỉ cháy nhà thôi, chỉ những gì bên ngoài mình mới bị ngập lụt và cháy thôi. Hãy để tâm buông xả khỏi những ràng buộc. Thời điểm đã đến rồi. Con đã sống một thời gian lâu dài. Mắt con đã thấy được nhiều hình sắc, tai con đã nghe bao nhiêu là thanh âm, con đã có bao nhiêu là kinh nghiệm trong đời. Và chúng chỉ là thế thôi - chỉ là những kinh nghiệm. Con đã ăn biết bao nhiêu của ngon vật lạ, và tất cả những vị ngon đó chỉ là vị ngon, thế thôi. Những vị dở cũng chỉ là những vị dở, thế thôi. Nếu mắt có thấy một bóng hình đẹp, thì đó cũng chỉ là một bóng hình đẹp, thế thôi. Một hình dạng xấu cũng chỉ là một hình dạng xấu. Tai có nghe những âm thanh hấp dẫn, du dương thì cũng chỉ là như thế, không có gì hơn. Một âm thanh khúc mắc, chói tai thì cũng chỉ là một âm thanh thế thôi. Ðức Phật dậy rằng mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi. Ðó là một sự thật sống mà chúng ta chẳng thể nào sửa đổi được. Nhưng điều chúng ta có thể làm được là quán tưởng về tâm và thân này để thấy sự vô ngã của nó, để thấy rằng chúng không phải là "ta" hay "của ta". Chúng chỉ là những thực tại tạm thời. Cũng như cái nhà này, nó là chỉ của con trên danh nghĩa, con không thể đem nó theo đi đâu được. Cũng như những tài sản, những của cải này và gia đình thân quyến - tất cả cũng chỉ là của con trên danh nghĩa, họ không thực sự thuộc về con, họ thuộc về thiên nhiên. Chân lý này không phải chỉ áp dụng cho riêng con, tất cả mọi người đều phải chịu như vậy, kể cả Phật và những vị đệ tử đã giác ngộ của ngài. Nhưng họ khác biệt chúng ta ở một điểm, đó là họ nhìn mọi việc theo đúng sự thực. Như vậy chúng ta phải quán chiếu trên thân này, từ gót chân lên đến đỉnh đầu và rồi lại trở xuống chân . Hãy nhìn lại thân mình xem, ta thấy những gì? Có cái gì tự nó là thanh tịnh không? Cò thấy có chất gì trường tồn không? Thân xác này thường xuyên suy hoại dần và Phật dậy rằng nó không thuộc về chúng ta. Nhưng đó là cái lẽ tự nhiên, vì tất cả mọi hiện tượng do duyên hợp đều phải thay đổi. Ðiều làm ta đau khổ không phải là thân này, mà chính là sự suy nghĩ sai lầm. Khi ta nhìn điều phải một cách sai trái, thế nào cũng có sự lầm lạc. Xem như nước trên giòng sông. Nước chẩy xuôi xuống từ nguồn, nó không bao giờ chẩy ngược, bản chất nó là như vậy. Nếu có một người nào đó đứng trên bờ sông nhìn giòng nước chẩy mà lại điên rồ muốn nó chẩy ngược lại, thì hắn sẽ phải chịu đau khổ. Có làm gì đi nữa, tâm hắn cũng phải khó chịu vì sự suy nghĩ sai lạc này. Hắn sẽ cảm thấy không vui vì quan niệm muốn nước chẩy ngược lại của hắn. Nếu có chánh kiến, hắn sẽ thấy là nước tất yếu sẽ phải chẩy xuôi từ nguồn và khi hắn khong nhận thức và chấp nhận được điều đó, hắn sẽ còn phải chịu những bực bội và bất an. Giòng nước chẩy xuôi từ nguồn cũng ví như thân xác. Thân xác con đã có thời trẻ trung, bây giờ nó già đi và đang tiến dần đến cái chết. Ðừng mơ ước điều gì khác hơn. Ðó không phải là điều chúng ta có khả năng sửa đổi được. Ðức Phật dậy chúng ta phải thấy rõ như vậy và xả bỏ đi những ràng buộc. Hãy an trú nơi tâm niệm buông xả này dù cho con có cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức. Thở một hơi dài và tập trung tư tưởng nơi câu niệm phật. Hãy tập làm điều này cho thành thói quen. Càng mệt mỏi lại càng phải chuyên chú tập trung tư tưởng để có thể đương đầu với những cảm giác đau đớn dâng lên. Khi bắt đầu thấy mệt, hãy ngừng ngay những vọng tưởng, để tâm trí tập trung vào hơi thở. Hãy chuyên chú niệm Phật trong tâm. Xả bỏ đi những vấn đề bên ngoài. Ðừng vướng mắc vào những suy tư về con cái, bà con thân thuộc, đừng bám víu vào bất cứ một cái gì. Hãy buông xả, nhiếp tâm theo dõi vào hơi thở cho đến khi tâm càng lúc càng trở nên tinh tế hơn, những cảm thọ mờ dần và chỉ còn lại một trạng thái tỉnh thức và sáng suốt. Khi đó những cảm giác đau đớn dâng lên sẽ tự lắng xuống dần. Khi tiễn biệt một người thân, chúng ta đi ra nhìn theo cho đến khi khuất bóng rồi mới trở vào trong nhà. Chúng ta cũng theo dõi hơi thở như vậy, Nếu hơi thở thô phù, ta biết đó là thô phù, hơi thở vi tế, ta biết đó là vi tế. Cho đến lúc hơi thở càng ngày càng nhẹ đi, chúng ta vẫn tiếp tục theo dõi trong khi giữ cho tâm mình được tỉnh táo . Dần dần tâm sẽ không nhận thức về hơi thở nữa mà ở trong một trạng thái tỉnh thức hoàn toàn. Cái đó gọi là "tri kiến Phật". Sự tỉnh thức và sáng suốt trong tâm ta ấy gọi là "Phật", chỉ cho tính giác ngộ, linh mẫn, trí huệ. Khi chúng ta đạt tới đó, ta sẽ thấy rằng tâm và Phật cũng là một. Văy con hãy buông xả, quên đi hết mọi sự để chỉ còn sự hiểu biết sáng suốt trong tâm. Ðừng bị mê hoặc nếu có những ảo giác hay âm thanh. Hãy xả bỏ chúng đi, đừng ôm ấp bất cứ điều gì. Ðừng lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy để tâm tĩnh lặng và con sẽ đạt được trạng thái của tính "không" trong đó không có tiến hay thoái, không có sự ngừng lại, không có gì để bám víu hay ràng buộc vào. Tại sao? Vì không còn có bản ngã, không còn cái "tôi" hay "của tôi". Tất cả đều đã tan biến đi rồi.Thực hiện được Pháp, con đường đưa đến sự giải thoát khỏi vòng sanh tử, là một viêc chúng ta phải tự mình làm. Văy hãy tiếp tục buông xả và tìm hiểu được lý Ðạo. Ðừng lo lắng gì về gia đình của con nữa. Bây giờ họ đang như thế, nhưng tương lai rồi họ cũng như con thôi. Không ai trên thế giới này là có thể trốn thoát được số phận đó. Ðức Phật đã dậy chúng ta là phải buông bỏ hết mọi sự giả hợp không thật trên thế gian này. Nếu con buông bỏ được, con sẽ thấy đươc chân lý. Ngay cả khi con đang thấy mình suy nghĩ cũng không sao cả, miễn sao con biết suy nghĩ với trí tuệ, đừng có những ý tưởng si mê. Nếu nghĩ về con cái hãy nghĩ đến chúng trong sự hiểu biết, không phải trong sự mù quáng ngu si. Tâm con hướng về đâu, hãy nghĩ đến điều đó và hiểu rõ nó, biết rõ thực chất của nó như thế nào. Nếu con có trí tuệ hiểu biết về một điều gì con có thể buông bỏ một cách dễ dàng và không còn đau khổ. Tâm của con sẽ trong sáng, an lạc, và vững chắc vì không bị phân tán. Còn ngay bây giờ thì con phải nương về hơi thở để làm phương tiện trợ giúp cho con. Ðây là việc con phải làm, không ai khác làm thế được. Ðể người khác làm những việc của họ. Con có những việc và trách nhiệm của riêng con và con không cần ôm lấy những trách nhiệm của người khác. Buông bỏ đươc, tâm trí con sẽ được yên ổn. Trách nhiệm duy nhất mà con bây giờ là chuyên chú vào tâm mình và tìm cách làm cho nó được an bình. Hãy để những việc khác cho người khác lo. Sắc, thanh, hương, vị - để lại cho người khác lo. Nếu có bất cứ cái gì khởi lên, lo sợ hay đau đớn hay sự lo lắng về một điều gì đó, hãy nói với nó rằng: "Ðừng có làm rộn tôi. Tôi không còn can dự gì nữa." Hãy tự nhủ như vậy cho đến khi con thấy được Pháp.Pháp có nghĩa là gì? Tất cả mọi sự đều có thể gọi là pháp. Không có cái gì mà không có pháp trong đó cả. Như vậy cái gì là "thế gian"? Thế gian chính là trạng thái tinh thần bị khích động. "Người này sẽ làm gì? Người kia sẽ làm gì? Họ sẽ xoay sở như thế nào đây?" Tất cả những điều đó là "thế gian". Ngay cả một khởi niệm lo sợ về cái chết hay sự đau đớn cũng là thế gian, Hãy buông bỏ thế gian đi! Thế gian chỉ là thế gian vậy thôi. Nếu để nó xâm chiếm vào trong ý thức, tâm trí con sẽ trở nên tối tăm và không còn nhận thấy được chính nó nữa. Vì vậy mỗi khi có khởi niệm, hãy nói rằng:"Ðây không phải là việc để tôi phải bận tâm. Nó là vô thường, không đem lại sự thỏa mãn và trống rỗng"Nghĩ rằng mình muốn được sống lâu dài sẽ làm cho ta đau khổ. Nhưng nghĩ rằng mình muốn chết thật mau chóng, đó cũng là sự đau khổ. Những nhân duyên không thuộc về chúng ta, chúng đi theo những luật lệ tự nhiên của chúng. Ta không thể làm được gì với tình trạng thân thể của mình. Ta có thể làm đẹp nó một chút, làm cho nó sạch sẽ và trông hấp dẫn trong một thời gian, như những cô gái môi son má phấn và chải chuốt móng tay , nhưng khi tuổi già đến , tất cả mọi người đều ở trong một tình trạng như nhau. Ðó là điều ta phải chấp nhận với thân vô thường này, ta không thể làm gì khác được. Nhưng đối với tâm trí, ta có thể cải thiện và đưa nó đến chân mỹ được. Ai cũng có thể xây được một căn nhà bằng gạch đá và gỗ, nhưng Ðức Phật dậy rằng ngôi nhà như vậy không phải là nhà đích thực của ta, nó chỉ là của ta trên danh nghĩa. Nó là căn nhà thế gian và nó sẽ đi theo con đường của thế gian. Ngôi nhà đích thực của ta là sự an bình trong tâm .Một ngôi nhà bằng vật liệu vật chất ở ngoài có thể đẹp đẽ đấy nhưng không đem lại sự an bình. Ta phải lo âu nhiều thứ về nó, hết viêc này đến việc kia phải nghĩ đến. Vì thế ta nói rằng đó không phải là mái nhà đích thực của ta, nó ở ngoài