-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Những Điều Cần Biết Trong Khi Nhập Thất “Fasting” Để mọi người an tâm trong khi Nhập Thất, chúng tôi cung cấp thêm một số những điều cần biết, những diễn tiến trong cơ thể trong thời gian chúng ta ngưng cung cấp thức ăn và thức uống cho cơ thể. 1/ Những biến cải hóa học và tổ chức trong cơ thể : Trong lúc Nhập Thất, không phải mô nào cũng bị phân tích theo tốc độ như nhau. Những mô quan trọng thì được bảo vệ rất cẩn thận cho đến phút cuối cùng, khi các mô kém quan trọng hơn không còn nữa. Chất mỡ được phân tích trước tiên. Vì thế những người dư thừa mỡ sẽ xuống cân nhanh chóng. Còn tim, phổi, não, thần kinh là những cơ quan trọng yếu của cơ thể không hề bị tổn thương, nghĩa là sinh mạng không bị đe dọa. Về máu huyết thì có thể thay đổi cùng với sự giảm cân. Lượng và phẩm của máu luôn luôn tương ưng với cơ thể lại còn được đổi mới, trẻ hóa sau khi ăn uống trở lại. Bácsĩ Rabagliati chứng minh rằng trong thời gian Nhập Thất hồng huyết cầu chẳng những không giảm mà lại tăng thêm. Còn giáo sư Stengel viết : ”Trong lúc nhịn ăn máu vẫn giữ sự sung túc huyết cầu một cách không ngờ”. Trong buổi nói chuyện ở Chicago, bác sĩ Tilden tuyên bố : ”Nhiều trường hợp bần huyết kinh niên, sau khi nhịn ăn 1 tuần, số hồng huyết cầu tăng lên gấp đôi“. Về da, sau lúc Nhập Thất, trở nên mịn màng hơn, hồng nhuận hơn, chứng tỏ có sự trẻ hóa. Các tì vết, bớt đen, nhăn đều biến mất, chứng tỏ một tình trạng sức khỏe được cải thiện rõ rệt. Xương chẳng những không hề bị hao tổn mà còn bền chắc hơn. Jackson nói : ”Cũng như bộ xương, răng rất bền bỉ trong lúc nhịn ăn. Còn răng lung lay thì trở nên chắc lại”. Thận không hề bị tổn hại do nhịn ăn ngắn ngày. Gan thì mất nước, glycogene và mỡ nên so với các cơ quan khác gan mất nhiều trong lượng trong lúc nhịn ăn hơn các cơ quan khác. Còn phổi lại tỏ ra khỏe hơn, khang kiện hơn. Vì vậy người bị bệnh lao phổi, bệnh suyển kinh niên rất mau lành bệnh nhờ Nhập Thất. Trong thời gian Nhập Thất, trái tim là cơ quan được nghỉ ngơi tốt nhứt vì không còn sự kích thích thường xuyên do ăn uống. Máu được lọc sạch hơn nên cung cấp cho tim các chất tinh túy và bổ dưỡng hơn. Nhờ đó mà người bệnh tim lành bệnh rất nhanh sau Kỳ Thất. Tụy tạng (lá lách) là cơ quan tiết ra insulin, khi nó không làm việc nữa là nguồn gốc phát sinh ra bệnh tiểu đường, trong thời gian Nhập Thất bị mất nước nhiều nên có thể phục hồi để đảm nhận chức năng tiết ra chất insulin. Dạ dày yếu thường mắc chứng khó tiêu sẽ trở lại hoạt động bình thường sau Kỳ Thất. Các bắp thịt, các hạch của dạ dày được cải tạo, sự nhạy cảm do bệnh hoạn mất đi. Dạ dày trở lại co thắt bình thường. Các chỗ lỡ loét tự lành, các viêm nhiễm trong dạ dày bị bài tiết, giúp cho dạ dày hoạt động bình thường, nên sẽ ăn ngon hơn, tiêu hóa tốt hơn. Dĩ nhiên trong thời gian Nhập Thất, cơ thể có mất đi một số chất liệu, không thể bù trừ được bằng khí trời, nhưng do sự mất mát này mà cơ thể mới có cơ hội tái phối trí, lấy bớt chỗ này thừa đem bù sang chỗ kia thiếu, để bảo toàn / Nội tiết và bài tiết : Trong lúc Nhập Thất các chức năng nội tiết ngưng nghỉ hoặc giảm đến mức tối thiểu. Nước bọt tiết ra ít. Có khi nước bọt trở nên hôi hám làm cho ta có