-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Cô gửi đến con và vài bạn ở hn cách đây 2 ngày, có người cũng đã phản hồi nhận đủ, có thể do con ở hải phòng nên chậm hơn không?
-
con có thể xem lại các trang trước cụ thể trang 23 để biết có thực hiện được hay ko và vì sao nhé!
-
Cô vứa gửi cho các bạn hà nội sáng nay! lúc ấy cô chưa có đt của con! hy vọng các bạn nhận đc nhanh và sớm nhất! Như Trung Vũ đã nhận rồi đấy ah!
-
Các bạn ở hn nếu có số đt, Wild liên hệ sẽ được nhận ngay vì mình đang ở HN ah!
-
Địa chỉ này đầy đủ chưa ah? Cô sẽ chuyển tù hà nôi để con sớm nhận được,nhưng địa chỉ Cô thấy chưa rõ ah!
-
ĐÀO HOA TRẬN Một trong những mối quan tâm trong quan hệ xã hội chính là quan hệ nam nữ, quan hệ xã giao. Nhưng vấn đề này có liên quan đến một hiện tượng tương tác gọi là Đào Hoa trong Tử Vi. Hay nói cách khác là cung Đào Hoa trong vận số của con người. Một người lớn tuổi mà vẫn chưa có cho mình một ai ưng ý để làm bạn đời, trong trường hợp này cấn ứng dụng "Đào Hoa trận"; hoặc những ông chồng bà vợ có những mối quan hệ với người khác giới, trên mức tình cảm thông thường khiến cho gia đình có nguy cơ đổ vỡ, rất cần có "Đào Hoa Sát" để giữ lại hạnh phúc gia đình. Phương pháp ứng dụng này trong Phong thủy liên quan đến một phương pháp còn bí truyền gọi là "Tử Vi Phong Thủy" (Ứng dụng Tử Vi Lạc Việt) và "Lạc Dịch phong thủy". Những nguyên lý của phương pháp này sẽ được học sâu hơn vào cuối khóa - khi anh chị em đã nắm vững những kiến thức về phong Thủy Lạc Việt. Nhưng trong bài giảng chuyên đề này, tôi sẽ trình bày với anh chị em về một trong những ứng dụng cụ thể của phương pháp "Tử Vi Phong Thủy" trong Phong Thủy Lạc Việt. Đó là một trong những phương pháp có hiệu quả trong điều kiện của nó trong môn "Tử Vi Phong Thủy". Trong khoa Tử Vi - mà tôi đã minh chứng rằng: Đó chính là những quy luật vận động tương tác của những thiên thể gần trái đất lên Trái Đất, cuộc sống và con người. Và con người của nền văn minh xa xưa đó đã có những qui ước mang tính biểu kiến những tương tác trên thực tế của vũ trụ trên qua lá Tử Vi Đông phương. Những phương vị trên 12 cung Tử Vi Đông phương cũng là phương vị trên phong thủy với 12 Sơn Địa chi. Bởi vậy căn cứ trên 12 sơn Phong thủy phù hợp với 12 cung số Tử Vi, người ta dùng để khống chế các sao xấu và tăng độ số của sao tốt, nhằm nâng độ số của số phận. Một trong những nguyên lý đó chính là phương pháp Đào hoa trận, mà tôi trình bày trong bài này. Trong phương pháp Đào Hoa trận có hai loại là: Vượng Đào Hoa và Trảm Đào Hoa. I - VƯỢNG ĐÀO HOA. Trong Tử Vi, Đào hoa tinh tùy theo tuổi mà nằm ở các cung sau đây: * Tuổi Thân Tý Thìn: Đào Hoa nằm ở cung Dậu. Ứng với sơn Dậu trên La Kinh. * Tuổi Hợi Mão Mùi: Đào Hoa nằm ở cung Tý. Ứng với sơn Tý trên La Kinh. * Tuổi Dần Ngọ Tuất: Đào Hoa nằm ở cung Mão. Ứng với sơn Mão trên La Kinh. * Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Đào Hoa nằm ở cung Ngọ. Ứng với sơn Ngọ trên La Kinh. Cung tướng ứng này trên La Kinh gọi là Đào Hoa Sơn. Trên cơ sở này chúng ta cần những bước sau đây: * Xác định Đào Hoa sơn chứa Đào Hoa Tinh của người cần Vượng Đào Hoa, theo cách tính trên. Thí dụ: Người tuổi Dần, Đào Hoa tại sơn Mão. * Tùy theo mạng tính theo tuổi của người cần Vượng Đào Hoa mà chúng ta cần một bình hoa có màu thích hợp. Thí dụ: Người Bính Dần (Bất luận nam nữ), có tính duyên trắc trở. Chúng ta xác định được sơn có sao Đào Hoa là sơn Mão theo bảng trên. Tại tường hoặc phương vị của sơn này trong nhà, đặt một bình hoa có màu thích hợp với mạng của người tuổi Bính Dần là Thủy - Theo Lạc Thư Hoa giáp (Sách Tàu là Hỏa) - tức là chúng ta dùng bình màu xanh dương nhạt, hay đậm (Không dùng màu đen. Vì ở Hậu Thiên, màu đen còn là Tượng của Thổ - sao Nhị Hắc). Bình hoa này sẽ được đặt tại phương vị có sơn Mão. Đặt sát tường hay chỉ ở phương vị sơn này là tùy theo tính hợp lý với cảnh quan. * Chọn số hoa và màu hoa tương sinh với bình hoa thích hợp vớí độ số cung phi. Thí dụ: Người nữ Bính Dần có cung phi là Khảm thuộc Thủy. Thủy trên Hà Đồ có độ số 1 - 6. Số lượng hoa sẽ là 1 bông hoa to và 5 bông hoa nhỏ. Tương sinh ra thủy là hành Kim. Vậy chúng ta dùng hoa màu trắng. Lưu ý: Đào Hoa sợ nhất sao Thiên hình. Sao Thiên Hình thuộc hành Kim, có cung bản nguyên là Dậu và cung đối xung là Mão. Bởi vậy, trong bình hoa nên có nước đầy để hóa giải sao Thiên hình. và tốt nhất dùng bình thủy tinh trong. Nay mùa Xuân đang đến. Nên tranh thủ mùa Hoa Đào - Biểu tượng gần gũi nhất của Đào Hoa tinh, đặt ngay một nhánh Đào vào vị trí Đào hoa Sơn với bình hoa có màu thích hợp. Trong trường hợp đặc biệt này, do dùng chính Hoa Đào là biểu tượng của Đào Hoa tinh thì không cần tương sinh với bản mệnh - Hoa càng nhiều, càng rực rỡ càng tốt. II - TRẢM ĐÀO HOA. Có nhiều phương pháp "Trảm Đào Hoa". Sau khi tính được Đào Hoa sơn của "Đức ông chồng", hoặc "Bà xã yếu quí", đang có nguy cơ theo dấu chân ai. Ứng dụng những biện pháp sau: 1 - Dùng bình hoa có màu thích hợp với bản mệnh và số hoa thích hợp với cung phi của người đó. Màu hoa cũng tương sinh cho màu bản mệnh. Nhưng dùng một con dao nhỏ, cắt ngang những cành hoa trước khi cắm vào bình. Nhưng lưu ý là không cắt lìa. Đặt bình hoa này vào vị trí Đào Hoa Sơn và gác con dao phía trên các cành hoa. (Dao nhựa, dao gỗ đều được). Không có nước trong bình hoa. 2 - Mua một tranh gà trống của dòng tranh Đông Hồ (Loại chỉ vẽ một con duy nhất và không có chữ Đại Cát), treo ở Đào Hoa sơn. Tranh dân gian Việt Nam có tác dụng trấn yểm phong thủy rất mạnh. Hiện hình thành một phương pháp trần yểm bằng tranh dân gian Việt Nam. Sẽ học sau. 3 - Mua một tượng con gà trống bằng đồng , hoặc bằng bất cứ vật liệu gì, đặt ở Đào Hoa sơn của người cần "Trảm Đào Hoa". Gà Trống là biểu tượng của cung Dậu - Cung của sao Thiên Hình, bởi vậy có tác dụng khắc chế Đào Hoa tinh. Lưu ý: Trong trường hợp dùng phương pháp "Trảm Đào Hoa" - nếu có hiệu quả thì phải hủy, không nên tiếp tục để lâu dài. Anh chị em thân mến. Anh chị em cần lưu ý rằng: Tất cả những chiêu thức, trấn yểm trong Phong Thủy - kể cà Đào Hoa Trận - chỉ có tác dụng khi ngôi gia vượng khí mới có tác dụng. Còn nếu không vượng khí - dù hướng tốt hay xấu, thì mọi sự trấn yểm và chiêu thức đều không có giá trị. Vương khí này bao gồm cả Dương khí do sự chuyển động của con người và phương tiện và Âm khí do vị thế hình thể của cuộc đất với môi trường. Chúng ta đang tiếp tục tham khảo về Khí và các vấn đề liên quan. Bài viết của Thầy Thiên Sứ
-
Lương y ở ẩn mách bài thuốc trị viêm loét dạ dày và viêm xoang mãn tính cực công hiệu Lương y Nguyễn Khánh thuộc thế hệ thầy thuốc đông y lớn tuổi hiếm hoi còn lại ở Thừa Thiên - Huế. Chuyện nghề của ông lão 75 tuổi, ngụ tại thôn Tây Thượng, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang này có những câu chuyện khá “lạ đời”, ví dụ như vì một lần bất đồng quan điểm với cách chẩn trị của một bệnh nhân mà ông “bỏ làm người nhà nước”, về quê bốc thuốc chữa bệnh giúp người. Tiếp xúc với ông lão, người ta thấy ông quả là một “thư viện bài thuốc”. Tự chế bài thuốc đặc trị viêm loét dạ dày Nói về bệnh viêm loét dạ dày, ông Khánh cho biết bệnh thường gặp phải ở lứa tuổi trung niên. Nguyên nhân chủ yếu do người bệnh uống nhiều bia rượu, có thói quen ăn thức ăn cay, nóng. Bài thuốc Tiêu dao theo ông có hiệu quả cực kỳ hiệu nghiệm, gồm 9 vị với hàm lượng lần lượt như sau: Đương quy (32g), Bạch thược (24g), Bạch truật (24g), Sài hồ (8g), Phục linh (24g), Chích thảo (4g), Nhũ hương (6g), Trần bì (4g) và Thần khúc nướng cháy (tức phần thuốc ngưng đọng lâu ngày thành tảng trong cối xay thuốc, 4g). Những vị thuốc trên có thể dễ dàng mua được từ tất cả các nhà thuốc đông y. Sau khi tập hợp đầy đủ các vị thuốc, người dùng chỉ cần đem trộn đều rồi sắc nước uống theo công tức 3 bát nước, lấy 1 bát rồi uống. “Mỗi ngày sắc một thang, chia thành hai lần sau các bữa ăn”, ông Khánh hướng dẫn. Ông Khánh lưu ý vị thuốc Nhũ hương chỉ nên sử dụng khi xác định dạ dày bệnh nhân bị loét, vì chất này có tác dụng dán liền những vị trí bị loét. Nếu chỉ mới viêm nhiễm mà dùng đến Nhũ hương sẽ gây ra cảm giác đau nhói do dạ dày thắt lại. Trong quá trình uống thuốc, điều cấm kị đối với bệnh nhân là kiêng tránh thức ăn cay, nóng và các chất kích thích. Để bệnh chóng khỏi, bên cạnh việc uống thuốc đều đặn, người bệnh cần tập luyện chế độ ăn uống hợp lý cả về chất lượng lẫn thời gian ăn nhằm tạo tính ổn định cho quá trình điều tiết men tiêu hoá. Về tác dụng của bài thuốc Tiêu dao, vị lương y khẳng định dù bệnh nặng đến mấy, chỉ cần kiên trì uống thuốc sẽ khỏi trong thời gian ngắn. Cụ thể: “Thông thường chỉ cần uống thuốc từ 7 – 10 ngày, bệnh tình sẽ thuyên giảm ngay. Ngoài tác dụng chữa trị chứng viêm loét dạ dày, bài thuốc còn giúp điều hoà gan huyết”. Trình bày tính ưu việt của bài thuốc đông y, ông lão cho rằng thuốc cho hiệu quả cao, giá thành lại “mềm” nên có thể áp dụng rộng rãi, bất kể ai đều có thể tự chế thuốc để chữa trị cho mình và người thân. Bài thuốc đã được hướng dẫn cho các bệnh nhân sử dụng từ hàng chục năm nay, bản thân ông không thể nhớ rõ bao nhiêu người đã thoát khỏi sự hành hạ của chứng bệnh vì “nhiều quá, không nhớ nổi”. “Bí kíp” loại trừ bệnh viêm xoang mãn tính Một “tuyệt chiêu” khác của ông Khánh là bài thuốc trị chứng viêm xoang mãn tính. Đây là căn bệnh tưởng chừng đơn giản nhưng rất khó chữa trị dứt điểm, gây cảm giác khó chịu cho người mắc phải. Kinh nghiệm lâu năm trong nghề giúp ông biết về bài thuốc “Thương nhĩ tán” chữa trị bệnh này, gồm bốn vị: Thương nhĩ tử (loại hạt có gai) đã sao cháy gai 40g; Bạc hà diệp phơi khô 3g; Bạch chỉ 20g; và Tân nhi (tức búp đa lông) 12g. Là thầy thuốc Đông y, nhưng ông lão lại không kiếm tiền bằng nghề thuốc, mà từ nhiều năm nay chủ yếu kiếm sống bằng “tài lẻ” chuyên dịch sách Hán Nôm, viết gia phả, câu đối.