-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Bí mật về chai nước trong và bệnh điên kỳ dị Thứ ba, 6/5/2008, 07:00 GMT+7 Cho đến tận bây giờ, tôi cũng chưa biết đích xác cha tôi chữa "bệnh điên" cho người ta ra làm sao, bằng cách gì, dùng phương thuốc đặc trị nào? Đó là một căn bệnh khó chữa vào hàng bậc nhất nhì từ xưa nay, cho dù đó chỉ là một thứ bệnh lí về tâm thần, mất năng lực tự chủ, và không kiềm chế được hành vi. Ở quê tôi, nhiều người mắc căn bệnh này đã vào viện, hoặc chuyên khoa tâm thần khám và điều trị. Nhưng mãi không khỏi. Họ đành quay lại tìm đến cha tôi. Không chỉ chữa bệnh cho người, cha tôi còn có thể cầm máu, bắt giòi cho trâu bò. Khi chúng bị vắt rừng cắn, bị ngã xuống vực, đá đâm thủng ruột… Nếu không cứu chữa kịp thời, chỗ bị thương sẽ nhiễm trùng. Máu chảy mãi đến khi kiệt sức. Con giòi đục mãi vào thịt. Trâu bò sẽ lăn ra mà chết. Phải có đến sáu bảy chục năm, dù cha tôi không chuyên hành nghề nhưng vẫn thường xuyên đi chữa bệnh. Những người dân truyền tin cho nhau về khả năng kỳ lạ này, ngày một lan rộng. Cha tôi sẵn lòng giúp mà không kèm theo bất cứ một đòi hỏi vật chất nào. Những người bị điên được cha tôi chữa đều khỏi hẳn. Hiện nay họ đã thành ông thành bà, đang có cuộc sống bình thường và yên ổn như mọi người dân khác. Và họ vẫn quan hệ thân tình với người nhà tôi, suốt từ mấy chục năm nay. Hầu hết mọi người đều nhận làm con nuôi của cha tôi. Ngày cha tôi mất, khắp cánh đồng Bo Păn trước nhà tôi rợp một màu khăn tang trắng xóa. Người gánh gạo. Người gánh rượu. Người vác củi… nườm nượp mang đến giúp cho nhà tôi làm lễ tang cha. Một bầu không khí đau thương nặng nề trùm xuống. Nhưng bù lại, tình cảm mọi người dành cho chúng tôi thật thân tình, ấm áp. Nên nỗi buồn mất cha cũng dịu đi được phần nào. Có thể nói đây là một đám tang kỳ lạ nhất mà tôi được chứng kiến (Tôi từng được cha cho đi theo đánh trống đám ma từ lúc lên tám tuổi). Có ba ông thày tào. Sáu bà bụt luông. Họ đều là những học trò xuất sắc và tin cẩn của cha tôi. Năm ngày bảy đêm tưng bừng nhảy múa và ca hát. Trống chiêng não bạt ầm vang. Tiếng sóoc nhạc. Tiếng pí lè. Tiếng con ốc cạn. Tiếng sừng trâu út út vọng vào vách núi, không lúc nào ngưng nghỉ. Làm át đi những tiếng khóc thương cha thống thiết não nùng. Cây cỏ trên rừng cũng dỏng lá lên nghe. Chim chóc đậu đầy trên nóc nhà. Chúng ngừng im tiếng hót. Đá trên núi ngồi buồn xám ngoét. Mây trên trời vần vũ đớn đau. Chiều kéo ngày đi lằng lặng tối. Người người đi lại trong màn đêm đen như keo đặc. Chốc chốc lại có người đòi mang thóc ra cho ngựa. Gọi là ngựa nhưng kỳ thực đó là một con hổ lông xám. Gọi chệch đi cho đỡ sợ. Phải là người nhẹ vía thì mới trông thấy. Nó nhai thóc rau ráu. Ăn xong hổ lên quả đồi sau lưng nhà tôi choãi chân nằm phủ phục. Nó hít hà hương khói. Lắc lắc cái đầu. Ve vẩy cái đuôi. Lim dim đôi mắt. Khi vầng dương ánh lên le lói, ông ba mươi lẹ làng tan biến vào làn sương mỏng. Làn sương bay lên trời, cuốn theo một con hổ đang biến hình. Trong khi đó, các thày tào bà bụt vẫn miệt mài diễn tả lại toàn bộ cảnh sinh hoạt thường ngày khi cha tôi còn sống. Họ bắt chước ông giống y như thật. Từ giọng nói, tiếng cười, kiểu ngồi, dáng đi… đều là hình bóng cha tôi. Chứ không phải họ nhập vai theo một kịch bản nào. Đây rồi. Lũ người điên bắt đầu xuất hiện. Có người nuốt cả một hòn than đang hồng rực vào trong cuống họng. Có người đi chân không trên lưỡi dao mài sắc. Thế mà không cứa đứt một giọt máu tươi. Có người ngồi trên một mâm gai nhọn. Trên gai nhọn có phủ một tờ giấy mỏng. Họ khoanh chân ngồi theo kiểu kiết dzà. Không những ngồi im mà họ còn nảy cong cả người lên, lấy đà rơi xuống. Phập! Lại có người nhảy ào một đống than lửa đang cháy rực. Dùng cả hai tay bới lửa lên tung tóe. Nhưng tuyệt nhiên trên người họ không hề có vết bỏng. Chỉ thấy trên tóc, trên vai áo có bụi tro và tàn lửa rơi lốm đốm. Khi người đóng vai cha tôi xuất hiện. Ông lừng lững bước vào khuôn cửa. Những người điên nhất loạt đứng đâu ở yên đó. Không ai dám ho he nhúc nhích. Cha tôi cất tiếng gọi từng người. Họ khoanh tay vâng dạ. Ba mươi phút sau, họ hoàn hồn. Thu hết thần cuốn hết vía. Các ông thày tào bà bụt lại ngồi đàng hoàng uống rượu, bỏm bẻm nhai trầu và nói chuyện mùa màng. Lúc còn sống. Cả đời cha tôi chỉ biết thở và cười. Gặp ai cũng cười. Mở miệng là cười. Nuôi con từ bé đến lớn, ông không hề đánh mắng con cái. Không hề nặng lời với bất cứ ai. Ông bảo, ta được sống thảnh thơi ở trên đời này là một chữ phúc nhỏ. Được sống cùng với bao con người khác, giữa vạn vật và muôn loài, mới là chữ phúc to. Hãy biết quý rừng xanh mây trắng, sông suối hiền hòa. Bởi đó là nơi chốn đi về cả phần hồn lẫn thể xác. Hễ trông thấy đàn kiến đang đi, hãy nhường đường cho chúng. Mỗi con kiến là một sinh mạng. Thấy chữ rơi không được bước qua, mà phải thành kính cúi xuống nhặt lên và đem đốt đi. Chữ thánh hiền không được bỗ bã xúc phạm. Nhờ có chữ mà ta biết vì sao hạt thóc nhọn hai đầu. Trên đời này chỉ có hai thứ đen. Mắt người đen và chữ viết đen. Biết trọng chữ nghĩa mới là người có nhân cách. Thấy ai rách rưới, không được xem thường. Bởi vì chẳng may họ gặp vận hạn. Người ăn xin ăn mày đến nhà, phải mời người ta ở lại. Ta có gì thì cho họ ăn, cho họ uống và cho họ cái mặc. Ăn xin ăn mày cũng là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày. Ông nói rằng trên đời này không có ai là xấu. Chỉ có lòng tham, thói ích kỷ, sự hận thù là xấu. Hãy chuyển hóa những thứ đó thành phân, để bón tốt cho lúa đồng. Đã có nhiều người hỏi ông chữa bệnh điên bằng gì? Cha tôi chỉ cười mà chưa bao giờ nói. Phù phép chăng? Ai cũng cho rằng ông chữa bằng phù phép. Tôi cũng nghĩ thế. Ông vẫn chỉ cười. Khi tôi đã lập gia đình và sinh hai cháu nhỏ. Có lần tôi hỏi dùng thuốc gì mà chữa được bệnh điên. Ông trầm ngâm, lặng đi một lúc lâu. “Con là người nóng tính. Ham hố nhiều như tóc. Riêng điều này con không thể học và làm được.” Ông giảng giải “Cha không chữa bằng thuốc. Mà bằng trái tim. Con hiểu không. Trái tim yêu thương con người. Trái tim phải rộng lớn mới mong làm được điều đó.” Thấy có vẻ sách vở lý thuyết và mông lung xa vời quá, tôi bèn thưa lại. “Mọi người vẫn cho rằng cha có phù phép. Hồi nhỏ cha được đi học với ông thầy Vườn Luông?” Cha nhỏ nhẹ. “ Đúng là có học. Học từ năm mười hai đến hai lăm tuổi cha mới về quê cưới mẹ con. Nhưng chỉ học chữ nho để về làm thày tào. Ông Vườn Luông là một ông thầy cao tay. Không chỉ giỏi chữ mà còn giỏi cả phù phép.” Tôi vội vàng. “Cha có học phù phép không?”. “Có! Nhưng phù phép chỉ để trừng trị yêu quái. Sao có thể chữa cho người được.”. Tôi còn được nghe mẹ kể nhiều lần về ông thầy Vườn Luông. Đó là một người tài cao đức dày. Không mấy học trò theo được. Chỉ có cha tôi là người hiền lành nhất, trung thực nhất và rất sáng dạ. Nên ông Vườn Luông tin yêu cha tôi hơn cả trong đám học trò. Kể từ đấy ông Vườn Luông truyền hết bí mật ngón nghề cho riêng cha tôi. Thuốc là một chai nước lã trong vắt. Biết rằng tôi chưa tin chuyện đó là có thật. Một lần ông cho tôi xem cách bốc thuốc chữa bệnh. Thuốc là một chai nước lã trong vắt. Cha tôi múc từ dưới mỏ nước mang về. Rồi gọi người nhà đốt ba nén nhang mang lên cho ông. Ba nén nhang kẹp vào mang tai. Ông ngồi thẳng lưng thẳng cổ như kiểu ngồi tòa sen. Chỉ thấy ông nhắm hờ hai mắt, bất động toàn thân. Bây giờ tôi mới biết đó là tư thế ngồi Thiền. Tôi căng mắt theo dõi từ đầu. Không thấy ông bỏ bất cứ vật gì vào chai nước. Khoảng nửa tiếng sau, ba nén nhang cháy vừa hết, ông lấy hơi từ lồng ngực sẽ sàng thổi vào chai. Vẫn thế. Chỉ có chai nước trong suốt. Không màu. Không mùi. Không vị. Nhưng mang cho người điên uống, dăm ngày sau họ không còn quậy phá nữa. Nói năng từ tốn hơn. Cử chỉ hành tung trở lại bình thường. Thật khó tin! Nhưng đó là điều có thật. Người điên uống vài ba chai nước là khỏi, nhưng sau đó chủ nhà còn phải sắm sửa một đêm cúng Trời Phật. Cha tôi ngồi hát từ mờ đêm đến sáng. Bài mo chỉ nói về hồ nước. Hồ nước đục. Vì sao hồ nước đục. Bây giờ ta phải làm cho hồ nước trong. Hãy giữ cho hồ nước trong. Hồ nước trong sẽ nhìn thấy đáy… Chẳng cần chạy chữa gì cả, vì tâm có sẵn ta rồi. Hãy buông bỏ mọi ham muốn buồn phiền. Hãy thảnh thơi vui tươi như hoa trái… Lời văn giản dị dễ hiểu. Đi liền với giai điệu, tiết tấu của tiếng chập cheng choong nào*. Trong ánh nến lung linh mờ ảo. Một không gian huyền bí mà cha tôi đưa người đời đi từ bờ ảo sang bến thực. Rõ ràng ông đã cảm hóa cái xấu bằng cái đẹp. Cảm hóa cái ác bằng cái thiện. Chuyển hóa cái rối tinh mù mịt bằng cái trật tự và lắng đọng. Chuyện rõ ràng như ban ngày, chẳng hề liên quan đến thần linh mê tín . Hứa hiếu Lễ ( nguồn vietimes )
-
1). PHONG THỦY VÀ THUẬT PHONG THỦY Phong Thủy mà người ta thường gọi trên thực tế bao gồm hai ý. Có khi chỉ địa hình tốt, phong cảnh tốt. Khi đi chơi trên sông Ly, người ta thường buột miệng khen: “Phong thủy đẹp”. Có khi, Phong Thủy là để chỉ thuật phong thủy, tức là lý luận và thực tiễn Phong Thủy. Ví dụ, người ta ói ông này ông nọ giỏi Phong Thủy, ông Mỗ nghiên cứu Phong Thủy, ông Mỗ kiếm cơm bằng Phong Thủy. Nghiêm túc mà nói, Phong Thủy khác với thuật phong thủy. Phong Thủy là tồn tại khách quan. Thuật phong thủy là hoạt động chủ quan đối với khách quan. Bản thể của Phong Thủy là thiên nhiên, bản thể của thuật phong thủy là con người. Vì thói quen, mọi người đã nhập làm một Phong Thủy với thuật phong thủy, thì ta cũng không cần tách bạch ra. Có điều, chú ý xem người ta khi bàn về Phong Thủy là nơi khách quan hay chủ quan, để hiểu người ta nói theo nghĩa nào. Phong Thủy là một thuật ngữ đã được xác định. Quách Phác đời Tấn là người đầu tiên giải thích. Quách Phác trong “Tánh kinh”, viết: “Tánh” (chôn) là đón sinh khí. Khí gặp phong (gió) tất tán, gặp nước ngăn lại tất dừng. Có nhân tụ khí lại không cho tán, vận hành khí mà có sự dừng, vì vậy gọi là Phong Thủy. “Vậy đón là đón thế nào? Tụ như thế nào? Thế nào là Phong? Thế nào là Thủy?” Quách Phác không bàn tiếp. Phong, là hiện tượng không khí chuyển động. Thủy, là dòng nước. Khí, tức là nói địa khí (khí đất). Sinh khí, tức là địa khí có sinh cơ (sức sống). Đón sinh khí, là tìm kiếm hoặc lợi dụng địa khí có sinh cơ (sức sống). Phong Thủy là môn thuật số đón nhận sinh khí. Phạm Nghi Tân người đời Thanh, chú giải “Táng kinh” của Quách Phác viết: “Không có nước thì gió đến mà khí tán, có nước thì khí dừng mà không có gió, do vậy hai chữ Phong Thủy là quan trọng nhất trong môn địa học, mà trong đó đất mà có nước là tốt nhất, Đất mà tàng phong (có gió ẩn nấp) thì kém hơn”. Như vậy là nói vấn đề then chốt của xem đất là vì có nước mà tụ khí, nếu không có nước, hễ gió thổi là khí tan đi. Chỉ cần có nước, khí sẽ tụ lại, dù gió cũng không thổi khí đi. Đất mà có nước tốt nhất, đất tránh được gió thì kém hơn. Vì vậy, các thầy Phong Thủy xưa nay, bao giờ cũng bắt đầu từ long mạch, long mạch là khí của đất, khí do nước dẫn mà đến, khí do nước cản mà bị ngăn lại, khí tụ lại, không có gió làm tan ra. Có sinh khí, người chôn ở đó liền có phúc ấm. Ngày xưa, dân gian dùng rất phổ biến cái từ Phong Thủy, còn quan lại thì không hẳn như thế. Trịnh Hòa đời Minh đi sứ Tây dương, đi theo trên thuyền có viên quan làm công việc Phong Thủy. Nhưng viên quan đó phụ trách quan sát gió và nước (Phong Thủy) khác với Phong Thủy ta vẫn hiểu. (2) HÌNH PHÁP “Hán thư – Nghệ văn chí” có loại Hình pháp. Thế nào là Hình pháp? Sách “hán thư – Nghệ văn chí” viết: “Hình pháp, là lấy cái thể Cửu châu mà dựng cái hình của thành, quách, nhà cửa, là phép đo đếm xương người và lục súc, là hình dáng của khí vật, để cầu thanh khí sang hèn, lành dữ. Cũng như luật (âm luật) có dài ngắn, mà mỗi luật biểu thị một thanh (âm thanh), không phải là do quỉ thần, thì là tự nhiên nó như thế. Vậy hình và khí như đầu với đuôi, cũng có khi có hình mà không có khí, có khí mà không có hình, tinh vi đến thế chỉ có một”. Diêu Minh Huy trong “Hán chí chú giải”, viết: “Lấy cái thế của Cửu Châu mà dựng thành quách, nhà cửa, tức xem đất, xem hình”. Loại hình pháp có sách “Cung trạch địa hình”, hai mươi quyển (thất truyền). Học giả Nhật Long Xuyên Tư Ngôn đã từng khảo chứng về sách này, viết: “Sách viết về phương vị Phong Thủy”. Hình pháp chỉ diện mạo, không chỉ nói riêng về đất. “Tứ khố toàn thư tổng mục – thuật số” nói rất rõ: “Hình pháp đề cập cả tướng người tướng vật, không chỉ riêng tướng mà nhà tướng đất, cùng thuộc loại giả tá (vay mượn từ)”. Ngoài “Hán chí”, trong xã hội rất ít dùng cái từ Hình pháp. (3) KHAM DƯ Từ Kham Dư xuất hiện sớm nhất ở “Sử ký – Nhật giả liệt truyện”, Chử tiên sinh chép: “Thời Hiếu Vũ Đế, triệu tập các chiêm gia lại hỏi ngày nào thì có thể lấy vợ? Nhà Ngũ Hành nói được, Nhà Kham Dư nói không được. Nghĩa gốc của Kham Dư là trời đất. Kham là trời, Dư là đất. Trong “Văn tuyển – Cam tuyền phú chú”, Hoài Nam Tử viết: “Kham Dư hành hùng (sống) để biết thư (mái)”. Hứa Thuận nói: “Kham là thiên đạo (đạo trời), Dư là địa đạo (đạo đất)”. “Sử ký – Tam vương thế gia sách ẩn”, viết: “Gọi đất là Dư, trời đất có cái đức bao trùm (phúc cái), do đó gọi trời là Cái, gọi đất là Dư”. Chu Tuấn Thanh người đời Thanh viết trong “Thuyết văn thông huấn định thanh”: “Cái Kham ở trên cao, Dư ở dưới thấp, nghĩa là trời cao đất thấp”. Kham, ngoài nghĩa là trời, còn có hai nghĩa nữa. Một, nghĩa là đột (xuyên). “Tuyết văn – bộ Thổ” viết: “Kham, nghĩa là đất nhô cao, bộ Thổ, âm Thậm”. Đột nghĩa là xuyên, hoặc nghĩa là chỗ lõm, gọi là địa hãm (chỗ đất trũng). Hai, nghĩa là khám, xem xét (điều tra cơ bản trên thực tế đất đai), hai từ này đồng nghĩa. Dư, từng mượn chữ Dư (thừa) để viết: “Tùy thư – Kinh tịch chí”, phần ba, “Bộ tí, Ngũ hành loại”, chép “Kham Dư (lịch chú)”, “Địa tiết kham dư (thừa)”, đây thực tế là sách lịch. “Hán chí” có chép “Kham Dư kim quĩ” mười bốn quyển (thất truyền). Long Xuyên Tư Ngôn khảo chứng, cho rằng: “Sách nói về phương vị Phong Thủy”. Học giả thời Hán thường bàn luận về Kham Dư, Kham Dư ở đây không hẳn có nghĩa là Trời Đất, mà thường là để chỉ quỷ thần. “Hán thư” quyển 87 dẫn “Cam tuyền phú” của Dương Hùng “thuộc Kham Dư dĩ bích lũy từ, tiêu khôi hư nhi xi cúc mông”. Mạnh Khang chú giải, viết: “Kham Dư là tên thần, làm ra Đồ Trạch thư”. Kham Dư là vị thần làm ra Đồ Trạch thư. Đồ Trạch thư đã thất lạc. Vương Sung đời Hán trong sách “Luận hành – Cáo thuật thiên” đã dẫn nguyên văn một đoạn trong Đồ Trạch thư. Đoan một: “Thuật đồ trạch nói rằng: Trạch có tám thuật, lấy danh số lục giáp mà xếp theo thứ tự, thứ tự lập theo tên gọi, cung thương phân biệt rõ ràng. Trạch có ngũ âm, Tính có ngũ thanh, Trạch không hợp với Tính, thì tính và Trạch chống đối nhau, tất tật bệnh tử vong, phạm tội gặp họa”. Đoạn hai, “Thuật đồ trạch nói rằng: Cửa nhà buôn không mở về hướng nam, cửa quan không mở về hướng bắc”. Qua hai đoạn văn trên đây, thấy rất rõ thuật đồ trạch có liên quan đến những cấm kị về nhà ở trong thuật phong thủy, mà Kham Dư là thần quái sáng tạo ra thuật phong thủy. (4) THANH NANG Thanh nang vốn là cái túi màu đen đựng sách của nhà tướng thuật thời cổ, sau mượn từ này chỉ nhà tướng thuật, rồi lại mượn tên ấy để đặt tên sách, rồi trở thành biệt hiệu của Phong Thủy. “Tấn thư – Quách Phác truyện” chép: Có một ẩn sĩ tên Quách Công truyền thụ cho Quách Phác bộ “Thanh nang trung thư” gồm 9 quyển. Về sau, truyền lại hậu thế quyển “Thanh nang kinh”, chuyên nói về Phong Thủy. Trần Tử Ngang đời Đường trong “Trần Bá Ngọc tập” có câu: “Truyền đạo tìm bạn Tiên, Thanh nang đem quẻ tới bán”. (5)THANH Ô Đời hán có một đạo sĩ tên là Thanh Ô Tử,nghe nói ông soạn ra”Táng kinh”,hậu thế tôn ông làm tổ sư , lấy sách của ông làm kinh điển. Cảnh Dữu đời Bắc Chu, trong (Cảnh Tử sơn tập), có câu “Thanh Ô xem bói Giáp Ất , Bạch mã biến mất như sao”.”Cựu Tấn thư – kinh tịch chí” chép,”Thanh Ô tử”gồm ba quyển .Liễu Tông Nguyên đời Đường có thơ:”Núi Cấn,sông Đoài, linh xa,đương phản thử.Tử tôn vạn đại thừa linh chỉ, ai nói câu này:” Thanh Ô tử”. Có thể Liểu tông đã đọc”Thanh Ô Tử”. Lưu Vũ Tích – nhà thơ đời Đường, tại “Lưu mộng đắc tập” có câu: “Đất chọn được hình thế mà Thanh Ô đã bàn, thì ở tân (đối diện với huyệt) cò trắng giật mình bay đi”. Vương Quan đời Đường, trong “Hiên Viên bản kỷ” nói: “Khi Hoàng Đế chia đất thành các châu, có Thanh Ô Tử giỏi tướng địa, nhà vua hỏi rồi làm ra sách kinh”. 6) TƯỚNG TRẠCH Đời Tiên Tần quen gọi tướng địa là tướng trạch. Trạch, “Thuyết văn” giải thích: “Trạch là chỗ ngụ, bộ, âm cách”, nghĩa là nơi ở. Trạch vốn có nghĩa gốc là nơi ở của người đang sống “Thượng thư – Chiêu cáo tự” chép: “Thành Vượng ở đất Phong, muốn đến ở Lạc ấp, sai Chiêu công xem đất trước”. “Truyện” chép: “Xem bói chỗ đất ở. “Tả truyện – Chiêu công năm thứ ba”, chép: “Nhà của ông gần chợ, ướt át bụi bặm, không ở được”. Những chuyện trên là chỉ nhà ở. Người ta khi chết cũng muốn có một chỗ để an giấc ngàn thu, thế là trạch lại dùng để chỉ huyệt mộ. “Lễ ký – Tạp kí” chép: “Đại phu bói để chọn đất mộ và ngày chôn”. “Ghi chú”: “Trạch là nơi mai táng”, “Hiếu kinh – Táng thân” chép: “Xem bói để chọn đất an táng”. “Chú giải”: Trạch là huyệt mộ”. Từ Hán trở đi, người ta gọi nơi chôn người chết là trạch. “Quảng nhã – Thích khưu” chép: “Trạch triệu, là nơi chôn cất, là đất chôn”. Trên thực tế, thuật tướng trạch gồm hai mặt, một là chỗ ở cho người sống (dương trạch), hai là đất chôn cho người chết (âm trạch). Hai chuyện có chỗ giống nhau là tướng địa cho người, sau khi tướng địa còn phải làm một số việc xây dựng; chỗ khác nhau là dương trạch cho người sống, âm trạch cho người chết. Tướng dương trạch còn có ý nghĩa nhất định, tướng âm trạch thì hoàn toàn vô nghĩa. 7) TƯỚNG ĐỊA Địa, tức địa lý. Thầy Phong Thủy thường được gọi là thầy địa lý. Thời cổ, địa lý thường dùng để chỉ những công việc về Phong Thủy. Lý Quốc Mộc đời Minh, soạn “Địa lý đại toàn”, Đoan Mộc Quốc Hô đời Thanh biên soạn sách “Dương tằng địa lý nguyên văn tứ chủng”; Khấu Tôn Nhiếp đời Thanh soạn “Cúc dật sơn phòng địa lý chính thư”. Các sách này đều không được đưa vào Kham Địa loại (loại sách Địa lý) của bộ Sử, mà lại đưa vào phần thuật số của bộ Tí, vì rằng các sách đó chỉ bàn về Phong Thủy. Chúng tôi cho rằng, không thể vạch rõ ranh giới hoàn toàn giữa tướng địa và thuật phong thủy. Vì rằng: Về thời gian, tướng địa ra đời trước thuật Phong Thủy. Ngay từ thời kỳ xã hội nguyên thủy, vì muốn có tư liệu sinh hoạt, vì muốn sống yên ổn và dễ chịu, con người đã bắt đầu tướng địa. Họ đi khắp nơi chọn chỗ đẹp nhất để ở. Họ quan sát hình thế núi sông và sự biến đổi của cây cỏ đất đá, đó chính là tướng địa. Thuật phong thủy là do hậu thế nghĩ ra, chúng tôi xin bàn trong thiên lưu hành. Về mặt phạm vi, tướng địa mang tính rộng khắp, từ nông nghiệp, săn bắt cho đến thành quách nhà ở, lữ hành, quân sự, đều phải thông thạo tình hình đất đai, mà Phong Thủy chỉ ứng dụng vào mồ mả.Về mặt phương pháp, tướng địa có tính nghiêm túc, phải quan sát kỹ lưỡng từng ngọn núi dòng sông, đánh giá một cách thực sự cầu thị. Còn Phong Thủy thì mang nặng tính chủ quan, chỉ dựa vào ý tưởng trong đầu, giải thích một cách tùy tiện các hiện tượng địa lý. ( còn tiếp )
-
Những bài viết trên không có tên tác giả Wild copy từ :http://www.horea.org.vn/muctinkhac_ct.php?id=18366. ACE xem và tham khảo .
