wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. CHÍNH XÁC ! TK đã ghi nhớ thì thực hiện thành công đi nhé !
  2. Được biết có trường hợp chủ thuê bao cài chế độ Hộp thư thoại , những âm thanh kỳ quái , hú , gầm . khóc cười để khi ai gọi đến cũng nghe được những âm thanh này .
  3. Cám ơn TT đã nhanh chóng hồi âm ! về cơ bản TT đã lên quẻ và luận đúng 95% , vấn đề còn lại là các ACE có ra quẻ khác không ?
  4. Lá Số Tử Vi: NAM DU TÊN: NAM_DU_ Năm Sinh: ĐINH TỴ Âm-Nam Tháng: 6 Ngày: 3 Giờ: HỢI Bản-Mệnh: Sa-trung-Thổ Cục: Thổ-ngũ-cục THÂN cư PHU-THE (Than) / 25: tại cung NGỌ CHA :GIAP NGO , ME : AT MUI . EM GAI : AT SUU
  5. Post bài hỏi Chi laviedt rồi nhưng chợt nhớ Topic này Wild muốn nhờ ACE luận cho những câu hỏi của Wild trước khi Chị laviedt giải . Công việc của Wild đã ngủ quên , bế , ngưng đọng ..... Nay Wild không khoanh tay chờ đợi nữa , Wild có 1 giải pháp mới để mở lại vấn đề cũ . - Anh Chị em xem giúp wild THỰC HIỆN có thuận lợi không ? - Người giúp Wild có chí tình hành động không ? - Wild có thu hồi được tài chính đã mất mát ? Rất mong chờ đáp án của các bạn !
  6. Chào Chị Laviedt ! Wild rất lấy làm tiếc không gặp được Chị dịp Chị vào tp HCM !!!! Dù lòng rất muốn ! Duyên của Wild không có với Chị . Nay Wild gặp một việc khó nghĩ muốn Chị giúp cho một quẻ ! Hy vọng Chị online LHDP để tư vấn cho Wild thật sớm ! Công việc của Wild đã ngủ quên , bế , ngưng đọng ..... Nay Wild không khoanh tay chờ đợi nữa , Wild có 1 giải pháp mới để mở lại vấn đề cũ . - Chị xem giúp wild THỰC HIỆN có thuận lợi không ? - Người giúp Wild có chí tình hành động không ? - Wild có thu hồi được tài chính đã mất mát ? Chân thành cám ơn ! Rất mong tin Chị !
  7. Wild cũng mong nguyện ước của các bạn nhanh chóng đạt được sau khi áp dụng điều này vào đúng ngày thứ sáu 13 . Sau 0 giờ của ngày 12 thứ 5 , có giá trị là ngày thứ sáu 13 ? Bất kể bạn thức giấc vào giờ nào trong đêm , chưa đặt chân xuống giường . Ban hãy ƯỚC 1 điều , ví du : Sớm có 1 căn nhà để ổn định cuộc sống : Hôn nhân muộn màng : v..v ........... Tất nhiên điều ước phải nằm trong tầm tay với của bạn mà nhiều năm bạn mong mỏi không thực hiện được . Có nghĩa là không viễn vông , xa vời ảo tưởng và bất chính . Điểm lưu ý mà kinh nghiêm Wild trãi qua : VẬN MỆNH chưa mỉm cười hoặc PHẦN PHƯỚC chưa đến , bạn sẽ QUÊN thực hiện dù trước đó bạn rất tập trung để CẦU NGUYỆN trước khi đi vào giấc ngủ . Suốt thời gian dài Wild đã mơ ước rất nhiều nhưng chỉ đạt được 2 điều , do BỊ QUÊN khi thức dậy và chỉ nhớ sau khi bước xuống giường hoặc làm xong , nói xong 1 câu gì đó ! Các bạn hãy thử nghiệm sẽ thấy được Linh Nghiệm .
  8. Giáo sư Vũ Khiêu: “Phải biết loại bỏ đồ rởm!” Thứ ba, 6/11/2007, 07:00 GMT+7 Giáo sư, nhà văn hóa Vũ Khiêu nhắn nhủ thế hệ trẻ làm nghệ thuật rằng họ phải biết chọn cái đẹp để đi theo. Trước những cái ngoại lai không phù hợp, họ phải biết mỉm cười, gạt đi và nói: Đó là “đồ rởm”. Giáo sư Vũ Khiêu - Ảnh: Nguyễn Phú Cương Phóng viên (PV): Thưa giáo sư, những nghệ sĩ trẻ ngày nay luôn thích sáng tạo. Nhưng trong quá trình tìm cái mới để khẳng định mình, họ làm ra những thứ kỳ quái, không phù hợp với văn hóa người Việt và gọi đó là nghệ thuật đương đại. Như vậy có phải là sáng tạo nghệ thuật không ạ? Giáo sư Vũ Khiêu (VK): Nghệ thuật luôn luôn vận động và đổi mới. Tôi hoan nghênh lớp trẻ tìm tòi cái mới, không những phát triển và biến đổi nghệ thuật trong đời sống thẩm mỹ của xã hội, mà còn phù hợp với đời sống văn minh hiện đại, với nhu cầu thẩm mỹ của thời đại chúng ta. Tôi 92 tuổi, ngược lại 92 là 29. Thuở tôi 29 tuổi tôi đã viết rất nhiều bài chống lại tư tưởng của tầng lớp nhiều tuổi hơn tôi có đầu óc bảo thủ. Tôi hô hào thanh niên ăn mặc cho thật đẹp, đổi mới tư duy thưởng thức nghệ thuật. Ngày đó, tôi nói về đặc trưng của nghệ thuật, thế nào là cái đẹp trong cuộc sống, cái đẹp trong con người. Bởi vậy, bao giờ tôi cũng đứng về phía lớp trẻ, đứng về phía thay đổi để nghệ thuật Việt Nam ngày càng được nâng cao, phù hợp với phẩm chất của con người Việt Nam, tâm hồn của con người Việt Nam. Thanh niên bây giờ có sự tìm tòi, tôi rất hoan nghênh. Nhưng mà phải giúp cho thanh niên nhận thức được cái nào là đúng, cái nào là sai. PV: Theo giáo sư, nghệ thuật hiện đại phát triển thế nào là đúng và phù hợp với tâm hồn Việt? VK: Nếu theo quan điểm bình thường, nghệ thuật phải phản ánh hiện thực. Thế nào là hiện thực? Hiện thực không phải chỉ là hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày như việc chụp ảnh ra cái ảnh. Hiện thực bây giờ phải đi sâu hơn vào tâm tư và tâm hồn con người. Hiện giờ chúng ta sống trong thời đại của thông tin, của tri thức. Nó không giống thời đại của chiến tranh, chỉ có cầm súng và nhằm thẳng quân thù mà bắn. Công chúng mà chúng ta phục vụ có thị hiếu khác. Vậy nên, nghệ sĩ cần thay đổi suy nghĩ, xúc cảm của mình để xúc cảm của mình phù hợp với xúc cảm tiên tiến của xã hội. Thị hiếu của tác giả phải phù hợp với thị hiệu lành mạnh nhất, tiến bộ nhất của xã hội thì mới thành công được. Và cũng cần cái gạch nối giữa nghệ thuật thời xưa với nghệ thuật bây giờ. PV: Có nghĩa là dù sáng tạo nghệ thuật đến đâu đi nữa, dù đổi mới đến đâu đi nữa những người nghệ sĩ cũng không được quên cái gốc, và phải sáng tạo dựa trên cơ sở văn hóa, truyền thống của mình? VK: Đúng, Cho nên nghệ thuật cần có tính liên tục của nó, từ cái cũ sang cái mới phải có tính liên tục. Nếu cứ liên tục nâng cao, cao đến một mức nào đó, cái mới sẽ thay thế cho cái cũ. Cho nên sự phát triển của mọi sự vật trên thế giới này vừa có tính liên tục, vừa có tính đứt đoạn. Sự đứt đoạn đó là sự bàn giao giữa cái cũ và cái mới. PV: Như hiện nay, các nghệ sĩ đương đại đang làm ra thứ nghệ thuật hoàn toàn khác lạ với xã hội. Họ lập ra những hình thù quái dị trông rất sợ, sáng tác ra những loại nhạc không theo thang âm nào cả. Điều đó có nên làm không ạ? VK: Có thời kỳ thanh niên sống đi ngược lại với xã hội. Như phong trào hippy những năm 1960-1970. Khi đó, xã hội suy thoái, thanh niên trên khắp thế giới trở nên bất mãn, họ phản ứng bằng cách phá phách, làm những việc đi ngược với xã hội, chống lại xã hội. Nhưng đó là thời kỳ xã hội thế giới khủng hoảng. Còn hiện giờ, sau một thời kỳ khủng hoảng kinh tế, xã hội Việt Nam đã đổi mới, đi vào con đường lành mạnh. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã hội nhập đầy đủ với thế giới. Việt Nam đang nổi bật lên trên bản đồ thế giới. Chính phủ chúng ta đi đúng đường với quy luật thế giới, phù hợp với mong mỏi của nhân dân. Nên bây giờ thanh niên trong đó có những nghệ sĩ trẻ phải phát huy trí tuệ của mình đưa xã hội tiến lên phía trước. Nếu bây giờ họ có hành động nào đi ngược lại với xã hội, cái đó không thể tồn tại lâu dài. PV: Vậy một nghệ sĩ tự dưng đóng khố, vẽ mặt lem nhem, chạy rông trên phố, rồi gọi đó là nghệ thuật trình diễn và cho rằng những ai phản đối nghệ thuật đó là không biết gì về nghệ thuật thì sao ạ? VK: Đóng khố chạy ra đường phố, cho rằng những người không hiểu cái đó là không hiểu nghệ thuật. Đó là ý nghĩ sai lầm. Trong thị hiếu của người ta ở bất cứ thời kỳ nào, cái đẹp phải chiếm ưu thế, phải giữ vị trí trung tâm của xã hội. Giống như thanh niên bây giờ, họ ăn mặc đẹp là để làm đẹp cho bản thân mình và cũng làm đẹp thêm cho xã hội. Mỗi người tìm tòi những bộ quần áo phù hợp với mình, phù hợp với sự mong đợi, sự tán thành của xã hội. Chứ không phải chọn bộ quần áo ngược lại để cho xã hội lên án, xã hội chán ghét. Hành động tự tách mình ra khỏi cuộc sống xã hội của những nghệ sĩ đó nên lên án. Những nghệ sĩ đó trở nên lạc lõng giữa cả chiều hướng đang phát triển của xã hội. Nếu xã hội không lành mạnh, đang xuống dốc thì làm ngược lại nó lại hay. Nhưng bây giờ xã hội đang phát triển, đang mở ra những điều tốt đẹp. Bởi vậy cần phải loại bỏ ngay những hành động như vậy. Cái cổ vũ cho các nghệ sĩ chính là sự niềm tin vào sự phát triển của xã hội. Sứ mệnh của người nghệ sĩ là phải góp phần làm cho xã hội tốt đẹp, mọi suy nghĩ của con người trong xã hội tốt đẹp. Tôi nghĩ đó cũng là sức mạnh, nhu cầu thẩm mỹ rất tốt đẹp của người nghệ sĩ. Giáo sư Vũ Khiêu - Ảnh: Nguyễn Phú Cương PV : Nhưng có thực tế là công chúng hiện nay chưa phân biệt được cái hay, cái dở và họ đã đổ xô xem những buổi biển diễn đó vì tò mò, hiếu kỳ. Điều này làm ảnh hưởng tiêu cực tới cảm quan nghệ thuật của công chúng? Các cơ quan chức năng phải làm gì trước những hành động như vậy?VK: Luật pháp nước ta có điều quy định xử phạt những hành động vi phạm cuộc sống lành mạnh của xã hội. Cởi trần ra ngoài phố là không được, là phạm tội. Mình phải tôn trọng bản thân mình, tôn trọng người khác, nên phải sống thế nào để hòa nhập với xã hội. Lớp trẻ thích cái mới lạ, có những cái mới lành mạnh, là nhu cầu phát triển của xã hội đi lên, có những cái không phù hợp. Muốn khắc phục thì phải giáo dục, mà trước hết là giáo dục từ trong các trường nghệ thuật. Chúng ta phải chống cái cổ lỗ sĩ nhưng cũng phải chống cái đi ngoài lề, chống những cái đi chệch hướng xã hội thì mới bảo vệ được những cái ưu tú của xã hội. Cái gì vi phạm, trở thành cái đi ngược với xã hội, phải đưa vào hình luật. Lành mạnh là phát triển phù hợp với sự phát triển của con người. Con người phát triển từ thấp lên cao. Con người không bao giờ trở lại là con vật. Nên con người từ cái ăn, cái mặc, đi đứng rồi cả nghệ thuật cũng phải ngày một cao lên. Chứ không nói năng bừa bãi, hò hét ngoài phố, đó là sự phá phách không thể chấp nhận được. PV: Các nghệ sĩ đó biện minh là họ học hỏi cái đó từ phương Tây, và phương Tây đã đi trước chúng ta rất lâu rồi? VK: Cả phương Đông, phương Tây đều có chỗ hay, có chỗ không hay. Nên không phải cái gì của phương Tây cũng là hay cả. Không phải bất cứ cái gì của phương Tây lạ là chúng ta phải đi theo và nếu chúng ta không đi theo, thì chúng ta tự coi mình là lạc hậu. Chúng ta phải chấm dứt cái đó. Chúng ta phải tự hào suy nghĩ rằng dân tộc Việt Nam này là dân tộc từ trước đến giờ, rất cao, rất đẹp. Một dân tộc có văn hóa. Chúng ta cùng thế giới vươn tới đỉnh cao của nhân loại, nhưng phải có đầu óc lựa chọn. Không chỉ vấn đề văn hóa mà kinh tế cũng thế. Không phải chọn mô hình này của Trung Quốc, mô hình kia của Nga, của Mỹ. Tất cả cái đó khi vào vào Việt Nam phải biến thành Việt Nam qua sự suy nghĩ của Việt Nam. Những cái gì mới lạ của nước ngoài vào Việt Nam làm thỏa mãn nhu cầu người Việt Nam, nâng cao tình cảm lên, làm cho người ta vui thú lành mạnh, thì đáng hoan nghênh. Nhưng cái gì chỉ lạ thôi thì không được. Có thời chúng ta hay bắt chước, giờ chúng ta phải nghĩ rằng Việt Nam có đủ năng lực để may những bộ quần áo đẹp, làm nổi bật vẻ đẹp người Việt Nam, không nhất thiết phải bắt chước người nước ngoài. PV: Vì thứ được gọi là nghệ thuật này không gần gũi với công chúng Việt Nam nên các nhà hát, sân khấu của Việt Nam ít trình diễn thứ nghệ thuật này. Nhưng các trung tâm văn hóa nước ngoài tại Việt Nam lại hỗ trợ và tổ chức rất nhiều buổi biểu diễn loại hình mới này để thu hút công chúng. VK: Mở rộng cửa tiếp thu văn minh nước ngoài có cái hay và có cái không hay. Cái không hay chúng ta phải chủ động gạt đi, cái hay thì phải tiếp thu nhưng phải phù hợp với người Việt. Chúng ta đóng cửa là sai, nhưng tiếp thu mù quáng là một cái sai nữa. Đồng thời, chúng ta cũng phải nâng cao nghệ thuật của chúng ta để công chúng hiểu và cũng để người nước ngoài hiểu rằng chúng tôi tiếp thu của thế giới, nhưng nghệ thuật đích thực của chúng tôi là cái này. PV: Trước những thứ nghệ thuật “giả hiệu” như thế, theo giáo sư, chúng ta phải làm gì để giúp cho thế hệ trẻ theo ngành nghệ thuật có một cái nhìn đúng đắn về nghệ thuật chân chính? Nghệ thuật không thể tách rời tình cảm. Tình cảm đối với bản thân, với xã hội, xây dựng dựa trên tình yêu thương. Đời nào cũng thế thôi và không bao giờ thay đổi, cái đẹp luôn là trung tâm quan hệ thẩm mỹ với hiện thực. Đó là điều mà mọi người phải vươn tới. Bây giờ có thuận lợi là đất nước đang vươn lên với sự tín nhiệm, khâm phục của nước ngoài. Điều đó tạo ra niềm tự hào trong nhân dân và từ đó dẫn đến sự tự trọng của người mình. Không nên coi mình là nước nhược tiểu, phải đi học hết nước này, bắt chước nước khác. Lớp trẻ làm nghệ thuật sẽ đầy niềm tự hào xây dựng cho đất nước mình một lối sống đẹp, một nền nghệ thuật đẹp. Trường học, gia đình phải nuôi dưỡng niềm tự hào, để khẳng định con người Việt Nam. PV: Giáo sư hình dung thế nào về nền nghệ thuật hiện đại của Việt Nam trong tương lai? VK: Sẽ đổi mới. Hiện thực bây giờ khác nên công chúng đòi hỏi khác. Tôi muốn nói đến công chúng tiến bộ, công chúng có suy nghĩ lành mạnh trong mình. Vì thế, tác giả cũng phải có sự xúc động như thế. Sự tìm tòi nhất định sẽ đưa nền nghệ thuật của chúng ta lên tầm cao hơn. Ví dụ, tìm tòi về phương diện nghệ thuật không nhất thiết là bắt chước nước ngoài trăm phần trăm mà phải phát huy thế mạnh của chúng ta. Thế giới có thể làm được giao hưởng, chúng ta cũng làm được. Nhưng những bản giao hưởng đó vẫn phải mang tâm hồn Việt, sự xúc động vẫn phải là sự xúc động Việt, đáp ứng được nhu cầu của người Việt. Tôi hình dung nghệ thuật Việt Nam sẽ như thế này. Một người nông dân giản dị, vác trên mình mấy thanh gỗ, nhưng khi cần thiết, họ dỡ mấy thanh gỗ đó xuống và họ có 1 thanh sáo trúc để thôi, rồi sắp xếp mấy thanh gỗ lại, gẩy lên âm thanh những âm thanh rung động của đàn bầu. Cái đó giá trị hơn nhiều. Nghệ thuật giá trị từ trong tâm hồn, trong sự xúc động của người ta, chứ không phải từ dụng cụ đẹp hay xấu. PV: Là một nhà văn hóa, một nhà xã hội đã từng có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn hóa Việt Nam, giáo sư mong đợi điều gì ở những người làm nghệ thuật trẻ? VK: Tôi tin tưởng thanh niên, tầng lớp luôn năng động, luôn luôn sáng tạo. Họ sẽ biết chọn cái đẹp, cái hay để đi theo. Trước những cái ngoại lai không phù hợp, họ phải mỉm cười, gạt đi và nói, đó là “đồ rởm”, và cái này chỉ có thể lừa bịp được những người ngây thơ, chứ không thể lừa được những người tiến bộ. Bảo Bình (VieTimes) thực hiện
  9. Trịnh Xuân Thuận: Vinh quang của "Ánh sáng và Bóng tối" Viện Hàn lâm Pháp đã quyết định trao Giải thưởng lớn Moron của năm 2007 cho nhà vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt Trịnh Xuân Thuận vì cuốn sách phổ biến khoa học mới nhất của ông Những con đường của ánh sáng: vật lý và siêu hình học về ánh sáng và bóng tối được NXB Fayard (Pháp) cho ra mắt vảo tháng 3 năm 2007. Vietimes xin giới thiệu với độc giả Việt Nam nội dung cơ bản của cuốn sách đặc sắc này thông qua lời tựa của chính tác giả Trịnh Xuân Thuận cho cuốn sách của mình. Vào ngày 15 tháng 3 tới đây, tại Hội chợ sách Thành phố Hồ Chí Minh, nhà vật lý lừng danh Trịnh Xuân Thuận sẽ có buổi giao lưu trực tiếp với những độc giả yêu mến các tác phẩm của ông. Giải thưởng lớn Moron được coi là tương đương với giải thưởng Pulitzer hay Giải thưởng sách quốc gia của Mỹ. Trong nhiều năm, giải thưởng này đã được trao cho các tác giả xuất sắc của nước Pháp, kể cả các chính khách và các học giả. Trong cuốn sách dày 750 trang này, Trịnh Xuân Thuận đã thảo luận về ánh sáng, và liên quan tới nó là bóng tối, trên nhiều phương diện, bao gồm tầm quan trọng của nó đối với sự sống, đối với khoa học, sự diễn giải ánh sáng của bộ não, nghệ thuật của các hoạ sĩ thuộc trường phái ấn tượng, việc sử dụng ánh sáng trong kiến trúc và các khía cạnh tâm linh của ánh sáng,... Cuốn sách này cũng là bản sử thi về cuộc hành trình của con người đi vào vương quốc của ánh sáng và giải mã những bí mật của nó. Giải thưởng lớn Moron thường được trao cho các tác phẩm triết học hơn là khoa học. Tuy nhiên, Trịnh Xuân Thuận luôn viết về khoa học trên quan điểm triết học, như ông đã làm trong Những con đường của ánh sáng. Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, từ nhỏ đã được học trong các trường Pháp, nên Trịnh Xuân Thuận luôn viết sách bằng tiếng Pháp. Ông đã cho xuất bản 8 cuốn sách, trong đó có nhiều cuốn là best-seller và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Đặc biệt, cuốn Cái vô hạn trong lòng bàn tay - một cuộc đối thoại giữa vật lý và Phật giáo,- đã được đón tiếp rất nồng nhiệt ở Pháp, Mỹ và Việt Nam. Lĩnh vực nghiên cứu hiện nay của Trịnh Xuân Thuận là tìm hiểu sự hình thành của các thiên hà. Lễ trao giải thưởng lớn Moron cho Trịnh Xuân Thuận đã được tổ chức trọng thể vào tháng 11 vừa qua với giải thưởng trị giá 5000 euro. GS Trịnh Xuân Thuận. Ảnh: VNN. Ánh sáng là người bạn tri kỉ của tôi. Trong công việc của nhà vật lý thiên văn, tôi thường xuyên phải làm việc với nó. Nó là phương tiện đặc ân mà tôi có để đối thoại với vũ trụ. Các hạt có năng lượng cao phát ra từ các cơn hấp hối bùng nổ của các ngôi sao nặng, mà người ta gọi là các “tia vũ trụ”, hay các sóng hấp dẫn, các sóng độ cong của không gian được tạo ra từ sự co mạnh ở lõi của một khôi sao nặng để trở thành nơi giam cầm ánh sáng - một lỗ đen, hay từ chuyển động điên cuồng của một cặp lỗ đen nhảy múa quanh nhau, đều mang đến cho chúng ta rất nhiều thông tin mới lạ về không gian xa xôi. Nhưng không phải các tia vũ trụ, cũng chẳng phải các sóng hấp dẫn là các sứ giả chính của vũ trụ. Chính ánh sáng mới là cái đảm nhiệm vai trò này. Không còn nghi ngờ gì nữa, phần lớn các thông tin về vũ trụ mà chúng ta biết được đều là nhờ sự giúp đỡ hữu hiệu và trung thành của ánh sáng. Đó là sứ giả tuyệt vời nhất của vũ trụ. Chính ánh sáng cho phép chúng ta giao tiếp và kết nối với vũ trụ. Chính ánh sáng đã chuyển tải những đoạn nhạc và các nốt rời rạc của cái giai điệu bí ẩn của vũ trụ mà con người kỳ công tái dựng với tất cả vẻ đẹp tráng lệ của nó. Ánh sáng đóng vai trò sứ giả của vũ trụ nhờ ba tính chất cơ bản mà các bà mụ đã ban tặng cho nó lúc chào đời: 1) ánh sáng không lan truyền tức thì, và phải mất một khoảng thời gian mới đến được chỗ chúng ta; 2) ánh sáng tương tác với vật chất; và 3) ánh sáng thay đổi màu sắc khi được phát đi bởi một nguồn sáng chuyển động đối với người quan sát. Bởi vì ánh sáng không lan truyền tức thì, nên chúng ta nhìn vũ trụ bao giờ cũng muộn hơn, và chính điều này cho phép chúng ta lần ngược trở lại theo thời gian, để khám phá quá khứ của vũ trụ và tái tạo bản sử thi hoành tráng và kỳ diệu của vũ trụ khoảng 14 tỷ năm dẫn đến chúng ta. Ngay cả khi ánh sáng lan truyền với vận tốc lớn nhất có thể trong vũ trụ: 300 000 kilômét mỗi giây - một cái nháy mắt là ánh sáng đã có thể chạy bảy vòng quanh Trái Đất! thì ở thang vũ trụ vận tốc ấy cũng chỉ như rùa bò. Bởi vì nhìn xa, nghĩa là nhìn sớm – chúng ta nhìn Mặt Trăng muộn hơn hơn một giây, Mặt trời gần tám phút, ngôi sao gần nhất hơn bốn năm, thiên hà gần nhất giống dải Ngân Hà của chúng ta, thiên hà Andromède, sau 2,3 triệu năm, các quasar[*] xa nhất sau khoảng mười hai tỉ năm, nên các kính thiên văn, hay còn gọi là các giáo đường của thời hiện đại, nơi đón nhận ánh sáng của vũ trụ, là các cỗ máy đích thực lần ngược lại thời gian. Các nhà thiên văn học đang miệt mài chế tạo các kính thiên văn tiếp nối các kính thiên văn khổng lồ hiện nay để nhìn được những thiên thể mờ hơn, cũng có nghĩa là xa hơn và sớm hơn, và lần ngược lại thời gian khoảng 13 tỷ năm ánh sáng, tới tận khoảng 1 tỷ năm sau Big Bang, với hy vọng ngắm nhìn trực tiếp sự ra đời của các ngôi sao và thiên hà đầu tiên. Bằng cách khám phá quá khứ của vũ trụ, các nhà vật lý thiên văn có thể sẽ hiểu được hiện tại và tiên đoán được tương lai của nó. Ánh sáng cho phép chúng ta lần ngược trở lại quá khứ do nó cần phải mất một khoảng thời gian mới đến được chúng ta. Ánh sáng cũng mang theo nó bản mật mã vũ trụ, và một khi giải được mật mã này chúng ta sẽ tiếp cận được bí mật về cấu tạo hóa học của các sao và thiên hà, cũng như bí mật về chuyển động của chúng. Sở dĩ như vậy là vì ánh sáng tương tác với các nguyên tử cấu thành vật chất nhìn thấy được của vũ trụ. Trên thực tế, ánh sáng chỉ có thể nhìn thấy được nếu nó tương tác với các vật. Ánh sáng tự thân là ánh sáng không nhìn thấy được. Để ánh sáng nhìn thấy được, thì đường đi của nó phải bị một vật nào đó chặn lại, vật ấy có thể là cánh hoa hồng, là các chất màu trên bảng màu của người họa sỹ, là gương của kính thiên văn hay võng mạc của mắt chúng ta. Tùy theo cấu trúc nguyên tử của vật chất mà ánh sáng tiếp xúc, ánh sáng sẽ bị hấp thụ một lượng năng lượng rất chính xác. Tới mức nếu chúng ta thu được quang phổ của ánh sáng do một sao hay một thiên hà phát ra – hay nói cách khác, nếu chúng ta dùng lăng kính phân tách nó thành các thành phần năng lượng hay màu sắc khác nhau –, thì chúng ta sẽ phát hiện ra rằng quang phổ này không liên tục, mà bị ngắt thành các vạch hấp thụ dọc tương ứng với năng lượng đã bị các nguyên tử hấp thụ. Vị trí của