wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Như Thông thân mến ! Chú Thiên sứ hiện đang có chuyện buồn , Chú sẽ vắng 3 ngày trên diễn đàn , như qua lời cám ơn của Như Thông Chú cũng rất vui ! Theo Wild Phong Thủy chỉ là 1 giải pháp chung để nâng và cải tạo cuộc sống , công việc hoặc hóa giải 1 vận xấu chứ không nhắm vào hoặc thay đổi 1 đối tượng 1 sự việc có mục đích , Như thông không nên nêu chi tiết , đích danh như trên sẽ bất lợi cho bác NT và Chú TS . Bài viết của Quan2nguyen đã nhận ra như Wild .
  2. Qua bài viết của Quangnx tôi lại nhớ đến câu :" NHẪN "Ta mới gần được ĐẠO .
  3. “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”, câu tục ngữ lâu đời này có lẽ vẫn còn giữ nguyên giá trị của nó qua năm tháng, cả ở nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Có người nói, đẹp là ở trong mắt của kẻ si tình, điều này cũng có lý lẽ của nó. Nhưng khổ một nỗi, đập vào con mắt của kẻ si tình trước tiên chính là mặt hoa da phấn, quần là áo lượt hay nói khác hơn là hình thức bên ngoài của chủ nhân vẻ đẹp ấy. Thế thì làm sao ngay ở phút đầu gặp gỡ, kẻ si tình kia có thể thấu tỏ được những nét đẹp tiềm ẩn sâu xa bên trong dù kẻ đó có con mắt tinh tường đến mức nào! Hình ảnh Tác giả bài viết (st) Bà mẹ thiên nhiên luôn có những câu trả lời chân thật nhất cho những nghi vấn kiểu như thế này. Những bông hoa cần ong bướm đến để thụ phấn và cả những loài hoa chẳng cần phải thụ phấn bao giờ cũng khoe bày những sắc màu tươi xinh nhất, bắt mắt nhất và thậm chí cả hương thơm ngào ngạt tùy thuộc từng loài, hầu như rất hiếm những loài hoa có màu sắc tối tăm như màu đen, màu xám…Hay như họ nhà chim cũng vậy. Mỗi loài đều tự trang trí cho mình những bộ lông cách sặc sỡ nhất với những chiếc lông vũ, chiếc mào đủ các sắc màu và luôn cố tạo cho mình một giọng hót thánh thót nhất có thể. Cứu cánh của những điều ấy là gì nếu không phải để tạo nên cái đẹp của tự nhiên, vì chỉ có cái đẹp mới hấp dẫn nỗi “những kẻ tình si” ôm nhiều mộng tưởng và nổi tiếng đa tình của thiên nhiên muôn hình muôn vẻ này. Từ thế giới tự nhiên bước sang thế giới con người, cái đẹp đã có nhiều sự chuyển đổi hết sức thú vị và mang đậm dấu ấn người. Viên kim cương đẹp một nét đẹp mang tính vĩnh hằng do cấu trúc của các nguyên tử cacbon bên trong quy định, theo kiểu “hữu xạ tự nhiên hương”. Nhưng để thành một người đẹp có lẽ không thể đi theo con đường như thế vì cấu trúc của con người về mặt sinh học là gần như giống nhau hoàn toàn, chỉ một chút khác biệt về giới ở cấu trúc nhiễm sắc thể trong gen di truyền. Và tất nhiên với trí tuệ trời phú của mình, con người luôn có những bước đi hết sức độc đáo để chinh phục và tạo ra cái đẹp cho riêng mình. Hình ảnh Tác giả bài viết (st) Người ta thường nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” là để ám chỉ cái đẹp ẩn sâu bên trong các chiều kích của tâm hồn với hàng loạt các giá trị như phẩm chất đạo đức, nhân cách, óc thẩm mỹ…Nhưng hình thức bên ngoài của một con người sao lại có thể xem là một thứ “nước sơn” khi mà mọi thứ, từ việc chọn lựa quần áo, cách trang điểm mặt mũi, đầu tóc cho đến việc chọn cho mình một mùi hương riêng biệt nào đó tất tần tật đều do hiểu biết và khiếu thẩm mỹ của chính người ấy quyết định? Như thế đủ để thấy cái đẹp bên ngoài (hình thức) phần nhiều là do chính cái đẹp bên trong (nội dung) quyết định. Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa là phủ nhận cái đẹp mang tính sinh học bẩm sinh được cấu tạo từ gen di truyền của từng người. Chẳng hạn như cô siêu người mẫu, là vợ của một danh thủ bóng đá người Pháp vừa mới sang thăm Việt
  4. Sinh thời, ông ngoại tôi hay nói với con cháu: Xác con người được nuôi bởi không khí và thực phẩm, còn hồn con người thì được nuôi bởi văn hoá và sự tích. Tôi thấy ông đúng, có điều với tôi, sự tích đôi khi đơn giản chỉ là những câu chuyện ta nghe, thấy hàng ngày, những câu chuyện khiến lòng ta vấn vương… 1 - Một lần, lâu lâu rồi, tôi tình cờ thấy trên mạng bài phỏng vấn Dustin Nguyễn - diễn viên Mỹ gốc Việt mà khi đó tôi chỉ loáng thoáng biết có đóng vài phim Mỹ với vai trò phụ. Nội dung phỏng vấn khá dài, nhưng cái đoạn làm tôi xao xuyến có đại ý như sau: - Dư luận nói anh là người may mắn? - Vâng. Ngay cả trong cái bị cho là bất hạnh, tức khi vợ tôi bị tai nạn liệt nửa người, tôi cũng thấy mình may mắn. Bởi vợ tôi vẫn sống để các con tôi còn có mẹ, và tôi còn có cơ hội chăm sóc người tôi yêu thương. Ai nói điều này? Một người đàn ông rất trẻ, một diễn viên điện ảnh - cái giới dễ bị cho là phù phiếm. Tôi nhớ mình đã nhìn thật kỹ ảnh anh ta, nhìn cái cách anh đứng bên xe lăn của vợ. Và tôi tin những gì anh nói. Mãi sau này tôi mới biết anh là con trai của tài tử Xuân Phát, rằng trong nhiều năm Nguyễn từng là khuôn mặt Việt Nam duy nhất trên truyền hình Mỹ, trong chương trình 21 Jump Street chiếu mỗi tuần từ năm 1987 đến 1990. Rồi có dịp thấy anh trên phim Dòng máu anh hùng. Dustin Nguyễn và vợ - Angela Mới đây nghe đâu vợ chồng anh được hai tổ chức khác nhau ở New York và Los Angeles trao giải thưởng Thành tích cuộc đời (Lifetime Achievement Award) và giải Hành động vì cộng đồng (Community Action Award) - một giải thưởng liên quan đến người tàn tật sao đó... Tôi có thể truy lại chi tiết qua các công cụ tìm kiếm, nhưng với tôi, tất cả những điều đó không quan trọng hơn câu nói của người chồng. 