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA PHONG THỦY Trong quá trình lưu hành, Phong Thủy có những đặc điểm nổi bật dưới đây: (1) TÍNH PHỔ BIẾN Ngược dòng thời gian, quan niệm Phong Thủy bắt đầu từ Tiên Tần, kéo dài đến tận bây giờ, vẫn có ảnh hưởng tới hậu thế, thậm chí sang thế kỷ 21 chưa thể mất đi. Nếu chỉ tính từ đời Hán thì Phong Thủy đã có hơn hai ngàn năm lịch sử, trong đó thời kỳ hưng thịnh là từ Nam Bắc triều đến đời Thanh. Nhìn theo chiều ngang là các địa vực thì lưu hành cả nước, trong đó Giang Tây, Phúc Kiến, An Huy, Chiết Giang của Giang Nam là trung tâm. Nay lại có người nói rằng, thuật phong thủy bắt đầu từ cao nguyên hoàng thổ ở miền bắc, quan niệm về Phong Thủy có từ thời kỳ hang động. Nếu như thuyết này đứng vững, thì thuật phong thủy bắt đầu từ miền bắc, hình thành lý luận và trường phái thì ở miền nam, cả nước có hai trung tâm. Về dân tộc, thì Hán tộc là chính, thâm nhập vào các dân tộc ít người, hòa trộn với các quan niệm của tộc ít người về mồ mả, nhà ở. Các dân tộc ít người vào làm chủ trung nguyên, bi văn hóa trung nguyên ảnh hưởng và đồng hóa, dần dà tin Phong Thủy. (2) TÍNH THẦN BÍ Thuật phong thủy trên xem thiên văn, dưới xét địa lý, vận dụng học thuyết thái cực, âm dương, tứ tượng, bát quái, ngũ hành, tinh tượng cực kỳ bí hiểm để dựng nên một hệ thống lý luận, rồi đưa vào đó những thuật ngữ long mạch, minh đường, sinh khí, huyệt vị v.v…, lại áp dụng nguyên lý chỉ nam để làm ra la bàn. Tất cả những cái đó đều là thần bí đối với quần chúng mê muội. Không chỉ có vậy, các thầy Phong Thủy còn thêu dệt rất nhiều câu chuyện ly kỳ, hoặc gán ghép những quan niệm Phong Thủy vào các sự kiện lịch sử, hoặc ra sức thổi phồng những sự kiện lịch sử ngẫu nhiên trùng hợp với quan niệm Phong Thủy, tô vẽ lên đó màu sắc kỳ ảo, để dân chúng càng cảm thấy thần bí. Hai nghìn năm nay chưa ai nghiên cứu toàn diện về Phong Thủy, chưa có ai gỡ bỏ hoàn toàn cái áo khoác thần bí của thuật phong thủy, chưa có ai làm rõ chân tướng của thuật Phong Thủy. Vậy là, thuật Phong Thủy càng trở nên bí ẩn. (3) TÍNH PHỨC TẠP Lý luận và thực tiễn Phong Thủy vô cùng phức tạp. Câu cửa miệng là “Ba năm tướng địa, mười năm điểm huyệt”. Mười ba năm mới xác định được huyệt, đó không phải là bản lĩnh thông thường. Người thầy phong thủy nhờ thuật phong thủy kiếm ăn cả đời, nếu họ tự vấn cũng không trả lời được Phong Thủy là gì, rồi thì các thuật ngữ, những cấm kỵ, rối rắm tít mù, đúng là “Cắt không đứt, lý lẽ càng loạn”. Lý luận không hệ thống, tư duy không nghiêm chỉnh (phần lớn là nói láo), thuật ngữ không tiêu chuẩn, bộ khung không bình thường, dụng cụ không thống nhất, nghi thức không cố định, kinh điển không nghiêm túc, học thuật không đoàn thể, không có nhân vật quyền uy, có chăng chỉ là bịp bợm kiểu giang hồ, mỗi người một phách, nói năng tùy tiện, khích bác lẫn nhau, tự mình mâu thuẫn, ai cũng khoe mình giỏi, ra sức huênh hoang. Họ mà nắm Phong Thủy, làm gì mà chẳng phức tạp? Thêm vào đó, cho đến nay chưa hề có quyển sách nào dùng lời lẻ thông thường giới thiệu thuật phong thủy một cách toàn diện, chúng ta chỉ có thể tìm đọc một số sách cổ không theo một tiêu chuẩn nào. Những sách này đầu cá vá đầu tôm, câu trước không ăn nhập với câu sau, chữ sai be bét, những từ lạ hoắc cứ thế tuôn ra, từ duy nhất thì không lo-gíc, cố ý dùng câu chữ mập mờ, quả thật khó đọc, khó hiểu, khiến người đọc đau đầu buốt óc, như đi trong sương mù. Một số đoạn, vì người viết lung tung, nên hiện nay ta không thể làm rõ, sau này cũng khó mà hiểu nổi. Thật ra, cũng không cần phải hiểu, vì tội gì mà tự dìm mình trong vũng bùn? (4) TÍNH BỊP BỢM Muốn bán rao thuốc cao thì phải tán dụng thuốc cao lên tận mây xanh, nếu không, dễ ai bị mắc lừa? Thuật Phong Thủy cũng vậy, họ mượn học thuyết thái cực, lục lọi trong kinh điển nho gia của xã hội phong kiến, làm chỗ dựa để tuyên truyền luân lý hiếu đạo, nào là “Mai táng là đại sự của người đời”, chỉ mai táng nơi đất có sinh khí, người chết mới được yên ổn, người sống mới được phú quí. Thầy Phong Thủy làm ra vẻ từ tâm, quan tâm đến người khác, cứu vớt sinh linh, để lung lạc nhân tâm. Họ tướng địa cho người ta, miệng nói như tép nhẩy, ngày phát phúc thì nói rất xa, điều cấm kỵ thì nói rất nhiều. Nếu người ta không phú quí, hoặc gặp tai họa, thì họ viện đủ các lý do, dựa vào ba tấc lưỡi, thuyết người ta phục sát đất, vốc từng nắm tiền biếu thầy. Lại còn những sách Phong Thủy nói là gia truyền, chính tông, đều là con người đưa người vào bẫy. (5) TÍNH NGOAN CỐ Từ khi ra đời đến nay, thuật Phong Thủy đã bị rất nhiều nhà duy vật đả kích, từ Vương Sung đến Hùng Bá Long đều đã có bài phê phán, tiếc rằng chưa đánh gục. Nước Trung Quốc mới sau khi thành lập, cùng với việc quét sạch mê tín phong kiến, thuật Phong Thủy cũng bị đả kích nặng nề, rơi vào tình trạng co lại. Với người thành thị, hoặc người có văn hóa, thuật Phong Thủy đã biến thành dòng nước ngầm, tiềm ẩn trong nông thôn, tồn tại trong đầu mọi người và thể hiện bằng hành động. Rất nhiều người cho rằng Phong Thủy là dân tục, tin tốt hơn là không tin; không tin hoàn toàn, nhưng không thể không tin. Các cán bộ thôn trấn không thể đả thông tư tưởng cho họ, bản thân một số cán bộ lại rất tin Phong Thủy. Thôn trang của Trung Quốc, nói chung một họ một thôn, người trong thôn là đồng tôn, thôn nọ với thôn kia có quan hệ hôn nhân. Hình thức cư trú kiểu cũ ấy, nếu định bài trừ các tập cổ hủ, e rằng rất khó. Mấy ngàn năm văn hóa truyền thống, phương thức sinh hoạt sản xuất nhỏ, khiến người ta nhìn nhận những tập tục cũ là bình thường, hợp lý. Khi bạn thấy ở nông thôn người ta mời thầy Phong Thủy cắm đất, đốt vàng mã ở mộ rồi lễ bái sì sụp, mà đến can ngăn thì chắc chắn bạn sẽ bị chửi rủa thậm tệ, hoặc bị họ nện cho một trận, bạn sẽ bị cả họ nhà người ta coi là kẻ thù. Mấy chục năm nay Đảng và Chính phủ kêu gọi thay đổi tập tục, tuyên truyền “Khi sống nuôi nấng đầy đủ, khi chết chôn cất đơn giản”. Với người già, lúc còn sống thì hưởng thụ đầy đủ, khi chết ma chay tiết kiệm, đây là một chính sách tốt. Nhưng một số thôn dân cứ làm ngược lại, đối xử khinh bạc, thậm chí ngược đãi người già khi còn sống, nhưng khi họ chết lại ma chay linh đình, khóc than thảm thiết. Người ta không thể không đặt câu hỏi, làm như vậy để cho ai xem? Cho người đã chết hay người đang sống? Người chết thì thấy gì? Như vậy là tận hiếu ư? Xây cất phần mộ nguy nga, lãng phí tiền bạc, làm chuyện mê tín, mà lại cho rằng thế là thiên kinh địa nghĩa, thì quả là ngu. Có thể quả quyết rằng, nếu không có biện pháp tích cực về đường lối tuyên truyền hữu hiệu, thì thuật Phong Thủy còn tồn tại lâu dài trong nhân dân. (6) TÍNH BẢO THỦ Các thầy Phong Thủy rất bảo thủ. Họ lấy cớ “gia truyền”, cho rằng “Không thể tiết lộ thiên cơ”, dùng phương thức “chỉ truyền nghề cho một người” để thu nạp học trò, giữ bí mật nghề nghiệp. Đời Đường, Tống ở Phúc Kiến có một người thi trượt rủ nhau đến Giang Tây học Phong Thủy, nhưng đều bị thầy giấu nghề không học được gì. Họ đành tự đi khảo sát, căn cứ vào địa hình của các lăng mộ nổi tiếng để tổng kết thành lý luận, trở về Phúc Kiến lập ra một trường phái mới, và cũng không truyền thụ cho người ngoài. Những người quá tin vào Phong Thủy, mà lại có của, nhất định để trong nhà thi hài của cha mẹ, ông bà, thậm chí cụ kị, vì chưa tìm được đất tốt. Với những gia đình nghèo, tuy ăn đói mặc rách nhưng để có được miếng đất tốt về Phong Thủy, họ vay nợ, bán ruộng, bán con. Thầy Phong Thủy thì lại đem những điều cấm kỵ ra trói chăn trói tay họ, nào là “long mạch tuy được, nhưng địa khí bốc thẳng, không kết”, “địa huyết tuy tốt, nhưng sa thủy quay đi, không kết” v.v… khiến anh không biết đâu mà lần. Xây nhà cũng vậy, không được cao quá, không được nhô ra phía trước không để nhà người khác chĩa góc vào nhà mình. Không làm nhà bên lề đường không xây nhà bên bờ đầm, trong sân không được có một cây. Hồ này không đào được núi kia không đào được. Hôm nay không được đi về hướng tay, ngày mai kiêng đi hướng bắc. Giờ dần không được đẻ, giờ thìn được khóc, cười v.v… Hơi một tí là kiêng, vậy sống ở đời làm gì! (7) TÍNH THỰC DỤNG Với thầy Phong Thủy, hành nghề tướng địa là để kiếm cơm, khi cắm đất cho người ta thấy không những được ăn uống thỏa thuê, đưa đón bằng kiệu, lại còn được tiền. Tiền càng nhiều thì xem càng kỹ, vậy mới gọi là “căn cứ vào tiền thù lao mà tướng địa”. Chính vì vậy mà trong xã hội phong kiến có rất nhiều kẻ sĩ bằng lòng với cái nghề không đẹp mặt này. Về phía nhà chủ, tuy biết rằng chuyện lành dữ là hư ảo, nhưng không ngại hao tài tốn của, mong rất nhanh “đánh đổi” được hạnh vận. Tuy trước mắt chưa thấy phúc ấm ở đâu, nhưng trong lòng cảm thấy yên ổn, lúc nào cũng tâm niệm “Thấy X đã nói mộ nhà mình tốt, chỉ vài năm ta sẽ phát tài bất ngờ, ta sẽ đổi đời…” Giấc mơ quả là đẹp! Có lẽ một trong những nguyên nhân khiến thuật Phong Thủy bám trụ một cách ngoan cố là do tính thực dụng này. nguồn horea.org.vn
-
SỰ QUI THUỘC CỦA PHONG THỦY) Mỗi loại văn hóa đều có qui thuộc của nó, Phong Thủy cũng có qui thuộc riêng. Thời cổ, Phong Thủy qui thuộc âm dương học, địa lý học, thuật số. Âm dương học và âm dương gia (nhà âm dương) có phân biệt. Tiên Tần chư tử có âm dương gia, người sáng lập là Trâu Diễn, Trâu Thí v.v… Trâu Diễn còn có tên Đàm Thiên Diễn (ông Diễn bàn về trời). Tư tưởng của ông gồm ba phương diện: một là Thiên luận, bàn về thiên văn tinh lịch; hai là Địa lý luận, bàn về đại cửu châu (chín Châu lớn); ba là, bàn về âm dương ngũ hành, Học thuyết của âm dương gia còn bao gồm độ số học âm dương, bốn mùa, tám phương vị, mười hai độ, hai mươi bốn thời và thuyết ngũ hành về thủy chung ngũ đức. Âm dương gia và thuật tướng địa có quan hệ với nhau trực tiếp và sâu sắc. Nhưng những người hiểu biết đôi chút về Phong Thủy đều biết rằng, lý luận Phong Thủy chịu ảnh hưởng tư tưởng của các âm dương gia. Âm dương gia xưa nay vẫn bị giới cầm quyền bài bác, và trong dân gian, phạm vi lưu hành cũng bị hạn chế. Âm dương học được xác lập cách đây 700 năm. Năm thứ 28 đời Chí Nguyên của triều Nguyên (năm 1291), triều đình chuẩn y như đối với Nho học, y học, thiết lập âm dương học ở các lộ (khu vực hành chính cơ sở). Âm dương học bao gồm thiên văn, xem thời tiết, bói toán, tướng trạch (xem đất làm nhà, để mả), xem ngày v.v… Như vậy, Phong Thủy được liệt vào loại học vấn. Đến triều Minh, năm Hồng Vũ thứ 17 (năm 1384), triều đình chính thức đặt chức quan âm dương học, mỗi phủ châu huyện có một người phụ trách việc giảng dạy và quản lý công việc về âm dương học. Triều Thanh nối tiếp công việc này. Phong Thủy lại có thể qui về Địa lý học. Thời xưa, địa lý học bị người ta coi thường, là môn phụ của sử học. Đến triều Minh, Thanh, địa lý học dần dần mới phát triển. Địa lý học Minh Thanh chưa chặt chẽ, có thể nói những vấn đề địa lý còn rất pha tạp. Phong Thủy là học vấn về tướng địa, đề cập tới núi non sông ngòi, liền bị gom vào môn địa lý. Ta xem mục lục sách, thường thấy sách về Phong Thủy trong loại địa lý, rất nhiều sách Phong Thủy lưu lại đời sau dưới cái tên “địa lý”, như “Địa lý đại toàn”, “Địa lý chân quyết” v.v… Phong Thủy còn bị qui vào thuật số của chu tử. Thời xưa, toàn bộ học vấn đều qui vào bốn loại lớn: Kinh, Sử, Tử, Tập. Trong bộ Tử có thuật số. Ngày nay ta đều biết thuật số là gì, vì rằng nó không còn là một học vấn. Lại có người cho rằng, thuật số là treo đầu dê bán thịt chó. Thực ra, đó chỉ là thiên kiến. Trong thuật số quả thật có một số hoạt động mê tín mà các phương sĩ truyền bá, như đoán mệnh, lên đồng, nhưng nó cũng có nội dung khoa học, như thiên văn và lịch pháp, nông sự, khí tượng v.v… Đây cũng là tinh hoa của văn hóa Trung Hoa, ta không nên “Vơ đũa cả nắm”. Mỗi triều đình đều xây dựng rất nhiều nha môn. Những người giỏi Phong Thủy và quản lý những vấn đề về Phong Thủy đều làm việc tại Ty thiên giám. Ty thiên giám phụ trách khí tượng kiêm tướng địa. Các lăng mộ đời Thanh đều do các yếu nhân tòa Ty thiên giám đích thân tướng địa và chỉ đạo xây dựng. Ngày nay, môn học truyền thống đã bị khoa học cận đại thay thế và đổi mới. Ty thiên giám không còn nữa, chỉ có đài thiên văn và cục khí tượng. Sự phân chia kinh, sử, tử, tập đã bị đào thải, cách chia ấy chỉ còn ở loại sách đóng bằng chỉ (sách ngày xưa). Âm dương học cũng không còn, mọi người nghe nói đến âm dương học là cảm thấy ớn. Địa lý học với tư thế hoàn toàn mới mẻ, ngạo nghễ tiến lên bằng những bước đi khoa học chuẩn xác, bỏ lại Phong Thủy phía sau, và cảm thấy hổ thẹn vì trước đây có một đồng ngũ trà trộn trong cơ thể cao quí của mình. Vậy đấy, thuật phong thủy đã thành một đứa trẻ lưu lạc không nhà không cửa. Là một chủng loại văn hóa trong lịch sử, một hiện tượng tồn tại một cách ngoan cường trong xã hội hiện đại, ta không có lý do để Phong Thủy mãi mãi đứng ngoài học thuật, không để nó sống lang thang trong trời đất, mà phải đưa nó quay về ngôi nhà học thuật để tiến hành nghiên cứu. Các bác sĩ y khoa vẫn làm thí nghiệm đối với các vi khuẩn có hại cho con người, vậy tại sao những người làm công tác khoa học xã hội không đặt Phong Thủy dưới kính hiển vi mà xem xét? Chúng tôi cho rằng, toàn xã hội nên quan tâm đến Phong Thủy. Đặc biệt là những người làm công tác khoa học xã hội nên nghiên cứu Phong Thủy. Phong Thủy có thể qui vào thiên văn học, Sử học, luân lý học, tâm lý học, kiến trúc học, xã