cảm giác buồn nôn. Còn dịch vị tiết xuất ít và hơi chua. Trường hợp người bị bệnh tiết nhiều a-xít thì trong các ngày đầu của Kỳ Thất dạ dày vẫn đau, nhưng sẽ giảm dần rồi mất hẳn. Mật tiết ra nhiều trong những ngày đầu để tẩy độc, sau đó lại ngưng xuất tiết. Sữa bị cạn trong lúc Nhập Thất. Mồ hôi thường hôi hám lúc đầu. Và các chứng bệnh xưng phổi kinh niên, suyển, sưng ruột già, viêm mũ, do sau khi Nhập Thất các chất nhớt mũ bị tẩy sạch, nên sẽ lành bệnh. Các chất xuất tiết ở âm hộ, các loại bệnh bạch đái, khí hư, v.v... ở đàn bà được ngưng lại và phân tiết sẽ bình thường trở lại. Các mùi hôi thúi từ cửa mình hoặc từ tử cung do bệnh tật tạo ra cũng chấm dứt. Trong thời gian đầu Nhập Thất, nước tiểu sẫm màu, chứa nhiều a-xít, u-rê, phốt phát, mùi khai và hăng, nhưng dần dần trong lại và ít hôi hơn. Mùi hôi của nước tiểu do khả năng bài tiết được cải thiện tạo ra. Ruột non và ruột già có điều kiện cải thiện các cơ cấu hư hỏng nên bệnh trỉ, sưng ruột non, ruột già, bệnh thương hàn, v.v... đều dần dần biến mất. Có trường hợp không đi cầu. Ta nên cứ tự nhiên cho ruột làm việc không nên súc ruột hoặc uống thuốc xổ để tống xuất một cách giả tạo các chất cặn bã, làm suy yếu cơ thể, đưa đến cảm giác mệt mõi, suy nhược, v.v... 3/ Sự phục hồi các cơ quan : Nhờ được nghỉ ngơi, các vết thương, các ung nhọt kinh niên lành rất mau. Thompson và Mendel nhận thấy rằng sau giai đoạn ngừng nghỉ do không cung cấp ẩm thực, cơ thể lại tái tăng gia phát triển mạnh khi ăn uống trở lại. Nên sau thời gian Nhập Thất, nếu ăn uống như cũ hay ăn nhiều hơn thì cơ thể sẽ tăng trọng trở lại bằng hay cao hơn, và các loại bệnh do tăng trọng dễ trở lại. Điều cần nói là nhờ cơ thể được tái cấu trúc, tế bào được tái tạo nên sau khi ăn uống trở lại cơ thể sẽ trẻ hóa, da dẻ mịn màng hơn, mắt trong sáng hơn, nghị lực tăng cường nhiều hơn. Vì vậy nếu thường xuyên Nhập Thất thì cơ thể sẽ cải thiện, trẻ hóa tế bào… 4/ Sự cải thiện tinh thần và các giác quan : Sau nhiều lần Nhập Thất, khả năng tinh thần và giác quan đều được cải thiện đặc biệt. Về năng lực tinh thần khả năng suy luận, trí nhớ, trí thông minh đều phát triển tốt hơn. Cảm quan, trực giác đều gia tăng. Nhờ Nhập Thất nhiều lần, chúng tôi đã tự học ngành ngọc học một cách dễ dàng và đã giảng dạy môn học này rất lâu, viết khá nhiều sách về ngọc học. Lavanzin nói : ”Trong thời gian nhịn ăn, sức mạnh thể chất không mất mà năng lực tinh thần lại tăng một cách phi thường. Trí nhớ phát triển lạ lùng, trí tưởng tượng phong phú tối đa. Ngay cả trường hợp bệnh điên, bệnh tâm thần cũng chữa lành nhờ Nhập Thất”. 5/ Sự tăng giảm cân lượng : Người mập sụt cân nhanh hơn người gầy và càng hoạt động nhiều càng sụt cân nhanh. Nhưng thời gian Nhập Thất càng dài thì sự sụt cân càng chậm lại. 6/ Vấn đề sinh lý và sinh sản : Vấn đề thường được một số người băn khoăn là sinh lý va sinh sản ảnh hưởng thế nào trong và sau các Kỳ Thất ? Nói cách khác là nếu Nhập Thất nhiều lần thì khả năng sinh lý hay vấn đề sinh con cái có bị suy giảm hay không ? - Xin trả lời ngay là khả năng sinh lý chỉ có sự ngừng nghỉ tạm một thời gian ngắn ban đầu. Sau đó, do năng lượng trở lại tốt hơn, khả năng sinh lý tăng cường rõ rệt. Sự ngừng nghỉ các cơ quan trong