“Tôi không muốn tranh giành tiếng tăm, miếng ăn hay tranh đua thiệt hơn. Với thuốc, tôi chỉ đơn thuần muốn làm nghề, giúp người”, ông cười, bày tỏ quan điểm sống. “Trộn đều thuốc đem sắc lấy nước uống như thông thường, cần chú ý uống lúc nước thuốc còn nóng. Trước khi uống thì ăn một cọng hành tươi”, ông lão hướng dẫn. Sở dĩ phải uống thuốc lúc đang nóng bởi như thế sẽ tận dụng hơi nóng, đẩy tinh dầu trong hành tươi lên mũi. Quá trình này còn được gọi là xông mũi, giúp giải trừ khí độc, thông mũi từ đó dứt cơn viêm xoang. “Uống thuốc chừng bảy thang sẽ cho kết quả rõ rệt”, thầy thuốc Khánh tự tin. Điều cần lưu ý đối với bệnh nhân viêm xoang là hạn chế tối đa thức uống lạnh, chú ý giữ ấm cơ thể. Tương tự bài thuốc chữa trị bệnh viêm loét dạ dày, bài thuốc chữa viêm xoang rất dễ bào chế, giúp tiết kiệm chi phí đáng kể. Quá trình hành nghề, ông Khánh đã áp dụng bài thuốc “thương nhĩ tán” cho hàng trăm trường hợp và đều cho kết quả khả quan. Về nguồn gốc hai bài thuốc trên, vị lương khiêm tốn thừa nhận bản thân ông chẳng sáng tạo hay phát minh nên. Đó đều là những phương thuốc được dân gian sử dụng nhiều, được ghi chép cụ thể trong tài liệu y học cổ truyền dân tộc. Lương y ở ẩn tốt bụng Lương y Nguyễn Khánh thuộc thế hệ thầy thuốc đông y lớn tuổi hiếm hoi còn lại ở Thừa Thiên Huế. Cơ duyên đến với nghề y của ông cũng thật đặc biệt. Ông trải lòng hồi 14 - 15 tuổi phải vào Đà Lạt học chữ, thời gian đó thường bị chứng đau đầu “quấy nhiễu” không sao ngủ ngon giấc. “Tôi tìm sách đông y đọc, tìm hiểu cách trị bệnh cho chính mình. Một hôm tôi tự mình châm cứu theo sách và bất ngờ ngủ thiếp đến chiều tối mới dậy. Từ đó tôi càng tin tưởng và đam mê nghề thuốc đông y hơn”, ông nhớ lại. Thống nhất đất nước, chàng trai tiếp tục theo nghề, ngoài thời gian lên lớp còn tìm gặp những thầy lang giỏi khắp nơi học hỏi. Đầu những năm 1980, ông vào công tác tại Bệnh viện Y học cổ truyền TP HCM, sau đó chuyển về Bệnh viện Y học cổ truyền một tỉnh miền Trung. Vị lương y này “lạ đời” đến mức do một lần bất đồng quan điểm trong việc chẩn trị cho một bệnh nhân, ông thẳng thắn xin nghỉ việc, trở về cuộc sống “ẩn dật”. Về quê, ông giúp đỡ những bệnh nhân khó khăn bằng cách bắt mạch khám bệnh miễn phí, hướng dẫn cách bốc thuốc điều trị sao cho hiệu quả nhất. Dù cuộc sống “ẩn dật”, ông lão vẫn không ngừng nghiên cứu, trau dồi nghề nghiệp bản thân. Ông đưa tấm giấy hình tròn ghi rõ từng loại bệnh và huyệt đạo cần châm cứu khi chữa trị, là tấm la bàn châm cứu, thành quả lớn nhất trong nghề y như lời ông tự bạch: “La bàn tóm tắt cách thức chữa trị bằng phương pháp châm cứu với hầu hết các bệnh. Tấm la bàn chỉ rõ tất cả các kinh mạch trên cơ thể người, chỉ cần xoay đến mục bệnh cần tìm rồi theo đó mà châm là xong. Mất hơn chục năm tôi mới hoàn thiện xong”. Ông lão luôn sẵn lòng bày vẽ kinh nghiệm, chỉ bảo phương pháp trị bệnh cho tất cả những ai có nhu cầu, cũng là cách để khỏi thất truyền nhiều bài thuốc quý ngày trước “vang danh” mà nay hiếm được ai biết đến. Theo Thiên Hải - PLVN
-
Hãi hùng 3 năm bắn chim bị "báo oán" 18 năm đau đớn Khi còn đi học, tôi hoàn toàn không tin Phật, Bồ Tát, Tội, Phước-Đức hay nhân-quả báo ứng gì cả. Tôi cho rằng đây là chuyện của những người mê tín, thiếu học vấn, chứ còn người có học thức thì không tin những việc nầy. Khi còn nhỏ, tôi sống ở tỉnh Quảng Đông. Thời gian đó và ở nơi đó, tôi đã gặp chuyện nhân quả báo ứng mà chính bản thân tôi bị. Trải qua hơn 20 năm vở kịch kinh hoàng nầy mới được diễn xong, máu và nước mắt đã làm tôi tỉnh ngộ, nhận thức của tôi thay đổi 360 đô. Vì không muốn ai dẫm lên vết xe đổ của tôi, tôi xin viết câu chuyện có thật của bản thân mình, để mọi người đừng làm cái việc như tôi đã từng làm, và đây cũng là cũng cách sám hối mà tôi đã thực hành bao năm nay. Năm 1960 vì hoàn cảnh khó khăn, tôi buộc phải nghỉ học khi đang học trung học phổ thông. Từ Quảng Xuyên, tôi trở về quê hương để phụ gia đình làm rẫy. Do còn quá trẻ, nhận thức kém, tôi suốt ngày sống buông lung không có mục đích. Lúc bấy giờ đang là thời kỳ ‘Cách Mạng Văn Hoá’, ở thôn quê gần 10 năm thì mọi tín ngưởng tôn giáo đã bị dẹp sạch hoàn toàn. Thanh thiếu niên lớn lên chỉ tin khoa học, tuyệt đối không được tin Phật, tin Nhân-Quả. Đương nhiên tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ. Do cuộc sống quá vô vị, tẻ nhạt, tôi nghĩ phải tìm cách giải trí gì đó để kích thích cuộc sống. Vả lại lúc đó vật chất, thực phẩm vô cùng thiếu thốn, thèm thịt còn hơn thèm á phiện nữa, do đó tôi tích cóp tiền trong nhiều năm mua được cây súng hơi. Từ khi có súng, tôi lấy việc bắn chim làm thú vui, bắn được chim tôi liền đem về làm thịt, ăn cho có thêm chất dinh dưỡng. Hai ba năm sau, nhờ bắn chim nhiều nên kinh nghiệm càng dày dạn, tôi trở thành xạ thủ bắn chim có tiếng, Tôi thường nấp vào những đám ruộng hoang, bên rừng cây, hoặc vào trong núi để tìm chim bắn. Chỉ cần nghe thấy chim hót trên cây, tôi liền mò đến và giương súng bắn; trong nháy mắt viên đạn trong nòng súng của tôi đã ghim vào con chim. Máu nó tuôn chảy, nhỏ thấm vào lá cây, một lúc sau mới rớt xuống, nhưng mắt của nó vẫn giương to không chịu nhắm lại. Hình như nó còn luyến tiếc bầu trời trong xanh, cánh rừng tươi mát, đàn con dại trong tổ đang chờ mẹ, cha đi kiếm mồi về, hay là nó không nhắm mắt vì thù hận tôi? Có nhiều khi con chim bị bắn trúng, rơi xuống đất, vẫy cánh yếu ớt vài cái rồi mới chết, lông mao bay tứ tung, máu chảy nhầy nhụa. Có những con chim chỉ bị thương, nó cố dùng chút hơi tàn để chạy trốn; thì tôi đuổi theo ngay, quyết không để nó trốn thoát. Có khi đuổi mệt quá, tôi liền cho nó ăn thêm một viên đạn nữa. Cũng có khi tôi lần mò theo vết máu để tìm, rất nhiều con chim khôn lắm, biết trốn vào cỏ, khi tôi phát hiện ra thì thấy nó đang giẫy giụa, miệng há hốc, máu trong miệng túa ra... Thế mà tôi nào biết thương nỗi thống khổ của nó? Lúc ấy tôi chẳng mảy may động lòng hành động tàn nhẫn của mình, cũng không hề có cảm giác tội lỗi, mà còn cho đó là thú vui nhất trên đời, nên càng ra sức bắn giết. Tôi có thể bỏ cả ngày đi săn lùng chúng mà không thấy mệt mỏi. Vì đã giết quá nhiều chim, cho nên bất luận tôi đi đến đâu, trên tay có cầm súng hay không, tất cả chim muông vừa thấy tôi là tự dưng chúng đều bay mất dạng. Thậm chí, có những đàn chim rất lớn, chúng đang tìm mồi, vừa thấy bóng dáng tôi từ xa là chúng lập tức bay ngay; động tác của chúng vô cùng vội vàng, chẳng những vậy mà chúng còn hốt hoảng kêu la nữa. Do vô minh, tôi không biết rằng do sát khí của mình quá nặng khiến chim muông vừa thấy bóng tôi liền chạy trốn vì quá sợ hãi. Thời gian tôi bắn chim không lâu, chỉ trong khoảng ba năm, từ năm 18 tuổi cho đến năm 20 tuổi, nhưng vì là tay thiện xạ, lại rất say mê, nên số lượng chim trời bị tôi bắn rất nhiều, có ngày bắn được mấy chục con. Không có người thân bên cạnh, người trong làng cũng không ai khuyên bảo, tôi lại càng dấn thân sâu vào tội lỗi. Mãi sau, tôi dần nhận thấy hành động của mình quá tàn nhẫn, tôi mới bỏ việc bắn chim. Một lần nọ, tôi tình cờ gặp được một người bị dân trong làng cho là "gàn dở mê tín" và "côn đồ". Tôi và ông ta cùng đi chung một đoạn đường. ông kể cho nghe một chuyện có liên quan đến báo ứng. Thú thật, lúc ấy những tư tưởng được nhồi sọ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã ăn sâu trong trí nên tôi không một chút tin tưởng vào lời ông. Nhưng, sâu trong tâm khảm tôi, vẫn còn lắng đọng âm hưởng những gì ông nói, tôi thường thấy bất an vì những hành động trước kia của mình. Tôi bắt đầu đi tìm người để thỉnh giáo. Nhưng những người trong làng họ đâu có tin tội phước, đâu có tin Nhân-Quả Báo-Ứng, biết hỏi ai bây giờ? May sao, giữa cánh đồng có một ngôi miếu bị bỏ hoang, trong ngôi miếu ấy có một ông lão ngày ngày lo việc hương khói, tôi liền đến thỉnh giáo. Sau khi nghe tôi kể về những hành động tội ác trước kia của mình, ông suy nghĩ một lúc rồi nói: - Theo chỗ tôi được biết, vấn đề của anh thì nếu đã biết sợ tội ác, thì phải mau chóng quyết tâm sửa lổi lầm, lúc nào anh cũng phải có tâm nguyện: thà chết chớ không làm việc ác nữa, thì mới mong cứu vản bớt việc ác báo sau nầy. Đó chỉ là lý thuyết, nhưng thực tế chẳng hề dể dàng, đơn giản như vậy. Hai năm sau, tôi phát hiện ở hậu môn của mình có năm sáu cục trĩ, nó thường làm cho tôi đau đớn thống khổ vô cùng, nhất là những lúc đi vệ sinh. Trước giờ bệnh trĩ là căn bệnh mà mọi người thường gặp, chỉ cần tìm một vị bác sĩ chuyên khoa thì sẽ chữa bớt ngay. Tôi liền đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ đến chữa bệnh. Cách trị liệu của ông ta là dùng một loại thuốc nước có mùi rất thối xoa vào những cục trĩ đó, mục đích để cho thuốc nầy ăn mòn dần dần những cục trĩ. Hàm lượng thạch tín trong thuốc nước của ông rất cao (thạch tín là hợp chất Arsenium, ký hiệu As, màu vàng, vị đắng, rất độc). Mỗi ngày ông đến nhà để thoa thuốc, sau đó mỗi cục trĩ ông châm một cây kim. Nhiều năm lão luyện, tay nghề ông rất giỏi, cộng thêm ông dùng thuốc tê, vì vậy khi châm kim vào tôi không có một chút cảm giác đau đớn. Nhưng khoảng năm giây sau khi châm, tôi thấy trong tim hồi hộp khó chịu, hô hấp bắt đầu khó khăn, thấy trời tối sầm, tình hình không mấy khả quan. - Không được rồi! Bác sĩ!... Tôi dùng hết sức mới nói được mấy tiếng đó, nói xong tôi không còn sức để thở nữa. Lúc ấy trước mắt chỉ là màn đen tối mịt, dù tôi cố mở to mắt cũng không thấy được gì hết, tay chân run rẩy, rung lắc giống như thây ma treo cổ bị gió lùa; tiếp theo là co giật giống như người mắc bệnh kinh phong, cảm giác như bay lơ lửng trong không trung; tâm tôi tuy vẫn tỉnh táo sáng suốt, nhớ rõ từng hành động cử chỉ của mình, nhưng vô cùng khó chịu. Tôi nghe rất rõ tiếng hô hoán của bạn tôi đang đứng bên cạnh để chăm sóc: - Bác sĩ! Không ổn rồi! Anh ta sẽ chết mất! Không cần thoa thuốc nữa! Hãy mau rút kim ra đi! Anh ta la tiếp: - Máu chảy ra nhiều quá kìa, Bác sĩ! Chất độc trong thuốc nước của ông đã xâm nhập vào máu của bạn tôi rồi... Rồi anh ta làm náo động cả lên, cảm giác của tôi lúc đó rất lạ kỳ, tôi thấy hình như có người rót nước vào miệng cho tôi uống... Khoảng nửa giờ sau, tôi dần dần tỉnh lại. Kiểm tra lại, thì đâu có ai cho tôi uống nước lúc đó , và nguyên nhân là do vì muốn bệnh mau lành nên ông bác sĩ đã bỏ hàm lượng thạch tín vào trong nước thuốc khá cao, chất thạch tín theo cục trĩ xâm nhập vào mạch máu, mà mạch máu thì thông với tim, vì vậy mới khó thở khi thoa thuốc . Nhờ phước duyên, tôi đã trở lại từ cõi chết, đây là lần thứ nhất tôi nếm sơ mùi vị của cái chết. Những lỗ kim châm lần này lại là nguyên nhân chính khiến cho sau nầy càng khó chữa trị. Trải qua 18 năm, những lỗ kim vẫn không lành, do trĩ ngoại liền với mạch máu nên những lỗ kim nầy giống như cái ống dẫn máu ra ngoài, do đó máu cứ liên tục chảy ra nhưng chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Do lần chữa trị đầu tiên đã mắc sai lầm, nên máu càng ngày càng ra nhiều, lúc bình thường thấy ít ra máu, lâu lâu mới chảy ra vài giọt. Nhưng khi đi đại tiện thì thật kinh hồn. Vừa ngồi xuống, thấy máu chảy ra như nước từ trong người chảy ra qua đường tiểu tiện, máu chảy mạnh giống như lúc bác sĩ châm kim vào. Máu chảy xong , tiếp theo là huyết tương chảy ra thành vòi (huyết tương là chất nước màu vàng của máu sau khi loại bỏ hết huyết cầu). Mỗi ngày tôi phải đi đại tiện một lần, mỗi lần như vậy đồng nghĩa là tôi mất cả một bô huyết tương. Chỉ vài tháng sau, da tôi trắng bạch, tay chân