-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Chào tungminick ! bạn đăng nhập sớm nhỉ ! Ở đây Bác Thiên Sứ sẽ quan tâm vấn đề của Bạn và giúp đỡ , tuy nhiên bạn nên cung cấp thêm thông tin . Vị trí ở vùng nào ? tỉnh nào ? người đứng đầu cơ quan tuổi gì ? hướng ? Sẽ dễ dàng cho mọi người nghiên cứu .
-
Phật giáo: Những thời khắc bừng sáng trong văn hoá Việt Thứ ba, 13/5/2008, 07:00 GMT+7 Phật giáo đã có mặt ở Việt Nam hơn hai nghìn năm qua, từ một tôn giáo ngoại nhập trở thành một tinh thần văn hóa. Tùy thời tùy nơi, sắc thái văn hóa ấy biến đổi khác nhau và luôn luôn có xu hướng bản địa hóa cho thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của dân tộc. Khoan dung và bác ái là cái đức lớn nhất mà Phật giáo để lại trên mỗi chặng hành trình, chính vì thế, tôn giáo này cũng sẵn sàng chấp nhận sự pha trộn giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo chính thống. Tượng Phật Quá khứ và Hiện tại (trong bộ Tam thế Phật) chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), điêu khắc Phật giáo thế kỷ 17, gỗ phủ sơn. Hình ảnh của đức Phật hành hương phổ biến trong nghệ thuật Phù Nam, một vương quốc cổ xưa ở đồng bằng Nam bộ, với những pho tượng bằng gỗ lớn tạc đức Phật đang đi và đứng thuyết pháp. Những tác phẩm này có ngay từ đầu công nguyên, và vương quốc Phù Nam cũng tan rã trong thế kỷ 6 sau công nguyên, thay thế vào đó là sắc thái văn hóa Phật giáo Khmer còn đến ngày nay. Đến thế kỷ 9 - 10, một trung tâm Phật giáo mới được xây dựng tại Đồng Dương, Quảng Nam, mà lại bởi các vị vua Champa theo Ấn Độ giáo. Đó là những đền tháp kết hợp giữa đá và gạch đồ sộ cùng nhiều bức phù điêu diễn tả lịch sử Phật giáo. Phật giáo cũng có mặt ở Bắc bộ từ đầu công nguyên, nhưng phải đến thế kỷ 11 mới có những ngôi chùa đầu tiên của triều đại Lý. Tiêu biểu là chùa Phật Tích, Bắc Ninh với pho tượng Phật A di đà mang vẻ đẹp viên mãn. Cuộc du hành của các nhà sư Ấn Độ đến Viễn Đông thật là phiêu lưu mạo hiểm. Họ theo đường bộ từ Ấn Độ qua Miến Điện vào Thái Lan, Camphuchia, Lào rồi đến Việt Nam, lại theo bán đảo Ma Lai xuống tận Giava. Họ từ Tây Tạng xuôi theo các triền núi , sông Mê Công và sông Hồng vào Đại Việt. Một con đường khác là theo các lái buôn đi tầu biển vào Đông Nam Á. Sắc thái văn hóa Phật giáo qua từng miền thật là khác biệt. Việt Nam không có những ngôi chùa đồ sộ như ở Trung Hoa hay Thái Lan, nhưng không thiếu những tác phẩm điêu khắc hồn hậu tinh tế, những vị Phật mang chân dung con người Đại Việt thuần khiết. Đạo Mẫu, đạo Tứ pháp thờ Mây Mưa Sấm Chớp đã mang lại dáng vẻ nữ tính cho các hình tượng Phật giáo. Sự ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa đã làm cho ban thờ Phật Việt Nam đông đảo như một triều đình, có ban có bệ, ở mặt này các tượng Phật chính là các khái niệm về nhận thức luận và giác ngộ, ở mặt khác là những thần tượng mà nhân dân coi như họ có quyền năng cứu vớt và phù hộ chúng sinh. Trong Phật giáo, ranh giới giữa triết học và tôn giáo rất mong manh, nhưng cũng rất rõ ràng, và vì thế Phật giáo mới trở thành một văn hóa. Những cuộc tranh biện giữa Phật và các đệ tử phần nhiều nhằm vào giới hạn của nhận thức luận, trong đó rất nhiều điều được ông A nan thuật lại. Tại sao lại chớ có bám vào đâu để sinh ra cái tâm lạ? Tại sao cái mà ta nhìn thấy chỉ là cái mà ta nhìn thấy không phải thế giới như nó vốn có? Tại sao chỉ có ai giác ngộ tới bậc A la hán mới hiểu được bản thân mình là gì? Tại sao thế giới vô cùng mà vạn vật vẫn giai không? Ở những điểm này, Phật giáo đã đi trước vật lý hiện đại đến cả hai ngàn năm, và khai mở cửa ngõ của sự thông tuệ. Những người kế tục lại kế tục sự tranh biện, kết quả mà nhiều bộ kinh và nhiều Phật phái ra đời. Ở Việt Nam, ngoài phái Thiền Trúc Lâm, rất ít trước tác đứng vững như một học thuật. Đại bộ phận các nhà sư chỉ tranh biện trên cơ sở của Kinh Phật đã truyền vào trong nước, và chủ yếu được dịch thuật qua tiếng Hán. Tuy vậy những gì sẵn có được tranh biện cũng đủ làm nên một đời sống tinh thần Phật giáo tinh tế, có khả năng hình thành học thuyết trị quốc của Đại Việt, đặc biệt là Phật giáo thời Lý và thời Trần. Ở đó, Phật giáo không hề là một tư tưởng yếm thế, rút lui trước bão táp của cuộc sống, trái lại, tạo ra tinh thần nhập thế tích cực có tính thượng võ của hai triều đại này. Từ Kinh Phật nghiêm trang đến những thơ Thiền, những bài kệ được khởi phát vào lúc đốn ngộ, những Thiền luận làm cho triết lý nhà Phật đượm một mầu sắc văn học minh triết. Trần Nhân Tông có bài thơ: Tượng Phật ngồi trong lá nhĩ, nghệ thuật Khơme, gỗ. Niên thiếu hà tằng liễu sắc không Nhất xuân tâm sự bách hoa trung Như kim khám phá đông hoàng diện Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng. Tạm dịch: Thiếu thời chẳng hiểu lẽ sắc không Ngày xuân tâm sự rối hoa lòng Chúa xuân nay đã từng quen mặt Chiếu cọ giường sư ngắm giọt hồng. Đi đến giới hạn của trí tuệ, nhận thức Phật giáo diễn đạt bằng hình tượng, và vì thế cũng là một thứ triết lý có tính thẩm mỹ. Đây là một trong những bài thơ Thiền tình tứ nhất. Phật tính được thể hiện vô hình trong các công trình nghệ thuật, lớn là những ngôi chùa, nhỏ là những bát gốm hình hoa sen. Những ngôi chùa thời Lý thường có bốn lớp cao dần theo một triền núi ( Như chùa Phật Tích, chùa Dạm ), có lẽ là một mặt cắt của cấu trúc Mandala ( Man đồ la ), với những hình tròn lồng trong hình vuông, để biểu hiện cái hằng thường của vũ trụ, mà ở đó “ Kỳ đại vô ngoại. Kỳ tiểu vô nội “, nghĩa là : Lớn nhất chẳng có ngoài. Nhỏ nhất chẳng có trong. Sau đó cấu trúc Mandala được thay thế bởi những chùa tháp có mặt bằng hình vuông, hoặc nhiều lớp nhà vì kèo phân bố trên trục dọc kéo dài, gây cảm giác đi sâu đi mãi không cùng, và mở ra nhiều hướng. Tượng Phật từ một vài pho, tăng lên vài chục, rồi đến vài trăm như chùa Mía. Điển hình cho loại kiến trúc Phật giáo thời Hậu Lê, thế kỷ 17 - 18 này là chùa Bút Tháp ( Bắc Ninh ) và chùa Keo ( Thái Bình ). Thường là chín công trình nằm trên một trục dọc, cao nhất là gác chuông và có hành lang bao bọc hai bên. Hệ thống điêu khắc phát triển theo kiến trúc, thành các tập hợp lớn nhỏ, từ Kim cương, Hộ pháp, A la hán, Bồ tát, đến các vị Phật, trong đó tượng Quan thế âm Bồ tát thường được tạc nổi bật với các bố cục nhiều tay, nhiều mắt. Điển hình là tượng Quan âm chùa Hạ thế kỷ 16 ( Vĩnh Phú ), Quan âm chùa Bút Tháp thế kỷ 17 với 42 tay lớn vươn lên như đóa hoa sen đang nở. Bát gốm men trắng, thế kỷ 11-13, nghệ thuật gốm thời Lý. Thời Lý Trần, Phật giáo là quốc đạo nên chùa chiền do nhà nước xây dựng thường đồ sộ. Từ sau đó vai trò này không còn, Phật giáo lánh mình về nông thôn, các chùa làng phát triển, nhưng quy mô lại nhỏ bé. Hai cuộc nội chiến Nam Bắc triều trong thế kỷ 16 và Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 17, quý tộc và hoàng thân nhà Lê chán đời tìm đến đạo Phật đã bỏ tiền xây dựng nhiều trung tâm Phật giáo quy mô. Song đó cũng là thời Phật giáo có xu hướng kết hợp đạo Nho và đạo Lão cùng trong một ngôi chùa, cũng như tính chất dị đoan nẩy nở với các hình thức cúng cáp và bùa chú phức tạp. Có thể nói đạo Phật thông qua các hình thức nghệ thuật có tính tổng hợp đã tạo ra thế giới tâm linh sâu sắc trong nhân dân. Ngôi chùa là tập hợp của kiến trúc, điêu khắc, trang trí và các đồ thờ tự. Mỗi làng có cụm kiến trúc tôn giáo đình đền chùa, với nhiều tác phẩm điêu khắc đã tạo ra một đời sống văn hóa thẩm mỹ cho người nông dân vốn ít học và nghèo nàn vô cùng. Bên cạnh đó nhiều truyện nôm khuyết danh và truyền khẩu như : Nhị độ mai, Phan Trần, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Hoa Tiên với những nội dung ở hiền gặp lành, thiện thắng ác mang tinh thần nhân quả, góp phần nâng cao đạo đức xã hội. Đặc biệt vở chèo Quan âm Thị Kính có nguồn gốc từ Triều Tiên, được cải biên theo đúng quan niệm của người Việt về thân phận con người dưới nhãn quan Phật giáo. Ban thờ Mẫu, chùa Liên Phái (Hà Nội), thế kỷ 19. Ở một địa vị khiêm tốn hơn, nhưng chính đồ gốm Lý Trần mới là hiện thân của tinh thần Phật giáo thuần khiết. Những chiếc bát men ngọc thanh mảnh, miệng nở loe, đáy thót nhỏ và khía nhiều cánh hoa sen cho người ta cảm giác cầm chiếc bát mà như đặt đóa hoa trên tay. Gốm men trắng, gốm men đen, gốm hoa nâu mỗi kiểu mỗi dáng đều trang trọng, thanh nhã và thượng võ như hành xử của đương thời. Tinh thần Phật giáo ngấm vào trong từng hoa văn, nước men, kiểu dáng đến mức chỉ cần một mảnh gốm nhỏ cũng chứa đựng cái viên mãn và hoan hỷ của Phật giáo và nghệ thuật. Phù điêu Thập điện Diêm vương chùa Huyền Kỳ (Hà Tây), thế kỷ 19. Khái niệm văn hóa Phật giáo có lẽ cũng rất mới mẻ, khi Phật giáo không dừng lại ở một tôn giáo hay triết học, mà phổ biến như một lối sống. Cũng có nhiều ý kiến không đồng tình với khái niệm văn hóa Thiền, hay văn hóa Phật giáo. Ý kiến này nêu ra rằng đã là tôn giáo thì không nên phát triển, cũng như đã gọi là chân ngôn thì không nên dịch. Và những nhà nghiên cứu Phật giáo Trung Quốc cho rằng Phật giáo ngày nay đã thay đổi rất xa cái ban đầu của nó, đến mức chỉ có thể gọi Phật giáo ngày nay là Phật giáo tương tự. Thực ra giáo lý được thêm ra nhiều nhưng những Kinh gốc bản nguyên gần như không có gì thay đổi. Dưới góc độ các nhà tu hành, các tổ chức Phật giáo thì rõ ràng Phật giáo luôn biến động, vì chính nó cũng phụ thuộc vào đời sống văn hóa cụ thể của từng quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Đặc biệt Phật giáo đã trở thành một lối sống trong xã hội phương Tây, với quan niệm cứ sống như ta đang sống nhưng hướng tới cái thiện và lòng thiền để có thể sống yên vui và tới yên vui, hay trong những tình cảnh bi đát nhất vẫn có được cái tâm hoan hỷ, sống trong địa ngục mà như ở Niết bàn vậy.Phan Cẩm Thượng 2008 nguồn vietimes
-
Chùm ảnh động đất tàn phá Trung Quốc 06:51' 13/05/2008 (GMT+7) Trận động đất kinh hoàng hôm 12/5 đã làm nhiều tòa nhà, trường học và nhà máy hóa chất ở miền Trung Trung Quốc sụp đổ, khiến ít nhất 10.000 người thiệt mạng và rất nhiều người khác bị vùi trong đống bê tông, đất đá. Đây là trận động đất tồi tệ nhất trong ba thập kỷ qua ở nước này. Mặc dù ban đầu thông báo trận động đất mạnh 7,8 độ Richter song Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ sau đó thông báo lại trận động đất mạnh 7,9 độ Richter. Độ sâu của tâm động đất là khoảng 10km bên dưới mặt đất, do vậy gây tác động trên một phạm vi lớn, làm rung chuyển cả Bắc Kinh (cách tâm động đất 1.545km) và Bangkok (cách 1.800km). Trận động đất hôm 12/5 xảy ra trên đường đứt gãy nơi mảng Nam Á đẩy mảng Âu Á, xô đồng bằng Tứ Xuyên vào những dãy núi dẫn tới cao nguyên Tây Tạng. Đây là trận động đất làm nhiều người thiệt mạng nhất kể từ trận động đất năm 1976 ở thành phố Tangshan, gần Bắc Kinh. Trận động đất năm 1976 đã làm 240.000 người thiệt mạng. Một trận động đất năm 1993 đã xảy ra gần địa điểm trận động đất hôm 12/5, làm ít nhất 9.000 người chết. Gần 20.000 binh sĩ, cảnh sát và quân dự bị đã được điều động tới khu vực thảm họa. VietNamNet xin giới thiệu chùm ảnh về hậu quả trận động đất này. Các tòa nhà sụp đổ hoàn toàn Nhốn nháo tìm người thân trong đống đổ nát Người dân địa phương tìm kiếm đồ đạc, người thân trong đống đổ nát Nhân viên cứu hộ chăm sóc người bị thương trên đống đổ nát của trường trung học Juyuan Tòa cảnh một tòa nhà bị sụp đổ ở trường học tại thành phố Chongqing Các nạn nhân của trận động đất Khẩn trương cứu hộ Người dân địa phương ngủ ngoài phố sau trận động đất kinh hoàng Bệnh nhân bệnh viện được sơ tán ra ngoài Minh Sơn (tổng hợp, Ảnh Xinhua) nguồn vietnamnet.vn
-
TQ: Người chết, nhà cửa đổ sập do động đất 21:44' 12/05/2008 (GMT+7) Trận động đất 7,8 độ Richter tại tỉnh Tứ Xuyên lúc chiều nay đã làm nhiều nhà cửa bị sập, hàng nghìn người chết và hàng trăm người khác bị chôn vùi trong đống gạch vụn. Theo ước tính của chính quyền Trung Quốc, có từ 3.000 tới 5.000 người chết vì động đất. Con số thương vong còn có thể tăng cao. Xinhua Nước và bùn chảy tràn trên mặt phố sau khi động đất làm vỡ các đường ống ngầm ở thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Cư dân địa phương tìm kiếm tài sản trong đống đổ nát của một ngôi nhà sập sau khi động đất xảy ra tại Dujiangyan, Tứ Xuyên. Xinhua Các nhân viên cứu hộ đang tìm kiếm học sinh bị chôn vùi trong đống gạch đá sau khi toà nhà ba tầng của trường phổ thông Juyuan bị sập. Tính tới lúc này, đã có 50 thi thể được tìm thấy trong số gần 900 học sinh đang mắc kẹt ở dưới đống đổ nát. Xinhua Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo (giữa) và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang bàn việc tiến hành công tác cứu trợ khi trên máy bay tới vùng gặp thảm hoạ. Thủ tướng bay tới Tứ Xuyên vào chiều nay và tới thẳng huyện Văn Xuyên để giám sát công tác cứu hộ. AP Người dân Trùng Khánh tập trung tại khu đỗ xe ngoài trời sau khi chạy khỏi các toà nhà vì động đất. Reuters Tại Bắc Kinh, một số viên chức chụp ảnh sau khi rời các toà nhà vì động đất. AP Một người đàn ông bước xuống cầu thang phủ đầy gạch vỡ ở bên trong một bệnh viện sau khi có động đất. Hoài Linh (Tổng hợp)
-
Nhân viên cứu hộ đưa một người bị thương ra khỏi đống đổ nát Hiến máu để giúp các nạn nhân Thủ tướng Ôn Gia Bảo cùng nhân viên cứu hộ tới nơi có nạn nhân bị vùi trong đống đổ nát Bệnh viện giờ thành đống gạch vụn Minh Sơn (tổng hợp, Ảnh Xinhua) nguồn vietnamnet.vn
-
Trung Quốc: Ít nhất 8.500 người chết vì động đất Chỉ trong vòng vài giờ, số người thiệt mạng vì trận động đất kinh hoàng xảy ra chiều 12/5 ở tỉnh Tứ Xuyên không ngừng tăng cao, từ 107 và đến giờ là hơn 8.500 người. Tin cập nhật:20h10 ngày 12/5/2008 gmt+7 Lúc 10h tối nay (giờ địa phương): Tân Hoa xã dẫn tin từ chính quyền tỉnh Tứ Xuyên, nơi có động đất cho biết, có 7.651 người đã thiệt mạng nhưng tình hình ở ít nhất 2 quận hiện chưa rõ ra sao . Trước đó, lúc 7h tối, hãng tin này cho hay, chỉ riêng tại quận Beichuan, tỉnh Tứ Xuyên, số người chết vào khoảng 3.000 tới 5.000, khoảng 10.000 người khác bị thương. Con số thương vong còn có thể tăng mạnh. Động đất đã phá huỷ 80% số toà nhà ở Beichuan. Dân số của Beichuan là 161.000 người, điều này có nghĩa, cứ 10 người dân thì lại có 1 người chết hoặc bị thương vì động đất. Hiện, chính quyền và các đội cứu hộ đã liên lạc được với khu vực bị tác động nặng nề nhất song hiện giờ là buổi tối nên công tác cứu hộ bị cản trở. Trận động đất làm sập ít nhất 8 trường học, khiến hàng trăm học sinh và sinh viên bị chôn vùi. Chỉ tính riêng một trường học bị sập ở Dujiangyan, Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc, đã có 900 học sinh bị vùi lấp. Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho biết, trận động đất 7,8 độ Richter lúc chiều nay xảy ra ở độ sâu 10km. Ít nhất 4 học sinh gồm hai trai và hai gái, được xác nhận đã chết tại trường phổ thông Juynan, thành phố Dujiangyan, cách tâm chấn ở quận Văn Xuyên 100km, các nhân chứng cho hay. Phóng viên Tân Hoa xã cho biết đã nhìn thấy một toà nhà ba tầng của trường học bị sập một phần. Một số học sinh bị chôn vùi đã cố gắng chui khỏi đống đổ nát trong khi một số khác kêu khóc tìm sự giúp đỡ. Nhiều phụ huynh đau đớn nhìn những chiếc cần trục đào đống gạch vụn ở hiện trường trong khi xe cứu thương đang chờ sẵn. Một người phụ nữ nước mắt chan chứa cho hay, cậu con trai Zhang Chengwei của bà đã bị chôn vùi trong đống đổ nát. Có hai nữ sinh cho biết các em thoát được vì chạy nhanh hơn các bạn khác. "Lúc đó khoảng 2h30, toà nhà đột ngột rung chuyển", một trong hai em nói. Một người dân làng cho hay, trường học đó có 18 lớp, mỗi lớp có 50 học sinh. "Chúng tôi chạy ra khỏi nhà khi động đất xảy ra" Gao Shangyuan, một người dân sống gần trường cho hay. Ông Gao hiện đang tham gia công tác cứu hộ, và cùng với nhiều người khác đã giúp được một số học sinh thoát khỏi đống đổ nát. "Một số em nhảy qua cửa sổ và một số khác chạy xuống những cầu thang không bị sập". Trận động đất vừa xảy ra có thể cảm nhận được trên toàn Trung Quốc, đã cướp đi sinh mạng của 107 người tại Tứ Xuyên, Cam Túc và Vân Nam, Trùng Khánh, Bộ các vấn đề dân sự cho biết lúc 6h tối nay (5h giờ VN). Theo cơ quan này, có nhiều người thiệt mạng vì nhà sập nhưng không nêu chi tiết. Động đất xảy ra vào đúng giữa giờ chiều, khi các lớp học và toà nhà văn phòng còn đông người. Sau khi động đất xảy ra, dư chấn nhỏ cũng tiếp diễn, cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho hay. Cục Địa chấn học Trung Quốc khẳng định, động đất xảy ra tại huyện Văn Xuyên, tỉnh Tứ Xuyên. Huyện Văn Xuyên nằm cách Thành Đô 146km về phía tây bắc. Các cuộc gọi vào trong thành phố Thành Đô không thể thực hiện được do các cư dân hoảng loạn gọi nhiều gây nghẽn mạng điện thoại. Động đất cũng ảnh hưởng tới mạng lưới điện thoại và điện ở đây, thậm chí truyền thông quốc gia dường như cũng chỉ nắm được ít thông tin về thảm hoạ. Mặc dù rất khó liên lạc được với Thành Đô, một sinh viên Israel tên là Ronen Medzini đã gửi tin nhắn tới cho AP và cho biết, thành phố bị mất điện và nước. "Tắc đường, nước không chảy, mất điện, mọi người đều ngồi ngoài đường, các bệnh nhân cũng được đưa khỏi các phòng bệnh và chờ ở ngoài". Hoài Linh (Tổng hợp)nguồn vietnamnet.vn
-