thời gian Nhập Thất lại được sự vận khí tăng cường và kích thích, khai mở huyệt đạo vùng tiểu chu thiên làm cho khả năng tình dục tăng thêm, chứ không hề bị yếu đi. 7/ Một vài biến chứng cần biết : Người ta lo ngại rằng nhịp tim và huyết áp có thể thay đổi bất lợi cho sức khỏe trong lúc Nhập Thất. Thực tế, huyết áp và tim mạch thường có sự thay đổi trong lúc mới bắt đầu. Nhưng dần dần sẽ bình thường trở lại và khang kiện hơn. Nếu thấy nhịp tim tăng giảm bất thường thì đó chỉ là sự điều chỉnh, sữa chữa, bồi bổ chỉ có lợi cho sức khỏe mà thôi. Còn huyết áp thì thường giảm, chứ ít khi tăng lên. Nếu có tạm thời tăng lên đôi chút lúc đầu thì đó cũng là sự điều chỉnh cần thiết có lợi, không có gì phải lo sợ. Ngoài nhịp tim và huyết áp, vấn đề thèm ăn, thèm uống cần được hiểu rõ để khỏi thắc mắc. Đại đa số những người đã Nhập Thất có sự hướng dẫn, được vận khí đầy đủ thì sự thèm ăn thèm uống rất ít xảy ra. Tuy nhiên, một vài trường hợp đặc biệt cũng được ghi nhận như sau : Có người thèm ăn thèm uống ngay ngày đầu. Đây là trường hợp người Nhập Thất có thói quen ăn uống nhiều, ăn nhiều thịt và hay uống rượu. Với một số người sự thèm ăn, thèm uống chỉ xảy ra ở ngày thứ hai hoặc thứ ba. Đây là trường hợp người Nhập Thất đã quen ăn thanh đạm hoặc ăn chay. Các triệụ chứng này chỉ nói lên sự thay đổi về thói quen, chớ không ảnh hưởng gì đến sức khỏe. Riêng việc thèm nước thì cần được lưu tâm. Với những người mà cơ thể quá ốm yếu, các tế bào đang thiếu nước thì việc nhịn nước cần phải được uyển chuyển, khác với trường hợp những người có thể chất bình thường hoặc người có thừa nước, người mập phì. Một điều cần lưu tâm nữa là : có sự đói thật và đói giả. Đói giả là cảm giác do thói quen có tính tâm lý. Còn đói thật là do cơ thể đã thật sự cần thức ăn thức uống. Chúng ta chỉ ăn uống khi nào đói khát thật vì nếu để chậm trễ thì sức khỏe và sinh mạng sẽ bị tổn thương. Bác sĩ Claunch nói rằng : ”Khi người ta đói khát mà cảm thấy thoải mái, khoan khoái. Đó là đói khát thật. Còn khi đói khát mà cảm thấy khó chịu, bị dày vò thì đó là sự thèm ăn thèm uống giã tạo”. Dù, ở mặt biểu hiện, bệnh có nhiều loại khác nhau, nhưng tiến trình từ tình trạng khỏe mạnh đến tình trạng bệnh hoạn chỉ có một. Nên tiến trình chữa bệnh, để trở lại tình trạng khỏe mạnh, cũng chỉ có một mà thôi. Nhập Thất theo Pháp môn Tiên Thiên Khí Công là phương cách hữu hiệu để thực hiện tiến trình chữa bệnh này. nguồn vietbao online
-
Niệm Phật Toàn Thân Niệm Phật, đó là một trong những cội nguồn hạnh phúc nhất mà người tu có thể cảm nhận được, tuy là không dễ dàng như nhiều người vẫn tưởng. Nhiều người vẫn cho rằng cần truy tìm các pháp môn phức tạp, khó khăn như Thiền Tông hay Mật Tông, và cho là việc Niệm Phật quá dễ làm, sợ là không đủ thách đố cho quyết tâm của mình. Nhưng câu chuyện không đơn giản như vậy. Mặc dù chúng ta từng đọc các lời Chư Tổ bênh vực cho Pháp Môn Niệm Phật, nhưng vẫn khởi tâm cho rằng việc quá dễ như vậy thì không đúng với khát vọng tu tập của mình. Nói cho cùng, Niệm Phật vẫn không thật là dễ. Trước tiên là phải tín tâm. Không có lòng tin thì hành động không chuyên nhất. Hãy tin sâu vào nhân quả, tất cả mọi biến chuyển trong đời đều do nghiệp lực hóa hiện ra. Đừng nghĩ rằng mình có tài ba mỗi khi thành công, và đừng nghĩ là xui xẻo khi thất bại. Tài năng hay vụng về cũng là do tự mình chuyên học, do cơ duyên và do nghiệp. Thành hay bại cũng là tiếng nói của nghiệp lực thôi. Hãy lắng nghe tiếng nói này. Thứ nhì là tin sâu vào Phật Pháp. Tin rằng đây là con đường giải thoát, và hãy chuyên cần đọc Kinh Phật để thấy gương Chư Phật, Chư Tổ tu học thiết tha, để mang ơn sâu Chư Phật, Chư Bồ Tát đã không thôi từ bi dùng nhiều phương tiện cứu độ, để thấy trách nhiệm của mình cần cứu độ cha mẹ, người thân và chúng sinh các loài. Thứ ba là tin sâu vào Niệm Phật. Phải thấy đây là nguyện lực của Đức Phật A Di Đà muốn đưa chúng sinh cõi này về Phương Tây Cực Lạc. Nếu nghĩ rằng Cực Lạc chỉ là Cõi Huyễn Hóa do Phật phương tiện, thì tại sao không thấy ngay trước mắt rằng các cảnh, các vật cũng chỉ là huyễn hóa, là hoa đốm? Nhưng nếu nghĩ rằng Cực Lạc là Cõi Thật, còn Ta Bà là Cõi Không Thật thì cũng là sai, bởi vì trong Tâm Phật thì ngay tới Thật với Không Thật cũng không có chỗ bám. Tu học cũng cần khởi nghi tâm và từ từ tìm phương tiện giải nghi. Nhiều người nghi rằng Thiền Tông mới là tối thắng, vì là đơn đao nhập cuộc, thấy tánh thành Phật ngay trong một đời. Còn Niệm Phật chỉ là phương tiện. Nếu bạn có lòng nghi này thì cứ nghi cho tận cùng đi, và phải thật tâm tu Thiền. Rồi sẽ tới một lúc bạn thấy rằng, khi bạn khởi tâm Niệm Phật, cảnh giới cũng không khác gì của Thiền. Nếu bạn nghi rằng Mật Tông mới là tối diệu, cứ chọn một pháp môn và trì chú đi, thật tinh chuyên. Khi vào được cảnh giới tâm nào cũng là Tâm Phật, thì bạn sẽ không còn ngờ vực gì chuyện Niệm Phật có rời tâm này hay không. Còn nếu lấy nghi tâm để suy luận vặn vẹo thì là hoàn toàn sai. Khi nghi thì phải thật nghi, và giải nghi không thể bằng lý luận được. Khi nghi thì phải toàn tâm và toàn thân đều là một khối nghi, khi cả lý luận với suy lường đều không khởi lên được mới là thật nghi. Lấy cái nghi tâm này Niệm Phật cũng là một phương tiện. Vấn đề chỉ là, tại sao chúng ta đang trong cơn mộng, mà lại còn thấy có gì là tối thắng với chẳng tối thắng? Khi vào được cái nhìn, thấy rằng trước mắt mọi đền đài, xe cộ, người vật... đều từ mộng mà ra thì tất cả các pháp môn đều không lìa nhau. Đâu phải là chúng ta chỉ mộng trong khi ngủ. Để gợi một phần cảm giác này, bạn hãy nhớ lại những chuyện khi còn nhỏ đi học trường làng, khi đá bóng trong xóm, khi đạp xe giữa phố chợ Sài Gòn... và thấy nó qua đi hệt như giấc mộng. Còn bây giờ, ngồi trước máy điện toán, hay khi xem TV, hay khi đi bộ kinh hành, bạn tin cảnh này là thật sao? Nó cũng chỉ là như ráng nắng ban chiều, như hoa đốm hư không thôi. Các pháp vốn thật bình đẳng, mộng với thực không lìa nhau. Nói cho cùng, cái gọi là thực hay mộng cũng không hề có chỗ bám trong Tâm Phật. Niệm Phật trước tiên là miệng Niệm Phật. Bạn đừng nói điều dữ, điều hại chúng; bởi vì không thể dùng miệng lúc Niệm Phật, lúc Niệm Ma được. Bạn phải ăn chay trường, nếu có thể thu xếp được. Bởi vì ăn thịt chúng sinh mà đòi tự giải thoát cho mình và đòi cứu độ các loài thì là chuyện không thể có. Thêm nữa, đã ăn thịt chúng sinh thì sao còn mở miệng Niệm Phật được. Và bạn hãy niệm tinh chuyên tới chỗ lời nào cũng là lời Niệm Phật, dù