-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Sách xuyên tạc Phật giáo được tôn vinh tại Văn Miếu! Theo thông tin của Báo Tiền Phong online – cơ quan của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, vừa qua, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội, đã “chính thức giới thiệu phương pháp Duy Tuệ” với các sách, video chứa những nội dung phỉ báng, xuyên tạc Phật giáo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam của tác giả Duy Tuệ. Theo đó, buổi giới thiệu đã có mặt của lãnh đạo Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, cùng một số nhân vật khác. Hơn nữa, buổi giới thiệu chính thức này lại diễn ra sau hàng loạt bài phân tích, phản ánh trên các phương tiện thông tin, báo chí Phật giáo. Điều đáng nói là những người chịu trách nhiệm cấp giấy phép xuất bản thuộc một cơ quan quản lý Nhà nước lại có những lời phát biểu không thể hiểu nổi khi nói về cuốn sách “Ta là ai” –chứa nhiều nội dung phỉ báng, xuyên tạc Phật giáo, xin trích dẫn lại: “Tôi thấy rất hạnh phúc vì nhà XBVHTT (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin - NKT) có cơ hội biên tập những tác phẩm của tác giả Duy Tuệ, đưa tới độc giả Việt nam những tác phẩm mang nặng tình yêu quê hương, đất nước, tình nghĩa với con người Việt nam” (!?) Một cuốn sách phỉ báng Phật giáo – tôn giáo đồng hành với dân tộc hơn hai ngàn năm qua, nói như Giáo sư Sử học Trần Văn Giàu: “Bình minh của lịch sử dân tộc ta đã gắn với Phật giáo” (1) lại được tôn vinh như thế, hơn nữa, ngay tại Văn Miếu Quốc Tử Giám giữa lòng thủ đô Hà Nội! Trong nhiều tháng qua, các trang thông tin, báo điện tử, Báo Giác Ngộ đã có nhiều phân tích, phản ánh về hiện tượng “Duy Tuệ” qua các sách, video được cấp giấy phép phát hành, được giới thiệu và “lăng-xê”, quảng bá trên các phương tiện truyền thông quốc gia như Đài Truyền hình VN, Đài Truyền hình Hà Nội… Một cá nhân công khai xuyên tạc, phỉ báng Phật giáo, xúc phạm Giáo hội, nhưng vẫn được các cơ quan chức trách quản lý Nhà nước về tư tưởng và văn hoá bảo hộ, được tổ chức họp báo, quảng bá bất chấp những phản ứng của Tăng Ni Phật tử ngay trên đất nước Việt Nam. Điều đó phải được hiểu sao đây? Nguyễn Khánh Tuệ Theo GNO
-
Về hiện tượng Duy Tuệ và "thiền minh triết": “Cái kim bọc trong giẻ lâu ngày cũng lòi ra” GN - Thêm góc nhìn cùng tìm hiểu cái gì đằng sau hiện tượng “Duy Tuệ và thiền minh triết”. Duy Tuệ cạo đầu, mặc y phục na ná với tu sĩ Phật giáo, cũng bàn luận về Phật học, tu thiền, đôi khi choàng cả “y hậu” màu đỏ làm chủ lễ... Với hình thức của ông ta, khiến không ít người nhầm lẫn cho rằng ông ta là Tăng sĩ Phật giáo, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhầm cho rằng “thiền minh triết” là thiền Phật giáo, “sách viết về lối sống” của ông ta là triết lý sống nhà Phật... như một số cơ quan truyền thông, đài truyền hình đã từng giới thiệu. Tiếp theo những bài viết trên Giác Ngộ Online (www.giacngo.vn), Câu chuyện trong tuần kỳ này giới thiệu bài viết của tác giả Thái Nam Thắng, góp thêm góc nhìn cùng tìm hiểu cái gì đằng sau hiện tượng “Duy Tuệ và thiền minh triết”. Bài liên quan: >> Cùng tìm hiểu cái gì đằng sau hiện tượng này; >> Công kích Phật giáo, để làm gì?>> Duy Tuệ: Mượn đạo lập đời >> Duy Tuệ: Từ biến thái đến bệnh thái “Đạo sư” Duy Tuệ cũng có một xuất phát điểm như “Vô thượng sư” Thanh Hải, đó là tiếp cận các nhà sư và tìm hiểu giáo lý đạo Phật, sau đó tuyên bố mình đã “chứng ngộ”, rồi nhanh chóng lập pháp môn, lập phái để truyền “đạo”. Tuy nhiên, “Vô thượng sư” Thanh Hải được xem là một dạng tà đạo biến tướng thì Duy Tuệ lại có một vỏ bọc kỹ hơn, an toàn hơn khi núp dưới danh xưng “Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam” do chính ông ta làm Chủ tịch Hội đồng sáng lập. Cả Thanh Hải và Duy Tuệ đều học lỏm các giáo lý của đạo Phật, mượn vào các nội dung, hình thức Phật giáo để phổ biến những thứ “pháp môn” đã được gia công nhào nặn. Duy Tuệ, một người thế tục, bỗng một hôm, cạo trọc đầu, mặc áo tràng tay thụng màu đỏ boọc-đô có viền đen, trông giống như các nhà sư, khiến cho mọi người hiểu lầm rằng nó thuộc về đạo Phật hay thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Điều đáng nói, ban đầu cả Duy Tuệ và Thanh Hải đều thuyết giảng khá hay về giáo lý Phật giáo, sau một thời gian chiếm được niềm tin của những người có cảm tình với Phật giáo, họ liền chuyển sang chống phá Phật giáo như xuyên tạc kinh điển, phủ nhận những giáo lý căn bản của đạo Phật, kêu gọi mọi người rời xa “Tam bảo” (Phật - Pháp - Tăng), không cần phải tìm đến chùa chiền hay lễ tụng, chỉ cần làm theo những điều họ “phát minh” ra là sẽ đạt đạo. Nhưng nếu chỉ xuyên tạc, chống phá Phật giáo thì mọi người sẽ nghi ngờ động cơ không trong sáng đó, nên họ mới lồng ghép những việc như kêu gọi bảo vệ môi trường, kêu gọi tình yêu thương; phong cho những người tu theo là “hiền giả minh triết”, “doanh nhân minh triết”; gọi những người trẻ là “niềm tự hào dân tộc”; lập các quỹ từ thiện…, rồi nhân đó “khai ngộ” bằng một mớ những giáo lý pha tạp, lẫn lộn giữa Phật tính và Tiên thiên, Thượng đế, đồng thời sử dụng các thuật ngữ Phật giáo, các hình thức như ngồi thiền, quán niệm, khai mở ánh sáng, minh triết… Duy Tuệ xuất hiện trong khoảng chục năm nay, tuy nhiên không có cách gì để chính danh hoạt động như một tổ chức gắn với danh nghĩa “Phật giáo Việt Nam”. Đúng lúc ấy, có một nhóm trí thức quan tâm và bàn đến “Minh triết Việt”, Duy Tuệ nhanh nhảu chớp thời cơ để lập ra cái gọi là “Thiền Minh triết”, để nhập nhằng với Thiền Minh Sát - một phương pháp thiền căn bản trong đạo Phật. Phật giáo chính thống ở các quốc gia dù có phát triển nhiều dòng thiền, nhiều pháp môn, nhưng vẫn phải dựa trên căn bản của quá trình tu học Giới, Định, Tuệ (Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, trong Giới có Định, Tuệ, trong Định có Giới, Tuệ, trong Tuệ có Giới, Định). Sự đại vọng ngữ khi tự xưng là “Đạo sư” của Duy Tuệ đã phản lại với những phương pháp tu tập Giới, Định, Tuệ. Đáng nói, do thiếu lương thiện ngay từ động cơ ban đầu, nên Duy Tuệ đã nhào nặn các phương pháp thiền của Phật giáo để lập ra cái gọi là “Thiền Minh triết”. Đến khi thấy mọi người quan tâm đến tư tưởng của Phật hoàng Trần Nhân Tông, Duy Tuệ cũng nhanh nhảu tiếp cận và mượn vào “Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam” để trao tặng tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông cho Trung tâm Phật giáo Quốc tế của Thái Lan nhằm tìm cho mình những mối quan hệ mang tính “quốc tế” (sic). Sau đó, Duy Tuệ dùng chính những ảnh hưởng này để tuyên truyền chống phá Phật giáo. Những giáo lý căn bản của Phật giáo như “Nhân quả”, “Nghiệp báo”, “Tứ đế”, “Bát Chánh đạo”… đều bị Duy Tuệ đem ra xuyên tạc. Duy Tuệ ra sức bác bỏ giáo lý “Bát Chánh đạo” (Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định) chỉ vì bản thân việc làm của Duy Tuệ không những không có “chính danh” mà còn không có bất kỳ chữ “chánh” nào như tám chữ “chánh” đã nêu. Duy Tuệ đang cố gắng lập nhóm để sinh hoạt, và rất có thể đây là sẽ một biến tướng khác giống như “đạo” của Thanh Hải trong một tương lai không xa. Một khi nó mọc chân rết và bám chắc ở Việt Nam dưới những vỏ bọc an toàn hơn là “Phật học Việt Nam”, “UNESCO”, “Trần Nhân Tông” gì gì đó mang dáng dấp của “Đạo học phương Đông”, Dân tộc, thì sẽ rất nguy hại cho đất nước, nhất là khi người dân không còn biết tin Nhân quả. Bài