hội học, chính trị, triết học, tôn giáo học, dân tục học. Các bộ môn khoa học nghiên cứu Phong Thủy trên những góc độ khác nhau, tất cả đều làm, là một cuộc công kích tập thể, trong đó, đứng mũi chịu sào là dân tục học, tôn giáo học, địa lý học. Dân tục học — nguyên ngữ tiếng Anh là Folklore, hàm ý “Tri thức dân chúng”. Một số học giả tự cho là cao nhã ở phương Tây từng gọi dân tục học là “Tàn dân cổ tục” (phong tục cũ của dân còn sót lại) hoặc “Tàn tồn văn hóa” (văn hóa còn rớt lại). Ở Nhật, có một thời dân tục được gọi là thổ tục. Từ thời Tiên Tần, ở ta đã xuất hiện từ “dân tục”. “Lễ ký — Tư y” có câu “Cố quân dân giả, chương hảo dĩ thị dân tục”, nghĩa là người cầm quyền và dân chúng nên đề cao cái tốt. “Để hướng dẫn tập tục trong dân. Quan lại thời cổ rất coi trọng dân tục. Sách “Thượng thư” chép “Thiên tử tuần thú”, “Để xem xét dân phong”. “Lễ ký” chép “Nhập cảnh phải hỏi những điều cấm đoán, nhập quốc hỏi phong tục, nhập môn (vào nhà) phải hỏi những điều kiêng kỵ”. “Quản tử”, chép: “lo liệu công việc, xem xét phong tục”. Đời Chu có quan chuyên trách xuống dân “Thái phong” (điều tra về phong tục), xem trong dân phong tục như thế nào, dân chúng yêu gì, ghét gì, để chỉ đạo cho đúng. Từ cận đại đến nay, dân tục học dần trở thành một khoa học. Nhiệm vụ của nó là nghiên cứu sinh hoạt và văn hóa dân gia. Dù là dân tộc tiên tiến hay lạc hậu, dù là đời sống tinh thần hay đời sống vật chất, đều trong phạm vi nghiên cứu của dân tục học, mà trọng tâm là nghiên cứu tín ngưỡng, phong tục, truyền thống do lịch sử để lại, nhất là phải làm rõ những nghi thức, cấm kỵ, cúng bái truyền thống. Phong Thủy là một hiện tượng lưu truyền hàng ngàn năm để lại, có ảnh hưởng rộng rãi trong cuộc sống hiện thực, có vai trò sâu sắc trong tâm lý, ngôn ngữ và hành động của con người. Nó là phong tục truyền thống ngoan cố, một tín ngưỡng vô hình, những ước định thành tục. Nó có không biết bao nhiêu là cấm kỵ, bao nhiêu là lý luận không giải thích được. Những điều này dân tục học phải nghiên cứu, không nghiên cứu không được. Phong tục là tấm gương của thời đại, là cửa sổ của xã hội liên quan trực tiếp tới nguyên khí của đất nước và cơ sở của trăm nghề. Khi ta về nông thôn, đưa mắt nhìn là thấy dương trạch (nhà cửa) và âm trạch (phần mộ), chú ý một chút là nghe thấy những điều kiêng kỵ về Phong Thủy, lẽ nào ta không nghiên cứu? Tôn giáo học cũng nên nghiên cứu Phong Thủy. Tôn giáo học không những nên nghiên cứu đạo Cơ đốc, Phật giáo, đạo I — xlam — ba giáo phái lớn, mà còn nên nghiên cứu tôn giáo và mê tín trong dân gian. Phong Thủy là tôn giáo hay mê tín? Vấn đề này trả lời không đơn giản. Điều kiện kiên quyết là phải làm rõ thế nào là tôn giáo? Thế nào là mê tín? Tôn giáo và mê tín giống và khác nhau ở chỗ nào? Và có quan hệ gì với Phong Thủy? Tôn giáo là một trong hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Ngoài chuyện tin vào thế giới hiện thực, còn sợ và sùng bái một thể lực thần bí siêu nhiên, chúa tể thiên nhiên và xã hội. Trong quá trình phát triển tôn giáo đã xuất hiện tổ chức tôn giáo, các chuyên viên đặc trách, thể chế giáo cấp, tín điều giáo nghĩa, những khuôn vàng thước ngọc, chế độ nghi lễ, văn hiến kính điển, thế giới quan đặc định. Mê tín là tín ngưỡng mù quáng. Cũng như tôn giáo, nó phản ánh ảo tưởng về một sức mạnh bên ngoài cuộc sống thường ngày trong đầu óc con người, là hình thức sức mạnh nhân gian thu nhận sức mạnh siêu nhân gian. Mê tín mà ta thường nói là một thuật ngữ đồng nghĩa với mê tín của phong kiến, vì rằng phần lớn nội dung của mê tín nảy sinh trong xã hội phong kiến. Nội dung chủ yếu của nó là cầu thần, bói toán (đoán quẻ, rút thẻ, đoán mộng, đồng chổi, xin âm dương, lên đồng, giáng tiên), trừ tà để chữa bệnh (Âm dương bắt ma, pháp sư lên đồng), đoán mệnh, xem tướng v.v… Tôn giáo cũng như mê tín, đều nảy sinh và phát triển trên cơ sở hữu thần luận, về bản chất là lạc hậu và bảo thủ. Tôn giáo là một loại mê tín, mê tín không phải là tôn giáo. Mê tín không có nội dung giáo nghĩa, tổ chức, chế độ v.v… Hiến pháp nước ta qui định, công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do tuyên truyền chủ nghĩa vô thần. Tôn giáo phải yêu nước, tuân theo pháp luật, không được nguy hại cho xã hội. Tôn giáo thuộc về nhận thức tư tưởng. Hoạt động mê tín làm hư hỏng và đầu độc dân chúng, lấy của hại người, phá hoại trật tự xã hội. Do đó, phải kiên quyết đả phá mê tín, không để nó tràn lan. Từ lâu nay, Phong Thủy vẫn bị coi là mê tín, bị ngăn cấm và phê phán. Đó là vì quả thật có những đặc trưng mê tín rất nghiêm trọng. Nhất là phần âm trạch của nó có thể nói không có điểm nào đúng đắn. Nhưng lý luận và thực tiễn về âm trạch của Phong Thủy lại có cơ sở khoa học nhất định trộn lẫn trong mê tín. Nhà khoa học Anh Đắc — Uyn đã viết trong “Lịch sử khoa học” như sau: “Khoa học không nảy mầm và lớn lên trên cánh đồng mênh mong có lợi cho sức khỏe — cánh đồng của sự ngu muội, mà nảy mầm và lớn lên trên cánh rừng có hại — cánh rừng của đồng cốt và mê tín”. Từ góc độ tuyên dương khoa học kỹ thuật cổ đại, ta nên phê phán với tinh thần lấy đúng bỏ sai đối với Phong Thủy. Lấy gì làm mực thước để phê phán thì rất khó xác định, tôn giáo học phải nghiên cứu một cách nghiêm túc. Địa lý học cũng không nên bỏ qua “Phong Thủy” đã từng nhập cục với mình xưa kia. Phong Thủy phải quan thiên tượng (quan sát các hiện tượng trên trời), sát địa lý (khảo sát dưới đất), cho nên gọi là Kham Dư. Địa lý học có rất nhiều phân khoa, như địa lý học chính trị, địa lý học quân sự, địa lý học nhân văn, địa lý học hoàn cảnh, địa lý học kiến trúc v.v… Hai phân khoa sau cùng phải nhìn nhận Phong Thủy. Phong Thủy rất coi trọng kiến thức về hoàn cảnh và nghệ thuật kiến trúc. Người ta không thể xây nhà ở thung lũng chết, cũng không thể dựng nhà ở khu vực băng lở, thiếu nước, lũ lụt, băng gió, ẩm ướt. Người ta phải chọn hoàn cảnh tốt nhất, xây dựng ở địa điểm tốt nhất, hướng tốt nhất, kết cấu nhà ở tốt nhất. Lý luận về dương trạch của thuật Phong Thủy nhằm giải quyết những vấn đề hóc búa trên. Năng động chủ quan có thể cải tạo khách quan, nhưng trước hết phải tôn trọng khách quan, thích nghi với khách quan, không được quay lưng lại khách quan. Hễ quay lưng lại qui luật khách quan, liền bị khách quan chống lại không thương tiếc. Do đó, địa lý học nhân văn, hoàn cảnh, kiến trúc, đều không thể bỏ qua Phong Thủy. Ngoài ra, mỹ học có thể nghiên cứu Phong Thủy từ góc độ con người phải hài hòa với thiên nhiên. Sử học có thể nghiên cứu dấu vết của Phong Thủy từ khi nảy sinh, phát triển và suy vong. Xã hội học có thể nghiên cứu Phong Thủy đã bám lấy mảnh đất xã hội để tồn tại. Luận lý học có thể nghiên cứu quan hệ giữa quan niệm đạo đức của con người với Phong Thủy. Văn hóa học có thể nghiên cứu thuộc tính nội tại của Phong Thủy trong quá trình hòa trộn các hiện tượng văn hóa. Tâm lý học có thể nghiên cứu trạng thái tâm lý nào khiến người ta tin Phong Thủy. Chính trị học có thể nghiên cứu ảnh hưởng của Phong Thủy đối với tiến trình xã hội Trung Quốc. Triết học có thể nghiên cứu vì sao phép biện chứng duy vật thô sơ, lý luận duy tâm ngu muội, chủ nghĩa siêu hình, cũng hòa trộn trong Phong Thủy. Dân chính học có thể từ góc độ xây dựng dân chính mà nghiên cứu vấn đề tang lễ và xây dựng nhà cửa.Ứng Thiệu đời Hán trong “Phong tục thông nghĩa” đã viết: “Điều quan trọng của việc cai trị là làm cho phong tục tốt đẹp”. Những người làm công tác koa học xã hội hãy qui thuộc thuật phong thủy — một hiện tượng văn hóa ảnh hưởng đến tất cả ngõ ngách của xã hội, vào bộ môn khoa học của mình mà nghiên cứu với một thái độ trọng thị. ( còn tiếp )
-
Sách "Bí mật phong thủy - Đại điển tích văn hóa Trung Hoa" (Phần mở đầu - NHIỆM VỤ CẤP BÁCH) Trước mắt, việc nghiên cứu Phong Thủy là nhiệm vụ cực kỳ cấp bách, vì: A.- THUẬT PHONG THỦY ĐANG LAN TRÀN: Phong trào cải cách mở cửa dâng lên cuồn cuộn, cửa ngõ Trung Quốc mở ra, thì các luồng tư tưởng bên ngoài tất nhiên sẽ lọt vào. Nhật Bản và các nước Đông Nam Á xưa nay vẫn chú trọng Phong Thủy, Hồng Kông và Đài Loan của ta vẫn tồn tại sâu rộng những tập tục Phong Thủy. Những hình thái ý thức ấy tràn vào miền duyên hải đông nam, từ Lưỡn Quảng đến Chiết Giang rồi thâm nhập nội địa. Chúng ta đã hơn 40 năm thay đổi phong tục, quan niệm Phong Thủy về cơ bản đã bị quét khỏi các thành phố, nhưng vẫn tiềm ẩn trong nông thôn, nhất là những nơi vốn là cái nôi của Phong Thủy, những thôn dân mà tố chất văn hóa rất kém vẫn thích Phong Thủy. Việc tày trời có thể không thèm để ý, riêng chuyện Phong Thủy thì rất chu đáo. Tục hủ lậu đó đã lan tràn rất nhanh đi các nơi. Thuật Phong Thủy một khi lan tràn, liền trở thành tai họa cho xã hội. Hỏa táng không chịu, thổ táng (chôn cất) ngày càng nhiều lên, xây dựng phần mộ tình hình như sau: a. Đất canh tác bị thu hẹp, ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng nông nghiệp. Đất trồng trọt của nước ta vốn có hạn, quan hệ ruộng đất vốn là quốc kế dân sinh. Mỗi năm người chết cướp mất của người sống hàng triệu cân lương thực, đây là một tổn thương rất lớn. Cứ tình trạng này kéo dài, thì đất nước không còn. b. Ảnh hưởng tới lâm nghiệp, chính ách khoanh núi trồng cây bị phá hoại. Xây mộ thì phải chiếm núi, núi là nơi sở tại của cái gọi là long mạch. Rất nhiều quả núi đã trở thành núi — mồ, đầy những nấm như cái bướu. Cây bị chặt, tất ảnh hưởng tới cân bằng sinh thái, tới nhu cầu về gỗ, bất lợi cho sinh hoạt của dân và cho sản xuất. c. Ngành du lịch bị hạn chế, thuật Phong Thủy cho rằng, không thể chôn cất ở núi đá, núi trọc, núi đơn độc. Mộ địa phải ở nơi sơn thanh thủy tú, khí hậu mát mẻ, mà những nơi như vậy lại chính là khu du lịch. Khi ta đi chơi mà chỉ thấy mồ to mả nhỏ, bia đá như rừng, thì ai còn hứng thú mà du ngoạn. d. Lãng phí sức người sức của, tăng gánh nặng cho mọi người. Xây phần phải dùng gỗ, xi măng. Nếu nói xây một cái phần chẳng tốn bao nhiêu, nhưng cả nước mỗi năm xây mấy chục vạn phần mộ cộng lại, sẽ thấy tốn bao nhiêu xi măng và gỗ. Bài toán này nên giải quyết thế nào? Một số dân ở Giang Chiết nói bây giờ không chỉ không lấy nổi vợ mà chết cũng không đem chôn được! vay nợ để làm ma, thi nhau mà làm to hơn, có rất nhiều. đ. Bất lợi cho phong hóa. Vì tranh giành đất quí, đã xảy ra bất hòa giữa các thôn, các dòng họ, giữa người nọ với người kia, thậm chí đã ẩu đả lẫn nhau, gây các vụ hình sự ngày càng nhiều. Đồng thời, cái thói tin vào ma quỷ ngày càng nghiêm trọng, nào là báo ứng nhân quả, kiếp luân hồi, tư tưởng trung hiếu tiết nghĩa lại làm hư hỏng dân chúng, hạ thấp tố chất tư tưởng của con người. B. CÁC HỌC GIẢ RẤT ÍT NGHIÊN CỨU PHONG THỦY Hơn 40 năm nay, chỉ có mấy bài kiểu “Miếng đậu phụ” ngắn ngủi, giới thiệu sơ lược về Phong Thủy, chưa có một luận văn nào đủ sức nặng, tính khoa học cao có sức thuyết phục, càng không có trước tác nào nghiên cứu một cách hệ thống về Phong Thủy. Mới đây, đồng chí Hà Hiểu Tân viết “Phong thủy thám nguyên” (tìm hiểu nguồn góc Phong Thủy) có mở ra một cách suy nghĩ mới, tiếc rằng chỉ nghiên cứu Phong Thủy dưới góc độ kiến trúc học, đưa vào bộ “Cổ kiến trúc văn hóa tùng thư”. Trung Quốc có bao nhiêu là học giả, mỗi năm cho ra đời hàng nghìn loại sách, chỉ riêng sách về Phong Thủy có hệ thống thì chưa có, thật đáng tiếc! Vì sao các học giả không thích nghiên cứu Phong Thủy? Trước hết các học giả cho rằng đây là công việc của cán bộ. Cán bộ nắm công tác tư tưởng, nắm việc xây dựng dân chính, quả thật nên nghiên cứu Phong Thủy. Nhưng các cán bộ bận hàng lô công việc sự vụ, đâu có thì giờ nghiên cứu. Một số cán bộ rất bằng lòng với chuyện ngồi văn phòng xem báo, nghe báo cáo, còn chuyện lưu hành Phong Thủy ở trong dân, họ chỉ nhờ cậy ở mấy bản chỉ thị, vào vài mệnh lệnh hành chính, là đã có thể bài trừ được hủ tục. Hai là, các học giả coi thường môn học vấn này. Họ cho rằng, nghiên cứu “phương thức sản xuất Châu Á”, nghiên cứu học thuyết nho gia, nghiên cứu bốn phát minh lớn, mới danh chính ngôn thuận là học vấn, còn Phong Thủy chỉ là “Đồ tầm tầm”, là món “Thịt cầy” không đáng để lên mâm chính. Nếu có học giả nào đó định nghiên cứu Phong Thủy thì bị coi là bất vụ chính nghiệp (chuyện chính thì không làm) lại đi theo đường tà đạo. Ba là, thuật phong thủy rất khó nghiên cứu. Trong lịch sử lý luận Phong Thủy là do văn nhân phong kiến sáng tạo ra, họ lấy phương vị trăng sao trên trời kết hợp với kết cấu sơn thủy trong địa lý, thêm các thuyết bát quái, vọng cứu, hung sát, v.v… khiến nội dung của Phong Thủy càng phức tạp. Sách vở kinh điển về Phong Thủy, các học giả nói chung chưa chắc chắn đã hiểu. Dù chúng tôi chuyên nghiên cứu về Phong Thủy, nhưng vẫn rất còn nhiều chỗ không làm sáng tỏ được. Chính vì các cán bộ và học giả không coi trọng Phong Thủy, nên bọn làm càn trong xã hội thừa cơ làm bậy. Họ lén lút biên soạn và cho in những sách nhỏ tạp nham, múa may các thuật ngữ để tuyên truyền mê tín, đầu độc dân chúng, vơ vét đầy túi, phá hoại nghiêm trọng việc xây dựng nền văn hóa tinh thần xã hội chủ nghĩa.Vì có những chuyện như thế, nên chúng ta phải hành động gấp, phê phán không thương xót đối với mê tín phong kiến, hướng dẫn quần chúng có tư tưởng đúng đắn, tạo nên bộ mặt mới của tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
-
Hi hi hi ! Đây cũng là hệ quả của những ƯỚC muốn Bất Chính ! Wild có căn dặn rồi mà he !