2 - Cũng tình cờ, trên diễn đàn Dienanh.net tôi gặp bài viết “Chung cư và một đêm đáng nhớ”. Tên phim của mình khiến tôi tò mò đọc. Bài viết có những đoạn trích như sau: “Cùng một tác phẩm nghệ thuật, ở mỗi thời gian khác nhau, không gian khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, lại cho ta những cảm nhận khác nhau. Chung cư của Việt Linh nói lên được nhiều điều lắm. Nhưng ở nơi xa Việt Nam hàng chục ngàn cây số như thế này, giữa những con người khác, giữa một nền văn hoá khác, cảm nhận đầu tiên và sâu đậm nhất với tôi là hương vị quê nhà - hương vị Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, tính cách Việt Nam, tình người Việt Nam…” ... “Bộ phim kết thúc rồi, để lại một cảm giác đê mê, thư thái, cảm giác thoả mãn của một người vừa được thưởng thức cái đẹp trọn vẹn. Nói "trọn vẹn" e chủ quan, nhưng có cảm nhận nào lại không mang tính chủ quan, nhất là khi niềm yêu, nỗi nhớ quê nhà đã cồn cào đến cháy ruột, để lặn lội khắp Paris rộng lớn này, đi bộ qua bao nhiêu con phố dài kia, chỉ để tìm đến một rạp chiếu bóng duy nhất trong thành phố chiếu Chung cư. Ừ nhỉ, có nơi nào như đất nước mình, nơi có những đồng bào thân yêu, có người thân, bạn bè, có tuổi thơ, kỷ niệm... nơi có những con người hiền hậu, hào hiệp, nơi có những bữa cơm chiều, mang bát sang nhà hàng xóm chỉ để xin một chút nước mắm, một vài quả cà…?” ... Đã lâu, mà khi đọc lại những dòng chữ này tôi vẫn còn rưng rức. Nickname Binhbong mà về sau tôi biết tên là V.A, đã nói giùm tôi và những người xa xứ cái khắc khoải quy hương mà không phải ai cũng có cơ hội. Binhbong, mà về sau tôi biết đã bảo vệ xong luận án tiến sĩ ở Pháp và đã quay về Hà Nội. Đã quay về như em tự hứa trong cái đêm Paris mùa đông. “Liệu có cần phải cảm ơn Việt Linh và Chung cư?” V.A đã kết thúc tuỳ bút của mình như vậy. Trong cuộc điện đàm về sau với người chưa biết mặt, tôi nói rằng em cứ cảm ơn đi, cũng như tôi cảm ơn em về những dòng chữ khiến người lớn phải tin vào lớp trẻ. Cũng như chúng ta phải cùng cảm ơn ai đó trong cuộc đời này. 3 - Ông ra đi ngày 17.12.2007. Tôi chưa bao giờ gặp ông, nhạc sĩ Huy Du. Tôi biết tên ông từ năm 1969, đúng hơn, bài hát cách mạng đầu tiên mà tôi thích là tác phẩm của ông. Nhạc sĩ Huy Du cùng cháu gái Tuệ Linh và gia đình Nếu như với một nữ sinh Sài Gòn mới theo kháng chiến, những bài hát cách mạng khác quá hành khúc, quá bác học hoặc quá tuyên truyền thô thiển, thì Đường chúng ta đi của Huy Du rất lôi cuốn bởi giai điệu hùng tráng mà du dương, bởi lời ca dung dị mà lai láng, nồng nàn…Việt Nam, trên đường chúng ta đi… Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó… Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời… Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước… Mà vui sao ta chẳng nói nên lời… Giữa rừng già, được học qua đài phát thanh Hà Nội, bài hát không hẳn hay nhất của Huy Du, không hẳn hay nhất của cách mạng, đã khơi dậy trong cô nữ sinh 17 tuổi cái gọi là tình yêu tổ quốc. Nhưng tôi nghĩ mình phải cảm ơn ông vì điều khác nữa. Đó là những bức ảnh ông cười rất tươi bên cạnh gia đình ba tháng trước khi mất. Và rằng ngay trong đau đớn của bạo bệnh, ông đã viết tặng cô cháu nội bé bỏng của mình hai bài hát, hai ca khúc mà theo tác giả bài báo, cũng là tác phẩm cuối cùng của người nghệ sĩ dành cho thế hệ mầm non. Tôi cũng là nghệ sĩ, cũng từng qua bạo bệnh. Nên tôi thổn thức. 4 - Báo viết em tên là Hồ Phi Hiền, học sinh lớp 6, người dân tộc. Sau khi đi học về, Hiền giúp mẹ mang lúa đi xay xát. Trong khi chờ đến lượt, Hiền sang quán bà Quang xem trò chơi điện tử. Thấy quán vắng người nhưng lại có rổ tiền xu bên cạnh, Hiền vốc một nắm cho vào túi và bị phát hiện. Em Hồ Phi Hiền Tại công an xã, Hiền xin lỗi bà Quang, khai nhận lấy cắp 47 ngàn đồng. Người mất cắp nói Hiền khai thiếu (dù không biết thiếu bao nhiêu!), đe doạ tố cáo trước đây đã từng bị mất 2,4 triệu. Công an quyết định điều tra tiếp tục. Hôm sau, khi mẹ Hiền chuẩn bị đưa con lên làm việc với công an, thì cậu bé 11 tuổi, vốn là học sinh ngoan, đã uống cạn chai thuốc diệt cỏ! Uống để bảo toàn danh dự. Để nói với người lớn như từng than với bạn: “Mình chỉ lấy chừng ấy thôi, sao người lớn chẳng chịu tin. Nếu công an bắt phải bồi thường 2,4 triệu nữa, thì mẹ mình lấy tiền đâu để trả?” Cái chết như vậy có làm ai xốn xang? Bớt chợt hôm nay tôi bỗng nhớ mênh mang những người xa lạ, mênh mang cái cảm giác mà tôi đã lấy đặt tên cho bài viết… Theo Việt Linh (Zing, SGTT) Còn quá nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống , ta đi tìm ta sẽ gặp !