học về một “giáo sư Phật học”, “nhà sư chém gió” Thích Minh Tâm với tôn chỉ “Chấn hưng nước Việt” vẫn còn đó. Chỉ mất khoảng 6 tháng “tu tập”, Nguyễn Thiếu Văn đã “biến hóa” thành “Thượng tọa Tiến sĩ Thích Minh Tâm”, rồi lọt vào làm chủ tọa điều khiển trong một hội nghị quốc tế về Phật học tại Việt Nam. Xin hãy cảnh giác khi sử dụng lý trí và niềm tin của mình. Bởi bất cứ khi chọn lựa một điều gì, chúng ta cũng phải kiểm tra nó kỹ càng. Với một điều quan trọng như thực hành giáo lý đạo Phật, chúng ta càng phải xem xét cho cẩn thận, trước khi tìm đến một vị thầy. Xã hội đang tràn lan và gần như mất kiểm soát đối với những thứ giả giá trị, đặc biệt khi chúng biết làm giả như thật, từ đó chống phá các tôn giáo chân chính để trục lợi cho riêng mình. Duy Tuệ cũng chỉ là một dạng trùng biến hình, nhưng chúng ta không thể không nói đến những người quản lý vô trách nhiệm, tiếp tay cho ông ta để làm hại đến thanh danh của Phật pháp. Điều này còn nguy hiểm hơn là phê phán một Giáo hội, vì ra sức xuyên tạc Phật giáo từ bên trong những giáo lý căn bản như Nhân quả, Nghiệp báo, Bát chánh, Tứ đế… thì sẽ gây ra những hệ quả tiêu cực đến đời sống con người, nhất là khi chủ nghĩa thực dụng, tôn sùng vật chất lên ngôi. Nếu đây là một âm mưu trá hình, chống phá Phật giáo bằng các phương tiện thông tin chính thống như đài phát thanh, đài truyền hình quốc gia, nhà xuất bản uy tín thì sẽ vô cùng nguy nan cho Phật giáo Việt Nam. Những phát biểu xuyên tạc của Duy Tuệ xúc phạm nghiêm trọng Phật pháp, tạo ra những vết thương tinh thần khó lành cho những người tìm đến giáo lý đích thực, lừa gạt những người sơ cơ đang có cảm tình tìm đến với đạo Phật. Để mọi người không tiếp tục bị lừa gạt, mong Giáo hội Phật giáo Việt Nam có tiếng nói trước dư luận về hiện tượng này. Ông Duy Tuệ tự xưng là “đạo sư” trái với tinh thần của đạo Phật, dùng tà thuyết để phỉ báng giáo lý đạo Phật. Nhưng với hình thức của ông ta, khiến không ít người nhầm lẫn với Phật giáo, với Tăng sĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngoại trừ những Tăng Ni, Phật tử nằm trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, khi chưa được phép, không ai có quyền nhân danh các tổ chức núp dưới danh xưng “Phật giáo Việt Nam” hay “Phật học Việt Nam” để hoạt động. Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam, không phù hợp để tồn tại một khi nó xuất hiện để nhằm mục đích đánh phá Phật giáo. Đặc biệt, Giáo hội không thể tiếp tục để những con người hủy báng Chánh pháp như vậy được phép tiếp cận hình ảnh Phật hoàng Trần Nhân Tông, một đấng anh minh của dân tộc, sau khi rời bỏ ngôi vua, xuất gia và đi khắp hang cùng ngõ hẻm để khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, xiển dương Chánh pháp. Các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, xuất bản, truyền thanh, truyền hình cần phải rõ ràng và minh bạch về vấn đề này. Bởi nếu thuyết giảng, truyền bá những nội dung trái với đạo Phật, công khai đánh phá Phật giáo, thì phải chăng Duy Tuệ đang muốn xây dựng một tổ chức “Giáo hội” trá hình? Thật ngược ngạo, khi ông Duy Tuệ hủy báng Chánh pháp và không có liên hệ gì với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhưng tại sao có thể đại diện liên lạc với các tổ chức Phật giáo quốc tế để trao tặng những biểu tượng của Phật giáo Việt Nam? Các nhà xuất bản cho in những sách chống phá Phật giáo của “đạo sư” Duy Tuệ không biết có ý định gì? Điều đáng nói, việc quản lý các ấn phẩm Phật giáo không nằm trong tay Giáo hội, mà ở những người không có đủ kiến thức chuyên môn về Phật giáo, nên những sách chống phá Phật giáo một cách công khai của Duy Tuệ mới lọt ra thị trường. Ngạc nhiên hơn, Duy Tuệ còn có cả một chương trình phổ biến “Thiền Minh triết” trên sóng phát thanh quốc gia. Cá nhân ông Duy Tuệ có thể tự do giảng đạo, truyền bá một pháp môn gọi là “Thiền Minh triết”, vậy ông ta thuộc tổ chức Giáo hội nào, ai cho phép thành lập? Phải chăng ai cũng có quyền tự lập hội, lập giáo phái, lập pháp môn và tự do truyền giảng dưới danh nghĩa tôn giáo khi chính thức được một số cơ quan thông tin uy tín “lobby” cho? Rõ ràng điều này hoàn toàn trái với Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo của Chính phủ.Người Việt có câu “Cái kim bọc trong giẻ lâu ngày cũng lòi ra”. Giá trị giả mãi mãi vẫn chỉ là giá trị giả. Quả báo nhãn tiền mà “Vô thượng sư” Thanh Hải đã gặp phải càng củng cố cho mọi người thấy một hoạt cảnh tương tự sẽ diễn ra cho “đạo sư” Duy Tuệ. Mọi người vẫn hy vọng đó chỉ là một mánh khóe để trục lợi cá nhân của Duy Tuệ, không phải là chủ trương từ những người có trách nhiệm trong quản lý tôn giáo. Thái Nam Thắng
-
Sách xuyên tạc Phật giáo được tôn vinh tại Văn Miếu! Sách phỉ báng Phật giáo lại được tôn vinh tại Hà Nội, điều này phải hiểu sao đây? Theo thông tin của Báo Tiền Phong online – cơ quan của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, vừa qua, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội, đã “chính thức giới thiệu phương pháp Duy Tuệ” với các sách, video chứa những nội dung phỉ báng, xuyên tạc Phật giáo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam của tác giả Duy Tuệ. Theo đó, buổi giới thiệu đã có mặt của lãnh đạo Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, cùng một số nhân vật khác. Hơn nữa, buổi giới thiệu chính thức này lại diễn ra sau hàng loạt bài phân tích, phản ánh trên các phương tiện thông tin, báo chí Phật giáo. Điều đáng nói là những người chịu trách nhiệm cấp giấy phép xuất bản thuộc một cơ quan quản lý Nhà nước lại có những lời phát biểu không thể hiểu nổi khi nói về cuốn sách “Ta là ai” –chứa nhiều nội dung phỉ báng, xuyên tạc Phật giáo, xin trích dẫn lại: “Tôi thấy rất hạnh phúc vì nhà XBVHTT (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin - NKT) có cơ hội biên tập những tác phẩm của tác giả Duy Tuệ, đưa tới độc giả Việt nam những tác phẩm mang nặng tình yêu quê hương, đất nước, tình nghĩa với con người Việt nam” (!?) Một cuốn sách phỉ báng Phật giáo – tôn giáo đồng hành với dân tộc hơn hai ngàn năm qua, nói như Giáo sư Sử học Trần Văn Giàu: “Bình minh của lịch sử dân tộc ta đã gắn với Phật giáo” (1) lại được tôn vinh như thế, hơn nữa, ngay tại Văn Miếu Quốc Tử Giám giữa lòng thủ đô Hà Nội! Trong nhiều tháng qua, các trang thông tin, báo điện tử, Báo Giác Ngộ đã có nhiều phân tích, phản ánh về hiện tượng “Duy Tuệ” qua các sách, video được cấp giấy phép phát hành, được giới thiệu và “lăng-xê”, quảng bá trên các phương tiện truyền thông quốc gia như Đài Truyền hình VN, Đài Truyền hình Hà Nội… Một cá nhân công khai xuyên tạc, phỉ báng Phật giáo, xúc phạm Giáo hội, nhưng vẫn được các cơ quan chức trách quản lý Nhà nước về tư tưởng và văn hoá bảo hộ, được tổ chức họp báo, quảng bá bất chấp những phản ứng của Tăng Ni Phật tử ngay trên đất nước Việt Nam. Điều đó phải được hiểu sao đây? Nguyễn Khánh Tuệ Theo GNO
-
Thông thường Cô luôn thực hiện theo chỉ định của cá nhân người tặng, nhưng trong trường hợp này Cô xin ý kiến dinhlenhhoang có thể chuyển đến 1 địa chỉ khác thiết thực và thiếu thốn hơn được ko? Bởi lẽ khi đi thực tế cô hiểu rõ hơn ai hết nơi nào đầy nơi nào vơi! Ở TT bảo trợ trẻ em Gò Vấp của nhà nước nên thường được các tổ chức Phi chánh phủ đến thăm và trao tặng. Tuy nhiên đây cũng chỉ là "xin ý kiến" nếu dlh có mục đích hay nguyện vọng riêng Cô vẫn làm nhiệm vụ chuyển trao như đã làm.