ta, sớm muộn gì ta cũng sẽ phải bỏ nó lại. Ðó không phải là một nơi ta có thể ở mãi được vì nó không thực sự thuộc về ta, nó là một phần của thế gian này. Thân của ta cũng như vậy, ta tưởng rằng nó là ta, là "tôi" và "của tôi", nhưng thực sự nó không phải như vậy , nó cũng chỉ là một ngôi nhà thế gian khác mà thôi.Thân của con đã trải qua diễn tiến tự nhiên của nó từ lúc mới sanh ra cho đến bây giờ, nay nó đã già và bệnh hoạn, con không thể ngăn cấm điều đó được, đó là cái lẽ tự nhiên phải như vậy. Khi con nhận thấy thân con người phải già đi và chết, con sẽ tìm được sức mạnh và nghị lực. Dù con có muốn thân này tiếp tục sống và kéo dài tuổi thọ đến đâu, nó cũng không làm như vậy được.Chữ sankhara (samskara) tiếng Phạn nói đến cái thân ngũ uẩn này. Thân ngũ uẩn là vô thường và bất định, vừa được hình thành xong chúng lại biến đi, vừa khởi lên chúng đã qua mất. Xem như hơi thở, chúng vừa vào, lại phải ra ngay, đó là cái lẽ tự nhiên phải như vậy. Hít vào và thở ra là phải luân phiên với nhau, phải có sự thay đổi như vậy. Thân ngũ uẩn tồn tại qua sự thay đổi. Thử nghĩ xem, ta có thể thở ra mà không thở vào được không? Nếu như vậy ta có thấy tốt hơn gì không? Hay ta có thể nào chỉ có hít vào được không? Chúng ta muốn mọi vật đều thường tồn nhưng không thể nào như thế được. Một khi hơi thở đã vào trong, nó lại phải ra ngay, và khi nó ra rồi nó lại phải trở vào và đó là điều tự nhiên thôi, có phải không? Một khi đã sinh ra chúng ta sẽ phải già đi, phải mang bệnh tật và rồi chết đi, đó cũng là điều hoàn toàn tự nhiên bình thường. Ðó là bởi vì thân ngũ uẩn đã làm xong việc của nó, bởi vì hơi thở ra thở vào phải luân phiên như vậy, nên nhân loại mới còn tồn tại đến ngày nay. Ngay khi chúng ta vừa sinh ra, chúng ta đã bắt đầu chết. Sự sinh và tử của chúng ta chỉ là một. Cũng giống như cái cây: khi có rễ, tức phải có cành. Khi có cành lá, tức phải có rễ. Không thể nào có cái này mà không có cái kia. Thật là khôi hài khi con người ta mỗi khi đối diện với cái chết là đau đớn khổ sở đến mất hồn và sợ hãi, buồn rầu, trong khi lại sung sướng vui mừng khi có người được sinh ra. Tôi nghĩ là nếu chúng ta muốn khóc, hãy khóc khi có người sinh ra. Vì thực sự ra sinh tức là tử, mà tử tức là sinh, rễ là cành, mà cành cũng là rễ. Nếu ta cần phải khóc, hãy khóc ngay cái rễ, khóc ở nơi sự sinh ra. Hãy nhìn kỹ xem: nếu không có sinh, làm sao có tử. Con có hiểu được điều này không? Ðừng nghĩ ngợi gì nhiều. Chỉ biết là, "Mọi sự đều phải như vậy". Hiện tại không ai có thể giúp được con, gia đình con hay của cải của con khong có thể làm cho con được. Chỉ có chính niệm, sự tỉnh thức mới có thể giúp con được lúc này. Vậy đừng có ngần ngại gì nữa. Hãy buông bỏ hết đi. Dù cho con có không buông bỏ, mọi sự cũng bỏ con mà đi .Con không thấy sao, trên thân thể con những bộ phận khác nhau đang dần dần suy thoái đi . Tóc con ngày nào còn đen nhánh và dần, nay đã rụng đi. Nó đang bỏ con đi. Mắt con khi xưa sáng và mạnh mẽ, bây giờ mờ yếu đi . Khi những bộ phận đã kiệt lực rồi, chúng sẽ rời bỏ đi; đây không phải là nhà của chúng. Khi con còn là một đứa trẻ, răng con chắc và khỏe; giờ đây chúng lung lay; có thể con còn có răng giả nữa. Mắt, tai, mũi, lưỡi - tất cả mọi thứ đều sẵn sàng ra đi bởi vì đây không phải là nhà của chúng. Con không thể xem thân ngũ uẩn này như nhà của con mãi mãi được, con chỉ có thể ở trong đó một thời gian ngắn và rồi lại ra đi. Cũng giống như một người ở thuê đang cố canh giữ ngôi nhà bé nhỏ của mình với con mắt đang mờ yếu dần. Răng hắn không còn tốt nữa, tai hắn cũng lãng đi, thân hắn không còn mạnh khỏe, và mọi thứ đang xa rời đi dần.Vậy con không cần phải lo lắng gì hết bởi vì đây không phải là nhà thật của con, đây chỉ là chỗ trú ẩn tạm thời. Tất cả những gì đang hiện hữu đây rồi sẽ không còn nữa. Nhìn thân thể của con xem. Có cái gì là còn được hình dạng xa xưa của nó không? Da con có mịn như ngày nào, tóc con có xanh như thời ấy không? Không có gì còn nguyên như cũ cả. Nhưng bản chất của mọi sự là phải như vậy. Khi đã đến lúc chung cuộc, những duyên hợp phải tan rã đi. Ta không thể nào tin cậy vào thế giới này được - đó chỉ là một vòng xoay vô tận của những xao động và phiền não, của lạc thú và niềm đau. An lạc không có ở nơi đây. Khi chúng ta không có ngôi nhà đích thực , chúng ta là những lữ khách lang thang không mục đích, nay đây mai đó, dừng chân một nơi được ít lâu rồi lại ra đi. Khi ta còn chưa trở về nhà thực sự của mình , chúng ta sẽ còn cảm thấy bất an dù ta có đang làm gì chăng nữa, cũng như một người rời bỏ quê hương làng xóm để tha phương cầu thực. Chỉ khi nào hắn ta trở về lại nhà rồi mới có thể thảnh thơi và yên tâm được. Trên thế giới này không đâu là có sự an bình thực sự. Người nghèo không được yên ổn, kẻ giầu sang cũng vậy. Người lớn không thấy an lạc, trẻ con cũng không an tâm, người ít học không thấy sung sướng , người học nhiều cũng vậy. Không có sự an lạc ở đâu cả. Và đó là bản chất của thế giới này. Người không có tiền của đau khổ, nhưng người nhiều tiền cũng vậy. Trẻ con, người lớn, người già, tất cả đều đau khổ. Cái khổ của tuổi già, cái khổ của tuổi trẻ, cái khổ của sự giầu sang, và cái khổ của sự nghèo khó - nơi đâu cũng chỉ có sự đau khổ. Cái thân của con đang nằm đây đau yếu và cái tâm đang biết đến sự đau yếu đó của con đều gọi là pháp (dharma). Những gì không hình tướng như tư tưởng, cảm thọ, được gọi là namadharma. Cái thân đang đau yếu bệnh hoạn được gọi là rupadharma. Cái vật chất là pháp và cái không vật chất cũng là pháp. Như vậy chúng ta sống với pháp, sống trong pháp, và chính chúng ta là pháp. Thật sự ra không có một bản thể nào ở đâu cả, mà chỉ có những pháp liên tục khởi lên rồi diệt đi, vì bản chất chúng là như vậy. Trong mỗi giây mỗi phút chúng ta đều đang trải qua sự sanh và tử của mình. Mọi sự đều phải là như vậy Dịch từ "Introduction to The Buddha and his Teachings".
-
Mời xem trang 23 trong Topic này !
-
Nha Khanh giúp Cô chuyển tặng Thần Chú.
-
Kính gửi : Ban Giám Đốc Trung Tâm Ban Điều Hành và toàn thể thành viên diễn đàn www:lyhocdongphuong.org.vn. Thật là bất ngờ, cảm kích trước quyết định của Phó Giám Đốc Trung Tâm cho việc mở lại Hoạt Động Từ Thiện (đã đóng từ tháng 8) và đề cử tôi vào vị trí phụ trách " quản lý và thực hiện" hoạt động này Trước hết tôi xin có lời cảm ơn các thành viên cũng như Ban Giám Đốc đã tín nhiệm 1) Tôi đã có lời bày tỏ http://diendan.lyhoc...en-thang-82012/ thế nên nhân đây. tôi xin đề nghị hãy đề cử 1 thành viên khác trẻ khỏe có năng lực và nhiệt huyết đảm đương công việc này. Đồng thời nên kêu gọi các TV tham gia đông đủ và ngoài tâm từ bi yêu thương các bạn hãy tận dụng kiến thức Lý học của mình đóng góp cho cộng đồng thật tinh tấn.Tôi hy vọng khi Topic Từ thiện được mở lại là đã tạo nên 1 vườn hoa nhân ái tô điểm cho diễn đàn thêm sắc màu BI TRÍ DŨNG. 2) Vào thời điểm có quyết định, tôi cũng nhận không ít thông tin chia sẽ, tiếc nuối, về việc dừng đột ngột của trang Từ Thiện bên cạnh đó cũng ko ít những thắc mắc mang tính nghi hoặc khuất tất trong thu chi, tôi xin trình bày lại mọi hoạt động của tôi đều được 1 số ACE tham gia chứng minh đồng thời luôn rõ ràng và chính danh. Cũng có những cá nhân đã âm thầm đóng góp không công bố danh tính điều này sai với quy chế ban đầu , nhưng đã được tôi sử dụng hiệu quả và minh bạch. Các bạn có thể kiểm tra và đối chiếu hạch toán suốt quá trình thực hiện trên Topic Từ Thiện (nếu có thời gian) 3) Nhân đây tôi cũng xin cảm ơn và ghi nhận những đóng góp của các thành viên thỉnh nhận Thần Chú Giải Thoát khi các bạn muốn thể hiện tâm tác Pháp qua hành động chia sẽ ấn tống, chúng tôi cũng đề nghị hãy chuyển sang cứu giúp những mãnh đời khốn khó thông qua Quỹ Từ Thiện. Việc trao tặng này " Thần Chú ..." tôi đã thực hiện và nay vẫn tiếp tục thực hiện trên tinh thần vô vụ lợi hầu mang lại lợi ích tâm linh đến với chúng sanh pháp giới. Tôi cũng và luôn duy trì sự đóng góp sức mọn của mình vào Topic này như 1 hạnh nguyện của cuộc đời mình. Vừa qua tôi luôn nhận được sự ủng hộ từ các bạn bè thân hữu trong đạo tràng nên chỉ có thể tổ chức từng nhóm nhỏ lẽ để nối cây cầu nhân ái đến với những hoàn cảnh bất hạnh thương tâm.( mọi thông tin đươc đưa vào FB trang cá nhân của tôi) xin các bạn thông cảm khi tôi không thông báo rộng rãi trên diễn đàn.Nhân dịp đón Xuân về xin kính chúc Ban Giám Đốc & Ban Điều Hành và toàn thể ACE hội viên 1 năm mới Thành công và viên mãn trong việc Vinh Danh nển Văn Hiến Việt. Trân trọng kính chào Wildlavender
-
Nha Khanh gửi giúp Cô đến thành viên này!
-
Cô sẽ gửi đến con sáng nay, Mong con sớm nhận được và hồi đáp.