-
-
May mà đời còn dễ thương 05/05/2008 07:39 (GMT + 7) Hai trăm triệu là số tiền người chủ đất mới biếu thêm cho người chủ đất cũ sau khi hợp đồng mua bán 20.989 m2 đất đã thanh lý. Bất ngờ người chủ đất cũ quỳ sụp xuống đưa hai tay ra nhận tiền, lời cám ơn ngẹn ngào giữa vành môi mím chặt. Đàn ông khóc thật lạ, lạ hơn đàn bà khóc nhiều lắm… May mà đời còn dễ thương... (Ảnh: waloo.com) Khu đất vừa sang tay từ chủ cũ qua chủ mới là khu đất đẹp nhất trong những khu đất đẹp của vùng này. Người chủ cũ của khu đất luôn tự hào về nó. Hồi đất nước còn khó khăn, thu nhập từ khu đất này đã giúp gia đình ông sung túc hơn các gia đình khác. Đứa con gái rượu của ông cũng nhờ nguồn thu từ khu đất này mà học hành thuận lợi hơn bè bạn. Khoảng vài năm gần đây, ông có thêm nhiều tài sản kếch sù, thu nhập của khu đất đối với ông trở nên vụn vặt. Tuy vậy, ông vẫn luôn dành thời gian chăm sóc nó vì, ông nói với vợ: “đất hương hỏa phải vun trồng để làm của hồi môn cho con gái”. Thế mà, chỉ vì ngỡ “sao trời” trong tầm tay hái, ngờ đâu càng vói càng xa. Sự không biết đủ đã khiến ông phải trả giá: tất cả những tài sản mà ông có lần lượt đội nón ra đi, cuối cùng đất hương hỏa cũng bán. Ông bán khu đất như bán niềm tự hào của mình. Ngỡ như "sao trời dễ hái" như nhét nắng vào chai (Ảnh: Vizion) Sự cố này xảy ra lúc tuổi ông và tuổi bà đã quá 50. Ít ai xây dựng lại sự nghiệp mà thành công ở độ tuổi này. May mà đứa con gái duy nhất vừa học xong đại học. Con suối có dòng nước trong veo trải theo chiều dài khu đất, hai bên bờ suối cát trắng như pha lê, đẹp đến chạnh lòng người. Ông đã nhiều lần tự hỏi, nước mang cát từ đâu về rải bên suối của ông? Khu đất nhờ nước của dòng suối mà cho ông nhiều huê lợi: trồng hoa thì hoa đẹp nhất chợ, trồng kim châm giá cao gấp đôi vườn khác, trồng rau lá mướt xanh, trồng củ thì củ lớn, các nhà hàng muốn mua phải đặt tiền trước… Dân quanh vùng thấy vậy, khen: Ông giáo làm gì cũng mát tay. Khi đất nước giải phóng, ông cũng học xong đại học. Cả nhà đi nước ngoài, ông xin được ở lại. Cha mẹ anh chị gạt nước mắt ra đi, giao toàn bộ tài sản cho đứa Út, trong đó có khu đất 20.989 m2. Ông đi dạy, lấy vợ cùng ngành giáo. Vợ ông không được khỏe, sanh cho ông một đứa con gái, rồi nghỉ sanh, nghỉ dạy. Thương vợ và con ông đã dành làm hết mọi việc. Ông muốn vợ được nghỉ ngơi, nuôi dạy con; con gái khỏe mạnh, chuyên tâm học hành. Ngoài những chuyện phải làm của một nhà giáo có lương tâm, thời gian còn lại ông lặn hụp trong khu đất, kiếm thêm tiền nuôi vợ, nuôi con. Cuộc sống của gia đình ông tuy không khá giả bằng thời của cha, của nội, nhưng cũng thuộc loại phong lưu nhất vùng. Một buổi sáng, thấy trời nắng ráo, ông gọi xe cẩu giúp ông lấy đi những tảng đá lớn nằm khoét sâu từ rất lâu đời dọc bờ suối đem về trang trí vườn nhà. Ngày hôm sau trời mưa lớn, nước suối cuồn cuộn kéo theo cát trắng từ đâu về lấp đầy những lổ hõm lớn hôm qua. Ông phát hiện bờ suối là mỏ cát. Ông cào một ít cát vào bao đem chào cửa hàng xây dựng, họ đồng ý mua với giá cao, còn nói “có bao nhiêu xe cửa hàng bao hết”! Gom tiền dành dụm bấy lâu nay ông sắm được hai chiếc xe reo. Ông mướn người cào cát, người lái xe, sau khi trả xong tiền xăng, tiền thuế, mỗi xe ông còn dư được sáu trăm ngàn. Góp gió thành bão, số tiền có được từ mỏ cát ông dành để sắm thêm xe; đoàn xe của ông đã lên hai mươi chiếc. Việc bắt đầu nhiều, tuổi cũng đã cao, ông quyết định thôi nghề dạy học. Nguồn lợi từ hai mươi chiếc xe chở cát đủ cho ông bước qua lĩnh vực mới, kinh doanh nhà. Mới đầu ông mua một, hai căn nhà cấp 3, cấp 4, sửa chữa lại đem bán. Sau, ông mua những căn nhà lớn hơn rồi mua cả nhà kho, nhà xưởng,…Cái thì ông trực tiếp kinh doanh, cái ông cho thuê, cái ông đem bán lại kiếm lời. Trong lần mua một cơ sở sản xuất đang ở tình trạng người chủ bị sa cơ phải bán, ông gặp một phụ nữ làm kế toán tại đây. Cô là người miệt vườn, quê ở Hậu Giang, tuổi đã quá thì. Đương nhiên, khi cơ sở đã bán cho ông, cô mất việc. Thấy cô giỏi giang, chơn chất, ông mời cô quản lý giúp ông công chuyện làm ăn. Cuộc sống tươi đẹp còn thật nhiều điều đáng quí, diệu kỳ (Ảnh: Zim"s blog) Từ ngày có cô giúp ông quản lý, thu chi được rành mạch, chuyện kinh doanh trôi chảy, ông nhẹ cả người; những con số thôi theo ông vào giấc ngủ. Cô khuyên ông ngưng khai thác cát, sang lại đoàn xe reo. Cô nói, lợi nhuận thu từ khai thác cát so với kinh doanh không thấm vào đâu, nhưng tàn phá cảnh quan, làm cho khu đất không còn đẹp như trước. Ông đã nhiều lần thấy cô thấp thoáng trong khu đất, lúc đi dọc theo con suối, lúc đứng lặng nghe chim kêu, lúc cùng với nhân công lên líp, bón phân. Gái miệt vườn có khác. Ông nghe lời cô khuyên, bán đứt đoàn xe. Trước đây, gia đình cũng khuyên và ông cũng biết vậy, nhưng vì cần vốn làm ăn nên ông bỏ ngoài tai. Biết chuyện, vợ và con gái ông nể phục cô lắm. Đoàn xe reo được bán cho ông phó giám đốc Ngân hàng tỉnh, qua cuộc thương thảo, hai người mừng rỡ nhận ra nhau, thời niên thiếu họ đã từng là bạn học. Nhưng tai ương lại bắt đầu từ đó. Thay vì trả tiền, người bạn học cũ đã ưu ái chia cho ông cổ phiếu Ngân hàng theo giá gốc. Ông bán được một vốn bốn lời. Ông không ngờ mua bán cổ phiếu nhẹ nhàng và giàu nhanh hơn khai thác cát, cho lãi cao hơn kinh doanh nhà. Được sự tiếp tay của người bạn học, ông thế chấp nhà xưởng, nhà kho, cơ sở làm ăn, lấy tiền mua cổ phiếu. Ông không rành lắm về cuộc chơi này, thấy bạn ông bỏ vào đâu là ông bỏ vào đấy; cả hai hả hê khi mua dưới chân sóng và bán trên đầu sóng. Mặc cho cô quản lý can ngăn, mặc cho vợ con khóc ròng, ông vẫn lao vào mua bán cổ phiếu như con thiêu thân lao vào ánh đèn xanh đỏ. Đùng một cái cổ phiếu tuột dốc, ông không giải kịp; đã thế người bạn học cũ, phó giám đốc Ngân hàng, tự nhiên chết. Nếu ông không tận mắt chứng kiến sợi dây thừng xiết vào hai cườm chân khi vớt bạn lên từ con thác thì ông vẫn không tin bạn của mình tự tử. Cổ phiếu trong tay ông bỗng chốc thành giấy lộn. Nợ Ngân hàng đến hẹn ông không trả được, chỉ còn cách duy nhất là bán tống bán tháo tài sản thế chấp để không bị phát mãi. Đã có lúc nghĩ quẫn ông định buộc dây thừng vào hai cườm chân rồi nhảy xuống thác như bạn học của mình, nhưng thương vợ, thương con, thương cô quản lý, ông cắn răng vượt qua. Lần lượt, lần lượt, hết nhà này đến nhà khác, hết cơ sở làm ăn này đến cơ sở làm ăn khác bỏ ông mà đi. Chưa tròn một năm, ông trắng tay, mất sạch! Cuối cùng còn một khoản nợ lớn nhưng không còn gì để bán, ngoài khu đất – của hồi môn của đứa con gái rượu. Ông hỏi ý kiến con, nó vừa khóc vừa nói: “Con thương khu đất, nhưng con thương ba hơn. Mình bán để trả nợ đi ba”. Cô quản lý xót của, xót ông, đỗ bệnh nặng. Cũng phải thôi, biến cố dồn dập trong thời gian ngắn đã quá sức chịu đựng của cô gái chơn chất, miệt vườn. Vợ và con gái ông nghe cô nằm viện đã thay nhau chăm sóc như người ruột thịt. Ngày cô ra viện gia đình ông đón cô về nhà tiếp tục lo cho cô thật khỏe, nhất là khỏe về tâm lý. Rồi cô muốn về lại Hậu Giang, vợ ông vét hết chút nữ trang còn sót lại biếu cô làm vốn. Ngày cô đi ông và gia đình tiễn cô ra tận bến xe, cô gục đầu vào vai ông khóc sụt sùi. Xa cô, ông cũng buồn nẫu ruột. Thấy chồng khóc, người vợ khẽ khàng ôm chồng vào lòng như má ôm con trai, nói: “May mà chúng ta còn có nhau, may mà mình còn giữ được căn nhà để có chỗ chui ra, chui vào. Đừng khóc nữa mình nghen, em và con sẽ cùng mình gầy dựng lại. Ta về thôi để con gái nó chờ”. Nói xong bà dìu ông đứng dậy, hai người nương vào nhau chệnh choạng bước. Ráng chiều đỏ ối trên nương, người chủ đất mới nhìn theo đôi vợ chồng người chủ đất cũ, bóng hai người nhập một đổ dài trên rẫy, chẳng thể phân định bóng nào là “tùng” bóng nào là “liễu”. Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng... Tạ thị ngọc Thảo (nguồn Tuanvietnamnet )
-
Nói rõ thêm để Công Minh thêm tự tin và phấn khởi trong viêc nghiên cứu Lạc Việt Độn Toán . Công Minh đoán đúng đến 95% !
-
Cám ơn Công Minh đã gieo và luận quẻ !
-
Thế giới khát dầu, đói cơm Người nghèo buộc phải “nhường bắp” cho các nhà máy ethanol Ảnh: Reuters . Dầu mỏ đang cạn kiệt dần buộc loài người phải đi tìm nguồn nhiên liệu thay thế. Nhưng việc biến ngũ cốc thành nhiên liệu sinh học có gây ra nạn đói? Câu chuyện lão nông Johnson Trên cánh đồng ở miền bắc tiểu bang Iowa của nước Mỹ, lão nông Erwin Johnson đang say sưa ngắm những luống bắp non.Chỉ một thời gian nữa thôi sẽ đến mùa thu hoạch. Trước đây, Johnson thường bán bắp cho các công ty lương thực trong vùng, từ đó họ chở xuôi theo dòng Mississippi để xuất khẩu. Giờ thì khác, Johnson chỉ việc chất bắp lên xe tải rồi chở tới một nhà máy chế biến cồn ethanol cách đấy chừng ba cây số. Những hạt bắp vàng ươm sẽ được biến thành cồn để chạy máy móc trong thời buổi giá dầu lửa tăng cao vùn vụt hiện nay. Nhà máy ethanol kia mua bắp của Johnson với giá 5,50 USD mỗi giạ (đơn vị đo thể tích tương đương 36 lít, dùng trong việc đong ngũ cốc), tức là gấp hơn hai lần so với giá bán cho các công ty lương thực trước đây. Lão nông Johnson rất phấn khởi: “Làm nông thời buổi này thật tuyệt. Tôi đã 65 tuổi rồi nhưng vẫn còn ham lắm”. Xe đổ xăng pha ethanol tại Los Angeles, Mỹ - Ảnh: AFP Gia đình Johnson có truyền thống làm nông lâu đời. Ông nội của Erwin Johnson di cư từ Đức tới đây vào năm 1913 và phải làm ruộng quần quật mới đủ sống. Sau một thời gian tích lũy, ông cụ mua được một số đất, rồi để lại cho con trai, là ông cụ thân sinh của Johnson. Đến đầu những năm 70 của thế kỷ trước, Erwin Johnson bắt đầu đứng ra gánh vác việc canh tác trên cánh đồng cha ông để lại. Mấy đời làm nông, từ ông nội, thân phụ rồi đến bản thân Erwin Johnson, tất cả chỉ biết rằng hạt lúa, hạt bắp được làm ra là để phục vụ cho nhu cầu ăn uống của con người, hoặc làm thức ăn gia súc. Nhưng vài năm trở lại đây, nhận thức của lão nông Johnson đã thay đổi khi một nhà máy sản xuất ethanol mọc lên trong vùng. Nhân viên nhà máy đã tới chào mua hàng của Johnson với giá cao hơn. Và Johnson tròn xoe mắt khi biết rằng những hạt bắp mà ông làm ra giờ có thể được dùng để sản xuất “xăng dầu”. Giá bắp tăng cao nhờ vào các công ty sản xuất cồn là một yếu tố cực kỳ hấp dẫn đối với những người làm nông như Johnson. Vì thế, càng ngày ông càng tăng cường trồng bắp. Nếu như trước đây Johnson dành 50% diện tích ruộng của mình để trồng bắp, nửa còn lại trồng đậu nành, thì tỷ lệ giờ đây là 60-40 nghiêng về bắp. Đây là xu hướng chung tại Mỹ, nơi diện tích đất trồng bắp tăng 20% trong năm 2007. Nhiên liệu sinh học Một nhà máy sản suất ethanol tại Mỹ - Ảnh: Reuters Câu chuyện của lão nông Erwin Johnson được Báo Washington Post dẫn ra để minh họa cho bức tranh về nỗ lực tìm kiếm nhiên liệu thay thế nguồn dầu lửa đang ngày một cạn kiệt và cuộc khủng hoảng lương thực hoành hành hiện nay.Theo các dự báo đã được biết đến rộng rãi, trữ lượng dầu mỏ trên thế giới chỉ còn đủ dùng trong khoảng 40 đến 50 năm nữa. Sản xuất nhiên liệu thay thế vì vậy được coi là một nhiệm vụ bắt buộc và nhiên liệu sinh học, trong đó có ethanol, đã mở ra hy vọng mới. Thực ra, việc sử dụng ethanol cho động cơ ô tô, thậm chí cho tên lửa, đã được biết đến từ cách đây hàng chục năm. Nhà phát minh người Mỹ Henry Ford vào năm 1942 đã chế tạo xe chạy bằng cồn. Nhưng vai trò của ethanol được đề cập như là loại nhiên liệu thay thế cho xăng thì mới chỉ được nhấn mạnh trong thời gian gần đây, khi tài nguyên dầu mỏ của thế giới đang vơi dần. Nhằm giúp nền kinh tế bớt phụ thuộc vào dầu lửa, Quốc hội Mỹ và Tổng thống George W.Bush vào năm 2005 đã thông qua dự luật thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi nhiên liệu ethanol cho xe cộ. Cách đây 4 tháng, Quốc hội cũng thông qua một dự luật về năng lượng, trong đó đặt mục tiêu đưa 15 tỉ gallon (56,78 tỉ lít) ethanol sản xuất từ bắp vào sử dụng, tương đương với 10% lượng nhiên liệu cho xe cộ, vào năm 2015. Dự luật này đã được Tổng thống Bush phê duyệt. Để mục tiêu đầy tham vọng trên trở thành hiện thực, Chính phủ Mỹ đã có chính sách trợ giá cho các nhà sản xuất ethanol pha. Hiện tại ở Mỹ, ethanol 100% chưa được phép sử dụng làm nhiên liệu cho xe cộ, chỉ có xăng pha ethanol mới được phép. Tỷ lệ pha thông thường tại Mỹ là 10% ethanol, 90% xăng. Bên cạnh việc thúc đẩy sản xuất trong nước, Mỹ còn tăng cường hợp tác với các quốc gia khác để sản xuất ethanol, trong đó Brazil là đối tác lớn nhất. Brazil, nơi xăng tiêu chuẩn có pha tới 20% ethanol, là quốc gia có ngành công nghiệp ethanol lớn nhất thế giới. Theo Hiệp hội Năng lượng tái sử dụng quốc tế, vào năm 2006, cả thế giới sản xuất được 51 tỉ lít ethanol, trong đó Brazil chiếm 61%. Mỹ và Brazil cũng đã thúc đẩy các nhà sản xuất cho ra đời những loại động cơ thích hợp với nhiên liệu ethanol cũng như sản xuất ethanol ngày một rẻ hơn. Tại Brazil, hiện có khoảng 50% lượng xe ô tô lưu thông có thể sử dụng ethanol pha hoặc ethanol nguyên chất. Tại Mỹ, Tập đoàn General Motors vào tháng 1.2008 đã ký thỏa thuận với đối tác Coskata để sản xuất loại ethanol có giá 1 USD/gallon (tương đương 3,78 lít). Các chuyển động nói trên đã mở ra hy vọng về một tương lai không xa, khi con người không còn quá phụ thuộc vào những mỏ dầu nằm sâu trong lòng đất nữa. Một thế giới với xe cộ, động cơ chạy bằng ethanol cũng sẽ sạch hơn. Nói một cách nôm na là trong tương lai, các vua dầu mỏ Ả Rập sẽ nhường ngôi cho những nông dân trồng bắp như Erwin Johnson. Tương lai sáng hay tối? Hãy tưởng tượng một bức tranh như thế này: Trên cánh đồng, bác nông dân Erwin Johnson lái máy cày chạy bằng ethanol sản xuất từ bắp để cày ruộng trồng bắp. Bắp sẽ được thu hoạch bằng loại máy chạy ethanol. Rồi sau đó, xe tải chạy ethanol chở bắp tới nhà máy chế biến ethanol. Bác nông dân Johnson lấy tiền bán bắp để mua ethanol, quần áo, thức ăn, nhà cửa... Đúng là một vòng khép kín hoàn hảo. Nhưng vòng tròn hoàn hảo này có thực sự hoàn hảo? Câu trả lời là... có quá nhiều vấn đề cần phải xem xét. Trong thời gian gần đây, thế giới, đặc biệt là các nước nghèo, đang vật lộn với cơn sốt giá lương thực. Tổ chức Nông lương LHQ đã nhiều lần báo động về nạn đói. Chính phủ các nước, các tổ chức đã đưa ra nhiều chương trình nhằm ngăn chặn nạn đói nghèo. Tuy nhiên, nguy cơ thiếu lương thực trầm trọng vẫn đè nặng trên đầu loài người, trong khi diện tích đất canh tác toàn cầu không ngừng bị thu hẹp do nhiễm mặn, hạn hán, lũ lụt và các hiện tượng liên quan tới biến đổi khí hậu khác. Trong hoàn cảnh đó, việc có quá nhiều người đổ xô đi trồng ngũ cốc để bán cho nhà máy sản xuất ethanol là điều cần phải xem lại. Các thống kê chính thức gần đây cho thấy hiện có tới 20% sản lượng bắp ở Brazil được dùng để sản xuất nhiên liệu sinh học; tại Mỹ, con số này là hơn 30%. Diện tích đất dùng để trồng bắp phục vụ sản xuất ethanol tại Mỹ đang ngày một bành trướng, đẩy lùi diện tích trồng các loại hoa màu khác. Châu Âu cũng ở trong tình trạng tương tự theo sau kế hoạch nâng tỷ lệ nhiên liệu sinh học lên 10% trong tổng nguồn cung năng lượng. Đó là những xu hướng đáng được quan tâm. Cách đây chừng một tháng, Thủ tướng Anh Gordon Brown thông báo ông sẽ bàn với lãnh đạo các nước thuộc G-8 về vấn đề nhiên liệu sinh học và nạn đói. Cuối tháng 4 vừa qua, Đặc phái viên LHQ về quyền lương thực, ông Jean Ziegler, đã lên tiếng kêu gọi thế giới ngưng sản xuất nhiên liệu sinh học trong 5 năm để cứu đói. Ông nói làn sóng đổ xô đi trồng các loại cây phục vụ cho việc sản xuất ethanol có thể “gây ra thảm họa”. Lời kêu gọi “ngưng hoàn toàn” của ông Ziegler là không tưởng. Nhưng từ lời kêu gọi này, có thể thấy được những nguy cơ không còn tiềm ẩn nữa trong cái gọi là “cuộc cách mạng nhiên liệu sinh học”. Nhiên liệu sinh học là cần thiết khi thế giới đang ngày một cạn dầu, nhưng ăn uống lại là nhu cầu cơ bản nhất của con người để tồn tại. Vì thế, người ta cần phải tính toán và cân đối lại điều này, giữa một bên là nạn đói và một bên là cuộc khủng hoảng năng lượng, để cho thế giới an toàn hơn. Châu Minh Linh (Báo Thanh niên)
-
Điều xấu là điều tốt khi trở nên đói khát Thứ bảy, 15/3/2008, 07:00 GMT+7 ...Bạn trở nên tốt khi bạn cố gắng cho đi bản thân mình. Nhưng bạn không xấu khi bạn tìm kiếm cho bản thân mình... Bạn có thể nói về điều tốt trong bạn, nhưng lại không thể nói về điều xấu. Điều xấu là gì nếu không phải là điều tốt bị hành hạ bởi chính cơn đói khát của mình? Rõ ràng khi cái tốt bị đói, nó sẽ tìm kiếm thức ăn ở trong những hang tối và khi nó khát, nó sẽ uống cả nước bẩn. Bạn tốt khi bạn chỉ ở với chính bản thân bạn. Nhưng khi bạn không ở chính bản thân bạn, không có nghĩa là bạn xấu. Bởi vì một ngôi nhà bị chia rẽ không phải là hang ổ của những tên trộm; nó chỉ là một ngôi nhà bị chia rẽ. Và một cái tàu không có bánh lái có thể lang thang vô định quanh những hòn đảo hiểm nguy nhưng sẽ không chìm xuống đáy. Bạn trở nên tốt khi bạn cố gắng cho đi bản thân mình. Nhưng bạn không xấu khi bạn tìm kiếm cho bản thân mình. Bởi vì khi bạn cố gắng để giành giật mọi thứ, bạn là một cái rễ bám vào đất và bú bầu ngực của trái đất. Chắc chắn rằng trái quả sẽ không thể nói với rễ cây rằng, “Hãy giống tôi, hãy chín và cho đi những đồ dư thừa của bạn.” Bởi vì đối với trái quả, cho đi là một nhu cầu cũng như tiếp nhận là một nhu cầu của rễ cây. Bạn tốt khi bạn thực sự tỉnh táo trong phát ngôn của mình, Nhưng bạn không xấu khi bạn ngủ còn lưỡi bạn thì bước đi loạng choạng không mục đích. Ngay cả những phát ngôn vấp váp cũng có thể giúp cho cho một cái lưỡi vụng về. Bạn tốt khi bạn bước tới cái đích của mình một cách chắc chắn với những bước đi vững chãi. Nhưng bạn không xấu khi bạn bước đi tập tễnh. Những người tập tễnh cũng không đi ngược về phía sau. Nhưng nếu bạn mạnh mẽ và nhanh nhẹn, bạn sẽ thấy bạn không tập tễnh trước người què, vì bạn tốt Bạn tốt trong vô vàn cách, và bạn không xấu khi bạn không tốt, Bạn chỉ mải chơi và lười biếng. Đáng tiếc là những con hươu không thể dạy sự mau lẹ cho những con rùa. Trong khát vọng trở nên vĩ đại của bạn có cái tốt: và khát vọng có ở trong tất cả các bạn. Nhưng đối với một số người, khát khao là dòng nước lũ chảy ầm ầm ra biển, mang theo những bí mật của núi đồi và bài ca của rừng thẳm. Đối với những người khác, khát khao là một dòng suối phẳng lặng tự đánh mất mình trong những góc lượn và khúc quanh, rồi dừng lại trước khi tới được biển cả. Nhưng đừng để niềm khát khao vô tận nói với niềm khát khao nửa vời, “tại sao bạn lại chậm chễ và chần chừ?” Bởi vì cái tốt thực sự sẽ không hỏi người trần trụi rằng, “Quần áo của bạn đâu?” hay hỏi người vô gia cư rằng, “Chuyện gì xảy ra với nhà của bạn?” Kahlil Gibran Như Khuê chuyển ngữ từ bản tiếng Anh
-