  5. Dâng lễ vật Quốc Tổ mà còn dối lừa thì đạo đức suy đồi là lẽ thường tình .
  6. Sống gửi thác về - một nhân vật lịch sử 16:20' 18/04/2008 (GMT+7) - Cuộc kháng chiến không cân sức kéo dài chỉ ba năm nhưng là ba năm đẹp đẽ, khí phách nhất một đời người, một đời vua, đưa một Hàm Nghi trẻ tuổi thành một vị vua yêu nước, một ngọn cờ hội tụ nghĩa sĩ… Sự nghiệp dù không “thành công” nhưng vua Hàm Nghi đã “thành nhân”. Tên tuổi ông đã đi vào lịch sử, bên cạnh tên tuổi những vị hoàng đế yêu nước triều Nguyễn… Sau những dòng suy tư về lăng mộ còn quá đơn sơ của các cựu hoàng Thành Thái và Duy Tân, lòng tôi vẫn canh cánh khi chưa nhắc tới nấm mồ cô quạnh ở phương trời xa của vị vua yêu nước của triều Nguyễn - Hàm Nghi. Sự kính trọng các bậc “đế vương” yêu nước mà phận bạc, một lần nữa lại thôi thúc tôi trở lại cố đô Huế. Con đường của người xưa Tôi bỗng thấy như mình đang lần ngược lại hành trình năm xưa vua Hàm Nghi rời bỏ ngai vàng, hướng về miền rừng núi hiểm trở, hội tụ nghĩa quân phất cờ Cần Vương cứu nước. Chân dung vua Hàm Nghi. Ảnh tư liệu Đèo núi cheo leo và heo hút miền giáp ranh Hà Tĩnh – Quảng Bình gợi nhớ nơi này xưa kia từng là đai bản doanh kháng chiến Cần Vương. Ở đây, trong suốt ba năm kháng chiến, ba bà Thái hậu và vua kế nhiệm Đồng Khánh (cũng anh ruột vua Hàm Nghi) thường gửi thư kêu gọi trở về. Thậm chí Toàn quyền Paul Bert đã định đưa Hàm Nghi làm vua bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Mỗi lần như vậy, vua Hàm Nghi chỉ nói: “Ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người”. Cũng đâu đây vùng này, trong cuộc chiến không cân sức, vua Hàm Nghi bị tên phản bội Trương Quang Ngọc dẫn quân vây bắt. Sử sách còn lưu truyền khí phách của vị vua trẻ tuổi, khi Người cầm gươm chỉ vào mặt kẻ phản bội mà bảo: “Mi giết ta đi còn hơn là mang ta nộp cho Tây”. Đây rồi, núi non và hang động Tuyên Hóa, miền tây Quảng Bình, nơi từng chở che quan quân vua Hàm Nghi tiến về phương bắc, tìm nơi đặt đại bản doanh. Và kia, miền tây Quảng Trị. Ánh sáng ban mai chiếu rọi một vùng núi non xanh thẳm, xa xa. Thung lũng Cùa, chính ở đây, tại thành Tân Sở từng diễn ra sự kiện lịch sử hệ trọng, vua Hàm Nghi đặt bút phê chuẩn Hịch Cần Vương thứ nhất, kể tội giặc Pháp và kêu gọi dân chúng vùng dậy chống ngoại xâm. Ở mảnh đất Tân Sở này, nhà vua trẻ tuổi mới mười bốn, bắt đầu nhận ra con đường cứu nước đang đi và trọng trách nặng nề đang đặt lên vai mình. Lịch sử còn ghi nhớ câu nói ở thời điểm đó của ông: “Đi đâu cũng được, sống thế nào cũng được, miễn là đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước”. Cửa thành Chương Đức (cửa "Sập") đã trùng tu. Ảnh: TTM. Đêm nghỉ lại ở khách sạn “Thành Nội” sát hoàng thành và gần một viện bảo tàng xưa kia từng là Trường Trung học Hàm Nghi, tôi trằn trọc: cổng thành nào đây một trăm năm trước nhà vua trẻ tuổi từ giã cung thành tráng lệ bước vào cuộc trường chinh không có ngày trở về? Quả vậy, không bao giờ vua Hàm Nghi trở lại hoàng cung nữa, dù chỉ một lần. Sau khi bị bắt, nhà vua chỉ được giải về cửa biển Thuận An. Tôi tìm về Thuận An. Trong ánh nắng ban mai, bãi cát trắng vắng người, rừng phi lao lặng gió như bao năm trầm ngâm chứng kiến số phận một bậc quân vương. Nơi đây, vua Hàm Nghi chỉ được dừng lại ngắn ngủi để bước vào chuyến lưu đày vĩnh viễn, không gặp mặt, dù là lần cuối cùng, những người ruột thịt. Nén chặt nỗi đau, nhà vua thốt ra lời: “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa". Cuộc kháng chiến dưới ngọn cờ Cần Vương kéo dài chỉ ba năm, nhưng là ba năm đẹp đẽ nhất, hào hùng và rực rỡ nhất một đời người, một đời vua, đưa một Hàm Nghi trẻ tuổi trở thành một vị vua yêu nước, một ngọn cờ tụ nghĩa, nuôi dưỡng tinh thần độc lập chống ngoại xâm trong suốt "trăm năm đô hộ giặc Tây". Sự nghiệp dù không “thành công”, nhưng vua Hàm Nghi đã “thành nhân”. Tên tuổi ông đã đi vào lịch sử, bên cạnh tên tuổi những vị hoàng đế yêu nước triều Nguyễn - Thành Thái và Duy Tân… Lưu lạc đất người Vua Hàm Nghi, tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, con thứ 5 của Kiên Thái Vương (con thứ 29 của vua Thiệu Trị), sinh ngày 3.8.1871, em ruột của vua Kiến Phúc và vua Đồng Khánh. Ông lên ngôi ngày 2.8.1884, khi mới 13 tuổi. Một năm sau, rạng sáng 6.7.1885, nhà vua bất ngờ được các quan đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vời trốn khỏi Hoàng thành sau cuộc binh biến chống thực dân Pháp bất thành ở đồn Mang Cá. Ngày 26.9.1888, vua Hàm Nghi bị bắt. Không bao ngày sau đó, một con tàu viễn dương đã đưa nhà vua thẳng hướng Phi châu. Ngày 13.1.1889 tàu cập bến Alger, thủ đô của nước Algérie. Cựu hoàng Hàm Nghi bắt đầu cuộc đời lưu đày biệt xứ khi tuổi đời bước sang 18. 56 năm trời, lưu lạc trên đất khách quê người, vua Hàm Nghi phải sống một cuộc đời bình thường cách xa đất nước, biệt lập với cộng đồng dân tộc. Chưa ai kể thật tường tận những năm tháng lưu vong của ông. Chỉ biết rằng, trong năm đầu tiên, vua Hàm Nghi từ chối, không chịu học tiếng Pháp, vì ông cho đó là thứ tiếng của kẻ xâm lược nước mình. Ông giao tiếp với mọi người qua người phiên dịch. Về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên ông bắt đầu học tiếng Pháp, trở thành người thành thạo tiếng Pháp. Ông tìm sự khuây khỏa bằng âm nhạc, hội họa và trở thành một họa sĩ theo trường phái của danh họa Pháp Paul Gauguin. Rồi lấy vợ (năm 1904) và sinh con: công chúa Như Mai (sinh 1905), Công chúa Như Lý (1908) và Hoàng tử Minh Đức (1910). Nhưng trong sâu thẳm con tim, ông vẫn hướng về cố quốc. Dân địa phương vẫn nhìn thấy “ông hoàng An-Nam” (Le prince d’Annam) trong bao năm luôn búi tóc, dùng khăn xếp trên đầu, mặc áo dài, giữ nguyên y phục truyền thống dân tộc mình. Bệnh trọng và tuổi tác đã buộc vị cựu hoàng yêu nước từ giã cõi đời ở tuổi 73, ngày 4.1.1944, tại Alger, thủ đô nước Algierie, mang theo nỗi u hoài, tủi hờn vong quốc. Những năm đầu 60 của thế kỷ trước, các con của vua Hàm Nghi đã dời hài cốt vua cha về an táng ở làng Thonac, tỉnh Dordogne, miền tây nước Pháp, cách Paris hơn 500 km. Mộ cựu hoàng Hàm Nghi ở làng Thonac, tỉnh Dordogne (nước Pháp). Ảnh tư liệu. Nấm mồ nhà vua yêu nước ấy vẫn lưu lạc xứ người, cô đơn, cách trở và quạnh hiu, bao năm thưa thớt bóng dáng họ hàng ruột thịt và đồng bào. “Sống gửi thác về” vẫn là ước vọng ngàn đời của