run rẫy, mắt bắt đầu mờ dần. Nhiều người thấy tình cảnh như vậy họ thương quá, ai cũng bảo tôi đi mời bác sĩ về chữa, bằng không hậu quả khó lường được. Tôi lại đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ, ông ta là bác sĩ chuyên khoa rất nổi tiếng ở một bệnh viện lớn. ông bảo tôi hãy yên tâm, ông chữa mau và đặc biệt không đau, vì không tiêm chích chỉ thoa thôi. Ông dùng thuốc giã nhuyễn, mỗi ngày thoa lên cục trĩ, cục trĩ sẽ khô và tự rụng. Ông còn bảo đảm chỉ sau một tuần toàn bộ những cục trĩ của tôi đều rụng hết, mà vĩnh viễn không còn chảy máu nữa. Đương nhiên khi nghe vị bác sĩ nổi tiếng hứa như thế, tôi vô cùng vui mừng, đặt hết hy vọng vào ông. Ngờ đâu, ngay đêm hôm đó, tôi rất muốn đi đại tiện. Nó thúc giục giống như bị tiêu chảy vậy. Tôi nhờ người bạn dìu đến nhà vệ sinh, mà hơn nữa tiếng không ra được một chút phân. Trải qua mấy tiếng, càng ngồi lại càng mắc. Tôi cố nhẫn nại ngồi, cho đến khi hai chân không còn cảm giác, đến nỗi ngủ gục trong nhà vệ sinh. Anh bạn chờ lâu quá đã vào phòng ngủ một giấc, giật mình dậy mới dìu tôi vào phòng ngủ. Nhưng chưa kịp leo lên giường, tôi lại trở ra đi cầu tiếp... Cứ như thế , suốt đêm tôi cứ chạy đi chạy lại liên tục. Thống khổ đến mức chảy nước mắt, toàn thân run lên. Vậy mà sự thống khổ nầy kéo dài liên tục suốt 7 ngày đêm, mà thống khổ của đêm sau lại hơn đêm trước. Trong lúc thống khổ cực độ, tôi ngước mặt lên hỏi ông trời: - Ông trời ơi! Tôi đã phạm tội gì mà phải chịu thống khổ như thế nầy? Dẫu bị như vậy, tôi vẫn chưa tỉnh ngộ đấy là lúc quả báo đến, sự trừng phạt giống như ở địa ngục. Nhưng qua bảy ngày, tôi bỗng dưng dần dần khỏe trở lại, những búi trĩ cũng khô và rụng từ từ, máu không còn chảy nữa, tôi hết sức vui mừng. Nhưng, chỉ 6 tháng sau, bệnh trĩ lại tái phát trở lại, chẳng những thế mà còn phát rất mau, máu cũng bắt đầu chảy ra như trước. Bi kịch tiếp tục tái diễn, tôi lại phải tiếp tục tốn kém tiền bạc để chữa trị Ngày nào cũng chảy máu, thân thể tôi suy nhược đi hẳn, dẫn đến chứng mất máu kinh niên. Các búi trĩ làm tôi vô cùng khó chịu giống như bị lửa thiêu, dao cắt, tôi đau đớn trong từng giây từng phút không lúc nào yên. Biết bao nhiêu vị bác sĩ giỏi, nổi tiếng đều bó tay đành giương mắt nhìn tôi quằn quại trên giường mà không còn biết làm gì cả. Riết tôi cũng bị hội chứng sợ hãi bác sĩ, vì bao nhiêu người chữa thì bệnh cũng không bớt mà còn đau đớn đủ kiểu nên tôi quyết định không chữa trị theo y học nữa. Cũng chính vì quyết định đó nên tôi lại bị điều tiếng thị phi trong làng là trốn tránh lao động (kỳ thực lúc này tôi cũng chẳng còn chút hơi sức để làm việc chi nữa). Thời đó là còn thời kỳ bao cấp, ai nấy cũng phải lao động sản xuất làm ruộng, rẫy nên việc tôi không chịu chữa chạy bác sĩ dấy lên mối nghi hoặc của người dân trong làng. Người thì nói: “Có bác sĩ mà không chịu chữa, vậy rốt cuộc nó bị bệnh thật hay giả?”, người khác thì bồi thêm: “Bệnh trĩ của nó là giả, trốn tránh lao động mới là thật!” Sau đó, trưởng thôn, phó thôn, gọi bác sĩ lấy cớ cùng đến thăm tôi nhưng thật ra để dò la, điều tra. Biết mục đích của họ, tôi vào nhà vệ sinh đại tiện, giống như thường ngày, máu chảy ra cả một đống lớn rồi tôi gọi mọi người vào xem. Trưởng thôn vốn không tin tôi bị bệnh thật, nên vào xem ngay. Vừa nhìn thấy, ông vô cùng kinh hãi thốt lên: “Ôi máu ra nhiều thế này à!” Sau đó, nể lời mọi người khuyên bảo tôi quyết định để ông bác sĩ, được cho là ‘thần tiên giáng thế’, chữa trị thêm một lần nữa. Than ôi, lại thêm một lần nữa, máu vẫn chảy, đau đớn vẫn còn nguyên, ông bác sĩ ‘thân tiên’ cũng đành bó tay rồi lặng lẽ bỏ đi. Có lúc tôi chịu đựng đau đớn hết nổi, tôi khóc than rên la thảm thiết. Trên gò má, nước mắt trộn lẫn mồ hôi chảy ròng ròng, tóc tai bù xù. Tôi bấu chặt quần áo, mền mùng có lúc xé rách, hai chân đạp tấm nệm đến mức rách bươm, chẳng khác chi người điên là mấy. Ai thấy cũng đều lắc đầu thở dài, có nhiều người đã rơi nước mắt khi thấy cảnh thống khổ của tôi. Trong lúc quằn quại trên giường chịu đựng đau khổ, tôi chợt phát hiện ra nếu để mông cao hơn đầu thì sự đau đớn sẽ giảm đi một ít, tức là nằm theo tư thế treo ngược. Tôi nhờ bạn tôi lấy mền gối chồng lên nhau, để lài lài giống như mái nhà,rồi tôi leo lên đó, đầu thấp xuống và nâng cao mông, như thế trồng cây chuối. Tôi không nhớ rõ mình trải qua bao nhiêu ngày đêm như vậy, tôi chỉ nhớ trừ lúc ăn cơm. đi vệ sinh ra, còn suốt ngày luôn sống với tư thế treo ngược kể cả lúc ngủ nghỉ. Rồi đến một ngày, khi đang ở tư thế ‘treo ngược’ như thế, khi máu chảy ra đọng thành vũng rồi thấm vào mền chiếu, nằm trên vũng máu đỏ tươi, tôi thảng thốt nhận ra cảnh tượng đó rất giống những con chim trước kia bị tôi bắn giết, máu của chúng nó cũng chảy rớt xuống những cành, lá cây. Trời ơi! tư thế "treo ngược" của mình với tư thế những con chim bị tôi bắn trước đây không hai không khác. Đây không phải là quả báo nhãn tiền đó sao? Đúng là "Nợ máu phải trả bằng máu, Nhân-Quả công bằng, một sợi tơ cũng không sót ". Cái cảnh tôi đang chịu đựng trong đau đớn đó không phải là hình phạt trong địa ngục đó sao? Tôi bắt đầu tỉnh ngộ ra rằng Tất cả những nỗi đau khổ của con người chẳng phải do ông trời làm ra mà chính là những tư tưởng xấu, hành động ác mà con người đã tạo trong đời này hoặc trong đời trước mới là nguyên nhân con người phải chịu mọi thống khổ trong hiện kiếp. Muốn cải đổi vận mệnh chỉ có một con đường duy nhất là năng làm việc lành, tích chứa âm đức mà thôi. Khi được thấu suốt, tôi đã không còn oán hận những vị bác sĩ đã ‘hại’ mình nữa, ngược lại, tôi lại vô cùng biết ơn họ, vì họ đã giúp tôi sớm trả xong món nợ máu. Nếu họ không chữa sai, có lẽ tôi còn mang bệnh tới già hoặc tiếp đến đời sau tiếp tục trả. Sau khi có nhận thức đứng đắn về cuộc đời, tôi luôn luôn sám hối trong tâm, có lúc sám hối cho đến khi chịu không nổi khóc rống lên mới thôi. Tôi quyết tâm "lấy công chuộc tội". tự nhủ tranh thủ lúc còn trẻ, gấp rút lo tu hành để cải thiện vận mệnh đời mình. Sau đó tôi thường nhờ bạn bè đi mua động vật để phóng sinh, hằng ngày gặp những cơ hội phóng sinh cứu sinh vật là tôi đều không bỏ qua, đồng thời tôi cũng dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ người bệnh tật, nghèo đói. Tôi cũng thường ráng hết sức lực để bí mật đến ngôi đền giữa cánh đồng, lễ bái và cúng thí cho các oan hồn uổng tử ở mười phương, giúp họ được ấm no... Nói ra cũng thật kỳ lạ, từ sau khi tôi bố thí phóng sinh, cơn thống khổ của bệnh trĩ của tôi dần dần giảm thiểu một cách rõ ràng, máu cũng chảy ít hơn, dần dần cách hai ba ngày, rồi đến một tuần mới phát một lần mà không cần tới thuốc men chi cả. Nửa năm sau, bệnh bắt đầu bình phục, người tôi có da thịt trở lại, có thể đi lại mà không cần người dìu như suốt mười mấy năm qua. Tôi càng vui mừng nên ra sức làm việc thiện quanh năm suốt tháng như vậy. Bệnh trĩ từ tám, rồi mười ngày, một tháng, hai tháng mới phát một lần. Đến mùa xuân năm trước nó hết còn chảy máu và cơn đau hết hẳn. Tính ra từ khi phát bệnh cho đến khi lành hẳn hết cả thảy là 18 năm. Bảy năm trước, tôi may mắn được đến Hồng Kông, nhưng còn may mắn hơn nữa là gặp được Phật Pháp. Từ đó niềm tin của tôi đối với Nhân-Quả báo ứng càng thêm kiên cố. Tôi giác ngộ sâu sắc rằng: "Mục đích đời người, chẳng phải là tiền rừng bạc biển, nhà cao cửa rộng, hoặc danh cao chức trọng mới làm rạng rỡ tông phong. Chỉ cần siêng năng làm thiện pháp, tích chứa âm đức, không sát sinh, làm lợi vật lợi người, cửu huyền thất tổ nhờ đó mà được siêu thăng thì ta sẽ không thấy hổ thẹn một đời" Lưu Tâm Bình
-
TK cô báo có 500,000 đ của thanhhuong_geo , cô sẽ chuyển giao.
-
Tài Khoản của Wild có nhận được 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) theo nội dung trên!
-
Cô vừa nhận được 500,000 đ (năm trăm ngàn) cuả chipchip, cô sẽ chuyển đến Nha Khanh!
-
Cô cũng đã trao đổi với bạn con, hãy có tín tâm vào Pháp của Đức Phật sẽ nhận được sự chuyển hóa ah con!
-
Thật là hoan hỷ khi topic Từ Thiện mở lại, Wild được các nhà hảo tâm trong và ngoài diễn đàn ủng hộ rất nhiều, bên cạnh ý nghĩa đem chút ấm áp của Mùa Xuân sẽ chia đến những mãnh đời cùng khổ, bệnh nặng, xa nhà không nơi nương tựa. Ngoài tinh thần khích lệ của Bác Thiên Sứ, lòng bi mẫn đều đặn của nhan qua, Wild còn nhận được tịnh tài của người nhà hv Dieu Hoa qua lần tư vấn giúp đỡ gia đình cùng 1 số ACE thân thiết đã từng sinh hoạt Diễn đàn. Số đóng góp này nay đã lên đến con số kha khá để chúng ta có thể thực hiện 1 chuyến trao quà cuối năm. Nhưng như đã trình bày 2 bài viết trên, Wild mong muốn được ủy quyền công việc này cho Nha Khanh hay bất cứ thành viên nào do Ban điều Hành chỉ định, thiết nghĩ chỉ cần 1 cái tâm trong sáng 1 tấm lòng yêu tha nhân 1 nhiệt huyết trong chướng ngại là có thể làm được. Bên cạnh đó Wild cũng sẵn sàng hổ trợ kinh nghiệm phương tiện để các bạn thực hiện, dịp ra hà nội vừa qua Wild cũng trực tiếp gặp gỡ trao đổi cùng các Tv thường xuyên phát tâm, nhằm mục đích gửi trả số tiền mà họ đưa vào Tk nhưng mọi người đều mong muốn thực hiện 1 lần cho sự chuẩn bị chuyển giao. Do đó chương trình sẽ được thực hiện vào ngày 28 âm lich do Nha Khanh đảm nhiệm, tất cả số tiền đóng góp sẽ được giao lại cho Nha Khanh trong hôm nay. Mọi chi tiết xin liên hệ Nha Khanh và mong muốn các ACE cùng chung tay góp sức thực hiện chương trình này. Sau khi thực hiện Nha Khanh có nhiệm vụ đăng tải tường thuật hình ảnh ngay trong Topic này để tạo sự gắn kết cộng đồng. Thời gian qua trang mục này không nhận thêm 1 ý kiến đóng góp nào vì vậy chúng tôi cố gắng hoàn thành chuyển tải tình cảm của các mạnh thường quân theo danh sách dưới đây: Bác Thiên Sứ :1,000,000 đ (một triệu đồng) Nhan Qua :1,000,000 đ (một triệu đổng) Bác Ngô Văn Quang (ng nhà Dieu Hoa) : 2,620,000 đ (hai triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng) Manhhungjpg :200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) An Thanh :1,000,000 đ (một triệu đồng) Bé Doãn Thành :500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) Bảo Hằng :1,000,000 đ (một triệu đồng) Cô Hương (bạn của Wild) :500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) Trần minh Nghĩa : 1,000,000 đ (một triệu đồng) Nguyễn Lộc : 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) Cattrang : 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) Tâm Nghi : 100,000 đ (một trăm ngàn đồng) Hiện giữ : 9,420,000 đ (chín triệu bốn trăm hai mươi ngàn đồng) đến những người không may mắn! Hy vọng qua bài viết trên đây các bạn đang và đã phát tâm chia sẽ hãy tiếp tục ủng hộ Topic này để chúng ta nối những cánh tay yêu thương đến những người bất hạnh. Chào đoàn kết và thân ái!