Bí nhiệm của Tình yêuThứ hai, 31/12/2007, 23:39 GMT+7Kahlil Gibran là một thi sĩ, triết gia, ra đời trên một phần đất từng sinh sản bao nhiêu nhà tiên tri và phần đất đó hiện đang bừng bừng lửa đạn của chiến tranh Trung Đông: Li Băng. The Prophet (Nhà tiên tri) của ông được coi là một kiệt tác và đã trở thành sách gối đầu giường của rất nhiều thế hệ trên khắp thế giới. Nhân dịp đầu năm mới, Vietimes xin lần lượt giới thiệu với độc giả những phần đặc sắc nhất của cuốn sách này Khi tình yêu soi rọi bạn, hãy đi theo tiếng gọi của tình yêu Dẫu những con đường tình yêu đầy gập ghềnh và đèo dốc Khi đôi cánh của tình yêu ôm lấy bạn, bạn hãy dụi vào nó Mặc dầu chiếc gươm giấu trong đôi cánh đó có thể tổn thương bạn Và khi tình yêu cất lời với bạn bạn hãy tin vào tình yêu Dẫu lời của tình yêu có thể phá vỡ những giấc mơ của bạn như những ngọn gió bắc mang rác vào khu vườn. Vì khi tình yêu tôn vinh bạn thì nó cũng sẽ hành hạ bạn. Vì tình yêu khiến bạn trưởng thành nhưng cũng khiến bạn hao mòn. Thậm chí khi tình yêu nâng bạn lên tới đỉnh và vuốt ve những cành yếu mềm nhất đang rung lên dưới ánh mặt trời Nó cũng sẽ đẩy bạn xuống tận đáy và rung chuyển tận gốc rễ bám sâu dưới lòng đất. Tình yêu gom bạn vào nó như những bó ngô Nó đập bạn đến khi bạn trần trụi Nó dần bạn cho đến khi những cái vỏ của bạn biến mất Nó xay bạn đến trắng tinh Nó nhào nặn bạn cho đến khi bạn mềm nũn Và khi đó tình yêu đưa bạn đến ngọn lửa thiêng của tình yêu, khiến bạn trở thành miếng bánh thiêng cho bữa tiệc thiêng của Chúa. Nếu tình yêu làm tất cả những điều này thì bạn sẽ hiểu được những bí mật của trái tim mình và nhờ đó bạn sẽ trở thành một phần của trái tim cuộc sống. Nhưng nếu bạn sợ hãi, bạn sẽ chỉ tìm thấy sự an bình và dễ chịu của tình yêu Khi đó tốt hơn là bạn nên che đậy thân thể trần trụi của mình lại và bước qua sân đập lúa của tình yêu Trong một thế giới không biết đến giao mùa bạn sẽ cười, nhưng không phải với nụ cười trọn vẹn và khóc, nhưng không phải với tất cả những giọt nước mắt của mình. Tình yêu không mang lại gì ngoại trừ bản thân nó và cũng không lấy đi gì ngoại trừ bản thân tình yêu Tình yêu không sở hữu gì và cũng không ai có thể sở hữu tình yêu Vì chỉ tình yêu đã quá đủ cho tình yêu. Khi bạn yêu bạn không nên nói, “Chúa ở trong tim tôi” mà nên nói “Tôi ở giữa trái tim Chúa Và đừng nghĩ rằng bạn có thể dẫn lối tình yêu vì tình yêu, nếu thấy bạn xứng đáng với nó, sẽ dẫn lối cho bạn. Tình yêu không có một khát vọng nào khác ngoài việc thỏa mãn bản thân Nhưng nếu bạn yêu và cần có khát vọng thì hãy để những điều sau là khát vọng của bạn: Được tan chảy và giống như một dòng suốt róc rách nhạc điệu trong đêm tối Được hiểu nỗi đau khi có quá nhiều sự yêu thương Được thương tổn bởi chính những khám phá của bạn về tình yêu Và chảy máu một cách sẵn sàng và vui sướng Được thức dậy lúc bình minh với một trái tim cất cánh và cám ơn vì lại có thêm một ngày nữa để yêu đương Được đến với một giấc ngủ trưa và suy tư về niềm hạnh phúc cực tả của tình yêu Được trở về nhà lúc chiều hôm với một sự biết ơn vô hạn Và để ngủ với một lời cầu nguyện cho người yêu thương trong tim bạn và một bài hát ngợi ca trên môi. Như khuê chuyến ngữ từ bản dịch tiếng Anh ( nguồn vietimes )
-
Hát Xẩm: Tiếng lòng chẳng nhẽ mãi hắt hiu! Thứ ba, 15/1/2008, 07:00 GMT+7 ...Trong truyền thuyết về tổ nghề cũng như trong hiện thực, hát xẩm vốn là một loại hình nghệ thuật âm nhạc của những nghệ sĩ hát rong - mà chủ yếu là những người khiếm thị. Trong mỗi nhóm xẩm, ít nhất phải có một người như vậy. “Xẩm” vừa là tên gọi của thể loại, đồng thời cũng là tên gọi của những nghệ sĩ hành nghề, như anh xẩm, chị xẩm hay bác xẩm... Trong những đồ nghề bất ly thân của mỗi nhóm xẩm truyền thống, bao giờ cũng có một chiếc chậu đồng thau... Các cụ kể rằng, tục truyền ngày xưa, lâu lắm rồi, có lẽ vào khoảng cuối đời Trần, vua cha sinh hạ được hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh (Có nơi gọi là hoàng tử Thiện và Ác).Thương yêu hai con như nhau, không biết nhường ngôi cho ai, nhà vua liền truyền lệnh cho hai hoàng tử lên rừng đại ngàn tìm ngọc quý, ai đem về trước sẽ được nối ngôi vua. Vâng lời vua cha, hai anh em tức tốc lên đường. Trải qua nghìn trùng gian lao vất vả, cuối cùng hoàng tử Đĩnh đã tìm được viên ngọc quý. Nhưng rồi với lòng gian tham đố kỵ, Toán bèn lừa lúc Đĩnh ngủ say, rút gươm chọc mù hai mắt Đĩnh rồi cướp lấy ngọc đem về. Trong cơn bĩ cực khốn cùng, với cặp mắt mù lòa, hoàng tử Đĩnh đã lần mò trong rừng sâu, nhặt được hai mảnh tre khô, liền gõ vào nhau giả tiếng chim chóc để chúng tha thức ăn đến cho chàng cầm hơi, rồi hoàng tử lần mò dần ra cửa rừng. Vô tình quờ quạng được sợi dây rừng, tước nhỏ, se lại, Đĩnh buộc vào cây song mây hình cánh cung để làm đàn và cất lên những khúc nhạc lòng ai oán. Những người sơn tràng nghe thấy, liền đưa chàng ra khỏi rừng. Từ đó, hàng ngày hoàng tử Đĩnh lần mò ra xóm chợ, ngã ba đường, kiếm sống bằng chính lời ca, tiếng đàn của mình. Tiếng đồn về những khúc nhạc của người nghệ sĩ mù dần vang xa, lan mãi đến tận kinh thành và tới tai nhà vua... Nhờ đó mà vua cha đã tìm được Đĩnh và trừng trị Toán. Nghệ thuật hát xẩm nước Nam ta bắt đầu từ đấy. Trong truyền thuyết về tổ nghề cũng như trong hiện thực, hát xẩm vốn là một loại hình nghệ thuật âm nhạc của những nghệ sĩ hát rong - mà chủ yếu là những người khiếm thị. Trong mỗi nhóm xẩm, ít nhất phải có một người như vậy. “Xẩm” vừa là tên gọi của thể loại, đồng thời cũng là tên gọi của những nghệ sĩ hành nghề, như anh xẩm, chị xẩm hay bác xẩm... Trong những đồ nghề bất ly thân của mỗi nhóm xẩm truyền thống, bao giờ cũng có một chiếc chậu đồng thau. Bên cạnh chức năng vốn có trong sinh hoạt thường nhật, nó còn là vật rất hữu dụng khi xẩm hành nghề. Trước khi an vị nơi xóm chợ, đầu làng để cất lời ca tiếng hát, họ luôn đặt nó ra trước mặt để khách vãng lai bỏ tiền thưởng. Bởi thời trước, người ta hay dùng tiền kim loại. Khi người xem ném tiền thưởng vào chậu, người nghệ sĩ khiếm thị nghe thấy sẽ biết mình đạt được “thành quả” lao động như thế nào để còn hứng khởi tiếp xướng. Đó quả là một hiện tượng hết sức thú vị! Theo thời gian, xẩm đã dần phát triển và định hình thành một nghệ thuật âm nhạc độc đáo với hệ thống làn điệu riêng. Bởi thế, tên những điệu hát này thường hay kèm theo chữ “xẩm”, như những làn điệu xẩm xoan, xẩm chợ… với tính chất lạc quan, khỏe khoắn, tươi vui, yêu đời. Trong hệ thống làn điệu của Xẩm, có những làn điệu hấp dẫn, đặc sắc đến mức các bộ môn nghệ thuật khác như Chèo, Quan họ và thậm chí Ca trù đều phải “vay mượn”, như các điệu xẩm huê tình, xẩm chợ, xẩm xoan... Bài xẩm huê tình khi được các đào nương, kép đàn ca trù du nhập vào trong hình thức ca quán thính phòng, thường gọi là điệu xẩm cô đầu (hay xẩm nhà trò). Nói vậy để thấy các nghệ sĩ giáo phường ca trù rất tôn trọng nghệ thuật xẩm, họ vẫn giữ chữ “Xẩm” ở làn điệu này nhằm chỉ rõ gốc gác của làn điệu. Nhìn chung, dung lượng lời ca các bài xẩm thường khá dài, đủ để chuyển tải nhiều nội dung khác nhau, mang đậm phong cách hát kể chuyện. Không tìm thấy những bài ca ngắn gọn ở đây. Điều này có thể hiểu được, bởi trong môi trường diễn xướng hỗn tạp đông người nơi đầu chợ, bến đò, góc phố.., sự “dài hơi” của những bài ca là điều tối cần thiết. Người ta sẽ không thể cảm nhận kịp những bài ca ngắn (kiểu cấu trúc ca khúc). Thế nên các nghệ sĩ xẩm luôn phải sáng tạo thật nhiều lời ca dài khác nhau để câu khách. Ngay đến câu ngâm sa mạc - một làn điệu mà chỉ cần một cặp lục bát là đủ một đơn vị tối thiểu, xẩm đã dùng để ngâm cả một chuyện thơ dài, như bài Anh khóa chẳng hạn, đến vài chục câu thơ lục bát. Tính kể chuyện - câu khách dường như là một sự thích ứng hoàn hảo trong bộ môn nghệ thuật này. Làn điệu “trường thiên”, nổi tiếng nhất của Xẩm có lẽ là điệu xẩm thập ân. Nội dung kể về công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục, từ lúc phôi thai, mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn cho đến lúc trưởng thành như thế nào... Với tính chất da diết, xoáy sâu vào lòng người, xẩm thập ân được xem như làn điệu đặc trưng nhất của nghệ thuật Xẩm. Nó được coi như một trường ca giáo hiếu hoàn hảo. Nếu hát liền mạch đủ từ một ân đến mười ân, dễ phải đến nửa giờ đồng hồ. Trong những làn điệu man mác buồn, day dứt, còn phải kể đến điệu hà liễu - chuyên dùng cho những bài thơ tự sự, giãi bày nỗi niềm, thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa… Bên cạnh những làn điệu riêng, trên đường phiêu diêu lang bạt kỳ hồ, xẩm còn du nhập nhiều làn điệu dân ca khác, bên cạnh những làn điệu vay mượn ở những thể loại bạn như hát ví, trống quân, sa mạc, hành vân, lưu thủy... Điều đặc biệt, những làn điệu đó đều được “xẩm hóa” cho đúng với phong cách dân dã, giang hồ của các nghệ sĩ. Như điệu hát trống quân chẳng hạn, vốn là một điệu hát đối đáp trai gái trữ tình, xẩm đã chuyên dùng làn điệu này để chuyển tải những nội dung châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội, như bài Dâu lười hay Rể lười... Cũng có khi là cả một bài thơ cập nhật những sự kiện nóng hổi mang tính thời sự. Nghệ nhân Hà Thị Cầu Về nhạc cụ, điều đáng nói trước nhất là cây đàn bầu. Theo truyền thuyết, nó được coi là nhạc cụ đặc trưng của xẩm lúc ban đầu (thế nên người ta còn gọi nó là đàn xẩm). Một nhóm xẩm thuộc loại “vai vế” trong vùng không thể thiếu được nhạc cụ này. Song, phần vì âm lượng hạn chế, phần vì khó học, khó chơi hơn đàn nhị nên không phải nhóm xẩm nào cũng sử dụng đàn bầu. Chồng bà Hà Thị Cầu - nghệ nhân xẩm Nguyễn Văn Mậu là một trùm phường xẩm chơi đàn bầu nổi tiếng thời trước ở vùng Ninh Bình. Theo thời gian, về cơ bản, một nhóm xẩm thường phải có đàn nhị, sênh, phách và cặp trống mảnh (trống da một mặt). Tùy vào điều kiện nhân lực, họ cũng có thể chơi đủ cả đàn bầu hay đôi khi thêm vào chiếc trống cơm hoặc sáo. Nhưng với hoàn cảnh lang thang kiếm sống nay đây mai đó, nhiều khi chỉ cần một đàn nhị và cỗ phách đơn hay cặp sênh là đủ tiếng tơ đồng phụ họa. Khi trình diễn, bao giờ cũng có một người hát chính, những người còn lại chơi nhạc cụ đệm hoặc hát đỡ giọng khi cần.Nói về khả năng trình diễn, xẩm thuộc loại bộ môn mà nghệ nhân luôn phải vừa hát, vừa diễn tấu nhạc cụ cùng lúc. Ở đây, có lẽ tính chất o ép miếng cơm manh áo đã khiến người nghệ sĩ buộc phải rèn luyện tối đa để thích ứng với sự “tinh giảm biên chế”, nhưng vẫn đảm bảo sự phong phú về nghệ thuật. Vừa đàn vừa hát được xem như một tiêu chuẩn “có hạng” của một bác xẩm thực thụ. Bên cạnh đó, cũng không hiếm những nghệ sĩ đa năng hơn, như bu tôi - nghệ nhân Hà Thị Cầu là một ví dụ điển hình. Bà thường vừa hát vừa có thể sử dụng trống phách bằng cả tay… lẫn chân. Ngón chân phải kẹp 1 dùi gõ cỗ phách. Tay trái cầm cặp sênh, đồng thời gác lên thành chiếc trống mảnh thứ nhất, giữ chặt chiếc trống này tỳ vào đùi bên trái theo phương thẳng đứng. Chiếc trống mảnh thứ hai được gác vào bắp vế đùi trái (hoặc gác vào cổ chân như trong ảnh). Tay phải bà cầm dùi vừa gõ trống, vừa gõ phụ trợ vào cặp sênh. Hãy thử hình dung xem, tay trái giữ sênh đi một chùm tiết tấu riêng, phách dưới chân đi nhịp đồng độ, tay phải lên xuống gõ “bập bung” vào 2 mặt trống, đồng thời gõ cả vào sênh, miệng vẫn bỏm bẻm nhai trầu, hát cứ như không, thật thiện nghệ. Xẩm hoạt động theo từng gia đình đơn lẻ. Trong những dịp hội làng, họ cũng thường hay kết nhóm để tăng cường khả năng phối hợp nghệ thuật giữa chốn đông người. Trong từng vùng, các nhóm xẩm lại kết thành phường hội với sự sắp đặt trên dưới rất có tổ chức. Trùm phường có nhiệm vụ bảo ban, điều hành các nhóm làm ăn sao cho có nền nếp, trật tự. Bên cạnh đó, họ cũng rất có ý thức trong việc tổ chức truyền nghề cho đám con em. “Lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều” là cái nết ăn, nết ở không thể thiếu để các nghệ sĩ có thể dựa dẫm, đùm bọc lẫn nhau trên mọi nẻo đường sinh nhai. Xuân thu nhị kỳ, khoảng hạ tuần tháng Hai và tháng Tám âm lịch, cả phường xẩm lại tụ họp với nhau trong những ngày giỗ Tổ nghề. Chẳng có đền đình, miếu điện hay thậm chí một ngôi nhà khang trang nào, họ chỉ “mượn tạm” bãi đất hoang, góc chợ vắng hay ngôi điếm nhỏ ven đường làm nơi dựng đàn tế tổ. Thành tâm, thành ý cầu khấn đức ngài Trần Thánh sư về chứng chiếu phẩm vật, nghe tiếng đàn ca sáo nhị tấu thờ mà phù hộ độ trì cho xẩm, mong sao kiếm đủ miếng cơm manh áo giữa dòng đời xuôi ngược. Tế lễ xong, vợ chồng, cha con lại dắt díu, bồng bế nhau lên đường, tỏa đi khắp nơi để kiếm sống bằng lời ca tiếng hát của mình. Địa bàn hoạt động của các nhóm xẩm thông thường chỉ cố định tại một tỉnh thành, nơi đông người qua lại. Phần nhiều, các nhóm sẽ “cát cứ”, khoanh vùng hoạt động riêng biệt và không “lấn sân” nhau. Theo lời kể của học giả Tô Ngọc Thanh, hồi còn nhỏ, ông đã từng chứng kiến bốn phường xẩm “trấn giữ” bốn góc hồ Hoàn Kiếm. Có thể nói đó là thời kỳ cực thịnh của nghệ thuật hát xẩm. Tuy nhiên, khi gặp phải thời kỳ làm ăn khó khăn, đặc biệt là lúc giáp hạt, mất mùa, các nhóm xẩm đơn lẻ buộc phải đi tha phương, lưu diễn liên tỉnh. Gặp nơi “đất lành”, họ dừng lại hành nghề. Đến khi vận may không còn, lại khăn gói lên đường như những cánh chim không mỏi. Lịch sử đau thương nhất của xẩm là thời kỳ nạn đói năm Ất Dậu, rất nhiều nhóm xẩm đã bị xóa sổ. Nhóm của bu tôi, khi đó, với sự sáng suốt của người chồng - Trùm phường vùng Yên Mô - Ninh Bình đã nhanh chóng ly hương vượt dặm trường, thoát lên tới tận vùng người Mường xứ Thanh. Nhờ vậy mà vợ chồng bà mới thoát nạn. Nói vậy để thấy xẩm kiếm sống hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội. Nước nổi, bèo trôi, xẩm không có tấc đất canh tác cũng như bất cứ một nghề phụ nào. Và điều đó cũng có nghĩa, xẩm là loại hình có tính chuyên nghiệp vào bậc nhất trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam. Từ một môi trường diễn xướng là hát rong, đã phát sinh ra một loại hình nghệ thuật chuyên biệt quả là một hiện tượng đặc biệt trong văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Ở đây, cần hiểu rõ tư cách của người hát xẩm. Họ là những nghệ sĩ chân chính, làm đẹp cho đời và kiếm sống bằng chính tài năng nghệ thuật của mình. Xẩm hoàn toàn không phải là những người ăn mày. Họ sống bằng những đồng tiền thù lao tự nguyện của mọi người chứ không bao giờ ngửa tay van xin bố thí. Nhìn trên diện rộng, xẩm cũng giống như tất cả mọi nghệ sĩ chuyên nghiệp, chỉ khác ở chỗ, sân khấu của họ chính là đường phố, là gốc đa, bến nước, sân đình... hoặc đơn giản chỉ là một góc chợ quê nghèo. Thù lao không tính trước kiểu “bán vé” mà “tự do thả nổi”, ai muốn trả bao nhiêu thì… tùy! Nghệ nhân ca trù Kim Đức cho tôi hay, thủa còn “đào Hồng đào Tuyết” ở Khâm Thiên, mỗi lần rỗi rãi, thấy nhóm xẩm đi qua, đám đào kép ca trù cũng thường mời xẩm vào nhà trình diễn. Bà cũng thừa nhận xẩm không ăn xin bao giờ, và nếu muốn nghe xẩm hát trong nhà, phải có lời mời đàng hoàng, tử tế, mới hay. Như vậy, đã có một thời, xẩm là món ăn tinh thần của quần chúng lao động. Với bản chất nghệ thuật ngẫu hứng ứng diễn, hát xẩm có nội dung nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Nó đề cập đến nhiều vấn đề ở mọi khía cạnh, trong mọi tình huống của cuộc sống, từ công cha nghĩa mẹ, tình yêu, tình vợ chồng, tình huynh đệ cho đến những tình cảm riêng tư của mỗi con người, hay những vấn đề mang tính thời sự cập nhật, đả kích và phê phán những thói hư tật xấu của xã hội đương thời. Không chỉ phục vụ cho đám đông ngoài xã hội, người nghệ sĩ xẩm còn sẵn sàng phục vụ theo yêu cầu, nhiều thì trong dịp cưới xin, ma chay, giỗ kỵ.., ít thì đơn giản chỉ là “nhờ bác xẩm đánh tiếng dùm” với cô nàng thôn nữ đang đứng bên đàng... Thế thôi! Hiện tại Đã có một thời hoàng kim của nghệ thuật hát xẩm trong quá khứ. Lịch sử đã từng ghi nhận như vậy. Còn trong hiện tại, bộ môn nghệ thuật này ra sao? Trước hết, xin hãy quan sát những người hát rong trên đường phố, với cây đàn ghi-ta điện và bộ khuếch đại âm thanh lưu động. Họ chỉ hát những thể loại nhạc mới, trong đó chủ yếu là “nhạc vàng” của miền Nam trước giải phóng hay nhạc Việt hải ngoại... Họ tuyệt nhiên không biết hát xẩm và không thể gọi họ là những nghệ sĩ xẩm truyền thống. Thực tế, từ thập niên 60 trở lại đây, vì nhiều nguyên nhân khác nhau do điều kiện môi trường và xã hội, đặc biệt là do những quan niệm sai lầm, các phường xẩm dần tan rã và không hoạt động nữa. Họ được quy tụ lại trong những hợp tác xã vót tăm tre, hay bện… chổi rơm. Các nghệ nhân xẩm tài danh bước dần vào tuổi xế chiều, rồi lần lượt ra đi, vĩnh viễn đem theo những giá trị nghệ thuật đặc sắc mà họ đã từng lưu giữ và thực hành. Đời sống xã hội của nghệ sĩ xẩm không còn nữa. Trong các trường đào tạo nghệ thuật âm nhạc của ta, nhạc cổ truyền dân tộc vốn chỉ được giảng dạy với một dung lượng hạn chế, theo kiểu “mỗi thứ một tí”, trong số đó tuyệt nhiên không có nghệ thuật xẩm. Đây đó, một số đoàn chèo, một vài nghệ sĩ có ý thức giữ gìn nghệ thuật xẩm đã tiếp thu được vài làn điệu để làm vốn trình diễn. Trong số đó, có nghệ sĩ Thanh Hoài, Xuân Hinh, Thanh Ngoan... là những hiện tượng đáng trân trọng và nên phát huy. Tuy nhiên, phải nói ngay rằng, dung lượng của nghệ thuật xẩm truyền thống ở đây đã bị “nhòa” đi rất nhiều, vì bản thân họ vốn là nghệ sĩ hát chèo. Họ thường xử lý kỹ thuật thanh nhạc trong bài bản có nhiều điểm khác hẳn với nghệ nhân xẩm. Hiện tại, vâng! Vẫn trong hiện tại, còn một nghệ nhân xẩm cuối cùng của Việt Nam, đó là bu tôi - nghệ nhân Hà Thị Cầu, đã vào cái tuổi bát thập cổ lai hy, hiện đang sống tại Yên Phong - Yên Mô - Ninh Bình. Bà đã được Nhà nước phong tặng Nghệ sĩ ưu tú. Tuy vậy, những người nghiên cứu và bảo vệ văn hóa nghệ thuật cổ truyền vẫn gọi bà là nghệ nhân- cái danh hiệu cao quý mà chỉ có cuộc đời mới phong tặng được cho những bậc tài danh như bà. Nếu chúng ta không kịp làm những gì mà “thà muộn còn hơn không ” thì, chắc hẳn trong tương lai xa xôi, người đời sau sẽ kể lại rằng: “Ngày xửa ngày xưa, xưa lâu lắm rồi, vào khoảng cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, ở Việt Nam ta còn mỗi một nghệ nhân hát xẩm cuối cùng. Mọi người đều ý thức được điều đó. Ấy thế mà nghệ thuật xẩm vẫn bị thất truyền..!” Bùi Trọng Hiền (Nhà âm nhạc dân tộc học) nguồn Vietimes
-
Trong lãnh địa phù phép của tiếng khóc, trong bí nhiệm của tiếng cười...! "... Khi bạn vui, hãy nhìn sâu vào trái tim mình để nhận ra rằng chỉ những thứ khiến bạn muộn phiền mới mang lại cho bạn niềm sung sướng. Khi bạn buồn hãy lại nhìn sâu vào trái tim mình để thay rằng bạn đang than khóc cho những thứ đã từng là niềm say mê của bạn..." Niềm vui chính là nỗi buồn khi thoát khỏi chiếc mặt nạ của mình. Và nơi mà tiếng cười của bạn cất lên cũng thường là nơi ngập tràn nước mắt bạn. Làm sao có thể khác được? Nỗi buồn càng dày vò bạn bao nhiêu, niềm vui càng chất chứa bấy nhiêu. Chẳng phải chiếc cốc mà bạn uống rượu chính là chiếc cốc đã bị nung trong lò của người thợ gốm hay sao? Chẳng phải cây đàn đang ru hồn bạn chính là mảnh gỗ đã bị dao đẽo gọt đau đớn đấy hay sao? Khi bạn vui, hãy nhìn sâu vào trái tim mình để nhận ra rằng chỉ những thứ khiến bạn muộn phiền mới mang lại cho bạn niềm sung sướng. Khi bạn buồn hãy lại nhìn sâu vào trái tim mình để thay rằng bạn đang than khóc cho những thứ đã từng là niềm say mê của bạn. Có những người nói, “Niềm vui vĩ đại hơn nỗi buồn,” còn những người khác nói, “Không, nỗi buồn vĩ đại hơn.” Nhưng tôi nói với bạn rằng niềm vui với nỗi buồn không thể tách rời nhau. Chúng cùng đến, khi một kẻ ngồi với bạn bên bàn ăn thì hãy nhớ rằng kẻ kia đang chui vào giường bạn. Bạn luôn bị treo lơ lửng trên cân giữa niềm vui và nỗi buồn. Chỉ khi bạn trống rỗng bạn mới đứng yên và cân bằng. Khi chiếc cân trở nên bập bênh, buồn vui của bạn cũng vì thế mà thăng trầm lên xuống. Kahlil Gibran Như khuê chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh ( nguồn vietimes )
-
Thông tin này cung cấp để ACE tham gia chủ đề : - 1 Vụ kiện được chính thức khởi kiện tháng Thân năm Đinh Hợi ( 2007 ) Tính chất ? - Thành phần tham gia 2 tuổi chủ lực Canh Tý , Bính Thân . nhóm có 6 người . Còn lại bao nhiêu người bên ngoài ? - Kết quả vụ kiện ? thời gian kết thúc ? - Án có kết luận thế nào ? - Tội danh gì ? Hình sự ? hay dân sự ?