con dân Việt. Đã quá lâu, hơn trăm năm, di hài nhà vua yêu nước Hàm Nghi nương gửi xứ người. Đón ông trở về và đặt nằm ấm áp trong lòng đất quê hương, giữa con tim thành kính của đồng bào mình là ước vọng nhiều năm qua của người dân Việt Nam. Ngày về đến gần Thế rồi, tin tức di hài vua Hàm Nghi sắp hồi hương lan nhanh như một tin vui. Nhưng lăng mộ sẽ đặt ở đâu, bao giờ đưa Người về và liệu còn có những trở ngại nào không. Tôi vội tìm gặp những người có trách nhiệm, người có liên quan. Với những điều tôi quan tâm, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô (TTBTDTCĐ) Huế, kiến trúc sư Phùng Phu không chỉ là người có trọng trách đặc biệt mà còn là người am tường nhất. Ông cho tôi biết: Khu vực lăng Đồng Khánh là nơi TTBTDTCĐ Huế đề xuất làm địa điểm đặt di hài và xây lăng mộ của vua Hàm Nghi. Cơ sở của sự lựa chọn này, theo ông: Vua Đồng Khánh và vua Hàm Nghi cùng huyết tộc, là hai anh em ruột. Không gian và cảnh quan của lăng Đồng Khánh rất thuận tiện để có thể xây nơi an nghỉ vĩnh viễn đàng hoàng xứng đáng với sự tôn kính giành cho nhà vua yêu nước Hàm Nghi. Sự lựa chọn này đã có tiền lệ, vì trong khung viên lăng Tự Đức, từ xưa, cũng đã có lăng vua Kiến Phước (được gọi là bồi lăng). Tôi cũng đặt câu hỏi tương tự khi gặp ông Nguyễn Phúc Bảo Hiền, cháu nội của vua Thành Thái tại khu An Lăng. “Mệ” Hiền, người ta vẫn gọi ông theo cách xưng danh với người trong hoàng tộc, cho rằng nên đặt ở An Lăng, nơi đã có lăng mộ hai nhà vua yêu nước Thành Thái và Duy Tân. Nhưng nhiều nhà Huế học không đồng tình, vì An Lăng nay đã quá chật và “không tương xứng với vị thế của Vua Hàm Nghi”… Về sự đồng thuận, Giám đốc Phùng Phu cho biết: Ngoài quyết định của Bộ Ngoại Giao và UBND Thừa Thiên-Huế, đại diện gia đình vị cựu hoàng cũng từng có nguyện vọng đưa di hài vua Hàm Nghi về nước. Về cấu trúc phức tạp của ngôi mộ Hàm Nghi? Vì trong mộ, ngoài di hài Hàm Nghi có các di hài khác của Công chúa Như Mai, Hoàng tử Minh Đức …. Giám đốc Phùng Phu cho biết ngôi mộ ở Pháp là loại “mồ chồng”, tức dưới mộ là một hầm có nhiều tầng, nhiều hốc chứa các di hài khác nhau nên việc di dời hay tách riêng không có gì khó. Tình trạng này rất phổ biến ở Pháp và không thể là một trở ngại. Tôi kết câu chuyện dài và thật thú vị với ông giám đốc bằng câu hỏi: khi nào có thể thực hiện việc di dời? Ông trả lời tự tin: Nên chờ đến tiết thanh minh mát mẻ, mùa tảo mộ. Muộn nhất là tháng 3 năm 2009. Thoáng một chút bất ngờ, rồi tôi bỗng tin vào sự tự tin của ông giám đốc. Điều day dứt của tôi và của bạn đọc vài tuần trước, bây giờ không chỉ đã trở thành niềm hy vọng mà là một hiện thực trong tầm tay. Điều vui nữa, trước khi di hài nhà vua trở về, ở phía tây Hoàng thành đã có một ngôi trường mới, trường trung học cơ sở mang tên Hàm Nghi. Hẳn các cựu học sinh của mái trường Hàm Nghi xưa sẽ vui hơn, vì tên tuổi nhà vua yêu nước đã trở lại với một ngôi trường ngay trong nội thành Huế, sau mấy chục năm chỉ nằm trong ký ức họ. Tôi cũng còn được biết, ở thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1997 đã có một ngôi trường tiểu học dân lập chất lượng cao mang tên nhà vua yêu nước Hàm Nghi. Và ở thành phố lớn này, từ bao nhiêu năm nay, vẫn có một đại lộ Hàm Nghi ngay trung tâm thành phố. Còn ở nơi nào nữa trên đất nước Việt Nam có ngôi trường, hoặc đường phố mang tên một nhân vật lịch sử đã và đang được dân tộc ghi công? Chỉ biết ở Thủ đô Hà Nội chưa có một con đường nào, thậm chí một ngôi trường nào mang tên Hàm Nghi, dù đã mang tên nhiều vị quần thần của Phong trào Cần Vương như Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Thiệp v.v…. Không chỉ với vua Hàm Nghi, tên các nhà vua yêu nước khác thuộc triều Nguyễn - Thành Thái, Duy Tân cũng vắng bóng trên những con đường của Thủ đô. Cùng với sự kiện đưa di hài cựu hoàng Hàm Nghi về nước với những nghi lễ trang trọng và thành kính, việc đặt cho một đường phố hay một ngôi trường tên những nhân vật lịch sử như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân … không chỉ là sự tri ân của dân tộc đối với các bậc tiền bối, mà còn có ý nghĩa chuyển lại cho con cháu mai sau tinh thần yêu nước thương nòi ngàn đời của dân tộc ta. Đó cũng là trách nhiệm trả lại sự công bằng cho quá khứ, cho lịch sử đang đặt lên vai thế hệ hôm nay. Trần Thanh Minh
  7. Phượng hoàng Phoenix có đặc tính là trang trí thêm để hút .......anh hùng , chứ không trụi như vẹt đâu !
  8. Chỗ lõm đó dễ là người phụng sự cho Đạo pháp hay tôn giáo ! nhưng cũng trĩu nặng 1 trời thương nhớ . là người năng nghĩa chung và nặng tình riêng . Nhiều mối quan hệ vọng tưởng ! Chẳng biết có đúng không? Túm lại rất đa đoan !
  9. Có Căn tu thì trên đỉnh đầu có 1 lõm ko tròn , Nhưng không tu được hehe hehe !
  10. Bạn nào sửdung Đèn này mà không hỏi Chú Thiên Sứ cho cặn kẽ về kích cỡ thì cũng dễ PHẠM lắm !
  11. Trăng sáng quá hay là em cao quá !Mắt em buồn man mác cả mười phương Một phương thương nhớ em lặng lẽ Em thấu phương nào đang nhớ mong ? Kiêu sa tơ vàng em ghé bước Để lại lòng vương thoáng sững sờ . Cảm tác họa thơ Phoenix dù chưa đối diện ! Qua NICK thui ! Có sai thì xí xóa nhé ! Có đúng thì khuyến khích cho Chị phóng tác nhé !
  12. Phương pháp này của Phoenix cũng là 1 TUYỆT CHIÊU đấy , nhưng Phoenix kết hợp Nick của người hỏi quẻ thì hay lắm !Chị chưa đủ tự tin để RAO VẶT cái chiêu Đoán Nick .
  13. Hỡi Phoenix đâu rồi ?
  14. Ngự mãi thuyền nan tìm bến giác Ngộ kỳ duyên nợ rủ sạch tâm Mở lối đón chờ thêm mộng mới lối rẻ đôi đường ngắn bước chân ???? Umh ! Th trang ơi ! Chị rất vui vì em động lòng mà họa thơ , họa vài bài nữa là Chị tự thú với em tất tần tật chuyện tình riêng .......hi hi hi
  15. Gia Nhân luận giúp cho Bính thìn ( nữ ) 093 71 39 667 mới dùng tháng 2 al /08 ?
  16. Chào Phoenix ! Topic này cũng thú vị ! Wild cũng mong có đáp án ! Ba chìm bảy nổi chín cái long đong Má hồng đã quá ngũ tuần trông Tiền tài sự nghiệp có như không duyên tình xôi hỏng , bỏng cũng không ! Thôi thì chọn kiếp sống lông bông ! Vài dòng thơ con nhái ! nhưng là TÂM là TRẠNG
  17. Gia Nhân có thể hướng dẫn tiêu chuẩn để chọn số mới ?
  18. Kinh nghiệm của tôi thì Lòng bàn chân đầy đặn , mu bàn chân không lộ xương , được xem là vững chãi . Vì bàn chân đươc ví như Cái Móng của căn nhà , Một căn nhà đẹp mà Móng không tốt thì cũng đầu rủi ro .