Lẽ nào đàn bà lại dễ mê tín hơn đàn ông? Thứ sáu, 2/5/2008, 07:00 GMT+7 Các nhà phê bình có quan điểm hiện đại đối với việc thờ vị nữ thần này, những người mà tôi đã có dịp nói chuyện, biết rất rõ rằng những người làm việc trong khu vực thương mại của thành phố là người người sùng bái Bà nhất. Điều này có vẻ như thừa nhận rằng những người thờ phụng Bà chính là bộ phận chính tham gia vào nền kinh tế thị trường và sự hội nhập toàn cầu của thành phố này. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với bằng chứng về sự gần gũi và tính hiện đại của việc thờ phụng vị nữ thần này, những nhà phê bình đã tiếp tục tranh luận về tính đại diện của các tập tục đối với quá trình hiện đại hóa và toàn cầu hóa bằng cách nhằm vào tính đặc thù về dân tộc, giới và nghề nghiệp của chúng. Một trong số những cách tiếp cận là coi những vị nữ thần như Bà Chúa Xứ là bằng chứng về sự ảnh hưởng lịch sử đối với bộ phận dân cư chiếm đa số về dân tộc có các nền văn hóa mẫu hệ như văn hóa Chăm. Sự vay mượn văn hóa như vậy có thể là mối quan tâm của các nhà nhân chủng học, nhưng hiếm có điều gì liên quan đối với những người coi bản thân mình là người đi tiên phong trong quá trình chuyển đổi sang một xã hội dựa vào thị trường toàn cầu hóa. Tượng Bà Chúa Xứ - Ảnh: VNN Niềm tin vào nữ thần cũng được nhìn nhận rộng rãi như một mô hình văn hóa bắt nguồn từ những người gốc Hoa, dù sở trường buôn bán đã được thừa nhận của mình, vẫn thường bị các trí thức Việt Nam coi là người xúi giục ‘mê tín’. Một số người lập luận rằng những niềm tin vào vị nữ thần tìm thấy chỗ đứng trong những người thiếu một nền tảng giáo dục cơ bản, và sự thiếu hiểu biết của họ đã dẫn đến niềm tin sai lầm rằng các lực lượng siêu nhiên quyết định đến số phận của họ.Theo cách này hay cách khác thì việc thờ phụng vị nữ thần này cũng không vượt qua được cuộc thử nghiệm văn hóa, hoặc là do chúng chịu ảnh hưởng của thứ văn hóa phi Việt Nam, hoặc là thể hiện một sự thiếu tiếp xúc đối với một quan điểm văn hóa khoa học hiện đại. Một cách tiếp cận nữa là gắn tập tục thờ phụng thần linh với những bản sắc mang đặc thù thế hệ và giới tính. Các bài báo từ thập niên 30 thế kỷ trước trên tạp chí "Phụ nữ hiện đại" ở Sài Gòn đã viết bằng giọng miệt thị về sự mê tín tôn giáo như một vấn đề lan rộng trong phụ nữ. Theo cách này, những người đàn ông sống ở thành thị mà tôi quen biết đã nói với tôi rằng phụ nữ rất dễ tin vào các thế lực bên ngoài, hơn là vào bản thân mình. Điều này khiến họ rất hay bị những kẻ lừa bịp tôn giáo lợi dụng. Ngược lại, nam giới không mấy chịu ảnh hưởng bởi các vấn đề tôn giáo, nên tính "tự lực" của họ lớn hơn. Tính tự lực này thường đi kèm với tính hiện đại ở Việt Nam. Chẳng hạn, vào đầu thế kỷ XX, phong trào "tự lực" trong giới trí thức dân tộc chủ nghĩa là một phương tiện quan trọng để đề ra những ý tưởng mà được cho là sẽ giúp hiện đại hóa xã hội.Khoa học và "lối tân học" đã khuyến khích mọi người tin vào bản thân mình hơn là tin vào những thế lực mơ hồ nào đó.Với đặc điểm như vậy, "tiến bộ" là một phong trào hướng tới những thiên hướng mà thường được xếp vào giới tính nam trong bối cảnh văn hóa Việt Nam. Phân biệt “thị trường” theo khía cạnh xã hội Các trí thức theo xu hướng hiện đại ở thành thị cũng tiếp cận với vấn đề thờ phụng thần linh theo một ý niệm phân tầng về nền kinh tế thị trường. Tiến, giám đốc tiếp thị của một công ty mỹ phẩm đa quốc gia có trụ sở ở thành phố Hồ Chí Minh, đã tưởng tượng ra việc "hiện đại hóa" và "mở cửa" với thế giới ở thành thị sẽ là đặc trưng tiêu biểu của các nhà chuyên môn cổ cồn, có trình độ học vấn và có khả năng nói tiếng nước ngoài như bản thân anh ta. Những người làm việc cho một công ty trong lĩnh vực lập kế hoạch, quản lý nhân sự hay nghiên cứu thị trường được coi là ở trong lĩnh vực "hiện đại". Trong một lĩnh vực như vậy, "thị trường" là một cái gì đó cần phải được quản lý, nghĩa là được dàn xếp bởi các nguyên tắc "hợp lý" và "khoa học". Gắn liền với thế giới của những tập đoàn khổng lồ với những cái tên và thương hiệu tiêu dùng nước ngoài có tầm ảnh hưởng toàn cầu, khu vực này thường nằm ở "trung tâm" thành phố và các đặc khu đầu tư nước ngoài mới. Nó thường nằm trong những tòa nhà cao tầng sang trọng, cửa kính khung nhôm bóng loáng và có những quy tắc nói năng và ăn mặc riêng. Ngược lại, những người đang làm việc trong các khu nhà bê tông xoàng xĩnh và không có thang máy trong thành phố và ở những nơi khác được Tiến cho là những hoạt động kinh tế "lỗi thời" hoặc nếu tốt đẹp nhất cũng chỉ là "tạm thời". Tiến coi những hoạt động trong thị trường địa phương của mình là thiếu kế hoạch và tạm bợ, đặc trưng bởi những quy tắc ăn nói và mặc cẩu thả và "sự phổ biến" của các hình thức tư duy "thiếu khoa học" và những tập tục mê tín. Đặc trưng này cũng mang bản chất giới tính; thuật ngữ "thị trường" thường nói đến một quan điểm trừu tượng về một cái chợ hiện đại, nơi mà Tiến hình dung mình đang làm việc, trong khi thuật ngữ "chợ" được dùng cho những điểm trao đổi hàng hóa trực tiếp, xây bằng bê tông và có đông đảo phụ nữ, vốn là đặc trưng phổ biến cho bối cảnh xã hội ở thành thị và nông thôn Việt Nam. Mặc dù Tiến đã thảo ra những kế hoạch quảng cáo, tiếp thị và phân phối để đưa các sản phẩm tiêu dùng mới ra khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long, song hiếm khi anh ta đi đến một cái chợ gần đó để mua những sản phẩm này về dùng. Điều này được thực hiện bởi những thành viên nữ trong gia đình anh - mẹ anh, vợ anh và con gái anh. Sự phân chia lao động mang đặc trưng giới tính như vậy khá phổ biến trong các gia đình trí thức ở khu vực thành thị Việt Nam, ngay cả khi các trí thức nam giới đang ngày càng sử dụng kỹ năng chuyên môn của mình để hoạt động trong "thị trường tri thức". Sự khác biệt mà Tiến duy trì giữa công việc của bản thân mình là một nhà chuyên môn làm trong lĩnh vực kinh doanh và công việc của những người buôn bán, cho vay ở khu chợ gần đó có thể được coi là thể hiện những tàn tích của Nho giáo, coi trọng việc học hành và những công việc hành chính hơn các hoạt động thương mại, hay theo thứ bậc truyền thống là "sĩ, nông, công, thương". Trong suốt một thập kỷ rưỡi, thời kỳ diễn ra sự tiếp xúc về giáo dục và thực hành với những cách thức kiếm sống mới, các thành viên của tầng lớp có học của Việt Nam ở thành thị đã phải vật lộn để tuân theo những chuẩn chuyên môn hóa và kỹ năng mới và khẳng định vị trí là nhân viên trong các hình thức công ty mới. Tuy nhiên, những tiền đề để họ dựa vào mà tham gia vào thị trường lại bị thách thức bởi những con đường khác nhau dành cho sự thăng tiến cá nhân, vốn là đặc trưng của xã hội mà họ đang sống. Tham nhũng, thói quen ưu đãi người thân, khả năng tiếp cận với những khoản tiền gửi về từ nước ngoài và việc di cư không được điều tiết đã tiếp sức cho sự nổi lên mới đây của phần lớn tầng lớp trung lưu đô thị thành phố Hồ Chí Minh. Thiếu nữ Sài Gòn - Ảnh tư liệu Việc thờ cúng thần linh thường được các nhà chuyên môn cổ cồn gọi là những hình thức cuộc sống bất hợp thức, quan niệm rằng việc phụ thuộc vào sự bảo vệ của thế giới thần linh thường được coi là giải pháp cuối cùng của những kẻ tuyệt vọng, bất lực. Việc họ coi rẻ những người nhờ cậy sự bảo hộ của các thần linh được gắn với sự chỉ trích của họ đối với sự tham gia không đúng đắn của các quan chức vào đời sống kinh tế và việc phổ biến các đạo lý kinh doanh bất chính, điều sẽ đe dọa làm xói mòn tính cạnh tranh của khu vực mà họ đang làm việc. Xét đến việc chính phủ Việt Nam dành nhiều sự chú ý cho việc duy trì tính hợp lệ của việc thờ cúng thần linh cũng như dành cho việc khuếch trương Việt Nam như một địa điểm lý tưởng cho đầu tư nước ngoài, sự chỉ trích việc thờ cúng thần linh mà các nhà chuyên môn thành thị đưa ra không nhất thiết là một quan điểm chủ yếu mang tính ý thức hệ, mà là một quan điểm được xuất phát từ lập trường về khả năng dễ bị tổn thương đã nhìn thấy. Hồi kết chưa ngã ngũ Tất cả những dẫn chứng trên đều đi đến một kết luận rằng Bà Chúa Xứ chiếm một vị trí nổi bật trong số các nhân vật được cho là dẫn đến những thay đổi kinh tế to lớn ở các thành phố và thị trường miền Nam Việt Nam. Bà là một tượng trưng và mang lại cảm giác dễ hiểu cho những quy trình kinh tế đương đại, Bà cũng là hiện thân của một hình mẫu nhận thức lịch sử, một sự kết tinh của cái được nhiều người coi là đã có ảnh hưởng nhất định trong quá khứ. Đối với những người thờ phụng Bà, vị nữ thần này được hàm ý trung tâm là một tác nhân tạo ra kết quả và là một đối tác trong hợp đồng của các mối quan hệ kinh tế. Là một biểu tượng hiện thân cho sự trải nghiệm lịch sử về thị trường đối với một khu vực to lớn của dân cư thành thị, Bà là một sự tượng trưng mà thông qua đó người ta thay đổi những đường hướng không chắc chắn trong hoạt động thương mại của mình và là một đối tác tin cậy mà người ta giao dịch để đạt được các mục tiêu của mình. Ngược lại, đối với chính phủ và nhiều nhà dân tộc học, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian làm việc cho các cơ quan nhà nước của Việt Nam, những vị thần như Bà Chúa Xứ đã được coi là phản ánh bản chất của "bản sắc dân tộc", một tài sản vô hình cần được gìn giữ và đề cao, nhằm mang lại cho người dân Việt một cái neo văn hóa trong một kỷ nguyên của sự thay đổi nhanh chóng và bức tường thành ngăn trở những tác hại tồi tệ nhất của toàn cầu hóa Trong khi nhấn mạnh đến sự lâu bền của những niềm tin vào thần linh và sự minh họa của chúng về những cội rễ sâu sắc về linh hồn ở Việt Nam, việc coi các thần linh như là đại diện của các nguồn tinh thần cho bản sắc Việt Nam cũng có thể được đặt trong điều kiện hiện tại. Một mặt, việc chính thức thừa nhận thờ cúng thần linh là một truyền thống đáng tôn kính của Việt Nam gắn với các nỗ lực của chính phủ nhằm nuôi dưỡng những tính chất chủ quan mới như "nền kinh tế dựa vào gia đình".Mặt khác, việc tưởng niệm đến các vị mẫu thần có thể được coi như một đề án diễn giải phản ứng do các trí thức thành thị đề ra nhằm duy trì địa vị và sự liên đới văn hóa trong một kỷ nguyên thay đổi văn hóa – xã hội không thể đoán trước. Đối với những người theo xu hướng đả phá tín ngưỡng này, Bà Chúa Xứ là tâm điểm của những tập tục mà họ coi là xa cách về không gian, lỗi thời về thời gian và có giá trị xã hội không rõ ràng. Bằng việc vận dụng đến những khác biệt về không gian, thời gian và giá trị xã hội,những người theo xu hướng hiện đại, đả phá tín ngưỡng của Việt Nam thường đưa các ranh giới về không gian, thời gian và văn hóa vào khoảng cách giữa bản thân họ và những người theo đuổi việc thờ thần linh. Họ tự xác định bản thân mình ở vị thế là những đại diện xác thực cho tính thành thị, tính hiện đại và xu hướng toàn cầu hóa của Việt Nam. Dù những lời chỉ trích của họ dường như thiếu tính bao dung, song thay vì coi những quan điểm như vậy là cuồng tín theo chủ nghĩa hiện đại, chúng ta nên coi chúng như bằng chứng của một chế độ gia trưởng truyền thống kéo dài hay như một sự đả phá của tầng lớp tinh hoa đối với sự không chính thống. Chúng ta có thể nhận thấy trong những lời chỉ trích này, giống như bản thân tập tục thờ thần linh, một hình mẫu hành động trong hiện tại, một hình mẫu nhằm bảo đảm một sự tồn tại mạnh mẽ đối với một bộ phận đáng kể cộng đồng thành thị đang lúng túng khi họ lâm vào một hoàn cảnh xã hội phức tạp và không chắc chắn./. Tác giả: Phillip Taylor (Philip Taylor, một nhà nhân học ở Đại học Quốc gia Úc và là chuyên gia về tôn giáo Việt Nam. Ông là người đã đưa ra nhận định: "Ngày nay, tôn giáo đang phát triển ở Việt Nam, khi xét về số lượng tín đồ và sự đa dạng tín ngưỡng”) Thi Thi (dịch từ nguồn: Anu.edu.au). nguồn vietimes
-
Trung Quốc ước tính tới 5.000 người chết vì động đất 20:18' 12/05/2008 (GMT+7) Tân Hoa xã cho hay, chỉ riêng tại quận Beichuan, tỉnh Tứ Xuyên, số người chết vào khoảng 3.000 tới 5.000, khoảng 10.000 người khác bị thương. Con số thương vong còn có thể tăng mạnh Hà Nội: Người dân nhốn nháo vì động đất Động đất đã phá huỷ 80% số toà nhà ở Beichuan. Dân số của Beichuan là 161.000 người, điều này có nghĩa, cứ 10 người dân thì lại có 1 người chết hoặc bị thương vì động đất. Hiện, chính quyền và các đội cứu hộ đã liên lạc được với khu vực bị tác động nặng nề nhất song hiện giờ là buổi tối nên công tác cứu hộ bị cản trở. Trận động đất làm sập ít nhất 8 trường học, khiến hàng trăm học sinh và sinh viên bị chôn vùi. Chỉ tính riêng một trường học bị sập ở Dujiangyan, Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc, đã có 900 học sinh bị vùi lấp. Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho biết, trận động đất 7,8 độ Richter lúc chiều nay xảy ra ở độ sâu 10km. Ít nhất 4 học sinh gồm hai trai và hai gái, được xác nhận đã chết tại trường phổ thông Juynan, thành phố Dujiangyan, cách tâm chấn ở quận Văn Xuyên 100km, các nhân chứng cho hay. Phóng viên Tân Hoa xã cho biết đã nhìn thấy một toà nhà ba tầng của trường học bị sập một phần. Một số học sinh bị chôn vùi đã cố gắng chui khỏi đống đổ nát trong khi một số khác kêu khóc tìm sự giúp đỡ. Nhiều phụ huynh đau đớn nhìn những chiếc cần trục đào đống gạch vụn ở hiện trường trong khi xe cứu thương đang chờ sẵn. Một người phụ nữ nước mắt chan chứa cho hay, cậu con trai Zhang Chengwei của bà đã bị chôn vùi trong đống đổ nát. Có hai nữ sinh cho biết các em thoát được vì chạy nhanh hơn các bạn khác. "Lúc đó khoảng 2h30, toà nhà đột ngột rung chuyển", một trong hai em nói. Một người dân làng cho hay, trường học đó có 18 lớp, mỗi lớp có 50 học sinh. "Chúng tôi chạy ra khỏi nhà khi động đất xảy ra" Gao Shangyuan, một người dân sống gần trường cho hay. Ông Gao hiện đang tham gia công tác cứu hộ, và cùng với nhiều người khác đã giúp được một số học sinh thoát khỏi đống đổ nát. "Một số em nhảy qua cửa sổ và một số khác chạy xuống những cầu thang không bị sập". Trận động đất vừa xảy ra có thể cảm nhận được trên toàn Trung Quốc, đã cướp đi sinh mạng của 107 người tại Tứ Xuyên, Cam Túc và Vân Nam, Trùng Khánh, Bộ các vấn đề dân sự cho biết lúc 6h tối nay (5h giờ VN). Theo cơ quan này, có nhiều người thiệt mạng vì nhà sập nhưng không nêu chi tiết. Động đất xảy ra vào đúng giữa giờ chiều, khi các lớp học và toà nhà văn phòng còn đông người. Sau khi động đất xảy ra, dư chấn nhỏ cũng tiếp diễn, cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho hay. Cục Địa chấn học Trung Quốc khẳng định, động đất xảy ra tại huyện Văn Xuyên, tỉnh Tứ Xuyên. Huyện Văn Xuyên nằm cách Thành Đô 146km về phía tây bắc. Các cuộc gọi vào trong thành phố Thành Đô không thể thực hiện được do các cư dân hoảng loạn gọi nhiều gây nghẽn mạng điện thoại. Động đất cũng ảnh hưởng tới mạng lưới điện thoại và điện ở đây, thậm chí truyền thông quốc gia dường như cũng chỉ nắm được ít thông tin về thảm hoạ. Mặc dù rất khó liên lạc được với Thành Đô, một sinh viên Israel tên là Ronen Medzini đã gửi tin nhắn tới cho AP và cho biết, thành phố bị mất điện và nước. "Tắc đường, nước không chảy, mất điện, mọi người đều ngồi ngoài đường, các bệnh nhân cũng được đưa khỏi các phòng bệnh và chờ ở ngoài". Hoài Linh (Theo Xinhua, AP) Nguồn Vietnamnet
-
Xưa, có hai anh em nhà kia giống nhau như hai giọt rượu! Một hôm, người anh phàn nàn với bạn: - Tôi có một thằng em sinh đôi giống tôi như đúc, đến nỗi người ta luôn nhầm chúng tôi với nhau và tôi luôn phải trả giá cho những hành động sai trái của nó. - Cụ thể thế nào? - Hồi nhỏ, tôi luôn bị đánh đòn khi nó gây lộn ở bên ngoài... - Khổ thân anh! - Chưa nhằm nhò gì! Tôi còn bị ngồi tù thay nó mấy năm chỉ vì nó say rượu quấy rối. Người yêu của tôi cũng bị nó cưới làm vợ! Nhưng giờ thì tôi trả thù được nó rồi... - Bằng cách nào? - Tuần trước, tôi giả vờ chết và thế là người ta chôn nó khi nó đang ngủ. Nguồn netlife .
-
Chủ Nhật, 11/05/2008, 17:52 (GMT+7) Vua Hàm Nghi: giữ cốt cách Việt nơi lưu đày . TTCT - Từ đầu năm 2008, Nhà nước, chính quyền tỉnh Thừa Thiên - Huế và cộng đồng Nguyễn Phước tộc (trong và ngoài nước) đã có những động thái tích cực để đưa di hài vua Hàm Nghi về Huế. Vị vua yêu nước, mang tinh thần dân tộc quật cường đang sắp sửa về lại cố hương sau 120 năm biệt xứ chốn lưu đày. Cuộc nổi dậy kháng Pháp bất thành, kinh đô Huế bị thất thủ ngày 23-5 năm Ất Dậu (1885). Vua Hàm Nghi theo phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chạy ra Tân Sở và ban chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu và toàn thể dân chúng nổi dậy chống Pháp. Ba năm cầm đầu ngọn cờ của toàn dân tộc đấu tranh kháng Pháp, công cuộc chưa thành thì cuối năm 1888 vua Hàm Nghi bị tên tội thần phản chủ Trần Quang Ngọc bắt nộp cho Pháp. Không thể mua chuộc được ông vua trẻ lúc ấy chỉ mới 18 tuổi, thực dân Pháp đã đưa vua xuống tàu La Comète vào Sài Gòn, rồi đưa qua tàu Biên Hòa, lưu đày biệt xứ sang Algeria. Trước đó, thực dân Pháp đã yêu cầu viên toàn quyền Algeria đối xử tử tế với toan tính có thể đưa Hàm Nghi trở lại ngai vàng một lần nữa... Ngày 13-1-1889, tàu Biên Hòa cập bến thủ đô Alger của Algeria. Tại đây, nhà vua được chính quyền tiếp đón đàng hoàng và được nhiều học sinh người Việt tìm đến viếng chào. Nhà vua được cấp Villa des Pins (biệt thự Hiên Tùng) sang trọng, nằm gần Alger. Ông cũng được viên toàn quyền Pháp tại Algeria là Tirman tiếp kiến và mời cơm thân mật tại gia đình. Không chịu khuất phục Không chịu khuất phục Nhưng thái độ bất hợp tác của vua tỏ rõ ngay từ đầu. Thời gian khởi nghĩa nhà vua thường nói rằng mình thà chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà bị người Pháp kiềm tỏa. Ngay trước thời điểm lên tàu đi xa, có cơ hội về thăm gia đình, thăm người mẹ đang đau nặng, nhưng nhà vua cự tuyệt: “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa!”. Trong mười tháng đầu ở đất khách quê người, vua rất ít tiếp xúc với người khác, không chịu học tiếng Pháp - tiếng của dân tộc đã cướp nước mình, mọi việc đều phải qua phiên dịch của Trần Đình Thanh - viên thông ngôn được người Pháp cử theo. Người dân Alger thì quen gọi vua Hàm Nghi với cái tên thân thiện là “ông hoàng An Nam” (Prince d'Annam), bởi nhà vua luôn nói tiếng Việt, đầu búi tó, đội khăn vành, vận áo dài đen, quần trắng, ăn các món ăn của người Việt do người Việt nấu... Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: “Về sau khi tiếp xúc với nhiều người, gặp nhiều người Pháp tốt, nhà vua nhận ra không phải người Pháp nào cũng là kẻ thù và ông mới chịu theo học tiếng Pháp đến mức thông thạo”. Nhà vua cũng thường vẽ tranh, chụp ảnh như là những thú vui tao nhã trong đời sống của mình. Khi đã tiếp cận, học hỏi nhiều điều từ văn hóa, văn minh Pháp, có người ca ngợi lịch sử nước Pháp trước mặt ông, nhà vua không bàn cãi mà chỉ đáp lời: “Lịch sử nước Pháp rất hấp dẫn tôi nhưng lịch sử nước tôi cũng hấp dẫn tôi không kém!”... Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân kết luận: “Vua Hàm Nghi giao du quen thuộc với nhiều trí thức nói tiếng Pháp; nhiều quan chức cao cấp của Pháp rất trọng nể tinh thần yêu nước và phong cách sống phương Đông của ông”. Ông Tôn Thất Hanh, nguyên chủ tịch hội đồng Nguyễn Phước tộc, nói: “Vua Hàm Nghi là biểu tượng của sự chống đối đối với thực dân Pháp từ trẻ đến già, với cái tâm thật trong sáng!”. Tác giả Bửu Diên - Hoàng Oanh, trong đặc san tưởng niệm Ba vị hoàng đế cách mạng Hàm Nghi - Thành Thái - Duy Tân do hội đồng hoàng tộc Nguyễn Phước hải ngoại ấn hành năm 2004, nhận xét: “Cuộc đời sóng gió, lòng yêu nước và đức độ của vua Hàm Nghi đã cảm hóa được nhiều người bạn ngoại quốc”, thông qua nhắc lại tường thuật của cô Blanche - con gái vị đại tá tư lệnh Alger thời bấy giờ đã viết về vua Hàm Nghi: “Nếu Người bằng lòng trở lại ngôi báu thì người Pháp chúng tôi rất vui mừng vì Người đã được dân chúng và sĩ phu sùng bái. Lòng yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu đồng bào của Người lớn hơn cả chiếc ngai vàng. Tôi yêu mến tổ quốc của tôi nên tôi rất quí trọng những người yêu tổ quốc của họ!”