-
Ly kỳ chuyện quái heo đi… khất thực Ngày nào cũng thế, bất kể nắng mưa, sáng sớm Năm Hợi dẫn đầu, 'đàn em' theo sau, xếp hàng thứ tự từ lớn đến nhỏ, lục tục ra khỏi sân chùa đi… khất thực. Chúng cứ lặng lẽ đi dọc đường, qua các khu chợ, khu dân cư. Đoạn đường đàn heo đi khất thực dài hơn 3km, qua chợ Sóc Trăng, vào tận thành phố, rồi trở về chùa đúng lúc nhà chùa sắp tụng kinh. “Thí chủ heo quy y” Theo sư phó Tú Linh (chùa Mã Tộc, tức chùa Dơi, Sóc Trăng ), người Khmer rất sợ heo năm móng, ba giò, tức là heo dị tật, có tới năm móng thay vì bốn móng như bình thường. Còn heo ba giò thực ra không phải là dị tật, chỉ là một chân có màu đen, một chân có màu trắng. Không rõ truyền thuyết này có từ khi nào, nhưng người Khmer tin rằng, những con heo đó là cốt tinh của người, nó là linh hồn của con người đầu thai. Những người đó vốn gây nhiều tội ác, nên bị đày làm kiếp heo. Chính vì mang linh hồn của kẻ ác, nên những gia đình nuôi nó sẽ phải gặp tai họa. Người Khmer tin rằng, gia đình nào nuôi phải con heo này thì sẽ gặp bất hạnh, gia đình lục đục, vì bị cốt tinh của con heo quấy phá. Tuy nhiêu, nếu giết heo thì cả nhà sẽ phải đền mạng. Chính vì thế, gia đình nào nuôi phải heo năm móng, ba giò, thì chỉ có nước cung phụng nó đến già. Khi heo chết, phải mai táng cẩn thận như người, mới mong thoát kiếp nạn. Không biết nguyên do từ đâu, nhưng cách đây hơn 20 năm, những gia đình đen đủi nuôi phải heo năm móng, ba giò, đã nghĩ ra phương thức giải hạn cho mình bằng cách đẩy “heo quái thai” cho nhà chùa nuôi. Họ tin rằng, nhà chùa là nơi thích hợp, có thể nâng đỡ linh hồn tội lỗi, bị đày làm kiếp heo. Khi con heo quái thai được nuôi dưỡng, được nghe kinh phật sám hối thì không phá phách con người nữa và cũng vì thế mà hóa giải được tai họa. Vậy là nhà chùa biến thành “trang trại nuôi heo quái thai”, nơi nuôi những con heo bị tạo hóa “tặng” thêm một móng chân và một cái chân khác màu. Sư phó Tú Linh cho biết, con heo đầu tiên mà chùa nuôi là vào năm 1989, cách nay đã 23 năm. Khi đó, chùa Dơi còn khá hoang vu, cây cối rậm rạp, dơi bay rợp trời, đậu dày đặc trong vườn cây cổ thụ. Trong chùa có bà cụ Khiên, là người trông nom, quét dọn chùa. Đêm ấy, sau một ngày mệt nhọc vì quét dọn chùa, dẫy cỏ ngoài vườn, thì bà Khiên nằm ngủ mê mệt. Trong giấc mơ, Bồ Tát hiển linh bảo với bà rằng, ngày mai, sẽ có một nữ thí chủ đến chùa xin quy y. Bà Khiên giật mình tỉnh giấc, toàn thân toát mồ hôi. Bà trở dậy, thắp hương trên chính điện. Bà Khiên tin rằng, Bồ Tát hiển linh đã thông báo với bà một tin trọng đại. Nghĩa địa heo ở Chùa Dơi. Sáng hôm sau, bà Khiên dậy sớm hơn thường lệ. Vừa quét chùa bà vừa ngó chừng ra cổng xem có ai đến không. Ngày đó, chùa Dơi rất vắng, lại chỉ có một cổng nhỏ, nên ai ra vào bà đều kiểm soát được. Gác cửa mãi đến tận trưa mà chẳng thấy nữ thí chủ nào như lời Bồ Tát báo mộng. Nghĩ rằng giấc mộng không hiển linh nên bà Khiên tiếp tục công việc quét dọn của mình. Bà Khiên ngỡ ngàng khi phát hiện ở phía sau chùa, trong vườn dơi, có một con heo cái rất lớn đang ngủ ngon lành. Không biết heo nhà ai xông vào chùa, làm ô uế không gian thanh tịnh, nên tức mình, bà Khiên cầm chổi đập nhẹ vào mông, đánh thức nó dậy. Tuy nhiên, bà Khiên làm đủ trò mà con heo không chịu dậy, cứ ủn ỉn, rồi rên la. Bà phải nhờ mấy du khách dùng que ngoáy vào tai, “cô nàng” mới chịu ngúc ngoắc cái đầu. Nhưng nó cứ đứng ì một chỗ, không chịu nhúc nhích.Một du khách bỗng hét lên: “Heo năm móng bà ơi! Heo này thiêng lắm, là cốt tinh của người đấy! Nó vào chùa là có duyên với nhà chùa rồi bà ạ”. Lúc này, bà Khiên mới nhìn xuống chân con heo ấy, hóa ra là heo năm móng thật. Khi ấy, bà mới giật mình nhớ lại giấc mộng đêm qua. Thì ra, nữ thí chủ đến chùa quy y chính là “nàng heo” này.Bà Khiên không đuổi heo đi nữa, mà dùng nước lá tắm cho vị khách kỳ lạ này như rửa bụi trần. Nhà chùa nghe chuyện bà Khiên kể, rồi chứng kiến những biểu hiện lạ của “thí chủ mới đến cửa chùa”, cũng tin giấc mộng của bà Khiên là điềm báo của Phật. Vì thế, nhà chùa đã làm đủ các thủ tục cần thiết để nhận “cô heo” vào chùa. Bà Khiên chuẩn bị chỗ cho heo ở. Với nhà phật, con heo cũng là một kiếp sống, nên nhà chùa đối xử với heo như mọi thành viên trong chùa. Ngày nó chạy rong trong khuôn viên, tối chui vào ổ ngủ và đến bữa thì được các nhà sư mang đồ ăn cho. Thí chủ quy y kỳ lạ đó được mọi người đặt tên là Năm Hợi. Đàn heo... khất thực Chuyện “cô heo” năm móng quy y cửa phật đồn đại ầm ĩ khắp vùng, khiến nhiều người tò mò tìm đến. Thời điểm đó, mỗi ngày có cả trăm người kéo đến xem heo năm móng trong chùa Dơi. Người dân thêu dệt đủ thứ chuyện kỳ quái quanh con heo này. Nghĩ rằng nhà chùa có khả năng hóa giải nghiệp chướng heo năm móng, ba giò nên người dân quanh vùng dắt những con heo này đến gửi nhà chùa nuôi. Thế là trên trời có đàn dơi, dưới đất có đàn heo ủn à ủn ỉn suốt ngày. Cũng từ bấy “cô heo” Năm Hợi trở thành “đại tỉ” của đàn heo quái thai tới hơn chục con. Điều đặc biệt là đàn heo không nghịch ngợm, không ủi đất, không phá hoại lung tung và rất lịch sự, không ị bậy bạ ra chùa. Ngày nào cũng thế, bất kể nắng mưa, sáng sớm Năm Hợi dẫn đầu, “đàn em” theo sau, xếp hàng thứ tự từ lớn đến nhỏ, lục tục ra khỏi sân chùa đi… khất thực. Chúng cứ lặng lẽ đi dọc đường, qua các khu chợ, khu dân cư. Đoạn đường đàn heo đi khất thực dài hơn 3km, qua chợ Sóc Trăng, vào tận thành phố, rồi trở về chùa đúng lúc nhà chùa sắp tụng kinh. Người dân hai bên đường thấy đàn lợn đi qua thì bố thí cho đồ ăn. Có lẽ đã “quy y cửa Phật” nên chúng rất hiền, tuyệt nhiên không càn quấy, phá phách gì ngoài đường, ngoài chợ. Người dân cũng rất… kính trọng đàn lợn. Nhiều bà lão khi thấy đàn lợn đi qua nhà mình liền mời dừng lại chơi rồi… dâng trầu và các chú ỉn thảnh thơi nhai bỏm bẻm, miệng đỏ tươi nhìn rất ngộ. Ở chùa, đàn lợn cũng ăn theo chế độ ăn ngọ, tức là chỉ ăn uống trước 12h mỗi ngày, sau giờ đó là không ăn gì nữa. Khẩu phần ăn của chúng đơn giản như các nhà sư, khất thực được thứ gì thì ăn thứ đó. Đồ ăn chủ yếu là đồ chay. Thế nhưng chẳng hiểu sao chúng lại lớn rất nhanh. Cô “Năm Hợi” đạt kích cỡ khổng lồ nhất, nặng đến 400kg, trông lừng lững như một chú voi con. Năm Hợi ở chùa được 7 năm thì “viên tịch” vì tuổi già. Sư phó Tú Linh của chùa Mã Tộc cho biết, cuối năm 1996, “Năm Hợi” chọn một nơi yên tĩnh ở góc vườn chùa nằm nghỉ rồi “hóa” một cách thanh thản, như thể tránh cho du khách viếng chùa khỏi trông thấy hình ảnh buồn. Chính những biểu hiện kỳ lạ này mà khi "Năm Hợi" chết, nhiều người đã đến hương khói, cúng vái và họ đều xưng hô là “cô Năm Hợi”. Đêm đêm có nhiều tay ma đề cũng mò mẫm vào khu mộ lợn khấn xin trúng số. Trúng trật thế nào chẳng rõ. Sau khi “Năm Hợi”, cũng như những anh, chị heo khác ở chùa chết, cũng đều được các sư chôn cất trong nghĩa địa sau chùa. Lễ mai táng cũng đầy đủ thủ tục, như mai táng người đã khuất. Sau khi Năm Hợi “hóa”, một ngày, có người đàn bà từ thành phố Hồ Chí Minh tìm đến chùa, nước mắt sụt sùi bảo với các nhà sư: “Nhiều lần người mẹ quá cố của con báo mộng rằng, mẹ con hóa kiếp thành heo, tên là Năm Hợi, sống ở chùa Mahatup (chùa Dơi, chùa Mã Tộc). Con mong các nhà sư cho con được làm lễ cầu hồn để linh hồn mẹ con được siêu thoát”. Nhà chùa đã đồng ý để người phụ nữ này đạt được ước nguyện. Lễ cầu siêu hoành tráng xong xuôi, thì người phụ nữ này chỉ đạo thở xây ngôi mộ, vẽ hình một con heo béo tốt lên bia, ghi tên Năm Hợi, với cả ngày “hóa”. Sau lần đó, các chủ gửi heo năm móng, ba giò đến chùa cũng học theo. Khi nào lợn chết, được nhà chùa thông báo, họ đến làm lễ mai táng, rồi xây mồ yên mả đẹp cho heo. Thế là sau ngôi chùa Dơi huyền bí, xuất hiện một nghĩa địa heo rất kỳ lạ. Số lượng mộ heo mỗi ngày một nhiều. Ngoài nghĩa địa heo thì trong chùa vẫn còn một số con heo 5 móng, 3 giò. Tuy nhiên, chẳng biết do không có “đàn chị” Năm Hợi chỉ đạo hay bởi lẽ gì mà sinh hoạt đàn heo này không có quy củ. Chúng ủi đất , phá phách lung tung. Thành thử, nhà chùa phải xây chuồng trại nhốt lại. Những con heo trong chuồng đều rất to, chỉ nằm dài chờ ăn. Hàng ngày nhà chùa phải chia sẻ khẩu phần ăn vốn đã không nhiều nhặn của mình cho chúng. Nhà sư có thể nhịn đói nhưng những chú heo được gửi lên chùa này mà đói thì kêu inh ỏi. Buổi trưa, chúng nằm phưỡn mình ngủ, thở phì phò, hai răng nanh thò ra sắc nhọn như nanh hổ, trông phát ớn. (Theo GĐ&CS)
-
Rùng rợn chuyện heo 'thành tinh' báo oán chủ lò mổ Ít ai biết rằng đằng sau ngôi chùa Dơi còn có một khu nghĩa địa kỳ lạ chôn những chú heo được cho là đã … 'thành tinh'. Những câu chuyện heo “thành tinh” báo oán chủ lò mổ khiến nhiều người sởn da gà. Cũng như những du khách khác, khi vào chùa Mã Tộc, còn gọi là chùa Dơi, ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất miền Tây, tôi hòa mình vào dòng người đi thẳng ra vườn cây cổ thụ trong khuôn viên chùa để xem đàn dơi. Phải công nhận, khu vườn dơi vô cùng kỳ thú, với hàng nghìn con dơi khổng lồ treo lủng lẳng kín ngọn cây. Mặc gió thổi khiến cây cối nghiêng ngả, mặc tiếng cười nói rổn rảng bên dưới, đàn dơi vẫn ngủ ngon lành, lấy sức sau một đêm miệt mài kiếm ăn. Ngôi chùa này là ngôi nhà an toàn nhất của chúng. Khói hương tạ tội vì cả gan giết heo “thành tinh” Sau khi thăm thú đàn dơi, tôi ngồi nghỉ ở chái chính điện ngôi chùa. Trên bậc thềm, một người đàn bà ăn mặc thời trang và một người đàn ông đang xì xụp chuẩn bị mâm lễ rất lớn, gồm đủ tiền vàng, gà luộc ngậm hoa, đặc biệt là một con heo vàng mã to như thật. Xưa nay, tôi chỉ thấy người đời làm vàng mã hình nhân, ngựa, rồng, xe cộ, máy bay, tên lửa… chứ tôi chưa từng thấy làm vàng mã bằng heo. Tò mò, tôi theo người đàn ông và người đàn bà đi vòng ra phía sau chính điện chùa Mã Tộc. Họ đặt mâm lễ trước một ngôi mộ. Tôi thực sự bất ngờ, khi sau ngôi chùa không phải là bảo tháp cất xá lị của các sư trụ trì như thường lệ, mà là những ngôi mộ được xây cất theo hàng lối, có cả bia. Nhưng kỳ cục hơn, trên mỗi bia mộ vẽ hình một chú heo rất béo tốt, đẹp mắt, da trắng hồng. Có ngôi mộ ghi “Bà Hợi”, “Ông Hợi”, “Năm Hợi”… Các bia mộ hình “Bà Hợi”, “Ông Hợi”, “Năm Hợi”… phía dưới tên là tuổi tác và thời gian sinh tử Khi người phụ nữ khấn vái xì xụp một hồi, thì sai người đàn ông hóa vàng. Tôi rảo bước đi theo để bắt chuyện tìm hiểu. Anh này cởi mở cho biết: Anh là em chồng của người đàn bà kia. Vợ chồng anh trai của anh vốn là chủ một lò mổ lớn nhất nhì thành phố Sóc Trăng. Mỗi ngày, lò mổ của vợ chồng anh trai hóa kiếp hàng vài chục chú heo.Vợ chồng anh ta là người Kinh, từ Bắc di cư vào, lại vốn vô thần vô thánh, nên chẳng quan tâm đến chuyện heo năm móng hay ba giò như đồng bào Khmer ở đây thường