  19. Mình xin được giải đáp cho số ĐT 091 94 911 94 Nữ Mậu thìn đã sử dụng 4 năm .
  20. Chuyện ông giáo nghèo và khu đền Quốc Tổ - Cổng vào khu Tổ đình Quốc Tổ Lạc Hồng (94 Nguyễn Thái Sơn, Q Gò Vấp) rộng hơn 5m, được khắc nổi dòng chữ Tổ đình Quốc Tổ. Vào những ngày cận kề ngày giỗ tổ đình được bài trí trang trọng, thêng liêng ngay từ cổng chào đi vào. Khó ai tưởng tượng được khuôn viên khoảng hơn 700m2 sạch đẹp này từng là khu đền nhỏ cột kèo bằng gỗ, lợp mái lá được một nhà giáo nghèo từ Châu Đốc (An Giang) dựng vào năm 1964. Ngoài khu đình Quốc Tổ mà thầy coi sóc hiện nay, còn có hai khu đền nhỏ ở Đồng Tháp thầy dựng lên cho bà con thân hữu coi sóc. Với thầy, “Tôi luôn muốn lập đền Quốc Tổ, lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo không quan trọng vì đó là tấm lòng.” Từng đi tù vì… thờ Quốc Tổ Trước khi mở đền Quốc Tổ Lạc Hồng ở Gò Vấp, trước năm 1960 ông Sơn Hồng Đăng đã lập khu đền nhỏ thờ Quốc Tổ ở Đồng Tháp và đã bị bỏ tù 2 năm vì chính quyền cũ kết tội: chỉ Việt cộng mới thờ Quốc Tổ! Học sinh tham quan trống đồng trong Tổ đình Quốc Tổ sáng 14/4 (9/3 âm lịch). Ảnh: Đ.Toàn Ra tù, ông lên Sài Gòn tiếp tục dạy học và xây đình thờ Quốc Tổ. Ông chia sẻ: “Người ta sống trong đời cần giữ lấy cái đạo, mình người Việt, thấm nhuần đạo ông bà tổ tiên, như cây có cội như sông có nguồn, đó cũng chính là điều tôi đúc rút được sau thời gian theo học thầy Lưu Văn Lang (một trí thức yêu nước nửa đầu TK XX ở miền Nam), và tự thấy mình theo đạo thờ tổ tiên, thờ cha Rồng, thờ mẹ Tiên và các vua Hùng là hợp lẽ".Tổ đình Quốc Tổ Lạc Hồng hiện có ba tượng thờ: Quốc Tổ Hùng Vương, Quốc Mẫu Âu Cơ bằng đồng và tượng cha Lạc Long Quân đắp bằng thạch cao. Tượng Lạc Long Quân gắn nhiều kỷ niệm với thầy do tự tay thầy đắp lấy ngay từ thời hàn vi mới mở đền. Bấy giờ không có nguyên vật liệu cũng như tiền bạc để đắp tượng cha Lạc Long Quân, ông đã sử dụng bức tượng Di lạc xin được từ một ngôi chùa ở tận Châu Đốc đưa lên Sài Gòn làm "cốt" đắp tượng Lạc Long Quân. Chính vì thế, với gương mặt chữ điền vuông vức, trang nghiêm hào sảng, đai áo chỉnh tề nhưng phảng phất trong nét tượng cha Lạc Long Quân vẫn có bóng dáng ông phật Di lạc tươi tắn, ông giải thích. Vui khi ngày càng nhiều người thờ tổ Đại tướng Mai Chí Thọ thường xuyên thăm đình những ngày lễ, Tết. (Ảnh TL) Ngoài những cổ vật gia đình gìn giữ được trang trí trên những bàn thờ Quốc Tổ, ở đây còn có nhiều phiên bản trống đồng, chiêng đồng do bà con đưa từ đất Tổ (Phú Thọ) vào tặng năm 1990. Đặc biệt, có trống đồng do ông dồn góp hết của cải một đời đi dạy học tích góp được, thuê người cùng đúc. Năm 1980, đúc trống đồng hết 30 triệu đồng, là một gia tài lớn, với ông, đó là gia tài vô giá.Hàng năm, Tổ đình tổ chức trọng lễ vào ngày 1/1 (tết cha), 5/5 (tết mẹ) và 10/3 giỗ tổ tiên (âm lịch), đón hàng nghìn khách từ các tỉnh miền Tây về giỗ Tổ. Số lượng khách tăng hàng năm, thậm chí không ít đoàn khách từ miền Bắc cũng ghé thăm. Trong mắt ông chủ đình Sơn Hồng Đăng - "Càng đông người đến, tôi càng vui vì ngày giỗ Tổ, con cháu lại cùng ngồi bên nhau nhắc chuyện cha ông". Một hai năm lại đây, số lượng khách ngày càng tăng khi người dân ngày càng ý thức nhiều hơn về ngày Quốc Tổ. Một số Trường Tiểu học Trần Văn Ơn, Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Văn Trỗi hàng năm vẫn đưa học sinh tham quan, thắp hương nhân ngày giỗ Tổ và nghe thầy Sơn kể chuyện các vua Hùng. Ông cũng kể, lúc sinh thời, Đại tướng Mai Chí Thọ và ông Trần Bạch Đằng vẫn tới thắp hương, trò chuyện ở đền vào những ngày Tết, lễ. Ông Trần Bạch Đằng vẫn nhắc: “Cái quý nhất là tấm lòng thì mình đã dành trọn hướng về Quốc Tổ. Còn việc thờ cúng lâu dài thì một gia đình, họ tộc hay một người, nhóm người tự làm không thể nào bằng nhờ chính quyền Nhà nước làm.” Thấu đáo với tâm tình này, ông Sơn Hồng Đăng cho biết tuổi càng cao sức càng yếu, ông đã viết sẵn di chúc giao khu đền lại nhờ Nhà nước chăm nom giúp; nếu được thuận tình thì đó là sở nguyện lớn nhất suốt đời ông thờ đạo cha mẹ được đền đáp có hậu. Ông Sơn Hồng Đăng cùng bà con từ miền Tây lên chuẩn bị soạn sửa cho ngày giỗ Tổ. Ảnh: Đ. Toàn Dịp giỗ Tổ, hàng ngàn bà con khắp các tỉnh miền Tây, TP.HCM và các tỉnh lân cận thăm đình cúng Tổ. Ảnh: Đ. Toàn Bài: Vinh Giang, ảnh: Đức Toàn
  21. Cám ơn Phoenix đã Post bài viết này như thêm 1 tiếng vọng cho Công trình nghiên cứu của Nguyễn Vũ Tuấn Anh , Anh đã tâm huyết chứng minh hằng bao nhiêu năm về lịch sử Lạc Việt 5000 năm . Sự kiên tâm của Anh đôi lúc làm tôi Kính phục , và tôi cũng chúc mừng anh khi Anh được công nhận và hình như Anh cũng chỉ khao khát có thế ! Nền Văn Minh , Văn hiến 5000 năm là của người Việt , Chúng ta có quyền tự hào về điều đó , Anh cũng TỰ HÀO về điều đó ! Tôi đã ở bên cạnh Anh trong những ngày tháng dài miệt mài đó như 1 nhân chứng nhỏ bé so với ước vọng của Anh ! Có lẽ khi Anh đọc được bài viết này dù chỉ là Blog của Dương ! Anh cũng sẽ rất vui và cảm kích. Riêng tôi , tôi cũng cảm ơn bài viết này .