các vạch này không hề tùy tiện, mà là phản ánh một cách trung thực sự sắp xếp các quỹ đạo electron trong các nguyên tử của vật chất. Sự sắp xếp này là độc nhất đối với mỗi nguyên tố hoá học. Nó là một dạng dấu vân tay, một loại thẻ căn cước của các nguyên tố hóa học cho phép nhà vật lý thiên văn nhận ra các nguyên tố này một cách dễ dàng. Ánh sáng cho chúng ta biết thành phần hóa học của vũ trụ bằng cách như vậy đó. Ánh sáng cũng cho phép nhà thiên văn học nghiên cứu chuyển động của các thiên thể. Vì trên trời chẳng có gì là đứng yên. Lực hấp dẫn làm cho tất cả các cấu trúc của vũ trụ - như sao, thiên hà, đám thiên hà… - hút lẫn nhau và “rơi” vào nhau. Chuyển động rơi này hòa vào chuyển động giãn nở chung của vũ trụ. Thực tế, Trái Đất cũng tham gia vào một vũ điệu vũ trụ tuyệt vời. Nó mang chúng ta qua không gian với vận tốc khoảng ba chục kilômét mỗi giây trong chuyến chu du hàng năm quanh Mặt Trời. Đến lượt mình, Mặt Trời lại kéo theo Trái Đất, và cùng với Trái Đất là chúng ta, trong chuyến chu du của nó quanh trung tâm của Ngân Hà, với vận tốc hai trăm ba mươi kilômét mỗi giây. Thế vẫn chưa hết: Ngân Hà lại rơi với vận tốc chín mươi kilômét mỗi giây về phía thiên hà đồng hành với nó là Andromède. Đến lượt mình, cụm thiên hà địa phương chứa thiên hà của chúng ta và Andromède cũng lại rơi với vận tốc khoảng sáu trăm kilômét mỗi giây về đám Vierge, và đám này lại rơi vào một tập hợp lớn các thiên hà gọi là “Nhân hút Lớn”. Bầu trời tĩnh và bất động của Aristote đã chết hẳn ! Trong vũ trụ, tất cả đều vô thường, đều thay đổi và chuyển hóa liên tục. Chúng ta không nhìn thấy sự náo động mãnh liệt này bởi vì các thiên thể ở quá xa, và cuộc sống của chúng ta quá ngắn ngủi. Một lần nữa, lại chính ánh sáng đã tiết lộ cho chúng ta sự vô thường này của vũ trụ. Ánh sáng thay đổi màu sắc khi nguồn sáng chuyển động so với người quan sát. Ánh sáng dịch chuyển về phía đỏ (các vạch hấp thụ dọc dịch chuyển về phía năng lượng nhỏ hơn) nếu vật tiến ra xa, và về phía xanh lam (các vạch hấp thụ dọc dịch chuyển về phía năng lượng cao hơn) nếu vật tiến lại gần. Bằng cách đo sự dịch chuyển về phía đỏ hay phía xanh này, nhà thiên văn học sẽ tái hiện được các chuyển động vũ trụ. Cuốn sách khoa học của tác giả Trịnh Xuân Thuận. Như vậy ánh sáng kết nối chúng ta với vũ trụ. Nhưng ánh sáng không chỉ thiết yếu đối với nhà thiên văn học. Tất cả chúng ta đều là con đẻ của ánh sáng. Ánh sáng đến từ Mặt Trời là nguồn gốc của sự sống. Dù là tự nhiên hay nhân tạo, ánh sáng cho phép chúng ta không chỉ ngắm nhìn thế giới, mà còn tương tác với thế giới và tiến hóa trong thế giới. Nó không chỉ ban cho chúng ta nhìn thấy, mà còn ban cho chúng ta tư duy nữa. Từ những thời rất xa xưa cho tới ngày nay, ánh sáng luôn mê hoặc trí tuệ con người, dù đó là nhà khoa học, triết gia, nghệ sỹ hay tu sĩ. Tôi muốn thuật lại ở đây lịch sử hùng tráng của những nỗ lực của con người nhằm thâm nhập vào trong lòng của vương quốc ánh sáng để đột phá những bí mật của nó. Tôi muốn khám phá không chỉ các chiều kích khoa học và công nghệ của ánh sáng, mà cả các chiều kích thẩm mỹ, nghệ thuật và tâm linh của ánh sáng nữa. Tôi muốn nghiên cứu không chỉ vật lý về ánh sáng, mà cả siêu hình học về ánh sáng. Ý đồ của tôi là tìm hiểu xem bằng cách nào ánh sáng đã giúp chúng ta trở thành người. Chương đầu tiên bắt đầu với khái niệm của người Hy Lạp về một “ngọn lửa bên trong”, một con mắt chăm chú quan sát thế giới bằng cách phóng chiếu lên nó các tia sáng, trái ngược với quan niệm hiện nay về ánh sáng, theo đó, ánh sáng không phải đi từ mắt tới vật, mà từ vật tới mắt. Chương này tiếp tục với Euclid và hình học của ông về thị giác và mặt nón các tia thị giác, với nhà bác học Arập Alhazen, người vứt bỏ khái niệm ngọn lửa bên trong và đảo ngược hướng của các tia sáng, để rồi kết thúc với Léonard de Vinci, người hiểu được rằng các hình ảnh của thế giới bên ngoài được phóng chiếu theo chiều bị đảo ngược lên võng mạc của mắt. Chương 2 phát triển các quan niệm mới về ánh sáng do cuộc đại cách mạng khoa học thế kỷ XVII mang lại. Kepler và Descartes đã phát hiện ra rằng não đóng vai trò tích cực trong thị giác, rằng chính não đã tái lập lại sự định hướng đúng của vật và làm cho chúng ta nhìn thấy thế giới ở đúng vị trí của nó. Bằng cách dùng lăng kính phân tách ánh sáng trắng thành bảy màu, bảy sắc cầu vồng, Newton đã đưa ra khái niệm về các màu cơ bản. Chương 3 tập trung quanh cuộc tranh luận về bản chất của ánh sáng: ánh sáng là hạt, như Newton quả quyết, hay là sóng, như Huygens, Young và Fresnel khẳng định? Vào thế kỷ XVIII, Young đã chứng minh rằng sự thêm ánh sáng vào ánh sáng có thể lại dẫn đến bóng tối, điều này chỉ có thể giải thích được nếu ánh sáng có bản chất sóng. Faraday và Maxwell, khi ngợi ca sự kết hợp của điện và từ, và chứng tỏ rằng các sóng điện từ cũng không khác gì các sóng ánh sáng, đã củng cố thêm quan niệm sóng về ánh sáng. Vào thế kỷ XX, Einstein, bằng cách tự vấn thế giới có thể sẽ trình hiện như thế nào trước mắt mình khi nó cũng chuyển động nhanh như một hạt ánh sáng, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các quan niệm về thời gian và không gian, và đã thống nhất vật chất và năng lượng bằng thuyết tương đối hẹp. Để giải thích hành trạng của các electron phát ra từ bề mặt của một kim loại dưới tác dụng của ánh sáng - mà người ta gọi là “hiệu ứng quang điện” -, Einstein đã đưa trở lại quan niệm ánh sáng là hạt, nhưng gán cho các hạt này một “lượng tử năng lượng”, ý tưởng đã được Planck đưa ra trước đó. Vậy ánh sáng là sóng hay hạt? Bohr và các đồng nghiệp của ông, những người sáng lập ra một môn vật lý mới gọi là “cơ học lượng tử”, tuyên bố rằng ánh sáng vừa là sóng vừa là hạt. Giống như Janus, ánh sáng có hai khuôn mặt bổ sung cho nhau. Nó xuất hiện như một sóng hoặc như một hạt tùy theo dụng cụ đo được sử dụng. Chương 4 khám phá các dạng ánh sáng thiên thể khác nhau xuất hiện trong suốt lịch sử dài dằng dặc của vũ trụ. Chương này đặt ra câu hỏi: trong tương lai rất xa những ánh sáng này sẽ trở nên như thế nào? Bắt đầu bằng ánh sáng nguyên thủy, vô cùng nóng, của Big Bang, ánh sáng này trình hiện trước chúng ta ngày nay dưới dạng một bức xạ hóa thạch, bị lạnh đi rất nhiều bởi sự giãn nở của vũ trụ và choán khắp vũ trụ. Sau đó chương này sẽ đề cập đến sự tiến hóa của ánh sáng các sao và thiên hà, từ sự ra đời của các sao đầu tiên cho đến cái chết của các tinh tú gần đây nhất.Chương đầu tiên bắt đầu với khái niệm của người Hy Lạp về một “ngọn lửa bên trong”, một con mắt chăm chú quan sát thế giới bằng cách phóng chiếu lên nó các tia sáng, trái ngược với quan niệm hiện nay về ánh sáng, theo đó, ánh sáng không phải đi từ mắt tới vật, mà từ vật tới mắt. Chương này tiếp tục với Euclid và hình học của ông về thị giác và mặt nón các tia thị giác, với nhà bác học Arập Alhazen, người vứt bỏ khái niệm ngọn lửa bên trong và đảo ngược hướng của các tia sáng, để rồi kết thúc với Léonard de Vinci, người hiểu được rằng các hình ảnh của thế giới bên ngoài được phóng chiếu theo chiều bị đảo ngược lên võng mạc của mắt. Chương này cũng nhắc đến đối trọng của ánh sáng, đó là bóng tối. Sau rốt, vật chất sáng của các sao và các thiên hà chỉ chiếm 0,5 tổng lượng vật chất và năng lượng của vũ trụ. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ-tảng băng trôi, chỉ nhìn thấy phần nhô lên rất nhỏ. Trong 99,5% còn lại, 3,5% được cấu thành từ vật chất thông thường không phát ra bất kỳ ánh sáng nhìn thấy được nào, 26% vật chất ngoại lai không phát ra bất kỳ ánh sáng nhìn thấy được hoặc ánh sáng nào khác, và bản chất của chúng thì vẫn hoàn toàn là bí ẩn (người ta gọi đó là “vật chất tối”), và 70% còn lại tạo thành “năng lượng tối”, tác dụng như một lực đẩy làm tăng sự giãn nở của vũ trụ, và bản chất của năng lượng này cũng hoàn toàn bí ẩn. Chương 5 đề cập chi tiết hơn về ánh sáng mặt trời, nguồn gốc của sự sống và năng lượng, và vô số các cảnh tượng ánh sáng với tất cả những vẻ đẹp mà ánh sáng mặt trời sinh ra trên Trái Đất. Chương này đề cập đến sự quang hợp của cây cối, phản ứng sinh hóa quan trọng nhất cho sự sống của chúng ta trên Trái Đất, và những nguy cơ mà con người đang gây ra cho hành tinh bởi hành động phá hủy dại dột các khu rừng nhiệt đới và gây ô nhiễm khí quyển trái đất. Chương này không chỉ đề cập đến những mặt tích cực, mà còn cả những mặt tiêu cực của ánh sáng mặt trời khi người ta lạm dụng nó. Tác giả cũng giải thích cảnh tượng huyền diệu của cầu vồng, màu đỏ rực rỡ của hoàng hôn, “tia xanh” bí hiểm, màu trắng của những đám mây, màu<a href="http://" target="_blank"></a> lam thẫm của các dãy núi xa xa, màu xanh thẳm của đại dương, màu xanh vắt của bầu trời quang mây… Chương 6 kể lại cách con người chế ngự ánh sáng phục vụ cuộc sống của mình và giao tiếp với đồng loại, và nhờ vậy đã biến hành tinh thành một ngôi làng toàn cầu. Chương này bắt đầu bằng công cuộc chinh phục lửa, sau đó đề cập đến ánh sáng nhân tạo với phát minh ra đuốc và đèn thắp bằng mỡ động vật và dầu thực vật, nến, đèn gaz và, cuối cùng là bóng điện và đèn huỳnh quang. Tiếp theo là phát minh ra lazer, đứa con của cơ học lượng tử, kết quả của sự “khuếch đại” ánh sáng nhìn thấy được, và với vô số các ứng dụng đa dạng bắt nguồn từ đó. Sau đó tác giả đề cập đến việc sử dụng ánh sáng để vận chuyển thông tin và kết nối nhân loại. Các mạng cáp quang khổng lồ vận chuyển ánh sáng ngang dọc khắp thế giới. Chúng tải hàng triệu cuộc điện đàm và kết nối tất cả các máy tính của hành tinh thành một mạng khổng lồ gọi là Internet. Internet hiện nay vẫn dựa trên các máy điện quang, trong đó các electron kết hợp chặt chẽ với các photon để truyền thông tin. Nhưng công nghệ internet điện quang này sẽ sớm được thay thế bằng Internet quang tử, dựa hoàn toàn trên ánh sáng. Chương 6 kết thúc với các máy của tương lai, các máy lượng tử. Làm thế nào để sử dụng được các tính chất lượng tử lạ lùng và kỳ diệu của ánh sáng để viễn tải các hạt (viễn tải lượng tử), để ngăn chặn tin tặc (mật mã lượng tử) và tính toán cực kỳ nhanh (máy tính lượng tử)? Chương 7 đề cập đến mối quan hệ mật thiết của mắt và não, đến cách kết hợp chặt chẽ của hai cơ quan này để cho phép chúng ta nhìn thấy. Chương này cũng khám phá cách thức mà ánh sáng góp phần làm phong phú thế giới tinh thần và nghệ thuật của con người. Mắt là một dụng cụ quang học kỳ diệu mà tiến hóa sinh học đã nhào nặn một cách độc lập cho rất nhiều loài. Mặc dù mắt người chỉ chứa ba loại tế bào thị giác nhạy cảm chỉ với ba loại màu: đỏ, xanh và tím, nhưng nhờ hoạt động của não, con người có thể tri giác được tới khoảng vài trăm sắc thái và màu của thế giới. Chính nhờ có não mà chúng ta nhạy cảm với ánh sáng, mà ánh sáng khơi dậy trong chúng ta biết bao xúc cảm và tình cảm. Theo Goethe, ánh sáng có một bản chất sâu kín và tâm linh, và các màu là “những hành động và nỗi đớn đau của ánh sáng”. Một vật có màu sắc được tri giác bởi cả mắt và não. Các màu chuyển tải các mã, các ý nghĩa được che khuất, những điều cấm kị và các định kiến mà chúng ta phản ứng lại một cách vô thức. Các họa sỹ là những bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng để gợi ấn tượng và cảm giác về hiện thực. Monet, một hoạ sỹ thuộc trường phái ấn tượng, đã biến ánh sáng thành một yếu tố căn bản và luôn thay đổi trong tranh của ông. Ông muốn thâu tóm trên tranh của ông “tính tức thời”, cái thần thái của sự vật ở một thời điểm nhất định. Ánh sáng, vốn thay đổi theo thời gian, và màu sắc, vốn thay đổi theo sự chiếu sáng, phải được tính đến bằng mọi giá. Bị mê hoặc bởi các phát kiến khoa học liên quan đến ánh sáng và thị giác, Seurat đã sáng tạo ra lối vẽ điểm hoạ của ông. Những biến đổi của sắc độ không còn được tạo ra bằng cách pha trộn các màu trên bảng màu nữa, mà bằng cách bắt mắt và não của người xem phải tổ hợp các điểm màu khác nhau trong một loại “đại tổng hợp thị giác”. Từ bỏ phép phối cảnh truyền thống, Cézane đã tiến hành thử nghiệm với không gian và màu sắc. Theo ông, hội họa không phải là nghệ thuật bắt chước một vật. Vẽ, đó chính là sử dụng màu sắc và hình khối để thể hiện các cảm giác bên trong mãnh liệt trước thế giới bên ngoài. Còn Kandinsky đã đẩy sự trừu tượng đi xa hơn nữa: khẳng định chiều kích tinh thần của ánh sáng và các màu sắc, ông khẳng định rằng hội họa có thể vượt qua các hình khối và chỉ thể hiện bằng các đường nét, các vết và các màu, rằng mỗi một màu sắc đều biểu lộ một sự cộng hưởng nội tại riêng có đối với tâm hồn và do đó có thể được sử dụng một cách độc lập với hiện thực thị giác. Chiều kích tinh thần này của ánh sáng đã được các tôn giáo và các truyền thống tâm linh ca ngợi đến cực điểm. Trong Cơ đốc giáo, Chúa là ánh sáng, và nghệ thuật Gothic trước hết là nghệ thuật ánh sáng. Trong Phật giáo, ẩn dụ ánh sáng được sử dụng để chỉ sự tiêu tan của vô minh và nhận ra diệu đế. Cuốn sách này dành cho những "chính nhân" không nhất thiết phải có một hành trang kỹ thuật, mà chỉ cần có óc tò mò ham hiểu biết về vật lý và siêu hình của ánh sáng. Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã cố gắng hết sức có thể để tránh sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành mà vẫn không làm mất đi độ chính xác và nghiêm túc khoa học. Tôi đặc biệt quan tâm làm thế nào để cho hình thức trình bày là đơn giản nhất, rõ ràng nhất và dễ đọc nhất, nhằm chuyển tải đến bạn đọc các khái niệm đôi khi khô khan, xa lạ và khó hiểu. Tôi cũng đã đưa vào nhiều hình ảnh và một tập các hình minh họa màu không chỉ để cụ thể hóa những gì tôi đã trình bày, mà còn để việc đọc cuốn sách này thêm vui mắt. Trịnh Xuân Thuận nguồn vietimes
  10. Chuyện người dám trùng tu những "THIỀN CỐT" Với chòm râu dài và cặp kính to, dày như cái đít chai, thoạt nhìn Đào Ngọc Hân thật giống với một ông đồ nào đó hơn là một nhà khoa học. Thế nhưng, hễ nghe ai đó nhắc đến hai từ “cổ vật”, hai mắt gã lại sáng quắc, và gã lại nói say như đang nhập đồng. Gã bảo, cứ khi nào rảnh là gã lại trốn vợ, một mình vác balô tung tẩy khắp trong Nam, ngoài Bắc. Nhưng những chuyến đi mà gã hay nói là “đi chơi” ấy, nhiều khi vẫn khiến gã đau nhói, buồn đến mất ăn mất ngủ mỗi khi phải chứng kiến một bảo vật nào đó của nước nhà, vì một nguyên nhân nào đó đã mất hút khỏi hiện tại, hoặc đã bị chính bàn tay con người phá hỏng. Ngôi nhà của gia đình Đào Ngọc Hân nằm trong một con ngõ nhỏ trên Đường Láng. Ngôi nhà chỉ rộng vài chục mét vuông, nhưng từ hai năm nay, nó còn là trụ sở của Công ty TNHH Bảo tồn cổ vật Hà Nội, đồng thời cũng là công xưởng làm việc của gần chục công nhân, với sơn, với mực, với máy mài và hàng trăm thứ cổ vật với đủ các loại vật liệu ngổn ngang. Vì vậy, đến nhà của Đào Ngọc Hân lúc nào tôi cũng có cảm giác như mình đang lạc vào một cái tổ ong, hoặc một đại công trường nào đó. Theo được nghề vì… lãng mạn quá Đào Ngọc Hân. Đào Ngọc Hân kể, cho đến bây giờ anh vẫn theo được với nghề, có lẽ tại vì cái tính anh nó lãng mạn quá. Anh bảo, học ngành Mỹ thuật truyền thống (trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội), đã ít sinh viên theo học, mà khi ra trường, nếu lại làm đúng chuyên môn thì tẻ nhạt và vất vả vô cùng. Chẳng thế mà trong số bốn sinh viên sau khi ra trường, hai người đã đi làm hoạ sĩ trình bày báo, người còn lại thì làm giáo viên. Còn anh, chẳng hiểu sao, lúc nào cũng thích thú tìm đến các đền chùa và bảo tàng. Sau khi tốt nghiệp, anh cũng chả biết làm gì, hơn nữa, chuyên môn của anh khi ấy cũng không mấy nơi cần đến. Vì vậy, anh cứ triền miên đi thăm thú nơi này nơi kia. Thảng hoặc, các thầy và các bậc đàn anh trong nghề nhận được công trình, anh lại được gọi làm cái chân hậu cần, phục vụ “điếu đóm, chè nước”. Những năm 90 trở về trước, khi Việt Nam chưa có luật di sản, để trùng tu được một cổ vật vất vả và phức tạp vô cùng. Xin được giấy phép trùng tu đã khó, nhưng xin được rồi thì Nhà nước cũng không có nguồn kinh phí cung cấp cho việc trùng tu. Anh Hân kể, năm 1990, một phật tử ở Hải Phòng, sau ba năm vất vả ngược xuôi mới xin được giấy phép của Sở Văn hoá cho phép trùng tu lại bức tượng vị tướng Trần Quốc Bảo. Bức tượng có niên đại trên 300 năm tuổi nhưng đã bị xuống cấp trầm trọng. Xin được giấy phép, vị phật tử này đã lên tận Hà Nội đề nghị giáo sư Nguyễn Lân Cường phục dựng. Lần này, anh cũng được giáo sư Cường gọi đi làm công tác “hậu cần”. Nhưng lần này anh được tham gia với tư cách một chuyên gia, phụ trách việc sơn và hoàn tất giai đoạn cuối cho bức tượng. Sáu tháng sau, bức tượng đã được phục dựng thành công. Khổ nỗi, vì không có kinh phí nên trong suốt 6 tháng trời, vị phật tử kia ngày nào cũng phải cơm nước và đi vận động tiền bạc mua vật liệu phục vụ việc trùng tu. Năm 1992, một sự kiện thu hút rất nhiều sự quan tâm của giới khảo cổ Việt Nam là phát hiện ra pho tượng bó cốt của thiền sư Chuyết Chuyết ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Khi được phát hiện, pho tượng đã bị vỡ thành mấy trăm mảnh và vứt ngoài vườn sắn. Lúc này, Viện Khảo cổ đã phải đứng ra nhận trách nhiệm trùng tu, nhưng hoàn toàn không có kinh phí. Nhiệm vụ lần này lại được giao cho giáo sư Nguyễn Lân Cường. Việc trung tu một bức tượng bó cốt là một công việc phức tạp, rất tốn kém và cần phải có một ê kíp những người có chuyên môn tham gia, mà nhân sự khi ấy lại thiếu vô cùng. Đào Ngọc Hân kể: Ngày ấy giáo sư Cường đã mời rất nhiều chuyên viên bảo tàng các tỉnh về cùng tham gia, nhưng kết cục, ông không thể chọn được người có đủ chuyên môn. Vì vậy, công việc trùng tu cuối cùng chỉ có hai thầy trò. Thế nhưng, việc trùng tu ở chùa Phật Tích bị ảnh hưởng bởi du khách đến tham quan ngày càng đông. Vì vậy, ê kíp thực hiện đã phải chuyển làm việc ở Viện khảo cổ. Vậy mà tại đây, mỗi ngày vẫn có hàng trăm du khách, phật tử khắp nơi tìm đến khấn vái và thắp hương nghi ngút. Và, một lần nữa, ê kíp lại phải bí mật chyển pho tượng đến một ngôi nhà trên phố Ngã Tư Sở. Công việc trùng tu bí mật đến nỗi, ngay cả những người hàng xóm sống liền kề cũng không biết họ đang làm gì. Gần một năm sau, pho tượng bó cốt mới được phục dựng xong. Gần một năm làm việc vất vả, không hề có kinh phí hay trợ cấp; thậm chí, cả tiền ăn uống của nhóm cũng hoàn do một nhóm phật tử của chùa cung tiến và phục vụ. Sau sự kiện trùng tu thành công bức tượng bó cốt thiền sư Chuyết Chuyết, Đào Ngọc Hân tiếp tục được mời trùng tu các tượng bó cốt của thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, ở chùa Đậu (Thường Tín, Hà Tây) và tượng thiền sư Như Trí, ở chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Tuy nhiên, những công trình trùng tu sau này đều có kinh phí nên công việc tiến hành đã gặp ít khó khăn hơn... Nơi báu vật bị "phá" nhiều nhất là... bảo tàng? Tượng Thiền sư Như Trí chùa Tiêu Sơn đã được bảo quản. Từ trái sang: Họa sỹ Đào Ngọc Hân, PGS-TS Nguyễn Lân Cường, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt (Tổng Thư ký Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt) Cổ vật Thuyền Chùa Keo đã được trùng tu hoàn chỉnh. Mặc dù đã tham gia trùng tu rất nhiều cổ vật nổi tiếng trong nước, nhưng ra trường đã mười mấy năm, Đào Ngọc Hân vẫn không xin vào làm việc chính thức trong cơ quan nào. Anh bảo, làm tự do và tự do “xê dịch” vẫn sướng hơn. Thế nhưng, anh đã phải rất vất vả làm đủ nghề để “nuôi” cái sở thích có vẻ "điên điên" ấy của mình. Đã có một thời gian dài, hầu hết tiền bạc kiếm được từ cửa hàng đá quý của gia đình, anh đều nướng hết vào các chuyến đi, rồi mua vật liệu làm những công trình, mà lẽ ra, anh phải được nhận thêm tiền từ chính những công trình này. Thế nhưng, đi càng nhiều, tiếp xúc với cổ vật càng lắm, anh càng đau khi phát hiện ra một thực tế là: nơi lưu giữ nhiều cổ vật nhất, cũng là nơi cổ vật bị bỏ bê nhiều nhất lại chính là hệ thống các bảo tàng địa phương và những ngôi chùa hàng trăm năm tuổi với rất nhiều pho tượng quý. Anh bảo, có vào kho của các bảo tàng địa phương thì mới thấy sự thiếu thốn về tài chính của đất nước mình. Chẳng hạn Bảo tàng Vĩnh Phú trước kia chỉ là một ngôi nhà mượn, kho của bảo tàng được nhét đủ các loại bảo vật, với đủ loại chất liệu gỗ, vải, đá chồng chất, san sát nhau. Hay như bảo tàng Hưng Yên, dù đã có kho bãi, nhưng cổ vật không hề được phân loại, cứ để lung tung. Thậm chí, nhiều bảo tàng còn để nhiều bảo vật ở ngoài trời như Bảo tàng Thanh Hoá, để những con chó đá, rồng đá rất quý ở ngoài trời mà chẳng có che chắn gì. Vì vậy, những trận mưa có axít gần đây đã làm mất hết các hoa văn trên tượng đá. Tại Bảo tàng Hải Dương, tình trạng cổ vật cũng bị bỏ mặc tương tự. Từ nhiều năm nay, tại Bảo tàng Hải Dương, mấy chục bộ mộ thuyền có niên đại trên 2000 năm, rất quý cũng để phơi mưa nắng ở ngoài trời. Biết là kinh phí để trùng tu những cổ vật này là rất lớn, tỉnh không thể có, nhưng bỏ mặc những cổ vật như thế thật đau xót... Việc những báu vật nước nhà bị bỏ mặc do thiếu kinh phí, thiếu nhân lực trùng tu còn có thể thông cảm. Nhưng có tiền mà đem cổ vật đi làm hỏng như một số người vẫn đang làm thì đó dường như lại là một tội ác. Anh Hân kể, mấy năm gần đây, nhiều gia đình có vật gia bảo, rất quý đã đem đến nhờ tu bổ. Thế nhưng, vì thiếu hiểu biết nên những gia chủ này nhất quyết yêu cầu làm theo ý mình, nghĩa là phải làm cho vật gia bảo càng mới, càng giống với nguyên bản càng tốt. Thậm chí, nhiều nhà buôn, nhà sưu tập cổ vật, cũng muốn bảo tồn cổ vật cho thật giống như nguyên bản để dễ bán cho những người thiếu hiểu biết để kiếm lời. Họ đâu biết rằng, bảo tồn cổ vật là làm gia tăng thêm giá trị cho chúng, chứ không phải là làm cho chúng mới hơn. Vì vậy, với những khách hàng cứ khăng khăng yêu cầu thợ làm theo ý mình thì anh chỉ còn cách bảo họ đi đến những cơ sở khác, chứ nhất định anh không làm hỏng đi những báu vật lịch sử ấy được. Cũng theo anh Hân, hiện rất nhiều đình chùa cổ ở ta cũng trong hoàn cảnh tương tự. Nhiều ngôi chùa, ngôi đình bị mất đi rất nhiều giá trị, cổ vật thì càng sửa càng hỏng không phải do không có tiền, mà vì sự thiếu hiểu biết của chính những người chủ trì và người thợ trùng tu. Vì vậy, rất nhiều cổ vật lần lượt được làm mới, sự cổ kính, tôn nghiêm và những nét đẹp cổ xưa đã hoàn toàn biến mất sau mỗi lần tôn tạo… Mười mấy năm làm công tác bảo tồn cổ vật, anh Hân bảo, giữa cổ vật và người thợ bảo tồn luôn có một mối nhân duyên kỳ lạ. Có thế, họ mới gặp nhau và người thợ mới có điều kiện làm sống lại những giá trị văn hóa, lịch sử của cổ vật. Thế nhưng, trong hàng trăm mối nhân duyên mà anh đã gặp, dù rất tâm huyết, anh cũng không thể cứu được hết những cổ vật khỏi xuống cấp, khỏi vấn nạn “mới hóa” và lòng tham đầy bất trắc của một số người. Trọng Tuyến (Vietimes)