kể. Lò mổ của anh này có 7 thợ, mổ heo từ ba giờ sáng, đến năm giờ thì thịt đã ra thịt, xương ra xương để các lái buôn đến chở đi. Thông thường, anh ta cắt đặt công việc từ chiều hôm trước cho trưởng nhóm mổ, nhóm thợ cứ tự động làm. 5 giờ sáng, vợ chồng anh ta mới phóng xe đến để kiểm soát đầu ra, phân phối cho các đại lý đến lấy hàng.Thế nhưng, hôm đó, vợ chồng anh này đến mà chưa con heo nào được mổ. Đám công nhân ngồi hút thuốc lào, uống nước chè chờ vợ chồng ông chủ tới. Anh này hỏi lí do, thì hai thợ mổ là người Khmer bảo rằng, có hai con heo đã… “thành tinh”, là do con người… hóa kiếp thành heo, nên không dám mổ. Hóa ra, trong đàn heo chuẩn bị mổ có hai con heo mà đồng bào ở đây gọi là heo năm móng và ba giò. Mấy thợ mổ người Kinh thì không hiểu gì, nhưng riêng hai thợ mổ người Khmer quê ở huyện Vĩnh Châu thì rất sợ hãi. Hai anh này còn đốt nhang cắm ngay cửa chuồng heo rồi khấn lấy khấn để. Nhìn cảnh ấy, đám thợ còn lại cũng hãi, không dám mổ heo, thống nhất chờ ông bà chủ đến giải quyết.Quá tức giân, anh này đã sai thợ mổ mang chày cho mình. Rồi anh kêu nhóm thợ kéo lần lượt hai con heo mà thợ mổ của anh sợ hãi lên bàn mổ. Anh này vốn là thợ mổ lâu năm, nên mổ heo rất thuần thục. Mặc cho người vợ can ngăn, anh vung chày đập bốp một cái, chú heo há miệng quay đơ. Tay trái nắm tai, tay phải chích nhẹ, con dao bầu thấu cổ chú heo, máu xối ồ ạt ra chậu.Chú heo “thành tinh” còn lại cũng chịu chung số phận. Để đám thợ không sợ hãi, anh trực tiếp cạo lông, rồi chỉ nhoáng nhoàng, thịt đã ra thịt, xương ra xương. Mổ xong, anh bảo: “Đây nhé, là heo chứ không phải là người nhé!”. Đám thợ còn lại thấy vía ông chủ thì chẳng sợ gì nữa, riêng hai anh thợ người Khmer thì mặt mũi tái nhợt, chân tay run lẩy bẩy.Vụ mổ heo sẽ chỉ bình thường như vô vàn những lần mổ heo khác, nếu như không có sự kiện khủng khiếp diễn ra với ông chủ này. Ngay sáng đó, sau khi chọc tiết hai con heo năm móng và ba giò, trên đường chở vợ về nhà chiếc xe tải chạy ngược chiều đâm thẳng vào chiếc xe máy của vợ chồng anh ta, hất văng hai vợ chồng lên vỉa hè. Điều kỳ lạ là người vợ không hề xây xát, nhưng anh chồng thì bất tỉnh, máu me vương vãi khắp nơi. Cũng ngày hôm dó, đám thợ bỏ việc hết, không dám làm việc ở lò mổ này nữa.Lò mổ đóng cửa từ đó, ông chủ nằm viện suốt hai năm trời, tiêu tốn bạc tỷ mới đi cà nhắc được. Chuyện xảy ra đã bảy năm nhưng vợ chồng chủ lò mổ vẫn còn hãi hùng. Từ đó đến nay, cứ vào ngày rằm, chị vợ lại chuẩn bị lễ lạt, hương khói ở nghĩa địa heo trong chùa Mã Tộc. Chị đã nhờ nhà chùa rước “linh hồn” hai chú heo “thành tinh” mà chồng chị sát hại về ngồi chùa này để thờ cúng, khói hương, mong “linh hồn” hai chú heo tha thứ. Những câu chuyện rùng rợn về "heo thiêng trả thù" Nghe xong câu chuyện kinh hãi về ông chủ lò mổ bị heo “thành tinh” báo oán, tôi vào chánh điện tìm gặp sư trụ trì. Tuy nhiên, bữa đó, Thượng tọa Kim Rêne, trụ trì chùa Mã Tộc đi vắng, chỉ có sư phó Tú Linh ở chùa tiếp khách. Sư phó Tú Linh bảo rằng, những chuyện đồn đại sợ hãi về những chú heo năm móng, ba giò có rất nhiều.Chuyện này bắt đầu bởi một quan niệm mang tính chất tâm linh của người Khmer về những con heo quái thai. Người Khmer tin rằng những con heo có năm móng (năm móng chân, thay vì bốn móng như thông thường – PV) hoặc ba giò (một chân móng đen, một chân móng trắng gọi là heo ba giò – PV) chính là cố tinh của người. Người ta còn đồn rằng, nếu gia đình nào nuôi phải thì sẽ gặp chuyện lục đục chẳng lành, còn nếu giết heo thì người giết heo, thậm chí cả nhà đó sẽ phải đền mạng. Nhà nào có heo này, muốn bán cũng không có ai mua, cho không ai dám lấy, cứ phải nuôi đến khi nó chết, đem mai táng cẩn thận, thì may ra mới thoát nạn. Sư phó Tú Linh kể, ngay tại ngôi làng Mahatup, cạnh chùa Mã Tộc, cách đây 10 năm, có một người đàn ông đang ngồi câu, thấy một con heo vừa to vừa béo thủng thẳng tiến lại gần. Chân con heo này đeo một chiếc vòng bạc. Nhìn qua ông này biết con heo là loài quái thai năm móng, được gia chủ đóng cho chiếc vòng bạc, rồi thả rông. Nó cứ lang thang “xin ăn” khắp nơi.Vốn vô thần vô thánh, lại đang lúc túng đói, ông ta liền dắt heo về chọc tiết. Ăn không hết, ông ta đem ra bán ngoài chợ. Không ai biết đấy là thịt heo năm móng, nhưng chẳng hiểu sao cả buổi chợ hôm đó, không ai tiến lại chỗ ông ta hỏi mua thịt heo. Ngay đêm hôm đó, ông tự dưng bần thần, đôi mắt từ đờ đẫn chuyển sang dại, rồi điên khùng luôn. Vợ chồng, con cái sinh ra lục đục, đánh nhau chí chóe. Ông này điên khùng một thời gian thì lăn ra chết. Sau vụ ấy, người dân trong làng nhìn thấy heo năm móng hoặc ba giò đi dọc đường là kính cẩn chắp tay hành lễ. Bà cụ là phật tử quét dọn trong chùa Mã Tộc cũng kể lại một chuyện không kém phần kinh hoàng. Cách đây 7 năm, một ông chủ lò mổ chở đến chùa xác một con heo vừa bị chọc tiết, máu vẫn còn chảy ròng ròng. Ông chủ lò mổ này cùng gia đình vừa khóc vừa lạy, mong nhà chùa hóa giải kiếp nạn vì lỡ mua và giết một con heo 5 móng.Số là đám thợ mổ của ông không để ý, đến khi chọc tiết, làm lông mới nhìn đến móng chân nó, và đếm thấy có năm móng chứ không phải là bốn móng như thông thường. Nhà chùa lúc đó cũng làm lễ hóa giải. Ông này cũng xây mồ chôn heo tử tế, nhưng rồi ông ta cũng không thoát được sự báo oán của con heo “thành tinh” này. Hiện ông ta bị tâm thần, suốt ngày lang thang ở thành phố Sóc Trăng.Còn vô vàn chuyện liên quan đến heo năm móng, ba giò báo oán hại người. Có thể những câu chuyện họ kể là thêu dệt, suy diễn, nhưng có một thực tế mà ai cũng lấy làm lạ, đó là người Khmer vùng Sóc Trăng coi loài vật này như ma quỷ hiện hình. (Theo GĐ&CS)
-
BẠCH HOA XÀ THIỆT THẢO Xuất xứ: Quảng Tây Trung Dược Chí. Tên khác: Giáp mãnh thảo, Xà thiệt thảo, Nhị Diệp Luật (Trung Dược Học), Xà thiệt thảo, Ải cước bạch hoa xà lợi thảo (Quảng Tây Trung Dược Chí), Mục mục sinh châu dược Tiết tiết kết nhụy thảo, Dương tu thảo (Quảng Đông Trung Dược), Xà tổng quản, Hạc thiệt thảo Tế diệp liễu tử (Phúc Kiến Trung Thảo Dược), Tán thảo, Bòi ngòi bò, Bòi ngòi bò (Việt Nam). Tên gọi: Cây có lá như lưỡi rắn nên có tên Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo. Tên khoa học: Odenlandia diffusa (Willd) Roxb. Họ khoa học: Cà Phê (Rubiaceae). Mô tả: Cây thảo sống hàng năm, mọc bò, nhẵn. Thân hình 4 cạnh, màu nâu nhạt tròn ở gốc. Lá hình giải hay hơi thuôn, nhọn ở đầu, màu xám, dai, không cuống, lá kèm khía răng ở đỉnh. Hoa thường mọc đơn độc, hay họp 1-2 chiếc ở nách lá. Hoa màu trắng ít khi hồng, không cuống. Đài 4 hình giáo nhọn, ống dài hình cầu. Tràng 4 tù nhẵn, ống tràng nhẵn cả hai mặt. Nhị 4 dính ở họng ống tràng. Bầu 2 ô, 2 đầu nhụy, nhiều noãn, quả khổ dẹt ở đầu, có đài còn lại ở đỉnh. 2 ô nhiều hạt, có góc cạnh. Có hoa quả hầu như quanh năm. Địa lý: Cây có ở cả 3 miền nước ta, ở vườn hai bên lối đi đều hay gặp. Thu hái, sơ chế: Thu hái phơi khô cất dùng. Phần dùng làm thuốc: Toàn cây. Thành phần hóa học: + Trong Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo chủ yếu có: Hentriaconotane, Stigmastatrienol, Ursolic acid, Oleanolic acid, b-Sitosterol, p-Coumnic, b-Sitosterol-D-Glucoside (Trung Dược Học). + Asperuloside, Asperulosidic acid, Geniposidic acid, Deacetylasperulosidic acid, Scandoside, Scandoside methylester, 5-O-p-Hydroxycinnamoyl scandoside methylester, 5-O-feruoyl scandoside methylester, 2-Methyl-3- Hydroxyanthraquinose, 2-Methyl-3- Methoxyanthraquinose, 2-Methyl-3- Hydroxy-4- Methoxyanthraquinose (Nishihama Y và cộng sự, Planta Med, 1981, 43 (1): 28). + Ursolic acid, b-Sitosterol Yakagi S và cộng sự, Shoyakugaku Zasshi 1982, 36 (4): 366). Tác dụng dược lý: -Tác dụng kháng khuẩn: In vitro, tác dụng này không mạnh. Có tác dụng yếu đối với Tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lỵ. Dịch chích không có tác dụng ức chế vi khuẩn. Thuốc có hiệu quả rõ rệt đối với ruột dư viêm thực nghiệm trên thỏ (Trung Dược Học). + Tác dụng trên hệ miễn dịch: những thực nghiệm căn bản trên thỏ, có thể tin rằng sự kháng nhiễm có thể do thuốc có tác động lên hệ miễn dịch của cơ thể như làm tăng sinh hệ tế bào nội bì lưới, làm tăng hoạt lực của tế bào thực bào, tăng chức năng hệ miễn dịch không đặc hiệu (Trung Dược Học). +Tác dụng chống khối u: thuốc sắc Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo nồng độ cao in vitro thấy có tác dụng ức chế đối với tế bào trong bệnh bạch cầu viêm cấp, bạch cầu hạt tăng cấp (Trung Dược Học). +Thuốc còn có tác dụng làm tăng cường chức năng vỏ tuyến thượng thận, nhờ đó, có tác dụng kháng viêm (Trung Dược Học). +Tác dụng kháng ung thư: Thuốc ức chế sự phân chia sinh sản của hạch tế bào ung thư làm cho tế bào ung thư hoại tử khác biệt so với lô chứng (Trung Dược Học). + Tác dụng ức chế sản sinh tinh dịch: theo dõi 102 cas, kiểm tra tinh dịch sau 3 tuần uống thuốc thấy có 77% bệnh nhân tinh trùng giảm từ 1/3 đến 1/10 so với trước khi uống thuốc (Trung Dược Học). + Chích nước sắc chiết cồn của Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo cho bệnh nhân bị nhiều loại rắn độc khác nhau cắn phải, dùng một mình hoặc kết hợp với thuốc chống nọc độc, thấy có tác dụng làm giảm tỉ lệ tử vong của chuột do độc tố của rắn độc. Ở các cas trung bình, chỉ dùng Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo là đủ (Trung Dược Học). + Điều trị ruột dư viêm: dùng liều cao (40g tươi hoặc 20g khô) Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo, trong nhiều nghiên cứu thấy có kết quả tốt. Trong 1 lô 30 bệnh nhân, bị ruột dư viêm được điều trị bằng thuốc sắc Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo, trong khi nhóm khác dùng Dã Cúc Hoa và Hải Kim Sa. Có 2 bệnh nhân cần giải phẫu, còn lại tất cả đều hồi phục, không có vấn đề gì. Thời gian nằm viện là 4,2 ngày (Trung Dược Học). Tính vị: +Vị ngọt nhạt, tính mát (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). +Vị ngọt, hơi đắng, tính hàn (Trung Dược Học). +Vị đắng, ngọt, tính ôn, không độc (Quảng Tây Trung Dược Chí). + Vị hơi ngọt, tính hơi hàn (An Huy Trung Thảo Dược). Quy Kinh: + Vào kinh Can, Vị, Tiểu trường (Trung Dược Học). + Vào kinh Vị, Đại trường, Tiểu trường (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Vào kinh Tâm, Can, Tỳ (Quảng Tây Trung Dược Chí). Tác dụng: + Thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, khử ứ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). + Thanh nhiệt, giải hỏa độc, tiêu ung (Trung Dược Học). + Thanh nhiệt, giải độc, tiêu ung, kháng nham, lợi thấp (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Tiêu thủng, giải độc, khu phong, chỉ thống, tiêu viêm (Quảng Đông Trung Dược). Chủ trị: + Trị các loại sưng đau do ung thư, các loại nhiễu trùng như nhiễm