-
Mười hai cách tạo nghiệp tốt 29/03/2012 16:47:00 Thích Nguyên Tạng dịch Đạo hữu Lillian Too, nhà phong thủy nổi tiếng thế giới, đã viết hơn tám mươi cuốn sách về đề tài này, và bà cũng đã cho xuất bản tạp chí Feng Shui World (Phong Thủy Thế Giới) phát hành hai tháng một kỳ. Mới đây bà đã mở rộng công việc xuất bản của mình với số đầu tiên là Mahayana (Đại Thừa Phật Giáo), tạp chí trình bày truyền thống Đại Thừa Phật Giáo Tây Tạng như phương châm " vì lợi lạc cho quần sanh". Mahayana đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của mọi người tại quê hương của bà ở Singapore vào cuối năm ngoái. Bài viết sau đây là một phần nhỏ mà Tạp chí Mandala đã trích đăng từ tập sách của bà với tựa đề 108 Phương cách tạo nghiệp tốt. Theo giáo lý nhà Phật, luật nhân quả được giải thích rằng mỗi sự việc xảy ra sẽ có một sự kiện khác đi theo sau đó. Hệ quả xảy ra có an lạc, hạnh phúc hay khổ đau, khó chịu, có lợi hay có hại cho người khác và cho chính mình, tất cả đều tùy thuộc vào nguyên nhân ban đầu của hành động đó. Luật nhân quả dạy rằng gieo gió sẽ gặp bão, trồng cam sẽ được quả ngọt, trồng chanh ắt phải hái trái chua, đem niềm vui đến cho người, mình sẽ được hạnh phúc, gây khổ đau cho người, mình sẽ chịu sự bất hạnh. Người ta không thể thoát khỏi nghiệp quả của mình một khi chính mình đã gây tạo. Có nhiều cách tạo ra nghiệp tốt để hóa giải đi những nghiệp xấu mà chính mình đã cố ý hay vô tình gây ra trước đó. Bài viết này xin cống hiến 12 cách mà bạn có thể làm được ngay trong kiếp này để đời sống của bạn thay đổi. 1. Hãy lấy từ bi làm tôn giáo của mình Tạo nghiệp tốt không có nghĩa là theo tôn giáo hay mộ đạo. Người ta không cần phải là một tín đồ Phật giáo hay thuộc về tín ngưỡng nào đó để có thể tạo nghiệp tốt. Con người chỉ cần thể hiện thái độ tử tế ân cần với người khác. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nhắc nhở: “Tôn giáo của tôi là lòng từ bi”. Như vậy đã tạo nghiệp tốt rồi, không phải chỉ tử tế với người khác trong chốc lát mà phải luôn luôn, suốt cuộc đời của mình, trong mọi phương diện của đời sống, trong mọi mối liên hệ, trong mỗi công việc làm, trong tất cả những giao tiếp; Khi chúng ta tiếp cận một việc gì mình làm, được thể hiện tấm lòng từ bi, thì khi đó chúng ta đang tạo nghiệp tốt, và đó là loại nghiệp tốt tạo ra hệ quả mà tất cả mọi người khác đều tử tế với mình. Đó là phương cách chắc chắn nhất để gây dựng cuộc đời mà trong đó những phiền não khổ đau sẽ tiêu tan. 2. Trì chú Trì chú là việc làm cơ bản và dễ nhất cho hành giả tu theo Mật tông để bắt đầu đi trên con đường mở ra những chân trời mới cho tâm trí. Trước hết trì chú là cách thức mạnh nhất để thanh lọc những ác nghiệp mà chúng ta đã mang tới trong thế gian này với mình từ quá khứ. Nghiệp quả xấu vẫn còn ở trong thần thức của mỗi người, dòng tâm thức mà chúng ta mang theo từ kiếp sống quá khứ. Chúng ta hãy bắt đầu với thần chú nổi tiếng nhất thế giới, đó là tâm chú của Bồ-tát Quán Thế Âm "Án Ma Ni Bát Di Hồng" (Om Mani Padme Hum). Khi trì thần chú này, hãy tập trung vào âm thanh của chú và để âm thanh thâm nhập vào tận tâm thức của mình. Luôn luôn trì chú với ý tưởng mang lợi ích đến cho người khác. Không bao lâu, chúng ta sẽ thấy kết quả với những lợi ích tuyệt vời thâm nhập qua tâm thức của mình. Chúng ta sẽ sớm cảm thấy mình trở nên dễ thương hơn, khoan dung hơn, bớt bối rối hơn và trở nên bình tĩnh hơn. Nhiều vị Lạt Ma cao cấp nói rằng trì thần chú "Án Ma Ni Bát Di Hồng" có thể đưa chúng ta đến giác ngộ. Đây là một trong những thần chú có nhiều oai lực nhất mà chúng ta có thể hành trì hàng ngày. 3. Niệm Phật Một cách thức mạnh mẽ không ngờ để giải trừ những ác nghiệp là niệm danh hiệu Phật và lễ Phật sám hối. Trong khi niệm Phật chúng ta phát khởi ý nghĩ sám hối về những nghiệp xấu đã tạo ra trong những kiếp trước và ngay trong kiếp sống này. Niệm Phật thành tâm, nhờ tha lực của chư Phật cùng với sự tự lực của bản thân sẽ giúp cho những bất thiện nghiệp của chúng ta tiêu tan dần theo năm tháng. Chúng ta phát tâm quy ngưỡng Phật, tôn kính Phật, lễ Phật và niệm danh hiệu Phật là pháp tu phổ thông để tội diệt phước sanh, là phương pháp rất mạnh mẽ để hóa giải những chướng ngại gây ra phiền não khổ đau cho chúng ta trong đời sống này. 4. Thực hành thiền quán Mấy năm trước khi gặp Thầy Bổn sư của tôi là Lạt Ma Zopa (lãnh đạo tối cao của Hội Bảo tồn Truyền thống Phật giáo Đại thừa, fpmt.org), tôi thỉnh ngài hướng dẫn tôi ngồi thiền, tôi trình với ngài rằng: "Lúc nào con cũng cảm thấy u uất trong lòng , xin Thầy hướng dẫn con tập thiền để tâm con được an tĩnh". Thầy Zopa cười nhẹ và nói: " Tham thiền là pháp tu tuyệt vời. Thiền không phải chỉ để tâm trí an tĩnh thôi đâu, mà thiền còn có mục đích cao hơn nữa con ạ". Ngài vắn tắt giải thích rằng: Thiền định hay sự phát triển tâm linh, hay sự quán chiếu về khổ đau, vô thường và vô ngã. Tham thiền là cách làm cho tinh thần tập trung, thanh thản và trong suốt như dòng sông nước trong mà người ta có thể nhìn thấy tận đáy, từ đó ý thức biết được sự thể nghiệm về giải thoát và giác ngộ. Tham thiền cũng là quá trình tập trung và thâm nhập, nhờ đó mà tâm chúng ta được an tĩnh và nhất tâm bất loạn rồi đi đến giác ngộ. Nên hiểu rằng thiền là sự nhận chân ra năng lực tâm linh mới để có thể phán đoán sự vật trên quan điểm mới, với mục đích là dứt khoát lật đổ ngôi nhà giả tạm mà mình đang có để dựng lên cái khác trên nền móng hoàn toàn mới. Mái nhà cũ gọi là vô minh khổ đau, ngôi nhà mới được gọi là giác ngộ giải thoát. Đó là đích đến của mọi hành giả tu theo đạo Phật. Về căn bản, hành giả ngồi trên tấm nệm với hai chân khoanh lại, lưng thẳng, hai mắt hé mở, nhìn khoảng một thước về phía trước và bắt đầu thở đều hòa. Suy ngẫm và tập trung vào lý do hành thiền, động cơ ngồi thiền của mình, đó là phát tâm làm lợi ích cho chúng sanh. Xem động lực vị tha này là nền móng của việc tham thiền. Từ đó trở đi hành giả có thể quán tưởng về bất cứ đề mục nào liên quan đến việc phát triển sự hiểu biết về đời sống của mình. Khi quán tưởng như vậy, hành giả nhẹ nhàng suy ngẫm về sự quý báu của đời người và sự may mắn là mình đã được sanh ra làm người, được sống, được gặp chánh pháp như hôm nay. Hành giả sẽ nhận thức rằng chỉ riêng việc sinh ra làm người đã là một may mắn rồi, vì mình có khả năng phân biệt, hiểu biết và suy nghiệm nghĩa lý sâu xa của Phật lý, để rồi biết tu tập để giải thoát vòng sinh tử khổ đau. 5. Nhường đường khi lái xe Đã không ít tai nạn chết người xảy ra khi người lái xe giành đường, do vậy khi người Phật tử chạy xe trên đường phải giữ chánh niệm và biết rằng đây cũng là cơ hội cho ta tạo nghiệp tốt. Nhường đường cho người khác là chúng ta chạy chậm lại khi có người muốn vượt lên trước mình, dằn cảm giác khó chịu xuống hay không bóp kèn khi có người quẹo xe ẩu hoặc thậm chí đụng phải xe của mình. Những phiền não như vậy trong việc giao thông là những cơ hội cho ta đào luyện tâm trí với nụ cười hoan hỷ trong bình tĩnh. Chúng ta cũng có thể nhường đường cho người khác ngay cả khi mình có quyền ưu tiên. Khi không có ý tưởng xem con đường là nơi tranh chấp giữa mình và những người lái xe khác, việc giao thông của chúng ta sẽ thú vị hơn nhiều và mỗi lần nhường đường cho người nào, chúng ta sẽ rất vui lòng vì biết rằng việc kềm chế tánh dễ nổi nóng của mình và đây cũng là một cách để tạo nghiệp tốt mà kết quả có về sau là đời sống của mình luôn gặp mọi sự hanh thông và may mắn. 6. Dành phần thắng cho người khác và chấp nhận thua thiệt Khi nhường nhịn người khác, chúng ta nhiếp phục được sự tự ái của mình, và không thể để cho tự ngã của mình nghĩ đến những điều vị kỷ. Khi chấp nhận thua thiệt, sẽ là cơ hội cho ta diệt trừ tính kiêu ngạo. Pháp tu đặc biệt hữu dụng khi hoạt động trong thế gian vật chất hay trong cách cư xử với người khác trong công việc. Khi làm việc gì quan trọng hay phải làm xong một việc nào đó trước thời hạn, sự căng thẳng thường phát sinh giữa mình và người khác, và đó là lúc người ta nghĩ đến ảo tưởng thắng và thua, được và mất. Hãy xem đó là những cơ hội tạo nghiệp tốt. Tôi nhớ có những lần tôi đã tranh luận một cách nóng nảy chỉ để biện minh cho quan điểm của mình, để rồi rốt cuộc tôi nhận ra rằng mình đã không chỉ gây ra phiền não cho mình mà còn làm cho người khác bực mình, khó chịu nữa. Chỉ khi gặp được Lama Zopa và được học Phật, tôi mới học được phương cách đối trị tính háo thắng của mình. Tôi đã khám phá tính chất giải thoát của sự chịu thua thiệt, sự buông bỏ và sự không bị trói buộc vào tham vọng chiến thắng. Đó là lúc tôi nhận ra là mình đã cảm thấy an lạc nhiều hơn mỗi khi chấp nhận thua thiệt, nhường phần thắng cho người khác. Hành vi đầu hàng trước ý kiến hay quan điểm của người khác không phải là trốn tránh thảo luận, mà là một lối đồng ý với nhau rằng chúng ta không đồng ý kiến, và đồng thời vẫn tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ nhau. Khi làm như vậy, chúng ta đang tạo nghiệp tốt và tất nhiên bạn sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ tương tự của người khác trong tương lai. 7. Tránh sát hại những sinh vật nhỏ nhất Người ta dễ dàng xâm hại đến sinh mạng của các loài vật, đặc biệt là những loài nhỏ nhất. Một hôm đang đi trên lề đường, tôi nhận thấy có nhiều con kiến bò ngang lối đi, tôi biết rằng nếu mình không có ý thức thì mình đã vô tình giết chết nhiều sinh mạng và như vậy chúng ta dễ dàng tạo ác nghiệp về sát sinh ngay trên mỗi bước chân của mình. Tôi cẩn thận không dẫm đạp lên những con kiến nhỏ bé này và tôi ngạc nhiên cảm thấy sự vui sướng rộn lên trong lòng của mình.aax Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, ngay cả những con vật nhỏ nhất cũng có Phật tánh, nhưng vì kiếp này chúng vì nghiệp chướng nặng nề nên phải mang thân hình khác người, hiểu điều đó, nên ta cố gắng tránh sát hại một cách vô ý thức của chúng ta. Kết quả tránh sát hại sinh vật sẽ giúp chúng ta sống khỏe mạnh, không bệnh tật và tăng tuổi thọ về sau. 8. Phóng sinh Phóng sinh là hành động cứu sống, công đức rất lớn, có thể giúp người làm việc này giảm bệnh tật và kéo dài tuối thọ ngay trong hiện đời. Mấy năm trước khi tôi đến thành phố Varanasi, Ấn Độ (nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên), trong chuyến hành hương với Thầy tôi, Lama Zopa. Ngài đã đưa chúng tôi đến thăm sông Hằng và hướng dẫn chúng tôi làm công đức. Chúng tôi ngồi trền thuyền cầu nguyện và thả cá xuống giòng sông. Tôi có cảm giác tuyệt vời khi nhìn thấy những con cá tươi sống mà chúng tôi vừa mua từ những người dân chài ở gần đó, chúng