  11. Linh hồn thiên nhiên đang thức giấc!Thứ tư, 26/3/2008, 07:00 GMT+7 ... "Khi các dân tộc ngó ra khỏi lãnh địa của mình, họ tìm thấy những vị thần khác của những dân tộc khác. Do vậy phát sinh mâu thuẫn về nguồn gốc của loài người. Tuy nhiên, mâu thuẫn đó chỉ xuất phát từ sự khác nhau của các vị thần chứ không phải mâu thuẫn về quan niệm thiên nhiên..." Thiên nhiên có linh hồn hay không? Đây là một câu hỏi lớn, phức tạp và liên quan nhiều đến các quan niệm văn hoá của từng dân tộc. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta lại phải cùng nhau giải đáp một câu hỏi khác không kém phần hệ trọng hơn. Đó là con người có phải có nguồn gốc từ thiên nhiên? Đáp án cho câu hỏi này đã gây ra không ít cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo. Con người sơ khai trong các nền văn minh khác nhau đều có một niềm tin rằng loài người được sáng tạo bởi một vị thần nào đó. Và nếu do vậy thì con người không thể xuất phát từ thiên nhiên được. Đa số các dân tộc đều có các huyền thoại, truyền thuyết về nòi giống “từ trời” của mình. Trong các truyền thuyết đó, vạn vật trong thiên nhiên chỉ là một cái vỏ, một cái áo choàng rộng, màu mỡ che phủ lên cuộc sống của con người mà thôi. Thiên nhiên, cùng với những dấu hiệu ghê gớm của nó như sấm chớp, giông bão, lũ lụt chỉ là những dấu hiệu chứng tỏ cơn giận dữ của một vị thần nào đó. Có nghĩa là vạn vật hoàn toàn không có một đời sống riêng biệt. Khi các dân tộc ngó ra khỏi lãnh địa của mình, họ tìm thấy những vị thần khác của những dân tộc khác. Do vậy phát sinh mâu thuẫn về nguồn gốc của loài người. Tuy nhiên, mâu thuẫn đó chỉ xuất phát từ sự khác nhau của các vị thần chứ không phải mâu thuẫn về quan niệm thiên nhiên. Người ta không thể tin rằng con người cao quý như vậy lại có thể có nguồn gốc từ những vật nhỏ nhoi, xấu xí, tầm thường... Đây là một quan điểm rất nặng nề đã ngăn cản con người cổ xưa nghiên cứu và tìm hiểu về thiên nhiên. Tuy vậy, trong các truyền thuyết về vũ trụ của các dân tộc trên thế giới, phần “sáng tạo ra con người” có một trình tự lặp đi lặp lại khá giống nhau là: trước khi con người được sinh ra thì bao giờ vị thần toàn năng cũng tạo ra vạn vật, thiên nhiên để làm nơi trú thân và nuôi dưỡng con người. Thiên nhiên bao giờ cũng tồn tại rất lâu trước khi có sự xuất hiện của con người. Không chỉ các huyền thoại khẳng định điều này mà ngay cả khoa học hiện đại cũng khẳng định như vậy. Đây là một tâm lý hết sức kỳ lạ, vì con người dẫu sao cũng đã mặc nhiên thừa nhận sự không thể thiếu của vạn vật trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Ngay trong bản trường ca nổi tiếng "Đẻ đất đẻ nước" của người Mường ở nước ta cũng bộc lộ rõ điều ấy. Đối với người cổ xưa, thiên nhiên chỉ tồn tại bởi hai ý nghĩa: một là, tấm áo choàng thần bí thỉnh thoảng lại hé lộ những cơn giận dữ hay lời mách bảo của thần linh; hai là, môi trường nuôi sống con người.Những cuộc tranh luận về vấn đề này được các bậc minh sư của nhân loại tham gia rất nhiệt tình. Tuy nhiên, những cuộc tranh luận đó đã kéo đến nhiều chủ đề rất nực cười... Trong thế kỷ XVII ở châu Âu, thậm chí người ta còn đưa ra cuộc tranh luận rằng người đàn bà có linh hồn hay không? Con thỏ có linh hồn hay không? Những lời bình luận sặc mùi xã hội chứ không có tính khoa học. Trong những vấn đề này, phải nói rằng tư tưởng minh triết phương Đông đã đi trước một bước rất xa. Chúng ta không bàn đến các luận thuyết thâm sâu của đạo Lão, đạo Phật về vạn vật, về đời sống luân hồi của thiên nhiên. Chúng ta chỉ cần nhìn lại những câu chuyện dân gian, kỳ lạ rất quen thuộc với người đọc như các truyện trong Truyền kỳ mạn lục hay Liêu trai chí dị là có thể cảm thấy quan niệm siêu việt của người phương Đông về vấn đề này. Một cái cây nếu “tu luyện” lâu năm cũng có thể có một “linh hồn” kia mà, mặc dù đó là những câu chuyện kỳ dị, huyền hoặc. Nhưng trong ý nghĩa sâu kín của nó vẫn phần nào toát lên sự nhận biết của con người phương Đông về thiên nhiên. Thời hiện đại với các luận thuyết khoa học đã ra đời với thuyết Tiến hoá của Darwin. Trong cuốn Nguồn gốc muôn loài và các tác phẩm của mình, Darwin đã đưa ra giả thuyết với những chứng cứ khoa học rằng con người đúng là có nguồn gốc từ thiên nhiên. Chúng ta là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài của một loài vượn người thông minh. Càng ngày, khoa học hiện đại lại càng cung cấp nhiều chứng cứ khoa học để chứng minh cho sự đúng đắn của thuyết Tiến hoá. Tuy vậy, con người vốn là một bí mật không thể hiểu hết bằng chính trí óc của con người. Ngay cả kho bí mật vô tận của thiên nhiên, chúng ta đâu đã biết hết. Nhưng theo suốt dòng lịch sự phát triển của loài người, chúng ta nhận thấy là quan niệm rằng thiên nhiên, vạn vật chỉ là những vật vô tri, không có những bí mật riêng biệt chỉ tồn tại khi đời sống loài người còn rất sơ khai. Khi ý thức của con người đã phát triển, cùng với những bí mật của mình, con người khám phá ra những bí mật kỳ diệu của thiên nhiên. Các nhà khoa học đều thừa nhận rằng, nhận thức của con người về thiên nhiên tăng lên như thế nào thì sự tiến hóa của loài người tăng theo như vậy. Thiên nhiên có linh hồn sống động hay không? Đó là một điều bí mật hết sức hấp dẫn. Các nhà khoa học, với những thực nghiệm khoa học kỳ công, đã phá mở cánh cửa huyền bí đó. Hãy để cho thiên nhiên rì rào vĩnh cửu. Các nhà thơ đã viết thế. Nhưng ở đây chúng ta có thể có một câu hỏi lạ lùng không kém so với những câu hỏi trên: “Linh hồn” của cỏ cây, của hoa lá, của thiên nhiên là gì? Phải chăng đó là một “động lực bí ẩn” nuôi sống thiên nhiên và làm cho thiên nhiên mãi mãi xanh tươi? Chúng ta không nói đến ánh mặt trời và các khoáng chất. Giống như ở con người, ngoài những chất hợp thành cơ thể con người mà khoa học có thể phân biệt được, chúng ta vẫn không thể “phân tích” nổi linh hồn bí ẩn sống động của con người, mặc dù đó là điều cơ bản để duy trì sự sống. Để tiến xa hơn trong vấn đề phức tạp này, chúng ta tập trung phân tích vào sự sống của các loài cây cối. (Còn đối với thế giới động vật, thuyết Tiến hoá và các bằng chứng khoa học của nó đã như một lời khẳng định rằng chắc chắn có tồn tại linh hồn trong thế giới động vật, vì con người khai sinh từ đó). Nhiều người sẵn sàng thừa nhận động vật có linh hồn sống nhưng lại không thể thừa nhận điều tương tự ở loài thực vật. Theo các giá trị khoa học hiện đại thì sự sống trên trái đất bắt nguồn từ những dạng thức sống rất đơn giản. Những dạng thức sống ấy phát triển dần và tạo ra các loài thực vật động vật... Điều gì đã khiến các dạng thức sống ấy dần dần phức tạp và đa dạng hoá. Nếu không phải do một sức mạnh khác từ bên ngoài hỗ trợ (các truyền thuyết, huyền thoại gọi sức mạnh đó là thần linh) thì tất yếu những dạng thức sống đó phải có một “hạt nhân tiến hoá” nội tại. Chính điều này kết hợp với môi trường sống đã tạo ra một thế giới đa sắc màu. Điều lạ lùng là, những dạng thức sống đầu tiên, khi phân hoá, một phần biến thành các loài cây cỏ đã không còn tiếp tục duy trì được cường độ “tiến hoá” của chúng. Có những dạng thức phát triển thành những dạng thức sống cao độ như ở loài chim hay loài người, nhưng vẫn có nhiều dạng thức sống chỉ phát triển một “thời gian” ngắn rồi dừng lại như các loài tảo chẳng hạn. Tất cả các dạng thực sống sơ khai ban đầu đều chung hưởng một môi trường sống như nhau với các điều kiện khí hậu như nhau (mặc dù trên trái đất có nơi cực lạnh, nơi cực nóng, nhưng nhìn tổng quát tất cả điều kiện tồn tại trên trái đất nói chung thì không khác nhau). Như vậy rõ ràng là sự phát triển không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào các điều kiện vật chất như khí hậu, khoáng chất, ánh sáng... Có lẽ “linh hồn” sống sơ khai trong các dạng thức đó trỗi dậy không đều nhau và do đó phát triển thành muôn loài khác nhau như ngày nay. Khi đeo các máy đo vào thân cây trong những phòng thí nghiệm hoàn toàn yên tĩnh, người ta đo được những âm thanh kỳ lạ khác hẳn với âm thanh phát ra từ sự vận chuyển của dòng nhựa cây. Hơn nữa, các nhà trồng hoa bây giờ đã có cách ru ngủ hoa hặc thúc hoa mau nở bằng âm nhạc. Trên các thí nghiệm tương tự, người ta thấy rằng âm nhạc có tác động mạnh đến các loài hoa hay sự quang hợp của lá. Tại sao hoa lá lại có thể bị kích thích bởi âm nhạc? Phải chăng sóng âm thanh đã tác động mạnh lên các bề mặt lá và hoa. Không phải thế. Nhưng cái cây sống ở nơi có nhiều tiếng ồn không thể có sự kích thích như thế này được. Nếu như cái cây không “biết chọn lọc” âm thanh để nghe thì nó hàng ngày nó đã phải hứng chịu bao nhiều tiếng động khủng khiếp khác. Hơn nữa, trong rừng Amazon còn tồn tại loại cây rất kỳ lại. Nếu vùng đất xung quanh bị khô hạn, cái cây sẽ tự động trồi rễ lên, cuộn tròn lại và “đi dần” về nơi có nước. Khi đến nơi, rễ cây lại mở ra và cắm xuống đất. Như vậy chứng tỏ ngoài những thành phần hoá học tạo nên một đời sống vật chất của cây cỏ, còn một phần bí ẩn nào đó vẫn chưa giải thích được, nếu có thể chúng ta gọi đó là “linh hồn của cây cối”? Linh hồn này đã duy trì cuộc sống của cỏ cây. Điều này được rất nhiều nhà khoa học công nhận như họ cho rằng, “linh hồn của cây cối” vẫn tồn tại ở dạng tiềm ẩn” không phát lộ ra một cách sống động. Chính vì vậy mà những tán cây luôn có vẻ mơ màng như ngủ bởi vì “linh hồn” của chúng tản mạn và “ngủ” quá sâu trong đời sống của thảo mộc. Có lẽ nó chỉ “thức dậy” khi môi trường sống thay đổi đột ngột một lần nữa. Hiện nay, phong trào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường diễn ra trên khắp thế giới. Dân tộc nào cũng ý thức được điều đó vì bởi hậu quả của sự tàn phá thiên nhiên diễn ra ngay trong cuộc sống của chúng ta. Tuy vậy, khi phát động chiến dịch bảo vệ thiên nhiên với ý nghĩa bảo vệ môi trường sống duy nhất của con người, chúng ta có vẻ rất hăng hái. Nhưng có điều kết quả thu được không như ý muốn. Nếu như mỗi con người ý thức rằng thiên nhiên không chỉ là môi trường sống, mà còn rất có thể vạn vật trong đó là “những người anh em máu thịt” với loài người thực sự thì chúng ta mới có thể bảo vệ thiên nhiên - nguồn sữa duy nhất của loài người. Nguyễn Thị Minh Phương nguồn vietimes
  12. Sự thành tâm không có chỗ cho dối lừa 02:52' 22/04/2008 (GMT+7) - Sau sự kiện các nam thanh nữ tú Hà Nội thản nhiên vặt trụi không thương tiếc cả ba cây hoa anh đào…nay lại đến sự kiện bánh dầy trong lễ giỗ Quốc tổ được nhét đầy mút xốp…Đó không chỉ là hành vi thiếu văn hoá, mà có gì đó như một sự dối lừa… “Văn hoá vặt trụi” và “văn hoá dối lừa” [/size] Bánh chưng, bánh dầy khỏng lồ . Ảnh: Dân Trí Mấy ngày nay, hàng triệu con dân nước Việt choáng váng trước thông tin về cặp bánh chưng- bánh dầy khổng lồ của thành phố Hồ Chí Minh mà Công ty văn hoá Đầm Sen là tác giả, để cung tiến các Vua Hùng trong ngày Quốc giỗ- 10- 3 âm lịch vừa qua. Cặp bánh chưng- bánh dầy có trọng lượng và kích thước lớn nhất từ trước đến nay. Chiếc bánh chưng nặng gần hai tấn,còn chiếc bánh dầy nặng gần một tấn (tính cả khung sườn bằng sắt và đế chiếc bánh), nhưng bánh chưng thì bị vữa, lên men có mùi khó chịu, còn bánh dầy bị mốc xanh, đặc biệt chỉ bên ngoài là một lớp bột mỏng, còn bên trong bánh hoàn toàn được làm bằng…mút xốp (!) Sau phút choáng váng vì bị bất ngờ đến lặng người, là sự giận dữ, phẫn nộ bùng nổ. Hàng trăm email, ý kiến bạn đọc tới tấp gửi về toà soạn các báo mạng. Sau sự kiện các nam thanh nữ tú Hà Nội khi đến thưởng ngoạn đã thản nhiên vặt trụi không thương tiếc cả ba cây hoa anh đào lớn- quà tặng thân thiện của nước Nhật, khiến những người có văn hoá, ngưỡng mộ cái đẹp quá xấu hổ vì “nỗi nhục quốc thể”, mà một tờ báo đã phải chua xót gọi là “văn hoá vặt trụi”...nay lại đến sự kiện bánh dầy trong lễ giỗ Quốc tổ được nhét đầy mút xốp. Lại thêm một vụ việc làm đau đớn, làm tổn thương hàng triệu con người yêu văn hoá tâm linh, hướng về ngày giỗ Quốc tổ với tất cả tấm lòng tự hào, yêu thương và thành kính Tổ tông. Đó không chỉ còn là hành vi thiếu văn hoá, mà có gì đó như một sự dối lừa. "Văn hoá vặt trụi” và “văn hoá dối lừa”. Tôi bỗng nhớ đến tuổi thơ. Mỗi lần có cúng giỗ, để ý, tôi thấy mẹ và dì tôi, ngay cái cách chọn hoa quả cũng rất cẩn trọng, thành kính. Hoa quả bao giờ cũng phải thật tươi ngon, nhất là những thức quả đầu mùa, chưa ai được nếm. Cho đến cách bày biện mâm cơm cúng trên ban thờ, mẹ và dì tôi cũng rất nâng niu, rón rén đi lại, như sợ sự khinh suất sẽ làm kinh động đến người đã khuất. Cả mẹ và dì đều mặc áo dài, trang trọng như một nghi lễ khi thắp hương khấn vái. Nhưng cũng có những ngày thắp hương, tôi chỉ thấy mấy bông hoa tươi và chén nước trắng. Thấy tôi hỏi, mẹ xoa đầu tôi, nói khẽ: “Cần nhất là sự thành tâm thôi con ạ. Chứ “các cụ” cũng có sống lại được để thưởng thức đâu”. Tôi thấy mẹ thở dài, buồn buồn. “Các cụ là ai hả mợ?”. “Là tổ tiên, ông bà con ạ. Không có tổ tiên làm sao sinh ra ông bà, sinh ra cha mẹ hả con?”. Nhưng bên trong bánh dầy toàn...mút xốp - Ảnh: TTO Câu nói ngắn gọn của mẹ về sự thành tâm, vậy mà ấn tượng sâu đậm trong tôi đến tận bây giờ. Mỗi tháng, ngày mồng một hay ngày rằm, ngày cúng giỗ hay lễ tết, khi chọn mua hoa quả để “cúng cụ”, tôi không bao giờ dám đưa lên mũi ngửi vì mẹ tôi bảo như thế là bất kính. Hoa quả bao giờ cũng phải tươi ngon đã đành, nhất là những thức quả đầu mùa, với ý nghĩa dâng cúng tổ tiên, ông bà, những người đã khuất núi, những trái qủa và hương hoa tinh khiết nhất của trời đất, mà ngay cách chọn hoa quả cũng phải rất gượng nhẹ. Mới hay, niềm tin tâm linh sâu sắc có khi còn là điểm tựa, làm tay vịn, cũng là sự tự răn dạy để con người ta không được làm những điều thất đức, và sống cho phải đạo. Thế nhưng thời buổi kinh tế thị trường bây giờ, sự hưởng thụ vật chất của con người càng lên cao thì đức hạnh của con người dường như càng xuống thấp. Lỗi tại ai? Tại con người không được giáo dục đến nơi đến chốn từ trong gia đình, cho đến nhà trường, còn ra xã hội, pháp luật không nghiêm minh? Có người chua chát bảo thần Công lý đã bị “bịt mắt”. Hay bởi ngài cũng đang mê mải bán, mua? Đáng sợ nhất sự giả trá, dối lừa không còn là căn bệnh nữa. Nó đã trở thành thâm căn cố đế trong cơ thể xã hội, từ lời nói đến cách hành xử, khiến con người ta dần phải quen sống chung với thói “đạo đức giả” như một lẽ thường tình và hiển nhiên, hít thở “độc tố” của nó như khí trời vậy. Khi xảy ra sự kiện gian lận thi cử tại một hội đồng thi huyện Phú Xuyên (Hà Tây) bị thầy giáo Đỗ Việt Khoa dũng cảm tố cáo, khi chất lượng GD rởm bị bóc mẽ trước ánh ngày, trước thanh thiên bạch nhật, không ít lời, không ít người “xỉ vả” ngành GD mắc bệnh hình thức, bệnh dối trá. Thế nhưng thực ra căn bệnh hình thức, dối trá ấy không phải của riêng ngành GD. Nó đã nhiễm vào từ rất lâu, rất sâu ở tất cả các lĩnh vực. Nó không chỉ hoành hành ở các ngành “vật thể” như kinh tế, giao thông, xây dựng…mà nó còn lây lan ra cả những ngành “phi vật thể” như văn hoá. Nó ngang nhiên dối lừa người đời đã đành, khi nó ăn mòn bức tượng đồng Điện Biên Phủ, ăn rút ruột công trình cầu Văn Thánh, các công trình cầu đường, ăn cả sắt thép các khu nhà chung cư hiện đại…mà nó còn nâng lên thành “văn hoá dối lừa” cả các bậc tiên đế đã yên giấc thiên thu. Dối lừa, như lời nói không biết xấu hổ và cũng thật thất tín của ông Phó giám đốc Công viên văn hoá Đầm Sen: “ Không nên cắt bánh dầy vì thực chất đây chỉ là khối bột nếp, mang ý nghĩa tượng trưng cho một lễ vật truyền thống dâng cúng nhân ngày giỗ Quốc tổ Hùng Vương, hơn là để phục vụ người dân thưởng thức chiếc bánh khổng lồ”. Xin thưa, xưa nay việc dâng cúng tổ tiên các vật phẩm cũng chính là một sự tạ ơn của con cháu với các bậc tiền nhân đã cho sự sống, cho sự dưỡng dục nên người, đâu có chuyện thờ cúng tượng trưng, thắp hương xong thì con cháu đổ đi? Con cháu các Vua Hùng. Ảnh: mQuiz.net Giỗ chạp tổ tiên một gia đình, một dòng họ còn là việc linh thiêng, một lễ trọng, nữa là việc giỗ Quốc tổ. Những con dân nước Việt chúng ta không chỉ tạ ơn bậc tiên đế- các Vua Hùng đã cho con cháu sự sống, mà còn cho con cháu, cho chúng ta cả giang san, bờ cõi, cả đất cả trời mang tên nước Việt. Và chính cái tập quán “thụ lộc” của con cháu, sau khi đã dâng cúng thành tâm ấy, là sự mong mỏi được hưởng “âm phúc, âm đức” của Tổ tông- hưởng cái lộc ngàn đời, tích tụ bằng lao động tài giỏi và niềm kiêu hãnh, bằng khí phách và tố chất bất khuất của giống nòi con Rồng cháu Tiên. Cũng chẳng phải riêng các dân tộc Á đông như dân tộc ta, mà ngay nhiều nước phương tây, sau các lễ hội làm những chiếc bánh pi- da, bánh nướng, những chảo cơm rang khổng lồ, người dự lễ có được niềm hạnh phúc cùng nhau thưởng thức các “lễ vật” của chính tài năng lao động đồng loại. Chưa nói đến sự lãng phí “phải tội với trời đất”, phải tội với người nông dân một nắng hai sương trên đồng ruộng, câu nói đó còn là sự bất kính và bất nhẫn. Chỉ khổ cho không ít người dân thật thà, cả tin và thành kính, mong đợi khi bánh xẻ ra, được mang về thắp hương trên chính ban thờ gia tiên nhà mình. Cũng có lời biện bạch, rằng vì làm bánh khổng lồ đến vậy, phải có những nguyên liệu “sắt, mút xốp”. Đó có thể là một sự thật. Nhưng sự sáng suốt của trí tuệ, của tầm nhìn văn hoá còn là ở chỗ, nếu trình độ công nghệ và tay nghề bảo quản còn hạn chế, thô sơ, xin hãy thành tâm làm những đồ cúng tế- những bánh chưng, bánh dầy phù hợp với tầm vóc công nghệ và bảo quản thực phẩm của ta. Chắc Tổ tông không nỡ chê con cháu dâng cúng bánh bé, bánh nhỏ. Tự lúc nào trong xã hội ta có một tâm lý đua tranh, cái gì con người cũng muốn làm là phải to nhất, lớn nhất, phải "kỷ lục" nhất. Đương nhiên khát vọng khẳng định trí tuệ, sự tài giỏi, khẳng định thương hiệu là chính đáng, nhưng thành quả hoặc sản phẩm ấy phải có chất lượng thực chất, chứ không thể phô trương, hình thức, bên ngoài khổng lồ mà bên trong lại toàn...mút xốp. Làm đồ cúng tế như thế để bị mốc, bị thiu phải đổ đi, vừa không tôn kính và xúc phạm Tổ tông, vừa quá lãng phí, làm tổn thương lòng đồng bào ngưỡng vọng, vừa mắc tội dối lừa chỉ vì cái tham vọng kỷ lục Ghi nét, tham vọng thành tích quá lớn, trong những cái đầu còn bé nhỏ. Sự phẫn nộ của dư luận xã hội đòi hỏi thành phố Hồ Chí Minh, các cơ quan quản lý có thẩm quyền xử lý nghiêm khắc và nghiêm túc cả nhận thức lẫn việc làm “phi văn hoá” này. Đến bao giờ trong xã hội ta mới hết các "sự kiện văn hoá" xấu hổ, là "nỗi nhục quốc thể"? Mới hay, sự thành tâm không bao giờ có chỗ cho dối lừa. Kỳ Duyên ( Vietnamnet )
  13. Chưa một ai chứng kiến 1 cuộc đời trãi dài từ lúc sinh trong bọc điều cho đến già xem sướng khổ thế nào ? Ngoại trừ thân sinh của họ , và cũng chưa có trường hợp nào hiển đạt thuận lợi xuất phát từ nguồn sinh của bọc điều . cá biệt lịch sử : như Thành Cát Tư Hãn đã có vết trong lòng bàn tay để sau này làm Vương . Mình không tin vào điều kiện ban đầu này .
  14. Thực phẩm màu đen có lợi Thứ ba, 1/4/2008, 08:51 GMT+7 Bạn đã nghe đến những loại thực phẩm màu vàng như: cam, cà rốt, khoai lang, đu đủ; thực phẩm màu đỏ như: cà chua, đậu đỏ, củ cải đỏ, anh đào; rồi thực phẩm màu tím như: nho tím, bắp cải tím, lựu. Chúng đều rất tốt cho sức khỏe của con người, thế còn thực phẩm màu đen, bạn đã nghe đến tác dụng của nó. Dưới đây là những thực phẩm được gọi là "đen" và bạn hãy xem công dụng của nó thế nào nhé. Đậu đen: hàm lượng protein đạt 33%, vitamin, dầu thực vật, canxi, sắt, phốt pho, nguyên tố vi lượng tương đối phong phú, là một nguồn dinh dưỡng tự nhiên rất tốt. Nó có nhiều công dụng như phòng và kháng lại quá trình lão hóa của cơ thể, đen tóc, nhuận da, tiêu viêm, giải độc, tráng dương, bổ thận... có thể phòng và trị các bệnh cho người trung niên và người già như: bệnh cao huyết áp, tim, tiểu đường, bệnh thận, chứng béo phì, xơ cứng động mạch vành, ung thư... Gạo nếp cẩm: Là loại gạo nếp có vỏ màu đen, chứa hàm lượng chất protein, dầu thô, sắt cao hơn rất nhiều so với gạo nếp thường. Có tác dụng bổ huyết, ích khí, bổ não, kiện thận, đặc biệt nó rất hữu hiệu đối với những người mắc bệnh thiếu máu do thiếu sắt. Vừng đen: Còn có tên gọi là hồ ma, nó là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, trong đó hàm lượng Protein chiếm 21,9%, hàm lượng dầu thực vật chiếm 61,7%, ngoài ra còn chứa nhiều canxi, phốt pho, sắt, nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng khác, có tác dụng làm đẹp da, tóc, chống lão hóa rất hiệu quả.Gạo đen: Còn gọi là trân châu đen có hàm lượng protein đạt đến 11,5% trong khi hàm lượng đó gạo thường chỉ đạt 7%. Gạo đen chứa vitamin B, sắt cao hơn rất nhiều so với gạo thường, Mộc nhĩ đen: Là đặc sản núi rừng có giá trị dinh dưỡng rất cao, nó được gọi là sơn hào mà nhiều người yêu thích. Trong 100g mộc nhĩ chứa 0,6g protein, 0,2g dầu thực vật, 6,5g cacbon, 7g chất xơ, 5,8g khoáng chất. Ngoài ra còn là loại thực phẩm giàu canxi, phốt pho, sắt, carotin và các nguyên tố vi lượng... Là loại thực phẩm rất tốt cho việc phòng chống chứng xơ cứng động mạch vành, các bệnh liên quan đến tim, và các bệnh phù thũng. Rau câu: Trong 500g rau câu chứa 4, 1g Protein, 64,5g muối vô cơ, vitamin tương đương với rau chân vịt và rau cải dầu, nhưng hàm lượng đường, canxi, phốt pho, sắt lại cao hơn rất nhiều. Nó có tác dụng hữu hiệu đối với những người bị cao huyết áp, các bệnh liên quan đến tuyến giáp.
  15. Thực phẩm giúp giải độc hiệu quả Cách ăn uống không đúng, môi trường ô nhiễm, cuộc sống nhiều áp lực khiến cho cơ thể của chúng ta bị tích tụ rất nhiều độc chất. Những thực phẩm nào có thể hóa giải điều đó. 1. Củ đậu: Củ đậu chứa nhiều chất xơ nên rất tốt cho tiêu hóa, giúp dạ dày co bóp, có lợi cho đại tiện. Bình thường thì mọi người hay ăn sống, nhưng bạn có thể chế biến thành xào, nấu hoặc là nướng. Nướng thì giữ nguyên cả vỏ, khi ăn sẽ thấy ngọt và rất mát. 2. Đậu xanh: Đậu xanh thanh nhiệt giải độc, rất lợi tiểu và có tác dụng tuyệt vời trong việc chữa cảm nắng và giải khát. Nên ăn nhiều chè, cháo đậu xanh thì sẽ giải độc và tiêu viêm rất tốt. Tuy nhiên, khi chế biến đậu xanh bạn không nên nấu lâu quá, vì lâu quá sẽ làm cho hàm lượng acid hữu cơ cũng như là vitamin bị mất đi và giảm bớt tác dụng vốn có của nó. 3. Yến mạch: Yến mạch có tác dụng giúp dạ dày co bóp tốt, nhuận tràng, thông đại tiện nên giải độc rất tốt. Bạn hãy nghiền yến mạch nấu chín thành nước để uống hoặc khi uống cho thêm một số nước hoa quả khác như là táo, nho, vừa cung cấp được thêm nhiều thành phần dinh dưỡng, vừa lợi đại tiểu, tiện. 4. Ý dĩ: Hạt ý dĩ có tác dụng thúc đẩy tuần hoàn máu, trao đổi nước trong cơ thể, phát huy tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, rất có ích trong việc cải thiện tình trạng của những người béo phì do phù nề. Uống nước ý dĩ là một trong những biện pháp giải độc khá tốt. Bạn hãy đun nhừ hạt ý dĩ rồi cho thêm ít đường vừa đủ vào nguấy đều. Loại nước này vừa giải độc lại vừa có tác dụng làm đẹp da. 5. Hạt kê: Hạt kê không có trấu cám nên sẽ không làm kích thích thành ruột. Đặc biệt là hạt kê có nhiều chất xơ ôn hòa nên rất dễ tiêu hóa, giải độc rất tốt. Bạn có thể nấu cháo kê, cháo kê có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, lợi tiểu, hàm lượng dinh dưỡng lại cao và đối với phụ nữ thì có tác dụng làm trắng da. 6. Gạo chưa giã: Loại gạo này còn giữ nguyên các thành phần dinh dưỡng, có hàm lượng chất xơ phong phú, có tác dụng hút nước, hút mỡ và tạo cho bạn có cảm giác no bụng. Khi ăn loại gạo này sẽ làm cho đường ruột thông suốt, giải độc tốt, rất có ích cho những người hay bị táo bón. Hàng sáng ăn một bát cháo gạo chưa giã hoặc là một cốc sữa đậu lành pha với gạo chưa giã là cách giải độc tốt nhất cho cơ thể. 7. Đậu đỏ: Đậu đỏ có tác dụng thúc đẩy sự co bóp của dạ dày, giảm táo bón, lợi tiểu. Bạn hãy ngâm đậu đỏ một tối sau đó vớt ra rửa sạch cho vào nồi ninh nhừ thành chè không đường. Cứ cách một ngày ăn một bát chè không đường này thì giải độc rất tốt. 8. Cà rốt: Cà rốt có tác dụng cải thiện tình trạng táo bón của cơ thể. Cà rốt có chứa hàm lượng carontine- phong phú, có thể bài trừ được chất độc. Tuy nhiên, khi chọn lựa cần chú ý rằng cà rốt tươi mới có tác dụng giải độc tốt nhất. Bạn có thể chế biến thành nước ép cà rốt, nếu thích thì cho pha thêm mật ong, nước chanh...vừa ngon vừa giải khát lại vừa giải độc. 9. Sơn dược (một vị thuốc nam): Sơn dược có tác dụng điều chỉnh hệ thống tiêu hóa của cơ thể, làm giảm bớt sự tích tụ của lớp mỡ ở dưỡi da, tránh hiện tượng béo phì và làm tăng được chức năng của hệ thống miễn dịch. Ăn sống sơn dược sẽ có hiệu quả tốt nhất. Rửa sạch sơn dược và cà rốt, cắt thành miếng rồi cho ép thành nước uống, vừa ngon, vừa bổ cho dạ dày, đường ruột. 10. Ngưu bàng (một vị thuốc nam): Ngưu bàng có tác dụng thúc đẩy toàn hoàn máu, trao đổi chất và điều chỉnh chức năng của hệ thống đường ruột. Ngưu bàng chứa nhiều chất xơ nên có tác dụng giữ nước trong cơ thể, làm mềm phân, rất có ích cho việc giải độc, chữa táo bón. Bạn có thể chế biến ngưu bành thành nước giải khát thay cho nước trà, uống lúc nào cũng được và cần phải uống thường xuyên, lâu dài. 11. Măng lau: Măng chứa nhiều chất dinh dưỡng như kali, asparagine có tác dụng lợi tiểu, đào thải được lượng nước thừa trong cơ thể, giải độc rất tốt. Mầm măng lau tươi chứa nhiều vitamin A, rất tốt cho cơ thể và dễ chế biến thành các món ăn ngon miệng. 12. Củ sen: Củ sen có tác dụng lợi tiểu, và đẩy các chất phế thải ra ngoài cơ thể để làm sạch máu. Củ sen được chế biến nóng lạnh tùy thích. Có thể ép thành nước và cho thêm một ít mật ong để uống, cũng có thể nấu lên thành chè rồi uống, hoặc nấu canh xương... 13. Củ cải: Củ cải có tác dụng lợi tiểu rất tốt. Củ cải chứa nhiều chất xơ nên rất tốt cho những người hay bị táo bón, đồng thời củ cải còn có tác dụng làm giảm béo. Nếu muốn củ cải giải độc có hiệu quả tốt nhất là ăn sống, có thể ép thành nước hoặc là làm sa - lát. 14. Cải cúc: Cải cúc chứa nhiều vitamin A, có tác dụng bảo vệ gan và đào thải các chất độc ra ngoài cơ thể. Bạn có thể chế biến thành các món canh hợp khẩu vị để ăn hàng ngày. 15. Lá củ đậu: Chất xơ trong lá củ đậu rất nhiều, lại không có vị đắng chát, khi ăn dễ làm cho ta có cảm giác no bụng, lại thúc đẩy được sự co bóp của dạ dày, phòng chống được căn bệnh táo bón. Rửa sạch lá củ đậu rồi cho nhúng qua nước đang đun sôi. Sau đó trộn lẫn với tỏi đã băm nhỏ và ít dầu oliu, như vậy bạn đã có một món sa lát vừa bổ vừa ngon miệng. 16. Lá củ cải: Loại rau này có chứa hàm lượng vitamin và xơ vô cùng phong phú, có tác dụng khiến bạn ăn ngon, đường ruột co bóp tốt và cải thiện được tình trạng táo bón của cơ thể. Ngoài nấu canh thì bạn có thể ép lá rau củ cải thành nước. Khi ép nên cho thêm ít mật ong, như vậy vừa giải độc mà lại rất bổ. 17. Xuyên thất: Lá cây xuyên thất có những thành phần dinh dưỡng làm giảm lượng đường trong máu và chữa trị căn bệnh táo bón mãn tính. Cho lá xuyên thất, cà chua, quả kiwi vào xay lẫn để uống hàng ngày, vừa ngon vừa bổ. 18. Giấm: Giấm ăn có tác dụng tăng cường sự trao đổi chất trong cơ thể, thải các chất acid có hại ra ngoài và giải tỏa mệt mỏi, ngoài ra cũng có tác dụng lợi tiểu, thông ruột. Sáng tối mỗi ngày sau khi ăn cơm thì nên uống một chút giấm ăn, như vậy sẽ rất có ích cho sức khỏe
  16. THỬ BÀN VỀ NIỀM TIN TRONG ĐỜI THƯỜNG VÀ NIỀM TIN TÔN GIÁO Võ Văn Thành Trước hết, tôi thấy cần làm rõ thế nào là niềm tin, niềm tin đời thường và thế nào là niềm tin tôn giáo. Các từ điển khá tên tuổi như từ điển Từ và ngữ Việt Nam của Gs. Nguyễn Lân, NXB TP. Hồ Chí Minh 2000 có một từ nói về niềm tin. Niềm tin = lòng tin tưởng. Việt Ngữ Chánh Tử Tự Vị của Lê Ngọc Trụ, Khai Trí tái bản lần thứ I, 1972 chỉ có một chữ niềm (niệm) = lòng tưởng nhớ. Theo tôi, niềm tin là sự hy vọng của chúng ta vào một điều gì đó hoặc một cái gì đó mà chúng ta chưa thể xác định đó là rõ ràng. Chẳng hạn, một người cầm một đồng xu trong tay sau khi tráo qua trở lại rồi nắm thành hai nắm chìa cho chúng ta đoán trong nắm tay nào có đồng xu. Trong trường hợp đó, ta không biết nắm tay nào có đồng xu, ta có thể đoán nắm tay này có đồng xu nhưng thực tế khi mở ra thì chưa chắc có đồng xu. Theo tôi đó là niềm tin. Niềm tin là cái chưa thể xác thực được, nếu cái gì đó đã được xác thực rõ ràng, không còn phải đoán hay đặt lòng tin vào nữa thì khi đó niềm tin đã trở thành sự thật. Như vậy khi chúng ta biết một cái gì đó rõ ràng thì đó không còn là niềm tin mà nó đã trở thành sự thật, chúng ta không còn phải đặt cược theo kiểm Pascal nữa, tức là nhảy xuống nước xem mình có bị chết đuối hay không! Niềm tin trong đời thường là sự hy vọng, trông mong rất bình dị của chúng ta vào những điều trong cuộc sống giúp chúng ta siêu việt (transcend) lên những khó khăn của cuộc sống hay làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được thăng hoa (sublimated). Niềm tin đời thường từ những niềm tin của những người bình thường nhất cho đến các bậc vĩ nhân đều có một vai trò rất lớn trong đời sống của họ. Chúng ta thử tượng tượng một con người không có niềm tin thì cuộc sống của nó sẽ như thế nào? Tôi tin tưởng rằng con người đó không thể có được hạnh phúc và sự bình lặng nội tâm cho dù là một phút giây ngắn ngủi và rốt cuộc dẫn anh ta đến sự tự hủy hoại bản thân mình, hủy hoại môi trường sống và hủy diệt cuộc sống của người khác như Eric Fromm đã viết (chúng tôi sẽ đề cập trong phần niềm tin tôn giáo). Gia đình được xem là tế bào của xã hội, nếu không có niềm tin giữa các thành viên trong gia đình thì sẽ như thế nào? Nhân đây tôi lấy lại câu chuyện Mỵ Châu-Trọng Thủy trong văn học cổ. Câu chuyện kể lại một bi kịch mất nước của người Việt nhưng theo tôi có ý nghĩa về niềm tin rất lớn. Thục phán vì tin con rể nên mới bị mất nước, ông cũng vì tin con gái mình nên cuối cùng bị cùn đường phải tự vẫn. Mỵ Châu vì tin chồng nên mới tiết lộ bí mật quốc gia cho người chồng yêu quý nhất cũng là kẻ bội tín đáng khinh nhất. Nàng cũng vì tin chồng nên mới mang tội phản quốc và bị cha giết. Sau này nhà thơ Tố Hữu viết: “Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu, Trái tim lầm lẫn để trên đầu. Nỏ thần vô ý trao tay giặc, Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.” Niềm tin của nàng đối với chồng là niềm tin thật thà, trong trắng cho nên dù bị kết tội phải quốc và bị cha giết nhưng nhà thơ Tố Hữu cảm thông và viết lên những câu thơ như vậy. Chúng tôi muốn nói rằng: Nếu trong gia đình mà cha không tin con, vợ không tin chồng thì còn có ý nghĩa gì? Cái gia đình đó còn có thể được gọi là một gia đình đúng nghĩa hay không? Một trường hợp niềm tin khá phổ biến dẫn đến một tập tục và truyền thống đáng tự hào của các dân tộc Đông Nam Á đó là việc tin vào linh hồn của con người sau khi chết đã dẫn đến tập tục thờ cúng tổ tiên mà tôi xét ở đây là tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Người Việt tin rằng sau khi ông/bà, người thân mình mất thì linh hồn của họ vẫn thường còn mãi mãi cho nên mới có phong tục thờ cúng tổ tiên. Khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu phải báo hiếu và làm việc này một cách thành kính nhất là điều tất nhiên. Người Việt tin rằng, hằng năm vào những ngày giỗ kỵ hoặc lễ, Tết thì linh hồn của tổ tiên, ông bà mình về sum họp với con cháu. Đó là cơ hội để cho con cháu báo hiếu ông bà, cha mẹ; hoài niệm về ông bà, cha mẹ; tưởng nhớ tới công đức của ông bà, cha mẹ. Nếu không có ông bà, cha mẹ mình thì mình sẽ không tồn tại ở cõi đời này, do đó việc báo hiếu khi ông bà, cha mẹ còn sống là điều tất yếu phải làm và làm một cách rất hoan hỷ, tự nguyện. Ông bà, cha mẹ tuy đã mất nhưng vẫn còn quanh quẩn đâu đây xung quanh con cháu để chăm sóc chúng, khuyến khích chúng làm điều tốt, răn chúng không nên làm điều xấu. Xã hội người Việt đã từ lâu xem trọng truyền thống thờ cúng ông bà, cha mẹ và còn xem đó là điều bắt buộc đối với con cháu, một trách nhiệm gia đình bị quy định bởi xã hội nhằm duy trì cái đẹp trong xã hội. Khi cha mẹ mình đã chết, phải chăng là mọi thứ với họ đều đã chấm dứt, đã hết, kể cả tình thương? Không, những người con cháu vẫn rất thương nhớ không nguôi cha mẹ của mình, trong tâm tưởng của con cháu, họ vẫn còn đâu đó. Tập tục thờ cúng ông bà, cha mẹ là sợi giây vô hình kết nối thế giới của những người đang sống với thế giới của những người đã chết và đang sống ở thế giới khác. Đó là sự kết nối truyền thống của các thế hệ, giúp cho các thế hệ không bị khủng hoảng về niềm tin. Chết không phải là hết, mà chết là về với tổ tiên, ông bà. Điều đó là niềm an ủi và cũng là niềm tin giúp cho những người đang sống được sống yên vui, bình lặng nội tâm, vượt qua những khó khăn của đời sống và giúp những người đang sống thăng hoa về mặt tinh thần. Niềm tin của người Việt về việc thờ cúng tổ tiên một cách thành tín nhất xưa nay vẫn là vậy. Nếu người Việt quan niệm chết là hết và vứt bỏ tất cả những thờ cúng tổ tiên xưa nay thì có khác gì đang bắt chước những cái sai lầm của phương Tây vốn đã bị các nhà phê bình như Eric Fromm phê phán như: “Ở thế kỷ 19, vấn đề là Thượng Đế đã chết. Ở thế kỷ 20, vấn đề là con người đã chết.” (In the nineteenth century, the problem is that God is dead. In the twentieth century, the problem is that man is dead.) [dẫn lại từ mục Triết học Ấn Độ đối với cuộc khủng hoảng của văn minh Phương Tây, quyển Đại Cương Triết Học Phương Đông, phần I, Minh Chi viết; Đại học tổng hợp 1993]. Câu trên của Eric Fromm cảnh báo một cuộc khủng hoảng niềm tin vào Thượng Đế của người phương Tây, khủng hoảng niềm tin vào tôn giáo truyền thống. Theo tôi, câu trên chỉ đúng với thế giới phương Tây vốn rất hướng ngoại, rất tham vọng, luôn muốn khám phá mọi thứ, thậm chí đã khai tử cho Thượng Đế như Fromm đã nói. Hay như Marx đã xem tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân”: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [dẫn lại từ cước chú quyển Các Vấn Đề Phật Học, Minh Chi, Viện Nghiên Cứu Phật Học 1995, tr.63]. Theo tôi, đây cũng là một cuộc khủng hoảng niềm tin ở một thế giới Tư Bản đang phát triển một cách phi nhân bản được coi là “không có trái tim” và tôn giáo là liều thuốc phiện giúp giảm bớt nỗi đau trong cuộc sống hiện thực. Thế nào là niềm tin tôn giáo? Chúng tôi xin mượn câu nói của Gs. Minh Chi viết về niềm tin tôn giáo như sau: Niềm tin tôn giáo hay trong hợp từ tín ngưỡng tôn giáo hàm ý một niềm tin ở những cái siêu nhiên, nhưng đối với tôn giáo vẫn rất hiện thực, thậm chí còn hiện thực hơn cả thế giới hiện tượng nữa, nhưng vẫn ở ngoài tầm nắm bắt của giác quan và tri thức của con người bình thường. Như vậy, niềm tin tôn giáo là niềm tin trong đời thường đã được thăng hoa thành cái niềm tin thiêng liêng trong các tôn giáo lớn, tuy tên gọi có khác nhau nhưng Divine Ground (Thần tánh), Brahman (Đại Phạm, Đại Ngã) theo Ấn Độ giáo, Chân như, hay Phật tánh, hay Niết Bàn hay Pháp thân (theo đạo Phật), Allah (Thượng đế, Thần chủ) bởi Hồi giáo, abyss of Godhead Thần cách vô hạn (theo Gia Tô giáo, phái Huyền Bí) hoặc là bản thể của ba vị Chúa cha, Chúa con và Thánh thần, “Huyền chi hựu huyền, thiên địa chi thủy, vạn vật chi mẫu” theo Đạo giáo v.v… tất cả đều hướng vào cái siêu nhiên ngoài tầm nắm bắt của cảm quan và tri giác của con người. Niềm tin tôn giáo đã thăng hoa con người, giúp con người hướng thượng, tức hướng họ đến cái chân, cái thiện và cái mỹ. Các tín đồ Phật giáo tin vào Niết Bàn, xem Niết Bàn là mục đích, là khát vọng vươn tới của các tín đồ Phật tử. Các tín đồ Ấn giáo tin và cái Đại ngã là cái ta của vũ trụ, và cái tiểu ngã là cái ta của mỗi cá nhân và tìm cách hòa hợp cái ta Đại ngã hay cái Ta của vũ trụ. Các tín đồ Cơ Đốc giáo đặt niềm tin vào đức Chúa Giê-su hay Thiên đàng hoặc các tín đồ của đạo Hồi tin vào đức Mahômet và kinh Koran v.v… Tất cả đều là niềm tin tôn giáo cao cả của họ đáng được khuyến khích và phát triển. Trong đạo Phật, địa ngục cũng là một cõi sống của những dạng chúng sinh đã tạo ra những nghiệp cực ác phải nếm trải thì đâu có gì là không tốt với mục đích khuyến khích nhân dân làm điều thiện, xa rời điều ác? Tôi thấy niềm tin vào địa ngục rất có ích trong việc răng ác và khuyến thiện thì tạo sao không nên phát huy mà bị xem là mê tín? Cần nói thêm về mê tín một chút. Thế nào là mê tín? Mê tín là tin đến mức mê muội và mù quáng, và sự mê muội và mù quáng đó thể hiện thành những hành vi phản xã hội, phi nhân tính, làm rối trật tự công cộng, làm hỏng đạo đức xã hội, thương tổn thuần phong mỹ tục của nhân dân ta. Ví dụ về những biểu hiện mê tín như thế: tuyên truyền cho người ốm uống nước thải, nước tàn nhang, để cho người ốm càng ốm thêm, ốm đến chết. Vu cho người nào đó là có ma quỷ nhập vào rồi hành hạ người đó đến chết. Mượn lời đồng cô, thầy cúng, thầy tướng để lừa đảo những người nhẹ dạ v.v… Như vậy, chúng ta không được lẫn lộn giữa niềm tin tôn giáo và mê tín vì chúng hoàn toàn khác nhau như đã phân tích. Bây giờ chúng ta hãy xem những nhân vật nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại có niềm tin về tôn giáo như thế nào. Trước hết tôi xin nói về đức Phật lịch sử, người đã thành lập nên đạo Phật cách đây hơn 2.500 năm. Khi đức Phật Thích Ca tìm ra chân lý giác ngộ rồi, Ngài định là không giảng cho ai hết vì chân lý này không phải dễ gì ai cũng có thể hiểu được, nhưng Ngài lại nhìn xuống ao sen và nói rằng là trình độ tiếp thu giáo lý của chúng sinh cũng giống như những bông hoa sen, có bông thì đã vươn lên khỏi mặt nước thật