. Một gia đình Việt giữa xứ người Theo nghiên cứu của ông Nguyễn Đắc Xuân, vào đầu thế kỷ 20, thông qua một người Pháp, vua Hàm Nghi viết thư về Huế yêu cầu gửi hai người cháu là Bửu Thùy và Bửu Phong, con của công tử Ưng Uyển, anh cùng cha khác mẹ với mình, sang Alger ở cùng. Vợ ông Ưng Uyển, là con gái của đại thần Nguyễn Hữu Độ, không đồng ý. Đến năm 1904, khi đã 33 tuổi, vua cưới vợ là cô Marcelle Laloe, con gái ngài luật sư chánh án tòa thượng thẩm Alger. Ngài Laloe góa vợ, có một con gái duy nhất, là người rất được trọng vọng đối với dân bản xứ, có lẽ thông cảm với hoàn cảnh của vị vua nước Nam đang lưu vong nên đã gả con gái cho. Ngày cưới, vua Hàm Nghi vẫn phục sức kiểu Việt với áo dài, khăn đóng, búi tóc cổ truyền, đi trên chiếc xe song mã rước vị hôn thê đến nhà thờ làm lễ. Những bức ảnh tư liệu cho thấy hàng nghìn người đã theo dõi lễ cưới của vị vua An Nam, và đây trở thành một sự kiện văn hóa của người dân trong vùng. Vợ theo Thiên Chúa giáo, vua Hàm Nghi tuy không theo đạo nhưng rất tôn trọng vợ, thỉnh thoảng có đến nhà thờ, và hai người sống với nhau rất hạnh phúc cho đến cuối đời. Nhà vua có ba người con, con đầu lòng là hoàng nữ Như Mai sinh năm 1905, năm 1908 có thêm cô con gái kế là Như Lý và đến năm 1910 sinh con trai út Minh Đức. Ngay sau khi vị vua kế nhiệm Đồng Khánh băng hà đã có một cuộc vận động từ phía triều đình Huế, trong đó có hai đại thần Nguyễn Trọng Hợp (Hiệp) và Nguyễn Hữu Bài, và kể cả một số ý kiến thống nhất từ phía người Pháp, nhưng chính quyền bảo hộ cự tuyệt, không đồng ý. Trong bức điện thượng khẩn và tối mật Paris trả lời toàn quyền Đông Dương có đoạn: “Hãy khước bỏ Hàm Nghi vì Hàm Nghi đương nhiên là thù địch với chính phủ bảo hộ. Trong số các hoàng thân khác, hãy chấp nhận hoặc khuyên người ta lựa chọn kẻ nào thích ứng hơn cả với lợi ích chính trị của chúng ta, sau khi đã trao đổi nhất trí với khâm sứ (Huế)” (nguồn: Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ, xuất bản tại Pháp năm 1994). Ý thức về sự đày ải suốt cuộc đời, biệt thự Hiên Tùng được vua đổi tên thành biệt thự Gia Long, trong đó xây một cổ lâu theo kiểu kiến trúc Việt truyền thống, biến thành nơi để thờ phụng, tế tự dòng tộc nhà Nguyễn. Ông thường bảo: “Các con chưa thể được làm người dân Việt Nam tốt thì hãy là những người Pháp tốt”. Cách sống và cách dạy con dựa trên tinh thần Việt của nhà vua đã tác động tích cực nên các con ông đều trở thành người rất có tư cách. Con gái đầu Như Mai năm 1925 đã đỗ đầu kỹ sư nông học tại Trường canh nông Quốc gia Grignon, là người phụ nữ đầu tiên đỗ đầu trường này. Bà không lập gia đình mà đem tri thức giúp dân nghèo cải tạo nông nghiệp tỉnh Dordogne, biến vùng đất nghèo trở nên giàu có. “Bà chúa nước Nam” theo cách gọi của dân địa phương đã dựng được một lâu đài lớn tại làng Thonac, về sau biến một phần đất trở thành nghĩa trang gia đình, nơi đặt di hài vua Hàm Nghi hiện nay. Người con gái kế Như Lý đang học đại học ngành dược đã bỏ học đi lấy chồng là một nhà quí tộc thành công trong nghề nông, sinh được ba người con, hiện đang sinh sống tại Pháp. Phần hoàng thân Minh Đức, cũng như bao nhiêu thanh niên Pháp, phải đi lính trong Thế chiến thứ 2. Theo tác giả Nguyễn Xuân Thọ, sau thế chiến hoàng thân ở trong quân đội Pháp với cấp thiếu tá. Sau khi Đức thua trận, ông được lệnh đưa đi Việt Nam trong hàng ngũ quân Pháp, nhưng ông thẳng thừng từ chối. Ông Jean De Latour Dejean - một đại sứ làm việc cho Bộ Ngoại giao Pháp, từng là sĩ quan, bạn thân và là đồng đội với ông Minh Đức lúc ấy - kể câu chuyện hoàng thân tuyên bố với Chính phủ Pháp rằng ông không thể cầm súng bắn lại đồng bào ông. Nếu Chính phủ Pháp muốn đưa ông ra tòa án binh thì cứ đưa. Ông không chịu đi qua Việt Nam để đánh giặc cho Pháp, chống lại Việt Nam. Đã gần ngày về với quê nhà Nhiều sử liệu cho rằng vua Hàm Nghi mất vào ngày 4-1-1943; tuy nhiên ông Nguyễn Đắc Xuân dẫn theo lời bà Như Lý cho rằng vua mất vào ngày 14-1-1944, tại biệt thự Gia Long và an táng ngay tại đây. Đến năm 1962, khi Algeria độc lập thì biệt thự Gia Long được trả về cho Algeria và ba năm sau di hài nhà vua được chuyển về cải táng ở khu lăng mộ tại làng Thonac, trong khu vực lâu đài của trưởng nữ Như Mai ở tỉnh Dordogne. Ông Xuân cho biết khu lăng mộ hiện có năm hài cốt gồm: vua Hàm Nghi, bà Marcelle Laloe - vợ vua (mất năm 1974), bà quản gia (mất 1941), ông Minh Đức (mất 1990) và bà Như Mai (mất 2000). Theo ông Xuân, nếu đưa về Huế nên thiết kế một khu lăng mộ riêng cho phong trào Cần Vương và cải táng vua Hàm Nghi và gia đình, cùng việc bố trí các chí sĩ trong phong trào Cần Vương như: Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Đạm... để vừa trở thành điểm tưởng niệm, tham quan học hỏi... Đến nay tỉnh Thừa Thiên - Huế đã bước đầu thống nhất phương án chọn địa điểm đặt nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho vua Hàm Nghi tại vùng đồi Thủy Xuân - TP Huế. Đó là một khu đất nằm kề các khu lăng những người thân của vua gồm lăng người cha Kiên Thái vương và hai vua anh là Đồng Khánh và Kiến Phúc (nằm trong khu vực lăng Tự Đức)... Thai Loc ( tuoitre.com)
-
Vua Hàm Nghi và câu chuyện cổ tích kỳ lạ (1) 10/05/2008 06:51 (GMT + 7) Cuộc đời và những câu chuyện kể về vua Hàm Nghi - vị vua tài năng và có số phận kỳ lạ không chỉ được ghi lại trong lịch sử của nước Việt Nam, mà còn đi vào văn học, tiểu thuyết nước ngoài như một câu chuyện cổ tích thần kỳ. Cung thành Huế (Ảnh: Lâm Thái) Hàm Nghi - Vị vua tài năng có một số phận không bình thường Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn, hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Lòng đầy xúc động, tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường. Tên tuổi ông không chỉ gắn liền với những sự kiện lớn lao trong lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, mà còn là sự khởi đầu cho nền hội họa hiện đại Việt Nam. Tên tuổi ông cũng gắn liền với một trong những cuộc tiếp xúc trực tiếp sớm nhất trong lịch sử quan hệ văn hóa Việt - Nga và đó cũng là một trang tuyệt vời trong lịch sử văn hóa nhân loại nói chung. Nguyên mẫu của một tác phẩm Có thể nói, từ nửa cuối thế kỷ XVIII, các nhà văn Nga đã bắt đầu quan tâm ngày càng nhiều đến các quốc gia phương Đông và nền văn hóa của họ. Chính vì vậy mà suốt thế kỷ XIX, nền văn hóa Nga, ở mức độ nào đó, đã trở nên giàu có màu sắc thẩm mỹ hơn nhờ nắm bắt được một cách nghệ thuật thực tại của các nước phương Đông, cùng với nền văn hóa và nghệ thuật của họ, trong đó có Việt Nam, mặc dù sự tiếp xúc với Việt Nam là rất ít. Nhưng các nhà văn Nga vẫn luôn quan tâm đến nỗi đau tinh thần của nhân dân Việt Nam với một tình cảm chân thành. [/size] Tôi đã được xem một tác phẩm của nền văn học Nga, in năm 1903, viết về vấn đề này. Nguyên mẫu của tác phẩm là một nhân vật lịch sử. Người ta còn lưu giữ được chân dung thật của ông. Tấm ảnh cũ chụp một người trong trang phục truyền thống của các nho sĩ Việt Nam, đầu đội khăn xếp, nét mặt suy tư toát lên vẻ đẹp tinh thần. Đó là một khuôn mặt thông minh, tài ba, có tâm hồn và đầy trách nhiệm. Vua Hàm Nghi Trong giai đoạn lịch sử hết sức cam go, khi đất nước Việt Nam của ông đang nằm dưới ách thống trị của bọn thực dân, năm 1884 ông lên ngôi vua khi mới 13 tuổi, trước ông, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có hai ông vua trẻ bị truất quyền. Có tư tưởng phản kháng chính quyền thực dân, nhà vua lập tức trở thành người đứng đầu phong trào khởi nghĩa Cần Vương yêu nước. Bọn thực dân tìm cách sát hại ông. Khi ông trốn vào vùng rừng núi chúng đã truy lùng ông ráo riết. Cho tới năm 1888 nhà vua bị bắt do có kẻ phản bội. Chúng đưa ông đi đày ở tận Bắc Phi - Angiêri. Và tại đây, theo nhà Việt Nam học người Nga V.V. Remartruc, mùa xuân năm 1902, trên đường về Nga, nữ văn sĩ Tachiana Lvôpna Sepkina-Kupernhic đã gặp vị vua Việt Nam đang bị lưu đày - Hàm Nghi. Các tài liệu lịch sử hiện còn lưu trữ cũng đã xác định điều này. Nữ văn sĩ 28 tuổi này, đến thời điểm đó rất được công chúng của đất nước mình ái mộ với tư cách là một cây bút hấp dẫn, có học vấn. Bà có một tình yêu tha thiết với sân khấu và văn học. Bà tán đồng những tư tưởng tự do, dân chủ của thời đại mình. Tachiana Lvôpna có tư chất nghệ sĩ, đầy sức sống, rất tài năng, nổi bật bởi sự cần mẫn phi thường, thông thạo nhiều ngôn ngữ châu Âu. Thiếu bà khó có thể hình dung được lịch sử sân khấu Nga nửa đầu thế kỷ XX. Sân khấu là vận mệnh của bà. Cụ cố của bà là nghệ sĩ Nga vĩ đại M.C. Sepkin. Từ thời thơ ấu Tachiana Lvôpna đã hít thở bầu không khí của nhà hát. 18 tuổi bà đã là tác giả vở kịch Bức tranh mùa hè được dàn dựng ở Maxcơva trên sân khấu của Nhà hát Malưi danh tiếng vào năm 1892. Sau đó tiếp tục là những vở kịch khác của bà. Từ 1894 cho đến cuối đời nữ văn sĩ đã dịch ra tiếng Nga nhiều vở kịch của các nhà viết kịch phương Tây như Sêcxpia, Lôpơ đơ Vega, Môlie, Gônđôni, P.B. Seriđan và nhiều tác giả khác. Nước Nga xinh đẹp (Ảnh nguồn: studyrussian.com) Bà có cuốn du ký hai tập mang tên Những bức thư từ phương xa (1903-1913) viết về những chuyện kỳ lạ ở nước ngoài. Nguyên mẫu của nhân vật trong một truyện ký ở tập I là vua Hàm Nghi. Truyện có nhan đề Hoàng tử Ly Tdong (mà không phải Hàm Nghi), người mà trong các thư từ trao đổi, Tachiana Lvôpna và những người quen của bà gọi là Hoàng tử An Nam, hoặc theo kiểu Pháp: Prince d’ Annam. Câu chuyện cổ tích thần kỳ Trong phần đầu tác phẩm của mình, Sepkina-Kupernhic đã phủ lên nhân vật một bức màn cổ tích lãng mạn, đôi chỗ bà phải lược bỏ những chi tiết có thật. Đối với nữ văn sĩ thì chân dung tâm lý của nhân vật là quan trọng hơn; từ đây để bảo vệ họ, tên thật được thay thế bằng những cái tên hư cấu như trong trường hợp Hàm Nghi. Sự thay đổi tên tuổi còn có thể giải thích bằng lý do tránh sự kiểm duyệt. Có thể thấy rõ rằng - khi đối chiếu các sự kiện trong cuộc đời Hàm Nghi và nhân vật trong truyện ký của Tachiana Lvôpna như: nơi tù đày, biệt thự cách không xa thành phố Angiê, tài năng nghệ sĩ, sự quan tâm đến học thuyết Nho giáo v.v..., và rằng trong tác phẩm của bà còn lưu giữ rất nhiều diện mạo tinh thần và vóc dáng thực sự của Hàm Nghi - truyện ký đã dựa trên cơ sở tài liệu thuần túy và nhân vật hoàn toàn đồng nhất với Hàm Nghi. Nữ văn sĩ đã vẽ nên bức tranh với những đặc điểm của đất nước Việt Nam. Đó là một bức tranh kỳ lạ về một đất nước thuộc vùng văn hóa Viễn Đông. Bà đã nhiều lần nhấn mạnh đến nét nhỏ nhắn, duyên dáng của những con người từ đất nước “phương Đông xa xôi” - những đặc điểm đập ngay vào mắt người nước ngoài từ cái nhìn đầu tiên khi làm quen với những người Việt Nam có văn hóa. Vị hoàng tử “được dạy dỗ bởi những bậc hiền triết của đất nước mình”, “theo đạo Nho và tôn thờ những giáo lý của nó". Nhân vật truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ thường là các hoàng tử, thế tử, mà không phải là vua, càng không phải là những ông vua bị hạ bệ. Theo tinh thần của truyện cổ tích, việc xâm lược của bọn thực dân trên đất nước của hoàng tử đã được kể lại: “Vào một buổi sáng bất hạnh xuất hiện những người phương Tây cùng với vũ khí sáng lòa và những viên đạn thảm khốc, chúng đem lại sự hủy hoại.” (Sepkina-Kupernhic, tr.392). Tiếp theo, tính cổ tích của truyện bị vi phạm bởi việc kể lại một cách chân xác những sự kiện lịch sử có thực: “Chàng bị bọn thực dân bắt và bị đưa đi đày. Theo sự lựa chọn của những ông chủ mới của đất nước chàng - trên ngai vàng của cha ông chàng đang ngự trị những bóng ma câm lặng, - còn chàng thì bị giữ làm con tin vĩnh viễn, suốt cuộc đời.” (Sepkina-Kupernhic, tr.392). Nếu đó đúng là truyện cổ tích thì có lẽ đây sẽ là một câu chuyện cổ tích thật khủng khiếp. Buộc phải dời khỏi quê hương mình, hoàng tử bị đưa đi đày ở Bắc Phi: “Ở đó là Tổ quốc chàng; còn ở đây là bậc thang để đi đến nấm mồ.” (Sepkina-Kupernhic, tr.396). Cuộc sống trong hoàng cung Huế xưa (Ảnh nguồn: belleindochine.free.fr) Câu chuyện cổ tích của Tachiana Sepkina-Kupernhic kết thúc bằng những tình tiết chân thực : “Dáng dấp nhỏ bé của hoàng tử (chàng xuất hiện giữa chúng tôi, giữa những bạn bè chung) trong bộ trang phục nửa Âu nửa Á, ngay lập tức đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Chiếc khăn xếp màu trắng trùm trên mái tóc đuôi sam, chiếc áo dài màu đen với ống tay áo rộng buông xuôi được lót bằng lụa tơ tằm màu xanh tươi (màu xanh của quê hương chàng); nước da vàng ngăm đen mang sắc màu của chiếc ngà voi lâu năm; còn rất buồn và rất thông minh là đôi mắt đen hơi xếch lên phía thái dương; tay và chân chàng nhỏ nhắn - Tất cả điều đó khiến tôi nghĩ về một bức tượng quý giá, được chạm trổ bằng bàn tay tài hoa của một nghệ sĩ phương Đông” (Sepkina-Kupernhic, tr. 394). Tất nhiên, chiếc khăn xếp màu trắng là màu quốc tang. Hàm Nghi không dùng để che mái tóc đuôi sam, mà che búi tóc truyền thống mà các nhà nho Việt Nam thường để. Nhưng toàn bộ chi tiết của quần áo và vẻ ngoài, rõ ràng, được tái hiện lại từ một người có tài quan sát. Tới thời gian của cuộc gặp gỡ này, vua Hàm Nghi đã thông thạo tiếng Pháp. Khi đến Angiêri, trong lúc bị cưỡng bức đi đày, thời gian đầu ông đã định sống thu mình lại, chính xác hơn là cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách sống này không chỉ là thái độ cực đoan của tuổi trẻ mà trước hết là của sự khó chịu với những gì liên quan tới thực dân, tới “bọn Tây”. Vua Hàm Nghi ở Pháp Cùng với điều đó, Hàm Nghi còn giữ lại cho mình nhiều thói quen như khi còn sống trong cung đình Huế. Nữ văn sĩ Nga đã dẫn ra tình tiết sau: bên cạnh hoàng tử luôn có hai người trẻ tuổi từ các gia đình trí thức Việt Nam, họ tự nguyện theo ông trong cảnh tù đày. “Họ đi lại nhẹ nhàng dường như không có tiếng động trên những chiếc đế giày màu trắng. Còn khi hoàng tử quay về phía họ hỏi bằng tiếng mẹ đẻ, họ trả lời rì rầm chỉ đủ để nghe, giống như tiếng của những chiếc chén trà Trung Hoa nhỏ nhắn chạm nhau và ngân vang trên khay nước.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 400). Ở đây, nữ văn sĩ đã ghi nhận cung cách tinh tế, lịch thiệp, tôn kính của giới quý tộc Việt Nam với nhà vua, mặc dù họ đang ở tại nơi tù đày của bọn thực dân. Rõ ràng, lúc đầu vua Hàm Nghi đã chối từ việc học tiếng Pháp, tiếng của “bọn Tây”. Nhưng ông nhanh chóng thay đổi quan điểm của mình. Ông quan tâm đến văn hóa châu Âu, say mê âm nhạc, và điều cơ bản nhất - ông hết sức yêu thích hội họa. Hơn nữa, hội họa trở thành niềm ham thích của ông, nuôi dưỡng cuộc đời ông, thành nghề nghiệp của ông. (Còn nữa)
-
Vua Hàm Nghi và câu chuyện cổ tích kỳ lạ (2) 11/05/2008 07:40 (GMT + 7) Số phận đã khiến ông cũng là người sáng lập nền hội hoạ hiện đại Việt Nam. Vua Hàm Nghi có thể có vị trí vinh dự không chỉ trong lịch sử của cuộc đấu tranh vì tự do chống lại chủ nghĩa thực dân, mà còn cả trong lịch sử nền nghệ thuật Việt Nam. Không đâu ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, một cựu hoàng lại có được một vai trò tương tự như vậy trong lịch sử nền văn hoá của dân tộc mình. Vua Hàm Nghi - một hoạ sĩ Dáng dấp lạ lẫm, gợi cảm cùng với sự trang nhã của hoàng tử và sự bí ẩn của chàng đã tạo nên mối thiện cảm lớn lao trong lòng nữ văn sĩ Nga. Và bà cùng với bạn bè của mình đã trở thành khách mời tại nhà ông, nơi mà bên cạnh những bản thảo và nhạc cụ (cả Đông và Tây), bên cạnh các bản nhạc (mà giữa chúng có cả các tác phẩm của nhà soạn nhạc vĩ đại người Nga Mikhain Ivanôvich Glinka), thì thu hút sự chú ý của khách lại là những bức tranh do chính hoàng tử vẽ, chúng chứng tỏ cho khách thấy tài năng nghệ thuật của ông. Ở đó còn có chiếc giá vẽ cùng với bản thảo dang dở. Trong biệt thự của hoàng tử, nữ văn sĩ Nga còn nhìn thấy “những vật quý giá và thiêng liêng như: Những tấm lụa quý treo tường, cùng với những câu danh ngôn của Khổng phu tử được dát bằng vàng trên lụa, những nhạc cụ của đất nước chàng, những cuộn bản thảo, mực và bút trên bàn viết, những chiếc chiếu cói trên nền nhà. Ở một chỗ khác trong nhà là cây đàn dương cầm, chiếc viôlông, những bản nhạc, giữa chúng tôi tìm thấy Glinka của chúng ta, và giá vẽ cùng với bản thảo dang dở. Trên những chiếc bàn khắp nơi là phác thảo của hoàng tử, tranh của chàng, chúng cho tôi biết rằng trong thân hình nhỏ bé như chiếc ngà voi kia ẩn giấu tâm hồn của một nghệ sĩ lớn.” (Sepkina-Kupernhic, tr.398). Qua nhận xét này của nữ văn sĩ - một người có tầm hiểu biết nghệ thuật sâu rộng, đã biểu lộ niềm kính trọng lớn lao đối với Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi vẽ gì trong những bức tranh đầu tiên của mình? Nữ văn sĩ đã thông báo ngắn gọn điều đó: “Khu vườn của chàng... Những cửa vòm kiểu La Mã ở Tamgađa, cảnh hoàng hôn trên biển..., cảnh điêu tàn của Kôxntantina và cánh rừng cọ El-Kantari, mái vòm trắng của nhà mộ Marabi, những trẻ em da đen - tất cả đều sống động, hiện lên trên nền vải.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 398). Rõ ràng, nhà vua đã vẽ mẫu thực tất cả những gì ông có thể quan sát được trực tiếp. Hình chụp một cuốn sách về Vua Bảo Đại bằng tiếng Pháp Nữ văn sĩ đã viết một đoạn cần thiết để lồng vào thiên truyện ký của mình, nói về bi kịch sâu kín của hoàng tử và đất nước thân yêu, cùng với khát vọng về tự do, về nền độc lập trước bọn thực dân của chàng. Trong số những người tới làm khách, có một người dường như muốn tỏ sự quan tâm tới chàng: “Thật là có lỗi, nếu như không triển lãm những tác phẩm của mình ở Pariss, thưa hoàng tử ? - Một phụ nữ xinh đẹp người Pháp có mặt ở đó hỏi một cách nông nổi. Hoàng tử hơi tái mặt, chàng tỏ ra hào hiệp, lịch sự nhưng vẫn trả lời một cách dứt khoát: - Tôi lại cho rằng, sẽ là có lỗi nếu triển lãm những bức tranh của mình ở Pariss!”( Sepkina-Kupernhic, tr.399). Ý thức tự hào và lòng tự trọng về đất nước thân yêu bị xúc phạm được biểu hiện trong câu trả lời tế nhị và giàu ý nghĩa của hoàng tử. “Và ý nghĩa chân chính của câu trả lời này đã thức tỉnh tôi!” - nữ văn sĩ kết luận. Hoàng tử đã có thể cởi mở với nữ văn sĩ hơn là với những người Pháp về những quan điểm chính trị của mình với niềm xúc động khi nhớ về Tổ quốc. Vua Hàm Nghi và ước mơ về nước Nga không thành hiện thực “Nhưng rõ ràng rằng, chàng không muốn và không có thói quen nói chuyện với những kẻ xâm lược đất nước mình và cái gì đang rung động trong trái tim chàng, đang muốn tìm kiếm lối thoát, chàng có thể dễ dàng cởi mở với một người sinh ra ở đất nước Nga xa xôi. Chàng tin rằng, sự động chạm của bàn tay tôi sẽ không thể làm đau chàng, và lần đầu tiên thật bất ngờ, chàng đã bắt đầu nói với tôi về chính Tổ quốc mình.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 402). Nữ văn sĩ đã thấy cần phải nhấn mạnh: “Và cuộc nói chuyện của chúng tôi đã bắt đầu: đó là cuộc đối thoại giữa hai người khác nhau, hai nền văn minh, hai chủng tộc.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 401). Ở nhà văn Nga biểu lộ tư tưởng về sự bất thường của cuộc tọa đàm này, về ý nghĩa to lớn của sự hiểu biết lẫn nhau giữa các chủng tộc, các nền văn minh và các dân tộc. Giữa nữ văn sĩ Nga và Hàm Nghi đã hình thành một tình bạn, một sự tin cậy lẫn nhau. Có thể nói rằng, những miền khác biệt của bầu trời văn hoá đã gặp gỡ nhau... Cuộc đàm đạo đầy xúc động của hoàng tử với nữ văn sĩ Nga về Việt Nam - đất nước đang bị bọn thực dân nô dịch, niềm tin và mối thiện cảm của ông đối với bà (cuối cùng vào năm 1902 ông đã viết cho bà) - là những tình tiết quý báu trong lịch sử quan hệ văn hoá Nga - Việt. Hoàng tử còn cho bà biết rằng, ông đang viết bằng tiếng mẹ đẻ một cuốn sách bàn về học thuyết Nho giáo, “Chàng không nói với ai về điều đó, nhưng điều đó tạo nên mục đích cuộc đời chàng”. Ngai vàng trong điện Thái Hoà, Huế Chàng kể về Kinh đô của mình, “về ngôi báu đang bị kẻ không có quyền được ngồi trên đó chiếm đoạt”, kể từ đó chàng “đã bị tước mất quyền, thậm chí quyền được ngắm nhìn bầu trời thân yêu của mình” (Sepkina-Kupernhic, tr. 402). Như vậy là, vào năm 1902, nữ văn sĩ Nga Tachiana Sepkina-Kupernhic đã đàm đạo ở Angiêri với cựu hoàng Hàm Nghi về cố đô Huế của Việt Nam. Vẫn còn có một chi tiết quan trọng: Hàm Nghi không chỉ biết về nước Nga, nghĩ về nó mà còn mơ ước được đến thăm mảnh đất này: “Sau đó chàng nói: - Tôi mong muốn được nhìn thấy những bông tuyết và những miền thảo nguyên của đất nước bạn... - Hãy đến chỗ chúng tôi! - Tôi bật ra lời mà không hề suy nghĩ. Hoàng tử cúi thấp đầu. Lát sau chàng ngẩng lên nhìn tôi và mắt chàng đẫm lệ. - Tôi là một con chim bất hạnh bởi sợi dây đang buộc chặt chân mình. Chàng khẽ khàng thốt lên cùng với nụ cười thường lệ, nhưng lúc này nụ cười ấy đã trở nên đau đớn.