-
Cô sẽ gởi đến duongvuson vào ngày mai!
-
@Vâng các bạn sẽ nhận được sự vi diệu từ sự tín tâm của chính mình[twitter][/twitter]
-
Ăn Chay Có Phạm Tội Sát Sinh Không & Cỏ Cây Có Linh Hồn Không? Lời Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen: Hiện nay vẫn còn có một số người tin rằng những người ăn chay vẫn phạm vào giới sát và họ còn cho rằng cây cỏ cũng có linh hồn nên (họ cho rằng) việc không ăn chay của họ là hoàn toàn hợp lý.Chúng tôi tôn trọng ý kiến của họ và cũng xin giới thiệu bài viết dưới đây của tác giả Tâm Diệu. Bài viết, tuy có tính cách giải trình hai vấn đề nhưng không có ý thuyết phục những người đang ăn mặn chuyển đổi qua chế độ ăn chay vì đó là điều không cần thiết nữa. Bây giờ ai cũng rõ ăn chay có nhiều lợi ích hơn ăn mặn, nhất là trong bối cảnh công nghiệp chăn nuôi gia súc với nhiều hoá chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và nguy hiểm đến con người. (Xem báo chí nói về cơn sốt hoá chất tạo thêm thịt nạc, gia tăng trọng lượng). Phần 1- Trước hết cần định nghĩa rõ ràng ăn chay là gì và sát sinh là gì? Ăn chay, theo các nhà dinh dưỡng học định nghĩa là một chế độ dinh dưỡng mà thực phẩm được lấy từ các nguồn thực vật bao gồm rau đậu qủa củ và ngũ cốc; còn sát sinh là giết hại sự sống hay nói một cách khác, sát sinh là hành động của một con người làm đoạn sự sống của một chúng sanh khác. Trong nhà Phật chúng sinh được phân chia làm hai loại: (1) chúng sinh hữu tình là các loài có tình thức, có hệ thần kinh, biết cử động, biết đi, biết bò, biết bay, biết lội, nói chung là tất cả động vật có sinh mạng, bao gồm cả con người, (2) chúng sinh vô tình là những sinh vật không nằm trong các loài chúng sinh hữu tình như đất đá, cỏ cây. Cỏ, cây là sinh vật sống nhưng không được xếp vào hàng chúng sinh hữu tình vì chúng không có giác quan, không có hệ thần kinh, không có biểu hiện của ngũ ấm, không có cảm xúc, tư tưởng, hành nghiệp...Vì thế, nếu ăn các loài chúng sinh hữu tình được gọi là ăn mặn (xuất xứ từ chữ “mạng” sống) và nếu ăn các loài chúng sinh vô tình được gọi là ăn chay. Sát sinh là đoạn diệt sự sống của chúng sinh. Chúng sinh ở đây bao gồm cả hai loại như đã nói trên và theo như kinh Phật thì mọi chúng sinh đều bình đẳng, như vậy không phải chỉ có những người giết mổ thịt hoặc đánh cá mới là phạm giới sát sinh mà những người giết hại cây cỏ hoa mầu cũng vậy.... Điều này không sai, nhưng cỏ cây là sinh thể sơ đẳng nhất, không có hệ thần kinh và có cấp độ tiến hoá thấp hơn rất nhiều so với động vật, khi bị cắt chúng không có cảm giác đau, có chảy mủ nhưng sau đó lại lành và tiếp tục nảy nhánh mới, hoàn toàn không sinh khởi phản ứng của tâm thức chống trả hay oán thù; còn động vật khi đau đớn biết rên la, khi sợ hãi biết chạy trốn, khi bị giết có những sinh khởi phản ứng của tâm thức, oán thù với đối tượng giết chúng. Một động vật, khi bị giết chết là chấm dứt sinh mạng, không nảy mầm hay nảy cành non như loài thảo mộc. Loài thảo mộc có nhị đực và nhị cái ở trên cùng một cái hoa hay trên cùng một thân cây, nhờ ong bướm hay gió thổi mà nhị đực rơi vào nhị cái, kết thành trái và hột để di truyền giống. Loài động vật thì con đực và con cái là hai thân thể, hai sinh mạng khác nhau, chúng có tình thức và lòng dục nên tìm đến nhau luyến ái và giao phối, để truyền giống. Đạo lý cơ bản của người Phật tử là 5 giới cấm, trong đó có dạy là không sát sinh. Đối với cỏ cây cũng là chúng sinh, nhưng là chúng sinh vô tình, khác với con người và các loài động vật khác (chúng sinh vô tình). Người Phật tử tu, cái chính là không sát hại các loài hữu tình, còn nếu ở cấp độ tu chứng cao hơn thì không sát hại cả các loài vô tình. Tuy nhiên, mục đích chính của việc không sát sinh là để gieo trồng hạt giống từ bi và phát triển tâm từ bi đến với muôn loài chúng sinh từ gần đến xa, từ lớn đến nhỏ. Tưởng cũng nên bàn thêm ở đây, chúng ta đang sống trong thế giới nhị nguyên “tương đối”, luôn có sự phân biệt đối đãi, tốt và xấu, sướng và khổ.. Ở thế giới tương đối này, chắc chắn mọi người đều cho rằng mạng sống của nhà bác học Einstein quý giá hơn mạng sống của một con chuột rất nhiều... Tương tự, việc giết một con bò phải được xem là một hành động sát sanh lớn hơn việc cắt một cành hoa hay ngọn cỏ vì con bò có hệ thần kinh, biết cảm giác đau đớn. Nhờ sống trong thế giới tương đối này, chúng ta mới biết con người có giá trị vô cùng về sự hiểu biết, trí thông minh và có tâm phân biệt mà các loài động vật khác không có. Cũng vì thế mà chúng ta mới không tin tưởng rằng mọi vật đều phải được nuôi sống bằng sinh mệnh của một loài nào đó. Ngược lại với thế giới “tương đối” mà chúng ta đương sống là thế giới “tuyệt đối”, nơi đó hoàn toàn bình đẳng, không có sự phân biệt giữa thấp và cao, giữa tốt và xấu hay giữa hữu tình và vô tình chúng sinh. Ở đó, chúng ta không còn quan niệm hay ý tưởng cho rằng việc giết đi sinh mạng của một con bò là ác hơn việc cắt đi một nhánh hoa. Đây là thế giới của những người đã có trình độ tu chứng, đã tiến hoá cao. Cũng như chuyện Tuệ Trung Thượng sĩ ăn mặn, không ăn chay, vì ngài là người đã giác ngộ, tâm không còn phân biệt, không còn vướng mắc, chấp trước vào chuyện ăn uống. Ăn chay hay ăn mặn đối với ngài chỉ là để nuôi thân và hành đạo. Nói về sát sinh, còn một khía cạnh khác, đó là còn tùy thuộc vào tâm ý của chúng ta vào giây phút chúng ta lấy đi sinh mạng của sinh vật khác. Chính sát na đó quyết định rằng hành động đó có phải là phạm giới sát hay phạm đến một sự sai lầm về đạo đức không. Trong giới không sát sanh của người xuất gia, Đức Phật có đề cập đến các vi sinh vật, nhưng nếu có phạm đến chúng thì chỉ là tội nhẹ chứ không phải là trọng tội. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một Tỳ kheo đi qua một cánh đồng khô, trời nóng khát nước, gặp vũng nước thấy có nhiều vi sinh vật nên không dám uống. Tỳ kheo ấy đến bạch với Đức Phật: Bạch Thế Tôn, con rất khát nước, con dùng thiên nhãn thấy vũng nước bên đường có vô số vi trùng nên không uống được. Phật bảo: Sao ông không dùng nhục nhãn (mắt thường) mà nhìn? Câu chuyện cho thấy “tác ý” trong hành động mới là điều quan trọng. Nếu nhìn trong nước bằng con mắt thường sẽ không thấy những vi sinh vật và cứ tự nhiên uống thì sẽ không tạo nghiệp vì không tác ý. Tương tự, khi uống thuốc trụ sinh diệt vi trùng hay vi khuẩn trong cơ thể để trị bệnh cũng thế. Phần 2 Bàn về cỏ cây cũng có linh hồn thần thức thì có một số ít người nói kinh Phật dạy rằng “mười phương cây cỏ cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại làm cỏ cây.” Và họ còn viện dẫn nghiên cứu khoa học cho biết cây cỏ cũng có linh hồn tình thức (*). Điều này không đúng vì như phần thứ nhất chúng tôi đã trình bày, cỏ cây là sinh vật sống nhưng không được (Phật Giáo) xếp vào hàng chúng sinh hữu tình vì chúng không có giác quan, không có hệ thần