cao (ví như những người có trình độ tiếp thu giáo lý của Ngài thật nhanh), có những bông sen vừa mới vươn lên ngang mặt nước ví như những người có trình độ kém lớp người đã nói trên và có những bông sen còn ngâm mình dưới nước ví với những người có căn cơ thấp kém. Tuy nhiên tất cả họ đều có thể tiếp thu giáo lý của Ngài theo mỗi cách của họ và Ngài đã quyết định giảng chân lý mà Ngài vừa mới phát lộ. Trường hợp này, niềm tin tôn giáo bản thân của đức Phật Thích Ca đã thôi thúc Ngài phát triển lên thành niềm tin tôn giáo có thiết chế xã hội rõ ràng. Các nhà khoa học tuy mệnh danh là những người khám phá thế giới vật chất nhưng ở họ, niềm tin tôn giáo vẫn không bị mai một mà trái lại, họ cảm nhận những khám phá của mình là manh mún, vụn vặt so với một vũ trụ đầy sáng tạo mà dường như là có bàn tay của thượng đế đã sắp xếp, hay nói khác hơn, vũ trụ phát triển là có định hướng. Mở đầu cuốn Thế giới Như tôi thấy, Albert Einstein đã viết: “Tình cảnh của những đứa con trái đất chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Mỗi chúng ta đến đây như một chuyến viếng thăm ngắn ngủi. Ta không biết để làm gì, nhưng đôi khi ta cảm nhận được điều đó.” [15]. “Tôi tuyệt không tin vào tự do của con người theo nghĩa triết học. Mỗi người không chỉ hành động vì sự thúc ép ngoại cảnh mà còn theo đòi hỏi nội tâm.” (chúng tôi nhấn mạnh). Einsten nói câu trên giống như các lãnh tụ tôn giáo thế giới đã từng trải nghiệm. Đức Phật Thích Ca sau khi ngồi suy tư và giác ngộ dưới cây Bồ Đề thì nội tâm của Ngài đã thôi thúc Ngài phải làm cái gì đó cho nhân loại đang chịu khổ này. Đức chúa Giê-su sau khi suy tư nhiều ngày trong sa mạc đã xuất lộ cũng chỉ vì nhân loại đang chịu khổ. Tại sao họ phải làm vậy? Có thể trả lời rằng là bởi vì nội tâm đã thôi thúc họ làm như vậy. Trở lại với Einstein, chính nhà khoa học được tôn sùng là người vĩ đại nhất của thế kỷ 20 cũng trải nghiệm “cái bí ẩn” có thể nói là với thái độ bất khả tri: “Cái đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Kẻ nào không biết đến nó, không còn khả năng thảng thốt hay kinh ngạc, kẻ đó có thể coi như đã chết, đã tắt rụi lửa sống trong mắt mình.” [20] Và Einstein đã tin là có cái tôn giáo trong nghiên cứu khoa học đó là tôn giáo vũ trụ (cosmic religion), theo ông niềm tin vào một tôn giáo vũ trụ là cần thiết và ông còn chỉ tôn giáo tương lai đáp ứng được nhu cầu đó chính là đạo Phật. “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Nó siêu việt lên một Thượng đế cá nhân và tránh giáo điều và thần học. Bao gồm cả tự nhiên và tâm linh, nó dựa trên một cảm nhận tôn giáo, phát sinh từ sự thực nghiệm về mọi thứ, tự nhiên và tâm linh như một sự thống nhất có ý nghĩa. Đạo Phật đáp ứng mô tả này. Nếu có một tôn giáo nào phù hợp với nhu cầu khoa học hiện đại, nó phải là đạo Phật”. (1) Niềm tin của Eistein vào một tôn giáo của vũ trụ, một tôn giáo không giáo điều và siêu việt lên Thượng đế cá nhân đã cổ vũ cho bao lớp người làm khoa học từ đó đến nay. Cá nhà khoa học đã có được một niềm tin tôn giáo ngay trong lĩnh vực hoạt động của mình khiến cho họ không còn bị cô độc giữa những phát minh và con số nữa. Một niềm tin giúp họ ngày càng tiến xa hơn trong địa hạt của mình và không cảm thấy bức xúc gì. Nói tóm lại, theo tôi thì con người chúng ta không thể sống mà thiếu niềm tin được. Vì thiếu niềm tin, con người sẽ bị lầm lạc, bị chán nãn, bị biến thành những người máy nổi điên mà không sớm thì muộn gì thì nói cũng sẽ phá hủy thế giới của nó mà thôi. Tôi xin mượn lời của Henry Ford, người thành lập nên hang xe hơi Ford nổi tiếng của Mỹ, tuy có nhuốm màu tôn giáo phương Đông đôi chút để khép lại bài luận này: “Tôi chấp nhận thuyết tái sanh từ năm tôi 26 tuổi. Tôn giáo không cung cấp được cái gì thích hợp. Ngay công việc cũng không làm cho tôi được thỏa mãn đầy đủ. Công việc làm sẽ là vô ích nếu chúng ta không lợi dụng được kinh nghiệm của đời này để dùng cho đời sau. Khi tôi phát hiện được thuyết tái sanh, thì thời gian không còn bị hạn chế nữa. Tôi không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa. Tôi muốn truyền lại cho những người khác sự bình thản mà một quan điểm lâu dài về cuộc sống đã đem lại cho tôi”.(2) CHÚ THÍCH: (1)“The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism” [Đại cương triết học Ấn Độ phần I, sách đã dẫn]. (2) Theo Quan điểm của đạo Phật về Sống-Chết, Minh Chi, NXB TP. HCM 2007. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1/ Thế giới như tôi thấy, Albert Einstein; Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ Hảo, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Bùi Văn Sơn Nam hiệu đính; NXB Tri Thức 2007. 2/ Các Vấn Đề Phật Học, Minh Chi, Viện Nghiên Cứu Phật Học 1995, tr.63 3/ Đại Cương Triết Học Phương Đông, phần I, Minh Chi viết; Đại học tổng hợp 1993 4/ Quan điểm của đạo Phật về Sống-Chết, Minh Chi, NXB TP. HCM 2007. Nguồn vanhoahoc.edu.vn
  17. CỘI NGUỒN CỦA VĂN MINH ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM Giáo sư Cao Thế Dung Một số trống đồng vào loại Héger I và II, có di chỉ cách đây từ 2.200 – 2.700 năm do nông dân ở Bình Ðịnh và ở đảo Sơn Rái (Kiên Giang) tình cờ đào được, cho ta thấy, văn minh Lạc Việt qua văn minh Ðông Sơn (Thanh Hóa) bao trùm cả miền Ðông Dương. Cổ thư và cổ sử Trung Hoa cũng như những khám phá của khảo cổ học đã cho ta được biết một cách rõ rệt, đồng bằng sông Cửu Long gần 2.000 năm trước là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam với nền văn minh Óc Eo khá rực rỡ, mà nhà khảo cổ Pháp, học giả Louis Malleret đã dầy công khám phá được (xem: Louis Malleret, L’Archéologic du Delta du Mékong - Part I, L’Exploration archéologiques et les fouilles d’Oc.Eo.Paris: écode Francaise L’Extrême Orient - 1950). Miền Nam ngày nay từ khởi thủy hoang địa và từ đây xuất hiện vương quốc Phù Nam (xem: Lê Thương, Sử liệu Phù Nam - Sài Gòn 1974, tr.10). Về đất Hà Tiên, cực nam Phù Nam, Mạc Thiên Tính (con Mạc Cửu, Tổng trấn Hà Tiên) ghi lại rằng "Trấn Hà Tiên của nước Nam xưa là cõi xa. Từ khi cha tôi mở mang đến nay, đã được hơn 30 năm, dân cư mới được yên cư, tạm biết cấy trồng". Do từ khảo cổ học và những nghiên cứu về địa danh ở Hà Tiên cho thấy, Hà Tiên từ cổ thời đã là nơi người Việt cổ đặt chân tới. Mũi Nay ở Phú Yên (Varella) là biên cương của Việt Thường Thị Nhật Nam xưa thì ở Hà Tiên cũng có mũi Nai, hay mũi Nại. Mạc ThiênTích phiên âm thành Lộc trĩ sơn (Theo nhà địa chất Trần Kim Thạch, “Từ 6000 năm đến nay, biển rút ra khơi, phơi bầy trầm tích mặn... trên đó vật liệu của dòng sông và các dòng lũ hàng năm không ngớt bồi tụ... Hà Tiên có môi trường quần đảo đã nổi thành đất liền" - Trần Kim Thạch, "Tờ trình địa chất khoáng sản huyện Hà Tiên" (15-4-1984) trích dẫn bởi Trương Minh Ðạt, NCLS số 5 - 1993, tr.35). Hà Tiên vốn là Mang Khảm, Mạc Cửu đổi tên thành Phương Thành, sau khi thống thuộc nước Ðại Việt Ðàng Trong mới đổi tên thành Hà Tiên. Qua ngôn ngữ cổ, khảo cổ học đã đi đến kết luận khả tín: dân Việt từ thời viễn cổ hay ít nhất trong thời đại vương quốc Phù Nam đã có mặt ở miền cực nam Ðông Dương như Hà Tiên ngày nay. Hơn 1000 năm bị Hán đô hộ, hẳn nhiên là văn hóa Việt Nam trong đó có nghệ thuật, đã ảnh hưởng Tầu một cách rõ rệt, nhưng sau những khám phá, khai quật của khảo cổ học gần một thế kỷ qua, nhất là từ văn hóa văn minh Ðông Sơn, ta thấy rõ rệt là từ thời thượng cổ, Việt Nam và Trung Hoa đã là có hai sắc thái văn minh văn hóa khác biệt. Trái lại, Trung Hoa lại chịu ảnh hưởng văn minh Việt Thường Thị trước (qua việc sử gia Việt Thường cống vua Ðường Nghiêu rùa thần). Thời kỳ Ðông Sơn và trước nữa, văn minh Việt Nam qua nghệ thuật nằm trong bối cảnh Ðông Nam Á, tuy không cùng một chủng tộc nhưng Việt Nam và các dân tộc ở Ðông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân đều có chung một nguồn gốc văn minh. Nghệ thuật đúc đồng bằng khuôn đôi và qua các di chỉ đồ đồng Ðông Sơn thì nghệ thuật đồng thau ở Việt Nam và Ðông Nam Á đã xuất hiện trên 3000 năm trước Công nguyên. Nghĩa là trước cả Trung Hoa. Theo một tác giả Tây Phương có thể có trước cả người Cận Ðông (Ai Cập, Do Thái, Ba Tư...). Dựa vào khảo cổ khai quật được ở Việt Nam và nhiều nơi ở Ðông Nam Á, tác giả này cho rằng "đã đủ chứng minh tổ tiên những con người ở Ðông Nam Á đã biết trồng cây, mài đồ đá làm đồ dùng và làm đồ gốm trước cả người Trung Hoa, Ấn Ðộ và Cận Ðông" và rằng nền văn minh Hòa Bình (Việt Nam) qua khắp Ðông Nam Á lan đến Bắc Thái Lan và Bắc Miến Ðiện, vượt lên tới Trung Hoa. (Wilhelm G.Solheim II, New Light on a forgetten past. National Geographic. No 3 - Vol.139 - March 1971). Các di tích khảo cổ và di tích về nền văn hóa Phùng Nguyên cách đây từ khoảng 3 đến 4000 năm đã cho ta thấy nếu so sánh với Trung Hoa và Ấn Ðộ cùng thời, kỹ thuật và nghệ thuật của Phùng Nguyên vượt hơn hẳn Trung Hoa và Ấn Ðộ. Năm 1959, di chỉ Phùng Nguyên ở bên sông Thao được phát hiện và khai quật. Càng ngày ta càng thấy rõ tầm quan trọng của nền văn hóa này trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc (xem: Hà Văn Tấn, ‘Văn hóa Phùng Nguyên, nhận thức mới và vấn đề." Khảo cổ Học số 1 - 1978, tr.5-6). Cuộc khai quật ở huyện Lâm Thao, Vĩnh Phú năm 1961 đã đưa ra khỏi lòng đất một lưỡi rìu đá có hình dáng độc đáo. Từ giai đoạn đồ đá qua giai đoạn Gò Mun trong quá trình phát triển văn hóa thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã tiến qua những bước vượt bực, từ mũi tên đồng Phùng Nguyên đến mũi giáo đồng Ðồng Ðậu, mũi giáo đồng Gò Mun và Ðông Sơn cho đến bàn chải đồng Gò Mun ta có cơ sở để nghĩ rằng giai đoạn văn hóa Gò Mun là một bước chuẩn bị trực tiếp cho sự phát triển rất rực rỡ của Ðông Sơn. Di chỉ Gò Mun, Ðồng Ðậu khoảng 3000 trước Công Nguyên, đem so với sự hình thành và phát triển của văn minh Trung Hoa và Ấn Ðộ, Việt Nam và Ðông Nam Á tiến trước và tiến xa khá nhiều. Sự thực là văn minh Việt Nam - hay Lạc Việt trong dòng Bách Việt (Viêm Việt) phát triển trước văn minh Hoa Hán hay ít nhất cùng một thời. Từ cỗi nguồn, văn minh Lạc Việt - Bách Việt là văn minh bản địa, khác hẳn Tầu, sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường chép rằng, “năm 2361 trước Công nguyên, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Ðường Nghiêu Sứ thần Việt Thường Thị sang chầu dâng rùa thần". Theo Thống Chí của Trịnh Tiền đời Ðào Ðường, "rùa thần sống đến 2000 năm, trên lưng có ghi văn khoa đẩu, ghi việc từ khi trời đất mới mở mang về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là qui lịch". Ðế Nghiêu nhà Ðường sai Hy Thúc (trong Kinh Thư) giữ việc này suy trác khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn về mùa hè... Suy trác cẩn thận để tháng trong Hạ được đúng với thời tiết. Lại phải xem đến việc thay đổi của người và trời đất. (xem: Nguyễn Thường, “Lịch với lịch sử kinh tế chính trị và chiến tranh". Nghiên Cứu Lịch Sử số 3 (262) tháng 5 & 6-1992, tr.51-59). Theo Kim Lý Tường con rùa gọi là Thần Qui vì rùa to hơn 4 thước ta (khoảng 1m20), trên lưng có chữ nòng nọc sử Tầu gọi là khoa đẩu văn, ghi tổng quát lịch sử cấu tạo vũ trụ và nhân loại từ thuở ban đầu cho tới đời vua Ðường Nghiêu (xem: Cương Mục, bản dịch - Bộ VHGD - Sài Gòn 1965, tr.31). Vào thời Ðường Nghiêu, dân Hoa Hán vốn là dân du mục chủ về bạo lực, cang cường, từ phía Bắc Hoàng Hà đã tràn xuống phương Nam, tiêu diệt dân Miêu (Bách Việt) đã lan đến miền Sơn Tây (Trung Quốc) ngày nay. Ðời thái cổ, Trung Hoa dựng nước, khởi đầu là Tam Hoàng, gồm 3 vị vua là Toại Nhân, Phục Hy và Thần Nông. Kế đến là Ngũ Ðế, theo Sử Ký của Tư Mã Thiên gồm có Hoàng Ðế, Chuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu và Ðế Thuấn. Tam Hoàng Ngũ Ðế theo Ðào Duy Anh đều là thần thoại (Trung Hoa Sử Cương, tr.XVIII). Ðời Nghiêu Thuấn, Hán Tộc đã chinh phục đến miền Hà Nam. Vào thời Bách Việt - Viêm Việt đã sớm văn minh trước cả thời Ðường Nghiêu. Ðịa bàn cư dân Bách Việt bao gồm Hoa Nam ngày nay (Quảng Ðông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam) kéo dài đến miền Bắc Việt Nam, qua đèo Hải Vân đi xuống phía Nam là xứ Việt Thường. Thời thượng cổ, sử Trung Hoa vốn đầy thần thoại và hoang đường cùng thời Văn Lang và triều đại Hùng Vương ở phương Nam, khởi phát từ văn minh lúa nước và khu vực nhân văn Ðông Nam Á, khác với văn minh du mục phương Bắc. Theo cách phân định thời kỳ lịch sử Trung Hoa của sử gia Tây Phương như René Grousset thì thời kỳ Thượng cổ Tam Hoàng Ngũ Ðế cùng một thời với lịch sử Chaldeé; Ðời Xuân Thu Chiến Quốc đi đôi với thời kỳ Hy Lạp - La Mã bên Tây Phương. Thời kỳ Tần Hán cùng thời với đế quốc La Mã (Grousset, Histoire de l’ Asie - L’ Trade et La Chine - Paris 1922). Ðời Hoàng Ðế, văn minh Trung Hoa đã khá, đã làm nhà, dùng xe cộ (hiên viên) và dệt cửi. (Theo sử ký Tư Mã Thiên thì Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Ðịa Hoàng và Tần Hoàng tức Nhân Hoàng). Nghiêu Thuấn được coi là thời đại tốt đẹp nhất, thiên hạ thái bình thịnh trị, vua Nghiêu ở ngôi được 70 năm, vua Nghiêu truyền ngôi cho Tứ Nhạc, ông Nhạc từ chối. Nghiêu ra lệnh tìm người quí thích truyền ngôi. Vào thời này, phương Bắc vẫn còn theo mẫu hệ. Theo truyền thuyết thì vua Ðường Nghiêu (2356 - 2255 trước CN) gả 2 con gái cho vua Thuấn (2255 - 2204 trước CN) rồi truyền ngôi cho ông Thuấn. Theo sách Mạnh Tử Vạn Chương Thượng kể truyện em vua Thuấn là Tượng đã tính trước, sau khi giết anh thì hai vợ của anh tức là vua Thuấn, tức chị dâu Tượng sẽ về hầu ông ta (tức lấy làm vợ). Về chế độ mẫu hệ Việt Nam, học giả Pháp Louis Finot khảo cứu rất tường tận (xem Louis Finot, Lesgrandes époques de l’Indochine - những thời kỳ trị của Ðông Dương). B.S.E.M.T (Bulletin de la Sociéte d’Enseignement Mutuel du Tonkin). T.XV, II , 87-287), cho thấy thời viễn cổ dân Việt theo mẫu hệ nhưng mẫu hệ Việt Nam khác với mẫu hệ thời Ðường Nghiêu, đã sớm chấm dứt từ triều đại Hùng Vương. (xem: Nguyễn Khắc Ngữ, "Mẫu hệ Việt Nam". Văn Hóa tập san, T.X1, Q.9 - 1962, tr 913-1084). Nghiên cứu tài liệu khảo cổ học, từ Tây Phương và Việt Nam, với tấm bản đồ phân bố các di chỉ, ta thấy rằng, tổ tiên ta đã mất khoảng 10,000 năm để biến từ văn minh Phùng Nguyên qua Ðông Sơn. Ðó là cái mầm tinh túy Việt, không hề ảnh hưởng ngoại nhập từ Bắc phương, và cái mầm ấy nẩy nở trong bối cảnh nhân văn địa lý Ðông Nam Á, cái gốc kỳ diệu của văn minh Việt Nam. Cái gốc ấy qua văn hóa Phùng Nguyên đã phát triển liên tục vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên tức cách đây khoảng từ 3 đến 4000 năm. Những kết quả phân tích bon (carbon, phóng xạ đồng vị C14) đã xác định là những tinh hoa Việt trên 4000 xưa là chính xác (xem: Khảo Cổ Học số 7 & 8 - tháng 12-1970 về văn hóa Hùng Vương và thời đại Hùng Vương tr. 33-44) Thời đại Hùng Vương là thời đại có thực trong lịch sử - không phải là huyền thoại - truyền kỳ. Thời đại này bao gồm từ văn hóa Phùng Nguyên, có thể trước nữa cho đến nền văn hóa rực rỡ Ðông Sơn. Theo sử gia Nguyễn Phương thì từ thời viễn cổ, từ khi hình thành dân tộc Việt Nam, "Các trẻ già chính thống đều cho rằng dân Việt Nam không giống dân Trung Quốc. Tư tưởng này biểu lộ rõ rệt ở vấn đề quốc thống họ đã nêu lên. Họ nghĩ rằng, nước Việt Nam đã là một nước ngay từ đầu, từ thời gian trước khi chung đụng với người Tầu, nghĩa là từ buổi xa xưa khi vừa mới có dân tộc Việt Nam" (xem: Nguyễn Phương, "Tiến trình hình thành của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Ðại Học Huế, số 32 - tháng 4-1983, tr.153-219). Bước tiến của con người từ khi có con người trên hành tinh này, ta gọi là tiến trình của văn minh văn hóa là những bước tiến kỳ diệu, rất lâu, cả vạn năm... Các sử gia Trung Hoa tự gắn cho dân tộc Hán là tiền tiến "trung tâm của vũ trụ". Các học giả trên thế giới trước đây cũng ngộ nhận cho rằng chỉ có một nơi trên thế giới con người bung ra, thắp sáng ánh sáng văn minh, đó là vùng Tây Á, mà điểm chính là vùng đồi gò trung du bao bọc Lưỡng Hà để từ đó tỏa ra bốn phương. Nay thì với cái công trình khai quật của khảo cổ học đã cho ta thấy không phải như thế. Khoảng một vạn năm trước văn minh của loài người chớm nở, Ðông Nam Á trong đó có Việt Nam lại là một trong mấy điểm chính là nơi con người vươn lên với ánh sáng văn minh mà văn minh Phùng Nguyên, trước nữa là Hòa Bình là những đốm lửa đầu tiên. Nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam nẩy mầm từ thửơ xa xôi mịt mờ đó. Từ bản chất nền văn hóa ấy đã rất dân tộc (Lạc Việt) trong bối cảnh và phong cách Ðông Nam Á, chứ không phải đã ảnh hưởng Trung Hoa vì Trung Hoa phát triển muộn hơn. Cũng nhờ vậy, sau này "Mặc dầu có sự vay mượn ít nhiều của Tầu, Chiêm Thành và Tây Phương, luôn luôn biết dung hóa các mỹ thuật nói trên để tạo thành một nền mỹ thuật có bản sắc dân tộc" (Nền mỹ thuật Việt Nam, ltđd. Ðại học số 30, tháng 5-1958, tr.320). Khảo cổ học đang có những công trình vượt mức đào xâu nền văn hóa của tổ tiên ta vào thời Hùng Vương và sau đó ta vẫn không thấy có yếu tố Trung Hoa nào trong nền văn hóa tiều tiến của nhân loại mà văn minh Lạc Việt - Bách Việt mới là tiều tiến. Khảo cổ gia lỗi lạc của Tây Phương Olov R.T Janse lại nêu một dấu hỏi về ảnh hưởng của Hy Lạp và Rôma (cổ) ở Việt Nam (xem bản dịch Việt ngữ, Olov R.T. Jane. Ảnh hưởng Hy Lạp và Rôma ở Việt Nam, Việt Nam cũng có bình Asko’s, tiếng Hy Lạp là cái bầu bằng da). Theo Jane, trong khi khai quật ở nghĩa trang Bình Sơn - Thanh Hóa thuộc Trung Việt "Chúng tôi đã tìm thấy một cái bình bằng đất nung nằm trong một ngôi mộ bằng gạch xây vòm lên. Chiếc bình đó không phải kiểu Tầu nhưng có kiểu đặc biệt làm cho ta liên tưởng đến những bình thường thấy trong những xứ chịu ảnh hưởng Hy lạp và Rôma, gọi là Asko’s hay guittus" (Bản Anh ngữ, Olvov R.T.Janse. Archaeological research in Indo-china. T.I & II - Harvard Univ. Press.1947-1952). Ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn minh là hiện tượng phổ biến có thể qua ngả Ðông Nam Á, người thời Ðông Sơn, Văn Lang đã tiếp nhận được cái sản phẩm nghệ thuật từ phương Tây nhưng cho đến nay, tuyệt đối chưa thấy ảnh hưởng từ Trung Hoa trong nền văn hóa Văn Lang từ Ðông Sơn trở lên Phùng Nguyên và Hòa Bình. Nền văn hóa ấy có thể nói là vĩ đại vào thời bấy giờ của nhân loại . Nói như thế mà không sợ ngoa ngôn hay đại ngôn. Bởi đó chỉ là sự thực. Nền văn hóa Văn Lang là do từ bản địa và rất sáng tạo. Những hình khắc chạm trên tháp Ðào Thịnh có di chỉ cách đây khoảng 2500 - 3000 năm cho thấy nghệ nhân vào thời bấy giờ đã có quan niệm về nhân tinh và luyến ái khá rõ rệt. Dịch và là Chu Dịch đã là nguồn khởi tác và chi phối toàn diện văn minh văn hóa Trung Hoa (giới trẻ hải ngoại có thể tìm đọc và khảo cứu Dịch qua Anh ngữ với tác phẩm rất hiện đại và khá đầy đủ qua bộ Chu Dịch - I Ching - The Classic Chinese Oracles of Change - trans by Rudolf Ritsema & Stephen Karcher - N.Y: Barnes & Noble books, 1995, pp.816). Dịch lý Trung Hoa mà người Tầu vô cùng hãnh diện lại phát xuất từ Việt Thường Thị - Lạc Việt Văn Lang. Nhờ sứ giả Việt Thường cống rùa thần, nhà Chu Trung Hoa mới có qui lịch. Thần qui - Long mã là biểu trưng của Dịch Lý Trung Hoa. Thần qui từ phương Nam đem qua, Ðường Nghiêu căn cứ vào hình tượng khoa văn trên mu rùa mà làm thành Lịch và lịch đã chi phối toàn bộ sinh hoạt văn hóa, xã hội mà kể cả quân sự của Trung Hoa từ thời bấy giờ. Xem như vậy thì rõ rệt văn minh Lạc Việt qua sứ Việt Thường đã du nhập vào Trung Hoa trước khi Trung Hoa tràn qua phương Nam (Theo giáo sĩ L.Wiegex, một nhà thông thái dòng Tên "người Tầu đã dựa vào cống phẩm rùa thần mà làm ra Qui Lịch - L.Wieger, Hisfoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, depnis l’ origine jusqu à nos jonrs. "Lịch sử Tín ngưỡng và quan điểm triết học ở Trung Hoa, từ khởi thủy cho đến thời đại chúng ta”, dẫn bởi tiến sĩ Thái Văn Kiểm). Theo cổ sử Trung Hoa năm Tân Mão 1100 trước CN, đời vua Thành Vương nhà Chu, nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ lại sai sứ đem chim Trĩ sang cống Thành Vương ở Hạo Phủ (Thiển Tây). Ðại Nam Quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái (sông Nhị Hà - 1949 - bản dịch của Hoàng Xuân Hãn), chép về nhà Hồng Bàng và sứ Việt Thường qua thăm nhà Chu Trung Hoa: Vừa đời ngang với Chu Thành Bốn phương biển lặng trời xanh một mầu thăm Trung Quốc thế nào? đem Bạch Trĩ dâng vào Chu Vương... Theo Hoàng Việt - Giáp Tý Niên biểu ghi Tân Mão là năm 1110 trước CN. Thư sử ký Tư Mã Thiên, sứ Việt Thường cống Chu Vương 3 con chim trĩ, đây là loại chim Phượng Hoàng ở dọc dẫy Trường Sơn - Trung Bộ Việt Nam, một con đực, 2 con cái, 1 con là Bạch trĩ, một con là Hoàng trĩ, một con Thanh trĩ. Trước đó, Trung Hoa không có loài chim trĩ này. Nhờ có 3 chim trĩ Việt Thường sinh sôi nẩy nở, Tầu mới có trĩ "sào nam", chim gốc từ phương Nam nên khi đậu trên cành, đầu nghoảnh về phương Nam do đó có câu “Chim Bắc đậu cành Nam". Về sứ Việt Thường Cống Chu Thành Vương chim trĩ, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chú như sau: "Sứ ta xưng là Việt Thường Thị. Thành Vương là vua thứ tư nhà Chu sau Thái Vương, Văn Vương, Vũ Vương. Truyền thuyết nói Việt Thường Thị ở phương nam hiến chim trĩ trắng được thấy đầu tiên ở sách Thượng Thư đại truyện của Phúc Thắng và truyện Trúc Thư Kỷ niên. Truyện nầy được chép lại ở sách Hậu Hán Thư, Q.116 (Toàn Thư, T.I, tr.62). Về truyện Bạch trĩ, Lĩnh Nam Chính Quái chép như sau: "Về đời Chu Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề đôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang hiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ dịch qua nhiều lần mới hiểu nổi nhau. Chu Công hỏi: “Người Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần nhuộm răng đen là cớ làm sao?" Ðáp: "Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Xâm mình để giống hình Long quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Ðể đầu trần để tránh lửa bụi. Ăn trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen vậy.” (xem :Vũ Quỳnh - Kiều Phú. Lĩnh Nam Chính Quái, ltđd, tr.48) Nhiều bộ cổ thư Trung Hoa chép về việc sử Việt Thường đến Trung Hoa cống chim trĩ sách Thượng Thư Ðại Truyện. Sách "Kim Bản Kim Chú" chép rằng "Sứ Việt Thường tới cống hiến bạch trĩ một con, hắc trĩ hai con, ngà voi một chiếc. Sứ giả quên mất đường về, Chu Công bèn ban cho bông hoa tấm, biểu xa 5 cỗ điểu chữ bằng tư nam. Khiến sứ giả cỡi xe đi về phương nam. Nối theo miền biển Phù Nam Lâm Ấp đúng một năm mới tới nước đó, sai quan Ðại Phu đưa về. Lại cỡi xe tư nam đi ngược lại hướng do xe chỉ, đầy một năm tới nước Chu. Trục xe và đầu trục xe điều chế bằng sắt, khi về tới nước Chu, sắt đều mòn cả." theo Kim Bản Cổ kim chú - trích dẫn bởi học giả Nguyễn Khắc Kham, "Ðời nhà Chu đã có xe chỉ nam chưa?" Văn Hóa Tập San T.X II, 1963-4, tr.501-511. Ðiều này không thể đúng vì vào thời đó chưa có đường xá cho xe đi, từ Thiểm Tây đến Việt Thường. Vả lại, theo Gs Nguyễn Khắc Kham, qua bài khảo cứu súc tích công phu kể trên thì "theo như suy cứu ở sử sách Tầu, thời đời Chu Tùy đã có danh từ chỉ nam xa nhưng mãi tới đời Ðông Hán sau này mới có xe chỉ nam." Cổ thư Tầu thường hay phóng đại cũng là cách tự tôn vinh "Thiên quốc - Thiên tử" - cái rốn của vũ trụ. Sứ Việt thường chắc lúc về bằng đường biển. Theo cổ thư và khảo cổ, cách đây hơn 3000 năm, người Việt đã đóng được thuyền vượt biển. Dân Việt Thường khởi hành từ đâu? Từ các cửa biển phía trên hay dưới đèo Hải Vân? Tuy còn là một nghi sử nhưng rõ rệt, Việt Thường Thị ở phía Nam vào thời nhà Chu đã đóng được thuyền vượt biển - chắc chắn phải là thuyền lớn và phải nắm được thuật hải hành và thiên văn. Thuyền khắc chạm trên trống đồng Ðông Sơn (loại Hegger I, cổ nhất có di chỉ cách đây khoảng 2500 - 2700 năm) là loại thuyền lớn. Thân trống đồng Ngọc Lũ - Ðông Sơn khắc chạm hình thuyền. Thuyền dài, 2 đầu cong. Ðầu mũi thuyền trang điểm phức tạp, nhìn chung giống như đầu chim. Ðàng lái trang điểm như đuôi chim. Trên thuyền gần lái có một cái sàn. Sàn nhìn thấy 2 cột cao (trống Ngọc Lũ). Sàn làm bằng một lớp dầy ngoài bờ trang trí bằng vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến chèo. Dưới sàn người đặt một chiếc trống và một cái bình. Trên sàn có một chiến sĩ cầm cung quay mặt về phía lái. ở trống Hoàng Hạ, người cầm cung còn để sẵn một mũi tên to trên cung, lưng đeo một chiếc thuẫn ... Cột trụ (thuyền) gồm 2 cọc lớn cao ngang ngực, trên đó có một vật hình lục lăng, vẽ vòng tròn khép kín. Trên vật lục lăng có 2 cái lông lớn và một cái cần chỏng lên trời, cần này đầu mút lại, hình tròn có chấm với một tua lông ... (xem: Nguyễn Phương, "Tiền Sử và Lịch Sử Lạc Việt. "Tạp Chí" Ðại Học (Huế), số 38.) Sử Việt Thường dâng tặng cống phẩm chim trĩ, Viên Thành Vương cho đem dâng Chu Công (tức Chu Công Ðán, anh vua, là bậc tiên Thánh của Nho giáo). Chu Công lúc đầu không nhận, và nói: "Ðức trạch không thấm tới thì người quân tử không hưởng những của đem dâng. Cho nên chính luật không thi hành tới thì người quân tử không bắt người đó làm bầy tôi.". (Theo Thượng Thư Ðại Truyện, trích dẫn bởi Nguyễn Khắc Kham, tlđd. Văn Hóa số T.XII, Q.4 - tháng 4-1963, tr.507). Ðức trạch và chính lệnh có nghĩa là văn minh văn hóa và học thuật Trung Quốc. Như thế cũng có nghĩa rõ ràng rằng, Việt Thường chưa hề chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa. Sứ Việt Thường đến triều cống là cho theo lời sứ: "Tôi vâng mệnh ông già ở nước tôi, đã từ lâu rồi thấy trời không có gió dữ mưa dầm. Có lẽ là Trung Quốc có Thánh nhân chăng? Có thời sao không vào ngay mà triều kiến?" Ðiều này cũng chứng tỏ rằng, người Việt Thường đời bấy giờ đã biết xem thiên văn, hiểu lịch số và mệnh trời, đoán phương Bắc có “thánh nhân”. Gần 1000 năm sau, theo cổ sử Trung Hoa, Việt Thường Thị mới trở thành Tượng Quận và Nhật Nam vào đời Tần Thủy Hoàng và Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Thời gian Tần - Hán thống thuộc Việt Thường không dài lắm. Thời Tần không đáng kể, ngoại trừ triều đại nhà Triệu nước Nam Việt. Quân của Tần Thủy Hoàng xâm lăng Bách Việt đã bị chận đứng ở cõi Lĩnh Nam cho đến khi Triệu Ðà lập ra nước Nam Việt (năm 207 trước CN) thôn tính cả cõi Âu lạc bấy giờ Việt Thường mới thuộc vương quyền của nhà Triệu sau khi nhà Thục nước Âu Lạc (257 - 207 trước CN) mất ngôi, Âu Lạc bị sát nhập vào Nam Việt. Việt Thường trở thành quận Nhật Nam của nhà Ðông Hán sau khi Hán Vũ Ðế sai Lộ Bác Ðức đem quân đánh chiếm nước ta, diệt Nam Việt năm Canh ngọ (111 trước CN). Nhà Hán cũng chỉ cai trị được Nhật Nam không quá 180 năm thì dân Lâm Ấp nổi lên giành quyền tự chủ. Những địa danh Nhật Nam - Lâm Ấp trong cổ sử và cổ thư chính là lãnh thổ Việt Thường Thị, tức Thuận Hóa sau này hay Bình Trị Thiên ngày nay kéo dài đến quá đèo Hải Vân. Sử gia Quốc sử quán triều Nguyễn đày một miền tự hào khi viết về tỉnh Quảng Nam ghi rằng: "Quảng Nam xưa nguyên là đất Việt Thường Thị, đời Tần (246 - 207 trước CN) thuộc về Tượng Quận, đời Hán (206 - 202 trước CN và 1-219 sau CN) thuộc về quận Nhật Nam sau bị Lâm Ấp chiếm cứ." (xem: Ðại Nam Nhất Thống Chí, Q.5 - Tổng tài biên soạn Cao Xuân Dục cùng với Lưu Ðức Xưng - Trần Xán - bộ QGGD, SàiGòn xb - 194, tr.5). Lãnh thổ Việt Thường Thị mà miền Viễn Cương kéo dài đến Ninh Thuận - Bình Thuận ngày nay. Ðại Nam Nhất Thống Chí chép như sau: "Ðất đây nguyên xưa là nước Nhật Nam ở kiếu ngoại ngoài biên, sau là đất Chiêm Thành. Vua Thánh Tôn nhà Lê (1460 - 1497) bình định Chiêm Thành rồi trao cho họ coi giữ khu đất biên giới phía Nam để nạp cống hiến." (xem: ÐNNTC, Q. 12, tỉnh Bình Thuận (phụ: đạo Ninh Thuận - Bộ VHGDXB 1965, tr.7). Ðời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) ta mở nước đến sông Phan Lang (Phan Rang). Ðời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), ta lấy nốt phần đất còn lại của Chiêm Thành ở phía tây, năm 1692, đặt làm trấn Thuận Thành. Năm 1697 mở phủ Bình Thuận, chia đất Chiêm phía tây Phan Rang lập 2 huyện An Phước và Hòa Ða. Nói cho chính danh từ vua Lê Thánh Tôn rồi các chúa Nguyễn chinh phục Chiêm Thành chỉ là lấy lại đất cũ Việt Thường Thị nơi nền văn minh bản địa Lạc Việt - Bách Việt đã sớm phát triển trước cả văn minh Hoa Hán. Ðó là cỗi nguồn của đất nước và văn minh Việt Nam. Nguồn: http://www.mevietnam.org/NguonGoc/ctd-coinguonvanminhvn.html Người post bài: Phan Anh Tú
  18. "Nhà mình có sẵn, đừng tìm kiếm"22/04/2008 08:27 (GMT + 7)Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông có nói đến khái niệm “nhà mình có sẵn đừng tìm kiếm”. Nhìn những chuyện đang diễn ra trước mắt, chợt giật mình tìm xem cái mình đang có sẵn? Ngó qua ngó lại mới hay cả xã hội đang bỏ quên rất nhiều cái có sẵn quý giá nhất của mình. Phải chăng nền giáo dục đã bỏ quên cái đẹp, tính thiện, lòng nhân, lòng trắc ẩn? Anh đào hồng khoe sắc... (ảnh: VNN) Từ chuyện lễ hội hoa anh đào Nhật Bản ở Việt Nam... Người Nhật có lễ hội hoa anh đào truyền thống, thể hiện cả một triết lý thưởng hoa, hiểu hoa và tôn kính hoa. Có thể nói lễ hội hoa anh đào của Nhật đã làm cho cả thế giới tốn không ít giấy mực để bàn luận về nó. Bởi người Nhật yêu hoa, hành xử với hoa và nâng những giá trị đó trở thành “Đạo”. Người Nhật ý thức việc nâng cao nhận thức thẩm mỹ cho dân chúng nước mình từ những hành vi văn hóa tưởng chừng như đơn giản nhất qua cách yêu cái đẹp, chăm sóc cái đẹp và biến cái chưa đẹp trở nên đẹp. Đó là cái gia tài văn hóa vô giá mà người Nhật hãnh diện và muốn chia sẻ niềm vui đó với bạn bè thế giới. Trong sự hãnh diện và muốn chia sẻ ấy, người Nhật nhiệt tình đem cái đẹp tinh tế và triết lý thưởng hoa đến với người Việt. Chắc hẳn trong lúc “gieo duyên” ấy, người Nhật cũng phải tìm thấy nét đẹp nào đó trong nền văn hóa chúng ta. Và phải nói, dẫu chưa yêu hoa đến mức thành “Đạo” như người Nhật thì trong văn hóa người Việt, yêu hoa cũng là những nét văn hóa phổ biến. Tuy nhiên, người Việt chưa thể nâng tầm mức yêu hoa, yêu một loài hoa đặc thù trở thành triết lý và cụ thể hóa nó thành lễ hội. ... Đến cách ứng xử của một số người Việt ở HN trong lễ hội hoa anh đào Anh đào trắng kiêu hãnh (Ảnh: VNN)Với hơn hai trăm cây anh đào đầy hoa được chiết cành và chuyển từ Nhật sang, người Việt đã lần đầu tiên được thưởng hoa anh đào trên mảnh đất của mình. Cái tình đó của người Nhật thật đáng trân trọng. Đáng tiếc, người Nhật hữu tình còn chúng ta thì vô ý. Sự vô ý thể hiện qua cách ứng xử văn hóa rất thấp, bởi chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau nghi thức thưởng hoa, nhiều người Việt trẻ (thế hệ kế tục sự nghiệp của người đi trước) nhào vô “bức tử” hoa anh đào một cách thản nhiên như đi vào khoảng trống. Quả đúng như vậy, vì đó là một khoảng trống văn hóa quá lớn mà mấy thập kỷ nay, nền giáo dục của chúng ta vẫn chưa thể lấp đầy. Dù biết cái đẹp chỉ nhất thời và nhanh chóng úa tàn, nhưng người Nhật còn tìm thấy cả nét đẹp tiềm ẩn trong sự úa tàn ấy, nên họ rất thích ngồi dưới những cội hoa anh đào không chỉ ngắm những bông hoa đang khoe sắc mà còn thưởng thức những cánh đào rơi rụng một cách tự nhiên. Có cả một triết lý sinh tử trong thưởng hoa chứ không phải chuyện “giỡn chơi” thương mại đình đám đâu. Những người Việt trẻ ngày hôm ấy không những biết quá ít nguyên tắc ứng xử tối thiểu mà còn biết quá ít về văn hóa của người khác. Một sự khập khiễng trong văn hóa qua đó đã được chẩn mạch và cần phải tiến hành bốc thuốc ngay để chữa trị. Vì nó đã trở thành kinh niên trong ứng xử văn hóa từ phong thái đi đứng, chào hỏi, nói năng, ăn uống, học hành, lễ tiết của đa số người Việt trẻ suốt nhiều năm nay, khi những từ “kinh tế thị trường”, “toàn cầu hóa” với toàn những mặt trái đầy thủ đắc, thực dụng đang xâm chiếm họ. Có thể nói những từ “xấu hổ”, “vô cùng xấu hổ” được nhắc tới nhiều nhất trong mấy ngày qua. Người Việt trẻ nào sẽ thay lời xin lỗi, như một nguyên tắc cần thiết trong ứng xử: xin lỗi là biết cái lỗi trước và chừa cái lỗi sau không tái phạm? "Nhánh hoa này do một bạn gái trẻ hái được và cho mình khi mình xin được chụp lại hình (cây xơ xác hết rồi mà). Mình đã cảm ơn nhưng trong lòng còn do dự lắm. Nếu như những người như bạn ý không hái thì hoa vẫn còn cho người đến xem." - Trích blog Tamianh Nhắc đến chuyện bình chọn hoa của người Việt Hơn một năm trước, trên báo Tuổi Trẻ có đăng bài viết về việc làm sao người Việt có một loài hoa để tôn kính và xem đó là quốc hoa. Một sự thăm dò ý kiến cũng đã được báo Tuổi Trẻ đưa ra. Cho đến ngày chấm dứt cuộc thăm dò ý kiến, hoa sen vẫn dẫn đầu với đa số bình chọn (theo sơ đồ hiển thị trên tuoitreonline), bên cạnh hoa mai, hoa đào và tre (tre xếp vào với hoa là khiên cưỡng). Đúng như tác giả bài báo giải thích, chúng ta đã lấy hoa sen làm biểu tượng trên máy bay của hãng hàng không Việt Nam. Nếu chúng ta không kịp thời lấy hoa sen làm quốc hoa thì sẽ có nước lấy mất, vì hoa sen vẫn chưa có nước nào chú ý tới. Tuy nhiên, sự việc trên cũng dần dần chìm vào góc khuất thông tin và chẳng đánh động được gì đến những người quản lý văn hóa tại Việt Nam. Hoa sen có những đặc tính có thể nâng lên tầm triết lý, nếu người Việt quan tâm, bởi chúng ta có thể bắt gặp nó trong nhiều kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ, văn chương của dân tộc. Và bởi nó hàng ngày vẫn nở khắp trên các làng quê Việt Nam tượng trưng cho một vẻ đẹp thanh khiết và cao quý. Nhưng muốn có một triết lý về hoa thì phải có nhiều tầng lớp yêu hoa, chăm sóc hoa như yêu và chăm sóc chính bản thân mình, bằng không tất cả chỉ là những mơ ước hão huyền, mò trăng đáy nước. Bỏ quên và đang chờ phát hiện Trước khi đến thăm Việt Nam, Thủ tướng Nhật có gửi một thông điệp đến chính phủ Việt Nam, nhấn mạnh đến những yếu tố tương đồng văn hóa và cùng có một nền triết lý của đạo Phật Đại thừa. Sự giao lưu văn hóa chính là để khẳng định thêm và gắn bó hơn những nét tương đồng ấy. Ngôn ngữ ngoại giao dù có khách sáo thì cũng gợi ra những suy nghĩ, liên hệ, song những gì thực tế diễn ra trên đất nước Nhật và những gì thực tế đang diễn ra trên đất nước chúng ta, có thể nói “sự tương đồng” là một khái niệm lạc quan tếu. Không nói đến những quốc nạn tham nhũng đang hoành hành, tệ nạn xã hội gia tăng một cách đáng sợ, mà chỉ nhìn người dân đi đứng, nói năng, ứng xử là sẽ thấy trình độ văn hóa của một dân tộc. Tranh nhau giành đường để đi, đụng chạm đến nhau là cãi lộn, đánh đấm. Hàng xóm láng giềng thì mạnh ai nấy sống. Chỉ vì cái xe để vô tình trước cửa nhà mình, chỉ vì vài giọt nước tưới cây nhà bên hắt sang, chỉ vì chó mèo phóng uế ra ngõ, chỉ vì trẻ con nô đùa hơi lớn tiếng, chỉ vì vài cọng rác... là hàng xóm có thể từ mặt nhau, thù ghét nhau. Không có đủ nhà vệ sinh công cộng đã đành, ngay cả khi có nhà vệ sinh công cộng thì nhiều người vẫn thản nhiên tiểu tiện bất cứ ở đâu trên đường đi. Người ngồi trên xe tùy ý khạc nhổ, vứt rác xuống đường. Hội hè đình đám ở bất cứ đâu, xong việc là để lại sau mình một bãi rác khổng lồ. Các công ty thay nhau quảng cáo sản phẩm còn phần rác thì để đường phố gánh chịu. Có vô số những chuyện “đau mắt” như vậy xảy ra khắp trong ngõ xóm, đường phố. Chúng ta chỉ còn biết ngồi chờ để phát hiện những hình ảnh đẹp mắt hơn, người hơn. Trong bài phú Cư trần lạc đạo, Trần Nhân Tông có nói đến khái niệm “nhà mình có sẵn đừng tìm kiếm”, nhằm chỉ Phật tính, cái vốn tâm linh thường được thể hiện qua thái độ văn hóa của chúng ta. Nhìn những chuyện đang diễn ra trước mắt, chợt giật mình tìm xem cái mình đang có sẵn? Ngó qua ngó lại mới hay cả xã hội đang bỏ quên rất nhiều cái có sẵn quý giá nhất của mình. Phải chăng nền giáo dục đã bỏ quên cái đẹp, tính thiện, lòng nhân, lòng trắc ẩn? Đặt một câu hỏi lớn như vậy sẽ có người cho rằng quá bi quan, nhưng cứ nhìn hình ảnh những người trẻ được ăn học đàng hoàng nhảy vào “bức tử” hoa anh đào mới thấy hết sự bẽ bàng của một nền văn hóa ứng xử. Gia tài văn hóa Việt Nam có không ít những bài học cao đẹp về cách làm người, nhưng với những gì mà thực tại xã hội đang diễn ra, nhớ đến chuyện Đức Phật thí dụ về những người có viên ngọc quý trong túi áo nhưng vẫn phải đi ăn mày, mà cảm thấy không có gì đáng buồn hơn. Hành vi ấy là kết quả của một lối suy nghĩ, dù chỉ qua một hiện tượng nhỏ của một nhóm người trong lễ hội hoa anh đào Nhật Bản tại Hà Nội vừa rồi, hay cảnh người trẻ tranh nhau bức phá những chiếc nón lá trong tác phẩm nghệ thuật sắp đặt trên con đường đi bộ Nguyễn Đình Chiểu dọc sông Hương thơ mộng tại Festival Huế 2006... chính là lời cảnh báo về lối ứng xử văn hóa được giáo dục có rất nhiều vấn đề cần phải sớm xem xét lại. Thường Trung (Theo Văn Hóa Phật Giáo số 52)Tuần Vietnamnet.
  19. Chiêu này không có gì phải học cả ! Lòng tin và lòng thành thôi ! Coi dzaay mà CẦU ĐƯỢC ƯỚC THẤY ah nha ! và tùy duyên tùy phước nữa .....
  20. Chúc mừng thành viên mới ! Chúng ta gặp nhau ở đây giúp nhau những niềm vui mới kiến thức mới !
  21. Nhân bài viết Thứ Sáu ngày 13 , Wild có chiêu này hỏng biết có nên PHỔ BIẾN không nhỉ ? :lol: ? Vì ứng với Wild và người thân . HIỆU NGHIỆM bất ngở ! Hỏng biết phổ biến rồi có mất LINH không nữa ???? Hơi hướm metindidoan quá !!!!!!! để Wild nghĩ xem đã nhé !