trùng đường tiểu, viêm hạnh nhân, viêm họng, thanh quản, viêm ruột thừa, viêm phế quản cấp mãn tính, viêm gan thể vàng da hoặc không vàng da cấp tính, Rắn độc cắn, sưng nhọt lở đau, tổn thương do té ngã(Quảng Tây Trung Dược Chí). + Trị rắn cắn, ung thư manh trường, kiết lỵ (Quảng Đông Trung Dược). Liều dùng Dùng khô từ 20-40g, ngoài dùng tươi gĩa nát đắp lên nơi đau. Đơn thuốc kinh nghiệm: + Trị ung nhọt, u bướu: Bạch hoa xà thiệt thảo 120g, Bán biên liên (tươi) 60g sắc uống, ngoài đâm nát đắp lên nơi đau (Quảng Tây Trung Thảo Dược). + Trị ung thư phổi: Bạch hoa xà thiệt thảo, Bạch mao căn mỗi thứ 160g (dùng tươi), sắc uống với nước đường (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị ruột dư viêm cấp tính: Bạch hoa xà thiệt thảo 80g, sắc uống, nhẹ ngày 1 thang, nặng ngày 2 thang (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị ho do viêm phổi: Bạch hoa xà thiệt thảo (tươi) 40g. Trần bì 8g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị amidal viêm cấp : Bạch hoa xà thiệt thảo 12g, Xa tiền thảo 12g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị đường tiểu viêm, tiểu buốt, tiểu gắt: Bạch hoa xà thiệt thảo, Dã cúc hoa, Kim ngân hoa, mỗi thứ 40g, Thạch vi 20g, sắc uống thay nước trà (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị chấn thương thời kỳ đầu: Bạch hoa xà thiệt thảo (tươi) 120g, nước, rượu mỗi thứ 1 nửa sắc uống (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Bảo vệ gan, lợi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo + Hạ khô thảo + Cam thảo [theo tỉ lệ 2 + 2 + 1] (Tam Thảo Thang - Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Trị ruột dư viêm cấp đơn thuần và phúc mạc viêm nhẹ: Bạch hoa xà thiệt thảo 60g, sắc, chia 3 lần uống. Đã trị hơn 1000 cas kết qủa tốt (Dược Lý Và Ứng Dụng Trung Dược, NXB Vệ Sinh Nhân Dân, 1983). + Trị rắn độc cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 20g, sắc với 200ml rượu uống trong ngày. Dùng 2/3 thuốc, chia làm 2-3 lần uống, còn 1/3 đắp vào vết cắn. Trị 19 cas đều khỏi (Quảng Đông Y Học Tạp Chí 1965, 4:14). + Trị dịch hoàn ứ nước (biến chứng sau khi thắt ống dẫn tinh): Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, sắc, chia làm 3 lần uống. Trị 38 cas, có kết qủa 34 cas (Vạn Hiếu Tài - Nông Thôn Y Học Tạp Chí 1987, 2:11). + Trị gan viêm, vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 31,25g, Hạ khô thảo 31,25g, Cam thảo 15,625g, chế thành xi rô. Trị 72 cas, có kết quả 100%. Ngày nằm viện bình quân 25,3 ngày (Tam Thảo Thang - Báo Cáo Của Khoa Nhiễm Bệnh Viện Trực Thuộc số 2 Học Viện Y Học Hồ Nam đăng trong Thông Tin Trung Dược Thảo 1987, 2:1). Tham Khảo: “Bạch hoa xà thiệt thảo + Bán chi liên mỗi vị 40g, được dùng nhiều trong các bài thuốc trị các loại ung thư (Quảng Tây Trung Thảo Dược). Phân biệt: (1) Cây trên khác với cây cũng được gọi là Bạch hoa xà thiệt thảo, hoặc có các tên khác như: Đuôi công hoa trắng, Bươm bướm tích lan, Bươm bướm trắng. Nhài công, Bạch tuyết hoa. Lài đưa, Chiến (Plumbago zeylanic L.) thuộc họ Plumbaginnaceae, là cây cỏ cao từ 0,50m đến 1m, cành có góc, thân có khía dọc. Lá hình trứng hay thuôn, đầu nhọn mọc so le, cuống lá ôm lấy thân, hoa hình đinh màu trắng, mọc thành bông dày đặc ở ngọn, đài có nhiều lông dính. Nhân dân thường lấy rễ lá tươi để làm thuốc. Rễ có màu trắng đỏ nhạt, mép ngoài sẫm có rãnh dọc, phấn trong màu nâu, vị hắc gây buồn nôn, có tính chất làm rộp da. Cây này có vị cay tính nóng, có độc, có tác dụng thông kinh. hoạt huyết, sát trùng tiêu viêm. Thường dùng ngoài để chữa đinh nhọt, tràng nhạt, sưng vú, dùng lá rễ tươi đâm nát đắp vào. Khi chữa hắc lào lở ghẻ lấy rễ tươi rửa sạch gĩa nhỏ phơi trong mát ngâm rượu 70 độ bôi vào, chữa chai chân đi không được bằng cách đâm tươi rịt 2 giờ rồi bỏ ra. Ngoài ra có thể sao vàng sắc uống để trừ hàn lãnh, ứ huyết của sản phụ. (2) Cũng cần phân biệt với cây Xích hoa xà còn gọi là Bạch hoa xà, Bươm bướm hường, Bươm bướm đỏ đuôi công (Plumbago indica Linn hoặc Plumbago rosea Linn.) là cây thảo thân hóa gỗ rất nhiều, có khía dọc nhỏ nhẵn. Lá nguyên mọc cách hình mũi mác thuôn, mặt trên hơi có lông gần tù ở đầu, cuống lá ngắn. Hoa họp thành bông dài ở đỉnh, đơn hoặc phân ít nhánh ở phần trên, lá bắc hình trứng, chỉ bằng 1/4 của đài. Đài hình trụ có 5 cạnh phủ lông tuyến khắp mặt ngoài, tận cùng là 5 răng ngắn, nhọn. Tràng màu đỏ, ống nhỏ, dài gấp 4 lần đài, 5 thùy trải ra hình trứng hơi tròn. Nhị 5. Bầu bé, vòi nhụy chĩa thành 5 cánh ở ngọn. Cây có ở cả 3 miền nước ta, thường được dùng làm cảnh. Có tài liệu giới thiệu rễ cây này cũng có công dụng như cây này. Kinh nghiệm nhân dân dùng bột rễ cây này trộn với dầu để xoa bóp nơi tê thấp và bệnh ngoài da như cùi hủi, ung thư. Có nơi chữa đau gân, đau xương, làm thuốc trụy thai, thường hay dùng lá, nếu nhức xương thì dùng rễ, lá xào ăn, ăn nhiều thì có tác dụng xổ. (3) Ngoài ra người ta còn dùng cây Bòi Ngòi Trắng (Oldenlandia pinifolia (Wall) K.Schum) để thay cho Bạch hoa xà thiệt thảo. (4) Ở Trung Quốc cũng dùng cây Bòi Ngòi Ngù, còn gọi tên khác là Vỏ Chu (Oldenladia corymbosa Linn.) hoặc Thủy tuyến thảo, là cây cùng họ với cây trên, công dụng giống nhau. Người ta thường cho rằng tác dụng trị ung thư thì cây Bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng tốt hơn cây này. Đó là cây thảo sống hàng năm thẳng đứng cao 0,15-0,40m, phân nhánh nhiều, nhẵn. Thân non màu lục, có 4 cạnh, sau tròn và xám ở gốc. Lá hình giải hay hình trái xoan dài, nhọn cả hai đầu và không có cuống, chỉ có gân chính là nổi rõ, lá kèm mềm, chia thùy ở đỉnh. Hoa tập trung thành sim ở nách lá. Quả nang hình bán cầu, hơi lồi ở đỉnh. Cây có hoa và quả quanh năm. Nhân dân dùng toàn cây, thu hái quanh năm nhưng tốt nhất là vào mùa hè, thu, lúc cây ra hoa. Thu hái về phơi khô hay sao vàng, dùng trong các chứng sốt cao, đau nhức xương cốt, thấp khớp, đau lưng, mệt lả (Danh Từ Dược Vị Đông Y). nguồn Y Dược Học Cổ Truyền
-
Cây Khiết Bông? Ai biết không cho mình biết ...tên?
-
Qua phatca.com Wild nhận được Thư thỉnh nhận Thần Chú. Wild sẽ gửi đến Bạn vào ngày mai!
-
Chúng tôi sẽ gửi đến Bạn từ khu vực Hà nội.
-
Bài thuốc đơn giản tự chế “vĩnh biệt” bệnh viêm xoang không tốn một xu Hễ bệnh viêm xoang càng nặng thì khi xông mũi bằng bài thuốc này sẽ càng thấy có hiệu quả nhanh, bình thường chỉ sau từ 2 - 4 lần xông sẽ thấy bệnh thuyên giảm rõ. Thương con trai bị viêm xoang từ nhỏ, đã điều trị nhiều năm với đủ mọi phương pháp mà không khỏi bệnh, vợ chồng ông bà Trần Ngọc Đảnh - Trần Thị Kim Phúc (ngụ Quận 6, Tp.Hồ Chí Minh) cất công mày mò, cậy nhờ những bài thuốc dân gian. Điều thần kỳ đã đến khi gia đình này được mách nước tự chế bài thuốc cực kỳ đơn giản của đồng bào dân tộc Tây Nguyên dùng cây giao (một loại cây thuộc họ xương rồng), giúp người bệnh “đoạn tuyệt” với bệnh xoang mà không tốn một đồng tiền. Bài thuốc quý của đại ngàn Ông Đảnh (67 tuổi) vốn không phải là bác sĩ, cũng không một ngày được học về thuốc trị bệnh. Ông trước là giảng viên Trường Đại học Nông Lâm, sau này về công tác ở Sở Nông nghiệp cho đến khi nghỉ hưu. Vị kỹ sư về hưu kể lại: “Con trai tôi bị viêm xoang từ năm 10 tuổi. Cứ mỗi lần thay đổi thời tiết là cháu đau, nhức đầu, nước mũi chảy liên tục rất khó thở. Ngoài ảnh hưởng lớn đến sức khỏe thì căn bệnh này còn gây cho cháu rất nhiều bất tiện trong sinh hoạt và học tập. Thương con, vợ chồng tôi cứ nghe nói có thầy thuốc nào, bài thuốc nào chữa bệnh cho con dù xa xôi mấy cũng lặn lội đến. Suốt nhiều năm đưa con đi điều trị ở khắp các bệnh viện nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm”. Khoảng đầu năm 2003, một lần ông Đảnh tình cờ gặp một đồng đội cũ từng cùng chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên. Khi biết những vất vả của gia đình bạn trong việc điều trị cho con trai, người này đã chỉ cho chú Đảnh một bài thuốc rất mà trước khi đóng quân ở Tây Nguyên đã được đồng bào dân tộc tốt bụng chỉ cho khi thấy mình bị xoang nặng. Bản thân người này sau khi áp dụng đã khỏe mạnh, hết bệnh từ đó đến nay. Bài thuốc này kỳ thực rất đơn giản, chỉ duy nhất một vị thuốc là cây giao. Phương pháp chữa bệnh cũng rất dễ dàng, người bệnh chỉ việc đun cây giao tươi lên và xông. Chỉ sau hơn một tháng dùng loại thuốc tự chế này, căn bệnh dai dẳng và “cứng đầu” của con trai ông Đảnh đã hết hẳn. Người thanh niên này đang học tập và làm việc tại Úc, sống trong mùa đông lạnh và khắc nghiệt của xứ sở “chuột túi” nhưng căn bệnh vẫn không tái phát. Cây Giao Từ khi con trai khỏi bệnh, trong những lần đi tập dưỡng sinh, sinh hoạt các câu lạc bộ, bà Phúc đã phổ biến bài thuốc này cho người quen và rất nhiều người nhờ đó đã khỏi bệnh. Nhiều năm chứng kiến nỗi khổ của con trai khi phải sống chung với căn bệnh khó chịu, ông bà quyết tâm giúp những người bị bệnh như con trai mình tìm lại sức khỏe. Khi bài thuốc được phổ biến rộng rãi, nhiều người tìm đến gia đình để xin bài thuốc, cây thuốc. Ngôi nhà ống giữa đất Sài Thành không có không gian để trồng cây nên để giúp đỡ những người bệnh, nên có mấy năm ròng, mỗi tuần ông bà lại thuê một chiếc xe 16 chỗ chạy ra Ninh Thuận, Bình Thuận chở đầy một xe cây giao về phát cho mọi người. Thời gian gần đây do tuổi cao, vợ chồng ông bà không thể đi xa lấy thuốc cho mọi người nên bỏ thời gian soạn hẳn một quy trình đầy đủ từ mô tả cây, công dụng, cách làm, tác dụng, lưu ý … và mỗi người bệnh tìm đến đều được biếu một bản quy trình này. Chi tiết quy trình diệt bệnh xoang bằng cây giao Điều đầu tiên trong bài thuốc này, ông Đảnh nhấn mạnh: “Do cây giao thuộc họ xương rồng, có mủ đục có hại cho mắt nên trong mọi thao tác làm thuốc (cắt, bẻ…) nhất thiết phải thật cẩn thận, tránh để mủ này dính vào mắt (có thể mang kính), tránh trường hợp mủ có khả năng làm hại, đui mắt. Những dụng cụ nhất thiết phải có để chữa bệnh xoang gồm: 1. Một ấm nước nhỏ (bằng kim loại, sành sứ đều được và lưu ý sau này không dùng ấm này để nấu nước uống vì sợ độc). 