kinh, không có biểu hiện của ngũ ấm, không có cảm xúc, tư tưởng, hành nghiệp. Trong kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy rằng: "Người tu thiền định, khi hành ấm hết, tướng sanh diệt đã diệt, chơn tâm tịch diệt chưa hiện bày, lúc bấy giờ thấy thức ấm biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp: "Mười phương cây cỏ cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại làm cỏ cây". Vì mê mờ tánh Bồ Đề, mất chánh kiến, nên sẽ làm bè bạn với hai chúng ngoại đạo Bà Tra và Tán Ni, chấp tất cả vạn vật đều có tri giác (biết)." (Phật Học Phổ Thông Khóa thứ 6-7, Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm, Hòa Thương Thiện Hoa, Phật Học Viện Quốc Tế tái xuất bản năm 1987, Bài thứ 16: Mười Món Ma Về Thức Ấm, phân đoạn 4, chấp cỏ cây cũng đều biết, trang 252). Bản dịch Kinh Lăng Nghiêm do Hòa Thượng Thích duy Lực dịch như sau: "Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi sở tri, kiến lập tri giải, cho các loài cây cỏ mười phương đều gọi là hữu tình, với người chẳng khác ; cây cỏ làm người, người chết rồi lại thành cây cỏ, cho đến loài vô tình đều có sự giác tri, hữu tình vô tình chẳng có phân biệt, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "Tri vô tri", làm bạn với hai thứ ngoại đạo Bà Tra và Tiện Ni, chấp tất cả đều có sự giác tri, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm viên tri, thành cái quả hư vọng, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống Điên Đảo Tri thứ tư." (Kinh Lăng Nghiêm, Từ ân Thiền đường xuất bản tại Hoa Kỳ, trang 253). Ngoài ra, bản dịch của cụ Tâm Minh Lê Đình Thám cũng tương tự. Như thế, trên đây đã trả lời rõ ràng về cây cỏ, cũng đồng thời trả lời luôn về một câu hát của nhạc sĩ họ Trịnh được một vị thầy lập lại nhiều lần "làm sao em biết bia đá không đau?". Bia đá không biết đau vì chúng là vô tình chúng sinh, là vô tri giác. (*) Ingo Swann, môt nhà Sinh Thực Vật (Biologist ) viết trong quyển The Real Story-Chuyện Có Thật, Quyển sách được xuất bản ngày 15-11-1998, trong đó có đoạn: “Sự nghiên cứu của Backster khởi đầu chỉ là môt khám phá hầu như tình cờ vào năm 1996 là thực vật có khả năng tri giác và đáp ứng tự nhiên những cảm xúc của con người... Những cây cỏ của bạn, biết là bạn đang nghĩ gì.” (His reseach started with the 1996 almost accidental rediscovery, plants are sentient and respond to the spontaneous emotions of relevant humans... Your plants know what you are thinking ). (Nguồn: Thư Viện Hoa Sen, http://www.thuvienhoasen.org)
-
Các bạn nghĩ xem! khi có băn khoăn trong đầu thì trông mong lắm! kiến thức thì mênh mông có lẽ cũng tin vào PTLV mới vào trang này chứ mà lơ tơ mơ thì ba quyển sách lề đường họ cũng mua về ngâm cứu được! nhưng họ tha thiết thế thì ACE cứ vào xem giúp được gì? ít ra cũng chứng minh chúng ta ko phân biệt gia chủ chứ lị!
-
Giảng Viên Thẫm Mỹ Lâm Hà sẽ hổ trợ đoàn chúng ta 1 chương trình Tắm Bùn chăm sóc Da hoàn toàn "free" cho ACE trong đoàn Từ Thiện.
-
Tí Sửu Dần Thìn ... Tuất Dậu. Ặc ặc! Hôm nay ngày Dậu. Thảo nào mà mình phải ngồi trên đĩa này!
-
Cà phê nông dân: Những nhận xét thú vị! Có nhiều câu chuyện Thiền nho nhỏ, nhưng đã đúc kết cả một quá trình kinh nghiệm và nghiền ngẫm dài lâu, để sáng ra những bài học chân lý thẳm sâu. Ví như mấy câu chuyện Thiền đơn giản sau đây đã nở hoa những lắng đọng ấy. 1. “Sau khi Thiền sư Bankei qua đời, có một người mù thường sống cạnh thiền viện kể rằng: Bởi tôi mù nên không thể nào nhìn thấy rõ mặt ai, vì thế tôi đoán được tâm tánh của mỗi người qua tiếng nói. Thông thường khi tôi nghe ai khen ngợi kẻ khác hạnh phúc hay thành công, tôi còn nghe được cả cái giọng thầm kín của ganh tị. Khi nghe lời chia buồn kẻ khác gặp điều bất hạnh, tôi nghe có giọng khóai trá thỏa mãn, rõ là kẻ nói lời chia buồn mà lòng thì sung sướng vì có những món kẻ kia bỏ lại để cho mình chiếm đoạt. Chỉ riêng giọng nói của Thiền sư Bankei là luôn luôn thành thực. Khi ngài nói lời vui vẻ, tôi chỉ nghe độc có giọng vui vẻ. Khi ngài tỏ lòng buồn rầu, tôi chỉ nghe độc một giọng buôn rầu”. (Một trăm lẻ một câu chuyện Thiền - Trần Trúc Lâm dịch). Nghe lời kể của người mù, chúng ta bỗng kính trọng Thiền sư Bankei vô cùng. Một kính trọng tự phát rất mạnh mẽ. Khi ngài nói lời vui, ngài nói lời buồn đều chân thật. Ngài là một bậc nhân đức lớn vì tâm của ngài trong sáng vô cùng. Trong khi thông thường những người khác thì không như thế vì tâm họ không trong sáng. Họ giả trá và che đậy rất giỏi nhưng người mù này vẫn phát hiện ra khi nghe giọng nói của họ không phù hợp với lời họ nói. Đây là nhận xét của một người mù nhưng chắc gì những người sáng mắt đã bằng. Tâm tính con người len lỏi thấm vào trong lời nói, nên đã biến đổi giọng nói một cách tinh vi. Và người mù đã nhận ra. 2. “Mỗi thiền sinh phải sống cạnh thầy ít ra cũng phải 10 năm trước khi thu dạy kẻ khác. Tenno, vừa trải qua thời kỳ học tập và nay trở thành thiền sư, đã đến thăm Nan-in. Hôm ấy trời mưa, nên Tenno mang guốc và cặp một cái dù. Sau khi Tenno chào hỏi, Nan-in lên tiếng: Có lẽ ông đã để guốc trước tiền đường. Ta muốn biết chiếc dù của ông nằm bên phải hay bên trái của đôi guốc". Tenno bối rối không đáp lại ngay được. Ông ta hiểu ra rằng mình chưa sống thiền trong từng phút. Ông ta trở thành đồ đệ của Nan-in, và học trong 6 năm nữa để đạt đến mức thiền trong từng phút. (Một trăm lẻ một câu chuyện Thiền - Trần Trúc Lâm dịch)”. Khi đọc kỹ câu chuyện Thiền học này, tôi ngẫm nghĩ rất lâu. Tôi có cảm giác dường như có một ánh sáng Thiền dịu dàng rất gần nhưng không bao giờ biết. Lập tức tôi nhớ lại đứa cháu nội lên 10, đã nói với tôi khi trên đường đi chơi trở về: “Ông nội ơi, người ta đã bán chiếc xe ô tô màu đỏ rồi”. Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng hóa ra là thế này. Trên đường ông cháu đi chơi, có ngang qua một sa-lông bán ô tô. Và khi trên đường về, sa-lông bán ô tô ấy đã mất đi một chiếc. Lúc ấy tôi hỏi tại sao cháu biết một chiếc bị bán. Nó trả lời: “Hồi sáng có 7 chiếc, chiếc màu đỏ nằm ngoài cùng, bên cạnh chiếc màu trắng. Giờ chỉ còn 6 chiếc, màu đỏ không có”. Thằng cháu nhỏ thật tuyệt vời thật, trong khi tôi chẳng biết gì cả về cái sa-lông bán ô tô ấy, nói chi đến chiếc ô tô màu đỏ! Phải chăng thằng cháu bé bỏng đã sống Thiền trong từng phút mà nó không biết. Còn tôi thì có biết về Thiền nhưng chưa bao giờ sống được Thiền. Ngô Phan Lưu (TT&VH)
-
Một bộ phim trác tuyệt và lắng đọng! http://www.phatam.com/video/index.html
-
Hình ảnh đẹp, bố cục tròn trịa, diễn viên thể hiện thật xuất sắc !
-
Cô sẽ gởi tặng Tam Tu Tai 200 bản Thần Chú Giải Thoát và 1 bản lớn, chuyển cúng dường Thầy Thích Tuệ Hạnh , Tu Viện Từ Bi , Xã Túc Trưng , Huyện Định Quán , Tỉnh Đồng Nai , Việt Nam.
-
Được biết Thầy còn có mở lớp truyền dạy khí công tại Tp HCM nhằm phòng và tự chữa bệnh cho mình và người thân nữa đó!