  22. Triết học Nguyễn Quang Nhật Biến Âm Việt Hóa Một từ luôn có2 phần ; phần thanh và phần tự hay chữ, trong bài này chỉ nói đến phần thanh không nói đến phần chữ, vì bàn đến phần chữ là đã đi vào lãnh vực chuyên sâu của ngôn ngữ học, đã là phần chuyên thì người ‘thường’ không dám lạm bàn. Cũng như bao sự việc khác, ngôn ngữ phát triển và biến đổi theo thời gian, và vị trí địa lý, nó thay đổi theo từng vùng và dân tộc. Nếu không đi nhiều cũng như không tiếp xúc thừơng với những người ở các nơi khác nhau, ngay chính người Việt ở thời truyền thông hiện đại, giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt cũng chưa chắc đã trọn vẹn . Ta có thể nói là có sự khác nhau, chứ không nên xác định là sai hay đúng; chỉ có thể nói sai hay đúng so với chuẩn quốc gia, mà chuẩn quốc gia cũng là một qui định, cùng nhau qui ước là viết như thế và đọc như vậy cho thống nhất trong một chuẩn để thông tin, chuyển tải ngôn ngữ đạt được sự chính xác – tránh việc ông nói gà bà hiểu ra là vịt. Ta có thể nêu vài sự khác biệt hay thay đổi lớn trong ngôn ngữ Việt ngày nay: - Trước đây khoảng trăm năm, khi được “La Tinh hóa” Quốc ngữ , âm ‘tr’ được viết và đọc là ‘bl’, thí dụ: Blời → Trời; Blu → Trâu Không phải thay đổi rồi thôi mà có nhiều chữ vẫn song hành như: rung rinh → lung linh Vẫn còn nhiều sự biến đổi khác, nếu không hiểu rõ, có thể ta sẽ hiểu sai hay không hiểu nổi nhiều vấn đề, nhiều sự việc của quá khứ xa xôi. Với âm ‘l’ nhiều người miền Bắc phát âm thành âm ‘n’. Thí dụ: phương Nam → phương Lam; làng nước → nàng lước Nếu sự thay đổi âm ‘l’ và ‘n’ lại chồng lên sự thay đổi của âm ‘r’ và ‘l” thì sự khác biệt đi quá xa coi như không có sự liên quan, … nhưng nếu chúng biến đổi qua nhiều tầng nấc trung gian chúng lại có liên quan với nhau. ‘rú’ trong ‘rừng rú’ có nghĩa là ‘núi’, ta xem diễn biến chuyển đổi như sau: rú → lú → lúi → núi r→ l l→ n rừng → lừng → lừm → lùm (bụi) lâm (Hán-Việt) Lần theo từng mắt xích như trên, ta thấy rõ ràng “lâm” đâu có phải là từ ngoại. Còn có nhiều thay đổi nếu không biết sẽ không hiểu nổi nhiều vấn đề của lịch sử như: Âm ‘r’ còn có thể biến âm thành ‘d’ như: râm (bóng râm) → bóng dâm Âm ‘l’ biến âm thành ‘nh’: ló → lú (lên) → nhú (lên), nhô (lên); lớn lao → nhớn nhao Từ kép: siu siu (ngủ) → thiu thiu (ngủ) siêu siêu (ngủ) Cũng có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa phương ngữ miền Bắc và phương ngữ Nam bộ, chỉ xin khái quát vài điều rõ ràng mà thôi: - Âm ‘v’ miền Bắc, miền Nam đọc thành ‘d’, ngay trong cách phát âm tên quốc gia cũng có sự khác biệt: Việt Nam → diệc nam (viết theo cách phát âm); nếu nói “Việt” từ gốc Hán có nghĩa là “vượt” thì “diệc” hay “diệt” là gì? Âm ‘h’ ở miền Bắc thì ở miền Nam biến thành ‘gh”; tương tự âm ‘q’ cũng vậy. Thí dụ: đi hoài → đi ghoài (mãi) quốc gia → ghuấc gia hay guốc gia. Nguyên âm tiếng Việt như ‘u’ biến thành ‘o’, như tùng → tòng ‘u’ biến thành ‘âu’, như chu → châu ‘â’ biến thành‘ư’’, như nhất → nhứt, chân → chưn Thời khá xưa chữ ‘khởi’ đọc là ‘khỉ’; chữ ‘mày’ miền Trung đọc là ‘mi’, ‘ông’ → ‘ôn’. Như thế sự khác biệt thực thiên hình vạn trạng. Đó mới chỉ là chuyện trong nhà, còn xét đến những biến âm của từ thuần Việt và Hán Việt thì còn nhiều điều phải bàn lắm như chữ ‘lâm’ và ‘lùm’ ở trên. Ta quen gọi là từ Hán Việt, thực ra chưa chắc như thế, nhiều khi còn ngược lại là đằng khác. Thí dụ: sông và xuyên; sưng và sơn; kênh lạch và kinh lạc Có nhiều từ xét về sự hợp lý theo thời gian cấu thành, tưởng là xuất phát từ Hán tự nay chỉ là từ biến âm theo từ “Nôm”. Thí dụ: người Việt thường nói, họ hàng – hang hốc; nếu nghiệm ra ta thấy đây là cặp từ ghép mang tính giải thích, chú dẫn về nguồn gốc: ‘hàng’ xuất phát từ ‘hang’, ‘họ’ phát xuất từ ‘hốc’. Từ thưở hồng hoang khi con người còn “ăn hang ở lỗ” thì mỗi một hang là nơi cư trú của một thị tộc gồm từ vài chục đến vài trăm người, và nhiều hang như thế hợp thành một bộ tộc hay bộ lạc, trong mỗi hang lại có nhiều ngõ ngách gọi là ‘hốc’, mỗi hốc thường là nơi cư trú của một đại gia đình; sau này dù còn người không còn ở hang nữa nhưng từ ‘hang’ và ‘hốc’ vẫn được dùng để chỉ một tập thể người có liên quan với nhau. Có điều đặc biệt là chúng không dừng lại ở tiếng Việt mà còn biến thành từ Hoa hay từ Hán Việt: hang → hàng (Việt) hương (Hoa) hốc → họ (Việt) hữu (Hoa) Vậy ta có thể quyết định xem nhóm từ hang – hốc → hương – hữu là từ Việt gốc Hán hay là từ Hán gốc Việt? Xét về mặt lịch sử hình thành thì không thể nào nói khác đi: đó là từ Hán gốc Việt. Tương tự như vậy, khi ta xét cặp từ ‘kênh lạch’ và ‘kinh lạc’: ‘kênh lạch’ là đường dẫn truyền nước trong tự nhiên nó có trước cả khi con người có hệ ngôn ngữ , sau được định danh là ‘kênh’ và ‘lạch’; còn ‘kinh lạc’ là đường dẫn truyền khí huyết trong con người; nó là thành tựu tuyệt vời của nền khoa học nói chung, y học Trung Hoa nói riêng tức là lúc con người đã văn minh lắm rồi, nói như vậy chắc chắn từ ‘kinh lạc’ bắt nguồn từ ‘kênh lạc’. Các nhà ngôn ngữ học ngày nay xác định hơn 50% từ Việt là từ Hán Việt – nói như thế có 2 điều phải bàn: 1. Có hơn 50% là từ Hán Việt là mới xem xét đến số lượng từ dùng chung, còn cộng cả số từ biến âm, bắt nguồn từ nhau thì tỉ lệ lẫn lộn Việt – Hoa còn lớn hơn nhiều. 2. Nói từ Hán Việt là từ Việt có nguồn gốc ở ngôn ngữ Hán là thói quen có tính áp đặt; sự áp đặt này xuất phát từ ưu thế số lượng mà ra. Khách quan mà xét thì sự áp đặt trên có nguồn cơn từ lịch sử, qua hàng ngàn năm nước Việt chỉ là một chư hầu của nước Hán (ta cứ tạm gọi như thế), …. nên nói từ ‘Hán Việt’ hay từ Việt gốc Hán là hợp lý và nhiều người mặc nhiên chấp nhận, coi như chuyện bình thường, không ai thắc mắc, từ quan tới dân, từ trí thức tới người tốt nghiệp bình dân giáo dục không ai đặt dấu chấm hỏi. Như đã dẫn ở vài thí dụ ở trên, chuyện không đơn giản như quán tính lịch sử đã tạo nên, 2 ngôn ngữ Hoa Việt quấn quýt vào nhau chặt chẽ hơn ta tưởng, ngay trong Kinh Dịch là linh hồn của văn minh Trung Hoa cũng không phải là thấp thoáng, mà tràn đầy tiếng Việt!? Quẻ Lửa → Ly Sấm → Chấn Tán (Toán) → Tốn Kiềng, Càng→ Kiền, Càn Cả̉n,căn → Cấn Căm hay cóng là tên khác của qủe khảm Khôn thì rõ ràng là từ Việt (khôn ngoan, trí khôn hay khuân vác, khuân mang) Lịch sử và văn minh Trung Hoa cũng rõ ràng kết cấu gằng “gạch” Việt, như: hòn → hoàng (xuất phát từ Kinh Dịch: trời tròn là vua, đất là dân} viên → vương vua → vũ cha, chúa → chu, chiếu, triệu (họ) bản (làng) → bang (quốc) gốc (→ guốc) → quốc, nhà → gia giêng – hai → giang – hồ (hải) lu (mờ) → người Lu hay liêu căm là lạnh → người Kim mun (đen) → mông, minh, Mãn [người hay nước] Đặc biệt 2 từ có mối liên hệ quan trọng đến vận mệnh nước Hán là “quan” và “từ” lại là đích thị dịch từ chữ Nôm: “quan” là dịch chữ ‘nhìn’, chữ ‘nom’; và“từ” dịch chữ ‘thương’ (tình thương). Quan Trung: vùng đất phía nam. Quan thoại: tiếng nói phương nam. Quang Vũ (viết Quan thành Quang): là ông vua phương nam, như vậy ông vua khai sáng triều Đông Hán đâu có phải vuaTrung Hoa.vì chính người Hán nhận mình là Quan tộc. Chữ “từ” là dịch sang hán ngữ chữ “thương” của tiếng Việt. Theo Dịch lý, thì phương đông là phương của tình cảm (quẻ Khảm), nghĩa là phương của sự thương cảm giữa người và người (trong chữ Hán, thương là thương tật, ) ,đồng thời phương đông cũng là phương của màu xanh. xanh → thương – thanh, nên sau này có nhà Thương, nhà Thanh. Như thế: từ = thương = phương đông chỉ vùng Sơn Đông hiện nay, xưa là đất nước Tề (Từ → Tề). là chốn mà lịch sử Trung Hoa gọi là Nam Man và Đông Di; đã là man – di thì vùng Hà Bắc, đất tổ của nhà Đông Hán và Sơn Đông là đất nước Tề (Từ) thời Chiến Quốc, nước Ngụy thời Tam Quốc không thể nào là Trung Hoa được. Về sự thiên biến, vạn hóa trong tiếng Việt giữa xưa và nay, ta đơn cử một đoạn trong sớ tấu của Trần Cương Trung, sứ giả nhà Nguyên (thế kỷ 13) dâng lên vua theo bản dịch của Lê văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử như sau: “Tiếng nói của dân Tru Ly gọi ‘trời’ là ‘bột mạt’, ‘mặt trời’ là ‘phù bột mạt’, ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’, ‘gió’ là ‘giáo’, ‘mây’ là ‘mai’, ‘núi’ là ‘can ngỗi’, ‘nước’ là ‘lược’, ‘mắt’ là ‘mạt’, ‘mồm’ là ‘mạnh’, ‘cha’ là ‘chá’, ‘mẹ’ là ‘ná’, ‘con trai’ là’can đa’, ‘con gái’ là ‘can ái’, ‘chồng’ là ‘chùng’, ‘vợ’ là ‘đà bị’, ‘tốt’ là ‘lĩnh’, ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’, cả thảy là như thế, tiếng nói gấp mà nổi, phần lớn giống như tiếng chim, …” Chắc chắn phiên âm tiếng Việt bằng chữ Hán có nhiều lệch lạc, nhưng qua đó ta vẫn còn nhận ra: ‘gió’ là ‘giáo’ ‘mây’ là ‘mai’ ‘nước’ là ‘lược’ ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’ (âm Nam bộ = dăng = trăng; chữ ‘bột’ không đoán được) ‘mắt’ là ‘mạt’ ‘mồm’ là ‘mạnh’ (miệng) ‘cha’ là ‘chá’ ‘mẹ’ là ‘ná’ (má, nạ) ‘con trai’ là’can đa’ ‘con gái’ là ‘can ái’ ‘chồng’ là ‘chùng’ ‘vợ’ là ‘đà bị’ (đàn bà) ‘tốt’ là ‘lĩnh’ (lành) ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’ (chẳng lành), những chữ còn lại không thể đoán ra được, đặc biệt tên của dân tộc ta viết là ‘Tru Ly’ có thể đoán: ‘Tru’ biến âm của từ ‘chúa’; ‘Ly’ biến âm của từ ‘Lửa’ nghĩa là dân của vua lửa hay vua vùng nhiệt đới. Mới 700 năm mà đã khác xa như thế, nói chi đến 2, 3 ngàn năm trước!? Hỏi còn bao nhiêu từ cổ mà ngày nay chúng ta nhận ra được? Ở đoạn trên, riêng từ ‘núi’ là ‘can ngỗi’ có thể đoán: ‘can’ là ‘cấn’, một quẻ trong Bát Quái, tượng trưng cho ‘núi’ và chúng ta chú ý từ ‘nước’ là ‘lược’ vì nó có liên quan đến quốc hiệu cổ xưa của Việt Nam mà ta sẽ tìm hiểu ở phần sau. Về sự liên quan giữa ngôn ngữ Hán và Việt còn nhiều khía cạnh phải xem xét. Thí dụ: tên Nôm và tên chữ của một số địa danh ở Việt Nam, tên Nôm là tên gọi, nói; tên chữ là tên viết bằng Hoa tự như: Làng Vầy → Làng Sơn Vi Làng Tó → Làng Vũ Đại Vi là Vây (cái vây cá); từ ‘Vầy’ → ‘Vây’, ký âm Hán tự là ‘Vi’ như thế nếu nói ‘Vi’ là từ Hán Việt e không đúng, ‘Vi’, ‘Vây’, ‘Vầy’chỉ là những phương âm của cùng một chữ mà thôi. Còn ‘Tó’ viết thành ‘Vũ Đại’ mới đúng là dịch sang Hán tự; tó là to, to → đại. Việc dịch những danh từ riêng của Việt sang Hán tự cũng gây đau đầu lắm! Như từ ‘Vũng Quýt’, một địa danh ở miền Trung của Việt Nam, nếu hiểu ‘Vũng’ là danh từ chung là một vùng nước sát đất liền tương đối được che chắn kín gió, … như Vũng Tàu, Vũng Rô, thì chữ ‘vũng’ là ‘Vịnh’ trong Hán ngữ. ‘Quýt’ là tên riêng nếu chuyển ngữ thành ‘Quất Vịnh’ thì có thể nhận ra, nhưng phiên âm theo Hán tự để viết thành ‘Dung Quất” thì sai xa lắm, người dân ở Vũng Quýt đọc lên cứ ngỡ là một địa danh nào đó ở bên tầu Việc dùng Hán tự để ký âm các từ gốc La Tinh đôi khi tạo nên những cụm từ … quái dị …, về nghĩa thì không có rồi, và về âm thì chuyển đi xa lắc xa lơ … phải có óc tưởng tượng siêu lắm mới tìm thấy sự liên quan, như: England ký âm thành Anh Cát Lợi. France thành Phú Lãng Sa. Washington → Hoa Thịnh Đốn. (ông) Ghandi → (Thánh) Cam Địa, v.v… Khổ một nổi sự ký âm này là bắt buộc vì 2 hệ thống ngôn ngữ khác nhau hoàn toàn nên không có cách nào khác. Tới đây người đọc có thể thông cảm với người viết và mặc nhiên chấp nhận một độ lệch nào đó của âm ngữ khi dẫn chứng tư liệu lịch sử Việt Nam từ cổ đại cho đến cận đại vì tất cả được viết bằng chữ nho hay nói rõ hơn là những từ Việt được ký âm bằng chữ Hán, sự lệch lạc đôi khi rất xa, nhưng ta có thể nhận ra được nếu nó nằm trong một thể hoàn chỉnh, có đầu có đuôi, có đối chứng V.v… nếu có hẳn một hệ thống xuyên suốt thì trở nên hiển nhiên, rõ ràng không phải bàn nữa, ta có thể khái lược hệ thống “biến từ ” Việt – Hoa trong những từ chĩ người lãnh đạo quốc gia như sau : Cao – cả → cổ nghĩa là người đứng đầu, thủy tổ như ông Bàn Cổ; Cổ Thục; Cổ Tẩu. → cô, cơ: cũng là người đứng đầu như ‘Hiên Viên là tổ họ Cơ; ông Cơ Xương, Cơ Phát. → Cao: ông cao Giao; Thái Cao; Cao Tân; Cao Dương; Cao Sơn. → Câu: Câu Tiễn (Việt Vương) Chữ Tôn viết sai là Tông trở thành đế hiệu của các vua Việt Nam và Trung Hoa từ đời Đường, Lý về sau. Căn cứ vào cấu trúc cụm từ thì rõ ràng ‘Tôn”, ‘Tông’ tương đương với chữ ‘Vương’. Thí dụ: Lý Thái Tôn, Lý Cao Tôn, V.v… 2. Vua → Vũ: chỉ hoàng đế khai quốc như Hạ Vũ, Võ Vương, Chu Vũ Vương, Hán Vũ Đế, Vũ văn Giác, Quách Vu. 3. Cha – chú → chúa, chủ → chu, châu, sau biến thành Chu, Triệu như: nhà Chu, họ Chu: Chu Nguyên Chương, họ Triệu: Triệu Chính, Triệu Đà, Triệu Khuông Dẫn, V.v… đặc biệt ngôn ngữ Thái – Lào có từ ‘chậu’ nghĩa là ‘ông hoàng’, khi ký âm bằng Hán tự thì các vua Champa trở thành họ ‘Chế’ như: Chế Củ, Chế Mân, Chế Bồng Nga, V.v… 4. Lửa → Ly (quẻ) là ngọn lửa, mặt trời, nghĩa bóng chỉ ‘hoàng đế’ sau biến thành họ ‘Lý’, họ ‘Lê’ như: Lý Bôn, Lý Bí, Lý Uyên, Lý Công Uẩn; Lê Lợi, Lê Hoàn, (Hán tự ký âm sai thành họ Lưu) 5. Đức: chỉ nhân vật có địa vị cao trọng như: đức Chúa, đức ông, V.v… Hán ngữ ký âm thành Đế đồng nghĩa với vua, chúa; âm Khmer là ‘cham đéc’ nghĩa là ông hoàng. 6. Xuất phát từ ý niệm: ‘trời tròn, đất vuông’, ‘trời là vua, đất là dân’, người ta tạo nên các từ: hòn → hoàn → hoàng nghĩa là vua; ‘viên’ chỉ vật tròn → vương. Trong lịch sử có: Đinh Hoàn, Lê Hoàn, Hiên Viên, Tản Viên, … 7. Các tước vị của quí tộc Trung Hoa: không 0 → công hai 2 → hầu ba 3 → bá tư 4 → tử năm 5 → nam Từ hệ thống “chuyển ngữ” này, ta có thể khẳng định, trước khi Hán tự được dùng để viết sử thì đã có lịch sử Trung Hoa viết bằng một thứ chữ khác với Hán tự, đó chắc chắn là kiểu chữ{văn} “khoa đẩu” của nhà Thương- Chu, Ngũ kinh cũng được chép bằng thứ chữ này. Từ đời Tần người ta mới dùng kiểu chữ “tiểu triện” thay thế, loại chữ tiểu triện qua nhiều lần cách tân về cách viết trở thành Hán tự ngày nay; người Việt không gọi là Hán tự mà gọi là “chữ Nho”, phải chăng ‘Nho’ là biến âm của ‘nhỏ’ đồng nghĩa với ‘tiểu triện’, người Việt ưa dùng điệp ngữ “Nho nhỏ” cũng là một dẫn chứng có giá trị cho hướng suy nghĩ như trên. Bản thân dân du mục phương Bắc khi chiếm đóng Trung Hoa chưa có hệ thống văn tự riêng nên dùng luôn hệ thống văn tự Trung Hoa làm quốc văn vì không có cách nào khác, từ đó chữ tiểu triện biến thành Hãn tự, điều này giải thích sự mâu thuẫn trong tâm thức người Việt. Từ Hán trong Hãn tộc là một nỗi ám ảnh kinh hoàng do những thống khổ người Việt phải chịu thời vong quốc. Nhưng từ ‘Hán’ trong ngôn ngữ Hán, người Việt gọi là chữ Nho thì lại có vị trí trân trọng đặc biệt và được gọi là chữ của “thánh hiền”. nguồn anviettoancau.com
  23. Những điều không thể xảy ra Nguyễn Quang Nhật I.LẬP QUỐC Trung Hoa lập quốc bên bờ Hoàng Hà, mãi tới thời CHU mới tiến đến Trường Giang như thế: 1. các vua từ Thần Nông, Xuyên Húc … đến Hạ Vũ và nhà Thương không thể biết đến đất “Giao” cận xích đạo được. 2. Vua Thuấn không thể tuần du và chết ở Thương Ngô thuộc quảng Tây được. 3. Không thể có châu Kinh và châu Dương trong cửu châu nhà Hạ ở Nam Trường Giang. 4. Không thể có chuyện con cháu nhà Hạ lập nước Việt ở Cối Kê – Triết Giang 5. Xét kỹ thì các cống phẩm của 9 châu đời Hạ Vũ đều là sản vật vùng nhiệt đới, như vậy 9 châu này không thể ở bắc Hoàng Hà. II. Ngũ Man Trung Hoa (bị lộn ngược thành Ngũ Hồ) Phía nam theo Dịch Lý tức phía bắc Trung Hoa hiện nay là nơi tụ cư của các Man tộc, vói 5 dòng: 1. Phương Tây: người Tạng biến âm của chữ tịnh còn gọi là Khương biến âm của chữ cương – căng hay khăng nghĩa là phương cứng, không đổi. Người Chi biến âm tsi = tư, số 4 còn được gọi tên chung là Thổ. 2. Phía Tây Nam: tức Tây Bắc hiện nay, là nơi sinh sống của người Đột Quyết, ‘Đột’ biến âm của chữ độc là số 1 chỉ phương Nam, ‘Quyết’ trong Dịch lý là phương tây (quyết định – định đoạt), Đột Quyết nghĩa là phía Tây nam mà thôi, tên chỉ chung các dân tộc vùng Trung Á vì tóc râu của họ màu nâu đỏ cũng rất có thể họ là người da trắng nhưng nắng gío đã biến da họ thành màu Đồng nên còn được gọi là dân Hung (hung trong tiếng Việt là màu nâu đỏ), người Mông Cổ gọi sắc dân này là dân Sắc Mục. 3. Phía chánh Nam: đất của tộc Mông – Nguyên, cả Mông và Nguyên đều có nghĩa là phía Nam của Dịch Lý. 4. Phía Nam: người Khiết Đan hay người Liêu, Khiết là thuần khiết hay đơn nhất, ý chỉ số 1, phương nước trong Dịch Lý, đan là đơn: số 1 cũng là màu đen là lu, mờ, tối. 5. Phía cực Nam: người Tiên Ty hay Nữ Chân, tiên là số 1, ty là thấp chỉ phương 6. Nam ngược với vương, cao, tôn, Tiên Ty chia thành 2 dòng: người Kăm hay Kim và Mãn hay Man.Ban đầu từ “Hán nhân” là 1 câu chửi chỉ dùng cho người Khiết Đan, sau này đồng hóa với người Tiên Ty cũng coi là người Hán. Thời Mông – Nguyên: Từ người Hán là tên, chỉ 2 sắc dân này, người Trung Hoa chính gốc được gọi là người Nam. Người Lu có 3 chi: Tây Lu hay Thủy Cốc Hồn, Nam Lu hay Quan Liêu ở Sơn Tây và Hà Bắc, Đông Lu hay Từ Liêu ở Sơn Đông và tên chính thức của họ trong lịch sử là Hán Tộc. Ba triều đại lớn họ đã dựng nên được sử Trung Hoa ghi nhận là: *Nhà Hán Tây và Đông + nhà Ngụy. -Tiên Ty thì tạo hẳn thành 2 nước: *Nước Kim *Nước Mãn Thanh III. Chủ nhân nền văn hóa, văn minh Trung Hoa Hai cộng đồng người thuộc 2 loại hình nhân chủng khác nhau, sinh trú trên 2 địa bàn khác nhau, dĩ nhiên sẽ hình thành 2 nền văn hóa, văn minh khác nhau nhưng văn minh cổ của Trung Hoa chỉ có một, vậy cộng đồng nào đã tạo nên nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ? Mongoloit: Hoa Bắc; hay Nam Á, Nam Đảo, Đông Nam Á. Ngoại trừ những tư liệu thành văn, vào thời đồ đá mô tả những gì không thể có ở Hoa Bắc, ta có thể điểm thêm vài nét đặc trưng cấu thành văn hóa Trung Hoa: 1. cái ăn: lương thực chủ yếu của dân Trung Hoa là lúa gạo, lúa gạo không thể trồng ở miền Bắc Trung Hoa vào thời cổ. 2. cái mặc: trang phục cho giới bình dân gọi là “bố” làm từ sợi đay … nhưng đay là cây á nhiệt đới thì Hoa Bắc làm sao có được …, trang phục cao cấp may bằng lụa do “lụy tổ” vợ của Hoàng Đế sáng chế (theo truyền thuyết) … cũng không có được ở bờ bắc Hoàng Hà, ví cây dâu tằm chỉ mọc được khi nhiệt độ trên 17 độC, như vậy “Lụy tổ” không thể ra đờiở bắc Hoàng Hà.do điều kiện khí hậu cây dâu không thể mọc tự nhiên . Có chi tiết cần bàn thêm, dân Trung Hoa thờ “Tiên Tàm” coi như tổ ngành dệt lụa, sao lại là Tiên Tàm? vì Tiên Tàm là cấu trúc Việt ngữ tương tự như cấu trúc Thần Nông vậy. 3. Chỗ ở: Truyền thuyết Trung Hoa nhất là truyền thuyết liên quan tới Dịch Lý… đều cho biết thời Thái cổ người Trung Hoa dựa trên hình tượng con rùa để làm ra nhà ở: * mai rùa là mái nhà. * yếm rùa là sàn nhà . * 4 chân là 4 cột nhà. Như vậy là mô tả cái nhà sàn, vì nhà sàn mới có sàn nhà và 4 cột chống sàn hổng khỏi mặt đất. Nhà sàn là loại hình cư trú đặc trưng của dân Đông Nam Á và dân thiểu số Trung Hoa ở Hoa Nam. Dân miền bắc Trung Hoa hoàn toàn xa lạ với loại nhà này. 4.về vận chuyển: cổ thư Trung Hoa đều mô tả việc thủy vận là phương tiện chính, nhưng thủy vận không hề phát triển ở Hoa Bắc thời trước Công nguyên, việc này cũng dễ hiểu vì phưong tiện của thủy vận là thuyền và bè làm bằng tre kết lại. Miền bắc Trung Hoa không có tre lớn đủ kết thành bè còn thuyền thì thời cổ chỉ có thuyền độc mộc mà cả miền Hoa Bắc chắc không có nổi 1 cây đủ lớn để làm thành 1 con thuyền. 5.về văn hóa: trong suốt khảo luận này ta đã nói nhiều, ở đây chỉ bàn thêm: thời Hạ Vũ có lệnh cho vùng “Cửu Giang” phải cống rùa lớn, cống rùa lớn để làm gì ta đã biết nhưng “Cửu Giang” là vùng nào? dựa trên chữ Củu có thể đoán là “Trường Giang” ngày nay. Miền Hoa Bắc không có rùa lớn thì lấy gì mà phát minh ra chữ khắc, từ đời Chu thì Sơn tây, Thiểm tây làm gì có tre lớn để làm trúc thư?Ở vùng đồi đã khai quật mà người ta cho là kinh đô nhà Thương còn thu được rất nhiều Long xỉ tức răng rồng có khắc chữ , ngày nay khoa học đã xác định được đấy là những miếng ngà voi , hỏi bắc Hoàng hà làm gì có voi để làm Long Xỉ ? 5 yếu tố văn hóa trên xác định nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ là của phương Nam hoàn toàn. Từ đời Ân Thương trở đi Hoa Bắc mới đóng góp thêm yếu tố “ngựa” vào văn hóa, văn minh chung của Trung Hoa. Nguồn anviettoancau.com