quẫy đuôi nhảy trở lại nước sông và bơi lội tự do. Sau đó thầy tôi ghi câu thần chú trên một trái bong bóng rồi cột ở mạn thuyền để cho bong bóng chạm vào làn nước trong khi chiếc thuyền lướt đi. Ngài giải thích rằng bằng cách này để cho thần chú của Phật chạm vào làn nước để ban phước cho những loài vật sống dưới nước. 9. Cúng nước Mấy năm trước khi gặp Thầy tôi, Lạt Ma Zopa lần đầu tiên, tôi thỉnh Ngài về nhà tôi. Ngài rất hoan hỷ khi nhìn thấy bức tượng Phật độc nhất mà tôi chưng trong phòng khách. Ngài bảo tôi lấy chén nước để ngài cúng bức tượng đó. Ngài dạy tôi cúng chén nước sẽ tạo nhiều công đức và là phương thức có oai lực lớn để hóa giải những nghiệp xấu về sân hận và những vấn đề khác còn tồn tại trong tâm trí của mình. Tôi đã làm theo lời dạy của ngài mỗi ngày, và không bao lâu chúng tôi đã có hàng trăm chén nước trong nhà, chỉ vì thời gian qua tôi có thêm những tượng Phật mới. Tôi rất thích đi tìm những loại chén pha lê và việc thay nước mỗi buổi sáng đã trở thành một nghi lễ trong gia đình của tôi. Qua thời gian, tôi cảm thấy những kết quả tốt, căn nhà của tôi đã trở thành một ốc đảo thấm đầy an lạc, và những chướng ngại trước đây trong đời sống của chúng tôi nay đã tan biến mất. Những sân hận cáu gắt, những trận cải vã vô nghĩa, nhỏ mọn thường phá sự yên tĩnh trong nhà chúng tôi, nay đã không còn nữa, những cơn nóng giận đã đi vào quá khứ. Thật là một điều kỳ diệu khi chúng ta cúng nước cho chư Phật. 10. Bố thí, đóng góp cho việc từ thiện Hành động hiến tặng cho người khác là một cách thức tuyệt vời để tạo nghiệp tốt trong đời sống ngắn ngủi này. Bố thí là hạnh đi đầu của những ai muốn thực thi Bồ tát hạnh. Kết quả của hạnh bố thí là mình được giàu sang, phú quý về sau. Về phương diện tinh thần thì lòng tham lam, bủn xỉn của mình nhỏ dần lại và biến mất sau một thời gian mình thực hành việc bố thí. Khi hiến tặng cho người cũng là lúc chúng ta gia tăng tích lũy thiện nghiệp xuất phát từ lòng từ bi. Mình luôn cho ra với tấm lòng quảng đại, vui vẻ, hoan hỷ không có bất cứ một điều kiện nào đi kèm, đó là bố thí đúng nghĩa với lời Phật dạy. Nếu bạn không có khả năng bố thí tiền bạc thì có thể bố thí thời giờ, công sức, sự hiểu biết hay tài năng của mình, để giúp cho đời sống này bớt khổ đau, tất cả những điều này cũng có giá trị ngang nhau với tiền bạc. Một khi động lực tinh truyền, không ý đồ mưu toan xen lẫn vào hành động bố thí thì bạn đã thành công phần nào đó trong công hạnh này rồi. 11. Nuôi cá cảnh Khi viết những cuốn sách về phong thủy, tôi luôn đề nghị thân chủ nuôi cá cảnh để tạo lực thịnh vượng và sự mát mẻ trong gia tộc. Nhưng việc nuôi cá cũng có mục đích cao hơn về tinh thần. Mỗi buổi sáng khi cho cá ăn hoặc thay nước cho cá, đó là bạn đang tạo nghiệp tốt. Thật vậy mỗi lần cung cấp thức ăn cho cá là bạn có niềm vui vì biết mình đang làm việc tốt. Những con cá không cần phải đẹp và hồ nước của cá cũng không cần phải có ý nghĩa phong thủy để làm động lực cho lòng từ bi của bạn phát sinh. Hãy nghĩ như vậy rồi những con cá sẽ mang đến cho bạn những niềm vui lớn trong đời sống này. 12. Sẵn lòng lắng nghe tâm sự của người khác Khi có người nào tìm đến mình để tìm sự an ủi, chia sẻ hay để nương tựa vào bạn, vì họ không có người nào để tìm tới, bạn đừng xua đuổi họ, dù đó là người mà bạn chưa từng quen biết, dù bạn đang bận rộn, dù bạn không thích nghe người khác than thở. Bạn chỉ cần dành một chút thời gian cho họ. Hãy sẵn sàng làm bạn với cả những người xa lạ. Dùng tinh thần mạnh mẽ của mình để giúp những người yếu đuối. Chia sẻ kinh nghiệm an lạc của mình với người khác, dù cho người ấy không quen thân với mình, làm được như vậy là bạn đang thực hành tốt lòng từ bi trong đời sống và cũng là người đang đi trên lộ trình hành Bồ-tát đạo.
-
Đạo hữu Lillian Too, Phong Thủy gia này cũng là 1 phật tử do đó Bà trãi nghiệm và cho ra 12 lời khuyên như trên đây!
-
Nhân dịp xuân Quý Tỵ 2013, chúng tôi đã sưu tầm và tóm tắt một số mẩu chuyện có liên quan đến rắn, xin gửi đến quý vị như một món quà Phật Pháp đầu năm. Truyện tiền thân Đức Phật hay còn gọi Bổn sanh truyện là tuyển tập bao gồm 547 câu chuyện nhỏ được sắp xếp thành từng chương theo thứ tự một bài kệ, riêng phần cuối được kết thúc bởi câu chuyện Vessantara nổi tiếng. Truyện tiền thân nhằm mục đích tạo niềm tin vào đạo pháp trong mọi tầng lớp xã hội từ vua chúa, Bà la môn cho đến các giới bình dân cùng khổ, nó giống như những truyện cổ tích dành cho trẻ em nhưng lại mang tính giáo dục cao về luật nhân quả nghiệp báo. Nhân dịp xuân Quý Tỵ 2013, chúng tôi đã sưu tầm và tóm tắt một số mẩu chuyện có liên quan đến rắn, xin gửi đến quý vị như một món quà Phật Pháp đầu năm. Kính chúc tất cả quý vị một năm mới nhiều an lạc, tràn đầy phước báu và tiến tu trong Phật Pháp. 1. Chuyện Con Rắn Tre - Veḷuka Jātaka (Jā.43). Bồ Tát được sanh làm vị ẩn sĩ đứng đầu một hội chúng ẩn sĩ gồm 500 vị. Một trong số 500 vị ẩn sĩ này có nuôi con rắn trong ống tre và thương yêu như con nên ông được gọi là Veḷukapitā (Cha của Veḷuka). Bồ Tát cảnh báo sự nguy hiểm, nhưng vị ẩn sĩ không nghe. Lần nọ, ông đi cùng các ẩn sĩ vô rừng hái trái và ở lại trong rừng hai - ba ngày nên con rắn bị bỏ đói trong thất. Lúc trở về, ông đến vuốt ve rắn và bị rắn cắn, rồi ngã ra chết. Chuyện kể về một tỳ-kheo khó dạy. Veḷukapitā là tiền thân của vị tỳ-kheo này. 2. Chuyện Con Rắn Phun Nọc Độc - Visavanta Jātaka (Jā. 69). Một người nông dân bị một con rắn độc cắn và người đó được đưa đến cho y sĩ (Bồ-tát), là một thầy trị nọc rắn nổi tiếng. Vị thầy cho người bắt con rắn kia về và buộc nó phải hút nọc của mình ra khỏi vết thương trên người của người nông dân. Rắn từ chối dù bị doạ bị giết chết bởi thầy rắn. Câu chuyện kể về Tôn giả Sāriputta nguyện không ăn bánh bột nữa vì đã lỡ ăn phần bánh bột dân làng cúng dường cho tỳ-kheo vắng mặt. Rắn là tiền thân của Tôn giả Sāriputta. 3. Chuyện Đúng Vậy Chăng? - Saccaṅkira Jātaka (Jā. 73). Vua trị vì xứ Benares có một Hoàng tử tên Duṭṭhakumāra mà ai cũng không thích. Một hôm, ông ra sông tắm. Có cơn giông nổi lên. Ông bảo nô tỳ đưa ông ra giữa sông để tắm. Họ thả hoàng tử xuống nước và trình báo nhà vua họ không thấy chàng đâu hết. Chàng bám được khúc cây trôi, trên đó có con rắn, chuột và két. Cả bốn được vị ẩn sĩ (Bồ Tát) cứu và dưỡng nuôi. Lúc ra đi, rắn nói mình có 400 triệu chôn ở một chỗ nọ mà ẩn sĩ có thể đến đó gọi “Rắn ơi!” là có ngay; chuột có 300 triệu dành cho ẩn sĩ; két hứa với ẩn sĩ gạo đầy nhiều xe; và Hoàng tử sẽ cúng dường tứ sự đầy đủ cho vị ẩn sĩ, mặc dù trong lòng chàng đang nung nấu căm thù muốn giết ngài. Sau khi Hoàng tử lên ngôi, vị ẩn sĩ đến thử lòng của ông như thế nào, cũng như ba bạn cũ. Ông đến rắn, gọi tên và được rắn dâng kho tàng liền. Chuột và két cũng giữ lời hứa. Còn Vua Duṭṭha cho đánh và đem ông ra lệnh xử trảm. Trên đường ra pháp trường, ông nói kệ rằng “Những người hiểu đời nói thật: Vớt khúc gỗ trôi tốt hơn cứu một sống người!” Được hỏi sao ông nói vậy, ông kể lại câu chuyện. Dân chúng phẫn nộ giết vua và đặt vị ẩn sĩ lên ngôi. Tân vương đem chuột, rắn và két vô cung nuôi. Chuyện kể về Devadatta âm mưu hại Phật. Duṭṭha là tiền thân của Devadatta; rắn là Tôn giả Sāriputta; chuột là Tôn giả Moggallāna; và két là Tôn giả Ānanda. 4. Chuyện Lửa Cháy - Ghatāsana Jātaka (Jā. 133). Một thời, Bồ Tát được sinh làm con chim chúa sống với đàn chim trên cây; trên cây này có một nhánh de ra trên hồ nước. Chim đậu trên cành để phân rơi xuống hồ, trú xứ của Rắn chúa Caṇḍa. Rắn chúa muốn đuổi chim đi nên làm nước hồ phun lên đốt cháy cây. Chim chúa thấy nguy cơ đến bèn gọi đàn chim bay đi lánh nạn. Nhiều chim không nghe nên bị cháy tiêu. Chuyện kể về một tỳ-kheo có lều bị cháy rụi. Dân làng cất cho ông một lều khác nhưng phải ba tháng mới xong. Trong ba tháng này ông không thể thiền định. 5. Chuyện Con Rắn - Uraga Jātaka (Jā.). Một thời, Vua Brahmadatta trị vì Benares tổ chức lễ hội để thần dân nhiều cõi đến vui chơi. Trong đám đông có Rắn Nāga đứng gần Kim-xí-điểu Garuḍa. Vô tình Nāga đặt tay lên Garuḍa. Xoay qua thấy Garuḍa, Nāga sợ quá bèn chạy trốn. Garuḍa rượt theo và quyết bắt Nāga. Đến sông, thấy một vị ẩn sĩ đang tắm và để áo vỏ cây trên bờ Nāga liền hoá ra hòn ngọc chui vô y. Garuḍa biết nhưng không bắt Nāga vì kính nể vị ẩn sư. Ẩn sư đưa cả hai về am thất và biến cả hai thành bè bạn qua lời giảng về lòng từ. Chuyện được kể liên quan đến hai võ quan luôn luôn tranh cãi mỗi khi gặp nhau. Không ai can ngăn được, kể cả nhà vua. Nhìn thấy hai ông đủ duyên đắc Sơ quả, đức Phật bèn đến nhà họ khất thực và vì họ nói kinh Sự Thật. Về sau hai ông trở thành bạn thân khiến ai ai cũng đều tán thán lời nhiếp phục của đức Phật. 6. Chuyện Con Chuột Rừng - Nakula Jātaka (Jā. 165). Đức Bồ Tát sanh làm đạo sĩ khổ hạnh trên Hy Mã Lạp Sơn. Trên đường du hành của Ngài có con chuột rừng và con rắn luôn luôn tranh cãi nhau. Ngài thuyết cho hai con vật nghe về lợi lạc của lòng từ và khuyên chúng không nên đố kỵ nhau. Chuyên được kể về hai sĩ quan của Vua Pasenadi hay cãi nhau. Có thể xem lại chuyện tiền thân số 154 - Uraga Jātaka. Hai con vật chỉ hai vị quan. 7. Chuyện Tu Tập Từ Tâm - Khandhavatta Jātaka (Jā. 203). Một thời, đức Bồ Tát sinh làm vị tu khổ hạnh ở -Kāsi. Được biết có nhiều tỳ kheo bị rắn cắn chết, Ngài tập họp các tỳ-kheo trong vùng lại và dạy các ông tu tập từ tâm đối với bốn gia đình rắn (Virūpakkha, Erāpatta, Chabbyāputta, và Kaṇhagotama) để tránh bị rắn cắn. Chuyện được kể về một tỳ-kheo chết vì bị rắn cắn. Câu chuyện như là nhân duyên của kinh an lành Khandha Paritta. 8. Chuyện Con Nhái Xanh - Haritamāta Jātaka (Jā. 239). Bồ Tát sanh làm con nhái xanh. Có con rắn đi bắt cá chun vô rọ bị cá cắn chảy máu phải bò ra núp bên bờ nước. Thấy con nhái xanh ở miệng rọ, rắn hỏi nhái chớ cá có quyền cắn rắn không. “Sao không,” - nhái đáp, “bạn ăn cá khi cá đến chỗ của bạn, cá cắn bạn lúc bạn đến chỗ của cá.” Cá nghe vậy bu tới cắn rắn chết. Chuyện kể về chiến trận giữa Vua Pasenadi và cháu ông là Ajātasattu, nói rằng lúc người này thắng lúc người kia thắng. Rắn chỉ Ajātasattu. 