  22. “…Vậy điều gì đã xảy ra trong quá khứ? Cao Biền thật sự là ai? Cao Biền có thực sự yểm bùa thành Đại La hay đó chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng? Dân gian là nguồn phát tán mạnh mẽ sâu và xa các câu chuyện truyền thuyết. Điều gì càng bí hiểm, càng mơ hồ, càng ma thuật thì càng hấp dẫn. Có thể thấy câu chuyện về Cao Biền đi vào các làng quê, trong tiếng nhai trầu bỏm bẻm của người già kể lại cho lớp con cháu sau này phong phú đến chừng nào…” Năm 2007 có một sự kiện hy hữu xảy ra trong báo chí Việt Nam: Một hiện tượng đã xảy ra cách đó 6 năm nhưng nó lại biết tới bởi 6 năm sau nhiều hơn là thời gian nó tồn tại. Hơn nữa, hiện tượng đó lại chỉ được đăng tải trên những “tờ báo loại 2”, nghĩa là không mang tính chính thống. Đó chính là hiện tượng của loạt bài báo mang tên “Thánh vật sông Tô Lịch” được “nhai lại” bởi tờ “Người bảo vệ pháp luật”. Sau sự kiện trên, tờ báo kia có lẽ phải đăng một dấu đỏ chót vào trong lịch sử Guinness Việt Nam vì khả năng thổi phồng một hiện tượng nhằm thu hút độc giả lớn nhất trong thời gian ngắn nhất. Sự thực, câu chuyện về “Báu vật sông Tô Lịch” hấp dẫn người bởi những phép thuật được cường điệu quá đà, dựa trên những câu chuyện dân gian cách đây hàng nghìn năm về nhân vật phù thủy Cao Biền nổi tiếng Trung Hoa muốn trấn yểm long mạch Việt Nam: viên tướng, thầy phù thủy, thầy phong thủy, thầy tướng dưới thời vua Đường. Nhưng câu chuyện trong quá khứ lại càng thu hút hơn bởi tính thời sự của nó, khi nó gắn với những câu chuyện đương thời. Ngày 27/9/2001, Đội thi công số 12 (Công ty xây dựng VIC) trong khi nạo vét sông Tô Lịch đã phát hiện những di vật cổ rất lạ và huyền bí: 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ.., đồ gốm, xương voi, ngựa, dao, tiền đồng…Rồi chuyện máy xúc Komatsu tự nhiên lao xuống sông, nào là những người đang làm việc tự dưng ngã lăn ra đất, đưa la bàn ra thử thì la bàn quay tít. Một năm sau đó, những câu chuyện buồn của các thành viên trong Đội nạo vét sông được gán với những câu chuyện mơ hồ liên quan tới thuật bùa chú. Các nhà khoa học được mời đến với nhiều giả thuyết, tranh cãi khác nhau và cũng chẳng đưa đến một kết luận nào. Câu chuyện ầm ĩ trên báo chí rồi đi vào quên lãng, cho đến khi nó được khơi mào trở lại một cách ầm ĩ hơn gấp nhiều lần trong năm vừa qua. Chuyện “trấn yểm” sông Tô Lịch bị báo chí “lá cải” lạm dụng. Vậy điều gì đã xảy ra trong quá khứ? Cao Biền thật sự là ai? Cao Biền có thực sự yểm bùa thành Đại La hay đó chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng? Dân gian là nguồn phát tán mạnh mẽ sâu và xa các câu chuyện truyền thuyết. Điều gì càng bí hiểm, càng mơ hồ, càng ma thuật thì càng hấp dẫn. Có thể thấy câu chuyện về Cao Biền đi vào các làng quê, trong tiếng nhai trầu bỏm bẻm của người già kể lại cho lớp con cháu sau này phong phú đến chừng nào. Phần 1: Trận chiến giữa “phù thủy” phương Bắc và các vị thánh phương Nam Trước khi tìm hiểu Cao Biền thật sự là ai và nguyên nhân Cao Biền trấn yểm long mạch, chúng ta hãy xem sức mạnh của Cao Biền thông qua cuộc chiến đấu với các vị thánh nước Nam. Cao Biền hoảng sợ thần Long Đỗ, lập đền Bạch Mã Được xây dựng trước khi có thành Thăng Long, đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm, Hà Nội) nằm ở hướng chính đông, là một trong tứ trấn của kinh đô thuở ấy. Đền xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Trúc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nay là số 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cao Biền đắp La Thành, mấy lần cứ bắt đầu lại bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Chuyện này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng: Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm? Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng, bùa và đúc một tượng sát hình nhân dị dạng nhằm yểm ngục, không cho nước Nam phát trỉển nhân tài. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi hét lên: “Thần ma của nước Nam rất thiêng, không có cách nào trị nổi được”, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ. Đền Bạch Mã trên phố Hàng Buồm, một trong tứ trấn của Hà thành. Tại đây Cao Biền bị thần Long Đỗ làm cho kinh sợ. Theo một cuốn sách về văn bia ở Hà Nội thì Bạch Mã là ngôi đền rất thiêng. Đây là vị thần chúa tể của một khu vực ngàn dặm được tất cả các đời vua cúng tế. Sau này Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần. Làng Cổ Pháp của dãy núi Tiêu Sơn, “đất hai vua”, nơi Cao Biền không trấn yểm được Làng Cổ Pháp chỉ là một trong hàng ngàn ngôi làng của miền Bắc Việt Nam (nay là làng cổ Đường Lâm) nhưng đây lại là nơi ngưng và kết huyệt long mạch của dãy núi Tiêu Sơn. Dân gian kể lại, đến đời La Quý An, thế đất Cổ Pháp vượng quá. Bao nhiêu vì sao tinh tú trên trời đều chầu về. Quan nhà Đường xem thiên văn, nhìn rõ, tâu lên vua nhà Đường là Đường Ý Tông (860-873)… Năm Giáp Thân (864) vua Đường Ý Tông, nhân việc quan thiên văn báo cho biết thế đất Cổ Pháp và An Nam (Bắc Việt và một phần Trung Việt) có loạn, sai Cao Biền sang Giao Châu. Khi đi, vua Đường dặn riêng với Cao Biền đại khái là Trưng thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đông Hán (25 - 220). Rồi đến Triệu Ẩu (cách người Trung Hoa gọi Bà Triệu, nhằm ý miệt thị), Lý Bôn... làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau này có biến. Khanh đến đó, trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam đi và vẽ địa đồ về cho trẫm Nhân dịp đi qua đất Cổ Pháp, Cao Biền có cho đào 19 cái lỗ chôn bùa ngải để yểm đất. Ngài La Quý An biết vậy nên cho người lẻn đào 19 cái lỗ đó lên và trồng 19 cây lê vào. Về sau, đất này là nơi sản sinh ra rất nhiều người tài giỏi. Nhiều vị anh hùng hào kiệt đã được nuôi dưỡng bởi linh khí nơi này, trong đó có hai vị vua là Ngô Quyền và Phùng Hưng. Cao Biền không “phỉnh” nổi thánh Tản Viên Thánh Tản Sơn chính là vị thần Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, và là một trong tứ vị thần bất tử của Việt Nam. Để có thể diệt được thần bản địa, Cao Biền đã dùng một mưu mẹo rất “con người” là giả lập đàn cúng tế, lừa thần lên rồi dùng kiếm báu chém đầu. Chém xong, Cao Biền đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc dùng cách cũ để thần bản địa đến. Cao Biền có lần đến núi Tản (còn gọi là núi Ba Vì), định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền nhổ một bãi nước bọt vào Cao Biền và bỏ đi (có truyền thuyết nói là mắng Cao Biền và bỏ đi). Phá linh khí chùa Thiên Mụ, nhưng chúa Nguyễn hàng trăm năm sau vẫn lấy lại được Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường Ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây…” Về sau, Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời). Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này. Núi Hàm Rồng – cuộc chiến giữa Cao Biền và Tả Ao Truyền thuyết kể, Biền thấy đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó lòng cai trị, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và tìm cách trấn yểm các long mạch để phá vượng khí của người Nam. Một lần bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi. Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát. Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý thì lại càng ham thích, rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa. Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam. Có người lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép. Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm. Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên làng. Như vậy, khi mới chỉ điểm qua những truyền thuyết tiêu biểu về Cao Biền, đã cho thấy sức mạnh của các vị Thánh nước Nam. Chúng ta có thể đưa ra giả thuyết rằng, những câu chuyện trên được dân gian dựng lên nhằm tôn vinh linh khí của chính làng mình. Phép thuật của Cao Biền có lẽ, phần đa là do những người kể chuyện xưa vẽ lên. Thời điểm Cao Biền sang nước Nam cũng chính là thời điểm mà Đạo giáo từ Trung Hoa truyền bá vào Việt Nam, cụ thể là các thuật xem tử vi, phong thủy, bùa chú, luyện linh đan... Những câu chuyện về Cao Biền là minh chứng cụ thể nhất cho tín ngưỡng Đạo giáo đang nở rộ ở nước ta thời bấy giờ. (Còn nữa) Nguồn Vietimes.