-
Wild là người kế tiếp cho thực nghiệm !( Nữ ) Sinh ngày 18 - 06 - Bính thân ( giờ Hợi ) .
-
Buổi sáng tại Công Ty ..... Tin vui đây ....tối qua cô thư ký Mary đã chuyển dạ , kết quả Mẹ tròn con vuông . Còn bây giờ các đàn ông trong công ty chuẩn bị góp mỗi người 500 đô để mua hoa...và thử ADN . Thư giản cuối tuần Nguồn Tuổi trẻ Chủ nhật .
-
Chúc mừng Phạm Cương ! XD sẽ tiến xa để vinh danh nghề nghiệp và PTLV .
-
Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần V Thứ tư, 14/11/2007, 07:00 GMT+7 Khi tôi tiến hành nghiên cứu này thì hoàn cảnh xã hội ở Việt Nam đã phức tạp hơn những năm 1980 rất nhiều. Việc thờ cúng tổ tiên cũng đã phát triển rộng và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người Việt. Các nghi thức này không những nhằm chuyển tải những thông điệp mà còn để tỏ lòng biết ơn của những người sống đối với những người đã khuất. Ở Việt Nam bây giờ, người ta bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bằng nhiều cách, không chỉ bằng việc thờ cúng mà còn bằng các hành động khác nữa. Hầu hết mọi người dân làng Đình Bảng ngày nay quan niệm rằng tổ tiên sống ở một thế giới khác gọi là thế giới tâm linh. Những người như bà Thuý tin vào sự linh thiêng của tổ tiên, cho rằng họ có thể thấu hiểu, bảo vệ và phù hộ cho con cháu mình. Bà Thúy quả quyết, tổ tiên đã phù hộ bà rất nhiều từ việc bảo vệ bà khỏi bị tai nạn giao thông ở trên quốc lộ 1 đến việc làm cho mối quan hệ anh em trong gia đình bà hòa thuận trở lại, từ việc giúp cháu trai bà vượt qua kì thi đến việc làm vết thương trên cổ bà mau lành. Bà Thúy tin đây là kết quả của sự quan tâm và lòng thanh kính của mình đối với tổ tiên. Những gì bà đã làm là một sự kết nối, duy trì mối quan hệ của bà đối với những người đã mất. Ông bà có thể phù hộ con cháu họ là một trong những lý do khiến mọi người coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, vẫn còn có một lý do khác buộc những người còn sống phải quan tâm đối với những người đã mất, đó là các quan niệm thuộc nền tảng đạo đức, đạo lý làm người. Đạo làm con phải “uống nước nhớ nguồn”. Không ai tự nhiên được sinh ra, không ai tự nhiên lớn lên, tất cả đều phải chịu ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và những người đi trước, “có tổ tiên mà mới có mình”. Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao của tổ tiên chính là để thể hiện “đạo lý làm người”, một đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam. Tưng bừng ngày hội tưởng nhớ tổ tiên của người Việt Cách thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên liên quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Ví dụ, ngôi mộ mà gia đình bà Thúy xây dựng cho cha mẹ chứng tỏ bà có hoàn cảnh kinh tế khá giả, và bà rất tự hào vì “mọi người cho rằng nó là ngôi mộ đẹp nhất làng”. Chính điều này nhiều khi cũng gây ra không ít những sự ganh đua trong làng. Vì thế, trong nghĩa trang ngày càng mọc lên nhiều ngôi mộ rất lớn và đẹp. Tuy nhiên, giá trị thực sự của một ngôi mộ chính là ở sự thành tâm của đạo làm con. Vẻ đẹp của ngôi mộ không chỉ chứng tỏ sự thành công về mặt tài chính mà còn thể hiện sự tận tụy và tính nhân văn của một gia đình có nền tảng đạo đức tốt đẹp. Cùng với việc thờ cúng, sự quan tâm đến mồ mả cha ông của bà Thuý càng làm nổi bật lên nhân cách tốt đẹp của cá nhân bà nói riêng và gia đình bà nói chung. Bà muốn thực hiện đúng bổn phận làm con cả khi bố mẹ còn sống và khi họ đã mất. Việc thờ cúng, sự quan tâm đến mồ mả cha ông là thực hiện đúng bổn phận làm con cả khi bố mẹ còn sống và khi họ đã mất. Trong các dịp giỗ tổ của dòng họ Nguyễn Thạc, những người con còn sống đã nhấn mạnh công lao của các cha ông, từ công lao của vương phi Ngọc Long, người được xem là có công lớn trong việc tạo dựng nên bảy thế hệ có người làm quan của dòng họ đến những thành viên gần đây, những người có công phục vụ tổ quốc trong các cuộc chiến tranh giành độc lập. Tất cả tên tuổi của họ đều được ghi tại “bảng ghi công”.Công lao mang lại sự vẻ vang và danh tiếng không chỉ cho những cá nhân có liên quan mà còn cho toàn thể đại gia đình. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Thạc, ông Nguyễn Thạc Lượng đã có công mang lại danh tiếng cho tất cả các thế hệ ông bà đi trước và để lại phúc đức cho tất cả các thế hệ con cháu sau này. Nhà thờ họ hay ngôi đình làng Đình Bảng như chúng ta biết ngày nay được xây dựng và đã làm rạng danh trước hết là vợ chồng ông, sau đó đến dòng họ Nguyễn Thạc và đến những người trong làng. Gia phả còn ghi lời nói của ông, đại ý là những công trình do ông xây dựng bao gồm cả nhà thờ họ là di sản để lại cho cả làng chứ không phải cho một cá nhân nào cả. “Ông không màng danh lợi”, ông Sung nói và nhấn mạnh không ai có thể tìm kiếm được bất kì một dấu vết nào chứng tỏ là ông Lượng đã xây ngôi nhà này. “Không giống như ngày nay, mọi người thường khắc tên mình vào các cây cột để được ghi nhớ đến muôn đời”, ông nói với vẻ mặt nghiêm nghị, ám chỉ đến hành động mà những người “tài trợ” thường làm khi góp công khôi phục một công trình kiến trúc. Nhìn chung người làng Đình Bảng nói riêng và người Việt Nam nói chung thực sự tự hào về việc thờ cúng tổ tiên, hay nói khác hơn là việc này tạo cho họ cơ hội giao tiếp, phát triển mối quan hệ họ hàng, chia sẻ vui buồn và hợp tác với nhau vì lợi ích của cả cộng đồng. Còn nhớ buổi tối “nhận họ” của những người khách từ Nghệ An ra và những người thuộc dòng họ Nguyễn Thạc ở Bắc Ninh, một bữa ăn chung ấm cúng đã khiến họ có điều kiện nói chuyện, trao đổi ý kiến để củng cố thêm tình thân thiết họ hàng. Có thể nói, tổ tiên ông bà và những người đã mất đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong đời sống người Việt Nam hiện nay. Tổ tiên ông bà và những người đã mất đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong đời sống người Việt Nam hiện nay. Trong bài nghiên cứu này tôi đã tìm hiểu việc thờ cúng tổ tiên thời hiện đại ở Việt Nam thông qua hai con người sống cách nhau chưa đến 1km trong làng Đình Bảng, đó là bà Thúy và ông Sung.Họ đều được sinh ra trong thời loạn lạc, đều lớn lên trong thời Pháp thuộc và chiến tranh, họ đều là những thầy cô giáo. Họ là hai nhân vật điển hình trong phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Tuy nhiên, họ có những cách khác nhau: Bà Thúy thì tập trung củng cố mối quan hệ của mình với những người đã mất còn ông Sung thì bắt tay vào khôi phục lại một dòng họ sao cho gắn bó hơn. Tóm lại, cả hai trường hợp đều làm cho chúng ta thấy được sự ảnh hưởng của tín ngưỡng địa phương, đặc biệt là tục thờ cúng đối với cuộc sống từng gia đình. Việc thờ cúng tổ tiên trong xã hội Việt Nam hiện đại có rất nhiều hình thức khác nhau nhưng bây giờ và mãi mãi về sau nó vẫn sẽ là một truyền thống có ý nghĩa trường tồn và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng, một đạo lý, một truyền thống của đất nước hay chỉ là mê tín? Các cuộc tranh luận có thể đã cho chúng ta hiểu một phần nào về bản chất của nó nhưng để hiểu được thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống con người thì chúng ta cần phải theo những vạt khói hương để quay trở lại các bàn thờ ... Hạ Anh (Vietimes) dịch
-
Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần IV Thứ ba, 13/11/2007, 07:00 GMT+7 Nếu người con gái được yêu quý nhất của dòng họ Nguyễn Thạc - là vương phi Ngọc Long thì người con dâu được yêu quý nhất là một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Nguyên. Chuyện kể rằng ông Nguyễn Thạc Lượng, thế hệ cuối cùng trong 7 thế hệ có người làm quan của dòng họ Nguyễn Thạc đã vượt qua kỳ thi tuyển chọn nhân tài và được ban cho một chức quan trong triều dưới thời của chúa Trịnh Kiểm; Gia phả của dòng họ Nguyễn Thạc ghi lại rằng ông “không những đỗ đạt cao mà còn giàu có”. Một lần đang làm quan ở tỉnh Thanh Hóa, ông Lượng đã gặp và kết hôn với một người con gái địa phương tên là Nguyễn Thị Nguyên. Theo ông Sung kể, cô dâu đã tự nguyện rời bỏ quê hương và tài sản hiện có để theo chồng đến bất cứ nơi nào mà ông phải thuyên chuyển đến. Tuy nhiên, bà không để ông Lượng quên gốc gác tổ tiên của mình. “Bà có một điều ước là cùng chồng quay trở lại quê hương ông nên sẽ xây dựng ở quê nhà một ngôi nhà thờ họ. Để thực hiện được mơ ước này, bà đã phải tìm những cây cột bằng gỗ lim, mỗi cây dài sáu mét và đường kính hơn nửa mét ở Thanh Hóa và vận chuyển về Đình Bảng. Khó khăn nhất là khi những con ngựa phải kéo những khúc gỗ ngược dòng sông đến quê hương Đình Bảng”, ông Sung kể. Đình Bảng Được bắt đầu xây dựng năm 1700 và hoàn thành năm 1736, ngôi nhà thờ của dòng họ Nguyễn Thạc được công nhận là kiểu kiến trúc cổ của quốc gia, một trong những ngôi nhà cổ kính nhất đất Kinh Bắc. Khi hoàn thành, ngôi nhà trở thành tài sản của dòng họ, được sử dụng để thờ cúng, làm nơi ăn chốn ở. Ngôi nhà đã cuốn hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu thuộc địa; học giả người Pháp Pierre Gourou đã dành một vài trang trong bài nghiên cứu địa lý xã hội đồng bằng Sông Hồng để phác thảo những bản vẽ, tấm ảnh, mô tả ngắn gọn về ngôi nhà và khen ngợi kiểu kiến trúc đơn giản mà tao nhã của nó.Ông Sung nhớ lại, khi ông còn là một cậu bé, “người Việt cũng như người Trung Quốc cho rằng một ngôi nhà có bốn thế hệ cùng sinh sống (tứ đại đồng đường) thì rất hạnh phúc. Ngôi nhà thờ họ lúc đó là một ngôi nhà như thế. Các cụ của tôi, ông bà tôi, bố mẹ tôi và tôi, tất cả đều sống ở đây, vì vậy trong ngôi nhà này có bốn thế hệ cùng sinh sống”. Ông nhớ lại, gian nhà chính lúc đó là gian nhà đặt bài vị tổ tiên. Đối với cậu bé Sung lúc ấy, gian thờ là một nơi “lạnh lẽo và đáng sợ”, một khoảng không gian thiêng liêng, hạn chế trẻ con và những người không thuộc dòng họ bước chân vào. Xung quanh ngôi nhà còn có một sân rộng, một bể nước và một hồ cá. Bắt đầu từ năm 1932, mẹ ông phát triển nghề nhuộm quần áo tại và công việc ngày càng phát triển, bà phải thuê thêm hơn 20 công nhân và bán quần áo nhuộm ở những nơi xa như Sài Gòn. Nhưng mọi thứ đã thay đổi khi cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất nổ ra, thực dân Pháp chiếm đóng làng Đình Bảng và chiếm luôn ngôi nhà thờ họ này từ năm 1949 đến 1954. Đầu tiên, gia đình ông Sung tản cư lên vùng kháng chiến ở Thái Bình và sau đó về Hà Nội khi cuộc chiến kết thúc. Ông Sung xem sự tồn tại của ngôi nhà thờ là một điều kì diệu, một phần do sự bảo vệ của tổ tiên, một phần do sự uy nghiêm, linh thiêng của nó. “Có lẽ công trình xây dựng này có một tính chất đặc biệt, đó là lý do tại sao quân Pháp đã không phá hủy nó, mặc dù họ phá hủy toàn bộ các ngôi nhà quanh đấy. Có lẽ điều này là một sự may mắn quá lớn đối với chúng tôi, và có thể cũng vì người Pháp cảm nhận được vẻ đẹp kiến trúc và sự linh thiêng của ngôi nhà thờ nên họ không dám phá huỷ nó. Khi chúng tôi từ vùng kháng chiến trở về thì tất cả các phòng vẫn nguyên vẹn như trạng thái ban đầu, chỉ một vài viên đá lát nhà bị cạy mất”, ông Sung nói. Trong suốt thời kì cải cách ruộng đất 1957-1958, gia đình ông Sung và dòng họ Nguyễn Thạc rơi vào hoàn cảnh khó khăn và mất đi một vài người chủ chốt. Bố mẹ của ông Sung do buôn bán thuận lợi nên đã trở nên phát đạt. Họ tiếp tục sống trong ngôi nhà nhưng có một thời gian họ cho một công ty dệt của những người ngoài dòng họ đến ở và sản xuất. Cho đến khi bố ông cảm thấy không chịu nổi những tiếng ồn ào của những chiếc máy dệt, ông Sung đã quyết định không cho công ty này thuê nữa. Thời chiến, các nghi lễ tại ngôi đình được tiến hành không thường xuyên và nếu có thì chỉ ở làm rất đơn giản, do ông trưởng họ chủ trì. Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thỉnh thoảng thực dân Pháp cho phép bố của ông Sung về để quản lý và kiểm soát việc thờ cúng vào những ngày giỗ chính. Ông Sung ngờ rằng, Pháp ban cho bố ông đặc quyền đó là vì mẹ ông đã khéo léo mang cho lính Pháp những mặt hàng mà họ ưa thích. Sau khi Pháp rút, từ năm 1954 đến chiến tranh Đông Dương lần thứ hai xảy ra và cả sau khi hòa bình được lập lại, mọi thứ đều công hữu hóa, dòng họ không có điều kiện làm những cuộc giỗ tết chung như trước đây.. Đình làng Đình Bảng Cuối những năm 1980, thời kì Đổi Mới bắt đầu, người ta được phép khôi phục lại các lễ hội và các phong tục cũ, đồng thời tôn tạo lại đình chùa và các ngôi nhà thờ họ. Giữa những năm 1990, không lâu sau thời điểm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt - Nhật, Nhật Bản bắt đầu cấp kinh phí cho việc bảo tồn văn hóa của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản từ trường Đại Học Showa, Tokyo đã điều tra 676 căn nhà truyền thống ở Bắc Ninh và cho rằng căn nhà của dòng họ Nguyễn Thạc là nơi cần được khôi phục nhất. Và họ đã tiến hành khôi phục lại ngôi nhà với số tiền đầu tư lên đến một triệu đôla, do Hội hợp tác quốc tế Nhật Bản tài trợ. Ngôi nhà của dòng họ Nguyễn Thạc được chọn không chỉ vì giá trị lịch sử và sự tinh xảo của lối kiến trúc dân tộc mà còn vì những bức vẽ tỉ mỉ của Gourou từ những năm 1930. Những người đứng đầu dòng họ Nguyễn Thạc, Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), nhóm nghiên cứu Nhật Bản và những người thợ thủ công lành nghề đã cùng nhau góp công sức để tôn tạo lại ngôi đền giữa năm 2001 và nó đã được UNESCO công nhận là một trong sáu ngôi nhà cổ của Việt Nam. Song song với việc tiến hành những cải cách chính trị, kinh tế, luật pháp và ngoại giao có ảnh hưởng sâu rộng trong thời kì đổi mới, thì với nguồn động viên của chính phủ, người Việt Nam đang dần khôi phục lại các yếu tố tôn giáo truyền thống và các lễ hội làng. Và tất nhiên, các giá trị văn hóa và các phong tục này vẫn sẽ tiếp tục phát triển trên nền tảng của những thay đổi của xã hội mới. Mọi người dân Việt Nam xem việc thờ cúng tổ tiên là một “truyền thống dân tộc”, có lịch sử lâu đời và được truyền từ đời này đến đời khác trên khắp đất nước. Tuy nhiên, trong suốt những năm trước cách mạng, việc thờ cúng tổ tiên được xem là công việc của từng cá nhân vì ba lý do chính. Thứ nhất, mọi nguồn lực phải huy động vào việc chiến đấu giành độc lập và xây dựng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không khuyến khích các lễ hội tốn kém và mang nặng tính chất tôn giáo vì đất nước còn quá nghèo ,đồng thời kẻ địch có thể lợi dụng tôn giáo để làm lung lay ý chí của người dân. Thứ hai, như đã đề cập ở trên, Đảng đã tiến hành các chính sách và các cuộc vận động nhằm bại trừ nạn “mê tín dị đoan”, xoá bỏ các hủ tục như lên đồng và hoá vàng. Thứ ba, trong thời chiến, các gia đình ở phân tán và đời sống khó khăn, khó có cơ hội tập trung cả một dòng họ rất đông người để tổ chức chung các buổi lễ tưởng nhớ tổ tiên.Hình thức phổ biến nhất của những người Việt theo tục lệ thờ cúng tổ tiên là tìm những nơi kín đáo, để bày tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ những người đã khuất bằng những buổi cúng lễ đơn giản nhất trong phạm vi gia đình nhỏ của mình. Sau khi chiến tranh kết thúc, cùng với cả nước, làng Đình Bảng bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vào những năm 1990, khi chính phủ không còn quá khắt khe đối với các hoạt động tôn giáo thì các dòng họ trong nước bắt đầu tổ chức lại hoạt động chung của cả một đại gia đình. Nguyễn Thạc là một trong những dòng họ như vậy. Điều này chứng tỏ rằng đây là một dòng họ có sức tồn tại vững vàng qua các thập kỉ và sẽ tiếp tục trường tồn. Chính vì vậy mà nó đã lôi cuốn các nhà nghiên cứu Nhật Bản tìm kiếm và đầu tư để khôi phục. Nhờ nguồn vốn của Nhật Bản cùng với kiến thức của các nhà khoa học, những bức vẽ của người Pháp và kiến trúc của Việt Nam, hay nói đúng hơn là của dòng họ, đã được phục hồi. Làng Đình Bảng đã chỉ ra bốn đặc điểm mà sự phát triển kinh tế xã hội đã ảnh hưởng đến tôn giáo nói chung và việc thờ cũng tổ tiên nói riêng. Thứ nhất, quần chúng được tăng thu nhập, mức sống ngày càng cao, các chính sách văn hoá xã hội thoải mái đã tạo ra những điều kiện thuận lợi trong việc phục hồi các phong tục tôn giáo. Thứ hai, như đã đề cập ở trên trong trường hợp của bà Thuý về sự chênh lệch của đời sống vật chất thời hiện tại với cuộc sống nghèo túng mà cha mẹ bà trước đây đã phải trải qua, nên trong thời kinh tế thị trường con cháu có điều kiện để tỏ lòng biết ơn tổ tiên bằng các nghi lễ truyền thống như các ngày giỗ để tưởng nhớ họ. Thứ ba, xã hội phát triển không làm cho đời sống của người dân xao lãng chuyện thờ cúng tổ tiên, đại bộ phận có xu hướng “khuếch đại mối quan hệ họ hàng”, nối lại mối quan hệ đã một thời lỏng lẻo, bằng cách tổ chức những buổi làm giỗ, và các buổi thờ cúng tại các nhà thờ họ. Cuối cùng, với những cách tiếp cận thông tin trong thời hiện đại và sự hòa nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế, mạng lưới tôn giáo xã hội trong thời Đổi Mới đang mở rộng thành các lĩnh vực tôn giáo trên toàn quốc, thậm chí phát triển trên toàn cầu. Một ví dụ điển hình ở đây là sự liên kết giữa hai chi khác nhau của dòng họ Nguyễn Thạc ở Bắc Ninh và Nghệ An và sự phối hợp của dòng họ với những chuyên gia nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Hạ Anh (Vietimes dịch)