9. Chuyện Cái Giếng Cũ - Jarudapāna Jātaka (Jā. 256). Một thời Bồ Tát sanh làm vị thương nhân. Lần nọ ông đi buôn với đoàn xe thương buôn, đoàn dừng lại ở một giếng nước và định lấy nước uống. Giếng cạn nên phải đào xuống. Đoàn thương gia bắt gặp nhiều châu báu dưới đáy giếng. Chưa thoả mãn, họ tiếp tục đào sâu hơn nữa dầu Bồ Tát đã cản ngăn với lời khuyên tham là nguồn gốc của tai hoạ. Cung điện Nāga dưới đáy giếng bị phá vỡ. Các thần rắn dùng hơi độc phà ra giết chết tất cả trừ Bồ Tát. Bồ Tát lại còn được các thần rắn đặt lên xe ngọc ngà châu báu và đưa về đến nhà. Chuyện kể về một số lái buôn ở Sāvatthi thấy giếng này và đào được châu báu. Các ông thỉnh Phật để bố thí và cúng dường rồi bạch trình câu chuyện họ vừa lòng với những gì có được. 10.Chuyện Rắn Thần Daddara - Daddara Jātaka (Jā. 304). Một thời, Bồ Tát sanh làm Nāga Mahādaddara sống tại Daddarapabbata. Nāga có cha là Sūradadddara và em là Culladaddara. Culladaddara sân si, hung dữ, thường la mắng đánh đập các Nāga nữ. Vua Nāga phán đuổi Culladaddara ra khỏi xứ nhưng được anh tâu xin tha thứ. Đến lần thứ ba, nhà vua truyền lệnh cho cả hai anh em xuống sống ba năm ở Benares. Bị trẻ con địa phương trêu chọc, Culladaddara định phun nọc giết, nhưng Mahādaddara khuyên em nên kiên nhẫn. Chuyện kể về một tỳ-kheo thường hay sân si. 11. Chuyện Con Rắn - Uraga Jātaka (Jā. 354). Một thời Bồ Tát sanh làm một Bàlamôn sống trong thành Benares với vợ, con trai, con gái, con dâu và nữ tỳ. Họ sống hạnh phúc bên nhau và luôn được dạy sống với ý nghĩ về cái chết. Một hôm người con trai đốt cỏ rác khiến con rắn sống gần đó bị xốn mắt phóng tới cắn chết. Cha chàng đặt thây chàng dưới gốc cây, nhắn người về nhà khi đem cơm trưa ra đem theo bông hoa và hương liệu, rồi tiếp tục đi cày tiếp. Sau bữa cơm, gia đình làm giàn hoả thiêu xác chàng. Không một tiếng khóc than. Hiệu lực đức hạnh của họ làm cho ngai của Thiên chủ Sakka nóng lên. Thiên chủ xuất hiện và hỏi từng người phải chăng không ai than khóc vì chẳng ai thương mến chàng. Biết rằng họ không khóc than vì họ sống với ý nghĩ về cái chết, Thiên chủ xưng danh và lấy thất bảo đổ đầy nhà họ. Chuyện được kể liên quan đến một địa chủ ở Sāvatthi sầu khổ vì con trai chết. Đức Phật ngự đến và thuyết pháp cho ông nghe. 12. Chuyện Vị Y Sĩ Già - Sāliya Jātaka (Jā. 367). Một ông thầy lang muốn có tiền công chữa bệnh, gạt một em bé (Bồ Tát) leo lên cây bắt con nhím mà ông biết rõ là con rắn. Bé nắm cổ con vật mới biết là con rắn nên quăng ra trúng ông thầy lang đứng dưới đất. Rắn quấn cổ ông và cắn ông chết. Chuyện kể về Devadatta âm mưu hại đức Phật. 13. Chuyện Dây Trói Buộc - Tacasāra Jātaka (Jā. 368). Có một thầy lang thấy một đám thiếu niên chơi gần cổ thụ có ổ rắn. Hy vọng kiếm được chút tiền, ông dụ các thiếu niên thò tay vô bộng cây nói là để bắt nhím. Một thiếu niên (Bồ Tát) thò tay vô bộng gặp rắn liền nắm cổ rắn liệng ra ngoài trúng ông; rắn đeo vào người ông và cắn chết ông. Đám trẻ bị bắt đưa lên vua. Thiếu niên bắt rắn bảo bạn bình tĩnh để chàng đối phó. Vua nghe qua câu chuyện, và thả tất cả về. Chuyện kể về trí tuệ toàn hảo (paññāpāramitā) của Bồ Tát. Nhà vua chính là tiền thân Tôn giả Ānanda. 14. Chuyện Con Lừa - Kharaputta Jātaka (Jā. 386). Thuở xưa, Vua Senaka trị vì Benares, có cứu mạng một Xà vương khỏi tay bọn thanh niên đang vây đập rắn. Để tạ ơn cứu tử, Xà vương dâng lên vua nhiều châu báu và một cung nữ Nāga. Xà vương còn dâng vua câu thần chú để ông gọi cung nữ khi không thấy nàng bên cạnh. Một hôm Vua Senaka cùng cung nữ Nāga du ngoạn trong ngự uyển. Vốn tham đắm dục lạc vô độ, cung nữ thấy con rằn nước dưới hồ sen, bèn hoá thành rắn bò xuống làm tình cùng chú rắn nước này. Vua quất nàng một roi tre trị tội tà hạnh. Nàng tức giận bỏ về thế giới Nāga và phao vu nhà vua ngược đãi mình. Xà vương ra lệnh cho bốn thanh niên Nāga vào vương thất giết vua bằng cách dùng hơi độc thoát ra từ mũi. Bấy giờ, vua đang kể cho hoàng hậu sự việc xảy ra ngoài ngự uyển. Nghe được câu chuyện, bốn thanh niên Nāga trở về trình lại Xà vương. Để chuộc lỗi, Xà vương hiến Vua Senaka thần chú giúp ông nghe được mọi thứ tiếng trên thế gian, chỉ với một điều kiện duy nhất là nếu ông truyền thần chú này cho ai, ông sẽ phải nhảy vào lửa chết. Nhờ có thần chú, Vua Senaka nghe nhiều chuyện buồn cười của loài ong, kiến, vân vân. Vua cười khiến hoàng hậu hiếu kỳ theo hỏi. Sau cùng, nhà vua kể cho bà nghe và bà đòi được truyền cho thần chú. Bị mãnh lực nữ nhân thôi thúc, vua đành chấp nhận và ngự lên vương xa, đi vào ngự viên để nhảy vào lửa sau khi trao truyền thần chú cho hoàng hậu. Ngay lúc ấy, ngôi của Sakka nóng lên, Ngài nhìn xuống cõi đất thấy việc này, liền cùng phu nhân hoá làm hai con dê đón đầu vương xa của Vua Senaka. Hai con dê làm tình trước mặt các con lừa Sindh đang kéo vương xa. Lừa mắng dê ngu xuẩn và vô liêm sỉ. Dê bảo lừa còn ngu xuẩn hơn vì đang kéo xe cho một vị vua ngu ngốc. Vua nghe được câu chuyện giữa dê và lừa, liền đọc kệ hỏi kế. Dê đề nghị vua bảo với hoàng hậu rằng Ngài sẽ truyền chú cho với điều kiện bà phải chịu trăm roi lên lưng không được kêu la. Vì quá ham mê thần chú, hoàng hậu ưng chịu, nhưng vừa bị hai roi bà kêu la và không còn muốn được truyền thần chú nữa. Chuyện được kể về một tỳ-kheo bị vợ cũ cám dỗ. Senaka là vị tỳkheo, Lừa Singh là Sāriputta, Sakka là Bồ Tát. 15. Chuyện Con Cua Vàng - Suvaṇṇakakkaṭa Jātaka (Jā. 389). Bồ Tát làm một Bàlamôn nông dân ở Sālindiya. Trên đường ra đồng, ông đi ngang qua cái ao có con cua vàng mà ông làm thân. Có con quạ mái muốn ăn mắt người nông dân nên dụ chồng xúi con rắn cắn ông. Ông bị rắn cắn và nằm mê bên bờ ao. Nghe tiếng động, cua bò lên và thấy quạ mái sắp mổ mắt ông. Cua kẹp quạ. Rắn đến cứu quạ bị cua kẹp luôn. Cua bắt rắn hút nọc độc ra để người nông dân tỉnh lại. Bấy giờ, cua siết càng giết chết quạ và rắn. Chuyện kể về việc Tôn giả Ānanda muốn cứu Phật khỏi bị voi Dhanapāla dày. Rắn là tiền thân của Māra; quạ trống là Devadatta; cua là Tôn giả Ānanda; quạ mái là Nữ du sĩ khổ hạnh Ciñcāmaṇavikā. 16. Chuyện Túi Da Đựng Bánh - Sattubhasta Jātaka (Jā. 402). Một thời, Bồ Tát sanh làm Tế sư Senaka của Vua Janaka trị vì Benares. Tế sư thuyết giới luật mỗi hai tuần, vào ngày trai giới, cho đại chúng có cả nhà vua tham dự. Một Bàlamôn già đi khất thực được cúng dường một ngàn đồng. Lão đưa cho một Bàlamôn giữ dùm. Ông này xài hết. Lúc bị đòi tiền, thay vì trả tiền ông gả con gái cho lão. Cô con gái có người yêu, và để được gặp người yêu, cô bảo lão đi mượn một nô tỳ để giúp cô việc nhà. Ông ra đi với chiếc túi cơm của cô soạn. Trên đường về ông ghé bờ suối mở túi ra ăn cơm. Cơm xong, ông xuống suối uống nước. Có con rắn bò chui vô túi. Để cảnh báo vị Bàlamôn già, thần cây nói rằng: “Nếu ông nghỉ lại dọc đường ông sẽ chết; nếu ông về nhà vợ ông sẽ chết.” Lo âu, ông vừa đi vừa khóc. Tới Benares ông theo bà con đến nghe Tế sư Senaka thuyết pháp. Nghe câu chuyện của lão Bàlamôn, Tế sư nghĩ đó là sự thật nên mở túi xách của lão ra xem. Rắn bò ra trước mắt thiên hạ. Để đáp ơn, lão Bàlamôn dưng Tế sư 700 đồng ông khất thực được trong chuyến đi vừa qua. Tế sư không lấy mà còn cho lão ba trăm để đủ một ngàn, và khuyên lão không nên đem số tiền này về nhà. Lão chôn tiền dưới gốc cây nhưng không dấu được cô vợ trẻ. Thế là tiền ông bị người yêu cô đào lấy mất. Lão Bàlamôn đến yết kiến Tế sư và được chỉ cho cách tìm kẻ trộm. Chàng bị lộ tông tích và thú nhận tội với Tế sư Senaka. Chuyện kể như một ví dụ về trí tuệ viên mãn của đức Phật. Lão Bàlamôn chỉ Tôn giả Ānanda; thần cây chỉ Tôn giả Sāriputta. 17. Chuyện Năm Vị Hành Trì Trai Giới - Pañcuposatha Jātaka (Jā. 490). Có bốn con vật: chim bồ câu, rắn, chó rừng, và gấu sống hài hoà và vị ẩn sĩ (Bồ Tát) trong một khu rừng; vị ẩn sĩ được tôn làm Đạo sư. Tất cả năm vị đều quyết tâm giữ hạnh trai giới sau khi đã không chế ngự được tinh tấn chánh cần. Mạng chung, vị Đạo sĩ sanh về cõi Phạm thiên, còn bốn con vật kia nghe lời thuyết giáo của ông nên được lên cộng trú với Thiên chúng. Nhận diện tiền thân: bồ câu chỉ Anuruddha, gấu chỉ Kassapa, chó rừng chỉ Moggallāna, rắn chỉ Sāriputta. 18. Chuyện Của Vị Đại Thương Nhân - Mahāvāṇija Jātaka (Jā. 493). Một nhóm thương nhân đi lạc vô rừng đến chỗ của cây đa. Họ chặt một nhánh, nước trào ra, họ hết khát. Họ chặt nhánh thứ hai được đầy đủ thức ăn, nhánh thứ ba được nàng kiều nữ, nhánh thứ tư được tơ lụa bạc vàng. Tham lam, họ định đốn luôn cây để được nhiều hơn. Vị trưởng đoàn (Bồ Tát) cản ngăn nhưng không chịu nghe nên bị Xà vương sống trên cây huy động đoàn rắn giết chết hết trừ vị trưởng đoàn. Xong, Xà vương đưa ông về nhà với đoàn xe đầy của quý. Chuyện kể về một đoàn thương nhân đệ tử của đức Phật gặp hoàn cảnh như kể trên. Nhưng họ không đốn cây mà còn cúng dường đến Ngài châu báu lượm được và hồi hướng công đức cho Thần cây. Phật tán thán sự tiết độ của các thương buôn. Xà vương chỉ Tôn giả Sāriputta. 19. Chuyện Hiếu Tử Sāma - Sāma Jātaka (Jā. 540). Hai thôn trưởng đều là hai nhà thiện xạ, giao ước sẽ làm sui nếu hai bên có con trai và gái. Họ sanh cậu trai đặt tên Dukūlaka (vì được bọc trong tã đẹp) và cô gái đặt tên Pārikā (vì ở bên kia sông). Trưởng thành, hai cô cậu thành hôn theo lời giao ước, nhưng không làm vợ chồng vì cả hai đều xuống thế từ cõi Phạm Thiên. Được sự tán đồng của cha mẹ đôi bên, chàng và nàng đi tu ẩn và sống trong am thất do Thiên chủ Sakka xây trên bờ sông Migasammatā. Một ngày kia, thấy hiểm hoạ sắp xảy đến cho hai vị ẩn sĩ trẻ, Sakka xuất hiện xuống khuyên hai vị có một đứa con. Pārikā thọ thai sau khi được Dukūlaka rờ rún đúng thời. Bà sanh một nam tử đặt tên Sāma, nhưng vì có màu da vàng ròng bé được gọi là Suvaṇṇasāma(Hoàng Kim); bé là Bồ Tát. Một hôm, hai ông bà ẩn sĩ đi hái trái rừng, mắc mưa, đến đụt chổ gò kiến. Nước trên thân ông bà nhểu xuống làm con rắn sống dưới gò kiến tức giận, phà hơi độc làm mù mắt cả hai ông bà. Từ dạo đó Sāma lo nuôi dưỡng cha mẹ mình. Bấy giờ, Vua Pilliyakkha trị vì Benares đi săn, thấy Sāma đang lấy nước tưởng là con nai đang uống nước, nên giương cung bắn. Sāma té xuống, nhà vua nghĩ chàng đã chết nên ân hận vô vàn. Ông được mẹ bảy kiếp của Sāma là Nữ thần Bahusodarī trú trên núi Gandhamādana (Hương Sơn) bảo đến báo tin cho cha mẹ của Sāma biết. Ông đến chòi kể lại việc xảy ra và đưa Dukūlaka với Pārikāđến chỗ Sāma nằm. Pārikā thực hiện lời nguyện Chân Thật (Saccakiriyā); Sāma tỉnh dậy. Bấy giờ, Nữ thần Bahusodarī cũng nguyện lời Chân Thật và hai cha mẹ của Sāma đều sáng mắt. Tiếp theo, Sāma thuyết giáo nhà vua rằng : các những hiếu tử sống theo chánh Pháp chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân đều được chư Thiên ban phước lành. Chuyện kể về một thanh niên ở Sāvatthi. Nghe pháp do Phật thuyết, chàng xuất gia. Tu sĩ trẻ này trú trong tịnh xá năm năm và trong rừng 12 năm. Một hôm, nghe nói cha mẹ già bị sạt nghiệp phải đi ăn xin, ông trở về lo phụng dưỡng ông bà bằng khất thực; có lúc ông phải nhịn ăn để nuôi hai ông bà. Chuyện đến tai đức Phật, Ngài vì ông nên thuyết Mātuposaka Sutta. Nhận diện tiền thân: Kukūlaka chỉ Tôn giả Kassapa, Pārikāchỉ Trưởng lão ni Bhaddhā Kāpilanī, Paliyakkha chỉ Tôn giả Ānanda, Sakka chỉ Tôn giả Anuruddha, và Bahusodarī chỉ Trưởng lão ni Uppalavaṇṇā. phattuvietnam.net