  23. Cao Biền, bùa chú và sự thật. “…Chỉ non một ngàn ngày nữa là Thăng Long – Hà Nội tròn nghìn năm tuổi. Câu chuyện “yểm bùa” của Cao Biền theo một nhận định khác cũng là tôn vinh vùng đất Địa linh nhân kiệt Thăng Long. Vùng mà vua Lý Thái Tổ tinh tường đã chọn làm kinh đô mới, đổi tên thành Đại La là Thăng Long, chọn thần Long Đỗ (vị thần khiến Cao Biền khiếp sợ) thành Thành Hoàng của Thăng Long. Và, tất cả truyền thuyết về sức mạnh của Cao Biền có lẽ cũng chỉ gói gọn trong thành ngữ của ông cha ta “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” dành cho những người nào sức yếu, tay chẩn run rẩy…” Truyền thuyết kể lại: Cao Biền là phủ thủy cao tay của Trung Quốc. Mỗi lần trời nổi giông gió, sấm chớp là Cao Biền lại cưỡi kỳ lân bay sang nước ta và các vùng đất bên ngoài nước Trung Hoa. Theo các đạo sĩ, khi có gió bão lớn “rồng đất” sẽ thức dậy lộ ra. Linh khí của đất hiện lên để ứng hợp với sức mạnh của trời. Cao Biền bay lượn trên cao nhìn xuống phát hiện ra vùng đất nào có “long mạch” để yểm bùa xuống. Tượng đài Lý Thái Tổ bên Hồ Gươm. Người xuất thân từ làng Cổ Pháp, nơi tích tụ tinh hoa anh tài của nước Việt mà Cao Biền không thể trấn yểm. Trong chính sử của người Việt viết về Cao Biền (Đại Việt Sử ký tòan thư, Tập 1, NXBKHXH năm 1993): Cao Biền tự là Thiên Lý, cháu của Nam Bình Quận vương Cao Sùng Văn dưới thời vua Đường. Thuở nhỏ, Cao Biền học giỏi, chăm chú luyện kiếm bắn cung. Cao Biền có tài bắn cung xuyên đôi ngỗng đang bay trên trời, được người đời coi là bậc kỳ tài. Cao Biền được cử làm Tiết Độ sứ Giao Châu (tên gọi của nước ta lúc bấy giờ) thay cho Trương Nhân bị mất chức vì không dẹp được trộm cướp ở khu vực này. Sau khi đã bình định xong Giao Châu, Cao Biền cho xây thành Đại La để tập trung quyền lực về một mối. Theo Việt sử lược: Thành Đại La được xây dựng vào Thể kỷ thứ 7 có tên là Tống Bình. Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ dân ở thành có ý đồ phản nghịch liền sai thầy bói gieo một quẻ. Thầy bói nói rằng: Sức ông không đủ bồi đắp thành lớn. 50 năm sau sẽ có một người họ Cao đóng đô tại đây và xây dựng Vương phủ. Quả đúng thế, tới vua Đường Y Tôn (841-873), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết độ sứ. Cao Biền vốn là một ngừơi rất giỏi, đa hiệu: vừa là Tướng, vừa là Đạo sĩ, vừa là Phủ thủy, lại vừa là nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn vào những năm 866, 867, 868. Một số tài liệu khác lại cho hay, Cao Biền là người nghiêm khắc, lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Năm 879, quân đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Hải Quân tiết độ sứ (ở Trấn Giang, Giang Tô ngày nay). Quân Hoàng Sào ngày càng hung hãn khiến Cao Biền khiếp sợ. Khi Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của vua Đường, dù đang có binh lực trên 100.000 mà lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà Đường bãi miễn Cao Biền. Về già, Cao Biền tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ hòng làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài – Nam là Tất Sư Đạc rất lo sợ. Năm Trung Hòa thứ năm (885), Cao Biền tạo phản. Năm Quang Khải thứ ba (887), Cao Biền bị bắt làm tù nhân và bị giết. Nếu như Cao Biền thật sự có sức mạnh và tầm ảnh hưởng lớn đối với vùng đất Giao Châu, thì có lẽ nhà sử học Lê Văn Hưu (sử gia biên sọan Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế (207-136 tr,CN) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225) trong phần ngoại kỷ của Bộ sử Đại Việt Sử ký toàn thư sẽ dành cho Cao Biền nhiều trang viết hơn thế. Cao Biền trong sử sách ghi lại một cách chính thống chỉ là một viên tướng có tài thao lược, và có công trong xây dựng La Thành (Thành Đại La hiện nay). Ngoài ra, không một dòng nào nói về ma thuật của Cao Biền. Đến đây chúng ta có thể khẳng định: Cao Biền là nhân vật có thật, được ghi chép trong lịch sử như một vị tướng có tài, nhưng không có dòng nào chép về khả năng pháp thuật của Cao Biền. Vậy thì tại sao một nhân vật không mấy tên tuổi trong lịch sử Trung Hoa như Cao Biền, lại có thể “ghi danh” ở Giao Châu như một viên phù thủy có khả năng “trấn yểm” long mạch của cả vùng đất này? Phải chăng những truyền thuyết về Cao Biền trong dân gian chỉ đơn thuần là tấm gương phản ánh một cách mơ hồ những câu chuyện về Đạo giáo bắt đầu xuất hiện ở nước ta thời bấy giờ? Mà có lẽ, nguyên do của những câu chuyện đó lại là khẳng định sự linh nghiệm của vùng đất địa linh nhân kiệt hơn là khẳng định khả năng phù thủy của ông ta. Cho dù thời kỳ Giao Châu cách chúng ta hàng nghìn năm mông muội với phép thuật, khả năng bùa chú, thì tinh thần quật cường và lòng tự hào về dân tộc của một đất nước bị chiếm đóng vẫn được thể hiện qua các truyền thuyết. Cao Biền là thầy phù thủy giỏi, nhưng vẫn không thể trấn yểm được linh khí nước Nam. Cao Biền xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ IX, nghĩa là chỉ mấy chục năm sau là thời điểm Ngô Quyền xuất hiện, giành lại nước Nam. Khi ấy, dù người Việt đã bị đồng hóa đến tận máu tủy trong nhiều đời với người phương Bắc, nhưng linh khí nước Nam chảy dưới mạch đất, nước vẫn ngày đêm tích tụ chờ ngày phát lộ. Núi Tản (núi Ba Vì ngày nay) trong mây, nơi Cao Biền bị Thánh Tản (Sơn Tinh) “nhổ bãi nước bọt”. Đó chính là điều mà Cao Biền hoảng sợ. Biền dồn mọi