-
Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần III Thứ sáu, 9/11/2007, 07:00 GMT+7 Vào ngày 20 tháng 3 âm lịch năm 2001, tại nhà của ông Nguyễn Thạc Sung, nằm trên đường đi vào nhà bà Thúy, rất đông người. Ông Sung là một thầy giáo dạy toán đã về hưu, thuộc chi cao nhất trong dòng họ Nguyễn Thạc, còn gọi là trưởng họ. Đó là vị trí mà ông sẽ nắm giữ cho đến lúc chết, sau đó con trai lớn của ông sẽ kế tục. Ông mặc một cái áo vét màu xám, quỳ trên một cái chiếu trước bàn thờ và cầu khấn. Những người họ hàng nam đến từ tỉnh Nghệ An đứng xung quanh mép chiếu, im lặng với vẻ tôn kính, và muốn tìm hiểu những nghi thức hoàn toàn xa lạ với họ. Ngày 20 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ tổ của dòng họ Nguyễn Thạc và hôm nay là có một sự kiện lớn lôi cuốn hơn 200 khách, đó là khôi phục dòng họ... Sau khi ông Sung hoàn thành các lễ nghi đầu tiên, ba người đàn ông trong bộ áo thêu bước vào giữa chiếu. Họ dường như rất xấu hổ và ngập ngừng với vai trò của mình. Một người cầm một mảnh giấy được xé ra từ quyển vở học sinh, và đọc lầm bầm những gì đã được chuẩn bị trong đó. Những người đàn ông hội ý với nhau và thỉnh thoảng liếc qua ông Sung, bây giờ đang ở ngoài chiếu, để kiếm tìm một sự tán đồng. Mỗi lần có một hành động sơ suất, thì ông Sung từ đám đông hô to “không được”, một cuộc hội ý nhanh chóng lại diễn ra để giải quyết vấn đề và các nghi thức lại tiếp tục. Ngay sau khi công việc của ba người đàn ông kết thúc thì những nghi lễ cũng kết thúc và tâm trạng ai nấy đều nhẹ đi chút ít. Ngoài sân, một đám đông tụ tập xung quanh một người đàn ông mảnh khảnh nắm trong tay một bản copy là bản gia phả mới nhất của gia phả dòng họ. Bản gia phả đầu tiên của dòng họ Nguyễn Thạc được viết bằng chữ Hán từ năm 1733. Nó được cập nhật định kì và có sự bổ sung trong những năm 1905, 1933 và 1998 thế kỉ 20. Năm 1999, nó được Viện Hán Nôm dịch sang tiếng Việt Cuối cùng những người tham dự buổi thờ cúng bắt đầu ngồi vào các mâm cỗ. Bữa cỗ thịnh soạn có thịt và rượu trắng. Ông Sung cầm cái micro và nói một vài lời, nói đến tổ tiên trước, rồi đến Thành hoàng làng, sau đó đến những người bà con đang sống. Tiếp theo, ông giới thiệu ba người đàn ông đã thực hiện những thủ tục nghi lễ buổi sáng, bây giờ mặc quần áo bình thường, giải thích rằng họ là những người đến từ Nghệ An, đã đi 5 tiếng đồng hồ bằng ô tô đến đây xin được gia nhập lại vào dòng họ. Chuyện kể rằng năm 1750, một thành viên của dòng họ Nguyễn Thạc đã được phong một chức quan trong đội quân cẩm vệ và đóng ở làng Sơn Lâm thuộc tỉnh Nghệ An. Vị quan này đã cưới một người con gái địa phương làm vợ và họ ở lại Nghệ An, sinh con đẻ cái, hầu hết đều là những người nông dân nghèo nhưng trung thực. Cuối cùng, họ mất liên lạc với quê gốc là làng Đình Bảng. Cho mãi đến khi thời kì đổi mới bắt đầu những người mang họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm mới biết rằng họ còn có những người anh em xa ở tỉnh Bắc Ninh. Ông Ngà, một trong những người khách đến từ Nghệ An kể với mọi người: Qua các thế hệ, dòng họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm là dòng họ có uy quyền nhất, luôn giữ gìn nề nếp gia đình và phong tục của ông bà. Nhưng nhờ giới truyền thông và các phương tiện hiện đại mà dòng họ Nguyễn Thạc chúng tôi ở Sơn Lâm biết rằng vẫn có một dòng họ Nguyễn Thạc khác ở làng Đình Bảng, đấy là dòng họ gốc, lớn hơn ở Sơn Lâm chúng tôi nhiều. Cũng cần nói thêm, dòng họ Nguyễn Thạc ở làng Đình Bảng có xấp xỉ 1000 thành viên, chiếm 1/10 tổng số dân trong làng. Năm 1990, một nhóm người từ Sơn Lâm đến Đình Bảng và nhận họ. Đến năm 1997, dòng họ Nguyễn Thạc đã tổ chức một cuộc họp ở Hà Nội với sự tham gia của nhiều chi khác nữa, và năm 1999, một nhóm người dòng họ này từ Đình Bảng đến Sơn Lâm. Cuối cùng, vào ngày 20 tháng 3 âm lịch năm 2001, những người già thuộc 3 trong 4 chi của dòng họ Nguyễn Thạc ở Sơn Lâm gặp nhau ở Đình Bảng để tham gia một buổi lễ tưởng nhớ tổ tiên gốc gác của mình. Ông Ngà nói với các vị khách: “Cuối cùng hôm nay, chúng ta cũng có cơ hội gặp nhau, trao đổi ý kiến và làm cho mối quan hệ trong dòng họ thêm thân thiết”. Ông cũng nói lên niềm hi vọng vào thế hệ tương lai của con cháu ở cả hai nơi sẽ cùng gìn giữ và phát huy truyền thống của ông cha để lại. Theo bản gia phả gốc của dòng họ Nguyễn Thạc được viết năm 1733 thì người sáng lập ra dòng họ là một người đàn ông thanh liêm chính trực, giàu tình cảm, Nguyễn Thạc Bác. Ông có hai người con, một con gái tên là Nguyễn Thị Ngọc Long và một con trai tên là Nguyễn Thạc Căn. Người con gái trở thành vợ lẽ của chúa Trịnh Kiểm và người con trai trở thành quận công phục vụ cho chúa Trịnh, và họ là những công thần trong triều Lê cai trị miền Bắc Việt Nam thế kỉ 16. Kể từ sau đó, trong dòng họ có rất nhiều người đỗ đạt cao và được nắm giữ các chức vụ quan trong triều, được thăng tiến và họ được xem là những người ngay thẳng và chính trực. Nguyễn Thạc Bác là tổ tiên của dòng họ Nguyễn Thạc nhưng ông lại chỉ là một hình ảnh không quan trọng trong việc phát triển dòng họ. Trái lại, con gái ông, vương phi Ngọc Long mới là người đóng vai trò chủ đạo trong sự lớn mạnh của gia đình. Trong câu chuyện đầu tiên mà trưởng họ Nguyễn Thạc Sung kể với tôi về gia đình ông là câu chuyện về vương phi Ngọc Long. Chuyện kể rằng vào năm 1559, khi Trịnh Kiểm, lúc đó là một vị quan có quyền lực nhất trong triều đình nhà Lê đi qua khu vực đồng bằng sông Hồng với đoàn tùy tùng của mình thì bất chợt gặp một cô gái đang cắt cỏ, vừa làm vừa hát Trịnh Kiềm nhìn thấy một cảnh tượng rất lạ: Bất kể cô gái đi đến đâu thì những đám mây cũng đi theo trên đầu cô. Thấy những điều kì lạ như vậy, chúa Trịnh Kiểm đã gọi cô gái lại. Lúc này ông mới thấy gương mặt người con gái rất đẹp và cô đối đáp hết sức thông minh, do vậy ông đã đặt cô lên ngựa và mang về kinh đô Thăng Long. Trong lúc ấy, người em trai của cô đang cày bừa ngoài đồng, nghe dân làng nói rằng có một đoàn quân binh đã đến bắtchị gái mình! Ngay lập tức anh vác cày đuổi theo. Chúa Trịnh Kiểm thấy người thanh niên này thật dũng cảm, và phong cho anh một chức quan trong quân đội. Càng ngày người thanh niên càng bộc lộ mình là một người thông minh, tài giỏi. Ông được thăng chứcquận công và trở thành người có quyền lực lớn thứ hai trong triều. Một buổi tối hội làng, trước ngày diễn ra cuộc họp của dòng họ Nguyễn Thạc 20 tháng 3 âm lịch một ngày, bà chủ nhà nắm lấy tay tôi và kéo ra cửa: “Chúng ta đến đền vương phi đi!”. Khi tôi hỏi tại sao, bà chỉ trả lời “Đây là dịp để các con gái và con dâu dòng họ Nguyễn Thạc gặp nhau!” rồi bà đưa cho tôi cầm một túi nho đầy. Buổi tối hơi lạnh và ẩm ướt, những người phụ nữ quấn khăn quàng cổ, áo cộc tay sẫm màu đứng đầy sân đền. Bên trong, một vài người đàn ông lớn tuổi ngồi bên cạnh bàn, uống trà và nhận tiền “công đức” từ những người hảo tâm rồi lại ghi chép vào sổ. Ánh sáng ấm áp của các cây nến tràn ngập cả 3 bàn thờ, trên mỗi bàn có một bức tượng vương phi quét sơn bóng. Hoa quả đủ màu sắc, những nắm cơm được bọc trong giấy đỏ, những gói bánh quy dừa, đồ cúng được sắp xếp đầy xung quanh bàn thờ. Khi tôi quan sát mọi thứ thì bà Hoàng, chủ nhà tôi sắp nho lên bàn thờ và thắp hương. Sau đó, chúng tôi ra ngoài sân gia nhập với nhóm những người phụ nữ khác và một nhóm đàn ông đang ngồi trên chiếu, tham gia vào những chuyện tầm phào cho đến khi hương tàn và đồ cúng của ai người nấy lại nhận về như lộc của tổ tiên. Các nghi lễ buổi tối là để tưởng nhớ công ơn của những người phụ nữ trong dòng họ. “Tối nay, con gái và con dâu dòng họ Nguyễn Thạc đều phải làm đồ cúng ở đây”, một người đàn ông lớn tuổi nói với tôi như vậy. Khi tôi hỏi tại sao, ông nói “vì con gái và những người vợ của dòng họ Nguyễn Thạc có rất nhiều công lao với dòng họ”. Ông Sung giải thích thêm: “Tổ tiên cho rằng đàn ông và phụ nữ trong dòng họ phải bình đẳng do vậy, con gái và con dâu cũng phải bình đẳng”. Vương phi Ngọc Long là người góp phần làm nên sự thành công trên đường công danh của em trai bà, và đây cũng chính là mốc son đầu tiên đánh dấu sự phát triển của dòng họ. “Vương phi đã đưa anh vào triều nên anh mới có thể phát triển tài năng và trở thành quận công. Cho dù anh ta có tài và may mắn đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu không có vương phi thì anh ta cũng không thể có cơ hội được phong quận công”, ông Sung lập luận. Và những người phụ nữ trong dòng họ tiếp tục đóng góp công lao làm nên danh tiếng của dòng họ ngày nay. Cho đến bây giờ, ai cũng phải thừa nhận rằng con gái của dòng họ Nguyễn Thạc thật thông minh và khéo léo. Rất nhiều các biệt thự cao tầng ở đây đều thuộc quyền sở hữu của những người phụ nữ mang dòng họ Nguyễn Thạc. Cũng nhờ những câu chuyện mà mọi người kể tối hôm đó tôi được biết vương phi Ngọc Long đã xây dựng ngôi đền này, dân làng vẫn gọi là đền" vương phi” để tưởng nhớ bố mẹ và ông bà của bà. Hạ Anh (VieTimes dịch)
-
Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch Phần II "Việc thờ cúng tổ tiên có phải để biểu hiện lòng hiếu thảo của đạo làm con hay chỉ là một niềm tin vào “năng lực huyền bí” của người chết? Tất cả những người tin đều cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một hệ thống đạo đức, và 2/3 trong số đó nói rằng họ cũng tin ông bà có khả năng siêu nhiên để tác động vào cuộc sống thường ngày, đi theo, bảo vệ con cháu, những người thân yêu của họ..." Ông bà luôn luôn đi theo và bảo vệ con cháu... Nguồn ảnh: Viettribune Khi tôi hỏi bà Thúy về mối quan hệ của người sống và người chết, bà Thuý giải thích rằng khi ông bà còn sống, họ sống khôn; Sau khi chết, họ trở nên thiêng, “sống khôn chết thiêng”: Ông bà luôn ủng hộ cho con cháu mình và khi con cháu thỉnh cầu một điều gì đó thì tất nhiên ông bà sẽ giúp đỡ. Bà Thúy tin rằng ông bà có thể bảo vệ được con cháu tại những thời điểm họ gặp nguy hiểm. Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, không lâu sau khi bố bà Thúy mất, một trong những người anh trai của bà đã nhập ngũ và sau đó mất liên lạc với gia đình. Bà Thúy nói rằng đó là khoảng thời gian khó khăn nhất, nhưng bố bà đã đóng một vai trò chủ chốt, không chỉ bảo vệ người anh đã nhập ngũ mà còn là cầu nối cho các thành viên của gia đình có thể liên lạc với nhau. Bà Thúy nhìn tôi với một cái nhìn sâu sắc và nhắc lại câu nói mà trước đây tôi đã từng được nghe: “Dù con cái có đi đến bất cứ nơi nào thì bố mẹ luôn theo đến đấy”. Bà gật gù: “Đúng, ông bà luôn luôn đi theo, bảo vệ và giám sát con cháu mình. Họ luôn che chở cho con cháu mình”. Bà Thúy nói với tôi rằng bà thường nói chuyện với bố mẹ ở ngoài mộ và ngay trên chính bàn thờ trong nhà mình. Bà thường kể cho họ nghe những sự kiện của gia đình và xin họ những lời khuyên. Vậy, việc thờ cúng tổ tiên có phải để biểu hiện lòng hiếu thảo của đạo làm con hay chỉ là một niềm tin vào “năng lực huyền bí” của người chết? Tất cả những người tin đều cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một hệ thống đạo đức, và 2/3 trong số đó nói rằng họ cũng tin ông bà có khả năng siêu nhiên để tác động vào cuộc sống thường ngày, đi theo, bảo vệ con cháu, những người thân yêu của họ. Khi tôi đến làng Đình Bảng, bà Thúy và các anh em mình đã góp tiền để xây cho cha mẹ một ngôi mộ đẹp và rất khang trang. Khi đã khá thân nhau, bà rủ tôi đi thăm mộ và cho phép tôi chụp ảnh. Chúng tôi đi xe đạp đến khu nghĩa trang, một vùng đất có rất nhiều ngôi mộ được xây bằng xi măng ở cạnh những cánh đồng lúa, được sắp xếp theo logic của môn bói đất (bói bằng những hình vẽ trên mặt đất). Mặc dù có nhiều ngôi mộ mới được tu sửa, nhưng ngôi mộ của bố mẹ bà Thúy là một công trình xây dựng lớn nhất, đẹp nhất ở khu nghĩa trang. Sự giản dị, kiểu kiến trúc có sự kết hợp đá cẩm thạch đen giống với lăng chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Bà Thúy nói với tôi: Ngôi mộ màu đen vì đó là màu của sự tang tóc, chết chóc và thương tiếc. Nếu dùng màu khác sẽ không đẹp và không phù hợp. Để chuẩn bị chụp ảnh, bà Thúy bỏ dép và leo lên trên ngôi mộ, đánh xi cho đến khi bề mặt nền đá hoa sáng lên, tiếp theo, bà dọn sạch cỏ dại mọc xung quanh, sắp xếp lại mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp. Sau đó bà búi lại tóc, đứng thẳng người, thắp hương và bảo tôi chụp ảnh khi bà đang cúi đầu khấn.Ngay sau khi lấy ảnh về, bà Thúy chọn một cái, phóng to, treo trong phòng khách với mục đích cho khách khứa hoặc cho bố mẹ mỗi buổi sáng đến thăm bàn thờ, qua khói hương sẽ nhìn thấy bức ảnh ngôi mộ rộng rãi của mình và để họ biết rằng họ có một đứa con gái vẫn luôn quan tâm đến họ. “Rất nhiều người tự hào vì “nó” là ngôi mộ đẹp nhất làng”, bà Thúy nói. Và ngôi mộ của bố mẹ bà Thúy còn chứa đựng một vài thông điệp: Đầu tiên, nó cho thấy sự mẫu mực, trách nhiệm của một người con đối với bố mẹ mình, đó là bản chất tốt đẹp của con người. Thứ hai, để xây dựng ngôi mộ này bà đã phải bỏ ra một số tiền không ít, chứng tỏ sự thành công về kinh tế và bản chất hiếu thảo quên mình vì người khác của bà. Thứ ba, cứ cho rằng hiện tại bà chỉ sống với một số tiền trợ cấp hàng tháng của chính phủ và một số công việc lặt vặt thì ngôi mộ lớn kia cũng chứng tỏ với mọi người rằng bà có một mối quan hệ xã hội rất tốt, một gia đình sống có tình nghĩa và hào phóng. Cuối cùng, ngôi mộ cũng cho thấy bà có một mối quan hệ tốt đẹp với những người đã khuất. Ngôi mộ chính là nơi trao đổi tình yêu giữa bố mẹ và bà. Gần cả cuộc đời bố mẹ bà Thúy đã phải sống trong nghèo đói và chiến tranh, đặc biệt bố bà chết trẻ và xa rời thế giới mà không một lần được nhìn thấy cuộc sống hòa bình. Bây giờ các anh em bà đều có cuộc sống khá sung túc, bà Thúy có một ngôi nhà mới, khang trang, ăn no, mặc đẹp và hàng năm còn tổ chức đi nghỉ mát cùng bạn bè. Bà cũng như những người sống sót sau cuộc cách mạng nhận thức được rằng, nền hòa bình mà họ đang được hưởng là nền hòa bình được xây dựng trên nước mắt và xương máu của cha mẹ, của những người đi trước. Do vậy, bà tìm mọi cách để bù đắp cho bố mẹ bằng cách cố gắng “nâng cao cuộc sống của họ dưới suối vàng”, bà chắc chắn rằng đời sống vật chất của bố mẹ không lạc hậu hơn so với đời sống trên dương thế của bà. Sau buổi thăm mộ hai ngày, tôi ngồi với bà Thúy trong phòng khách để hỏi bà về những nghề truyền thống tổ tiên để lại trong làng. Bà Thúy làm thêm cho một công ty sản xuất thuốc lá địa phương để bổ sung vào số tiền trợ cấp ít ỏi của chính phủ. Trên nền nhà lát đá hoa bóng loáng, bà trải một cái chiếu để ngồi, trên chiếu đặt một cái giỏ đầy những mẩu thuốc lá đã dùng còn sót lại. Bà vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi. Tôi hỏi bà, liệu có quy định gì khi xây mộ cho người Việt không? “Cái đó phụ thuộc vào khả năng của mỗi người”, bà bắt đầu: Nếu nhà bạn giàu, thì làm mộ đẹp và to. Nếu nghèo thì làm nhỏ. Nếu gia đình nhiều con và có điều kiện góp nhiều tiền thì làm mộ to, nếu ít con, và chỉ có thể góp ít thì làm nhỏ. Không có luật nào quy định về cái này. Nếu một người rất nghèo và chỉ có thể xây dựng một ngôi mộ rất đơn giản thì liệu mọi người có buộc tội người đó bất hiếu? – tôi hỏi. Không, đó không phải là bất hiếu. Đó là do hoàn cảnh kinh tế. Ngày nay có rất nhiều người có cuộc sống khó khăn, không đủ ăn, thậm chí họ không thể xây cho bố mẹ mình một ngôi mộ bằng xi măng nhưng cũng không ai gọi họ là bất hiếu. Chỉ có những người có của ăn của để, sống một cách thoải mái nhưng mộ của bố mẹ lại quá tồi tàn thì sẽ bị coi là bất hiếu. Ngôi mộ chính là một ngôi nhà cho người chết, và quả thật không tốt nếu một ai đó xây một ngôi nhà mới khang trang để ở trước khi xây một nơi an nghỉ thoải mái cho bố mẹ, ông bà. Với sự phát triển kinh tế, sự giàu lên của các tầng lớp xã hội và sự phát triển của công nghệ đã giúp cho con cháu có điều kiện “chăm sóc” những người thân đã mất của mình hơn. Những người nông dân nghèo ở các làng quê ngày xưa sau khi chết được con cháu “cúng” cho những bộ quần áo xa xỉ của các quan chức thời phong kiến. Công nghệ xử lý ảnh cho phép làm lại những tấm ảnh chân dung đã trở nên rất phổ biến: Hình ảnh người đàn ông mặc những bộ quần áo lộng lẫy, đầy uy quyền, giống với vua chúa, quan lại ngày xưa. Những người phụ nữ giàu có, mặc những bộ quần áo lụa rộng và ngồi trên những cái ngai gỗ được chạm trổ tinh vi, hoặc người phụ nữ trẻ, yểu điệu trong trang phục áo dài thướt tha … đã không còn xa lạ nữa. Bàn thờ của nhà bà Thúy có hai bức ảnh chân dung. Bên trái là tấm ảnh màu của mẹ bà, được chụp không lâu trước khi mất. Bên phải, một bức ảnh đen trắng có vết ố là bố bà, ông đứng một mình, dáng đầy tự hào và lịch lãm trong bộ áo dài bằng lụa đen của quan và các chức sắc ngày xưa. Một lần, khi tôi đến, bà Thúy lấy cho tôi xem bức ảnh gốc của bố bà. Và tôi đã rất ngạc nhiên thấy rằng nó hơi khác so với bức ảnh bà treo trên bàn thờ. Bức ảnh gốc là ảnh đen trắng, chụp cả gia đình bà đứng thành một nhóm và được chú thích phía sau là “Bố, mẹ và chị Thúy, 1951”. Bố bà, đứng thoải mái nhưng không phải mặc đồ lụa mà là một bộ đồ nông dân bằng vải thô. Bà Thúy giải thích rằng bà đã thuê một kĩ thuật viên máy tính ở Hà Nội để tạo ra một bức ảnh mới, họ cắt mặt ông từ bức ảnh gốc của gia đình và dùng công nghệ để xử lý và tạo ra bức ảnh người đàn ông mặc áo lụa đang có trên bàn thờ. Hạ Anh (lược dịch)