-
Có một câu chuyện ngụ ngôn khiến người ta phải suy gẫm: Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa. Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo: - Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự! Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu: - Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được . Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ? Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi: - Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả. Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở: - Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế. Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói: Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn dình dập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt, nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả. Bày cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình: - Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt. Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột: -Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này. Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng,nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gỗ. Tiếng ông chủ gào lên: -Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở! Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng: Hóa ra sống ở trên đời đâu có ai không khổ! Trong chúng ta, mỗi người có một hoàn cảnh, xuất thân, có một hoàn cảnh sống, có thể là vui, có thể là khổ, nhìn chung là như thế, song nếu xét cho kỹ thì không ai hoàn toàn hạnh phúc, chỉ khác nhau là ít, nhiều những nỗi vui, khổ mà thôi. Khổ và vui đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta, không một ai thoát cả. Người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, dù trong hoàn cảnh nào cũng có những điều không như ý, cũng có những nỗi khổ thân, khổ tâm, hoặc cả thân tâm đều khổ. Có ai không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, hy vọng điều gì ? Có ai chưa bao giờ buồn phiền, thất vọng, hay bất mãn, chán nản? Có ai hoàn toàn khỏe khoắn, thoải mái cả về thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai !
-
Cô sẽ gởi đến con vào ngày mai, chỉ cần khi nhận được con hồi đáp công đức sẽ tăng trưởng.
-
Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của Sunnyday81 ủng hộ Quỹ Từ Thiện, Thay mặt những mãnh đời cần cứu giúp cám ơn sự đóng góp thầm lặng bền bĩ của bạn, chúc bạn mỗi ngày nhận được niềm tin yêu qua hành vi nhân ái. Quỹ hiện có: 7,709,000 đ + 500,000 đ = 8,209,000 đ (tám triệu hai trăm lẽ chín ngàn đồng)
-
KHÔNG ÂN HẬN Ân hận nói đây, là những ý nghĩ hối tiếc cho việc làm của mình. Như người làm việc mà không biết theo dõi suy tính thận trọng để rồi ân hận hối tiếc : Vì lẽ ra mình phải làm như vậy, hoặc không nên làm như vậy. “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Tại sao Bồ-tát và chúng sinh có suy nghĩ khác nhau như vậy? Vì ngay từ lúc đầu Bồ-tát biết thận trọng, chẳng tùy tiện tạo nhân, còn chúng sinh thì làm ác, tạo nhân ác mà không biết sợ, nên khi gặp quả báo xấu với muôn ngàn thống khổ, lúc ấy hối hận thì không còn kịp nữa. Trong cuộc đời, chúng ta có mười việc ân hận: 1. Gặp thầy mà không chịu học. 2. Gặp người hiền mà không kết bạn. 3. Họ hàng có chuyện tang ma mà không tham dự. 4. Đối với chủ lại không trung thành. 5. Thấy việc nghĩa mà không chịu làm. 6. Gặp việc nguy hiểm mà không cứu giúp. 7. Có tiền của mà không bố thí. 8. Yêu quê hương mà không trung thành. 9. Không tin tưởng việc nhân quả báo ứng. 10. Không chịu tu tập để hoàn thiện bản thân.Người xuất gia trong mọi việc đều phải cẩn trọng, và nhất là không để tâm ân hận thường xuyên xảy ra. Vì sao? Vì mỗi niệm đều phải chân chánh, mỗi niệm đều là Phật. Đối với mọi người, yếu tố quan trọng là đạo nghĩa. Đối với công việc phải có trách nhiệm và tận tụy. Dưới đây xin lược nói qua: 1. Khi đã nói thì không ân hận Mọi người đều có ngôn ngữ, nhưng hiểu biết được diệu dụng chân thật của nó thì không nhiều. Trong Luận Ngữ có nói: “Một lời nói có thể làm cho đất nước hưng thịnh, một lời nói có thể làm cho đất nước suy vong”. Ở đây cho thấy việc lợi, việc hại trong cách sử dụng ngôn ngữ. Có người dùng ngôn ngữ đưa đến thành công, một lời nói ra đều là thiện lành, đều là ái ngữ, ngọt ngào, khiến cho mọi người ưa thích muốn nghe, hợp với chân lý đạo đức. Nhưng cũng có người vì lời nói mà tạo ra bao lỗi lầm, khôn khéo nhưng đầy ác độc, làm cho người nghe mất niềm tin. Cho nên: Thử phương chân giáo thể, Thanh tịnh tại âm văn. Dịch:Phương này dạy chân thật, Làm thanh tịnh người nghe. Trong mười giới có : Không vọng ngữ, không ác khẩu, không lưỡng thiệt, không ỷ ngữ. Nếu như quý vị đã phạm bất kỳ một giới nào, thì không còn được mọi người tín nhiệm, không những nó phá hỏng sự nghiệp tu hành, mà còn làm cho chúng ta bị rơi vào địa ngục. Đức Phật đã từng dạy: “Người vọng ngữ, như bị gươm giáo vây phủ, mãi mãi không còn thân cận được với pháp lành thanh tịnh”. Vì thế, chúng ta phải thận trọng lời nói của mình, có như vậy mới mong tránh được sự ân hận về sau.Có một số người thấy chuyện đã xảy ra rồi mới chịu nói: “Ta chớ nên nói, chớ nên tố cáo ông ấy”. Đã không nên tố cáo thì còn nói làm gì? Ông bà ta thường nói: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Chỉ nên nói lời chính đáng, chân thật, thích hợp, không dối, không nói khác. Người xuất gia phải cẩn trọng, không nên để ân hận từ lời nói cho đến việc làm của mình. Tôi cũng thường hay nói: “Tôi suốt đời thuận theo bận rộn”, hy vọng quý vị phải có trách nhiệm với lời nói của mình. 2. Khi phát tâm thì không ân hận Có rất nhiều cách phát tâm, thí dụ nói: Phát tâm xuất gia, phát tâm làm việc, phát tâm tu hành, phát tâm đọc sách, phát tâm hoằng pháp… Nếu như vì một sự hứng khởi hay vì trông cậy vào một việc gì đó mà phát tâm đối đãi, thì việc làm này không thể lâu dài, và cũng không mang lại kết quả tốt đẹp cho người phát tâm.Khi phát tâm rộng lớn cao tột vượt trên đối đãi, tâm nguyện này có thể lâu dài. Như người phát tâm xuất gia rồi, ban đầu tâm rất mạnh mẽ, về sau lại biếng trễ, không chịu tu hành nên khi gặp phiền não, đau khổ, tai nạn, không biết làm sao để hóa giải, lúc ấy mới ân hận thì đã muộn. Hiềm nghi khi phát tâm làm việc, cũng là một cái khổ. Hiềm nghi như thế nào thì khổ như thế ấy. Trách móc người khác vì không khen thưởng, không khích lệ, không có một lời ca ngợi mình, như vậy phát tâm mà cũng còn ân hận. Khi phát tâm hoằng pháp, lại sợ việc nhiều, gặp khó khăn, khổ sở, buồn phiền vì Phật tử không cung kính, đây không phải là sự phát tâm chân thật.Khi đã phát tâm, thì không sợ việc nhiều, sẵn sàng hy sinh, gánh vác những khó khăn gian khổ, mình làm tốt mà không được khen thưởng, điều đó không quan trọng, tất cả việc gì cũng có nhân quả, mình làm thiện Phật Tổ sẽ chứng minh. Tóm lại, với những việc phát tâm như vậy không làm cho chúng ta ân hận. 3. Khi kết bạn thì không ân hận Bạn tốt phải là người có đạo nghĩa. Trong Luận Ngữ nói: “Người quân tử dùng văn chương làm bạn, nhờ bạn để hoàn thiện nhân cách”. Nói bạn tốt là nói đến người biết giúp đỡ và ảnh hưởng tốt cho ta trong việc học tập, văn hóa, đạo đức. Đức Khổng Tử đã nói về đạo lý bằng hữu: “Chân thành khuyên bảo