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 403). Nước Nga - Ước mơ không thành hiện thực của Vua Hàm Nghi Sepkina-Kupernhic đã cảm thấy và truyền đạt lại được toàn bộ tấn bi kịch sâu lắng trong lòng vua Hàm Nghi, những khát vọng cao cả và mối lo âu tới số phận của đất nước Việt Nam thân yêu của ông, nỗi buồn của nhà vua về cố đô Huế, truyền đạt lại cho chúng ta ngày nay mối quan tâm của Người tới nền triết học Nho giáo, tới âm nhạc (phương Đông và phương Tây), kể về tài năng nghệ thuật khác thường của nhà vua và sự quan tâm của Người tới nước Nga xa xôi… Hàm Nghi không đạt được nguyện vọng là đến thăm nước Nga, không nhìn thấy những bông tuyết Nga. Nhưng tâm nguyện của ông, vào đầu thế kỷ XX - hầu như đã một trăm năm trước chúng ta - mơ ước được đến nước Nga, vẫn không hề bị quên lãng, bởi nữ văn sĩ Nga T.L. Sepkina-Kupernhic đã kể lại điều đó cho tất cả mọi người. Bà đã thể hiện sự yêu thích thực lòng tài năng hội họa của Hàm Nghi qua những bức tranh đầu tiên của nhà vua- họa sĩ. Cần phải lưu ý bạn đọc rằng, giai đoạn này, nền hội họa hiện đại của Việt Nam còn chưa hình thành, nó mới chỉ thực sự đang nảy sinh. Về những bức tranh được sáng tác trong thời gian trên, tôi mới chỉ được biết có một bức. Đó là tác phẩm “Bình văn” của họa sĩ Lê Văn Miến, ra đời năm 1898 và được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội. "Bình văn" (1898) - Tranh: Lê Văn Miến Vua Hàm Nghi là một trong những họa sĩ đầu tiên của Việt Nam bắt đầu vẽ theo truyền thống châu Âu - với thể loại tranh sơn dầu, bằng sự tính toán theo phép phối cảnh. Hàm Nghi cần phải được coi là người mở đầu cho nền hội họa mới của Việt Nam. Và điều rõ ràng là ông đã trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp. Tất nhiên, đối với lịch sử hội họa Việt Nam, điều lý thú đặc biệt là những câu chuyện được kể về những bức tranh của vua Hàm Nghi, mặc dù đó chỉ là một vài bức. Quan trọng hơn, việc nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo của ông rõ ràng đã làm giàu có thêm nền văn hóa Việt Nam. Nhưng ở đâu có thể còn đang lưu giữ những bức tranh của vua Hàm Nghi? Điều cần lưu ý thứ nhất là, bởi ông có thời gian sống rất lâu ở Bắc Phi, mất năm 1944 cũng tại đó và được mai táng trong khu vườn biệt thự Gia Long của mình ở ngoại vi trước đây của thành phố El-Biar (ngày nay nằm trong phạm vi của Thủ đô Angiêri - thành phố Angiê), thì việc trước hết là phải tìm kiếm ở chính nơi này. Đám cưới của Vua Hàm Nghi tại Pháp Tiếp theo, không còn nghi ngờ gì nữa, khả năng rất lớn là những bức tranh của vua Hàm Nghi hiện đang còn ở Pháp. Đó là điều cần lưu ý thứ hai. Điều thứ ba, chúng tôi quan tâm đến một sự kiện đáng lưu ý trong cuộc đời Hàm Nghi từ tài liệu được lưu trữ. Năm 1902 ông đã đến Pariss. Mục đích của chuyến đi là để cưới con gái của Laloer - một quan chức lớn của nước Pháp. Chúng tôi sẽ dẫn ra đây bức thư được gửi từ Paris của nữ văn sĩ Nga Maria Vxevôlôđôpna Krextôpxkaia cho bạn gái của bà là M. Theixa. Bức thư nói về chính M.V. Krextôpxkaia, người đã có mặt vào đầu năm 1902 tại Angiêri cùng với T.L. Sepkina-Kupernhic; cha bà chính là nhà văn Nga nổi tiếng Vxevôlôđ Vlađimirôvich Krextôpxki, tác giả của cuốn tiểu thuyết được nhiều người biết đến Những vùng hẻo lánh ở Pêterburg, ông đã có mặt ở Sài Gòn vào năm 1880 và đã viết tặng thành phố Việt Nam này một ký sự tuyệt vời. Bức thư viết cho M. Theixa đề ngày 19 tháng Sáu năm 1902: “Hoàng tử An Nam đã có mặt được một vài ngày ở Paris, tôi đã gặp chàng và ngay lập tức chàng đã hỏi thăm tin tức của cô bạn gái chưa chồng Tachiana (Sepkina-Kupernhic). Chàng nói: Tôi gần đây không hề nhận được tin tức của Tachiana, và muốn biết khi nào nàng sẽ tới Paris. Thời gian vừa rồi Tachiana có ở Maxcơva không nhỉ, tôi đã gửi thư đến đó, không hiểu nàng có nhận được không? Chúng tôi tập trung nhóm các bạn trẻ quen biết Hoàng tử An Nam để có mặt trong tiệc cưới của chàng sẽ tổ chức vào ngày 9 tháng Bảy”. Có đúng thế chăng, bức thư này mang đầy ý nghĩa? Hàm Nghi đã đi từ Angiêri đến Paris và đã gặp một người phụ nữ Nga, và ngay lập tức hỏi thăm tin tức về người bạn gái yêu quý của mình, nữ văn sĩ Nga Tachiana. Còn nữa, vua Hàm Nghi đã trở thành trung tâm chú ý của những người phụ nữ Nga. Mọi chuyện thật sự đã xảy ra ở Paris, chứ không phải ở Maxcơva hay ở Peterburg. Ngoài ra, từ bức thư chúng ta còn biết rõ rằng: trong đám cưới của cựu vương Việt Nam vào ngày 9 tháng Bảy năm 1902 có mặt một phụ nữ Nga. Có thể ở đó còn có mặt những người Nga khác nữa. Cũng cần biết rằng, cuộc hôn nhân của Hàm Nghi với con gái của Laloer đã cho ra đời hai người con gái. Cả hai đều là những người thành đạt và sống ở châu Âu. Chắc rằng con cháu họ vẫn còn gìn giữ những bức tranh của họa sĩ Hàm Nghi. Số phận đã khiến ông cũng là người sáng lập nền hội họa hiện đại Việt Nam. Vua Hàm Nghi có thể có vị trí vinh dự không chỉ trong lịch sử của cuộc đấu tranh vì tự do chống lại chủ nghĩa thực dân, mà còn cả trong lịch sử nền nghệ thuật Việt Nam. Không đâu ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, một cựu hoàng lại có được một vai trò tương tự như vậy trong lịch sử nền văn hóa của dân tộc mình. Vũ Thanh (dịch từ bài của GS.TS. N.L.Nikulin gửi trước khi mất)Nguồn: Vietnamnet.vn
-
Giảm hen suyễn bằng thảo dượcChủ nhật, 11/5/2008, 14:37 GMT+7 Bệnh hen suyễn là một loại bệnh mãn tính vì hệ hô hấp thường hay bị viêm nhiễm do tiếp xúc với không khí, nước lạnh… khiến lối thông khí quản bị hẹp lại gây khó thở. Viêm đường hô hấp gây ra những tiếng thở khò khè, khó thở, tức ngực và tạo nhiều đờm. Hen suyễn có thể ở nhiều mức độ khác nhau nhưng ở mức độ nặng sẽ chèn ép khí quản gây ngạt thở. Mặc dù hiếm khi có trường hợp tử vong do bệnh này nhưng nó luôn khiến người bệnh mệt mỏi, khó chịu. Bệnh hen suyễn là một loại bệnh mãn tính vì hệ hô hấp thường hay bị viêm nhiễm Thông thường bệnh hen suyễn được điều trị bằng thuốc giãn khí quản và phải điều trị lâu dài kết hợp với loại thuốc corticosteroid hít (vì nó làm giảm hẳn số tế bào viêm, giảm mức độ phản ứng quá mẫn của phế quản. Về lâm sàng corticosteroid hít cải thiện rõ rệt chức năng phổi, làm thông lối hẹp khí quản và giảm tái phát bệnh hen suyễn, nhưng corticosteroid gây ra nhiều tác dụng phụ không mong muốn.Tuy nhiên, có một vài cách chữa bằng các loại thảo dược tự nhiên kết hợp một số thuốc chữa hen thông thường sẽ giúp bạn đạt được kết quả tốt hơn. Với cách chữa thảo dược này, bạn có thể giảm bớt lượng thuốc tây phải dùng để tránh lạm dụng thuốc hoặc các phản ứng phụ của thuốc gây ra. 1. Dùng nước ép cà chua với bột nghệ hàng ngày sẽ làm giảm viêm mũi dị ứng và khó thở gây đau đớn khi lên cơn hen. Dùng một nửa cốc nước ép cà chua tươi trộn với một thìa đầy bột nghệ, dùng trong khoảng 1tuần đến 10 ngày sẽ có hiệu quả rất tốt. Dùng nước ép cà chua với bột nghệ hàng ngày sẽ làm giảm viêm mũi dị ứng 2. Một thìa hạt rau diếp (xà lách) trộn với mật ong, dùng một ngày hai lần trong suốt quá trình điều trị hen suyễn và viêm phổi rất bổ cho cơ thể.Thường xuyên dùng cách này để giảm phụ thuộc vào thuốc chữa hen và cải thiện sức khoẻ của bạn. Lấy khoảng 30g mật ong trộn với một thìa hạt rau diếp sống uống trước bữa ăn. Ngoài ích lợi trên, hạt rau diếp còn chứa lignose giúp khử trùng ruột. 3. Một thìa nước ép bạc hà tươi với 2 thìa giấm mạch nha nguyên chất cộng với một lượng tương tự mật ong quấy đều trong khoảng 120g nước ép cà rốt. Ngày dùng 3 lần như một loại thuốc bổ phổi và chữa hen suyễn cho kết quả tốt. Nó giúp mở rộng lối thông khí và miễn dịch các chất gây dị ứng mũi. 4. Một chén đầy nước ép mướp đắng trộn với 1 thìa cà phê mật ong. Ngày dùng một lần, dùng trong khoảng ba tháng có thể chữa hen suyễn và viêm phổi trong một số trường hợp đặc biệt. Cách này rất dễ áp dụng đối với bệnh nhân mắc bệnh hen suyễn. 5. Lá cây cà pháo hay cà tím là thuốc trị co thắt khí quản. Một nửa thìa nước lá cây cà với một thìa mật ong dùng 3 lần mỗi ngày giúp giảm sung huyết (tắc nghẽn) phổi, viêm phổi và ho. Nó có tác dụng tốt để điều trị ho dị ứng hoặc dị ứng phổi. Tuy nhiên, cách này chỉ được áp dụng trong khoảng thời gian là 10 ngày hoặc phải thay bằng cách khác nếu nó không có tiến triển tốt . Minh Anh ( dantri.com )
-
Thứ Bẩy, 10/05/2008 - 11:31 AM 7 thực phẩm đem lại hạnh phúc (Dân trí) - Bạn cảm thấy chán ngắt? Đậu tím, tôm hùm, hạt hướng dương, phô mai ít béo, dứa, đậu phụ và chuối sẽ giúp bạn nhanh chóng lấy lại sự phấn chấn, yêu đời. “Một chế độ dinh dưỡng giàu tryptophan, một loại axit amin khi vào cơ thể sẽ tạo ra serotonin, một hợp chất giúp cải thiện cảm xúc, thấy mình khỏe mạnh, hăng hái hơn”, chuyên gia sức khỏe Caroline Longmore cho biết. Cơ thể không tự sản xuất ra tryptophan trừ khi chúng ta “nạp” chúng qua đường ăn uống. Chúng ta có thể bị thiếu hụt chất này, dẫn đến lượng serotonin sụt giảm, gây rối loại cảm xúc, lo âu, thèm ăn và dễ bị kích thích. “Một chế độ dinh dưỡng giàu các loại thực phẩm tự nhiên chứa các chất giúp tạo ra chất serotonin sẽ giúp cải thiện cảm xúc, tiếp thêm sinh lực, tạo ra sự hài hòa, cân đối và cảm giác hạnh phúc”, TS Longmore khuyên. Trên thực tế, viên uống bổ sung chứa tryptophan đã được sử dụng rộng rãi từ những năm 90 của thế kỷ 20 nhưng sau đó, do một số tác dụng phụ trên bệnh nhân nên nó đã bị thu hồi, không còn được lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, với những thực phẩm dễ kiếm ở trên thì việc dùng vitamin bổ sung chỉ là bất đắc dĩ. Hãy bắt đầu ngày mới với 1 miếng dứa hay chuối bạn nhé! Nhân Hà Theo Agencies Nguồn dantri.com
-
Hi hi hi ! Chắc bể bụng Chít quá !
-
Có những việc tưởng chừng như đơn giản mỗi ngày mà đôi khi ta quên đi giá trị của nó ! Bài này HAY LẮM ! Cám ơn Như Thông !
-
Tùy theo tính chất vụ việc TT ạ ! Đôi khi KINH cũng đem đến BẤT NGỜ , HẠNH PHÚC , nếu đi kèm TỐC HỶ . Sợ nhất đối với Chị là HƯU và THƯƠNG . nói chung là điều gì cũng có 2 mặt .
-
Quẻ Cảnh vô vọng cho thấy chị vốn là người mềm mỏng, dịu dàng "cung khôn" trầm tính, có phần sống nội tâm rất lớn thì phải. người sống hướng nội. Ngoài mặt thì rất vui vẻ, mặt rạng ngời, lạc quan "cảnh" nhưng trong lòng còn nhiều suy tư "vô vọng". Sống chân thật, đơn giản không màu mè hoa lá cành. không chưng diện nhiều, cũng không chạy theo những giá trị không thật. "vô vọng" nhưng không phải là tuýp người cam chịu. chị đôi khi cảm thấy mình bất lực không làm được những hoài bão , tâm niệm của mình cho lắm. không bằng lòng với những gì mình có mà luôn đòi hỏi quá nhiều ở bản thân mình. Phần này chính xác ! Người không đô con chắc cỡ 1.55-1.59 mà thôi,nước da ngâm hơi hồng, mặt hơi tròn. có thể có da có thịt một chút. . Chị làm việc cũng hơi nghệ sỹ do "cảnh" tác động vào. môi trường làm việc chậm, không sôi động lắm và công việc có tính chất qui cũ. từ từ, nhàn hạ? tiền đủ sài , có dư dả, không phải sớm hôm vất vả kiếm tiền. có nhà cửa khang trang, nằm trong khu vực yên tĩnh. trong hẻm. Bệnh có thể đề phòng bệnh liện quan đến bao tử, đường tiêu hóa, Phần nay như đi guốc vào lá số ! bệnh phụ nữ "vô vọng". Phần này có thể đoán là Không lập gia đình hoặc khả năng không sinh con Anh em không đông chỉ ở 2-4 người mà thôi. khả năng là chỉ có 1 chị em gái mà thôi. và chị là con cả trong gia đình. chị có phần bảo bọc người em. vô vọng gặp tháng Ất mùi/Kim Chồng: được chồng giúp đỡ nhiều trong công việc. Con cái: nếu có còn thì là khả năng 1-2 đứa, khả năng là 2, con cái hiếu thảo, thông minh (hợi/thủy) Đại vận 2-11 tuổi : đỗ tiểu cát : là giai đoạn được cha mẹ cưng chiều, học hành cũng rất giỏi. Đại vận 12-21: Thương xích khẩu + cảnh vô vọng trong giai đoạn này có nhiều chuyện buồn xảy ra cho gia đình chị. có thể liên quan tới vấn đề tài chính, kiện tụng "xích khẩu" , hoặc có thể là ba mẹ chị chia tay "xích khẩu " gặp "thương" học hành không được khá lắm do phần nhiều việc nhà ảnh hưởng tới. Đại vận 22-31: Sinh Tốc hỷ + cảnh vô vọng đây là giai đoạn mà chị có rất nhiều tâm huyết. làm việc hết sức mình. nhất là từ năm 27 tuổi. có nhiều chuyện vui, có tình cảm và có thể trong giai đoạn này có chồng, con??? Đại vận 32-41 : hưu lưu niên + cảnh vô vọng. đại hạn này xấu. khả năng liên quan tới phụ mẫu. công việc gặp nhiều bế tắc. Đại vận 42-51: Khai đại an + cảnh vô vọng là giai đoạn chị đi vào ổn định. có nhà cửa đẹp "đại an". công việc cũng tiến triển tốt. có công danh, sự nghiệp. Đại vận 52-61 : Kinh vô vọng + cảnh vô vọng có những bất ngờ . trong giai đoạn này chị làm việc cũng tích cực, cống hiến nhiều nhưng không mấy thành công "vô vọng" có thể chị nghĩ hưu??? hì hì cận thận việc tiền bạc kinh/kim được vô vọng/thổ sinh. đại vận 62-71 : tử tiểu cát + cảnh vô vọng về mặt tình cảm không được như ý. tử/kim khắc tiểu cát/mộc. cẩn thận sức khỏe. Giai đoạn này TT nên đoán là không còn vướng bận tình cảm nữa thì đúng hơn ! Dụng thần nên chọn là Hỏa. Chúc chị gặp nhiều may mắn. TT Qua cách lập quẻ bản mệnh mà TT đoán được như vầy là SUPER lắm rồi Chú Thiên Sứ ạ !
-
Tôi đưa lên đây lá số của người nam sanh năm Đinh Tỵ , các bạn luận giải xem còn cứu được không ? Ngày mùng 6/3/ năm Đinh Tỵ . http://www.tinvietonline.com/welcome.php?&c=32 Chân thành cám ơn ! Nếu bác Thiên sứ ghé mắt qua thật may mắn cho đương số .
-
Còn có một cái Tết Vía trâu Thứ năm, 8/5/2008, 07:00 GMT+7 Ở Cao Bằng quê tôi, hầu như mỗi tháng lịch âm có một ngày Tết. Tháng Giêng có Tết Nguyên đán là to nhất. Tết anh cả. Hầu như ai cũng biết rồi. Tháng Hai Tết Thanh minh. Tháng Ba Tết Tảo mộ. Tháng Tư Tết Hạ chí. Tháng Năm Tết Đoan ngọ. Tháng Sáu Tết “Khoăn woài” - Vía trâu… Trong những cái Tết vừa kể trên, Tết Vía trâu để lại trong tôi nhiều kỷ niệm nhất. Tết Khoăn woài slo lọc (Vía trâu) diễn ra ngày 6 tháng 6 âm lịch. Có nơi còn gọi là Tết Rửa cày bừa. Người và trâu bò được nghỉ ngơi. Cày bừa treo lên vách. Cuốc, xẻng, dao phát cỏ được lau sạch bùn đất, bôi mỡ bò chống rỉ, gác lên gác bếp. Chuẩn bị sang năm cho vụ mùa sau. Vào dịp này, cánh đồng lúa đã bắt đầu bén rễ. Lúa như những đứa trẻ sơ sinh hãy còn loe hoe tóc. Tã óm lỏng lẻo hở cả rốn ra ngoài. Chúng giơ tay giơ chân lên trời, lúc nào cũng đạp nọc nạch tung tinh rối rít. Gốc lúa nhả ra chữ o chữ ô ấm áp, tạo thành những âm tiết giản đơn mà thiêng liêng ở đoạn đầu cuộc đời. Sao có người lại bảo đây chính là tiếng ếch ộp gọi bạn tình. Thảo nào gió cứ lay nhay sung sướng thổi trên mặt ruộng. Gió mang theo mùi bùn non. Bùn non sánh như sữa đặc. Chẳng biết lúa ngủ vào lúc nào. Ngày cũng như đêm. Ai đi ngang qua cánh đồng cũng đều nghe tiếng cây lúa non chóp chép. Lúa non bú ruộng. Cả cánh đồng bay lên, dâng lên mùi bùn non. Bùn đợm sương nắng. Váng bùn lèo phèo nổi lên mặt ruộng thành những quầng bao quanh gốc lúa. Tết Vía trâu được dân làng tổ chức đúng vào ngày mồng sáu tháng Sáu âm lịch hàng năm. Người ta không chuẩn bị bánh trái đồ ăn linh đình như cỗ Tết Nguyên đán hay Rằm tháng bảy. Nhưng cũng đủ rượu nếp cẩm, bún thang, xôi vò, thịt ngan béo, thịt lợn quay. Điều đặc biệt là nhà nào cũng chuẩn bị một con “cáy tắc” (gà giò) dành hẳn cho lũ trẻ chăn trâu. Con cáy tắc chỉ to bằng hai nắm tay, luộc chín vừa đủ cho một người ăn. Con cáy tắc được chính đứa bé chăn trâu chăm bẵm từ khi nhỏ bằng cục bông vàng. Ngày nào chú bé cũng dẫn cục bông vàng đi đào giun. Con cáy tắc cứ lon ton chạy theo người. Vì nó là con độc, nên chóng to béo hơn bọn cùng đàn. Hồi xưa tôi cũng nuôi một con cáy tắc. Nhưng nó lớn chậm béo muộn. Đến Tết Vía trâu cũng được mổ. Tôi xách cơm nắm cùng con cáy tắc đi chăn trâu. Theo bạn bè, tôi cũng đuổi đàn trâu vào lũng Pác Nạo. Lũng Pác Nạo nằm lọt thỏm giữa những dãy núi đá vôi. Núi đứng vững chãi chọc lên trời cao vời vợi. Ho một tiếng núi trả lời mười tiếng. Gọi một câu núi nọ truyền núi kia đi miết đến tận nơi mặt trời lặn. Chờ mãi. Chiều mới xuống được nửa núi. Tôi vội vàng hò chúng bạn mang cáy tắc ra bãi cỏ bằng đánh chén. Đứa nào cũng một con gà mái tơ béo ngậy. Riêng cái Cắt thì không. Nhà nó có con vịt con gà nhỏ bằng nắm tay, bố nó cũng mang ra chợ Co Xàu đổi lấy vài xèng (li) thuốc phiện. Hồi đó chúng tôi đâu có biết thương bạn nhà nghèo. Khi chúng tôi ngồi ăn. Cái Cắt ngồi một mình sau lùm lá. Nó khóc lén. Nước mắt loang đầm đìa trên khuôn mặt trăng tròn. Phải nói rằng hồi đấy Cắt khá xinh và hát lượn nghe rất vang. Sau này người làng kể Cắt đi văn công tỉnh hay Khu tự trị Việt Bắc gì đó. Thi thoảng Cắt có đi xe riêng trở về làng. Không còn tên Nhớ ngày ấy, từ sáng sớm cha tôi đã gọi cả nhà dậy làm bún. Làm bún là công đoạn vất vả nhất. Tốn công tốn sức nặng nhọc nhất. Từ khâu xay bột sống, giã bột chín, đến lúc cho vào khuôn ép thành những sợi đều tự tay mình làm. Nên bún làng tôi thô và dễ gãy. Sợi bún to như con giun. Những con giun trắng bóc đồng loạt xuất hiện. Chúng bị nhấn chìm xuống chảo nước đang sôi. Mội lúc sau bún chín. Bún nổi lên từng đám. Những sợi bún trắng tinh thơm ngon. Chúng được người ta múc lên và rải đều trên lá chuối. Trời ạ! Cả một trời là bún. Bún thì xanh biếc còn lá chuối thì trắng tinh. Sàn nhà nào cũng bún xanh lá chuối trắng. Trắng xanh đang thi thóp thở. Khắp các ngõ ngách làng tôi đầy phè tiếng cười. Nhà nhà gọi nhau bưng mâm lễ ra ruộng cúng hồn lúa. Phải cúng hồn lúa đồng loạt. Nếu kẻ trước người sau thì cả đồng lúa xông vào xơi hết cỗ của người được tiếng là nhanh nhảu. Cánh đồng người rồng rắn đi trên bờ ruộng. Ai cũng đội trên đầu mâm cỗ. Trên mâm bao giờ cũng có một con gà luộc. Một đĩa xôi vò. Một be rượu gạo. Hai bát bún thang. Họ thắp hương và lầm rầm khấn. Nhưng tại sao lại gọi Tết Vía trâu? Mà không phải là Tết Hồn lúa? Từ xa xưa Người Việt có câu “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Người Tày Nùng có câu: “Tuô mò dò pỏ khỏ” Tạm dịch: Con bò giúp gỡ cảnh nghèo. Không có nó, con người vẫn có thể dùng sức của chính mình kéo cày làm đất. Nhưng quá cực nhọc vất vả mà không mấy năng suất. Cả làng cả tổng ai cũng gọi trâu ơi. Gọi trâu như gọi người. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, người già kể rằng từ cổ xưa con trâu và những con vật khác biết nói tiếng người. Nhưng lâu rồi. Không hiểu sao trâu tự làm mất tiếng. Trâu chỉ biết cười thôi. Nó nhớ đồng bọn. Nó ngửi mùi nước đái là trâu cười. Mỗi khi trâu cười, tôi thấy vui lây cả rừng cây con suối. Hình như trâu cười làm cho đất đai phì nhiêu thêm. Cỏ xanh tươi tốt hơn. Và lòng người thì thật là …hoàn toàn nhẹ nhõm. Khổ như trâu mà còn được cười! Con trâu là một phần tài sản không nhỏ trong mỗi gia đình của người nông dân. Nó từng được kê khai trong lý lịch cán bộ một thời. “….Nhà tôi có một nửa sào ruộng và một nửa con bò.. .” Có nghĩa rằng tôi xuất thân thuộc thành phần bần nông! Thành phần cơ bản! Ắt sẽ được cấp trên chú ý và cho đi đào tạo lớp cán bộ chính quyền, đoàn thể ngắn hạn. Còn những ai mà gia đình có đến bốn năm con trâu, bảy tám con nghé cộng thêm vài đám ruộng, dẫu có học giỏi bằng giời thì vẫn nghỉ khỏe. Họ thuộc thành phần phú nông địa chủ! Phú nông với địa chủ nghe mà buồn cười. Cả nhà chỉ có vài đám ruộng. Lúa mọc như cỏ đuôi chó. Đi hai bước chân là hết đất. Nhưng vào cái thời ấy dính tý “thành phần” là cấm ho hen . Đừng hòng sủi tăm. Có mà mơ thoát ly ra khỏi làng! Người ta cứ nhằm những ai cứng đầu cứng cổ hay có ý kiến thẳng thừng với xã. Hoặc ai là người lành hiền, cả năm cả đời không dám nói to. Nhắc lại câu chuyện ấu trĩ cách đây bốn, năm chục năm cho vui. Để thấy giá trị của con trâu con bò một thời. Nó là máu và nước mắt của người nông dân thực sự. Người dân quê tôi vẫn duy trì Tết Vía trâu hằng năm. Loại trừ yếu tố phi khoa học, Tết Vía trâu gợi cho con người lòng biết ơn sâu sắc. Tất thảy những ai đã giúp mình thoát khỏi cơn đói khát, thoát khỏi nỗi buồn phiền… đều phải biết ơn. Lòng biết ơn trong xã hội người Tày Nùng vẫn ăm ắp. Ăm ắp như nước suối nguồn không bao giờ khô cạn . Y Phương Nguồn vietimes.