-
Cúng tế có nghĩa là gì? Sau khi xuất bản bài Một kỉ lục Ghi-nét... đáng sợ, Vietimes nhận được rất nhiều phản hồi của độc giả. Nhà phê bình Lại Nguyên Ân đã gửi đến một bài báo của nhà báo Phan Khôi in trên Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.170 (29.9.1932) nhằm cung cấp cho bạn đọc những sự so sánh về tín ngưỡng, phong tục cũng như cách "cư xử" với tín ngưỡng phong tục đó của người Việt. Mặc dù có nhiều điều không đồng tình với cách suy luận và tinh thần của Phan Khôi, nhưng Vietimes vẫn trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài báo này với mong muốn giúp bạn đọc có cái nhìn đa chiều về tín ngưỡng của người Việt hiện đại. Quỷ thần có hâm hưởng đồ cúng tế không? Có ban phước cho những người cúng tế không? – Một nhà nho trước đây hai ngàn năm nói "không": Không hâm hưởng mà cũng không ban phước gì ráo! Cái tục hay cái lễ cúng tế ở xứ ta toàn là bắt chước theo người Tàu. Từ nhà vua tế giao (tế trời đất), tế tông miếu (tế tổ tiên của vua) cho đến dân gian mỗi nhà có giỗ kỵ, có chạp mã, có cầu yên, có nhương sao nhương hạn, có cúng ông chuồng bà chuồng... nhứt nhứt đều cứ theo sách vở lễ nghi của người Tàu bày ra mà làm hết. Kỳ gian cũng có một đôi sự cúng tế nào do người mình bày ra; nhưng sau khi bày ra rồi, có kẻ lấy lễ nghi của Tàu mà vẽ vời thêm, cái thì hẳn vậy. Đoàn cúng tế trong ngày Quốc giỗ - giỗ Tổ Hùng Vương - Ảnh: DT Như tục ta, những nhà nuôi heo, thường năm có cúng ông chuồng bà chuồng một lần hoặc nhiều lần; ngộ khi heo "bỏ ăn", cũng đặt bàn, đủ đồ hương đèn, trầu nước, gà xôi mà khấn nguyện cùng ông chuồng bà chuồng nữa. Ông chuồng bà chuồng là đi gì? Theo người mình, đó là vì(*) thần chủ coi trong chuồng heo và việc nuôi heo, heo mau mập mau ú cũng nhờ ngài, hay là chết dịch chết toi cũng bởi ngài, cho nên ai có nuôi heo thì phải cúng. Cúng thì cúng, chớ gốc tích vì thần ấy ở đâu thì không biết; chỉ kêu ông chuồng bà chuồng mà thôi, chớ ông bà ấy tên chi họ chi cũng chẳng ai hề hỏi đến làm chi. Mấy ông nhà nho hồi xưa cho rằng cúng một vì thần mà không biết gốc tích như vậy là quê mùa dốt nát, làm theo tục chớ không làm theo lễ, coi không được; khi ấy mới có ông tìm ở sách vở nào chẳng biết, nói rằng cúng ông chuồng bà chuồng thì phải vái với vợ chồng Quách Cảnh Thuần tiên sanh. Từ đó những nhà có học mà có nuôi heo, có cúng ông chuồng bà chuồng thì đều vái với vợ chồng Quách Cảnh Thuần tiên sanh hết; duy có nhà nào mộc mạc ngu si thì mới không biết vái như vậy, chỉ theo cũ vái với ông chuồng bà chuồng. Quách Cảnh Thuần tức là Quách Phác, người đời nhà Tấn, học phép tu tiên, lại phát minh ra cái thuật coi địa lý, có làm ra thứ sách để coi ngày coi đất đặng chôn người chết, kêu bằng Táng thơ. Người viết bài nầy biết về Quách Cảnh Thuần chỉ biết đến vậy mà thôi, còn ông ấy với vợ mình có nuôi heo và làm "thần chuồng" không, thì không biết. Không rõ người ta do ở đâu mà bảo vợ chồng Quách Cảnh Thuần tức là ông chuồng bà chuồng. Điều đó vào đây không trọng gì; ở đây, nói đến để cho biết rằng bất kỳ sự cúng tế nào ở nước ta cũng là do sách vở bên Tàu với nhà nho mà ra hết. Đừng nói những sự cúng tế bởi đạo Nho bày ra, như vua tế giao, dân gian tế tiên tổ, nhà nho lo nắm giữ đã đành; cho đến những sự cúng tế không bởi đạo Nho hay thậm chí trái với đạo Nho, mà nhà nho cũng tin chuộng nữa, ấy là như những sự cúng tế theo thầy tu và thầy phù thủy. Trong tiếng ta có một cái thành ngữ bằng chữ Hán rằng: Vạn sự tùng nho giả xuất, nghĩa là: muôn việc đều từ nhà nho mà ra. Câu ấy thật nó đã vẽ mày vẽ mặt cho nhà nho, nhưng lại cũng làm hại cho nhà nho nữa. Ở xã hội ta, hễ ai biết chữ Hán thì gọi là nho, mà có biết chữ Hán mới làm gì được, vì nghề gì cũng có sách vở bằng chữ Hán, bởi vậy mới nói vạn sự tùng nho giả xuất, thành ra nhà nho là ông tổ của mọi nghề. Nhưng đã vậy thì bao nhiêu việc trong xã hội, nhà nho đều lãnh thầu mà làm lấy hết; rồi có việc trái với giáo nghĩa của họ mà họ cũng làm đi, cho nên cũng có hại đến bổn thân họ vậy. Tức như một việc cúng tế ở xứ ta, nếu tách ra mà xem thì thấy trong đó phức tạp lắm; nhưng cứ như bề ngoài thì ai cũng tưởng rằng hết thảy mọi sự cúng tế đều bày ra từ nhà nho, ấy là vì nhà nho đã thầu lấy mà làm hết mọi việc, như trên kia đã nói. Như những lễ tế giao và tế tiên tổ, từ đạo Nho bày ra, thì cái nghĩa của nó, như trong kinh Lễ nói, chỉ là để báo bổn phản thỉ mà thôi. Báo bổn phản thỉ, nói nôm ra là đáp lại cội gốc và trở lại ban đầu. "Muôn vật gốc bởi trời, người ta gốc bởi tổ", bày ra cúng tế để cho đừng quên cái gốc ấy, chớ chẳng có gì lạ. Nhưng cái nghĩa ấy, trong xã hội ta ít người hiểu, mà cho đến chính nhà nho cũng không có mấy ai hiểu như vậy. Họ hiểu rằng cúng tế hầu cho quỷ thần hâm hưởng những vật dâng lên đó, hâm hưởng rồi, ban phước cho người cúng tế, ấy là phần nhiều. Trên kia đã nói sự cúng tế trong xứ ta phức tạp lắm, nghĩa là không những một mình phe nho có cúng tế mà còn phe khác nữa. Phe thầy chùa, phe thầy phù thủy, trong những sự làm chay, tiếu tạ, cúng âm hồn... đốt áo quần bằng giấy, đốt giấy tiền vàng bạc... đều có cái ý làm no ấm cho kẻ chết để nhờ họ ban ơn cho kẻ sống. Cái ý ấy nguyên trong đạo Nho không có; nhưng đã lâu rồi, nhà nho đem chính mình ra làm những việc cúng tế của phe khác, cho nên thiên hạ đều tưởng rằng cái ý ấy là của đạo Nho, lại cho đến nỗi nhà nho cũng nhận cái ý ấy là chính của đạo mình! Sự pha trộn và hiểu lầm ấy chẳng những ở nước ta, mà ở bên Tàu hồi non hai ngàn năm trên cũng đã có. Hồi đó bên Tàu tuy mới bắt đầu có đạo Phật và phù thủy, chớ những sự cúng tế ở dân gian cũng đã phức tạp rồi, đến nỗi làm cho người đương thời quên mất cái bổn ý tế tự của đạo Nho. Bấy giờ, muốn cho thiên hạ đừng hiểu lầm nữa, có một vị nhà nho là Vương Sung đã biện luận về sự cúng tế rõ ràng lắm, cốt ý đánh đổ cái thuyết hâm hưởng và ban phước đi mà dắt người ta trở về cái nghĩa báo bổn phản thỉ. Chủ tế thực hiện nghi thức trong ngày hội Lồng tồng của đồng bào Tày - Nùng - Ảnh: TL Vương Sung làm ra sách Luận hoành, trong đó có hai thiên: một là Tự nghĩa, một là Tế ý, đều có cái mục đích như trên đó. Lược dịch thiên Tự nghĩa như vầy: "Người đời tin việc tế tự, cho rằng ai có cúng tế sẽ được phước, ai không cúng tế sẽ mang họa. Bởi vậy, khi có bịnh hoạn, bói ra, nói bởi ma, liền sắm đồ cúng quảy; cúng xong, thấy trong lòng thơ thới; lòng đã thơ thới thì bịnh cũng lành. Đó là tại cái lòng, mà người ta lại đổ cho rằng nhờ cúng quảy, nên mới cúng hoài không dứt. Họ nói người chết có biết, quỷ thần cũng uống ăn, mình cúng quỷ thần cũng như mình đãi tiệc khách khứa; khách ăn tiệc xong, cảm ơn chủ, cũng như quỷ thần hưởng của cúng rồi thì ban phước cho tế chủ vậy. Thật ra thì sự cúng tế chỉ là tại mình muốn hết lòng thành đó thôi, chớ quỷ thần nào có ăn uống gì đâu. Sao mà biết vậy? Vì những thần ta cúng tế phần nhiều là người đã chết rồi: người chết rồi thì không biết gì hết, cũng không ăn uống nữa. Nếu nói vì có ăn uống mà cúng tế thì sự tế trời tế đất thật rất là vô nghĩa. Trời đất có miệng đâu mà hòng ăn được? Vả chăng, con người ta thân thể chỉ lớn bấy nhiêu mà mỗi khi ăn uống cơm canh ít nữa cũng phải mấy bát mới no; thì trời đất thinh thang như vậy, mà tế có một con bò, mấy mâm xôi, ăn sao cho no được? Thế thì biết rằng hẳn không phải vì sự ăn uống mà có cúng tế. Huống chi, tế trời đất rồi còn tế các thần núi sông nữa. Núi sông chẳng là ở trong trời đất, cũng như tay chưn mắt mũi trong thân thể người ta. Vậy nếu nói vì có ăn mà cúng tế thì tế nội trời đất cũng đủ rồi, sao còn tế núi sông nữa làm chi? Có khi nào cho người ta ăn rồi, lại còn cho tay chưn mắt mũi ăn lần nữa? Đế vương đời xưa bày ra sự tế tự, chẳng qua để tỏ ý mình không quên cái gốc và đáp lại cái công khó nhọc của tiên nhân, chớ không phải vì quỷ thần có hâm hưởng mà bày ra sự tế tự. Vả lại cũng chưa chắc có quỷ thần thật hâm hưởng được nữa. Mà đã không hâm hưởng được, thì không linh thiêng; không linh thiêng thì không làm phước được, cũng không làm họa được. Bởi vì sự làm phước làm họa là bởi sự mừng sự giận mà ra; mà người ta có mừng có giận là bởi có bụng có ruột. Có bụng và ruột thì mới ăn uống được; còn ai không ăn uống được là bởi không có bụng và ruột. Đã không có bụng và ruột thì làm gì có được sự mừng giận? Đã không có sự mừng giận thì làm gì có sự làm họa làm phước? Có kẻ nói: quỷ thần chỉ hưởng lấy cái hơi mà thôi, chớ không ăn. Họ nói vậy chớ hưởng với ăn cũng có một. Ăn thì dùng lỗ miệng mà hưởng thì dùng miệng hoặc mũi mà hít lấy hơi. Nhưng quỷ thần đã không có bụng và ruột rồi thì cũng không có miệng và mũi nữa, hít vào chỗ nào được? Thế thì sao trong sách Mạnh Tử lại có nói: Tế nhi bách thần hưởng chi (tế mà trăm thần hưởng đó)? Đáp rằng: đó là suy lòng người ta ra mà nói chớ không phải sự thật. Mình thấy con sinh béo, cỗ xôi thơm, người chủ lại có lòng thành mời mọc nữa, thì mình muốn ăn, rồi lấy cái lòng ấy suy ra quỷ thần, tưởng quỷ thần cũng chắc hưởng, thì nói như vậy đó". Thiên Tế ý cũng nói đại khái giống như trên, nhưng có chỉ rõ cái bổn ý sự tế tự là ở hai điều: một là báo đền kẻ có công; hai là ghi nhớ người xưa trước. Rồi có lấy hai cái ví dụ để cho sáng ý như vầy: "Đức Khổng Tử có nuôi con chó, ngày kia nó chết, ngài sai Tử Lộ đem chôn, và dặn rằng: "Ta có nghe: cái màn rách chẳng bỏ, để mà chôn ngựa; cái lọng rách chẳng bỏ, để mà chôn chó. Ta nghèo, không có lọng, thì mầy chôn nó cũng cho nó chiếc chiếu, đừng để cái đầu nó lòi ra....". Lại còn, Ngô Quý Tử khi đi ngang qua ấp Từ, Từ quân thấy cái gươm của người mà ưng bụng lắm; Quý Tử định ý tặng cho nhưng vì còn đi nữa, tính để bận về sẽ hay. Không ngờ lúc trở về, Từ quân đã chết. Quý Tử bèn cổi thanh gươm treo trên cây nơi mả. Người đánh xe hỏi rằng: Từ quân chết rồi, làm gì vậy vô ích! Quý Tử đáp rằng: Trước kia trong lòng ta đã hứa cho rồi, há vì chết mà phụ lòng ta? – Rồi treo luôn thanh gươm ở đó mà đi". Dẫn hai tích cũ đó rồi tác giả nói rằng: "Sự tế tự để báo đền kẻ có công, dụng ý cũng như Khổng Tử chôn con chó mình nuôi; để ghi nhớ người xưa trước, dụng ý cũng như Quý Tử treo gươm nơi mả. Thánh nhân biết cái bổn ý tế tự là dường ấy, cho nên chay răn kính sợ, hình như có quỷ thần thật vậy, và hằng năm cúng tế không bỏ, hình như có họa phước thật vậy. Nói cho thiệt ra thì chỉ để tỏ dấu trọng ân và tôn công, chớ có quỷ thần nào hưởng đâu, và cũng chưa chắc có quỷ thần nữa..." Vương Sung là một nhà nho thật xuất sắc ở đời nhà Hán, và từ đó đến nay bên Tàu cũng ít có người nào được xuất sắc như ông ta. Cứ coi như sách Luận hoành thì thấy ông ấy là một nhà triết học mà về phái thiệt nghiệm, không chịu được những điều hư ngụy của bọn hủ nho và thế tục, cho nên công kích tới nơi. Tiếc thay sách của ông là sách cách mạng về tư tưởng, không lợi cho nhà nho mà cũng không lợi cho thánh hiền, thành thử trong khoảng một ngàn chín trăm năm nay bị gìm ếm mất, ít người được biết. Nay ta thử hỏi vì cớ gì mà Vương Sung phải viết đến hai thiên để cắt nghĩa sự tế tự như thế? Có thể trả lời rằng họ Vương làm như vậy để mở mang cái tri thức của xã hội đương thời mà cũng dễ nâng cao cái trình độ tấn hóa của xã hội tương lai nữa. Theo lịch sử loài người, duy có thứ dân đương còn dã man thì mới thấy chi sợ nấy nên cũng gặp chi cúng tế nấy. Sự cúng tế ban đầu hết là bởi cái lòng sợ họa và cầu phước đó thôi. Bọn sơ dân bên Tàu cũng vậy; nhưng đến lúc Nho giáo lập lên, thuở ấy so đã văn minh rồi, giáo chủ là đức Khổng Tử bèn để nguyên sự tế tự mà đặt ra cái nghĩa khác cho cao hơn, là nghĩa báo bổn phản thỉ(*), hầu cho hiệp với cái trình độ văn minh ấy. Theo nghĩa ấy thì ở đời nầy người ta làm chủ chớ quỷ thần không có quyền. Người ta làm lấy mọi việc và nên hư đều chịu lấy trách nhiệm; chỉ bởi lòng không quên cội gốc trước xưa mà bày ra sự cúng tế, chớ không phải cúng tế quỷ thần để cầu phước và lánh họa. Đó là một cái dấu tỏ ra một dân tộc đã tấn hóa rồi; mà nhơn đó, về sau lại còn tấn hóa một ngày một hơn nữa. Hễ người ta đã không cầu phước ở quỷ thần thì tất phải rán hết sức mình mà làm mọi việc; lại đã bỏ sự mê tín quỷ thần đi thì cái óc mở mang ra, càng ngày càng tìm thêm sự tri thức cho mình. Như vậy có lo gì không tấn hóa? Phải chi sau đức Khổng, nhà nho cứ giữ theo nghĩa ấy thì tốt biết chừng nào. Nhưng từ bước qua đời nhà Hán rồi, trong đám nho gia, kẻ thì tin thuyết ngũ hành, người thì tin thuyết sấm vĩ, thần quyền lại sôi nổi lên một độ. Đến hồi Vương Sung sanh ra, nhằm đầu đời Đông Hán thì trong xã hội Tàu trở lại vào vòng mê tín, cho nên ông ta mới ra tay mà dẹp đi cho sạch. Sách của Vương Sung thật là có giá trị lắm, phải chi từ hồi đó đến giờ được thông hành ra từ bên Tàu đến bên ta, thì cái sự mê tín quỷ thần như hiện ta thấy ngày nay hẳn đã bị bài trừ đi hết, không thì cũng đỡ bớt được nhiều. Vậy mà sách ấy lại bị bọn hậu nho ếm mất đi, thành ra một người có chí lớn với thế đạo nhân tâm mà cái chí ấy không bày tỏ ra được. Bởi đó, từ lâu nay cái bổn ý tế tự của Nho giáo không được rõ rệt ra, mà trong xã hội Tàu và ta cũng đầy những sự dị đoan và mê tín. Rồi đến nhà nho là người theo đạo Khổng, cũng bỏ lời dạy của ông thánh mình mà đi thờ lạy những đâu đâu. Trong đám họ đã có nhiều kẻ cúi mình trước mặt thứ đồ thần thánh của bọn pháp sư để cầu tài cầu quan mà không tự biết là sỉ nhục. Làm cho mọi người trong xã hội thấy vậy đều nói: rất đỗi các ông nhà nho còn tin vậy thay, huống chi mình; nhưng, thật ra thì chính đạo Nho không hề dạy làm như họ, và nhà nho thật cũng không ai làm như họ. Ngày nay trong xã hội ta, tiếng rằng đã có tân học, đã có tư tưởng mới, mà kỳ thiệt những sự mê tín về cúng tế quỷ thần cũng vẫn còn nguyên; nếu có giảm bớt cũng chỉ một phần rất ít. Ấy là một điều rất trở ngại cho sự tấn hóa, anh em chị em thanh niên nên hết sức chống cự với nó. Non hai ngàn năm trước đã có nhà nho nói rằng quỷ thần không hâm hưởng tế tự và cũng không ban phước gì ráo; vậy mà non hai ngàn năm sau lại có nhà "tân học" mang áo rộng với heo quay vào lễ tạ ở "Lăng ông", như vậy còn tấn hóa gì? Còn bằng cớ vào đâu mà nói được loài người là tấn hóa!? PHAN KHÔI ( nguồn Vietimes )