và thân thiện”, đây là nói đến bạn bè khi có lầm lỗi, ta nên thật lòng dẫn dắt và khuyên bảo. Phật dạy có bốn loại bằng hữu:- Tình bạn như hoa. - Tình bạn như cái cân. - Tình bạn như núi. - Tình bạn như đất. 1. Tình bạn như hoa:Là khi anh giàu có, bạn ấy luôn đặt anh trên đầu, nhưng khi anh nghèo khó, bạn ấy quẳng anh xuống đất. 2. Tình bạn như cái cân:Là khi anh đương thời thịnh vượng, bạn khuất phục cúi đầu. Khi anh thất thế, bạn ngoảnh mặt làm ngơ. Đây là hai loai bạn không nên kết thân. 3. Tình bạn cao đẹp chân chính giống như núi lớn:Vì núi lớn dung được tất cả, chim muông thường tụ tập. 4. Tình bạn như đất:Đất có trong tất cả vạn vật.Như tôi giảng ở phần trước, là người xuất gia lấy đạo hạnh làm bằng hữu, lấy pháp thiện kết bạn bè. Anh có Phật pháp, tôi cùng anh giao du qua lại. Anh có đạo lý, tôi nương vào anh để học tập. Anh có tu học, tôi tự nguyện phục vụ, cống hiến sức lực để hỗ trợ anh, đồng cam cộng khổ với anh.Thời Xuân Thu Chiến Quốc có Quản Trọng và Bảo Thúc Nha, có thể nói là đôi bạn lành tri kỷ, họ lúc nào cũng hết lòng hỗ trợ lẫn nhau. Ngài Cưu Ma La Thập và ngài Huệ Viễn tuy chưa một lần gặp mặt, nhưng vì sự phát triển của Phật pháp mà dùng nhịp cầu thư tín qua lại để giúp đỡ lẫn nhau. Nếu như mọi người có sự tu hành chân chính, việc này có thể là tiền đề đưa đến sự giao hảo, không bị lợi dưỡng cám dỗ, cũng không vì những khó khăn trắc trở mà thối lui, nên không có gì phải ân hận. 4. Khi đã cho thì không ân hận Trong Phật pháp bố thí có nhiều cách như: Tâm thí, ruộng thí, pháp thí… Việc làm này chẳng đồng, công đức cũng có phần khác biệt. Phải như thế nào để công đức được trọn vẹn? Điều quan trọng nhất là không có lòng hối hận. Khi tôi bố thí là tôi hạnh phúc. Tôi bố thí pháp, bố thí vô úy từ sự tình nguyện, dù gian khổ hay khó khăn đến đâu cũng không sợ, không hối hận. Có người bố thí rồi lại hối hận, bởi vì người nhận không có sự báo đáp, không có lời tán dương, khen ngợi, coi thường tặng phẩm, hoặc còn mỉa mai chế nhạo, oán trách, gặp phải cảnh ngộ này, lòng hối tiếc sẽ phát sinh. Trên tinh thần nhân quả thì người biết bố thí sẽ được: “Tiền của đến cửa trước, phúc đức về tận nhà”. Ở đây nhân duyên quả báo dẫu chỉ một chút mảy may cũng không sai chạy, do vì ta có lòng tích lũy điều lành và phải biết đó là một việc làm hết sức quan trọng. Cho nên khi bố thí chúng ta đừng sợ khổ, đừng buồn rầu, hối hận, thực hành việc làm này là ta đã biết bố thí một cách chân chính rồi vậy. Đại sư Tinh Vân - Dịch già : Đạt ma Chí Hải
-
Lời góp nguyện. Hãy cầu nguyện cho nước bạn Nhật Bản. Đất nước Mặt Trời đang ở trong những thời khắc khó khăn nhất, bản lĩnh SAMURAI thật tuyệt và đáng khâm phục. Tuy nhiên, trước thiên nhiên thì sức người vô cùng bé nhỏ. Những người bạn Nhật lúc này rất cần những bờ vai, cánh tay...dang ra dìu nhau vượt khó của bạn bè khắp nơi. Về tình cảm Việt Nhật, về tâm Bồ Đề của những người con Phật. Chúng ta, ngoài sự giúp đỡ bằng vật chất ( nếu có thể) thì ngay từ bây giờ, hãy theo gương của ĐẠT LAI LẠT MA 14, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, giáo hội Phật giáo TQ...cũng cầu nguyện và hồi hướng cho Nhật Bản, cầu nguyện sự BÌNH YÊN mau chóng được thiết lập và ổn định trở lại, cầu nguyện cho những người còn sống sức khỏe và mạnh mẽ, Cầu nguyện và hồi hướng cho những người xấu số được thân xác vẹn toàn và siêu thoát. Ngoài phương pháp hành trì theo Pháp Tu của mỗi hành gia như Dược Sư, Quan Âm, Chuẩn Đề ....có thể tụng Kinh Địa tạng bổn nguyên Công Đức, cùng trì Thần chú của Ngài. Hoặc trì tụng Bát nhã Bà La Mật Tam Kinh để nguyện cầu. Xin chân thành Cảm niệm công Đức vô lượng của Quý Huynh ĐệCám ơn và Trân Trọng Kính Chào.
-
Nhật Bản: 600 km, 150 lần tụng kinh và 20.000 bản kinh chép tayGNO - Renjo Miura (ảnh), một nhà sư của giáo phái Nhật Liên, đã thực hiện một cuộc hành hương đi bộ 600km, bắt đầu từ ngày 18-6 năm ngoái, và sẽ kết thúc vào ngày 1-8 năm nay. Mục đích của thầy là để an ủi vong linh của những người đã chết trong trận động đất và sóng thần năm ngoái (gần 16.000 người đã thiệt mạng và hơn 3.700 người còn mất tích). Thầy cũng đã mang sự bình an cho những người còn sống sót theo cách của riêng mình. Thầy cho biết: "Sau trận động đất 100 ngày, tôi đã thực hiện chuyến đi về phía bắc trong vòng 44 ngày dọc theo bờ biển Thái Bình Dương qua các khu vực bị tàn phá và đi vong qua khu vực cấm quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Mười ba nhà sư khác đã tham gia cùng tôi trên các chặng đường mà tôi đã đi qua”. "Bằng việc lắng nghe những trải nghiệm của những người còn sống sót, chúng tôi đã hiểu được sự khủng khiếp của trận sóng thần” - thầy Miura nói. "Nhiều người đã chắp tay thành kính khi gặp chúng tôi, và họ đã khóc khi nói với chúng tôi về những trải nghiệm của họ". Các nhà sư đã thực hiện nghi thức tưởng niệm khi qua các khu vực bị tàn phá ở Tohoku, phát tán tờ rơi với câu "Tôi xin quy y Liên hoa” và ném xuống biển. Trong suốt chuyến đi, thầy Miura đã tụng câu nói trên 150 lần và đã viết trên 20.000 mẩu giấy. "Lần đầu chúng tôi làm điều này, trời mưa rất nhiều" - thầy Miura nói. "Nhưng chúng tôi không ngừng cầu nguyện và tiếp tục tụng kinh. Khi đó mưa đột ngột dừng lại. Chúng tôi cảm thấy một sức mạnh vô hình và nghe thấy những lời mong cầu và thông điệp từ những người đã chết ở trong khu vực đó". Trên hành trình của mình, thầy Miura đã nhặt một mảnh gỗ từ các mảnh vỡ trôi dạt vào bờ gần rừng thông Takata Matsubara, nơi 700.000 cây thông đã bị phá hủy bởi sóng thần. Thầy đã viết một đoạn kinh Phật trên miếng gỗ đó và tụng cho các linh hồn bị chôn vùi dưới đống đổ nát theo từng nhịp trống. Thầy Miura nói thiên tai vừa qua và vấn đề hạt nhân ở Nhật Bản đã mang đến cho chúng tôi cơ hội để trở thành con người tốt hơn, biết quan tâm và từ bi đối với người khác. Văn Công Hưng (Theo Majirox News)
-
Đức Dalai Lama được nhận giải Templeton Prize 2012 GNO - Đức Dalai Lama được nhận giải thưởng Templeton Prize năm 2012, tin được truyền đi hôm 29-3. Trong nhiều thập kỷ, Đức Dalai Lama đã mạnh mẽ liên kết giữa khoa học và truyền thống Phật giáo như một cách nhằm nâng cao hiểu biết lẫn nhau và cùng hướng tới cùng một mục tiêu phục vụ thế giới tốt hơn. Giải thưởng sẽ được trao cho Đức Dalai Lama tại một buổi lễ tại nhà thờ St Paul ở London vào ngày 14-5 tới. Với trị giá khoảng 1,7 triệu đô la Mỹ, đây là giải thưởng có giá trị lớn nhất thế giới hàng năm được trao tặng cho một cá nhân còn đang sống nhằm tôn vinh những đóng góp đặc biệt của người này trong lĩnh vực tâm linh và đời sống. Phát biểu sau khi được thông báo nhận giải thưởng, Đức Dalai Lama đã khiêm tốn nói: "Khi nghe quyết định trao cho tôi giải thưởng khá nổi tiếng này, tôi thực sự cảm thấy đây là một dấu hiệu của sự công nhận về những đóng góp nhỏ bé của tôi cho nhân loại, chủ yếu trong vấn đề bất bạo động và sự thống nhất giữa các truyền thống tôn giáo". Văn Công Hưng (Theo IBNLive)
-