-
Lòng Từ bi của những người giết và ăn thịt Cún để đâu? Và sáng 17/9 trên mặt Báo Người Lao Động có một bài báo cũng làm bao trái tim người phải đau đớn và nước mắt bao người phải rơi “ … Đêm ở lò hóa kiếp” . Đã có không biết bao nhiêu những vụ hiếp dâm, giết người ngày càng dã man, tàn bạo mất hết nhân tính trong xã hội hiện nay. Tại sao đạo đức suy đồi ??? ai cũng kinh hoàng thảng thốt đặt ra những câu hỏi như thế mỗi khi có những vụ án làm kinh hoàng bao trái tim con người. Và sáng 17/9 trên mặt Báo Người Lao Động có một bài báo cũng làm bao trái tim người phải đau đớn và nước mắt bao người phải rơi “ … Đêm ở lò hóa kiếp” . Tại vì sao ư? Đã có biết bao những nhà chuyên môn, những nhà tâm lý học, giáo dục học, những chuyên gia phân tích về nguyên nhân của sự gia tăng của tội phạm đều đúng nhưng chưa đủ vì còn thiếu một nguyên nhân đặc biệt quan trọng đó là lòng Từ bi . Nguyên nhân gia tăng những tôi ác ngày càng man rợ là ở đây, xuất phát từ đây. Một khi lòng từ bi của những con người giết và ăn thịt những người bạn như thế này: “ Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể có một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình thương yêu hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn. Những người gần gũi, thân thiết ta nhất, những người gởi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động dại một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta lỡ vận. Duy có một người bạn không bao giờ rời bỏ ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay trắc trở, đó là con chó của ta.” Thì thử hỏi còn gì mà họ không dám làm và không dám ăn. Một đêm chỉ ở một lò giết mổ thôi có tới 400 chú cún bị làm thịt. Vậy trên khắp các lò mổ có bao nhiêu ngàn chú cún bị giết trong một đêm? Những người giết và ăn thịt cún hãy thử hình dung khi một chú cún bị chủ la mắng, chú cúi đầu với ánh mắt rất buồn đi vào một chỗ ngồi. Cún cũng biết buồn khi bị chủ mắng nói chi đến việc bị đánh đập, giết chết. Không ai ăn thịt Cún vì đói quá. Không ai làm đồ tể Cún vì không có việc gì khác để làm. Không ai buôn bán Cún vì không còn gì để buôn bán cả. Vì vậy đừng đổ lỗi cho vì đói, vì nghèo. Tất cả chỉ vì khoái khẩu cái miệng và vì hám lợi nhuận ( vì tòan mua của bọn kẻ cướp thì phải rẻ rồi mà khi bán thì lại bán với giá là món đặc sản). Chúng ta hãy thử quan sát khi một đàn kiến đang di chuyển, nếu chúng ta lầy cái gì đó chặn đường chúng lại thế là đàn kiến tán loạn, nháo nhác hoảng sợ tìm ngay đường khác để đi. Loài vật nào cũng muốn sống, loài nào cũng sợ chết huống chi là những chú Cún hàng ngày sống cạnh con người , là thành viên trong một gia đình. “Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết vùi miễn sao được kề cận bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là ông hoàng, dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân tàn danh liệt vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được là kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù” Vậy mà con người lại quay ra ăn thịt những người bạn trung thành này. Một khi lòng từ bi đã bị thui chột, bàn tay đã ngập ngụa trong biển máu của loài cún này thì việc đi đến chỗ giết người đâu có bao xa. Thịt chú Cún cũng được liệt vào hàng số một là loại có nhiều chất đạm nhất, ăn vào cộng với rượu sẽ kích thích ham muốn thì làm gì mà không có những vụ án hiếp dâm làm rúng động cả đất nước. Cả làng là đồ tể chỉ vì muốn giầu hơn mà làm những điều khủng khiếp, không một chút tiếc thương người bạn mình. Có làng xã lại còn mang thịt Cún đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên ngày giỗ, lại còn làm tiệc đám cưới cũng có thịt Cún. Thật kinh khủng! tội nghịệp cho ông bà tổ tiên có ăn được đâu mà ngược lại không được siêu thoát vì con cháu mang thêm nghiệp sát. Còn đám cưới khi làm cô dâu, chú rể ai cũng muốn được mọi người chúc phúc cho hạnh phúc đến răng long, đầu bạc, vậy mà lại đi để thịt người bạn mình trên bàn tiệc. Có khi tiệc mừng đầy tháng cho con cũng giết Cún mà làm tiệc chưa biết chừng. Ôi trời đất nào chứng cho đây. Lòng từ bi đề đâu hết rồi? Đã bao người xúc động đến rơi nước mắt khi có biết bao chú cún đã dũng cảm cứu người. Biết bao chú cún đợi chủ về ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Có những chú cún tuyệt thực, không ăn, không uống khi chủ mất để rồi chết theo chủ. Có những chú cún khóc đến xưng mắt khi bị chủ bỏ rơi. Có những chú cún đã nằm bên mộ chủ canh cho chủ ngủ ngay cả khi chủ đã chết: “Và một khi trò đời hạ màn, thần chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy, khi tất cả thân bằng quyết thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ, thì khi ấy vẫn còn bên nấm mồ ta con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở to cảnh giác, trung thành và trung thực ngay cả khi ta đã chết rồi.”. Vậy là hỉ, nộ, ái ố gì người ta cũng muốn có thịt cún để cho cái lưỡi thêm đậm đà. Thế là ngay lúc có mặt trên đời đến khi nhắm mắt, người ta cũng sẵn sàng thịt cún để dâng tặng. Vậy thì làm gì mà trong máu ta còn chút lòng từ bi, thì làm sao đạo đức không suy đồi. làm sao mà hàng ngày trên các báo không có những vụ án chồng giết vợ, vợ giết chồng, con cái giết cha mẹ, cha mẹ giết con cái, anh em, bạn bè, hàng xóm … giết nhau. Những vụ hiếp dâm Ống, cha, anh, chú ,bác, cậu hiếp con, em, cháu… những vụ án hiếp dâm. giết người, những vụ án cướp của giết người làm kinh hoàng bao trái tim con người. Nếu con người không biết yêu thương loài vật thì cũng không thể yêu thương đồng loại. Nếu ngay từ khi ở trong bụng mẹ mà cha mẹ đã không gieo được hạt giống từ bi cho thai nhi thì khi lớn lên chúng sẽ bị vô cảm ngay cả với những người thân của chúng. Vì vậy chỉ có dậy con người lòng Từ bi và thế nào là gieo Nhân và gặt Quả thì mọi người mới sống tốt. Chỉ có như vậy thì đất nước này mới giảm bớt tội phạm mà thôi. phattuvietnam.net
-
Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton chuyển sang Phật giáo Có thể ta chưa có vinh hạnh là tu sĩ chuyên nghiệp, nhưng trong trong cuộc sống chắc chúng ta có đôi lần nghĩ về sự kỳ bí của vũ trụ hữu hình và vô hình. Điều này thật là thú vị. Những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, có thể ta lặng lẽ phấn đấu hay hối hả tìm cách để vượt qua. Có cái ta qua được, và có cái ta không thể qua được. Tuy nhiên cuộc sống có những ngã rẽ mà ta không thể biết trước, dù lặng lẽ hay hối hả thì cuối cùng ta phải chấp nhận và phải nhẹ nhàng bước tới. Không ít người cho rằng khi khó khăn người ta hay tìm đến Phật giáo để nương nhờ. Tuy nhiên không phải không có trường hợp người ta lại tìm đến Phật khi người ta quá sung sướng, theo nghĩa đã đạt được hầu hết những gì mà người ta mong đợi trước đó. Phải chăng trường hợp thứ hai là do người ta bắt đầu ý thức được sự huyền bí của vô thường? Cũng cần phân biệt giữa Phật giáo (Buddhism) và Phật học (Buddhistology). Việc trở thành một tu sĩ Phật giáo chuyên nghiệp thì còn phải tuỳ duyên; tuy nhiên, Phật học là một môn khoa học mà ai cũng có thể học tập. Sự liên hệ giữa Phật học, Toán học, Vật lí, Hoá học và Sinh học thật là thú vị. Ý nghĩa sâu xa của những môn này, chứ không phải những kỹ năng tính toán thông thường, có thể góp phần lớn vào sự nhận thức của ta về vị trí hiện tại của ta và những gì xung quanh. Một khi ta biết một cách tương đối rằng ta từ đâu, sẽ đi về đâu thì tự nhiên ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Khi đó, ta sẽ dễ dàng tịnh tâm hơn cho những công việc mà ta đang làm, vì có thể ngay thời điểm ta được tái sinh thì đã quá muộn. Hôm nay đọc được bài viết thật là thú vị: “Former US president Bill Clinton turns to Buddhism”. Không thể phủ định rằng ông Clinton đang ứng dụng Phật học vào đời sống của ông. Đây là một ví dụ rất thú vị về việc sử dụng giá trị của Phật học vào cuộc sống. Xin giới thiệu chi tiết bài viết này, thay cho nhiều điều muốn viết “Theo trang tin tức thebuddhism.net, trong một bài viết ngày 10.01.2013, cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã thỉnh riêng một vị sư Phật giáo để dạy ông làm thế nào để thiền định đúng cách. Ông Clinton đang học Thiền định và được cho biết là đã chuyển sang một chế độ ăn chay. Tất cả các thay đổi này rõ ràng đã bị ảnh hưởng bởi một nguy cơ về tim gần đây của ông, mà vào tháng 02.2004 khi ông được đưa vào Bệnh viện Columbia Presbyterian ở thành phố New York vì ông bị một số cơn đau ngực khủng khiếp. Vào thời điểm đó, đã có hai dụng cụ thông mạch được đặt vào tim của ông và vài tháng sau đó, vào tháng 09, ông đã phải trải qua phẫu thuật tim “độ bốn”. Trong năm 2010, một động mạch của ông bị tắc và các bác sĩ phẫu thuật đã mở lại được trong một cuộc phẫu thuật tim lần thứ hai của ông trong vòng năm năm. Dường như căng thẳng là một trong những nguyên nhân chính yếu cho bệnh tim của ông. Ông nói rằng việc học Thiền giúp ông thư giãn. Ông di chuyển rất nhiều và công việc của ông thì rất căng thẳng. Ông cho biết là học Thiền để thư giãn và ông đang cảm thấy tốt hơn nhiều sau hai quyết định thay đổi cuộc sống của mình. Ông cho biết ông cũng có một câu thần chú yêu thích mà ông thích tụng khi mọi thứ trong cuộc sống của ông trở nên hỗn độn, và điều đó thực sự giúp ông thư giãn và và đầu óc ông minh mẫn hơn. Theo vài nguồn tin, ông từng ăn nhiều thức ăn nhanh, nhưng bây giờ ông ấy đã quyết định từ bỏ tất cả và thay thế nó với rất nhiều các loại trái cây và rau quả với thỉnh thoảng cá! Đặc biệt ông nói rằng chúng ta cần thêm nhiều nhân viên chính phủ chuyển sang những cách sống lành mạnh và các phương pháp thiền trong Phật giáo để thư giãn và có thể quốc gia của chúng ta sẽ tốt hơn. Như chúng ta đã biết, trong năm 2010 và 2011, thiền trong Phật giáo và chế độ ăn uống lành mạnh hơn đang bắt đầu để tạo ra một xu hướng cho tất cả mọi người. Càng có nhiều người đang nhận thấy những lợi ích đến từ một cuộc sống với Thiền thư giãn và ăn uống lành mạnh và thay đổi cuộc sống của họ. Từ Tiger Woods cho đến Steve Jobs (A Di Đà Phật), giá trị của Phật giáo đang bắt đầu được được đánh giá cao. Sự thật là Thiền mang lại sự thư giãn và bình yên cũng như sức khỏe. Mọi người đều có thể học hỏi từ những thay đổi mà ông Clinton đã thực hiện, và tốt cho ông ấy.” Thì ra là thế! TS. Lê Văn Út chuaphuclam.vn
-
Nha Khanh gửi tặng giúp Cô những trường hợp trên đây!