công sức trấn yểm nước Nam nhằm phá vỡ những long mạch trên. Trong bảo tàng tỉnh Hà Tây còn lưu lại một tấm bản đồ cổ được cho rằng đó là tấm bản đồ đánh dấu những vùng đất trên tỉnh Hà Tây bị Cao Biền yểm mạch. Nhưng đây là tấm bản đồ không có nguồn gốc rõ ràng và sự xuất hiện của nó chỉ là cái cớ cho các nho sĩ vùng Sơn Tây “tôn vinh” khí thiêng của mảnh đất nơi mình sinh ra. .. Những truyền thuyết về Cao Biền yểm bùa vào long mạch, khiến cho xứ Giao Châu không còn có thể sinh ra những kiệt nhân dựng cờ làm vua chống lại triều đình nhà Đường là một câu chuyện phức tạp hơn ý nghĩa “ma quái” của nó. Có hai lý do cơ bản khiến Cao Biền tổ chức những cuộc tế lễ mà người dân Giao Châu coi đó là “lễ yểm bùa long mạch”. Lý do thứ nhất khá đơn giản. Người Á Đông nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng rất coi trọng phong thủy khi xây nhà. Thuật phong thủy có thể giải thích được bằng khoa học vì đó là cách tìm hiểu sự xuất hiện của hướng gió, mạch nước ngầm, hay mỏ kim loại ở mảnh đất định xây cất… Khi xây một tòa thành lớn ảnh hưởng sự sống còn của cả một đô thị, những cuộc tế lễ để xây thành là điều tất yếu xảy ra. Hơn nữa, Giao Châu đối với Cao Biền là một vùng đất xa lạ, có nhiều địa khí linh thiêng chưa thể trấn áp được. Cao Biền và các quân sĩ phải làm tế lễ những vị thần bảo hộ mình, đồng thời tỏ ý “giương oai nhiễu võ” với các vị thần phương Nam để có thể sống yên ổn. Chúng ta chưa thể có những chứng cứ xác thực nhằm chứng minh đồ tế lễ phát hiện dưới lòng sông Tô Lịch là của Cao Biền, nhưng đây là giả thuyết gần nhất với những kết quả có được. Nên nhớ, vào thời điểm ngàn năm phương Bắc đô hộ, dân ta chẳng khác gì một bộ tộc “man di”. Trình độ xã hội thấp, điều kiện sống khổ sở cùng với sự ám ảnh kinh hoàng trước những thuật sĩ từ Trung Hoa sang khiến cho sự thật và sự dối trá bị che phủ bởi một màn sương dầy đặc. Trong bối cảnh đó, Cao Biền đã nhanh chóng nắm lấy tâm lý lệ thuộc này. Cao Biền vừa phao tin vừa tổ chức làm những cuộc tế lễ lớn để “yểm bùa” vào long mạch? Có thể lắm chứ! Tất cả những buổi tế lễ đó cũng có thể đánh vào đòn tâm lý của nhân dân ta, rằng nếu có một anh hùng sinh ra trên mảnh đất Giao Châu thì người anh hùng đó sẽ mất hết ý chí đối địch với Trung Hoa. Thậm chí, ngay cả khi vị anh hùng đó vẫn giữ được ý chí của mình thì sẽ khó lòng thu được nhân tâm về một mối, bởi mối hoang mang của họ về sức mạnh ma thuật phương Bắc quá lớn. Đó là lý do thứ hai. Còn một nguyên do nữa, sâu xa hơn mà cũng mơ hồ hơn, đó là Cao Biền trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế vương của đất Việt. Nhưng có thể do Cao Biền có sự sai lầm về tọa độ, hay khả năng phép thuật có hạn nên đã không thể trấn yểm được Giao Châu. Bằng chứng là chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt đã giành lại được độc lập. Một dải Long mạch bị Cao Biền trấn yểm nhưng vẫn phát sinh những vùng đất Địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên Tử, đền Kiếp Bạc... Chưa hết, con sông Tô Lịch vẫn tồn tại, dù ngày nay nó chỉ còn bóng dáng của một mương nhỏ ở Hà Nội. Trải qua hàng nghìn năm, con sông ngày càng nhỏ lại. Và hiện nay sông Tô Lịch chỉ chảy từ khu vực phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Một nguyên nhân nữa đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là việc san lấp của người Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người Pháp đã cho lấp mất sông Tô Lịch khi xây dựng thành phố Hà Nội, nơi đổ ra sông Hồng. Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ… Trước kia nó chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn từ khúc Thụy Khuê. Và hiện nay sông Tô Lịch chỉ chảy từ khu vực phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Cũng ngay sau những cuộc yểm long mạch đó, từ xứ Đường Lâm, Sơn Tây – nơi được coi bị Cao Biển yểm bùa nhiều nhất đã xuất hiện một vị vua oai dũng hơn người. Đó chính là Ngô Quyền. Sau đó từ thời Đinh, Lý, Trần, Lê... cho đến ngày nay, tinh anh nước Việt luôn tỏa ngời. Rõ ràng, chúng ta là một dân tộc được ưu đãi về Địa linh về Sinh khí. Trải qua hàng nghìn năm phong kiến Trung Hoa, trăm năm giặc Ngoại xâm, Địa linh nước Việt vẫn không suy chuyển. Lớp người tài sau nối lớp người tài trước, tạo thành một sợi Sinh khí xuyên suốt và thống nhất hàng nghìn đời. Lẽ ra, vào thời điểm này, tức là lùi xa thời điểm Cao Biền xây dựng La Thành hơn nghìn năm, những cư dân của thế kỷ hiện đại, của công nghệ số và thế giới ảo phải tự hào nhiều hơn về chính bản thân mình, nơi trong mỗi dòng huyết quản chảy đều có tinh túy của Sinh khí anh hùng. Chỉ non một ngàn ngày nữa là Thăng Long – Hà Nội tròn nghìn năm tuổi. Câu chuyện “yểm bùa” của Cao Biền theo một nhận định khác cũng là tôn vinh vùng đất Địa linh nhân kiệt Thăng Long. Vùng mà vua Lý Thái Tổ tinh tường đã chọn làm kinh đô mới, đổi tên thành Đại La là Thăng Long, chọn thần Long Đỗ (vị thần khiến Cao Biền khiếp sợ) thành Thành Hoàng của Thăng Long. Và, tất cả truyền thuyết về sức mạnh của Cao Biền có lẽ cũng chỉ gói gọn trong thành ngữ của ông cha ta “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” dành cho những người nào sức yếu, tay chẩn run rẩy. Xuân Nam (Vietimes)
  24. Chính xác ! Bạn đã thành công trong việc bổ sung phàn mềm này , trao đổi với Sư Phụ TS sẽ hoàn chỉnh hơn !