Chuyện phát lộ “kho báu bị yểm bùa” (1): Bàn tay từ cõi âm!? ANTĐ - Đã hơn một tháng trôi qua kể từ khi ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương dấy lên tin đồn xung quanh việc chính quyền huyện phá ngôi biệt thự cổ để xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện. Tin đồn càng lan đi xa càng được thêm thắt với nhiều chi tiết khó tin. Những điều… kỳ bí Chuyện bắt đầu từ một quyết định do cố Chủ tịch UBND huyện Nam Sách Lê Huy Vụ ký với nội dung xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện trên diện tích xưa kia vốn là biệt thự cổ thời Pháp. Dự án xây dựng có tổng đầu tư trên 3,8 tỷ đồng, bắt đầu phá dỡ từ đầu tháng 1-2012, động thổ, đào móng vào cuối tháng 2-2012. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu trong quá trình đào móng, đơn vị thi công không phát hiện nguyên một đoạn… xương hàm. Bác sỹ nha khoa được mời đến hiện trường đã xác định, đây là một chiếc xương hàm của người. Anh Trần Văn Diện - bảo vệ công trình Ông Nguyễn Đình Dũng, Phó Chủ tịch UBND huyện Nam Sách kể lại, ông có nhận được thông tin công nhân đào được một chiếc xương hàm người tại công trường xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị của huyện. Ngay sau đó, đơn vị thi công đã đào rộng ra xung quanh, nhưng không tìm thấy thêm bất kỳ một phần hài cốt nào khác. Đoạn xương hàm kia cũng được mang đi mai táng tại Nghĩa trang thị trấn Nam Sách. Tuy nhiên, chuyện bắt đầu “nóng” khi đơn vị thi công tiếp tục đào được một số chiếc chum sành không biết đã nằm dưới lòng đất từ bao giờ. Thế là một đồn mười mười đồn trăm, rằng đơn vị thi công đào được… kho báu. Mũi khoan bị vỡ của đơn vị thi công Chắp nối các sự kiện với nhau, người dân ở huyện Nam Sách còn nhớ, nhiều năm về trước, có người đã từng đào được một chiếc chum đựng đầy bạc hoa xòe. Nhiều người dân nơi đây khẳng định, đúng là có chuyện từng có người đào được những chum chứa đồng bạc hoa xòe ở đây. Cũng vì thế, thị trấn Nam Sách có một tiền lệ xấu, mỗi khi gia đình nào đào móng xây nhà thì những hộ xung quanh thường đến ngồi… canh. Chỉ cần phát hiện những hũ, chum khả nghi là đổ xô vào giành, cướp. Ngược dòng lịch sử, khu đất này xưa kia vốn là của ông Nghị Dong, một đại phú hộ, địa chủ thời Pháp. Vì thế, bất cứ thứ gì được phát hiện, người dân đều gán cho nó hai từ “kho báu”. Người này truyền tai người kia, chẳng mấy chốc dân ở khắp nơi vây kín khu vực thi công chỉ chờ tranh cướp. Thậm chí, có người từ tận Hải Phòng, Hà Nội cũng lặn lội về đây để tìm kiếm vận may. Cái chết của Ông chủ Tịch Huyện Lời đồn càng trở nên có cơ sở khi chỉ 2 ngày sau khi chính thức động thổ, đào móng, ông Lê Huy Vụ - Chủ tịch UBND huyện Nam Sách lúc bấy giờ bỗng dưng chuyển bệnh và đột ngột qua đời. Có lời ác ý còn đổ cho ông cái “tội” dám động đến ngôi nhà của Nghị Dong. Nhưng, như một sự trùng hợp lạ lùng, liên tiếp những ngày sau đó, đơn vị thi công là Công ty CP Đầu tư xây dựng, dịch vụ và thương mại Hồng Châu gặp phải những chuyện ma quái. Máy xúc và mũi khoan của đơn vị thi công cứ đào trúng mấy chiếc chum là trở chứng. Cái bị hỏng, cái bị vỡ càng làm khuấy động không khí vốn yên bình ở thị trấn Nam Sách nhỏ bé này. Theo anh Trần Văn Diện, người bảo vệ công trình từ khi đơn vị bắt đầu thi công cho biết, đúng là có chuyện máy xúc bị vỡ, mũi khoan bị hỏng. Tuy nhiên, đó chỉ là những sự việc xảy ra ngẫu nhiên chứ không phải do bàn tay từ “cõi âm” gây ra như nhiều người đồn đoán. Anh Diện cho biết thêm, việc những chiếc máy hỏng hóc đều có lý do xác đáng. Như chiếc máy xúc cỡ lớn, người ta không để ý đổ dầu vào máy dẫn đến khô dầu, bị bó biên, vỡ máy. Còn chiếc máy xúc cỡ nhỏ cũng đã vài lần lăn ra “ăn vạ” do “có tuổi”. Anh em phải hàn đi hàn lại mấy lần để tái sử dụng. Chỉ là đến thời điểm này bỗng dưng đồng loạt “biểu tình” nên mọi người mới đồn thổi. Có thông tin tổ bảo vệ từ đầu còn sinh hoạt ở khu vực sát với công trường nhưng sau cũng phải chuyển ra phía ngoài. Trước câu hỏi này, anh viện lý do ở gần công trường lầy lội nên phải chuyển ra phía ngoài!? Vẫn biết, việc “lớn chuyện” đều do người dân thêu dệt, đồn thổi. Nhưng chính những hành động kỳ lạ của đơn vị thi công càng làm cho sự tò mò, tính hiếu kỳ của dân chúng trong vùng lớn hơn. Chuyện chết người, đào được chum vàng chum bạc bỗng chốc trở thành đề tài bàn tán ở khắp nơi với nghi vấn về việc Nghị Dong trấn yểm kho báu và bảo vệ ngôi biệt thự cổ. Sóng sau lại to hơn sóng trước khiến người dân càng thêm hoang mang, lo sợ. Lý giải tin đồn oan hồn trinh nữ. 2 Theo khẳng định của chính quyền huyện Nam Sách, ông Vụ đã mắc trọng bệnh từ hơn một năm nay. Năm 2011 ông cũng từng phải nghỉ một thời gian dài để chữa trị căn bệnh đại tràng. Sự ra đi của ông không phải là “bất đắc kỳ tử” như những lời đồn. Oan hồn trinh nữ Suốt mấy đêm liền, người dân quanh khu vực công trường cho biết thấy đơn vị mời pháp sư về làm lễ. Trong ngoài được canh gác cẩn mật. Dân chúng quanh vùng kéo tới xem đặc kín khu vực trước cổng công trường. Buổi làm lễ lại diễn ra vào ban đêm càng làm không khí ở đây thêm phần ma quái. Anh Đỗ Văn Hòa ở khu vực ga Tiền Trung cách đó khoảng 7km cũng mò vào theo dõi sự tình còn khẳng định, nửa đêm, pháp sư mới bắt đầu ra tay làm phép. Trước khi làm phép, thầy pháp sư tận Hải Phòng còn dặn dò những người xung quanh, có xem thì xem, nhưng xem xong thì bấm nhau đi về chứ đừng gọi tên kẻo những oan hồn trinh nữ được trấn yểm nơi đây theo về bắt người. Anh Tuấn, một người dân trong huyện còn cam đoan, chỗ những mô đất nơi tìm thấy 9 chiếc chum sau khi được làm phép phát hiện âm khí bắn lên rất lâu mới hết. Vị pháp sư còn khẳng định, đã trục hết 9 oan hồn trinh nữ ở đây, mọi người cứ yên tâm. Trong vòng một tuần, vị pháp sư nọ đã dựng đàn làm phép hai lần. Cả hai lần đều có những tiếng động lạ phát ra quanh khu vực công trường. Vậy Nghị Dong là ai mà chỉ nghe đến tên nhiều người đã liên tưởng đến những câu chuyện ma quái? Chiếc bể với nhiều chữ Hán ở khu vực công trường Bí ẩn những tin đồn Theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Lịch - thôn Si, thị trấn Nam Sách, Nghị Dong xưa kia là một đại phú hộ ở địa phương. Ông ta được ở khu nhà biệt thự dành cho người Pháp. Đất đai của Nghị Dong nhiều đến nỗi, ở thị trấn Nam Sách ai cũng cho rằng mình đang ở trên đất của ông Nghị xưa kia. Các cụ cao niên ở Nam Sách khẳng định, thời đó, quanh vùng chẳng có nhà nào giàu bằng nhà ông Nghị, các hũ bạc từng tìm thấy đều là của Nghị Dong chôn xuống đất cho con cháu sau này. Cứ ở đâu từng đào được bạc, ở đó xưa kia là đất của ông Nghị. Nghị Dong thời bấy giờ vừa có tiền, vừa có quyền. Chẳng thế mà ông là một trong số ít những người được ở khu biệt thự của Pháp. Căn nhà vừa bị phá là ngôi biệt thự cũ của ông. Người dân quanh vùng vẫn thường gọi đây là căn nhà bốn mái với thiết kế cổ của Pháp. Căn biệt thự từng được xem là biểu tượng của sự giàu sang của ông Nghị còn được nhân dân gắn với thời kỳ đen tối bị thực dân Pháp đô hộ. Nhiều người khẳng định, căn nhà trước đây từng được sử dụng làm nơi giam giữ những chiến sỹ Việt Minh. Nhiều cán bộ, chiến sỹ bị bắt giam trong đó và có cả những người không bao giờ trở ra. Sau này, khi giải phóng, căn nhà lại được sử dụng làm nơi giam giữ tù nhân của chính quyền. Tuy nhiên, các cụ cũng khẳng định, khi sinh thời, Nghị Dong được coi là một người yêu nước, thương dân, ông từng nuôi giấu rất nhiều cán bộ, cứu những người bị giam cầm trong căn biệt thự đó. Sự giàu có, thế lực của Nghị Dong xưa kia đã khiến người dân liên tưởng đến những hũ vàng hũ bạc còn chôn giấu. Các