-
-
Kính thưa Ban Giám đốc Trung Tâm. Bác Thiên Sứ, bạn Hà Trang ,nhanqua và các hội viên quan tâm. Trước hết tôi xin thành thật cảm ơn giám đốc cùng các hội viên diễn đàn đã tín nhiệm tôi và động viên, cổ vũ cho chương trình từ thiện. Những ngày qua, tôi cũng nhận được nhiều thông tin qua email, điện thoại của nhiều hội viên quen biết, về việc trung tâm mở lại chương trình Từ Thiện và việc tôi không nhận đảm trách lại chương trình này. Lời khích lệ cũng nhiều, phiền trách cũng có. Nhân đây Wild cũng xin bày tỏ như sau: 1) Khẳng định tôi -Wildlavender không bao giờ cố chấp. - Việc đóng chuyên mục từ thiện là quyền của ban lãnh đạo trung tâm lúc bấy giờ tuy có bất ngờ những đã có lý do của nó như lời giám đốc đã thông báo. -Ngay sau khi có ban quản lý mới , tôi đã có lời trao đổi về việc này với người có trách nhiêm, hãy tiếp tục và đừng ngưng lâu quá vì tôi e rằng như thế vô tình chúng ta chặn dòng chảy của các nhà hảo tâm đóng góp đều đặn đến với người có hoàn cảnh. Theo quan điểm của tôi tâm từ thiện hay hành từ thiện là không chỉ là giúp đỡ đồng loại bằng vật chất, tiền của mà còn ở tinh thần, ở phương cách hay phương pháp khắc phục họ giải thoát ra khỏi khó khăn Ví như : hướng dẫn họ , về thủ tục hành chính, khai báo giấy tờ ; Giải tỏa tinh thần cho họ bằng các liệu pháp tâm lý hoặc giáo lý của các tôn giáo; giúp họ khắc phục tháo gỡ bằng các phương pháp của lý học như phong thủy, tử bình….; chỉ cho họ những phương kế làm ăn…hay đơn giản hơn là dọn giùm họ cái phòng ở cho sạch sẽ, kê giùm họ cái giường cho nó vững vàng, nhắc nhở cái chống xe quên gạt khi lưu thông trên đường. Xin mượn lời của một thành viên trong nhóm từ thiện để diễn ý là : “chuyện không nên giúp con cá mà phải giúp cái cần câu là chưa đủ, nhiều khi phải bày cho họ cách câu, thậm chí chỉ cho họ địa điểm đến ngồi câu ” Bởi vì có những hoàn cảnh cả gia đình không ai học quá lớp 4, nhờ họ ký xác nhận vào biên lai giao tiền ( để về làm báo cáo) họ cứ đờ mặt ra vì lâu ngày không dùng nên quên hết cả mặt chữ, hay quên cả cách cầm bút những lúc đó tôi bứt rứt vì cảm thấy như mình đang xúc phạm họ nhiều hơn. Bởi vì có những anh chồng trẻ người dân tôc, lại ở tận vùng sâu những tỉnh miền núi lên thành phố nuôi vợ con trọng bệnh, tiễn chân tôi mà nói chưa sỏi lời cảm ơn Bởi vì có những người bệnh tâm thần không xác định được cái bánh còn vỏ bọc, nếu không ai bóc giùm thì họ sẵn sàng bỏ cả vô miệng nhai cả vỏ nilon. Bởi vì có cô bé tuổi 16, bỗng dưng tai nạn cướp mất đôi chân đang bay nhẩy và chỉ muốn chết. Khi đó ngoài tịnh tài tôi còn phải chia sẽ yêu thương nữa. Và cũng có không ít mãnh đời mà sau 1 lần thăm hỏi giúp đỡ nay tôi đã trở thành người thân theo tháng năm Bởi vì và bởi vì …. Tâm lý ai giúp từ thiện cũng muốn tìm đến những hoàn cảnh đáng thương nhất, và đáng thương nhất thì phải hoàn cảnh nhất, cần giúp đỡ nhiều mặt chứ không chỉ là tiền. Cũng chính vì vậy, các chương trình trước đây, khi đi thực hiện tôi thường kêu gọi các bạn, các em, các cháu trong trung tâm, mỗi người có một khả năng nhất định để khi đến đó , ngoài chuyện tặng quà thì còn là tư vấn …Trước đây có một thành viên trong diễn đàn nói với tôi : Không phải chuyện từ thiện là chỉ quyên tiền đi cho mà chúng tôi cũng đang làm từ thiện bằng cách tư vấn, giải đáp thắc mắc của các thành viên, chúng tôi cũng phải bỏ thời gian, bỏ chất xám ra chứ đâu phải không. Vâng, tôi nhất trí và mong rằng cứ như vậy. Nhớ xưa, mỗi chuyến đi từ thiện nào Á Châu, Thiên Đồng , Thiên Luân ….và cả bác Thiên Sứ nữa từng đến giúp chùa, giúp người khổ khắc phục phong thủy, số lý mà đến giờ này nhiều người còn ghi tạc. Bản thân tôi không phải chuyên gia lý số, nếu hỏi về vấn đề dược phầm, xã hội tôi góp ý được còn về lý số thì tôi thua. Nên khi giới thiệu là đại diện TTLHĐP là làm cái đó, tư vấn về cái đó …. Mà họ nhờ thì đúng là lúng túng. Một phần về tuổi tác, về sức khỏe, về quy tắc hoạt động của trung tâm và một lý do tôi sẽ nêu dưới đây nữa, nên tôi rất mong muốn các bạn, các em, các cháu :nào Hạt gạo làng, nào Hoàng Triều Hải, nào Á Châu, Khôi Nguyên, Thiên Đồng,Thiên Luân, Hoàng Anh, Nhã Khanh, Thiên Anh, Hoàng Dung, Tuyetminhnguyen … hỡi các bạn những người trẻ, khỏe, trí tuệ , những thành viên đã có kiến thức lý học hãy mạnh dạn đảm đương công tác này ! Các Bạn đừng e ngại làm như vậy là sẽ “gánh nghiệp cho người ta” đã là con Phật, thọ hạnh Bồ Tát mà còn e ngại gì trắc trở, nếu như có ai đó quan niệm thực hành từ thiện như tôi sẽ nhận được nhiều phước báu thì tôi xin nhường chút phước báu này cho người kế thừa. Bạn đừng cân nhắc vì mất chút ít thời gian hay phải bỏ đi 1,2 độ tư vấn có phí, vì tư vấn miễn phí cũng là từ thiện mà, đôi khi đây lại là những chứng nghiệm cho chuyên môn của bạn, mà những độ này có phải thường xuyên liên tục đâu. !? Còn về phần tôi, bằng kinh nghiệm của mình Wildlavender sẵn sàng tư vấn, tham mưu cho các bạn về cách thực hiện chương trình mọi lúc, mọi nơi. Do vậy một lần nữa khẳng định : Wildlavender không cố chấp. Mà làm sao phải cố chấp,khi có gì đáng đâu để mà chấp và dại gì mà chấp trong khi đạo pháp của Đức Phật dạy phải xả bỏ. 2) Hiện nay tôi cũng châp chững tham gia sinh hoạt một vài đạo tràng tu tập theo Phật giáo, để thực hành hạnh Từ bi , Bố thí tôi cùng các đạo hữu thực hiện việc cúng dường “Thần Chú giải thoát thông qua sự thấy” đến tất cả mọi người, Việc ấn tống, cúng dường này trên trang diễn đàn LHDP trên tinh thần vô vụ lợi hầu mang lại lợi ích tâm linh đến với chúng sanh pháp giới. Qua đây xin chân thành cám ơn Nhakhanh, Dieuhoa, Minh Thu (Ha noi) cùng một số ACE khác đã rất nhiệt tình giúp chúng tôi trong việc chuyển gửi tặng Thần chú này đến mọi người. Sắp tới có thể chúng tôi cúng dường, phát hành nhiều thần chú khác như Giải thoát thông qua qua sự xúc chạm ( mặc, đeo..)Thần chú trấn giải ( dán , treo…) theo truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa ,khi điều kiện cho phép. Ngoài ra chúng tôi có các chương trình từ thiện của nhóm là những nội dung sinh hoạt theo Phật Pháp, do tinh thần là tùy tâm và tùy tiện ( phương tiện, tiện ích,tiện lợi) nên chúng tôi tùy duyên không khuôn khổ, nhiều người có thể đảm trách như nhau, có những chương trình không phải kêu gọi tự nguyện mà là yêu cầu đích danh thành viên tham gia, tiêu chí thích ứng và hợp đạo là được. Các chương trình là giúp đỡ đồng loại đang cơn khó khăn, cúng dường xây chùa tạo tượng , cúng dường thánh tăng, cúng dường Pháp hội; phóng sinh, ấn tống kinh sách, pháp khí, với chủ trương cúng dường Pháp xin tư vấn , hỗ trợ giúp đỡ các cá nhân và gia đình thân hữu của bạn đạo trong lúc bối rối bằng giáo pháp và các phương tiện của đạo Phật , ….Thiết nghĩ các nội dung này ngoài chuyên mục giúp đỡ đồng loại đang cơn khó khăn, thì còn lại là các nội dung mang tính chất của Tôn giáo mà cụ thể là Phật giáo, vì vậy sẽ không phù hợp với quy tắc, nội dung hoạt động của diễn đàn trung tâm. Do đó tôi phải thực hiện các chương trình này trên trang cá nhân Facebook. Với bày tỏ này rất mong các bạn hữu gần xa hiểu, thông cảm và miễn chấp cho tôi, là tại sao vẫn làm các chương trình gọi là từ thiện bên trang cá nhân mà lại không nhận phụ trách chương trình của trung tâm LHDP . Lý do là như vậy. Là một thành viên đã sinh hoạt diễn đàn từ những ngày đầu, tôi vẫn sẵn sàng đóng góp các bài sưu tầm, các kiến thức mà mình hiểu cho hoạt động của diễn đàn thêm sinh động. Qua hai ý bày tỏ tâm tình trên đây, hy vọng các thành viên hết sức thông cảm cho tôi trong chuyên mục từ thiện, mọi đóng góp tài chính vừa qua của ACE gửi đến tài khoản của tôi hoặc tôi sẽ chuyển lại cho ACE sử dụng hoặc gửi cho ban quản trị diễn đàn quản lý thực hiện, tùy nghi ý kiến của ACE. Một lần nữa xin cảm ơn mọi sự tín nhiệm và kính chúc Ban Giám Đốc & Ban Điều Hành và toàn thể ACE hội viên thành công viên mãn trong cuộc sống và tinh tấn trong việc Vinh Danh nển Văn Hiến Việt. Trân trọng kính chào Wildlavender
-
Hiện tượng khi người sắp chết Khi con người trút hơi thở cuối cùng thì phần nóng, tức là phần tinh tế của thần thức còn lưu lại và tập trung ở một phần cơ thể. Tất cả những nghiệp thức của quá khứ tập trung lại thành một sức mạnh vô hình mầu nhiệm để dẫn dắt thần thức tái sinh vào hình xác khác mà chịu quả báo. Đó chính là sức mạnh của nghiệp lực. Tùy theo nghiệp lực mà phần nóng tập trung ấy thoát ra từ các vị trí khác nhau trên cơ thể. Có thể quan sát các cảm giác trên gương mặt và thân xác của người chết để biết nơi thoát ra của thần thức. 1)Nếu người sắp chết mà chết tự nhiên, bình tĩnh, sáng suốt và căn dặn mọi điều với con cháu hay bình thản giã từ thân nhân thì thần thức sẽ thoát ra từ ngực 2)Nếu người sắp chết từ từ nhắm mắt lìa đời một cách êm ái nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ bình thường thì thần thức sẽ thoát ra từ trán hay ngực. 3)Nếu trái lại, cơ thể tím ngắt, xạm đen, xanh xám với tiếng rên rỉ, mặt nhăn nhó, quằn quại thân mình thì thần thức chắc chắn sẽ rời khỏi thể xác bằng ngả bàn chân. 4)Khi người sắp chết tỏ vẻ nuối tiếc, nét mặt khổ đau, kêu than đau đớn, kêu khát nước, đòi ăn, vật vã thì lúc đó thần thức đang chuyển xuống bụng hay đầu gối để tách rời khỏi thể xác.Vì thế khi rờ nhẹ trên người của người mới chết thì cũng có thể đoán biết thần thức của người chết sẽ đi về đâu: 1)Nếu người sắp chết mà toàn thân từ từ lạnh ngắt mà đôi mắt vẫn còn nóng thì thần thức sẽ thoát ra nơi đôi mắt và người đó sẽ thọ sanh về cõi Thánh hiền. 2)Nếu người chết mà toàn thân lạnh ngắt chỉ có đỉnh đầu còn nóng thì thần thức sẽ thoát ra ở đỉnh đầu và người nầy chắc chắn sẽ sanh về một trong những cỏi Trời để hưởng phước lạc. 3)Nếu người mới chết mà toàn thân lạnh ngắt nhưng ngực còn nóng thì thần thức sẽ thọ sanh vào làm người trở lại. Nên nhớ khi tái sinh thì nghiệp lực cùng với nhân duyên mới có thể sẽ đưa họ đầu thai vào những giống dân khác với giống dân trước khi họ chết. Thí dụ khi sống thì họ là người Tàu, nhưng lúc tái sinh lại trở thành người Ấn độ. 4)Nếu người chết khắp nơi đều lạnh ngắt mà bụng vẫn còn nóng thì thần thức sẽ sinh vào loài ngạ quỷ. 5)Nếu người mới chết toàn thân đều lạnh ngắt mà chỉ còn hai đầu gối là nóng thì chắc chắn thần thức sẽ sinh vào loài súc sanh. 6)Nếu người mới chết toàn thân lạnh ngắt mà hai bàn chân còn nóng thì thần thức sẽ bị đọa vào địa ngục. Theo Phật giáo thì tùy theo hơi ấm tụ ở nơi đâu mà có thể biết thần thức được chuyển vào cõi tốt lành thanh thoát hay cõi địa ngục tối tăm. Hơi ấm càng đưa xuống phần dưới cơ thể thì càng xấu. Nói chung hơi ấm mà tụ ở bàn chân, ở đầu gối, ở bụng là xấu. Ngược lại, hơi ấm tập trung ở trán và đầu của người sắp chết là tốt. Khi gặp trường hợp trán và đầu của người sắp chết lạnh trước tiên thì thân nhân hay người đang có mặt phải dùng hai bàn tay để chuyển động như cố ý dồn đẩy hơi ấm vào đầu và trán người sắp chết cho đến khi đầu và trán có chút hơi ấm thì thôi. Trong cuốn Liễu Sinh Thoát Tử của dịch giả Thích Quang Phú có đoạn như sau: Khi nghiệp thức rời bỏ thân nầy thì không phải đồng thời toàn thân đều lạnh. Có khi ở trên thân lạnh trước rồi dần dần lạnh xuống hay ngược lại. Như có bài kệ đã nói: Nghiệp lành, dưới lạnh trước. Còn nghiệp dữ thì trên lạnh trước. Tim còn lưu chút hơi ấm rất lâu, các chỗ khác hơi ấm dần dần hết. Ánh Đạo Vàng
-
Dưới đây là danh sách thỉnh nhận Thần Chú Giải Thoát.
-
Nha Khanh gửi giúp Cô
-
chuyện lạ về loài sen vua "cõng" người http://chuaphuclam.vn/index.php?/van-hoa/video-chuyen-la-ve-loai-sen-vua-cong-nguoi.html