2. Lấy một tờ lịch treo tường loại lớn quấn xéo lại thành một cái ống dài. Lưu ý ống phải dài khoảng 50cm, nếu ngắn quá thì hơi sẽ quá nóng, dễ bị phỏng da; còn nếu dài quá thì hơi không đủ mạnh để hít. Ống phải quấn sao cho một đầu vừa miệng vòi ấm, còn một đầu nhỏ hơn dùng để hít. Nếu có ống tre hay trúc được thông lỗ giữa các đốt cây thì tốt hơn, nhưng không được dùng loại ống bằng nhựa bởi dễ nóng chảy. Bà Trần Thị Kim Phúc trong một lần đi tìm cây giao phát miễn phí cho người mắc bệnh xoang Bài thuốc xông mỗi ngày gồm một chén (bát) nước và khoảng 70gr cây. Nếu không có cân thì có thể đếm khoảng 15-20 đốt cây thuốc cho một ngày dùng. Thường buổi sáng dùng phần lớn lượng cây thuốc trong phần thuốc của cả ngày, chừa lại một vài nhánh nhỏ để đến chiều bổ sung lượng thuốc đã bốc hơi. Nếu dùng một lần một ngày thì trọn phần thuốc đã định vào một lần. Cắt nhỏ các đốt cây thành cỡ một nửa đốt ngón tay rồi thả vào ấm. Nên cắt cây ngay trên miệng ấm để cho mủ cây nhỏ vào ấm càng tốt. Sau đó đặt ấn lên bếp, nên sử dụng loại bếp có chức năng tăng giảm lửa như bếp ga mini. Đầu tiên vặn lửa thật lớn cho nước trong ấm sôi sùng sục. Khi thấy hơi xông ra nhiều từ vòi ấm thì bớt lửa đến cực nhỏ, canh sao cho hơi vẫn còn bốc ra nhẹ ở vòi ấm. Kế tiếp đưa một đầu ống đã quấn vào vòi ấm, còn một đầu cho vào mũi để hít hơi xông lên. Thời gian xông là hai lần trong một ngày (nên sử dụng vào sáng và tối). Thuốc đã dùng buổi sáng nên để dành và hâm lại dùng buổi tối. Khi hâm dùng lần hai thì nhớ bổ sung thêm một ít nước cùng vài đốt cây mới. Sau đó đổ bỏ, hôm sau lại làm liều thuốc mới. Hai hôm đầu xông mỗi lần 20 phút, từ ngày thứ 3 - 5 mỗi lần 25 phút, sau đó xông 30 phút mỗi lần và duy trì như vậy cho đến hết bệnh. Khi bệnh đã khỏi, nên xông củng cố thêm vài lần, mỗi lần 45 phút rồi mới nghỉ hắn. Trẻ em nên xông với thời gian ngắn hơn so với người lớn, để khi quen dần mới tăng thời gian lên. Theo ông Đảnh, nên xông kiên trì cho đến khi hết hẳn, bệnh nặng có thể xông đến khoảng 30 ngày. Sau đó duy trì thêm một vài lần cho chắc ăn rồi ngưng, không nên lạm dụng. Về sau, nếu có tái phát mới xông tiếp. Có nhiều trường hợp bệnh nặng lâu năm, khi xông đã khỏi bệnh lâu dài. Kinh nghiệm bản thân của vị kỹ sư về hưu này cho thấy hễ bệnh càng nặng thì khi xông sẽ càng thấy có hiệu quả nhanh, bình thường chỉ sau từ 2 - 4 lần xông sẽ thấy bệnh thuyên giảm rõ. Nếu xông quá lâu mà vẫn không có chút kết quả gì thì chỉ có thể là cơ thể người bệnh không “chịu thuốc” hoặc là đã lấy không đúng giống thuốc hay sử dụng không đúng cách. Những trường hợp này nên ngưng dùng. Qua nhiều năm tiếp xúc với nhiều người bệnh xoang, ông Đảnh khẳng định: “Tỉ lệ khỏi bệnh là rất cao, khoảng trên 90% người đã dứt bệnh xoang khi xông mũi bằng cây giao.” Ông Đảnh lưu ý: “Người mới xông có thể gặp các biểu hiện sau: Có người xông vào thấy thông mũi, nhẹ đầu, dễ chịu và khỏi bệnh nhanh chóng. Có người 2 - 3 hôm đầu thấy sổ mũi nhiều, khó chịu nhưng tiếp tục xông sẽ qua khỏi và êm dần cho đến khi hết bệnh. Có một số bệnh nhân viêm xoang sàng sẽ thấy bớt đau ở cổ và vai nhưng dồn lên đau nhiều ở đầu nhưng chừng 2 - 3 hôm sau cơn đau sẽ dịu dần; khi xông tiếp sẽ hết đau rồi hết hẳn bệnh”. Một lưu ý cuối cùng: Bài thuốc này không được dùng cho phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú. Cây giao là một loại cây thuộc họ xương rồng, không lá, không gai (Có nơi còn gọi là cây nọc rắn, cây càng tôm, cây xương khô, xương cá hay cây san hô xanh...). Cây mọc hoang ở nhiều nơi, ở thôn quê cây thường được trồng làm hàng rào.Thân chỉ gồm nhiều đốt tròn có đường kính như chiếc đũa, màu xanh, có độ dài không đều, mọc tua tủa ra các phía. Lá nhỏ, hẹp, rụng sớm, thường chỉ có cành nhánh trơ trọi. Thân khi bẻ ra thấy nhiều mủ màu trắng đục như sữa, và chính mủ này là vị thuốc trị bệnh xoang. Cây dễ trồng, có thể cắt cành và giâm xuống đất ẩm. Sau khi giâm, người ta tưới nước vừa phải mỗi ngày, sau vài ngày thì cây sẽ bén rễ, rồi dần sẽ nảy nhánh con, phát triển tốt. Theo Thủy Trúc - PLVN
-
Việc Tốt và Việc Xấu Một người đàn bà nướng bánh mì cho gia đình mình và làm dư ra một cái để cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Hàng ngày, có một người gù lưng đến lấy ổ bánh mì. Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời sau đây: “Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!” Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu : “Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”Người đàn bà rất bực bội. Bà thầm nghĩ, "Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?” Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt. Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.” Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà làm cho người gù! Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên. Bà hốt hoảng, “Ta làm gì thế này?” Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ. Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm: “Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.” Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ. Mỗi ngày, khi người đàn bà đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà đều cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm. Đã nhiều tháng qua, bà không nhận được tin tức gì của con. Bà cầu nguyện cho con trở về nhà bình an.Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa. Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói: “Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói: “Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng: “Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.”
-
Có một nơi tịnh hóa tranh tượng, kinh sách cũ nát GNO - Cư sĩ Huỳnh Long Ngọc Diệp (PD: Hoa Minh) cho biết vừa thành lập Trung tâm Tịnh Hóa nhằm giúp các chùa, Phật tử có nơi xử lý những tranh tượng Phật, Bồ-tát hay của các vị thần tài, ông táo, ông địa… cũ, bị hư tổn cũng như các kinh sách bị cũ nát. Theo đó, cư sĩ Hoa Minh bộc bạch: “Chúng tôi đã ấp ủ tâm nguyện thành lập một kho lưu trữ và tiến hành việc tịnh hóa các tranh tượng, ấn phẩm Phật giáo một cách trang nghiêm. Duyên lành hội đủ, được sự tán thành, động viên, khích lệ tinh thần của chư tôn đức, Trung tâm Tịnh Hóa đã được thành lập ngày 12-12-2012”. Trung tâm đặt trụ sở tại chùa Phổ Quang (64/3 Phổ Quang, P.2, Q.Tân Bình, TP.HCM) sẽ tiếp nhận các tranh tượng, ấn phẩm hư nát tại ba địa điểm gồm: Siêu thị Pháp Hoa (chùa Phổ Quang, 64/3 Phổ Quang, P.2, Q.Tân Bình, TP.HCM); Tổ in ấn (380/1 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.8, Q.3, TP.HCM) và Trung tâm Phật Ngọc (40 Cù Lao, P.2, Q.Phú Nhuận, TP.HCM hoặc 711 Lê Hồng Phong, Q.10, TP.HCM hoặc 68 Phan Đình Phùng, P.2, Q.Phú Nhuận, TP.HCM). Sau khi tiếp nhận Trung tâm có nhiệm vụ phân loại và xử lý theo hướng sẽ tẩy tịnh rồi lưu trữ lại và ấn tống đến các vùng quê nghèo, hoặc những ai có nhu cầu (đối với tranh, tượng… còn có thể sử dụng). Riêng, với những tranh, tượng… không còn sử dụng được sẽ tịnh hóa và mỗi lần tịnh hóa đều thỉnh chư Tăng Ni tụng niệm, chú nguyện. L.Đ.L
-
Wild đã gửi đến bạn Linh Chú! Hy Vọng sớm nhận được ! Wild cũng đã gửi đến Bạn số Linh Chú thỉnh nhận, Hy vọng sự phát triển của Bạn sẽ đem đến cho Bạn nhiều lợi lạc !
-
Những món ăn kinh dị nhất Việt Nam Moi óc khỉ sống, nuốt chửng quả tim rắn còn đang nóng hôi hổi, xẻ thịt rắn còn đang sống để lấy bào thai rồi thưởng thức... là những món ăn không chỉ khiến cho nhiều người kinh hãi mà còn khiến dư luận “ném đá” dữ dội. Nuốt chửng tim rắn Tim rắn là món ăn không còn xa lạ ở Việt Nam bởi nó đã được rất nhiều người đề cập đến. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể “thưởng thức” được món ăn này. Nhiều người cho rằng, nuốt chửng quả tim vừa lấy ra từ còn rắn, vẫn còn đang đập và nóng hôi hổi sẽ có tác dụng bồi bổ đặc biệt cho các quý ông. Quả tim vừa lấy ra từ con rắn, vẫn còn đập và nóng hôi hổi được đặt giữa một chiếc đĩa nhỏ đựng tiết, sau đó, nó được thả vào chiếc chốc chứa rượu. Người thưởng thức sẽ uống liền một hơi cả rượu và tim rắn. Nhưng có những người lại có sở thích thưởng thức món tim rắn bằng cách nuốt trọn quả tim ngay khi nó vẫn còn đang đập mà không cần nhúng vào cốc rượu... Bào thai rắn Vì muốn trở thành dũng sĩ chốn phòng the, nhiều quý ông đã lao vào thú ăn chơi “tàn bạo”. Họ lùng mua những con rắn lúc đang bụng mang dạ chửa, mổ bụng lấy bào thai sau đó... nhúng qua nồi nước đang sôi rồi thưởng thức. Nhiều người lại có sở thích xẻ thịt con rắn còn sống và đang bụng mang dạ chửa để lấy bào thai... và thưởng thức Có một vị khách đã miêu tả: “Những con rắn nhỏ li ti đang nằm trong bào thai nhưng vẫn cố ngúc ngoắc cái đầu, uốn éo như giun, để mong khỏi chiếc bao nhầy nhụa chất nhờn và gân máu, nhưng chỉ sau vài giây thì bỗng co giật dữ dội rồi nằm thẳng đơ, nổi lềnh bềnh trong nồi lẩu bên tiếng reo hò của đám thực khách. Những người đàn ông lạnh lùng thì gắp từng con cho vào nồi nước sả đang sôi ùng ục rồi cuốn với bánh tráng. Lại có ông chỉ nhúng sơ rồi cho thẳng vào miệng...”. Món ăn này ngay khi xuất hiện đã vấp phải sự phản ứng của rất nhiều người, bởi nó đi ngược với truyền thống nhân văn của dân tộc. Ngoài ta, nhiều người còn cho rằng, thú ẩm thực tàn nhẫn này còn góp phần đẩy loài mãng xà trên tiến đến bến bờ tuyệt diệt. Cá ngáp trên bàn tiệc Xuất hiện trên bàn tiệc là một món cá được trình bày bắt mắt, phần thân được rán vàng nhưng phần đầu còn sống với mang còn thở và miệng liên tục ngáp. Món ăn này ngay lập tức đã nhận được những phản ứng dữ dội từ phía cộng đồng mạng. Trong đó có nick name còn tỏ ra gay gắt:“Giết chết một sinh mạng để nuôi sống bản thân đã là có tội rồi, đằng này còn dùng cách làm cho con vật sống dở chết dở mà vẫn có thể vừa ăn vừa cười giỡn được thì thật quá dã tâm. Giá như con cá biết nói tiếng người, biết chảy nước mắt van xin thì thử có dám ăn không… Chỉ có thể dùng từ “dã man” đối với những “thượng đế” này”. Món cá được chế biến rất cầu kỳ, đã gặp phải sự phản ứng gay gắt của dư luận Bên cạnh đó, nhiều người cũng không tiếc lời mà cho rằng đây là món ăn “mọi rợ” nhất ở Việt Nam và người thưởng thức món ăn này là những người không có lương tâm Toàn thân con khỉ được nhét vào trong một chiếc hộp bên dưới bàn ăn, chỉ mỗi cái đầu được nhô lên trên bàn ăn. Người ta cầm con dao sắc ngọt phạt một nhát ngang chỏm đầu con khỉ. Khách dùng thìa múc óc còn tươi máu ăn với rau gia vị trong khi con khỉ vẫn còn kêu la, nước mắt chảy ròng ròng ở dưới bàn. Cách làm vô nhân tính này đã khiến cho nhiều người bức xúc, cư dân mạng “ném đá” dữ dội đồng thời kêu gọi tẩy chay. Món ăn tàn bạo đã khiến dư luận dậy sóng. Được biết, từ xa xưa, óc khỉ sống đã được lưu truyền ở Á Đông như một món đại bổ giúp tăng cường sinh lực cho các quý ông. Tuy nhiên, sau đó, các các nhà khoa học đã chứng minh rằng việc ăn óc khỉ sống là nguy cơ mang đến nhiều loại bệnh tật nguy hiểm. Nhưng do thiếu hiểu biết, không ít người ở Việt Nam vẫn sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền lớn để thưởng thức món ăn ghê rợn này. Minh Minh (tổng hợp) ========= Qua bài viết trên đây, Wild thấy thích hợp với Topic Nghiệp Chướng có lẽ ko có ngôn ngữ nào để mô tả thêm tính chất dã man của 1 số người có quan điểm hưởng thụ những con vật sống tươi và chết tươi chỉ để thỏa mãn "tính chất bổ dưỡng 1 cách vô minh sát sinh" như trên.