-
Đối thoại với thiền sư Thích Nhất Hạnh về hạnh phúc 06/05/2008 08:59 (GMT + 7) Buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (tổng biên tập VietNamNet) với thiền sư Thích Nhất Hạnh trong chiều 4.5.2008 diễn ra với nhiều nội dung thú vị. Nhưng điều đọng lại lớn lao nhất, ấn tượng nhất trong người nghe là sự lý giải, gợi mở của thiền sư về hai chữ HẠNH PHÚC của con người. Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Con người-quốc gia và ba phẩm chất Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi mang đến đây tặng quý vị hai bức thư pháp. Bức "Từng bước nở hoa sen" là phương pháp thực tập để mỗi bước chân mình đi thảnh thơi, an lạc, tiếp xúc với những mầu nhiệm trên hành tinh này, đem lại cho mình hạnh phúc. Bức thứ hai là phương pháp lắng nghe để có thể hiểu được những khó khăn, khổ đau, bức xúc của người đối diện, và có thời giờ nhìn lại để chấp nhận và thương yêu: "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương". Phương pháp này có thể giúp mình tái lập lại truyền thông, hòa giải giữa hai người với nhau, đem lại hạnh phúc không chỉ cho riêng mình. “Chúng tôi đã bỏ ra 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây Phương” Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn đã có những món quà rất ý nghĩa tặng VietNamNet. Có lẽ chúng tôi không cần giới thiệu gì thêm về vị khách mời đặc biệt hôm nay, bởi tên tuổi cũng như uy tín của thiền sư đã lan tỏa sâu rộng cả trong và ngoài nước. Câu hỏi đầu tiên: Xin thiền sư chia sẻ về thành tựu chung hiện nay của đạo Phật trên toàn thế giới? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã để ra trên 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây phương. Hiện giờ đạo Phật ở phương Tây phát triển rất mạnh và nhanh, được giới trẻ, giới trí thức hâm mộ nhiều. Chúng tôi đã mở những khóa tu tập riêng cho giới doanh nhận, giới bảo hộ môi trường, giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ... Có khóa tu cho giới diễn viên Holllywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, những người lo an ninh (cảnh sát, người giữ tù...), luật sư... Đây đúng là đạo Phật đi vào cuộc đời, mình không cần phải quy y nhưng có thể thừa hường kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể lý giải vì sao Phật giáo lại được chấp nhận và ngày càng phát triển ở những vùng đất, những bối cảnh xã hội như châu Âu, nước Mỹ, nơi các tôn giáo khác như công giáo, tin lành... đã bám rễ rất sâu rộng? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi nghĩ một phần vì những cố gắng hiện đại hóa Cơ đốc giáo, Do Thái giáo chưa thành công lắm, trong khi chúng tôi thành công trong sự hiện đại hóa đạo Phật ở phương Tây. Đạo Phật được trình bày với ngôn ngữ mới, đưa ra những pháp môn tu tập rất thực tế để giúp mỗi cá nhân tháo gỡ những khó khăn ngay khi tu tập. Có những người đã từng là Linh mục, mục sư thương đạo Chúa rất nhiều, nhưng họ nói đạo Phật giúp họ tìm ra biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn. Ví dụ như mục sư Cyber Lee ở Houston, Texas, nhờ đọc sách của mình (chúng tôi - chữ dùng của thiền sư Thích Nhất Hạnh - BT), áp dụng sự thực tập học ở trong sách mà chữa lành bệnh ung thư, nên sau đó đã xin thụ trì 5 giới, quy y tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn gì giữa đức tin cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó vị mục sư này đến làng Mai tu học 3 tháng mùa đông, tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật, trong trường hợp bề trên không cho thì sẽ chỉ làm giáo thọ đạo Phật. Chúng tôi được tin là bề trên đã đồng ý cho ông vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ. Sáng chủ nhật thì ông giảng bài cho con chiên, buổi chiều thì hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những người trong nhà thờ. Chúng tôi không nghĩ phải từ bỏ đạo Thiên chúa hay Do thái mới theo được đạo Phật, vì đạo Phật không phải chỉ là tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là nguồn tuệ giáo sâu sắc, mà bất cứ ai cũng có thể thừa hưởng để tháo gỡ những khó khăn trong đời sống nội tâm, giúp cho đời sống an lạc, hạnh phúc. “Mong Giáo hội Công giáo và Phật giáo ra văn bản có hậu về hôn nhân dị giáo” Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Chính nhờ những bước phát triển, cập nhật cái mới mà đạo Phật đã có sức sống ở những vùng đất như Âu Mỹ. Ngược lại, đạo Phật có học hỏi những điều hay của các tôn giáo khác để làm giàu thêm cho mình không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong đạo tràng của chúng tôi, các thầy - sư cô - phật tử - cư sĩ đều có bổn phận phải học những truyền thống khác. Chúng tôi đã viết những cuốn sách đối thoại Phật giáo với những tôn giáo khác, như cuốn "Living Buddha, Living Christ" ("Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời"), "Về đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em" (Coming home, Buddha and Christ are brothers). Những cuốn sách đó cũng như những khóa tu chúng tôi mở ra cho những người Phật tử và Cơ đốc giáo đến tu tập chung là những phương tiện đối thoại rất hay, khiến cho nhiều người Cơ đốc giáo và Do Thái giáo có cơ hội tìm hiểu đạo Phật, đồng thời giúp những người đạo Phật có cơ hội hiểu thêm về giáo lý Cơ đốc giáo, Do thái giáo, nên sự hiểu biết chung ngày càng tăng, tình thân hữu nhờ đó mà phát triển. Chúng tôi cũng đề cập đến Hôn nhân dị giáo. Bởi đã có biết bao thanh niên thiếu nữ đau khổ vì không được lấy nhau, do hai bên cha mẹ đều muốn giữ đạo của mình. Chúng tôi có đề nghị biện pháp như cho phép hai người cưới nhau, người nào giữ tôn giáo người đó, đồng thời có cơ hội học thêm truyền thống của người bạn hôn phối của mình. Chủ nhật 2 người cùng đi nhà thờ, rằm và mùng 1 hai người cùng đi chùa. Thay vì có 1 gốc rễ thì hai người có hai gốc rễ tâm linh, vì học 2 truyền thống thì khám phá được rõ hơn châu báu của mỗi truyền thống, chỉ làm giàu thêm thôi. Hôm chúng tôi đến thăm nhà thờ Phát Diệm, gặp một số vị linh mục, chúng tôi có bàn về chuyện này, các vị linh mục tỏ vẻ đồng ý. Hy vọng các giáo hội Công giáo và Phật giáo sẽ ra một văn bản để tuổi trẻ khỏi phải đau khổ như suốt mấy trăm năm qua khi có tình yêu với người khác truyền thống. Hiện đại hoá đạo Phật? Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại toà soạn báo VietNamNet Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Phật giáo VN đã có truyền thống lâu đời. Vậy thiền sư có nhận xét thế nào về Phật giáo hôm nay tại Việt Nam? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Phật giáo VN có nhiều tiềm lực, như mỏ dầu hỏa rất lớn. Vấn đề là có biết khai thác để làm hạnh phúc cho dân, cho nước hay không? Cái học của chúng ta trong các trường Phật học lý thuyết hơi nhiều, sự thực tập mới chỉ tập trung vào sự tín mộ, cầu nguyện, chứ chưa đi sâu vào quán chiếu và chuyển hóa. Chúng tôi mong phương pháp học Phật và thực tập đạo Phật phải được hiện đại hóa mau chóng, để Phật giáo đi kịp những trào lưu khác trong xã hội. Chúng tôi ở Tây phương có hoàn cảnh thuận tiện nên hiện đại hóa đạo Phật rất dễ dàng, đào tạo những thế hệ tu sĩ, tăng sinh, thầy và sư cô mới, cư sĩ mới. Chúng tôi không tốn quá nhiều thời giờ mà vẫn đào tạo được những giáo thọ có khả năng mở những khóa thực tập (retreat) trong đó người ta tới học những cái chúng tôi vừa trình bày, học làm thế nào đem lại cái an, cái lạc cho thân tâm, thiết lập truyền thông với người khác, xóa bỏ hận thù bạo động, đem lại hạnh phúc. Sự thành công là nhờ ở chỗ chúng tôi dám làm mới đạo Phật, đem lại một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, với người trí thức bây giờ. Việt Nam hiện giờ có nhiều điều kiện để làm mới, hiện đại hóa đạo Phật. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể làm rõ, ta cần hiện đại hóa, cập nhật điểm nào của đạo Phật? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã nói, cái học của chúng ta phải thay đổi, phải học những biện pháp cụ thể để chuyển hóa thân tâm chứ không học như lý thuyết suông. Sinh viên y khoa ngoài giờ học trong lớp thì phải vào bệnh viện xem các giáo sư chẩn mạch, cho thuốc. Các thầy, sư cô trong các phật học viện cũng vậy, phải có khả năng tổ chức giúp đỡ, tham vấn, soi sáng cho những người tới với mình. Họ có những khó khăn, bức xúc, khổ đau, tai nạn, thì mình phải dùng trí tuệ đạo Phật để giúp họ tháo gỡ. Đức Thế tôn từ 2600 năm trước đã cho người phụ nữ vào trong giáo đoàn của ngài. Ấy vậy mà trong truyền thống của mình vẫn trọng nam khinh nữ. Tuần trước chúng tôi có đưa ra đề nghị BÁT KÌNH PHÁP của các thầy với các sư cô. Chúng tôi biết có nhiều vị sẽ mừng lắm, nhất là những người ở Tây phương. Nhưng cũng sẽ có những người bảo thủ, và chúng tôi sẽ phải gánh chịu búa rìu dư luận. Nhưng chúng tôi vẫn can đảm đưa ra để cho có được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong giáo đoàn Đức Phật. Chúng tôi cũng nghĩ Đạo Phật cần đi vào đời sống của tuổi trẻ. Chúng tôi mong tổ chức Gia đình phật tử ở Việt Nam được phục hồi, sẽ có những đoàn thanh niên Phật tử, những đoàn phật tử hoạt động trong xã hội lành mạnh và từ bi hơn. Chúng tôi nghĩ rằng, làm cha mẹ phải học Phật để tháo gỡ khó khăn, chăm sóc nhau, giúp cho con mình học đạo Phật từ mình. Thầy cô giáo phải buông thả căng thẳng trong con người của mình, đối phó với những bức xúc trong tâm như sợ hãi lo lắng. Khi bố mẹ, thầy cô làm được thì sẽ giúp con cái và học trò. Vì thế, đạo Phật phải đi vào trong gia đình, trong học đường, trong xã hội. Ví dụ ông là một doanh nhân, ông biết nếu đem Đạo Phật vào trong doanh nghiệp thì sẽ tạo ra sự hiểu biết, chấp nhận, thương yêu, và nếu biết cách thì những công nhân trong doanh nghiệp biết phương pháp buông thư, có thời giờ để tìm hiểu khổ đau, khó khăn của nhau, thì sự hiểu nhau, chấp nhận nhau, thương yêu nhau sẽ làm công việc phát triển và thành công hơn. Nếu ông là nhà chính trị mà biết Phật pháp thì có thể đem phương pháp thực tập vào Đảng của ông, thiết lập được sự đồng cảm, thương yêu, tin cậy giữa những người cộng sự thì sự nghiệp chính trị sẽ thành công. Mỗi chúng ta phải có chiều hướng tâm linh (spiritual dimension), nếu không thì không tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc trong đời sống của mình, mà như thế thì rất khó thành công. Đạo Phật vì thế cần phải cung cấp cho mỗi người trong xã hội cái bình diện, chiều hướng tâm linh. Đó là điều mà giáo hội Phật giáo cần lưu tâm, đó là cái đẹp nhất, quý nhất mà đạo Phật có thể cống hiến cho xã hội, cho dân tộc. Tâm an và nhiệt huyết sống! Có mâu thuẫn không? Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, vậy có mâu thuẫn không khi ta đề cao tâm an, nhẹ nhàng, thanh tịnh, nhưng thực tế cuộc sống lại rất sôi động, cạnh tranh, mỗi con người phải vươn lên. Cũng có khi người ta coi stress, căng thẳng như là một thách thức thú vị của cuộc sống (như việc chơi game chẳng hạn). Đạo Phật có mâu thuẫn khi gạt đi những sôi động, những thách thức khiến con người phát triển và có nhiệt huyết sống không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Một nhà chính trị thì luôn muốn mình đem lại thành công cho đất nước. Một doanh thương cũng muốn thành công cho cả doanh nghiệp chứ không phải chỉ cho mình. Nếu hình hài không có an thì không thành công được. Thực tập đem lại sự yên ổn trong thân, trong tâm sẽ giúp họ thành công, dù là nhà chính trị hay doanh nhân, không có gì chống đối hết. Khi sử dụng ái ngữ và lắng nghe thì họ thành công hơn trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh của họ. Những niềm vui của họ có thể rất lớn khi họ thực hiện những điều họ mơ ước. Sự thành công của mình không hẳn trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Đó là câu hỏi quan trọng? Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, vì không ai đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình thương và sự hiểu biết. Trong mỗi chúng ta có hai nhu cầu sâu sắc, đó là nhu cầu hiểu biết và thương yêu. Những nhà khoa học vì nhu cầu hiểu biết mà thức đến 3, 4h khuya để nghiên cứu thí nghiệm. Những nhà đạo học không dùng phương tiện đo lường mà dùng thiền quán để tìm hiểu. Con đường tâm linh cũng khám phá, làm thỏa mãn nhu yếu hiểu biết của con người. Nhu yếu thứ hai sâu sắc của con người là Thương yêu và được thương yêu. Sở dĩ ngày xưa SIDDHARTHA bỏ nhà đi tu là tại thấy rằng Tình thương dành cho một người không đủ, không làm thỏa mãn ý chí của người con trai đó, nên ra đi tìm tình thương có thể ôm lấy mọi người, mọi loài, tình thương không biên giới. Ta có khao khát rất lớn là được thương yêu, thương yêu có thể phát triển tới vô biên, ôm lấy vũ trụ. Khi ta có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì hạnh phúc lớn. Vì vậy nhà doanh thương, nhà chính trị mà trong khi hoạt động mở rộng được tình thương, hiểu biết của mình, càng hiểu thì càng thương, hiểu sâu thì thương nhiều, thì hạnh phúc rất lớn, không có gì mâu thuẫn. Sử dụng tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ khó khăn? Thiền sư Thích Nhất Hạnh Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Con người tìm đến với tôn giáo là tìm đến với thế giới tinh thần, với sự an ủi, như đạo Phật giúp giải thoát khỏi những đau khổ nội tâm trong cuộc sống. Nhưng thưa thiền sư, lý thuyết giáo lý cao đẹp ấy đã đi vào thực tế cuộc sống được nhiều chưa? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hiện ở Tây phương chúng tôi đang xướng xuất phong trào Phật học ứng dụng. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, stress, thân không an thì tâm làm sao an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong kinh niệm xứ hay kinh quán niệm hơi thở, Đức Thế tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được những tâm hành. Đó là phương pháp khoa học. Sở dĩ người Tây phương theo chúng tôi học hỏi, thực tập nhiều, vì chúng tôi không hiến tặng cho họ đạo Phật của Đức Tin mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Những khóa tu tổ chức ở New York, Los Angeles, Boston, Born, London, thường có trên 1000 người tới tu liền 6, 7 ngày, trong những ngày đó họ thực tập những phương pháp cụ thể, trước hết lấy ra những căng thẳng trong thân - tập buông thư, lấy ra những căng thẳng trong tâm - tập nhận diện và ôm ấp những đau buồn, lo lắng, sợ hãi của mình, nhìn sâu vào để có thể nhận diện những bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để thấy trong họ có căng thẳng trong thân, tâm, để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Lúc đó mình cởi bỏ được thái độ trách móc, vì có sự lắng dịu trong thân và tâm, học thêm được phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, mơ ước, khổ đau của người kia, từ đó chấp nhận để giúp đỡ họ. Không nói những lời chua chát, buộc tội, lên án, thì có thể giúp người kia hiểu được, thấy được những nhận thức sai lầm của họ để thay đổi. Đó là những phương pháp cụ thể, chỉ cần tu trong 6, 7 ngày là đã có thể đạt được những tiến bộ rất lớn rồi. Không khóa tu nào mà không có phép lạ xảy ra, vợ chồng hòa giải, cha con làm hòa là chuyện rất thường. Có điều lạ lùng, nếu 2 người cùng tới khóa tu thì sự chuyển hóa dễ dàng là đúng, nhưng có trường hợp chỉ 1 người đến khóa tu, chuyển hóa và có khả năng nói được lời êm dịu và lắng nghe được khó khăn của người đối thoại. Đến ngày thứ 6 chúng tôi cho phép dùng điện thoại di động để thực tập lắng nghe và ái ngữ, và có nhiều người đã báo cáo rằng chỉ dùng điện thoại di động đã có thể hòa giải với người kia ở nhà (bố, mẹ, anh chị em, vợ chồng, con...). Khi nghe báo cáo như thế thì chúng tôi rất hạnh phúc, vì biết rằng mình đã giúp được nhiều người. “Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương” Thực sự chúng tôi không chủ ý quyến rũ người ta theo đạo Phật, nhưng vào cuối khóa tu, người xin quy y và thọ 5 giới rất đông, có những khóa tu mà 6 - 700 người Tây phương quỳ xuống xin quy y Phật, Pháp, tăng và thọ 5 giới. Vì họ biết rằng 5 giới là sự thực tập cụ thể của tình thương. Giới thứ nhất là Bảo vệ sự sống không chỉ của loài người mà động vật, thực vật, khoáng vật. Giới này đi theo đường lối bảo hộ môi trường (deep ecology), không chỉ bảo vệ con người mà còn bảo vệ các loài khác trong đó có thực vật và khoáng vật. Giới thứ hai là Chia sẻ thời giờ và tài vật của mình với những người thiếu thốn, đừng lạm dụng và bóc lột người khác. Đó là giới không trộm cắp, không bóc lột, trái lại hiến dâng, là sự thực tập của tình thương. Giới thứ ba là Không tà dâm, không lạm dụng tình dục, bảo hộ trẻ em, bảo hộ những cặp vợ chồng. Đó cũng là tình thương, vì bao nhiêu trẻ em lớn lên trong gia đình không giữ giới thì đau khổ vô cùng. Bởi vậy, sự thực tập giới thứ ba là không ăn nằm với những người không phải vợ chồng, không lạm dụng tình dục, bảo hộ cho những đôi nam nữ, bảo hộ trẻ em cũng là sự thực tập của tình thương. Giới thứ tư là Sử dụng ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông giữa những người thân... cũng là sự thực tập tình thương. Giới thứ năm là Tiêu thụ trong chính niệm, chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho thân tâm mình, còn những sản phẩm có độc tố (như phim ảnh sách báo) thì những độc tố đó sẽ làm thâm tâm bị hủy hoại. Biết chọn đối tượng tiêu thụ cũng là sự thực tập của tình thương, bảo hộ xã hội, bảo hộ con người. Khi họ thấy 5 giới là phương tiện bảo hộ mình và những người thương thì đó không còn là đức tin mơ hồ mà là những thực tập cần thiết. Họ tiếp nhận 5 giới với thái độ khoa học chứ không phải người đi tìm đức tin, nên họ thấy không chống đối gì với truyền thống tôn giáo của họ. Nên học vua A Dục ca và Trần Thánh Tông để thống nhất lòng người Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Đúng là Giáo lý của đạo Phật rất đẹp, rất hay. Nhưng từ mong muốn mà chuyển hóa thành thực tiễn hành động, nhân cách mỗi con người thì không dễ chút nào. Liệu giáo lý đạo Phật có thể giúp định hình ra một nhân cách của dân tộc VN? Nhiều người mong muốn điều đó, nhưng nay còn bộn bề trăn trở nhiều. Thiền sư có đánh giá gì, có giải pháp gì đưa những điều hay của giáo lý Phật pháp đến với mỗi con người, để hình ảnh dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt trong cộng đồng thế giới?Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói Đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy, sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật. Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đó đi. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của chúng tôi là đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm hết. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ. Trong giới luật Tiếp hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ca ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục ca thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào. Năm ngoái về Việt Nam, chúng tôi được phép của Thủ tướng Chính phủ để tổ chức 3 đại trai đàn chẩn tế cầu siêu bình đẳng giải oan cho người Bắc, cho người Nam, cho người cộng sản và cả cho người chống cộng sản. Đó là tuệ giác của nhà nước Việt Nam. Đó là lần đầu tiên người Cộng sản và những người chống cộng sản được ôm lấy nhau để cùng khóc thương, cầu nguyện cho 6 triệu người chết, trong đó có bao người chết oan. Thực tập đó theo đúng tinh thần đạo Phật, buông bỏ những hận thù, bực bội, khổ đau trong quá khứ, đóng góp vào sự thống nhất lòng người. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Sau một năm thực hiện hành động mà thiền sư đánh giá là có tính đột phá và được Nhà nước ủng hộ đó, thiền sư có thấy tiến bộ thêm trong sự xóa bỏ hận thù của quá khứ không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Công việc đó cần phải được tiếp tục, mọi giới đều phải đóng góp vào. Ba trai đàn chẩn tế cũng chỉ là sự bắt đầu. Tôi nghe rằng nhiều vị thượng tọa, đại đức cũng đang tổ chức những trai đàn như vậy ở địa phương. Đó là sự tiếp nối. Chúng tôi nghĩ rằng những công việc như thế rất quan trọng, bởi thống nhất lòng người là điều căn bản. Chúng tôi nghĩ hiện ta có điều kiện làm việc đó. Những người Phật tử hiện đại hóa, làm mới được đạo Phật thì đạo Phật đóng góp được rất nhiều trong sự nghiệp thống nhất lòng người. Bạn đọc Nguyễn Trọng Chuyên: Thiền sư đã làm gì để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc giữa người Việt với người Việt, giữa người Việt với cộng đồng thế giới? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã giúp được rất nhiều người Việt ở Hoa Kỳ thoát khỏi ngục tù của quá khứ. Nhưng cũng nhiều người rất khó vượt qua vì trong quá khứ họ có những chức vị, quyền lợi và họ không thể chấp nhận được việc họ bị mất đi những chức vị, quyền lợi ấy. Họ trở nên hận thủ. Cả những Phật tử cũng trở thành đối tượng hận thù của họ. Họ có thể chửi mắng, bôi nhọ... Riêng về phần chúng tôi, chúng tôi không đau khổ gì hết mà chỉ tội nghiệp cho họ. Vì bản thân họ bị quá khứ giam hãm nên họ không biết sống hạnh phúc trong hiện tại, do đó họ không có tương lai. Nếu họ cứ ôm khư khư cái hận thù thì họ rất đáng tội nghiệp. Chúng tôi chỉ làm tối đa những gì có thể làm được, còn có lẽ phải nhờ một sự kì diệu nào đó, một ngày họ sẽ nhận ra thì đó là hạnh phúc của họ, và đó chính là sự giác ngộ. “Thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại” – cách để hoàn thiện nhân cách! Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng thực tế không chỉ chuyện thống nhất lòng người, mà trong ứng xử hàng ngày hiện nay thì kể cả với những người theo đạo Phật, các bạn trẻ cũng như người lớn tuổi, tính ăn gian nói dối, chiếm dụng của công, đố kị tị hiềm, chụp giật "bốc ngắn cắn dài" không nghĩ đến ngày mai...vẫn rất phổ biến trong xã hội? Như vấn nạn giao thông, còn nhiều người đi đường lạng lách, không lo lắng an toàn cho người khác. Phải chăng đạo Phật bất lực trong việc này? Thiền sư Thích Nhất Hạnh Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Những người ngoại quốc tới VN nghĩ rằng lâu nay trong chiến tranh người VN không được sống, nên nay có hòa bình thì họ sống hối hả, lái xe như điên. Cái đó chỉ đúng một phần thôi. Tôi nghĩ cách sống này là do cách suy nghĩ, quan niệm của chúng ta. Tuệ giác của đạo Phật là mình có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại (hiện pháp lạc trú: Living happily in the present moment). Đó là giáo lý căn bản của đạo Phật. Chẳng hạn, khi đi từ đây ra bãi đậu xe, mục đích là lấy xe để đi, nhưng không ai cấm mình đi từ đây ra bãi đậu xe bằng những bước chân thảnh thơi, an lạc hạnh phúc, chứ không phải chỉ khi lái xe mới an lạc hạnh phúc. Nếu đi từ đây ra xe mà không an lạc hạnh phúc thì nắm vô lăng cũng không thể an lạc hạnh phúc được. Vấn đề là phải thực tập. Làm thức ăn sáng cho gia đình thì trong khi đun nước, nướng bánh mỳ có thể vừa theo dõi hơi thở, mỉm cười, thực tập thư giãn. Ngồi xuống bàn thì dành môt phút nhìn nhau mỉm cười, để biết mình còn nhau, có ngay hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nếu ông cầm tờ Wall Street Journal để xem giá cổ phiếu lên hay xuống thì thay vì nhìn thấy vợ con, ông lại phóng tâm vào tương lai. Nếu các thầy và sư cô đem ra giảng dạy, luyện tập cho người ta sống trong giây phút hiện tại, thì sự hối hả, đi tìm hạnh phúc trong tương lai kia sẽ giảm bớt. Vì biết tìm hạnh phúc trong hiện tại thì không cần bươn chải để đến tương lai. Hiện tại rất đẹp, quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Mình chỉ có giây phút thực sự sống là hiện tại, nếu sống sâu sắc mình có thể tiếp nhận trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở... những nhiệm màu của sự sống. Ly nước trong là nhiệm màu, mình có thể an trú trong hiện tại để tiếp xúc với ly nước không? Hay khi uống ly nước mà nghĩ tới dự án tương lai. Hiện pháp lạc trú là một nghệ thuật sống có hạnh phúc. Nếu hạnh phúc trong hiện tại thì chắc chắn tương lai sẽ hạnh phúc, còn nếu không có hạnh phúc trong hiện tại thì tương lai cũng không thể có hạnh phúc. Nếu lo rửa bát cho mau để cầm ly trà cho hạnh phúc, thì khi cầm ly trà cũng lại hối hả đến tương lai mà bỏ quên mất ly trà. Vấn đề là thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại. Ta có đạo Phật mà không dùng đuợc tuệ giác của đạo Phật, nghĩa là đạo Phật của ta chưa thành công. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Mọi người vẫn đang thắc mắc, làm sao từ những khát vọng, lý tưởng của đạo Phật trở thành máu thịt, thành cuộc sống hiện tại của từng con người. Nếu trong 85 triệu dân Việt Nam mà có 80%, tức là hơn sáu mươi triệu dân làm được thì đất nước cũng hạnh phúc lắm rồi. Thiền sư có biện pháp cụ thể để điều đó thành hiện thực không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong 30 năm, chúng tôi đã giúp cho vô số người Tây phương nắm được phương pháp thực tập để sống an lạc, hạnh phúc, hòa giải với nhau. Nếu phương pháp này đã thành công trong giới trẻ và giới trí thức ở Tây phương thì cũng sẽ thành công ở đây, trong giới trẻ và giới trí thức Việt Nam. Trong những lần về vừa qua, chúng tôi đã mở những khóa tu cho giới trẻ và giới trí thức, và thấy sự tiếp thu đạo Phật rất nồng nhiệt. Trước khi đi HN chúng tôi có khóa tu cho 4000 người trẻ tại tu viện Bát Nhã - Lâm Đồng. Chúng tôi cũng vừa kết thúc một khóa tu cho người trẻ Hà Nội tại chùa Bằng A. Người trẻ tuổi và trí thức tới rất đông, nét mặt rất rạng rỡ, rất hạnh phúc, bởi học được phương pháp buông thư, ái ngữ lắng nghe để tháo gỡ những khó khăn với người thân. Nghĩa là chúng tôi cũng đã thí nghiệm thành công trong đất nước. Nếu ở Việt Nam, giới xuất gia và giới tại gia biết lợi dụng phương pháp này thì vài ba năm đã có sự thay đổi lớn trong cách sống rồi. Bạn đọc Tuấn Anh (TP.HCM): Xin thầy cho con hỏi phương pháp hiện tại lạc trú có phải là không nghĩ về quá khứ, cũng như không nghĩ tới tương lai? Nếu vậy thì làm thế nào để rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá khứ, hay hoạch định kế hoạch cho tương lai? Còn nếu nghĩ về quá khứ hay tương lai thì có thể nào lạc trú trong hiện tại được không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Hiện pháp Lạc trú tức là sống sâu sắc đời sống của mình trong mỗi phút giây. Nguyên tắc là đừng đánh mất mình trong sự tiếc thương hay hối hận về quá khứ, chứ không phải là không được học hỏi từ quá khứ. Mình có thể an trú trong hiện tại và coi quá khứ là đối tượng của sự nghiên cứu của mình. Trong khi mình thiết lập thanh tâm trong hiện tại, mình đem quá khứ về hiện tại để học tập thì mình sẽ học hỏi được nhiều từ quá khứ. Đối với tương lai cũng vậy, đừng đánh mất mình trong sự lo lắng và sợ hãi về tương lai. Còn mình có quyền thiết kế tương lai của mình chứ. Mình an trú trong hiện tại và mình đem tương lai về hiện tại để nghiên cứu và hoạch định. Nói cách khác, sống sâu sắc trong hiện tại thì đồng thời mình cũng tiếp xúc được quá khứ, còn tương lai cũng nằm trong hiện tại. Mình cần biết xử lý hiện tại với tất cả khả năng của mình, thì có nghĩa là mình đang làm tất cả những gì mình có thể làm cho tương lai rồi. Lo lắng và sợ hãi tương lai chỉ làm hư tương lai của mình, còn tiếc nuối và mặc cảm về quá khứ sẽ biến quá khứ thành nhà tù và mình không có khả năng sống trong hiện tại nữa. Đó là sự đáng tiếc! Không phải ai đi tu cũng thành công Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhiều người trẻ cũng như trí thức suy ngẫm, tự tâm niệm, cảm nhận đạo Phật và hướng theo với sự tự giác, sâu sắc. Nhưng có người nhìn vào đội ngũ tu hành và thấy những người tu theo giáo lý Phật giáo mà không hành động, sống được như vậy, nên họ thất vọng và không tin. Phải làm thế nào để giải quyết được chuyện đó. Chẳng hạn có nhiều tình trạng giữa các nhà sư đố kỵ hiềm tị lẫn nhau, thượng tọa này nói xấu hòa thượng kia. Rồi chuyện phân bổ về chùa nọ chùa kia, ở bên ngoài có chạy chức chạy quyền thì trong những người tu hành lại có chạy chùa. Làm sao phải để người dân cảm nhận sự mực thước, trong sáng trong đạo Phật? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đi tu cũng có thể thành công hay thất bại. Nếu gặp thầy giỏi, đoàn thể tu tập giỏi thì có cơ hội thành công dễ dàng hơn. Nếu không gặp được minh sư thì thất bại như một người tu. Khi mình xuất gia, mình không sống đúng theo luật nghi thì cũng thất bại. Ở đạo tràng Mai thôn có tới 3, 400 người, nhưng chúng tôi thực tập không ai có xe hơi riêng, điện thoại riêng, không có chương mục ngân hàng riêng, bởi đi tu là không có của riêng nữa. Một người ra đường, dù đi dạy hay đi tổ chức khóa tu, kể cả khi lên mạng thì có người khác đi theo. Chúng tôi thực tập như vậy nên được an ninh rất nhiều. Những người Phật tử thấy một thầy ra thuê nhà ở riêng thì phải biết rằng họ làm sai với giới luật của đạo Phật. Nếu mình để họ như vậy và yểm trợ, rồi tìm tới với họ không phải để học hỏi giáo lý, để tu tập mà để có một sự thỏa mãn về tình cảm là hại cho người xuất gia đó. Bên phía xuất gia thất bại vì không hướng dẫn được cho cá nhân người tu sĩ đó. Bên cư sĩ lại không biết nên đã yểm trợ và dung túng cho hành vi không đúng của người tu sĩ, khiến họ có thể có lỗi lầm, có thể lạm dụng tình dục một người cư sĩ. Người tu sĩ trở thành nạn nhân của sự không thực tập, lỗi một phần ở tăng đoàn, một phần ở người cư sĩ không biết để giúp ngăn ngừa. Đạo Phật là đạo thực tập vô ngã, không có cái ta riêng biệt, người kia cũng là mình. Như bàn tay trái bàn tay phải có tinh thần vô ngã, bàn tay phải không bao giờ nói bàn tay trái vô tích sự không làm được gì hết. Mỗi khi bàn tay trái bị thương thì bàn tay phải chăm sóc như chăm sóc chính bản thân mình. Hai bàn tay có tuệ giác vô ngã, tuy hai mà một, không có kỳ thị. Người Phật tử mà nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha với con là hai người riêng biệt, mà hiểu trong cha có con, trong con có cha, con là sự tiếp nối của cha. Nếu cha đau khổ thì con đau khổ, con hạnh phúc thì cha hạnh phúc, thấy được đau khổ của cha là đau khổ của chính mình, hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình. Người tu chứng thực được vô ngã thì sẽ không nói xấu những người khác, không cho mình là nhất. Thấy một vị xuất gia, thượng tọa, hòa thượng mà dương dương tụ đắc thì thấy tội nghiệp cho họ vì đã tu bao nhiêu năm mà chưa chứng được tuệ giác vô ngã. Điều này áp dụng cho giới xuất gia cũng như tại gia. Vấn đề là làm thế nào để có được minh sư, mở được những môi trường để người tu tập có thể thành công. Vì ý chí muốn tu học là chuyện khác, thành công là chuyện khác. Ý chí không thì không đủ. Thực tập yêu thương, hạnh phúc, an lạc để thành chân tăng Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Từ ý chí đến kết quả còn khoảng cách. Làm sao để những điều hay và giá trị tinh thần cao quý đó phải được lan tỏa vào mỗi con người, chứ hiện nay tỉ lệ thành công chưa cao? Nhiều người đến chùa không phải vì nhu cầu tâm linh thiêng liêng mà chủ yếu vì... mê tín. Họ cầu may để xin thành công trong làm ăn, đôi khi cả làm ăn bất chính. Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nhiều người nghĩ Phật và các vị Bồ Tát là thần linh, nếu mình đến cầu nguyện và "đút lót", cúng cho vị Bồ Tát này mấy chục ngàn đồng, cúng cho vị Bồ Tát kia mấy chục ngàn đồng là mình về sẽ không bị tai nạn hay gặp tai hoạ nào trong cuộc sống nữa. Hiểu như vậy là hiểu lầm về đạo Phật. Nhưng sở dĩ họ hiểu lầm như vậy, một phần cũng là do các thầy, các sư cô và các vị cư sĩ đứng ở cương vị lãnh đạo, nên mình cũng không thể trách cứ những người dân thường được. Nhiều người lại nghĩ nhầm rằng khi gặp thất bại trong cuộc đời rồi thì mới xuất gia. Ngày xưa, đức SIDDHARTHA xuất gia là bởi muốn tìm tình yêu thương lớn dành cho muôn người, muôn loài. Hay vua Trần Nhân Tông, một vị vua rất yêu nước yêu dân cũng xuất gia, và khi xuất gia rồi vẫn phục vụ cho nước cho dân. Vậy mà có những gia đình thấy con xin đi xuất gia thì cảm giác như đó là một nỗi nhục nhã. Quan niệm thất bại rồi mới đi xuất gia là một quan niệm rất sai lầm. Quan niệm đó từ đâu tới? Đó là bởi đã có những thời điểm trong lịch sử mình cho chuyện đi tu là duy tâm, mê tín, tư duy không lành mạnh. Chúng ta cũng có một phần trách nhiệm trong sự tư duy như vậy. Tôi nghĩ rằng muốn thay đổi suy nghĩ này thì phải thiết lập những tăng thân - những đoàn thể tu học đúng mức mà trong đó, đạo Phật được thực tập như một nghệ thuật sống, mỗi người thực tập trong tăng thân đều được an lạc, hạnh phúc, được thương yêu. Khi có được những tăng thân như thế ở cả 3 miền để những người quan tâm có thể tới tiếp cận để trực tiếp tiếp xúc và thấy được đạo Phật thật sự mà họ cần phải hướng tới là đạo Phật hiện đại, phù hợp với tuổi trẻ và đời sống mới. Trong đạo Phật, sau khi qui y Phật, qui y Pháp thì còn cần qui y tăng nữa. Tăng ở đây có nghĩa là "community" - là đoàn thể. trong đó có người xuất gia - xuất gia tăng, có người tại gia - tại gia tăng. Khi mình tới với nhau để tu học mà thành công được thì hạnh phúc đạt được rất lớn, tăng trở thành chỗ nương tựa cho nhiều người. Quy y tăng không phải là đặt niềm tin vào một cái gì đó mơ hồ mà tăng là đoàn thể đang thực tập hạnh phúc, có tha thứ, có vô ngã, có vô thường. Trong tăng có Phật và có Pháp. Còn tăng mà có sự ganh tỵ, chỉ có hình thức bên ngoài như cúng lạy thôi mà không có hạnh phúc, không có tha thứ, không có sự tươi mát của tâm hồn và lắng nghe nhau thì đó không phải "chân tăng", do đó không có Phật và không có Pháp ở đó. Việc làm của chúng tôi bây giờ là thiết lập những tăng thân ở khắp nơi trên thế giới. Ở Tây phương, chúng tôi đã xây dựng được trên 1000 tăng thân, là nơi nương tựa của không biết bao nhiêu người. Ở mỗi thành phố lớn như London, New York, Los Angeles chúng tôi có trên 10 tăng thân như vậy. Tôi nghĩ, ở Hà Nội cũng nên có ít nhất 10 tăng thân, và mỗi tăng thân phải chứa đựng trong mình Phật pháp mang tính đời sống cụ thể hàng ngày. Xây dựng những tăng thân như vậy là công việc cao quí nhất của người Phật tử, tại vì đó là chỗ để con người tới để nương tựa, được che chở và bảo vệ. “Doanh nghiệp tăng, gia đình tăng và… Quốc hội tăng”? Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nói như vậy thì một tổ chức, một công ty có thể trở thành một tăng, một cộng đồng? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Doanh nghiệp mà thực tập theo Phật - pháp thì thành doanh nghiệp tăng. Một gia đình thực tập theo kiểu đó là gia đình tăng. Khi tôi gặp ngài Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ, chúng tôi có bàn luận làm sao để xây dựng quốc hội thành một đoàn thể mà ở đó mọi người lắng nghe nhau, vì trước đó tôi nghe có những buổi đàm luận rất bạo động, có khi một dân biểu nổi cáu đến mức cầm ghế phang một dân biểu khác. Ở nước ngoài, một dân biểu thường thuộc một đảng và phải nói theo đường lối của đảng mình, nên mình không được hoàn toàn tự do nói kinh nghiệm sâu sắc của mình. Khi nói, nếu mình lại dùng ngôn từ nặng nề thì sẽ làm phía bên kia nổi giận lên, rồi chửi mắng lại. Như vậy thành ra không có ái ngữ, không có lắng nghe. Trong khi đó, dân biểu phải hiểu rằng dân chúng bầu mình lên là để lắng nghe và để chia sẻ kinh nghiệm, tuệ giác của mình, để làm ra những đạo luật cho tất cả mọi người được thừa hưởng. Tôi đề nghị với ông Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rằng trước mỗi buổi họp Quốc hội thì nên đọc một bài quán niệm, nên thực hành một bài thiền, đọc một đoạn văn về bổn phận của người dân biểu là những người được dân chúng bầu lên, chúng ta có bổn phận phải lắng nghe nhau, học hỏi từ nhau để có thể đi tới những quyết định đúng đắn nhất, mang lại hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Do đó, trong phiên họp này, mọi người phải lắng nghe nhau, sử dụng ngôn từ hòa ái, đừng tức giận, đừng buộc tội, đừng chua chát, đừng lên án nhau. Ông Chủ tịch của buổi họp có một cái chuông, để khi thấy không khí của buổi họp căng thẳng, nóng bỏng, tranh chấp thì ông có thể thỉnh một tiếng chuông cho mọi người thở vào thở ra, khi nào lắng xuống thì mới tiếp tục phát biểu. Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rất thích thú với đề nghị này, và 10 ngày sau đã cho xây dựng "Ủy ban Đạo đức" để lo lắng cho Quốc hội. Ngài có mời tôi trở về để nói chuyện với toàn Quốc hội về ái ngữ và lắng nghe, nhưng tôi đã không có cơ hội trở lại. Sau này, ngài Chủ tịch Quốc hội đã trở thành Tổng thống của Ấn Độ. Một quốc hội cũng có thể trở thành một quốc hội tăng, trong đó mọi người lắng nghe nhau, hiểu nhau và như vậy có lợi cho đất nước. Súng bom không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thế quốc hội Mỹ đã trở thành một quốc hội tăng chưa, thưa thiền sư? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chưa, và còn lâu lắm. Chúng tôi cũng mong muốn Liên hợp quốc sẽ trở thành Liên hợp quốc tăng vì khi đó mọi lời nói, việc làm sẽ vì lợi ích chung của toàn thế giới. Tôi nghĩ Liên minh châu Âu là một sự thành công lớn vì nước nào cũng hy sinh bớt quyền lợi quốc gia để cho một Âu châu chung. Nghĩa là, họ đã thực tập đạo Phật mà họ không biết. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng phải chăng vì sự hy sinh quyền lợi quốc gia như vậy, mà ngày nay vị thế của Liên minh Châu Âu trên thế giới bị kém đi, mỗi nước châu Âu sẽ vì thế mà bị thiệt hại hơn. Thiền sư nghĩ sao về điều này? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi không nghĩ như vậy. Bởi nếu từng quốc gia châu Âu riêng lẻ sẽ không đủ mạnh để là đối trọng với Hoa Kỳ. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, Phật pháp dạy rằng các đệ tử của nhà Phật thì phải yêu thương lẫn nhau. Vậy mà vẫn có những đất nước, dân tộc cùng theo đạo Phật nhưng vì lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia xung đột, nên vẫn tồn tại tình trạng nước này ăn hiếp nước khác. Việt Nam ta cũng là một đất nước đi theo đạo Phật mà có khi vẫn bị ăn hiếp bởi một nước khác cũng theo đạo Phật, và họ vẫn chưa thực sự yêu thương, trải lòng với ta? Có cách nào để Phật pháp đi vào lòng mỗi người, mỗi dân tộc để mỗi quốc gia sẽ yêu thương, trân trọng và đối xử hữu nghị với các quốc gia khác, để thế giới này không còn cảnh hận thù, chiến tranh? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nếu họ nói họ theo đạo Phật mà họ lại biến mình thành thế lực xâm lăng, có chủ trương xâm chiếm đất đai của người khác thì họ chỉ có đạo Phật trong danh từ, trong hình thức thôi. Do vậy, mình có thể nói thẳng với họ điều này, và hỏi thẳng họ rằng: "Từ bi của ông ở đâu? Tình huynh đệ của ông ở đâu? Tại sao ông lại đi xâm chiếm một nước khác? Đó có phải là chủ trương hoà bình của đức Thế Tôn hay không?" Các Phật tử trên thế giới đã cố gắng lập ra "World Fellowship of Buddhiste" - Liên minh Phật tử thế giới để điều hợp các hành động tu tập trên thế giới này. Tôi thấy rõ rằng đạo Phật có nhiều cách để đi vào mọi lĩnh vực của sự sống, ràng rằng sự thực tập lắng nghe và ái ngữ có thể áp dụng trong bất cứ trường hợp nào để tạo ra sự hòa giải. Như cuộc chiến tranh Iraq chẳng hạn. Nguyên nhân căn bản của nó là sự hiểu lầm và những tri giác sai lầm, dẫn đến sự sợ hãi và oán thù, vì thế mà phải loại trừ nhau, để đạt được an ninh. Nếu mình nghĩ rằng người kia đang muốn giết mình, thì mình sợ, mà bản thân mình không muốn bị giết, do đó mình phải giết người ta trước khi người đó giết mình. Cái đó là tình trạng hiện nay ở Iraq. Cái sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có những tri giác sai lầm về mình và người Ả rập. Người Ả Rập cũng có những tri giác sai lầm về mình và về Hoa Kỳ. Do đó chiến tranh xảy ra dựa trên những tri giác sai lầm của cả hai phía. Tri giác sai lầm luôn luôn mang đến nghi ngờ, sợ hãi và bạo động. Ta biết rất rõ trong ánh sáng của đạo Phật, muốn cho đừng có những nghi ngờ, bạo động, sợ hãi đó thì phải lấy những tri giác sai lầm ra, bằng cách đối thoại và lắng nghe nhau, phải nói với nhau những lời mà người kia có thể hiểu được. Còn súng, bom... không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm cả. Thành ra, càng đánh dẹp khủng bố bao nhiêu thì càng tạo nên những người khủng bố bấy nhiêu. Thực tế đã cho thấy, bao nhiêu năm tiêu diệt khủng bố mà có bớt người khủng bố đi đâu? Tại vì, họ không hiểu rằng phương pháp để tiêu diệt khủng bố chính là lấy ra những sợ hãi, căm thù, bạo lực, bằng tình người và bằng sự lắng nghe nhau. Phải có những buổi gặp gỡ, để lắng nghe những sợ hãi, khổ đau của nhau. Rồi từ đó, có cơ hội nói cho bên kia hiểu chúng tôi không có chủ đích muốn tiêu diệt các vị như một tôn giáo, một nền văn minh, một lối sống. Quý vị đã hiểu lầm. Chúng tôi đã nói, đã làm gì gây ra cho quí vị cảm tưởng đó thì chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi sẽ không nói, không làm như vậy nữa. Đó là phương pháp duy nhất để mang lại hòa bình và là phương pháp thuần tuý từ đạo Phật mà đi ra. Khi nói chuyện với những doanh nhân, nhà chính trị,... ở Hoa Kỳ, chúng tôi cũng chỉ nói như vậy thôi. Chúng tôi đã từng bảo trợ cho những gia đình người Palestine, Do Thái tới Làng Mai để tu học. Ban đầu, họ nhìn nhau không được vì rất nghi kị và sợ hãi nhau. Nhưng sau những tuần lễ thực tập để buông thư, ôm ấp, nhận diện những sợ hãi đó và mọi người thực tập lắng nghe, mục đích là để hai bên nói được hết những khổ đau, sợ hãi, lo lắng của họ mà không bị cắt lời. Sau vài 3 buổi thì hai bên sẽ hiểu rằng: "À, hoá ra bên kia cũng giống hệt bên mình, cũng có những sợ hãi, khổ đau, lo lắng như vậy...", và họ có thể bắt đầu nhìn bên kia bằng con mắt cảm thông, nhận ra những tri giác sai lầm tồn tại, để từ từ gửi những thông tin để giúp cho bên kia tháo gỡ, điều chỉnh lại những tri giác sai lầm. Và họ ngồi ăn cơm, nắm tay nhau đi thực tập được. Khi trở về Trung Đông, họ đã thực tập, họ lập ra những tăng thân để cho những người khác tới cho bớt khổ. Chúng tôi đã làm được điều đó. Chứng tỏ rằng, mối quan hệ giữa 2 quốc gia Palestine và Israel cũng có thể cải thiện. Tương tự, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iraq cũng có thể thay đổi được nếu áp dụng phương pháp này của đạo Phật. “Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới” Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư nghĩ thế nào về trường hợp của tổng thống Bush ở Hoa Kỳ? Liệu ông Bush có thể thực tập theo phương pháp của nhà Phật thành công được không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, Tổng thống Bush xuất thân từ bối cảnh tôn giáo bảo thủ, và lực lượng của TT Bush là một lực lượng bảo thủ. Những người bảo thủ đứng sau TT Bush, và những người cố vấn, cộng sự của TT Bush cũng đại diện cho quyền lợi của những người đó thành ra rất khó. Tôi đã từng viết thư cho TT Bush nhưng không lọt đến tay ông được. Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới. Ông ta không ngủ ngon được, sẽ bị trăn trở hàng đêm. Làm sao ngủ ngon được khi biết rằng con em của mình mỗi ngày đều bị chết ở Iraq. Những người Iraq và những người Mỹ chết mỗi ngày một nhiều, hận thù ngày một nhiều và ông ta sa lầy trong chiến tranh Iraq. Nuốt cũng không vào mà khạc ra cũng không được. Nhiều người nghĩ rằng ở cương vị của TT Hoa Kỳ, hẳn ông Bush sẽ có rất nhiều quyền lực. Nhưng tôi thấy TT Hoa Kỳ là một người rất bất lực, với quyền năng đó, quân đội đó, với nền kinh tế đó mà không thể làm được gì để giải quyết những vấn đề như vấn đề Iraq. Quyền năng trên thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc. Phải có quyền năng tâm linh, nghĩa là khả năng hiểu và khả năng thương, mà những điều này thì TT Bush không có đủ. Tôi nghĩ, nếu ứng cử viên Obama mà lên được TT Mỹ thì khả năng không kỳ thị ở nước Mỹ là rất lớn. Nó chứng tỏ nước Mỹ không kỳ thị người da đen, không kỳ thị người trẻ. Do đó, nó thể hiện một hình ảnh mới của Hoa Kỳ. Với ông Obama, những người trí thức, những người tiến bộ có một cơ hội để có thể mong muốn lý tưởng công bằng xã hội, lý tưởng đổi mới, không kỳ thị được thực hiện trong xã hội Hoa Kỳ. Bạn đọc Phan Dũng (Hà Nội): Làm thế nào để tĩnh tâm, giữ bình yên thanh thản trong nền kinh tế hiện tại khi mà cái tham lam dục vọng của con người ngày càng nhiều? Trong cuộc sống hiện đại, nhiều khi con người muốn sống thiện cũng rất khó vì sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Vậy thiền sư hãy chỉ cho tôi cách nào để tránh những cái ác, cái tà tâm mà vẫn có thể phát triển bản thân và góp phần phát triển xã hội?" Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ rằng mình không cần đua đòi, đừng nghĩ phải có tiện nghi như mọi người khác trong xã hội thì mới có hạnh phúc. Chúng tôi là những người xuất gia, chúng tôi sống trong cộng đồng 300 - 400 người, sống rất đơn giản. Không ai có xe riêng, không ai có điện thoại riêng, không ai có tài khoản ngân hàng riêng, chúng tôi tiêu thụ rất ít nhưng hạnh phúc chúng tôi có rất lớn. Chúng tôi có rất nhiều tình huynh đệ và trong cuộc sống chúng tôi giúp được rất nhiều người. Điều đó chứng tỏ rằng không phải mình phải có rất nhiều tiền bạc, quyền hành, bằng cấp thì mới có hạnh phúc. Nếu mình thấy được con đường như vậy thì mình không sợ hãi nữa. Mình thấy rằng mình có khả năng sống đơn giản và hạnh phúc. Đó chính là con đường sống hạnh phúc của chúng ta, của không chỉ người Việt Nam mà còn của nhiều người trên thế giới. Ở tu viện Lộc Uyển, chúng tôi không dùng điện nữa. Trong một cộng đồng mấy trăm người, chúng tôi chỉ dùng năng lượng mặt trời thôi cũng đủ sống. Chúng tôi không dùng xăng, mà dùng dầu ăn người ta thải ra để chạy xe hơi của chúng tôi. Chúng tôi không ăn thịt, không ăn cá, không uống bia, không dùng các sản phẩm sữa, pho-mát, bơ... Vậy mà chúng tôi rất mạnh khoẻ. Chúng tôi rất hài lòng vì sống như thế là cách góp phần để trái đất có một tương lai. Đứng lo lắng thái quá về lạm phát Bạn đọc Lê Đình Thuận (Thanh Hoá): Về Việt Nam lần này, Thiền sư thấy đất nước có những sự thay đổi nào? Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn như lạm phát, thiền sư có suy nghĩ về giải pháp nào không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Lần này, về Việt Nam, chúng tôi có tiếp xúc với rất nhiều bạn trẻ và các phật tử, thì tôi thấy có những đau khổ mới, bức xúc mới. Cùng với sự phát triển kinh tế thì các tệ nạn xã hội tăng thêm mà luật pháp không đủ để khống chế. Bên cạnh luật pháp, cần phải có đạo đức xã hội. Phải làm sao để đưa đạo đức vào từng gia đình, phải đưa sự thực tập vào từng gia đình để giảm thiểu những tệ nạn xã hội đó. Khi 400 người thanh niên, phật tử quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bảo Lộc và 300 thanh niên quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bằng An, chúng tôi biết rằng những người này có một con đường. Đó là con đường của yêu thương, của sự thực tập để bảo hộ mình và gia đình mình khỏi rơi vào những tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, tà dâm... Về chuyện lạm phát, tôi có kiến giải thế này. Chúng ta phải đối diện với sự sợ hãi, lo lắng của chúng ta. Nếu chúng ta biết chấp nhận nhau, yêu thương nhau, lá lành đùm lá rách, đừng lợi dụng để làm giàu riêng, đừng đầu cơ thì chúng ta có đủ khả năng để đi qua được cuộc khủng hoảng kinh tế này. Do vậy, lạm phát nhiều hay ít, có đi qua được lạm phát hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách suy nghĩ của chúng ta chứ không chỉ vào yếu tố kinh tế khách quan. Sự lên xuống của đồng đôla phụ thuộc phần nhiều vào sự lo lắng của chúng ta mà thôi. Thành thử ra, đừng lo lắng quá, đừng làm cho tình trạng nguy ngập thêm vì sự lo lắng sợ hãi của chính chúng ta. Đó chính là điều chúng tôi muốn nói. Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn của dân tộc Bạn Nguyễn Tuấn Anh: …Câu hỏi ở đây là ý chí của dân tộc, hồn thiêng của sông núi, vận mệnh của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam, theo Thiền sư có MỘT lần nữa sẽ lại tích tụ, lại sinh ra một cá nhân kiệt xuất, một người con dân đất Việt với TÂM HỒN TRONG SÁNG NHƯ PHA LÊ và có một TRÍ TUỆ PHI THƯỜNG, như một lãnh tụ tinh thần dẫn dắt dân tộc Việt Nam vươn lên một cách thần kỳ, ngoạn mục? Trong thâm tâm của mình, đã có lúc nào Thiền sư nghĩ đến điều kỳ diệu đó chưa? Tại Việt Nam đã có hay chưa NGƯỜI đó, trong dịp này Thiền sư có nghĩ rằng, có mong rằng mình có NHÂN DUYÊN gặp NGƯỜI đó không? Nếu gặp, Thiền sư sẽ đàm đạo với NGƯỜI đó về những vấn đề gì? Là một nhà tu hành, Thiền sư quan niệm như thế nào về sự kỳ diệu nói chung và sự kỳ diệu trong nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên của Internet và CNTT nói riêng? Thành tâm cảm tạ thiền sư. Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi có ý thức rằng dân số VN giờ này đông hơn dân số Pháp, và đều rất trẻ. Khi về VN, tiếp xúc với người trẻ nào tôi cũng nhìn bằng con mắt đặc biệt: "Người trẻ này có thể là người đặc biệt đó". Tuổi trẻ bây giờ rất thông minh, và bất cứ người trẻ nào cũng có thể trở thành một vĩ nhân được. Và tôi muốn trao truyền cho mỗi người trẻ toàn bộ những kinh nghiệm mà mình có, để họ này trở thành tương lai của đất nước. Tôi rất lạc quan, vì gia tài tâm linh của mình rất lớn. Tôi không nghĩ nhiều đến chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Chúng ta thành tựu được một sự nghiệp không phải do 1 người mà do nhiều người hợp sức. Một vị lãnh tụ không phải tự nhiên xuất hiện mà do khí thiêng của sông núi, do những người phụ tá hỗ trợ. Như lúc nãy tôi nói, ông Bush không phải chỉ là cá nhân ông ta, mà muốn hiểu ông ta thì phải hiểu hoàn cảnh của ông ấy, bạn bè, phụ tá của ông ấy. Ở Việt Nam cũng vậy, phải nhìn vào quá khứ dân tộc Việt Nam, nhìn vào những người cộng sự thì mới thấy được cụ Hồ. Thành ra tôi không để ý quá đến anh hùng cá nhân. Khoa học thần kinh não bộ đã khám phá ra rằng, không có tế bào nào là tế bào làm lãnh tụ hết. Tất cả các tế bào đều hoạt động trong một bản "đại hoà tấu" và không có nhạc trưởng. Khi tới với nhau thì tự nhiên có những cảm xúc, tư duy và vì vậy khoa học đã chứng tỏ được tuệ giác vô ngã trong đạo Phật. Đây là một cái nhìn của đạo Phật về đất nước. Mỗi người trong chúng ta đều có tài năng, phần đóng góp của mình. Và khi chúng ta tới với nhau được bằng tình huynh đệ, bằng tinh thần đồng bộ thì ta làm ra việc lớn thôi. Tôi không nghĩ đến cảnh một người hướng dẫn tất cả mọi người đi theo, mà mỗi người cũng là một phần của sự nghiệp lớn. Tôi nghĩ rằng tư duy này nó đúng với khoa học hơn, đúng với tinh thần Phật giáo hơn. “Nhà báo đang thực hành Phật pháp như một người chân tu” Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có chia sẻ gì với những nhà báo về tinh thần Phật giáo? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi tiếp xúc rất nhiều với các nhà báo, những người làm phim và làm phóng sự. Chúng tôi không muốn chỉ cung cấp thông tin cho họ, vì cung cấp thông tin không thì không đủ. Do đó chúng tôi cố gắng thiết lập mối liên hệ tình người với họ. Nếu các vị có khả năng lắng nghe, nhìn được bằng con mắt của từ bi, tha thứ, thương yêu thì quí vị có thể viết một bài phóng sự sâu sắc. Người đọc của quí vị cũng sẽ có cơ hội tưới tẩm hạt giống thương yêu, tha thứ, hiểu biết, chấp nhận. Còn nếu quí vị viết trên căn bản sợ hãi, hận thù thì bạn đọc cũng sẽ cảm nhận được điều đó. Do vậy, mỗi nhà báo đều có thể hành nghề ký giả như một vị Bồ Tát, mang yêu thương, hạnh phúc cho độc giả bằng cách tường thuật những gì đã nghe và đã thấy. Nhà báo cần phải được bình an trong trái tim, nhà báo phải có khả năng nhìn cho thật, lắng nghe cho thật rõ để hiểu nguồn cơn tại sao sự việc ấy lại xảy ra như thế này, hay như thế khác. Như vậy, nhà báo đang thực hành Phật pháp như một người chân tu. Trong con người chúng ta có một chiến sĩ, một nghệ sĩ và một tu sĩ. Và nếu chúng ta để cho cả 3 con người đó hoạt động cùng lúc với nhau thì chúng ta sẽ trở nên hạnh phúc. Nhà chiến sĩ muốn thành công, nhà nghệ sĩ phải làm thế nào cho đẹp và người tu sĩ phải tham dự vào đời sống để có khả năng tháo gỡ những đau khổ, khó khăn. Nhà báo sẽ thành công nếu để cho nhà chiến sĩ, nghệ sĩ, chân tu có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp của mình. Những ai sẽ tiếp nối trọng trách của thiền sư Thích Nhất Hạnh? Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư là một người có uy tín, có ảnh hưởng ở trong nước và quốc tế, đã truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Chúng tôi mong sẽ có những người tiếp nối trọng trách này của thiền sư. Vậy trong những hậu duệ thì thiền sư trông đợi vào những ai? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi may mắn có nhiều học trò xuất gia và tại gia mà tôi rất tin tưởng. Những năm gần đây thì học trò của tôi đã được gửi đi khắp nơi trên thế giới để tổ chức những khoá tu. Và họ đã chứng tỏ được họ có thể độ đời và giúp đời rất nhiều. Cho nên tôi rất an tâm. Nếu tối nay tôi phải thở hơi thở cuối cùng thì tôi cũng không tiếc nuối gì, bởi tôi nghĩ mình được tiếp nối xứng đáng. Tôi nghĩ rằng bố mẹ nào cũng có tâm trạng đó, thầy giáo, cô gíáo nào cũng có tâm trạng đó. Để tâm đến thế hệ tương lai, trao truyền cho thế hệ tương lai những gì quí nhất của mình là sứ mệnh rất quan trọng. Mai mốt, mình cũng phải từ giã cõi đời này thôi. Nên nếu mình bận rộn quá mà không trao truyền được cho con cháu mình và học trò, đệ tử của mình những gì quí giá thì tức là mình chưa làm tròn bổn phận của một người con, một công dân. Tôi xin khuyên các vị làm cha mẹ, làm thầy bớt bận rộn lại để có thì giờ ngồi với các con, cháu của mình, học trò của mình mà dùng ngôn từ thương yêu, ái ngữ, trao truyền tất cả những thương yêu, kinh nghiệm sống cho họ. Khi đó, mình có thể rời bỏ cuộc đời này không luyến tiếc. Tìm hạnh phúc cho dân, cho nước từ văn hoá tâm linh? Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, thiền sư có suy nghĩ gì về tương lai của đất nước Việt Nam ta, ít nhất là trong 10 năm tới? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, chúng ta phải tận dụng nền văn minh tinh thần của chúng ta mà đừng quá tin tưởng vào xã hội tiêu thụ Tây phương. Người Tây phương bây giờ khổ lắm, nhiều người tiền bạc rất nhiều, quyền lực rất lớn nhưng lại cực kỳ cô đơn, và phải tự tử. Chúng ta đừng theo dấu xe đổ của họ. Đừng tin rằng ta chỉ hạnh phúc nếu có tiền bạc, quyền lực... Chúng ta chỉ hạnh phúc khi có an trong lòng, có tình yêu và tình thương. Nếu chúng ta có thể an lạc trong từng giây phút của hiện tại thì chúng ta mới có thể có hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta hãy trở lại kho tàng tuệ giác, văn minh của chúng ta đã có mà làm hạnh phúc cho dân, cho nước. Một điều rất rõ là trong 30, 40 năm vừa qua, chúng tôi đã sử dụng kho tàng tuệ giác đó của dân tộc Việt Nam để mang lại hạnh phúc cho biết bao người Tây phương. Tại sao họ có được hạnh phúc nhờ nó mà chúng ta thì không? Mình là chủ nhân của nền văn hoá tâm linh đó mà không khai thác được thì rất lãng phí. Chúng ta phải tu tập, học hỏi. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Giá trị tâm linh đó có phải là một trong những giá trị đặc sắc của Việt Nam đóng góp với kho tàng văn minh nhân loại không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đúng như vậy. Chúng tôi đã truyền bá văn hoá đó, nếp sống, văn minh tinh thần đó trên thế giới. Mỗi khi người ta tu tập, nghe đến truyền thống đó, đọc sách đó thì ai cũng biết gốc của nó là từ Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn đọc Phan Công Tuấn gửi đến VietNamNet kèm một đề xuất rất dài về vấn đề: Tệ nạn giao thông đang là một vấn đề lớn của người Việt Nam hiện nay. Đề nghị thiền sư tổ chức những khoá tu tập để giúp cho người Việt Nam có ý thức hơn trong việc tham gia giao thông, Trong 2 tháng ở VN, thiền sư có kế hoạch gì cho việc này không? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi có thể đề nghị một vài ý tưởng cụ thể thế này: Người nào muốn có bằng lái thì phải qua một khoá tu 7 ngày, học về chánh niệm trong khi lái xe, học về phương pháp theo dõi hơi thở khi muốn lái xe hay muốn vượt một xe khác. Và cứ 6 tháng thì phải về tu tập 3 ngày trong một khoá tu như vậy để được nhắc nhở. Bộ Giao thông nên làm việc này, có những thầy, những sư cô sẽ tình nguyện giảng dạy không lấy tiền. Đó là một trong những điều chúng tôi có thể đề nghị được. Cố nhiên những người bị say không nên lái xe, do vậy thực tập 5 giới giúp mình trở thành người lái xe lý tưởng. Vấn đề là phải tổ chức sao để mọi người được nhắc nhở thường xuyên, và nếu không đi theo những lớp tu nghiệp như vậy thì không có quyền sử dụng bằng lái xe của mình mãi mãi. Xin bộ Giao thông lắng nghe! Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Câu hỏi cuối cùng, thiền sư trông đợi gì ở đại lễ Phật đản Vesak tổ chức ở VN trong vài ngày tới? Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi thấy đây là một vinh dự lớn. Phật tử bốn phương tới để tham dự sẽ thấy rằng VN đang trên con đường mở ra và đi lên. Chúng tôi trong dịp này đã cố gắng để đóng góp phần mình vào đại lễ. Chúng tôi đã đưa về chừng 500 thiền sư ngoại quốc từ 40 quốc tịch. Trước khi vào tham dự đại lễ Phật đản, chúng tôi có một khóa tu "Đạo Phật đi vào cuộc đời" tu tập suốt 7 ngày, 7 đêm cho người nước ngoài. Rồi chúng tôi sẽ đem năng lượng đó, nội dung đó đi vào trong lễ Phật đản. Lễ Phật Đản này sẽ có nội dung rất sâu sắc chứ không phải chỉ có hình thức thông thường. Và trong lễ Phật Đản sẽ có những buổi hội đàm về những vấn đề nóng bỏng của thế giới như chiến tranh, hoà bình, năng lượng, môi trường, bạo động, căm thù...Các thiền sinh của chúng tôi đã được học hỏi nhiều năm sẽ tham dự vào các buổi toạ đàm như vậy. Tôi tin rằng đây là lần đầu tiên một lễ Phật Đản có nội dung rất là sâu sắc được tổ chức. Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn thiền sư. Hi vọng những giá trị tinh thần cao quí của Phật giáo sẽ đi vào đời sống của dân tộc Việt Nam và lan tỏa trên thế giới, để dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt, được bạn bè thế giới yêu mến, trân trọng. Xin cảm ơn Thiền sư đã tham dự bàn tròn với bạn đọc VietNamNet. Nguồn tuanvietnam
-
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những bất ngờ thú vị17:59' 12/04/2005 (GMT+7) (VietNamNet) - Lúc này, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kết thúc chuyến thăm và thuyết giáo tại quê nhà Việt Nam - chuyến thăm được xem là mang lại luồng gió mới cho Phật giáo nước nhà. Thiền sư đã về nguồn sau 40 năm hoằng pháp tại hải ngoại và để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm khảm đông đảo tăng ni, Phật tử và những người dân Việt Nam khác. Giới quan sát cho rằng, chuyến về nguồn của thiền sư Thích Nhất Hạnh là chuyến về nguồn của những bất ngờ thú vị. Thiền sư Nhất Hạnh và phái đoàn Phật giáo đến chùa Bồ Đề Thiền sư bất ngờ vì sau 40 xa xứ, trước mắt thiền sư, Việt Nam vẫn là một quê hương đích thực: ấm áp, nghĩa tình. Ở đây, không chỉ con người thiền sư được trân trọng, mà lý tưởng, đạo pháp mà ông đang dâng hiến từ lâu vẫn được quê hương nâng niu, vun trồng từng ngày.Tăng ni, Phật tử và đông đảo người dân Việt Nam bất ngờ, vì sau từng ấy năm ở trời Tây, thiền sư vẫn mang nguyên vẹn cốt cách Việt Nam. Đủ thấy cốt cách Việt Nam có sức trường tồn và có thể dung hòa, tôn vinh hạt giống Phật trong tâm tưởng mỗi vị chân tu. Nhiều người không quên được hình ảnh thiền sư cùng đoàn tăng ni ngoại quốc - những người vì theo học thiền sư mà xem đất Việt là quê hương tâm linh của mình - tay cầm chiếc nón Việt Nam, đến thăm giáo hội Phật giáo hai miền. Những chiếc nón này đã được đoàn mua từ khi còn ở Pháp. Còn với bản thân thiền sư, chiếc nón là vật thân thiết suốt từng ấy năm qua. Ngày 25/1, ngày thiền sư thuyết giảng tại tổ đình Vĩnh Nghiêm, lại thêm một bất ngờ nữa (như thiền sư tâm sự): có tới gần 10.000 tăng ni, Phật tử đến cung nghênh và nghe thuyết giảng. Lực lượng bảo vệ an ninh phải vã mồ hôi để dẹp đường cho bà con tiến vào sân chùa. Thiền sư ngước nhìn hồi lâu ngôi chùa uy nghi, bề thế - ngôi chùa mà khi thiền sư ra đi mới chỉ là bãi đất bằng. Đứng lặng hồi lâu, thiền sư vẫy chào bà con. Trong những lần thuyết giảng tại quê nhà, thiền sư Thích Nhất Hạnh luôn chú trọng cách hoằng pháp thích ứng với người Việt Nam, trong từng lời nói, cử chỉ. Điều này khác với dự đoán của nhiều người, bởi vì tại phương Tây, ông đã xây dựng phong cách hoằng pháp hòa quyện với văn hóa nơi đây. Đây được xem là quan điểm dựa trên một nền học vấn uyên thâm: Tôn giáo cần hòa quyện với mỗi dân tộc, góp phần tôn vinh văn hóa mỗi dân tộc, và văn hóa dân tộc cũng có thể tôn vinh tôn giáo. Đó là cái gốc cho hòa hợp và cùng phát triển. Đại đức Thích Thanh Phong, trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm, TP.HCM: Một sự trở về như "tế bào trở về với cơ thể" Đại đức Thích Thanh Phong.Cũng như tại Hà Nội, không khí tăng ni phật tử TP.HCM đón tiếp hoà thượng Thích Nhất Hạnh rất hoan hỉ. Bên giáo hội đã thưa rằng phái đoàn cần gì thì cứ nói, xin giúp đỡ hết khả năng của mình. Phái đoàn đi đâu cũng nhận được sự hỗ trợ của chính quyền, và sự cung nghênh nồng hậu của chức sắc cao cấp giáo hội Phật giáo cũng như tăng ni, Phật tử. Thiền sư có nói, lần trở về này giống như tế bào trở về với cơ thể. Các tăng ni, Phật tử đăng ký khóa tu của thiền sư rất đông. thiền sư giảng không huyền bí, xa vời, mà rất thực tế cho xã hội, thường đề cập đến những vấn đề giải quyết tâm lý con người. Tôi nghĩ qua khóa tu cũng như qua chuyến thăm của thiền sư, tăng ni Phật tử Việt Nam sẽ đổi mới rất nhiều trong cung cách làm việc, trong nhận thức, mở ra sự hiểu biết lẫn nhau giữa tăng ni, Phật tử Việt Nam với tăng ni, Phật tử ngoại quốc. Nhìn chung, thiền sư được xem là một thành công của người Việt Nam ở nước ngoài, là bậc danh tăng của thế giới, được tăng ni, Phật tử rất quý trọng. Tôi kính phục thiền sư ở chỗ thiền sư là một người châu Á, mà hoằng pháp trên trời Tây, tạo nên sự giao hòa giữa nền văn hóa Việt Nam và nền văn hóa châu Âu. Nhưng về Việt Nam thì thiền sư lại khác. Trong chuyến đi của thiền sư, tôi cũng học được nhiều phương pháp hoằng pháp: phải uyển chuyển, phải vận dụng phù hợp với quốc độ, với phong tục tập quán của từng nơi thì mới thành công. Đại đức Thích Trí Chơn, trụ trì chùa Khánh An, người từng sang Làng Mai diện kiến và trau dồi đạo pháp từ thiền sư Thích Nhất Hạnh: Cái còn lại vẫn là chất tu chân chính của thiền sư Đại đức Thích Trí Chơn.Tôi đã đọc sách của thiền sư từ khi còn nhỏ. Tôi từng qua Làng Mai và được diện kiến thiền sư. Điều đáng lưu tâm học hỏi là trong hoằng pháp, thiền sư đã sử dụng những gì rất thuần túy Việt Nam. Chẳng hạn, ở Việt Nam, tên chùa thường đặt theo chữ Hán. Nhưng thiền sư đặt những tên như: chùa Cây Phong, tháp Đã Về Đã Tới (ý nói: khi nhìn tháp và nghe tiếng chuông thì đến được thế giới an lạc). Thay vì nói: sư huynh, sư đệ, thiền sư nói: sư anh, sư chị. Những chiếc áo nâu sòng, những cái khăn bịt đầu của các vị nữ tu bên đó mang dáng dấp miền Bắc nước ta... Thiền sư đã giới thiệu được văn hóa Việt Nam ra phương Tây. Việc giới thiệu đó có sự kết hợp với văn hóa phương Tây. Chẳng hạn qua bên đó, lời kinh tiếng kệ chuyển thành những bài ca, về hình thức gần với những bài thánh ca, thu hút được giới trẻ, hình thành nên một phong cách của Làng Mai. Những tăng ni phương Tây, sau khi được học thiền sư, đã coi Việt Nam là quê hương tâm linh của họ. Phát ngôn tu của thiền sư cũng ảnh hưởng sâu rộng đến tăng ni Việt Nam khi thiền sư còn ở trên đất Pháp. Về nước, thiền sư lại có cách thuyết pháp cho phù hợp với Việt Nam. Nhìn chung, từ những năm 50 thế kỷ trước, thiền sư Thích Nhất Hạnh thường tạo nên những làn sóng dư luận đa dạng xung quanh phong cách của mình. Dân gian có câu chín người mười ý mà. Phải tạo nhiều luông dư luận như vậy mới là thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nhưng cái còn lại vẫn là chất tu chân chính của thiền sư. Phạm Cườngnguồn Vietnamnet.vn