cụ cũng khẳng định, của cải của ông Nghị còn nhiều lắm. Nhưng chắc chắn ông đã cho trấn yểm chỉ để cho con cháu ông được hưởng. Ngày nay, hầu hết đất của Nghị Dong xưa kia giờ đã chuyển chủ, con cháu của ông Nghị cũng tản đi khắp nơi, nhưng chưa thấy ai tuyên bố là đã tìm được kho báu ông để lại. Duy chỉ còn lại mảnh đất vốn trước đây dùng làm trường cấp 2 của thị trấn, sau này dùng làm thư viện và giờ đang được xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện là chưa bị đào xới. Thêm việc trước đây từng đào được hũ bạc càng làm dân chúng tin rằng đây chính là nơi Nghị Dong cất giấu của cải. Tin đồn vẫn chỉ là tin đồn, cho đến nay, đơn vị thi công đã kết thúc quá trình đào móng, đang chờ nghiệm thu. Chuyện trấn yểm cũng vẫn được truyền miệng bay đi khắp nơi. Giờ thì, ngoài những chuyện âm hồn hư hư thực thực, người dân ở đây lại có thêm một chút tiếc nuối. Người trẻ thì chưa nhận ra, nhưng những bậc cao niên đã ngậm ngùi, ngôi biệt thự cổ lộng lẫy một thời, chứng tích của biết bao thăng trầm lịch sử, giờ đã bị san phẳng, tiếc cho một công trình kiến trúc cổ giờ đã hoàn toàn biến mất. Vẫn biết, ngôi biệt thự cũng đã quá cũ, xuống cấp nhưng đó còn là lịch sử, là vẻ đẹp mà Nam Sách cần lưu giữ. Đỗ Nguyễn (An Ninh Thủ Đô)
-
Khóc thầm vì chưa được đóng phí giao thông! (Trái hay Phải)- Một lần nữa, trang nhất các báo ngày 4/4 lại tràn ngập hình ảnh Bộ trưởng Đinh La Thăng khi ông lên tiếng vừa phân trần vừa nhắc nhở người dân rằng nên hạnh phúc và tự hào khi được đóng phí giao thông, vì đóng phí cũng là yêu nước. Khố tâm vì không được đóng phí giao thông! Ôi chà, tất cả những người biết chữ, tức là đọc được những lời của ông Bộ trưởng trên mặt báo, cần úp mặt vào tường mà suy nghĩ, mà xấu hổ. Ừ, nói đi nói lại mãi rồi mà dân chẳng chịu nghe, trong khi đâu cần phải động não nhiều lắm mới hiểu nguyên nhân vì sao đường giao thông Việt Nam có tuổi thọ thuộc hàng thấp trên thế giới. Này nhé, đất nước sáng chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa, thời tiết thiên tai khắc nghiệt nên có những con đường chưa kịp khánh thành đã vội vàng ôm ấp những ổ voi, ổ trâu. Chưa kể, đất nước đang ngày càng phát triển đi lên, xe cộ ngược xuôi chạy không lúc nào ngơi nghỉ, cầu đường bị quá tải nên xuống cấp càng nhanh (chuyện này người viết đã nói nhiều lần, nhưng cứ nhắc đến ngành giao thông là lại phải tua lại cho nó khách quan, rất mong độc giả thể tất!). Còn cái chuyện ăn bớt vật liệu, bê tông cốt tre như thủa nào PMU 18 từng làm chỉ là chuyện cá biệt, to đùng mà cá biệt nên thôi, không chấp, vả lại, đã xử trước công luận làm gương tày liếp rồi đó thôi. Đất nước đâu có thiếu vật liệu xây dựng (cưỡng chế 2 hòn đá chỉ là chuyện hi hữu xưa nay chưa từng có ở Việt Nam), xi măng sắt thép thì cũng đang thừa ê hề, nên ăn bớt làm chi cho mệt? Theo lý thì cần tư duy mở thêm nhiều dự án để tiêu thụ sắt thép, xi măng đang đắp chiếu nằm chờ kia mới phải chứ. Các doanh nghiệp ngành giao thông có kiếm chút đỉnh thì cũng kiếm bằng cách khác, nhàn nhã và thảnh thơi hơn nhiều, như chính một quan chức của Bộ Giao thông từng thừa nhận: nhiều ban quản lý dự án đồng thuận với nhà thầu làm chậm tiến độ dự án, “ủ” giá vật liệu lên ăn chênh lệch, cứ chờ giá lên là đệ đơn kiến nghị xin điều chỉnh theo giá thị trường. Tức là, việc đường sá xuống cấp nhanh chả có liên quan gì đến trách nhiệm của các bên trong việc xây dựng, thi công hết. Rút ruột công trình ăn bớt vật liệu khiến công trình chưa bàn giao đã xuống cấp là chuyện xưa rồi Diễm ơi. Vì vậy, nếu người dân ta quả thật có trình độ học vấn ngày càng cao như báo cáo của ngành giáo dục thì không cần phải đợi đến ông Bộ trưởng nhắc nhở mới mở hầu bao mà đóng phí, thậm chí dân chúng ta cần thiết tha đề xuất được đóng phí giao thông mới thật là yêu nước. Dân làm hỏng đường thì dân phải đóng phí mà sửa là đúng lẽ quá rồi, còn kêu cái nỗi gì? Hãy học các doanh nghiệp ấy, giữa lúc lãi suất cao vời vợi mà vẫn giành nhau từng cái hợp đồng giao thông để được dựng xây, được cống hiến cho đất nước! Hay hãy học chính Bộ trưởng Thăng, bị dư luận phản đối như vậy mà vẫn hiên ngang tuyên bố làm mọi chuyện đều vì việc công, nên không sợ tín nhiệm cao hay thấp! Chả nhẽ chúng ta không thấy vị quan thanh liêm ở tận Tây Nguyên cũng vì tận trung báo quốc nên cũng không sợ tín nhiệm cao hay thấp đó thôi. Biết chân lý thì là như vậy, đạo lý cũng là như vậy, nhưng chắc chắn nhiều người cũng chưa thông lắm đâu. Này nhé, lâu nay dân có phải đóng phí đâu mà Nhà nước vẫn xây dựng, vẫn bảo trì đường luôn chân luôn tay đấy thôi, nay các vị đòi dân đóng phí, thế bấy lâu nay Nhà nước toàn tự in tiền ra mà đắp đường, mà xây cầu à? Hay các doanh nghiệp xây đường xong thì nhận công bằng không khí? Xin thưa nhất định là không phải thế rồi, nhưng trong buổi thắt lưng buộc bụng hôm nay, nguồn ngân sách dành cho ngành giao thông quả cũng có phần eo hẹp hơn trước. Chắc quý vị vẫn còn nhớ, trong năm 2011, Bộ Giao thông đã từng xin Chính phủ thêm 6.800 tỷ ngân sách, sau đó đích thân Bộ trưởng Thăng lại đăng đàn trước Quốc hội xin 40.000 tỷ đồng lãi to của ngành dầu khí. Tiếc thay, sáng kiến ấy của Bộ chẳng được chấp nhận. Không cần thông minh lắm người ta cũng phải lẩn thẩn tự hỏi rằng, phải chăng Bộ Giao thông không xin được ngân sách nên quay sang “xin” phí từ dân? Ngân sách thì cũng là tiền thuế, là mồ hôi nước mắt, là máu xương của nhân dân cả, nhưng nói gì thì nói, tiền vào ngân sách rồi thì Bộ Giao thông muốn xin cũng chẳng thể nào tùy tiện được, xin dân đóng phí xem chừng khả thi và tiện hơn nhiều! Các bộ ngành khác nếu gặp khó khăn gì xin cứ học theo Bộ Giao thông, không xin được Quốc hội, Chính phủ thì xin dân! Mà càng nghĩ càng thấy tội nghiệp! Bộ trưởng Đinh La Thăng khẳng định như đinh đóng cột rằng thu phí giao thông là chủ trương chung, tuyệt nhiên không phải sáng kiến của Bộ. Ừ, nhất định là những “sáng kiến” mà bị dư luận phản đối ầm ầm thì nhất định là của chung rồi, chỉ có thành tích tai nạn giao thông giảm trên cả 3 mặt là của riêng ngành Giao thông thôi. Nhưng mấy cái thành tích ấy làm sao mà bù lại cho được những lúc bị cánh nhà báo nó lèn, có kẻ còn ngứa mồm bảo nếu đấy là chủ trương chung thì hóa ra Bộ chẳng phải làm gì, chẳng phải nghĩ gì hay sao, thế thì ai làm Bộ trưởng cũng được à? Riêng những người đang hàng ngày phải đi xe công tới nơi làm việc (đôi khi phải đi cả đám cưới, đám ma, đi đền, đi chùa) còn có một nỗi khổ tâm thầm kín khác. Nghe nói khi Bộ Giao thông vận tải đề xuất xe công không phải đóng phí, nhiều người trong số họ đã tỏ ý không bằng lòng đấy. Một số hay để ý tới tiểu tiết thì so bì rằng xe công thì cũng là xe, xe nào chẳng làm hỏng đường, sao xe công lại được miễn phí, số khác thông minh sáng láng biết lấy đại cục làm trọng thì thở dài, có đóng phí cũng tiền thuế của dân thôi, bỏ tiền từ túi này sang túi kia làm gì cho phức tạp. Chỉ còn biết than thân trách phận là ngày ngày phải đi xe công, mà chẳng có cơ hội nào để thể hiện lòng yêu nước theo lời kêu gọi của Bộ Giao thông! Tam Thái ======================================== Ôi sao thâm thúy cái tư duy của BT, ai ai cũng phục! Khóc & Cười gần nhau sau cách mặt!
-
Cô không rõ số lượng con cần xin nên gởi đến con 2 bản chú hôm nay.