-
Sự diễn tiến sanh tử về cơ thể con người ...! Trong loạt phim CƠ THỂ LOÀI NGƯỜI, giáo sư Robert Winston đưa chúng ta trên chuyến du hành theo thời gian mà điểm khởi đầu là lúc sinh ra và điểm cuối cùng là khi giã từ cõi đời và lộ trình của chuyến đi chính là một nơi vô cùng quen thuộc: Cơ thể Loài người. Với những công nghệ đồ họa máy tính, những kỹ thuật chụp ảnh tân tiến, những kỹ xảo quay chậm tuyệt diệu, chúng ta có thể khám phá mọi khía cạnh, mọi bộ phận trong cơ thể con người trong nhiều giai đoạn phát triển khác nhau trong cuộc sống : sinh ra, trưởng thành, rồi chết đi. Bộ phim miêu tả chi tiết đồng thời người dẫn chương trình cũng giải thích thấu đáo các quá trình quan trọng của đời người như thụ thai, sự chập chững biết đi của trẻ, sự trưởng thành của thanh thiếu niên, sự lão hóa của người già hay cơ chế hoạt động cực kỳ phức tạp của bộ não (đây là bộ phận tiêu tốn nhiều năng lượng nhất trong cơ thể) và cuối cùng là cái chết Qua cách nói dễ hiểu, trực quan và sống động của giáo sư Winston, các em nhỏ trên 10 tuổi hoàn toàn có khả năng cảm thụ được loạt phim này. Ngoài ra khán giả cũng sẽ rất bất ngờ và thú vị với những câu nói hóm hỉnh, những thống kê ngộ nghĩnh (chẳng hạn trung bình một người trong cả đời tốn mất 3 năm rưỡi thời gian để ăn và ăn hết 160 kg sô cô la). Bên cạnh đó là những tình cảm xúc động khi chứng kiến cảnh quay những phút cuối cùng của Herbie -- một bệnh nhân đang chống chọi với căn bệnh ung thư. Người dịch: Phạm Phương Anh, Trần Thanh Vân, Bích Ngọc đến từ KEC1 Người biên tập: Nguyễn Huyền Trang + VCĐ Mời Bấm: <img style="border: 0px;"> BBC-The Human Body Or: => http://www.youtube.com/embed/lmuLcOxD2kM?feature=player_detailpage
-
Bạn Nha Khanh đã gởi đến bạn ngày 27/12/2012 Hy vọng bạn sớm nhận được để phát triển hạnh nguyện của mình nhé !
-
"Người rừng" và bí ẩn thiền sư Tây Tạng còm nhom có công năng đặc dị Biết rằng vị thiền sư này có công năng đặc dị nên ông Lâm đập mạnh tay hơn. Ông có cảm giác viên gạch nung đỏ rất cứng chưa chạm đầu vị thiền sư đã vỡ vụn. Vị thiền sư cũng như vùng đất Tây Tạng đều vô cùng huyền bí. Sau khi ông Trần Ngọc Lâm hạ đo ván 4 tên giang hồ ngoài biên ải, ông trở về nước để tránh sự truy lùng của chúng. Nhưng Lìu Cắm Xìn, đại ca của bọn giang hồ, bị ông Lâm đánh trọng thương, phải ngồi xe lăn không những không tìm cách trả thù, mà còn khâm phục khí khái của ông Lâm. Lìu Cắm Xìn đã cho người sang Việt Nam mời ông Lâm sang. Cảm phục khí khái của ông Lâm, nên Lìu Cắm Xìn nhận kết nghĩa anh em với ông Lâm. Lìu Cắm Xìn bảo: "Sau khi tìm hiểu về anh, tôi được biết anh từng là bộ đội, lại bệnh tật, không có việc làm kiếm tiền chữa bệnh nên tôi gọi anh sang đây để kiếm việc cho anh". Ông bảo: "Tao bệnh tật sắp chết rồi thì làm được việc gì?". Ông Lâm lang thang hết cách rừng này đến cánh rừng khác để tìm cây thuốc quý Lúc đó, Vàng Lù Pao đi vào và nói: "Tôi là đệ tử của Cắm Xìn. Lời giang hồ nói ra dù một câu thì chết cũng không thay lòng. Nếu anh có mệnh hệ gì, tôi sẽ đưa xác anh về tận Việt Nam an táng chu đáo rồi gửi tiền chăm lo cho vợ con anh". Vàng Lù Pao là con trai của một thiếu tướng quân y trong quân đội, rất giàu có. Vàng Lù Pao có một đội xe mấy chục cái, toàn loại siêu trường siêu trọng chở hàng trên con đường xuyên Á, từ Trung Quốc lên Tây Tạng, rẽ qua các nước Trung Đông và châu Âu, rồi lại lấy hàng ở những nước đó chở về miền Nam Trung Quốc. Pao mời ông Lâm làm công việc giám sát đội xe và sửa chữa cho đoàn xe khi gặp sự cố. Ngoài việc nuôi ăn uống, ngủ nghỉ, Pao trả lương cho ông 3.000 tệ/tháng, một mức lương rất cao hồi đó. Ông Lâm kể chuyện Hoàng Liên Sơn cho khách leo Fan trong túp lều giữa rừng Như buồn ngủ gặp chiếu manh, ông Lâm đồng ý ngay. Ông nhắm mắt đưa chân miễn là kiếm được tiền nuôi vợ con, mặc dù khi ông chết đi, có thể chúng sẽ quẳng xác xuống một cánh rừng cách xa Tổ quốc hàng vạn dặm. Về nhà thăm vợ con vài ngày, ông lặng lẽ balô túi xách lên đường, không nói gì với vợ con. Đoàn lái xe có 50 người, với 16 quốc tịch, tuy nhiên, chỉ có ông mới được ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu với Vàng Lù Pao. Sau mấy tháng làm việc cho Vàng Lù Pao, một lần, vào cuối năm 1993, khi đoàn xe chở hàng từ La Xa về hướng La Tư, là một thị trấn nhỏ nhưng rất đẹp và thanh bình nằm trên sườn núi Hymalaya, gần biên giới Nepan thì tắc đường do núi băng đổ xuống làm gãy cầu. Đoàn xe phải dừng lại vài ngày chờ tu sửa cầu. Vàng Lù Pao rủ ông Lâm đi dạo chơi trong cái lạnh độ âm. Chiếc dao là vật dụng không thể thiếu trong mỗi chuyến đi rừng Cạnh con đường lớn có một ông sư thân thể gầy tóp. Trong giá lạnh âm độ băng giá, ai cũng áo da, áo lông vẫn rét căm căm, mà ông sư chỉ choàng chiếc áo cà sa màu vàng mỏng manh thêu kim tuyến rộng thùng thình. Phía tay phải ông có chiếc vòng luân xa quay quay, bên trái có đống gạch và trước mặt là chiếc chậu bằng đất nung có mấy đồng tệ mệnh giá nhỏ và những gói thuốc bột chiết xuất từ lá cây. Vị thiền sư ngồi bất động như đang thiền. Vàng Lù Pao kể với ông Lâm rằng, vị sư này thuộc dòng tu khổ hạnh, cả đời ăn chay trên núi và sống bằng bố thí của người đời. Lương y Phạm Văn Thanh và ông Trần Ngọc Lâm trong một chuyến đi rừng tìm cây thuốc quý Ông Lâm nhìn thầy tu khổ hạnh xót cảm nên có mấy chục tệ trong túi ông dốc cả bỏ vào chiếc chậu đất. Tuy nhiên, ông thầy tu lại nhặt bỏ ra ngoài, rồi cứ chỉ vào tiền lại chỉ vào đầu. Vàng Lù Pao giải thích rằng, theo phái tu thiền này, nếu người đời bố thí cho họ tiền thì phải tát họ vài cái tương ứng với số tiền bố thí. Còn nếu cho nhiều tiền thì phải cầm gạch đập vào đầu họ và đập đến khi nào vỡ gạch họ mới nhận tiền. Nếu người bố thí không làm vậy thì họ nhất định không nhận. Nghe chuyện, ông Lâm sởn da gà. Ông từng tập luyện chặt gạch trong quân đội. Ông có thể chặt được cả trăm viên cùng lúc, nhưng cầm hòn gạch cứng như thế này đập vào đầu vị sư 84 tuổi, lại gầy gò như cây sậy thì quả ghê tay. Tuy nhiên, vì phong tục từ ngàn năm nay là vậy nên ông cũng thử xem thế nào. Nhiều khi phải trèo lên tận ngọn cây trên mỏm núi cao nhất để xác định hướng đi Ông Lâm cầm viên gạch đập rất nhẹ vào đầu vị thiền sư, nhưng ông cảm giác có một luồng xung lực mạnh đẩy hòn gạch ra ngoài. Ông thử lại mấy lần và đều có cảm giác ấy. Biết rằng vị thiền sư này có công năng đặc dị nên ông Lâm đập mạnh tay hơn. Ông có cảm giác viên gạch nung đỏ rất cứng chưa chạm đầu vị thiền sư đã vỡ vụn. Vị thiền sư cũng như vùng đất Tây Tạng đều vô cùng huyền bí. Vị thiền sư sau khi làm lễ cám ơn đã bảo: "Tôi sẽ nhận tiền, nhưng tôi xin báo với thí chủ rằng thí chủ sắp chết. Bệnh của thí chủ sẽ không thể chữa khỏi được, nhưng nếu theo tôi chữa trị sẽ sống được lâu hơn" Ông Lâm là người dẫn tác giả đi tìm hàng chục "thung lũng chết", dãy núi chết chóc trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn để cảnh báo nạn cháy rừng Nghĩ đến khả năng đặc dị của vị thiền sư này, ông Lâm cũng tin lời nói đó là thật nên xin Vàng Lù Pao cho đi theo vị thiền sư. Pao hẹn 4 tháng sau sẽ đón ông Lâm ở đúng chỗ này. Ông Lâm theo vị thiền sư phăm phăm leo lên lưng dãy núi Hymalaya. Con đường nên núi dốc ngược như đường lên trời. Ông có cảm giác vị thiền sư già nua leo núi không bao giờ biết mệt. Trông dáng ông bước đi như thể dùng khinh công, rất nhẹ. Theo Phạm Ngọc Dương - VTC
-
Qua Email của Wild đã nhận được bài viết dưới đây: HỌ VÀ TÊN : LÊ TRUNG VIỆT ĐỊA CHỈ: SÔ 10 SAO BIỂN - PHƯỜNG VĨNH HẢI- TP NHA TRANG - TỈNH KHÁNH HÒA SỐ ĐIỆN THOẠI : 0947848063 SỐ LƯỢNG THẦN CHÚ :2 TÂM NGUYỆN : LIÊN LẠC ĐƯỢC VỚI THẦY THÍCH TRUNG ĐẠO (NHỜ THẦY GIẢI ĐÁP GIÚP) CON ĐANG HÀNH TRÌ CHÚ ĐẠI BI VÀ NGŨ BỘ CHÚ THEO CÁCH CỦA THẦY THÍCH TRUNG ĐẠO CON RẤT MUỐN ĐƯỢC LIÊN LẠC VỚI THẦY THÍCH TRUNG ĐẠO NHƯNG KHÔNG BIẾT BẰNG CÁCH NÀO. ANH CHỊ EM PHẬT TỬ TRÊN DIỄN ĐÀN NẾU BIẾT EMAIL HOẶC SỐ ĐIỆN THOẠI CỦA THẦY THÌ CHO CON XIN. CON VÔ CÙNG BIẾT ƠN.