-
Nhà thơ Huy Cận: Bí mật trong "Các vị La Hán chùa Tây Phương" (1)Thứ ba, 15/4/2008, 07:00 GMT+7 Chùa Tây Phương ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây là một công trình kiến trúc cổ nổi tiếng và là một trung tâm Phật giáo trong vùng, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII. Trong chùa còn lưu giữ rất nhiều tuợng cổ quý giá, trong đó có nhóm 18 pho tượng gỗ La Hán đặt ở hành lang chùa. Ngoài giá trị tâm linh, những pho tượng này là những tác phẩm độc đáo vào bậc nhất của điêu khắc cổ điển Việt Nam. Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương được rút từ tập thơ: Bài thơ cuộc đời (1963). Thưa nhà thơ, thơ cách mạng, nhất là thơ ca viết vào những năm đầu thập kỷ sáu mươi, chủ yếu thể hiện tinh thần phơi phới của một đất nước vừa viết nên trang sử hào hùng Điện Biên, đang hăng hái lao vào sản xuất xây dựng đất nước và chi viện cho miền nam yêu thương còn đầy bóng giặc. Khi đó, nhân vật yêu thích của thơ ca là anh chiến sĩ giải phóng hay công nhân, xã viên hợp tác say mê nao động. Trong bối cảnh đó, chất liệu để làm nên Các vị La Hán chùa Tây Phương lại khác hẳn. Nhà thơ còn nhớ bài thơ được hình thành như thế nào? Nhà thơ Huy Cận: Bài thơ này cả ý tưởng lẫn đề tài không hề ngẫu hứng như bài thơ khác. Tôi đã “nặmg lòng” với bài thơ này 20 năm, từ năm 1940 khi ý tưởng về nó bắt đầu manh nha cho đến khi được viết ra năm 1960. Suốt 20 năm tôi trằn trọc và nung nấu nó. Năm 1940, tập Lửa Thiêng xuất bản được ít lâu, một nhóm bạn rủ tôi đi thăm chùa Tây Phương, nhóm gồm có Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, Nguyễn Đỗ Cung. Khi đó tôi là một thanh niên nhưng lại rất thích đi thăm chùa chiền, nhà thờ… Nhà thơ Huy Cận Dường như bấy giờ tôi nhận thức được rằng đó là những nét văn hóa lớn của dân tộc mà không kẻ giặc nào có thể cướp đi. Việc đi thăm chùa chiền có ý nghĩa như cuộc hành hương về cội nguồn. Trước khi đến chùa Tây Phương tôi đã đi thăm một số chùa khác, nhưng khi đến đây tôi cảm động bởi kiến trúc độc đáo của chùa và đặc biệt là 18 pho tượng La Hán bằng gỗ. Mỗi pho tượng là một phong cách điêu khắc lạ lùng và khi nhóm lại với nhau tạo ra một khung cảnh thật ấn tượng.· Nhưng ấn tượng ban đầu ấy dường như không đủ với nhà thơ, dù rằng ấn tượng đó hầu như bao giờ cũng làm cho thi sĩ xuất ngôn. Điều gì đã khiến cho nhà thơ phải mang ấn tượng về các tượng La Hán suốt 20 năm trời? Nhà thơ Huy Cận: Đi thăm chùa về tôi lập tức ghi ý tưởng vào sổ tay (Các vị La Hán chùa Tây Phương – Nỗi đau khổ của cha ông). Nhưng nếu chỉ dừng lại ở ý tưởng đó thôi thì tôi thấy không yên ổn lắm và bài thơ không thành là vì thế. Nỗi đau khổ ấy sẽ tìm thấy lối thoát ở đâu? Đấy là câu hỏi của tôi trong suốt 20 năm sau đó. Năm 1960, tôi đi học trường chính trị cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Cuối năm ấy có một số bạn bè Trung Quốc sang thăm. Tôi và một số người khác mời họ đi thăm chùa Tây Phương. Đấy là lần thứ hai tôi đến chùa. Ấn tượng vẫn còn mới nguyên như hai mươi năm trước. Tôi viết một mạch bài thơ trong đêm 27-12-1960. Nếu chỉ viết về nỗi đau đời, quằn quại của cha ông thì không đủ. Bởi lẽ cái đau ấy là cái đau tuyệt vọng không lối thoát, dù có đau đớn bao nhiêu cuộc sống vẫn không thể tươi sáng lên được. Nếu bài thơ dừng ở đấy thì thơ cũng sẽ thành tối tăm, tuyệt vọng. Nhiệm vụ của bài thơ là chỉ nỗi ra được nỗi đau tuyệt vọng ấy, đồng thời phải tìm ra được lối đi, phương pháp giải quyết cho nó. Cho nên khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng cuộc đời mới ở miền Bắc, tôi mới làm nốt được phần sau bài thơ. Xã hội bấy giờ đã giúp tôi, chỉ rõ cho tôi rằng chỉ có cách mạng giải phóng dân tộc mới là lối thoát cho những đau khổ của cha ông và của chính tôi nữa. Tôi nhập vào tâm sự của cha ông và tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm đau khổ. Cách mạng đến không chỉ giải thoát cho tôi, cho những người đang sống mà còn giải thoát cho các giá trị tinh thần của cha ông đang bị giày xéo. Các vị La Hán chùa Tây Phương Tôi đến thăm về lòng vấn vương Há chẳng phải đây là xứ Phật Mà sao ai lấy mặt đau thương? La Hán tên đầy đủ gọi là A La Hán, phiên âm tiếng hán từ một gốc Sangkrit – Ngôn ngữ cổ của Ấn Độ, thứ ngôn ngữ viết nên bản kinh Phật mà tinh thần của nó hầu như chiếm trọn các nước Á Đông. Các La Hán là những người chăm lo tu tập, khổ luyện tinh thần, nhằm cắt đứt mọi ham muốn nơi cõi đời để đạt đến tinh thần tự do – tức là Niết Bàn như Phật dạy. Sự cố gắng hành xác, sống khắc khổ của các vị được tạc thành tượng để làm gương cho người đời sau. Cái cố gắng của con người vượt lên chính bản thân mình thật đáng khâm phục. Nhưng ngay khổ thơ đầu, bài thơ đã dự báo một vẻ đau đớn, thất bại của họ. Tại sao nhà thơ lại bắt đầu bằng khổ thơ này? Chùa Tây Phương Nhà thơ Huy Cận: Vì viết về chùa chiền, là nơi linh thiêng, mờ ảo, nên tôi chọn cách vào đề thật giản dị: “Các vị La Hán chùa Tây Phương / Tôi đến thăm về lòng vấn vương”, để cho bớt cái vẻ huyền ảo đi. Nhưng những câu thơ này tả thực tâm trạng của tôi mà không cần sự trợ giúp của các thủ thuật khác. Xứ Phật, nơi trong ý nghĩa của kinh sách, cũng như trong tín ngưỡng của người dân chúng ta là một nơi yên bình, hạnh phúc vĩnh viễn, không có đau khổ, không có chết chóc, tất cả sống trong cực lạc. Nhưng khi nhìn những mặt tượng đau đớn khổ sở đó rõ ràng bất kỳ người nào cũng phải thốt lên:Há chẳng phải đây là xứ Phật Mà sao ai nấy mặt đau thương? Xứ Phật xa vời, mơ hồ nào đó không ai biết nhưng đau khổ thì được thể hiện rõ ràng, minh bạch đường nét, hình khối hẳn hoi. Phải chăng có điều gì ẩn giấu dưới tất cả vẻ mặt ấy? Cái khiến cho các vị được hưởng phúc lại phải mở ra tất cả những đau đớn tinh thần thế này? La Hán không giống như Bồ Tát cứu nhân độ thế, La Hán chỉ tự cứu lấy mình mà dường như vẫn không tự cứu được. Vì đâu có tất cả những nỗi đau khổ triền miên đó? Câu chuyện của cuộc sống, nỗi đau khổ của cuộc sống bắt nguồn từ đây. · Đây vị xương trần chân với tay Có chi thiêu đốt tấm thân gầy Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt Tự bấy ngồi y cho đến nay Khổ thơ này miêu tả rõ hơn ấn tượng “vấn vương của thi sĩ”. Cái nỗi đau khổ hành hạ da thịt “xương trần chân với tay” khiến người đọc liên tưởng đến tất cả những kiếp sống đọa đày. Trong một câu thơ nếu có hai từ độc lập đứng liền nhau và láy âm với nhau thì nghĩa của chúng cũng bồi đắp cho nhau. Ở câu thơ đầu khổ ta nhận được điều đó giữa “xương trần chân với tay”, khiến câu thơ như có vẻ lột tả hết được nỗi đau khổ da thịt. Nhưng trong khổ thơ ý nghĩa của từ “tự bấy” là không rõ ràng? Nhà thơ Huy Cận: “Tự bấy” không nên hiểu thô thiển theo ý nghĩa thời gian kể từ khi bức tượng được tạc nên. Trong tiếng Việt, chữ “tự bấy” có một ý nghĩa rất hay, nó diễn tả ý nghĩa thuộc về các giá trị nền tảng. “Tự bấy ngồi y cho đến nay”. Nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh luôn luôn được thể hiện qua các thời đại. Nó như một ngọn lửa vô hình thiêu đốt con người. Nỗi đau khổ gì? Tất nhiên các khổ thơ tiếp theo sẽ giải thích cho độc giả. Những ấn tượng đầu tiên về những nỗi đau khổ của con người chính là ấn tượng về nỗi đau thân xác. Đã “thân gầy” còn thêm những con mắt hốc hác với dáng vẻ “trầm ngâm”. Ở đây chữ “trầm ngâm” tưởng như không thích hợp, vì nếu người ta đau đớn về thân xác người ta thường la hét lên cho giảm bớt đi. Nhưng không, cái nỗi đau ấy con người chịu đựng đã lâu quá rồi, chịu đựng qua nhiều thời gian, từ muôn kiếp trước cho đến khi tác giả bắt gặp. Cùng với thời gian nỗi đau khổ đã đào sâu và lặn chìm ấp ủ trong lòng mỗi người. · Có vị mắt giương mày nhíu xệch Trán như nổi sóng biển luân hồi Môi cong chua chát tâm hồn héo Gân vặn bàn tay mạch máu sôi Ở khổ thơ tiếp theo này, tác giả mô tả nỗi đau tinh thần. Dường như nỗi đau tinh thần này còn mạnh mẽ, nhức nhối hơn nỗi đau thể xác. “Luân hồi” xét theo ý nghĩa chung là con người sống hết cuộc sống này sẽ lại đầu thai vào cuộc sống khác, nhưng ở trong câu thơ chữ “luân hồi” được hiểu như sự dằn vặt, sự trở lại, lớp lớp không ngừng của đau khổ. Hai vị La Hán trong chùa Tây Phương Nhà thơ Huy Cận: Ở đây các hình ảnh đều nhắc nhở đến nỗi đau khổ của tinh thần. Nỗi đau biểu hiện ở “mắt giương”, “mày nhíu xệch”, “môi cong chua chát”. Bởi vì khuôn mặt là nơi biểu hiện đầy đủ nhất của tâm hồn con người. Không chỉ riêng “trán như nổi sóng” đau khổ mà toàn bộ khuôn mặt là một biển đau khổ không nguôi. Đau khổ tuôn trong mạch máu và giày vò cơ thể, tất cả là một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Nhưng ngoài nỗi đau thể xác và tinh thần ra, còn một nỗi đau khổ mang hơi hướng của tinh thần Phật giáo. Ở khổ thơ thứ tư: Có vị chân tay co xếp lại Tròn xoe tựa thể chiếc thai non Đạo Phật quan niệm, ngay khi sự sống bắt đầu trong tiếng khóc chào đời, con người đã biết hết mọi nỗi đau thương của kiếp sống. Ở đây, trong ba khổ thơ tả thực những pho tượng La Hán cũng làm ý tả thực lại các nỗi đau khổ của con người và cũng là nỗi đau khổ chung của xã hội bấy giờ. Với từng cá nhân con người, đau thương “thiêu đốt tấm thân gầy” họ luôn mang theo “tâm hồn héo”, phải sống trong cuộc sống “nghe đủ chuyện buồn”. Hai khổ thơ trên miêu tả nỗi đau riêng của từng con người cá nhân, nhưng chỉ cần một câu “cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn” ta lập tức hiểu ra đau thương đã trùm lên toàn bộ xã hội. · Các vị ngồi đây trong lặng yên Mà nghe giông bão nổ trăm miền Như từ vực thẳm đời nhân loại Bóng tối đùn ra trận gió đen Chùa chiền luôn gắn liền với vẻ tịch mịch, yên tĩnh. Chỉ cần một chiếc lá rụng cũng làm vang động không gian. Giữa cái không gian yên tĩnh đó hình ảnh thơ “nổ trăm miền” là một sự đối lập. Sự đối lập này làm cho cả hai trạng thái cùng hiện lên rõ nét: Một bên là sự “lặng yên” hình thức và một bên là giông bão của nỗi đau thương thực chất. Nhà thơ Huy Cận: Điều đó được tượng trưng bằng hai câu thơ tiếp theo: Như từ vực thẳm đời nhân loại Bóng tối đùn ra trận gió đen “Bóng tối” trong văn học luôn có nghĩa là đau đớn, tối tăm, vật vã, là những gì đối lập với ánh sáng vui tươi, hạnh phúc. Ngay nơi tịch liêu, anh tĩnh như chùa chiền, nơi cuối cùng để con người bấy giờ hướng tới tìm hạnh phúc thì “giông bão” đau khổ cũng đã nổ ra. Con người tuyệt vọng, mất phương hướng và nhìn thấy “vực thẳm” của đời sống. Nỗi đau khổ của từng cá nhân, từng kiếp sống đã hòa chung vào nỗi đau khổ của “nhân loại”. Cái “đời nhân loại” này được khái quát và cụ thể hơn ở khổ thơ tiếp theo: Cuộc họp lạ lùng trong vật vã Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi Nếu mỗi pho tượng là một vẻ mặt con người với bao đớn đau của phận người thì cuộc họp mặt của các La Hán chính là cuộc họp “trong vật vã” của muôn số phận, muôn thương đau. Mới hay đau thương đã thành bản chất, đã chìm ngập cả xã hội. Điều đó thật khủng khiếp. Bởi vậy nhu cầu giải phóng xã hội là một nhu cầu lớn lao và đã chất chứa từ nhiều thế hệ trước. Và cuộc cách mạng của chúng ta thực sự có ý nghĩa nhân văn khi giải phóng được gánh nặng tinh thần của con người. (Còn nữa)
-
Bí mật trong "Các vị La Hán chùa Tây Phương. (2)Thứ năm, 17/4/2008, 07:00 GMT+7... "Không thể có cách nào để giải thoát nỗi buồn, nghệ sĩ đành gửi gắm nó trên những đường nét chạm khắc. Như vậy cả nghệ thuật cũng cần phải được giải phóng mới có thể vươn tới những giá trị mới mẻ, mới thực sự có ích cho cuộc đời..." · Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Một câu hỏi lớn không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau Trong cuộc họp mặt lạ lùng của những nỗi đau thương hiện thân trong các pho tượng, phải chăng mỗi một trầm luân ấy cũng đã từng bối rối, dằn vặt để tìm cho mình một con đường? Câu thơ khắc tạc những nét thật ấn tượng: “Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau”. Khao khát ghê gớm, nhưng trớ trêu thay mọi sự tìm đường đều lâm vào bế tắc, tuyệt vọng. “Câu hỏi lớn” đã không có lời đáp. Nhà thơ Huy Cận: Câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời là một câu hỏi lớn mà chưa từng có ai trả lời rõ ràng được. “Một câu hỏi lớn không lời đáp”. Chế Lan Viên đặc biệt thích câu thơ này và nhà thơ nhiều lần nhắc đến nó. “Cúi”, “nghiêng”, “ngoảnh sau”, là là những động từ dựng lên nỗi khắc khoải khi quay tám hướng mười phương để tìm ra lời đáp số mệnh của mình. Quả con người đang bị một thúc bách ghê gớm. Nhưng câu hỏi đó, cái ý nghĩa mà con người trăn trở từ ngàn đời thật là một điều khó khăn mà dường như phải mất rất nhiều thời gian người ta cũng chỉ hiểu lờ mờ chút ít. “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp”. Chúng ta phải chú ý đến hình thức câu thơ này. Dấu chấm câu đặt giữa dòng thơ là một điều đặc biệt. “Một câu hỏi lớn”. - dấu chấm dừng câu ở đây tạo cho người đọc cảm giác có đoạn dừng suy ngẫm để nhận ra ngay câu trả lời cho nó là “Không lời đáp”. Tuy nhiên sự không bình thường ở dòng thơ này phải tương ứng với dòng thơ trên. Ở dòng thơ trên tác giả dùng 3 thanh trắc liên tiếp ở giữa câu: “Quay theo tám hướng hỏi trời sâu”. Nếu không nhằm một mục đích nào đó thì việc dùng 3 âm trắc này rất có vẻ “nghịch tai”. Vậy mục đích của tác giả ở đây là gì? Là nhằm nêu bật được nỗi băn khoăn khắc khoải, sự cố gắng đến tuyệt vọng của con người trong khát vọng đi tìm ý nghĩa của cuộc đời. · Chính câu hỏi “không lời đáp” ấy khiến cho bao nhiều kiếp người dằn vặt “cho đến bây giờ mặt vẫn chau”.Có thực trên đường tu đến PhậtTrần gian tìm cởi áo trầm luân Các vị đau theo lòng chúng nhân Ở đây có một câu hỏi của tác giả cho chính tinh thần của Phật giáo. Có phải tu hành là con đường duy nhất để thoát khỏi nỗi đau khổ của đời sống không? Phải chăng không còn con đường nào khác? Tại sao khi đã tìm con đường tự cứu chuộc mình rồi các La Hán vẫn còn đau theo nỗi đau nhân thế? Nhà thơ Huy Cận: Ngay đầu khổ thơ, hai chữ “có thực” đã tỏ rõ thái độ nghi ngờ đối với con đường tu hành rồi. Theo tinh thần Phật giáo, hình hài buồn thảm, nét mặt mang những nét bi thương kia chỉ ở trong quá trình tự tranh đấu để trút bỏ mọi dục vọng để vươn tới sự thanh thản, yên tĩnh vĩnh hằng. Trạng thái đau khổ là trạng thái cuối cùng mà người tu tập phải trải qua. Và trần gian chỉ là nơi tôi luyện, thanh lọc, là nơi người ta sống tạm trước khi tới được Niết Bàn. Đối lập Niết Bàn, cuộc đời tục lụy chỉ là bể khổ và người ta sống trong đó, bị đọa đày như một định mệnh. Tôi không chia sẻ quan điểm này, vì với con người họ chỉ được sống một lần nên đời sống phải là tất cả, và ở đó người ta có đầy đủ khả năng để tìm thấy hạnh phúc. Nhưng bởi vì khi từng cá nhân còn tách biệt với xã hội, với cộng đồng, các cá nhân không tìm đến với nhau để hướng đến con đường giải phóng chung thì mỗi người tất phải chịu một bi kịch. Điều này có lẽ là quan trọng nhất cho “câu hỏi lớn” ở trên. “Bấy nhiêu quằn quại run lần chót” không phải là một câu hỏi mà là lời than thở. Những đời sống riêng rẽ sẽ mãi còn chìm ngập trong mênh mông bể khổ, sẽ lặp đi lặp lại theo “sóng biển luân hồi”. Chỉ đến chừng nào xã hội được giải phóng thì tự những cá nhân sẽ tìm thấy hạnh phúc, sẽ sống cõi Niết Bàn ngay trong nhân quần thân ái của mình. · Nào đây bác thợ cả xưa đâu Sống lại cho tôi hỏi một câu: Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau Tới khổ thơ này, mạch ngầm của bài thơ đã thay đổi hẳn, thi sĩ không còn có vẻ “bàng quan” mô tả nỗi đau khổ của từng kiếp sống nữa, những bức tượng thực làm chất liệu cho bài thơ bị mờ đi. Tâm sự của thi sĩ bắt đầu bùng nổ. Thi sĩ tự vấn hỏi mình, tự vấn hỏi ý nghĩa và giá trị của nghệ thuật: Phải chăng nghệ thuật chỉ miêu tả cuộc sống một cách thờ ơ? Phải chăng nghệ thuật chỉ nhằm minh họa cho một số tư tưởng nào đó, chỉ là những “chuyện Phật kể cho nhau”? Nhà thơ Huy Cận: Đúng! Nghệ thuật không phải miêu tả cuộc sống như vậy. Để trả lời cho những câu hỏi đó và cũng là để hiểu tâm sự của chính tác giả, bạn đọc cần nhận thấy một sự dứt khoát trong ý tưởng ở khổ thơ này. Trong câu thứ tư ở các âm trắc “chuyện Phật kể” nhấn mạnh một lần nữa với dấu hỏi ở cuối câu. Người nghệ sĩ khi tạc những “hình khổ hạnh” ấy hẳn phải thấu hiểu cái đau chung của mọi người. Bởi nếu chỉ biết đau nỗi đau riêng mình thì không thể tạc được nhiều trạng thái đau khổ như thế. “Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?”, người đã nhìn thấy “bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời” đang quằn quại và đau đớn trong cơn “gió bão” của đời sống, của kiếp người. Từ hình hài của những bức tượng, hình ảnh cha ông, hình ảnh những thế hệ trước hiện dần lên trong tâm hồn thi sĩ bằng xương máu. Nghệ thuật có khả năng khơi gợi cảm thông, làm cho người ta thấu hiểu nhau là vì thế. Như vậy, người “thợ cả” xưa đã cảm nhận được nỗi đau khổ của cộng đồng, đã chia sẻ được nỗi đắng cay của người khác. Nhưng cảm nhận, chia sẻ được, tạo nên được các tác phẩm nghệ thuật để lưu danh nỗi niềm ông cha với hậu thế, nhưng cho dù: Nung nấu tâm can, vò võ trán thì Đau đời có cứu được đời đâu Trong câu này, một lần nữa thủ pháp nhấn mạnh vào ba âm trắc giữa câu lại được sử dụng: “Có cứu được” như một lời cảnh tỉnh đối với nghệ thuật. Chúng ta có thể liên hệ tới hoàn cảnh xã hội cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Ví dụ một thiên tài như Nguyễn Du cũng không thể chỉ ra con đường để giải thoát cho nỗi đau khổ của nhân quần lúc bấy giờ… Nhà thơ Huy Cận: Đó chính là điều mà tôi dằn vặt suốt 20 năm trời, thời gian ấp ủ bài thơ này. Để chỉ ra ý nghĩa cuộc sống hiện tại cũng cần phải có nỗi đau nhân thế. Nhưng chỉ chỉ ra thôi thì chưa đủ, mà còn phải tìm được lối đi cho những nỗi đau khổ ấy. Hàng thế kỷ con người bị những gánh nặng tinh thần và cuộc sống là sự “dậm chân một chỗ”. Không một chút hạnh phúc nào soi rọi tới. Bao nhiêu kiếp sống lầm than “sờ soạng” “tìm lối ra” mà vẫn bị chìm đắm, vây bủa trong màu đen của cuộc đời: Có phải thế mà trên tượng Phật Nửa như ám khói, nửa sương tà Không nên hiểu rằng ở đây sương khói phủ mờ tượng Phật mà chính là phủ mờ tâm hồn nghệ sĩ – người tạc tượng. Không thể có cách nào để giải thoát nỗi buồn, nghệ sĩ đành gửi gắm nó trên những đường nét chạm khắc. Như vậy cả nghệ thuật cũng cần phải được giải phóng mới có thể vươn tới những giá trị mới mẻ, mới thực sự có ích cho cuộc đời. Tức là 20 năm trăn trở vì hình ảnh của Các vị La Hán chùa Tây Phương cũng chính là 20 năm chiêm nghiệm về con đường giải phóng của nghệ thuật. Nếu như trong nhiều thế kỷ trước, nghệ thuật bị “nửa như khói ám, nửa sương tà” thì nay sương khói mờ mịt ấy đã được xua đi - “xua bóng hoàng hôn, tản khói sương”, nghệ thuật đã tìm ra con đường tươi sáng. Hai ý thơ đối nhau này nhằm để làm nổi bật, để khẳng định giá trị của đời sống mới, của ánh sáng mới cho nghệ thuật… Nhà thơ Huy Cận: Khi tôi viết bài thơ này, cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt của dân tộc ta vừa kết thúc , Miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng và phục hưng đất nước. Một khí thế háo hức và một tương lai rạng rỡ mở ra trước mắt mỗi người. Cái ấn tượng đau đớn, khốn khổ, sờ soạng, quằn quại, vò võ của những bức tượng là cái ấn tượng đầu tiên khi tôi lên thăm chùa Tây Phương. Nó là ấn tượng đầu tiên và đồng thời cũng là của câu hỏi đằng đẵng theo tôi 20 năm trời. Sau 20 năm tôi trở lại thì “Hôm nay xã hội đã lên đường”, một cuộc sống tươi trẻ đã bắt đầu, tương lai được rộng mở, câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời được giải đáp và tôi có cảm giác như “mặt tượng dường tươi lại”. Tâm sự của nhà thơ lúc ấy “đồng thanh tương ứng” với nhịp sống hân hoan của cuộc đời. Những bước đi vấp ngã, những bi kịch, bế tắc trên con đường đi tìm sự giải phóng và nỗi đau đời của cha ông trong quá khứ đền đáp. Nên tôi viết: Cha ông yêu mến thời xưa cũ Trần trụi đau thương bỗng hóa gần Những bước mất đi trong thớ gỗ Về đây, tươi vạn dặm đường xuân Hai câu kết là một sự liên tưởng thật độc đáo và giàu hình tượng nghệ thuật. Nó được báo hiệu trước từ khi tác giả cảm nhận thấy “mặt tượng dường tươi lại”, “những bước mất đi”, những hạnh phúc đơn sơ mà con người xưa kia chưa được hưởng, những niềm vui của kiếp sống mà cha ông chưa nhận thấy được sống lại và “về đây, tươi vạn dặm đường xuân”. Cuối cùng, nhà thơ có một lời nào cho các độc giả? Nhà thơ Huy Cận: Tôi chỉ có ý nghĩ thế này: Chúng ta nên nghĩ đến các thế hệ trước, nghĩ đến những nỗi đau khổ của cha ông và bằng cách ấy ta càng mến yêu hơn cuộc sống của chúng ta hiện nay. Xin cảm ơn nhà thơ!Trần Thanh (thực hiện) nguồn (vietimes)
-
VinhL thân mến !bạn có tư liệu gì về việc bói bài Tarot không ? Đưa lên đây cho anh em tham khảo với !