khi ứng phó mọi chuyện trong đời, khi nói chuyện điện thoại, khi mở lời đùa giỡn với trẻ em, khi thuyết phục người đừng làm điều dữ, khi năn nỉ người khởi lòng từ bi phóng sinh, khi đau đớn rên la trên giường bệnh... Bất kỳ lời nào thốt ra cũng là lời Niệm Phật, thì đó mới là Niệm Phật. Niệm Phật là tay Niệm Phật. Phải giữ giới, không sát sinh, không trộm cắp, không đánh người, không hạ thủ những điều bất xứng. Nếu miệng Niệm Phật mà tay làm điều không lành, làm hại chúng sinh, thì cũng là hỏng; nghĩa là miệng Phật tay Ma, có nghìn Phật A Di Đà tới trước mặt cũng không cứu nổi. Niệm Phật là chân Niệm Phật. Làm ơn, đừng đưa chân đá người hay giẫm đạp chúng sinh. Làm ơn, hãy đưa chân đi con đường ngay ngắn. Mỗi một bước đi là một chân Niệm Phật. Không cần quán tưởng hay tưởng tượng gì hết. Bạn cứ Niệm Phật tinh chuyên, thì tức nhiên từng bước đi là một dấu ấn của Phật A Di Đà. Niệm Phật là mắt Niệm Phật. Bạn đừng đưa mắt vào các nơi dễ làm loạn tâm, cũng đừng dùng mắt dọa dẫm ai, cũng đừng chơi màn liếc mắt đưa tình. Hãy quên đi những thói quen của thời chưa Niệm Phật. Bạn hãy Niệm Phật cho tinh chuyên, và rồi mắt bạn nhìn tới đâu cũng thấy đó là lời Niệm Phật đang ghi khắp cùng pháp giới. Khi vào phố chợ, cũng đừng khởi tâm cho là mình đang nhìn các giai nhân hay ác phụ; tất cả chỉ là hình bóng trong mơ thôi, và mắt nhìn tới đâu thì tất cả đều biến thành các hóa thân của Phật A Di Đà trong cùng khắp pháp giới. Nhưng đừng quán tưởng hay tưởng tượng khi nhìn bất cứ những gì, bởi vì khi đã trong mộng, thì đừng tạo thêm mộng khác nữa. Cứ tự nhiên Niệm Phật là đủ, thế giới trước mắt sẽ là Phật Cảnh. Niệm Phật là tai Niệm Phật. Đừng bịt tai luyện luân xa, cầu ảo giác; đó chỉ là trò của ma thôi. Cứ để tai tự nhiên nghe lời Niệm Phật, ra tiếng hoặc thầm trong lòng. Đừng để tai rơi vào các thói quen chưa tu, khi lòng phân biệt điều ưa nghe, điều ghét nghe. Mặc kệ mọi chuyện. Dù bạn có cố ý nghe hay vô tâm nghe, thì Tánh Nghe vẫn hiển hiện. Dù là hai bàn tay vỗ, hay một bàn tay vỗ, thì Tánh Nghe vẫn hiển hiện. Nên cứ để mặc cho nó hiển lộng. Cũng đừng lựa chọn điều này để nghe, điều kia để bỏ. Cứ tự nhiên nhi nhiên. Hãy niệm cho tinh chuyên, sẽ tới một lúc âm thanh nào cũng là lời Niệm Phật, dù là bạn có đi giữa phố chợ, nghe mắng mỏ, vân vân. Đừng nghĩ đó là ảo tưởng hay ảo giác hay thực tướng... Tất cả chỉ là trong mộng mà tu thôi. Nhưng lìa mộng này thì không có cảnh giới Phật. Sóng chỉ là nước, và nước chính là sóng. Tánh không lìa Tướng, và Tướng không lìa Tánh. Niệm Phật là Toàn Thân Niệm Phật. Bất kỳ phân vuông da thịt nào trên cơ thể của bạn cũng đều đang Niệm Phật. Đừng quán tưởng hay tưởng tượng hình dung gì. Cảnh giới đó sẽ tự nhiên hiện ra. Móng tay, móng chân, cùi chỏ, đầu gối, ngực, lưng, đầu, bụng... của bạn nơi nào cũng đang Niệm Phật. Gắn bó với Niệm Phật thì toàn thân sẽ thành một Khối không lìa. Bất kỳ một cử chỉ, một động đậy nào trong cơ thể bạn cũng sẽ là lời Niệm Phật chuyển động. Và khi bạn đi, thì đó là đi Niệm Phật. Khi bạn ngồi, thì đó là ngồi Niệm Phật. Bạn sẽ thấy hài lòng, khinh khoái, nhưng đừng gắn bó hay ham thích các cảm giác đó. Đã ở trong mộng, mà còn ưa thích gì hay ghét bỏ gì thì đó là tâm chúng sinh, không phải