-
Tháp cổ 7 tầng huyền bí trên núi Ngôi tháp cổ từng bảo vệ 11 người dân khỏi mũi súng của quân Pôn Pốt khát máu. Ngày nay, nhiều người thua bạc ở Campuchia quẫn chí tìm đến tháp định quyên sinh, nhưng sau đã lấy lại bình tĩnh hoặc được cứu sống. Từ chân núi Đề Liêm, phường Bình San (thị xã Hà Tiên, Kiên Giang), khách phải vượt qua một nghĩa địa rêu phong, leo lên sườn dốc dựng đứng khoảng 70 m mới đến được ngôi tháp cổ gần 300 năm tuổi. Từ xa chỉ thấy đó là một cây bồ đề đại thụ có nhiều thân rễ chằng chịt đứng sừng sững nơi lưng chừng núi. Khi đến tận nơi, khách mới nhận ra ngôi tháp nằm lọt thỏm giữa những thân rễ chằng chịt của cây bồ đề. Từ trên chót đỉnh của tháp, những dây rễ rất to tủa xuống ôm vào lòng gần như toàn bộ diện tích bên ngoài tháp. Hàng trăm năm nay, tại ngôi tháp có nhiều chuyện huyền bí khiến người ta tin rằng sư trụ trì đã trở thành thần linh trấn giữ vùng đất này. Ông Lương Phếnh Cang, sinh năm 1941, cán bộ hưu trí ngành bưu điện, cư ngụ tại khu phố 1, phường Bình San là nhân chứng vụ thoát chết hy hữu của 11 người dân trước làn sóng diệt chủng của Pôn Pốt năm 1978. Ông kể, từ đầu tháng 3/1978, Pôn Pốt từ bên kia biên giới bắt đầu nã pháo vô tội vạ vào lãnh thổ Việt Nam. Nhiều người bị thương và chết bởi trúng đạn pháo của chúng. Tối ngày 12/3/1978, Pôn Pốt bắn pháo dữ dội hơn những ngày trước. Sáng 13/3/1978, chúng lại ngưng bắn pháo. Chiều nhập nhoạng, một số người dân ở biên giới Xà Xía và chợ Hà Tiên hay tin quân Pôn Pốt bắt đầu tràn vào lãnh thổ, đã lục đục dọn đồ đạc chạy lánh nạn. Những người chạy không kịp đều bị Pôn Pốt tàn sát một cách dã man. Rễ cây bồ đề phủ kín ngôi tháp. Ảnh: An ninh thế giới. Thời điểm đó, khu vực chân núi Đề Liêm còn thưa người, tách biệt với cụm dân cư. Vì vậy, 3 gia đình của ông Trần Kim Sáu, bà Thìn và ông Niêng sống dưới chân núi Đề Liêm hoàn toàn không hay biết gì. Khi họ nghe tiếng súng AK và tiếng kêu cứu thất thanh của những người dân ở xóm ngoài bị giết thì đã muộn. Mọi lối thoát đều có bóng dáng Pôn Pốt. Không còn cách nào khác, 3 gia đình gồm 11 người, trong đó có 5 trẻ em chui đại vào lòng tháp ẩn nấp. Đến 8h sáng, một toán quân Pôn Pốt độ chừng 16-17 tuổi, mặc quần đùi, áo thun luộm thuộm như dân làm đồng. Chúng ôm súng AK từ quốc lộ tiến lên chân núi Đề Liêm, vào từng ngôi nhà lùng sục. Không gặp ai, chúng kéo nhau lên phía tháp cổ. Đúng lúc này, một đứa trẻ (nay đã hơn 40 tuổi, vẫn còn sống tại địa phương) sợ quá bật khóc thành tiếng. Mặc dù bà mẹ đã kịp bịt mồm đứa trẻ nhưng trong rừng vắng, chỉ cần một tiếng nấc cũng đủ để thu hút sự chú ý của quân sát nhân. Nghe tiếng đứa trẻ khóc, chúng tập trung xung quanh tháp. Lúc này những người trong tháp thất kinh hồn vía khi nhận ra do thói quen một vài người đã bỏ dép bên ngoài cửa tháp. Một tên bước đến trước cửa tháp nghiêng đầu ngó vào. Mọi người nép sát người vào nhau run bần bật. Ai cũng nhìn thấy rất rõ ánh mắt khát máu của tên sát nhân. Mọi người nhắm mắt chờ chết. Cửa tháp rộng vừa vặn thân hình một người lớn chui vào. Bình thường, đứng ở vị trí tên sát nhân, ai cũng có thể nhìn thấy rất rõ bên trong lòng tháp nhưng không hiểu do bị mờ mắt hay do mắt bị lóa nắng, tên lính Pôn Pốt cứ chĩa mũi súng và nhìn vào lòng tháp mà không bắn. Bỗng mọi người nghe tiếng một con chó sủa vang. Tên lính Pôn Pốt giật mình quay mũi súng bắn con chó một loạt đạn. Loạt đạn không trúng con chó nhưng làm mẻ một góc bia của tháp. Tiếng súng chát chúa làm con chó hoảng hốt, co cẳng chạy vào rừng. Mọi người lại thấp thỏm sợ tên lính Pôn Pốt tiếp tục quay súng vào trong tháp. Nhưng không, hắn đã bỏ đi. Đồng bọn của hắn cũng đi theo. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Ai cũng nghĩ, mình được thần linh bảo vệ. Quân sát nhân không đi hẳn mà kéo nhau xuống chân núi, cách tháp cổ khoảng 100 mét bắt gà làm thịt, ăn uống rồi đóng chốt luôn ở đó. Mọi người đành nín thở nằm trong lòng tháp chịu đói, khát. Đến trưa hôm sau, bộ đội phản công tiêu diệt gọn nhóm Pôn Pốt dưới chân núi Đề Liêm. Bộ đội phát hiện 11 con người kiệt sức ẩn nấp trong lòng tháp. Họ nhanh chóng được chuyển ra tuyến sau cấp cứu. Hiện nay, bà Thìn và ông Niêng vẫn sống tại Hà Tiên. Cách đây vài năm, một số người đến chặt rễ cây bồ đề. Lưỡi cưa mới ăn sâu được mấy tấc thì mắc kẹt, cưa tiếp cũng không được mà lấy ra cũng không xong. Một người trong nhóm dùng búa chém rễ cây để giải thoát lưỡi cưa. Không ngờ nhát búa đầu tiên cắm phập vào rễ cũng bị hút chặt. Ba người cùng vận lực kéo đến vã mồ hôi vẫn không lay chuyển được lưỡi búa. Nghe tin, một vị sư ở ngôi chùa gần đó đến đốt nhang, đọc kinh, khấn xin. Kết thúc lễ, vị sư kéo nhẹ một cái, lưỡi cưa lẫn lưỡi búa đều rơi ra. Từ khi bên kia biên giới Xà Xía mọc lên cụm sòng bài, thỉnh thoảng người ta lại thấy một con bạc cháy túi đến đây tìm cái chết. Nhưng tất cả đều được cứu sống hoặc bỏ ý định tự tử. Trong đó có một phụ nữ trạc 30 tuổi, một hôm chị ta đến ngồi cạnh tháp khóc suốt một buổi rồi bỏ đi. Khi chị ta đi khuất, những người tò mò phát hiện dưới chân tháp có một tờ giấy bị vò nát. Mở tờ giấy ra, người ta mới biết đó là lá thư tuyệt mệnh của một người thua bài tên Nga. Người viết thư có ghi rõ tên tuổi, địa chỉ để những người phát hiện ra xác giúp báo cho người thân. Cách đó không xa, người ta còn phát hiện một chai thuốc diệt cỏ còn nguyên. Thì ra, Nga cư ngụ ở Rạch Giá, đi buôn cá khô ở Hà Tiên. Nghe lời bạn bè xúi, Nga qua sòng bài thử vận may. Sau 2 ngày, Nga trắng tay. Thất chí, Nga quyết tự tử. Nhưng khi ngồi dưới bóng bồ đề, Nga bình tâm trở lại nên bỏ ý định chết. Tấm bia tháp bị mẻ một góc. Ảnh: An ninh thế giới. Mới đây, một thanh niên tên Hà ở Tô Châu, thua bài ở casino Campuchia đã leo lên đỉnh tháp dùng áo làm thòng lọng toan treo cổ. Nhưng chiếc thòng lọng bị đứt, anh ta rơi bịch xuống đất nằm ngay đơ, mất nhịp tim, phổi ngừng thở. Dù không hy vọng sống sót nhưng người dân địa phương vẫn đưa vào bệnh viện cấp cứu sau khi báo cáo với chính quyền. Một tuần lễ sau, anh ta xuất viện. Hiện giờ chiếc áo "thòng lọng" của anh ta vẫn dính phất phơ trên cành cây đề. Người ta tin rằng, vị thần linh của ngôi tháp không muốn chứng kiến bất kỳ ai chết ở nơi đây. Nhiều học giả khẳng định ngôi tháp là công trình kiến trúc cổ nhất trong số những di tích lịch sử tại Hà Tiên. Hiện tại, ngay trước cửa tháp vẫn còn một bia đá chạm khắc dòng chữ Hán: "Lâm Tế tam thập lục thế. Ấn Đàm Lão hòa thượng chi tháp", có nghĩa là "Tháp mộ của Lão hòa thượng Ấn Đàm, dòng Lâm Tế đời thứ 36". Cách đó vài mét, một tấm biển xi măng có khắc chữ Việt: "Lâm Tế/1662/tháp 7 tầng/Ấn Đàm/Lão hòa thượng". Núi Đề Liêm còn có tên gọi khác là núi Phù Dung. Trong “Gia Định thành thông chí” xác nhận, núi Đề Liêm còn tên gọi khác là Bát Giác Sơn. Có lẽ do ngôi tháp có hình bát giác nên người xưa đặt tên núi theo. Bên cạnh tháp có một ngôi chùa dòng Lâm Tế do Hòa thượng Ấn Đàm trụ trì, gọi là chùa Phù Dung. Tuy nhiên, tên chính của chùa là Tiêu Sơn Tự. Các sử liệu có ghi, từ khoảng năm 1820 (là năm sách “Gia Định thành thông chí” ra đời) trở về sau, trấn Hà Tiên đã trải qua 3 cuộc tao loạn lớn do quân Xiêm xâm lược, gồm: năm 1833 (Minh Mạng thứ 14); tháng 2/1842 (Thiệu Trị năm thứ 2); năm 1845 (Thiệu Trị năm thứ 5). Ngôi chùa Phù Dung bị quân Xiêm phá sập vào khoảng năm 1833-1834, tức lần tao loạn đầu tiên. Năm 1969, người ta phát hiện ra di tích này. Khi đào sâu xuống nền đất khoảng 3 tấc, người ta bắt gặp rất nhiều vật dụng còn nguyên vẹn, như: cái lư hương bằng đồng, nhiều lọ sành sứ, một cái chum còn nguyên số gạo đã ẩm nát... Sự cố chùa bị sập với các loại gia dụng còn nguyên, cho thấy chiến tranh đã ập đến bất ngờ. Cách ngôi tháp 40 mét về ở hướng tây nam bây giờ vẫn còn hiện hữu một giếng xưa gọi là giếng chùa Tiêu. Trong sách “Monogaphie de la povince de Ha Tiên” của Hội Nghiên cứu Đông Dương ấn hành năm 1901 khẳng định ngôi chùa này đúng là Tiêu Sơn Tự - 1 trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên lúc bấy giờ và đã được Mạc Thiên Tứ ca ngợi trong bài thất ngôn bát cú "Tiêu Tự hiểu chung". Khi những cư dân đầu tiên tìm đến khai khẩn vùng đất này đã thấy ngôi mộ tháp 7 tầng sừng sững với ngọn cây bồ đề trên đỉnh tháp. Mưa làm xói mòn, đất đá trên đỉnh núi trôi xuống lấp dần 2 tầng dưới nên người ta chỉ thấy có 7 tầng trên. Người ta gọi luôn đó là tháp 7 tầng. Xung quanh ngôi mộ tháp, hiện nay vẫn còn những trụ đá móng nền - dấu tích của một ngôi chùa bị tàn phá. Thời gian dần trôi, cây bồ đề ngày càng lớn. Rễ cây dần phủ kín ngôi tháp cổ theo từng bậc trông rất đẹp mắt. Bên trong lòng tháp trống rỗng. Người ta cho rằng, dưới tầng một vẫn còn ngọc vị của vị sư trụ trì. Tất cả những cứ liệu lịch sử đều khẳng định giá trị ngôi tháp cổ ấy. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao ngày nắng đêm mưa ngôi tháp cổ đã tròm trèm 300 tuổi. Tháp không chỉ là một phần của lịch sử khai khẩn phương Nam mà còn là một di tích đánh dấu sự tồn sinh mãnh liệt của ông cha. Nhưng hiện các cơ quan chức năng địa phương phó mặc ngôi tháp cho thiên nhiên mà không có biện pháp bảo quản. Theo An ninh thế giới
-
@@ Pham Hung! Bât SÂU răng hay bắt XÂU răng?
-
Nước dừa không chỉ giải nhiệt Sau đây là một số lý do giúp bạn quyết định vì sao thường xuyên uống nước dừa. Theo The Times of India dẫn thông tin từ các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ. 1. Nước dừa có tác dụng giải nhiệt trong mùa hè oi bức, giúp điều chỉnh thân nhiệt; 2. Nước dừa có chứa can-xi, ma-giê và kali, cải thiện lưu thông máu; 3. Trị rối loạn đường tiêu hóa, vì nó có đặc tính chống vi-rút và kháng khuẩn; 4. Uống nước dừa giúp giảm cholesterol. Những người bị bệnh tiểu đường có thể kiểm soát lượng đường trong máu bằng cách thường xuyên uống nước dừa; 5. Nước dừa còn giúp tăng tỷ lệ trao đổi chất trong cơ thể, do đó rất hữu ích cho những ai muốn giảm cân. Mai Duyên