  24. Lịch sử Nguyễn Quang Nhật Cổ sử TRUNG HOA và những dấu ? Sai lầm lớn nhất của các sử gia Hán tộc là kết cấu lịch sử dân tộc – quốc gia mình một cách máy móc thiếu biện chứng, bỏ quên yếu tố thời gian. Lãnh thổ Trung Hoa tới điểm “hạn” khoảng đầu công nguyên, tức là mốc thời gian mà lãnh thổ không thể trương nở tự do được vì nó tiến đến một đường biên với các dân tộc, quốc gia khác, từ điểm này sự xê dịch biên giới luôn là kế quả của một cuộc chiến, với Trung Hoa từ mốc lịch sử này các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa Hán tộc và lân bang đều được ghi vào sách sử. Ta thử làm một con tính đơn giản, dân số Trung Hoa đời Tần khoảng 20 triệu người, 2000 năm sau là 1.200 triệu người tức tăng 60 lần, lấy tỉ lệ này ước tính dân số nhà Hạ trước Tần 2.000 năm, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa, thì dân số cao lắm cũng chỉ dưới 500.000 người; với số dân như vậy dàn trải trên diện tích gần bằng diện tích Trung Hoa ngày nay là điều không thể có. Lý do rất đơn giản là điều kiện vật chất kỹ thuật không cho phép, với phương tiện lưu thông chính là đôi chân thì không thể có một nhà nước mà lãnh thổ rộng tới vài triệu ki-lô mét vuông bao gồm 9 châu: Duyện, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Lương, U như đã ấn định trên bản đồ Trung Hoa cổ; các sử gia Hán tộc đều thành thực tin rằng lãnh thổ Trung Hoa to lớn như thế vì cổ sử Trung Hoa từ thời vua Chuyên Húc (2513 –n 2345 trước CN), đời vua Nghiêu (2357 trước CN) thậm chí cả đến đời Thần Nông, một vì vua của truyền thuyêt xa xôi lắm, lãnh thổ Trung Hoa đã tiếp giáp với Giao Chỉ hay Giao Châu, cũng có sách chép là Nam Giao tức lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Sử gia Hán tộc đã sai lầm khi tạo nên một lịch sử không có sự phát triển, quốc gia cũng chỉ là một cơ thể sống, có sinh ra, có lớn lên rồi tới điểm dừng hay hạn. Cũng như con người sinh ra chỉ khoảng 2 – 3 kg lớn lên tới độ 23 – 25 tuổi là điểm dừng thì nặng khoảng 50 – 60 kg, còn “Hán Quốc” mới khai sinh đã to bằng tuổi 20 – 25, đã có 9 châu mênh mông thiên địa …. đúng là thần nhân trong thần thoại…. Như vậy làm sao ta có thể lý giải một việc rất nhất quán trong cổ sử Trung Hoa. Liên tiếp từ thời Thần Nông tới Chuyên Húc và sau là vua Nghiêu …, kinh Thư, Thiên Nghiêu Điển viết: “vua Nghiêu mệnh hy thúc trạch Nam Giao…” Nam Giao, Giao Chỉ là một địa danh, một vùng đất đã có từ thời Thái cổ trong lịch sử Trung Hoa và liên tục cho đến đời Tống; vua Tống vẫn phong cho vua Đại Việt là: “Giao Chỉ Quận Vương” trước khi nâng cấp lên “An Nam Quốc Vương”, sự việc đó chỉ cách nay một ngàn năm và được ghi chép rõ ràng trong sách sử. Tìm lời giải đáp cho câu hỏi hóc búa nhưng kỳ thú này dẫn dắt đến một sử thuyết, và khi sử thuyết này được minh chứng sẽ làm đảo lộn toàn bộ lịch sử Trung Hoa, Việt Nam và Đông Nam Á. Chính sử Trung Hoa đều cho rằng thủy tổ dân tộc mình là Bào Hy, Thần Nông. Thần Nông là kết cấu ngôn ngữ Việt, nếu theo Hán ngữ phải viết là Nông Thần; đây không phải là trường hợp duy nhất vì ta gặp nhiều trường hợp như thế trong Ngũ Kinh, như: Đế Ất, Hậu Tắc,… Hậu Nghệ, V.v… Vậy các vua này là vua Việt hay vua Hán? Thêm vào đó các địa danh của Trung Hoa đầy dẫy ngôn ngữ Việt, như: Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, … Hán tự dùng ‘sơn hà’ là ‘núi’ và ‘sông’ để chỉ lãnh thổ quốc gia, như sông phương bắc, sông phương nam, núi phương tây, núi phương đông, … vậy theo Hán ngữ phải ghi là Bắc Hà, Nam Hà, Đông Sơn, Tây Sơn …, còn Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Sơn Tây là kết cấu theo Việt ngữ? Lịch sử về văn minh Trung Hoa cũng có một số điểm mà ta không hiểu nỗi. “Thời nhà Hạ (2200 trước CN) người dân đã biết ‘tát nước vào ruộng’…” rõ ràng câu này chỉ sự canh tác lúa nước; nước là điều kiện đầu tiên trong: “nước, phân, cần, giống” mà nền khoa học nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết từ xa xưa; nước quan trọng đến nỗi “việc dẫn thủy nhập điền” được coi như một thành tựu khoa học, phản ánh trình độ văn minh của một dân tộc. Sự việc này khó hiểu ở chỗ: lãnh thổ nhà Hạ ở vùng Hoàng Hà (theo chính sử Trung Hoa) đâu có trồng được lúa nước … cây được trồng chính ở miền Bắc Trung Hoa là kê và lúa mì. Các chứng cứ về khảo cổ học và các ngành khoa học khác như nông học, thổ nhưỡng đã xác định như vậy. Ngày nay qua các di chỉ trong lòng đất, ngành khảo cổ học đã xác định được nơi sinh tụ thời cổ xưa của Hán tộc là bờ sông Hoàng Hà. Hán tộc là tộc người xây dựng được nền văn minh rất sớm, họ đã bước vào thời gọi là văn hóa gốm đỏ cách đây khoảng 8.000 năm, địa bàn của họ dịch chuyển từ tây sang đông dọc theo sông Hoàng Hà với các nền văn hoá gốm đỏ, gốm đen, rồi gốm xám. Vùng đất từ Thiểm Tây tới Hà Nam ngày nay. Vào đời Thương lãnh thổ Trung Hoa là vùng đất nằm ởgiữa 4 tỉnh: Hà Nam – Hà Bắc – Sơn Đông – Sơn Tây. Qua đời Chu thì chuyển về vùng Sơn Tây ngày nay, theo đó ta có thể xác định Hán Quốc cổ là quốc gia lục địa chưa tiến đến bờ biển; nhưng sử Trung Hoa lại ghi: “Từ đời Thương dân Trung Hoa đã biết dùng vỏ sò làm tiền để trao đổi hàng hóa…”, nên trong Hán tự đã cấu thành bộ ‘bối’ nghĩa là ‘vỏ sò’, ‘vỏ hến’ để tạo nên các từ liên quan đến việc giao thương, buôn bán … nhưng dân sinh sống sâu trong lục địa thì lấy vỏ hến, vỏ sò ở đâu ra? Sử Trung Hoa cũng ghi là vào đời Thương đã biết dùng voi trong chiến trận …, nhưng lãnh thổ nhà Thương ở vùng sông Hoàng Hà thì làm gì có voi, voi Á Châu chỉ sống ở miền xích đạo và nhiệt đới, … không lẽ sử Trung Hoa sai lầm lớn đến thế? Hai loại “vật liệu” nền tảng của văn hóa Trung Hoa là mai rùa và tre đều không phải là sản vật tự nhiên của miền Bắc Hoàng Hà. Người ta đã đào được ở An Dương thuộc phần Bắc Hoàng Hà thuộc tỉnh Hà Nam, hàng vạn mai rùa và xương thú có khắc “Hoa tự” cổ và coi đây là căn cứ để xác định trung tâm văn minh Trung Hoa … nhưng ở miền Bắc Hoàng Hà không hề có loại rùa lớn đó sinh sống, khoa học đã chỉ rõ như thế; loại rùa có mai lớn để khắc chữ chỉ sinh sống ở sông Dương Tử hay Trường Giang. Lại nữa, Dịch Lý vào đời nhà Thương được gọi là Qui Tàng Dịch là sách dịch được khắc trên mai rùa (qui = rùa; tàng = chứa). ta có thể giải thích hợp lý sự việc trên là nhà Thương trước khi chuyển về lưu vực Hoàng Hà đã có thời gian sinh tụ ở lưu vực Dương Tử hay Trường Giang và chính là ở đấy đã phát minh ra “kỹ thuật” khắc chữ trên mai rùa; sau này dù di chuyển đến địa điểm mới vẫn về chốn cũ đem mai rùa đi để sử dụng. Tương tự, tre có hàng trăm loại khác nhau; nhưng tre lớn, bản đủ rộng làm thành các thẻ để viết chữ và kết thành sách chỉ có ở vùng xích đạo và nhiệt đới, ngay cả ở Tứ Xuyên nằm trong vùng bình đới, cũng chỉ có loại tre lớn nhất gọi là tre đực hay tầm vông; thì nhà Chu ở Sơn Tây làm gì có tre lớn để làm sách, viết chữ? Đối chiếu sinh cảnh thực sự cộng thêm nghiên cứu qua ghi chép trong Kinh Thư, Kinh Thi, và Kinh Dịch ta thấy không thể xaỊ̃y ra được. Thí dụ: Đại Tượng Truyện của Quẻ Dự trong Kinh Dịch chép: “Sấm nổ trên đất, Tiên Vương dĩ tác nhạc, Sùng Đức ân tiến chi Thượng Đế dĩ phối tổ khảo…” Quẻ Dự là Quẻ Chấn chồng trên Quẻ Khôn trong quẻ gọi là Địa; Quẻ Chấn là sấm, sấm nổ trên đất là chỉ dẫn Chấn trên Khôn, nhưng cũng giúp ta hình dung cảnh đánh trống đồng. Trống đồng còn gọi là trống sấm, Quẻ Lôi, khi đánh úp trên mặt đất là Địa, âm thanh trống đồng là nhạc tế lễ, ở đây nói rõ là tế Thượng đế và sùng kính tổ tiên. Một quẻ nữa là Quẻ Tiệm nói đến ‘vũ nghi”, một nghi thức mà người tham gia lễ hội hóa trang bằng lông chim, một cảnh được khắc hoạ rõ nét trên trống đồng. Dựa trên chính sử thì chắc chắn nhà Chu chưa hề biết đến trống đồng, vì trống đồng chỉ tìm thấy ở Việt Nam và 2 tỉnh Vân Nam – Quảng Châu của Trung Hoa, cách Sơn Tây xa lắm. Hiện nay cách nhà nghiên cứu Trung Hoa đã phải công nhận trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hán, vậy tại sao hơn 2.000 năm Kinh Dịch đã biết về trống đồng, chỉ dẫn cho ta về mục đích sử dụng trống đồng (tế Thượng đế)? Cũng như đề cập đến tục hoá trang được khắc trên trống đồng? Dù vua Càn Long nhà Thanh đã tốn không biết bao nhiêu tiền để mua sách và bản đồ, mất bao công sức để tịch thu sách và bản đồ trong thiên hạ và hơn 300 quan “bác sĩ” cạo sửa suốt 10 năm trời, sửa không nỗi thì đốt cho phi tang tích, nhưng vẫn bị lọt sổ: Sách Ngự phê Thông giám Tập Lãm và Thiếu vi Thông giám, quyển Chu Ngoại Kỷ có đoạn chép (Lê Văn Siêu dịch – Việt Nam Văn Minh Sử) như sau: “Cách 1.000 năm, đến năm Tân Mão là năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu, phía nam Giao Chỉ có người ‘Việt Thường’ sang Trung Hoa dâng bạch trĩ, qua 2, 3 lần thông ngôn nói rằng ‘đường xá xa xôi, non sông cách trở sợ rằng một lần thông sứ không hiểu tiếng nhau cho nên phải qua 3 lần thông ngôn để sang chầu’. Chu Công đáp lời: ‘Đức trạch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận lễ sơ kiến, chính lịch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận người ấy xưng thần.’ Người thông ngôn nói: ‘Tôi vâng mệnh những ông già (bô lão) nước tôi bảo: ‘Trời không gió dữ, mưa dầm, bể không sóng nổi đã 3 năm, hẳn là Trung Hoa có thánh nhân, sao không sang chầu.’ Chu Công đem dâng cho vua nhà Chu, để dâng lên thần linh của tiên vương, rồi đem dâng Cung điều. Đến khi sứ giả về, quên mất đường, Chu Công cho 5 cỗ biền xa, bốn mặt có diềm che đều làm cách thức chỉ nam, sứ giả đi xe ấy từ đường bể (sau này) là nước Phù Nam ở cõi đất Cao Miên, thời xưa là Lâm Ấp, đầy năm trời mới về đến nước (Việt Thường)”. Sách Thiếu Vi Thống Giám, chú giải: “Việt Thường là ‘Nam phương quốc danh, tại Giao Chỉ nam’”, có thể dịch là “tên nước nam phương, (một nước) ở phiá nam Giao Chỉ” Trong đoạn trích dẫn trên có nhiều điều phải bàn như tên nước, phương hướng nhưng điểm chính yếu thứ nhất ta cần xem xét: nhà Chu ở đâu mà sứ lại xuống thuyền về nước ở biển (sau này là) Phù Nam, Cao Miên? Rõ ràng là nhà Chu không thể ở Sơn Tây cách xa biển Phù Nam ít nhất 3.000 km. Thứ hai ta xét: nước Việt Thường không thể ở gần Cao Miên mà ở rất xa vì đi thuyền một năm mới tới. (Sách sử hiện nay cho là miền Trung Việt Nam trước đây là Việt Thường). Tới đây ta lại phải thêm một câu hỏi: Việt Thường là nước nào và ở đâu? Thêm một vấn đề nữa: Sử Trung Hoa viết về nhà Tần như sau: Nhà Tần chọn cho mình đức Thủy là đức đã thắng nhà Chu đức Hoả, màu đỏ, và nhà Tần chọn cho mình màu đen, từ ngựa tới cờ quạt đều màu đen. - Số 6: cái gì cũng số 6, trục xe 6 tấc, xe vua do 6 ngựa kéo. Tháng chọn là tháng 10, bắt đầu mùa đông, ở đây rõ ràng sử gia Trung Hoa đã vận dụng Dịch Lý vào sử, ta hãy xem: Nếu nhà Tần chọn Hành Thủy, màu đen, số 6, mà ở Thiểm Tây, Tứ Xuyên, nhà Chu không thể ở nơi nào khác ngoài Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây (xin xem bản đồ) tức là ở phía nam Tứ Xuyên, Thiểm Tây vì sử ghi rõ nhà Chu: đức Hoả, màu đỏ (Thực ra thì nhà Chu không phải đức Hoả và màu đỏ; sử học Trung Hoa đã cố gán ép các nguyên lý của Dịch học vào lịch sử đời Tần để phục vụ cho mục đích của họ, về mục đích của họ sẽ có phần xem xét ở phần sau; còn về nhà Chu thì đích thực ở phương Tây nên thuộc hành Kim, màu trắng). Bản đồ Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc chắc chắn không phải do người Trung Hoa lập, lý do đơn giản trong bản đồ thời này ngoài: Vị Thủy, Hoài Thủy, Kỳ Thủy, V.v…(tức là Sông Vị, Sông Hoài, Sông Kỳ, V.v…) lại còn có cả: Hà Thủy và Giang Thủy … 2 con sông chính của Trung Hoa. Hà và Giang là gì? Không lẽ người Trung Hoa không biết điều rất ư là đơn giản đó mà còn thêm chử Thủy vào; chỉ có người không phải là người Trung Hoa tưởng là tên riêng nên mới thêm chữ Thủy vào để chỉ con sông, hay do bởi không phải là tiếng mẹ đẻ của mình nên họ mới sơ xuất do quán tính và cẩu thả khi định danh nên mới có tên 2 con sông kỳ khôi là: “Sông …… Sông” (Giang = sông và Hà = sông). Còn một thực tế khó giải thích nữa: Sông Dương Tử hay Trường Giang được coi là mốc phân ranh Bắc – Nam của Trung Hoa, theo chính sử thì trước thời Xuân Thu Chiến Quốc Trung Hoa chưa biết đến miền Nam, khảo cổ học đã xác định dân miền Hoa Bắc thuộc về chủng Mongoloit, còn Hoa Nam thuộc ngành Mongoloit phương Nam, cứ theo lịch sử thì từ Bào Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Hạ Vũ, Thành Thang … tất cả là người Mongoloit cùng chủng với Mãn, Mông, Kim, Liêu V.v… Như thế sẽ có một hệ quả là: những người mang đặc điểm nhân chủng nam Mongoloit không phải là người Trung Hoa? hay, họ bị diệt quốc và bị đồng hoá thành người Trung Hoa? Điều này thật khó nói vì chính họ lại là dân “đa số” ở Trung Hoa hiện nay, và đối với người Trung Hoa huyết thống là điều cực kỳ quan trọng, không có chuyện họ gọi người khác giống là tổ tiên được; ở đây cũng không thể có sự lầm lẫn, sự thực này không thể lý giải cách nào khác hơn là lịch sử Trung Hoa hiện nay là sai. Đọc sử Trung Hoa ta thấy còn nhiều bất hợp lý: Sau khi thống nhất Trung Hoa và lên ngôi, Tần Thủy Hoàng phái đại tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân vượt Hoàng Hà chiếm vùng Hà Sáo lập thành 44 huyện; Hà Sáo là phương bắc của Hoàng Hà, theo chính sử là đất của 2 nước Yên và Triệu, mà Yên và Triệu đã bị Tần diệt quốc có nghĩa là đất của Tần; thì Hung Nô đi lối nào mà vào tận Hà Nam. Thời Chiến Quốc không có một dòng sử nào nói đến việc có chiến tranh giữa Triệu và Yên hay Tần với Hung Nô, có một chi tiết nhỏ nữa trong sử ký của Tư Mã Thiên là tướng Mông Điềm sau khi chiếm được Hà Sáo đã cấm dân ở đấy thờ ….. (1 chữ đã bị xóa), dù chữ bị xóa là chữ “Phật” hay là gì đi nữa thì cũng nói đến một điều: dân ở Hà Sáo có tôn giáo khác với dân Trung Hoa nên Mông Điềm cấm; như thế họ không thể là dân nước Yên hay nước Triệu được, hay nói khác đi họ là ngoại nhân, hay là vùng bắc Hoàng Hà mà Tư Mã Thiên gọi là Hà Sáo đó không phải là đất của Yên, Triệu; suy rộng ra là trước thời Chiến Quốc, bắc Hoàng Hà không thuộc về Trung Hoa. Sử ký của Tư Mã Thiên còn ghi một việc nữa khiến người đọc không hiểu được: “Tần Thủy Hoàng sai làm một con đường từ ‘Cửu Nguyên’ chạy suốt đến ‘Vân Dương’ … sau đó sai đắp đá ở đất ‘Cử ’ thuộc Đông Hải làm cửa phía đông của Tần. Kinh đô của Tần ở tận Thiểm Tây bên bờ sông Vị gần với sa mạc tây bắc Trung Hoa, thì lấy biển ở đâu ra mà đắp đá làm cửa biển phía đông? Liên quan đến lãnh thổ Việt Nam sử ký cũng có một đoạn không thể hiểu nỗi: Lãnh thổ của Tần khi thống nhất Lục Quốc thì phía Nam đã đến miền “Bắc Hộ”… tức là miền nhà có cửa quay về hướng Bắc ý nói đã vượt qua xích đạo quá về phương Nam nên nhà mở cửa quay về hướng Bắc để đón ánh mặt trời. Các nhà nghiên cứu đều đồng nhận: miền “Bắc Hộ” là miền Trung Việt Nam ngày nay; như thế Việt Nam đã nằm trong lãnh thổ của Tần, vậy sao còn phái tới 50 vạn quân … đánh chiếm và lập thành 3 quận: Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận? Qua rất nhiều sự việc trên đã đến lúc ta mượn kết luận của những nhà nghiên cứu khoa học lịch sử và khảo cổ học Trung Hoa đưa ra một hướng nhìn mới rất táo bạo về đất nước và dân tộc Trung Hoa. Những hình khắc cảnh lễ hội, sinh hoạt trên trống đồng hoàn toàn đồng nhất với những gì mô tả trong Cửu Ca, có nghĩa là dân tộc có cảnh lễ hội được khắc trên trống đồng và được mô tả trong Cửu Ca là 1, nếu Cửu Ca, Sở Từ của dân “trống đồng” thì đương nhiên Kinh Thi và Ngũ Kinh cũng của dân “trống đồng”. Và cũng chính những nhà khoa học Trung Hoa này đã xác định: “Trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hoa (Hán) và là sản phẩm của những dân tộc ít người ở cực nam Trung Hoa”, đó là các dân tộc Tày, Thái, Liêu, hay Di Lão và vài dân khác… như vậy là đã thừa nhận chính những dân tộc ít người này mới là chủ nhân của Kinh Thi, mà đã là chủ nhân của Kinh Thi thì dĩ nhiên cũng là chủ nhân của Ngũ Kinh đồng nghĩa là chủ nhân của toàn bộ văn minh cổ của Trung Hoa. Chúng ta ai cũng biết Việt Nam là 1 trong 3 trung tâm của nền văn minh trống đồng, thậm chí có thể là trung tâm lớn nhất nữa. kết luận như vậy có quá vội vã không? Không đâu, cách đây vài chục năm học giả Henre Maspréso khi nghiên cứu về sinh hoạt lễ hội và phong tục tập quán của người Thái ở Việt Nam phải thốt lên: chắc chắn tổ tiên người Thái và người Trung Hoa cổ là một. Chỉ tiếc là nhận định của ông không được quan tâm và đào sâu thêm. Trước năm 1975, có một người dũng cảm lội ngược dòng đó là Linh mục Giáo sư Lương Kim Định, bằng kiến thức uyên bác và trực giác vô cùng bén nhạy ông đã dày công nghiên cứu và xuất bản cả một tủ sách về văn minh và nguồn gốc người Việt Nam… nhưng cũng chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc… Thực may mắn trong 10 năm gần đây ngày càng nhiều người can đảm làm việc “đội đá vá trời” đó là Nguyễn Hồng Sinh với “Kinh Dịch Phục Hy huyền diệu và ứng nghiệm” xuất bản năm 2003, là Nguyễn Vũ Tuấn Anh với “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” xuất bản năm 2002, là Nguyễn Thiếu Dũng, là Trương Thái Du với hàng loạt bài viết ngắn …,ở ngoài nước cũng có nhiều nhà nghiên cứu đang chú ý tới vấn đề này Tất cả nhằm tìm ra nguồn gốc đích thực của người Việt Nam và văn minh Việt Nam, dù còn nhiều nhận định, kiến giải khác nhau, nhiều chứng lý chưa đủ trọng lượng, kết luận chưa hiển nhiên, chưa đủ sức thuyết phục, nhưng ít nhất công sức của các vị trên cũng đã có kết quả, tạo nên sự khởi động để nhiều người vào cuộc, số người tham gia việc “đội đá vá trời” ngày càng tăng, cứ như thế tăng lên mãi thì chắc chắn có ngày “vá được trời”. Nguồn anviettoancau.com
  25. Tâm lý của người hỏi mà được 1 câu đúng là mãn nguyện lắm rồi . Phoenix đạt được 55% ĐÚNG ! ĂN XIỀN rùi . 1 chút tài = dầy công nghiên cứu + năng lực mới ĐÚNG được ngần ấy ! Đáng khen thay !