là Tâm Phật mà bạn đang Niệm. Niệm Phật là Niệm Phật Tâm, hay Tâm Niệm Phật. Khi tay chân, thân thể, tai mắt, da thịt đều là một khối với Niệm Phật, thì Tâm bạn cũng đừng khởi phân biệt là Có Niệm Phật hay Không Niệm Phật. Tánh Phật A Di Đà sẽ không rời chúng ta. Mà nói cho cùng, Tánh Phật này có bao giờ rời chúng sinh bao giờ đâu. Mà khi nói rằng có một tâm chúng sinh tìm cầu tới một Tâm Phật thì cũng là hỏng, đó chưa thật là Niệm Phật. Trong Niệm Phật chân thật, chỉ có một Tánh Vắng Lặng, Trong Trẻo, không thể nào biện biệt ra cho được một cái gì gọi là tâm chúng sinh với Tâm Phật. Ngay cả khi bạn không đọc lên câu lục tự Di Đà, hay không cả nghĩ tưởng gì tới câu này, toàn khối Niệm Phật cũng không xa lìa bạn chút nào, thì đó mới là Niệm Phật. Niệm Phật là cực kỳ đơn sơ Niệm Phật, y hệt những bà cụ mù chữ trong làng quê. Hãy cầm xâu chuỗi bồ đề, lần chuỗi tay không lìa, nếu điều kiện sống của bạn cho phép. Lần một hạt chuỗi là một câu Niệm Phật. Hoặc hai câu cũng được. Hoặc không câu nào cũng được. Nhưng với lòng đơn sơ, của người sơ tâm, niệm tới khi thấy toàn thân Niệm Phật, thế là được. Khi nào niệm tới chỗ thấy toàn pháp giới Niệm Phật, thế là được. Và đừng bao giờ lìa câu Niệm Phật này. Kể cả khi nhắm mắt ngủ. Mở mắt hay nhắm mắt, cũng chỉ là mộng. Đi bộ hay nằm ngủ, cũng chỉ là mộng. Niệm Phật hay Không Niệm Phật, cũng chỉ là mộng. Nhưng lìa mộng cũng chẳng có cái Thực. Hạnh phúc chính là, đi trong cuộc đời mà vẫn thấy Toàn Thân Niệm Phật chỉ vì lòng từ bi với chúng sinh. Còn chuyện giải thoát? Khi vào chỗ toàn pháp giới Niệm Phật thì có gì mà cắt lìa giữa cảnh giới giải thoát với cảnh giới chưa giải thoát? Nhưng lìa câu Niệm Phật, sợ là khó thể thấy được những cảnh giới này vậy. (Thư Viện Hoa Sen: http://thuvienhoasen.org) Nguồn vietbao Online
-
Những sắc màu của công lý Chủ nhật, 25/5/2008, 07:20 GMT+7 Công lý - sự công bằng mà con người tìm kiếm và ngưỡng mộ vốn là những tiêu chuẩn ứng xử rất nhân văn từ khi có sự chung sống gia đình và xã hội. Khi con người đông lên, xã hội phân hoá, con người đặt ra cách cư xử mới là uỷ nhiệm cho một cộng đồng cai trị có quyền đặt ra luật và trao cho cộng đồng đó cái quyền hành xử công lý và quy định bằng quốc luật những nguyên tắc về công lý, lẽ công bằng cho những số phận, hoàn cảnh con người vổn rất khác nhau. Không thiếu lúc này, lúc khác, chỗ này, chỗ kia, cán cân công lý, lẽ công bằng đã bị bóp méo và xúc phạm bởi bộ máy mang tên “công lý”. Hệ quả là bất công, thù hận, trả đũa, chống đối, bất hợp tác. Máu gọi máu, làm nhơ màu công lý. Cán cân công lý bị bẻ queo theo các giá trị tự biện. Âu điều đó cũng là do con người. Lỗi không nằm ở pháp luật mà nằm ở quan niệm máy móc của người hành xử chúng khác với “công lý theo luật tự nhiên”. Vụ án tình huống sau đây có thể minh hoạ một cách hiểu về công lý theo luật tự nhiên. Từ một vụ tai nạn Một vụ tai nạn giao thông xảy ra. Hai người chết. Một bà mẹ và đứa con gái chết tức tưởi trong một vụ va chạm mạnh do một thanh niên đua xe ô tô gây ra. Cậu thanh niên thoát chết và trốn biệt tăm. Không có nhân chứng. Vụ án kết thúc bằng báo cáo tai nạn của cảnh sát. Ba bố con của các nạn nhân lùng sục, thuê người điều tra và luật sư để tìm công lý trước Toà. Nhân chứng và vật chứng đã được tìm thấy. Cậu thanh niên 19 tuổi gây tai nạn bị đưa ra trước vành móng ngựa, bị buộc tội giết hai mạng người do cố ý khi đua xe, tổng mức phạt tù 30 năm. Người bố của gia đình bị nạn đã quyết định gặp kẻ gây tai nạn, nghe lời thú tội và hối lỗi tự đáy lòng cậu ta. "Vợ và con tôi đã chết vì sự nhẫn tâm của cậu, họ và tôi đã có công lý, và cậu đang phải trả giá". Gã trai khóc sụt xùi: "Cháu đáng hưởng sự trừng phạt, nếu không ra toà, thì cả cuộc đời còn lại cháu cũng bị trừng phạt kiểu khác". Người bố của gia đình nạn nhân thương thuyết với vị luật sư của mình và của bị cáo để thu xếp kết cục giảm nhẹ cho cậu trai gây tai nạn. "Tôi không chấp nhận điều này, mất bao nhiêu công sức mới có được công lý, và chính anh đã nài nỉ tôi biện hộ để có được công lý hôm nay", bà luật sư của người bị hại nói như vậy. Cơ hội cho người phạm tội Một ngày, ông bố của gia đình các nạn nhân bị gọi tới trường học của đứa con trai út đang bị bệnh trầm lắng sau khi mất mẹ và em - những người duy nhất hiểu nó và là chỗ dựa cho sự cô đơn tuổi trưởng thành của nó. Tại đây, ông bố tận mắt nhìn thấy các trẻ trai trung học đua xe gắn máy vòng quanh trường, vô tư giỡn đùa tính mạng của các bạn chúng. Anh ta đột nhiên chỉ còn nghe thấy các tiếng phanh gấp và "rầm, rầm", bốc cháy dữ dội và phát nổ - hình ảnh của chiếc xe mà vợ con anh ta bị đâm hôm nào. "Bà để học sinh của bà thế này à? Chúng nó đang tập giết người", anh ta hét vào mặt bà hiệu trưởng. "Chúng nó không nghe ai cả, mặc dù tháng nào người ta cũng tới đây giảng về luật giao thông và tai nạn", bà hiệu trưởng bất lực nói. Ông bố lặng lẽ đưa con về trong suy nghĩ "Tại sao không tôn vinh những người đã chết bằng cách cho kẻ gây tại nạn một cơ hội thú tội trước học sinh đồng tuế, sẽ ngăn chặn nhiều cái chết oan ức khác". Ông ta bắt đầu tự thu xếp với kẻ gây ra cái chết của vợ con mình. Một ngày sinh hoạt về chủ đề giao thông tại trường trung học của cậu con trai út, cậu ta thấy bố mình đứng trên bục, nói về nỗi đau của gia đình và chỉ tay vào kẻ gây án ngồi ở một góc khuất: “Hãy nghe anh ta nói!”. Cậu trai gây tai nạn lúng túng đứng lên trước lũ trẻ không quen biết và hối hận: "Tha lỗi cho tôi, một ngày tỉnh dậy, tôi đồng ý đua xe với bạn, khi đèn xanh bật lên, tôi thấy bồng bềnh như đang bay, thấy mọi người ngưỡng mộ, thấy mình có ý nghĩa biết bao... rồi rầm một cái, tôi đã huỷ hoại cuộc sống của năm người, kể cả bố mẹ tôi là bảy và nếu các bạn tính cả tôi vào là tám người...". Đứa con út xô ghế chạy khỏi phòng sinh hoạt: "Bố vô cùng tệ, không chịu hỏi ý kiến mình và anh trai, bố vô cảm trước tính mạng mẹ và em, lại đi bạn bè với kẻ giết người". Người con trai cả lờ mờ hiểu ý đồ của bố, nó khuyên em nhưng không được. Thằng em trong cơn tức giận đã đạp xe ra ngoài đường, bị xe ô tô đâm phải, may là còn tính mạng, chỉ bị khâu 12 mũi. Đúng lúc đó, bố nó bận đi diễn thuyết về nạn đua xe cùng cậu trai gây ra cái chết của mẹ và em nó tại một trường trung học khác. Những sắc màu công lý Phiên phúc thẩm rồi cũng đến. Cả ba bố con mất người thân trong vụ đua xe đều đi dự. Trước phút tuyên án giữ nguyên phán quyết sơ thẩm, thẩm phán đã nhận được đề nghị của bên bị hại từ hai luật sư xin đổi tội danh giết người cố ý bằng khinh suất. Do đó được hưởng cải tạo không giam giữ hai năm, tù treo hai năm và buộc lao động công ích 300 giờ đối với cậu trai gây tai nạn bỏ trốn, kèm thêm điều kiện của gia đình người bị hại là tiếp tục đi diễn thuyết tại các trường trung học về hậu quả do đua xe. “Đó là món quà vô giá của công lý đối với cậu”, bà thẩm phán nói. Ba bố con có những người thân bị giết trong vụ đâm xe đều thống nhất trả lời trước báo chí: "Chúng tôi đã có công lý của mình.Vợ, mẹ, con, em của chúng tôi đã không chết vô ích". Đó là công lý tự nhiên. Bà luật sư của ba bố con sững sờ: "Nhờ có ba bố con anh, đến bây giờ tôi mới hiểu thế nào là công lý thật sự"./. Bạn đọc Nguyễn Chí Dũngnguồn tuanvietnamnet.net
-
Chào Mylam ! Nhà của Mylam đã được Phạm Cương va Laido quan tâm , Mylam yên tâm xoay và chỉnh trong điều kiện có thể ! Đừng vì nóng lòng mà thấy gì cũng ứng dụng sẽ bị Loạn khí đấy !
-
Dân trí) - Rất nhiều người đã biết đến phương pháp tắm tương phản nóng lạnh. Tuy nhiên lợi ích của nó đối với cơ thể, cách áp dụng phương pháp này và đối tượng áp dụng phương pháp có lẽ nhiều người chưa rõ. Những điều dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về phương pháp tắm này. Phương pháp tắm tương phản nóng lạnh rất có lợi cho sức khỏe. Dưới tác động của nước nóng, cơ thể của bạn được thư giãn, thả lỏng, còn dưới tác động của nước lạnh, trương lực của các cơ trong cơ thể, độ dẻo dai và đàn hồi của các cơ tăng đáng kể. Dòng nước nóng làm cho các lỗ chân lông ở da nở rộng ra, còn dòng nước lạnh thì ngược lại, làm cho chúng co lại. Kết quả là, các bụi bẩn sẽ thoát ra khỏi các lỗ chân lông trên da. Tắm tương phản nóng lạnh là một phương pháp rất hữu hiệu giúp làm sạch da. Tắm tương phản nóng lạnh có vai trò rất lớn trong việc điều hòa hệ thần kinh. Liệu pháp này giúp cho việc lưu thông máu giữa các bộ phận và các mô trong cơ thể tốt hơn, giúp tăng cường quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Ngoài ra, còn giúp cơ thể loại bỏ những chất bẩn. Sự chênh lệch nhiệt độ giúp cho cơ thể được tôi luyện. Nên thực hiện liệu pháp này vào buổi sáng sau khi tập thể dục. Hãy bắt đầu dội nước ấm (360C) từ cổ khoảng 30 – 40 giây. Sau đó dội nước mát (300C) khoảng 15 – 20 giây. Lặp lại 3 lần. Thời gian đầu khi chưa quen xác định nhiệt độ của nước. Bạn nên dùng thiết bị đo nhiệt độ nước. Sau này, khi đã quen, bạn có thể xác định nhiệt độ nước theo cảm giác của bản thân. Sau khoảng 7 –10 ngày, sự chênh lệch giữa nhiệt độ nước nóng và nước lạnh lạnh nên tăng thêm khoảng 5 0C. Sau khoảng 2,5 – 3 tháng, chênh lệnh nhiệt độ giữa nước nóng và nước lạnh cần phải đạt là 25 – 300C. Lúc này, nước nóng cần đạt khoảng 40 - 500C, còn nước lạnh là 10 - 150C. Theo ý kiến của các chuyên gia, sự chênh lệch nhiệt độ như trên mang lại hiệu quả nhất cho cơ thể. Nên kết thúc liệu bằng cách dội nước lạnh. Tuy nhiên không nên kéo dài đến lúc cơ thể cảm thấy ớn lạnh. Nếu bị nổi da gà trên da, bạn nên hạn chế thực hiện liệu pháp này. Sau khi tắm tương phản nóng lạnh, cần phải xoa bóp cơ thể bằng một chiếc khăn. Nếu bạn thực hiện liệu pháp này đúng cách, bạn sẽ cảm thấy rất thoải mái và sảng khoái. Phương pháp này không nên áp dụng đối với những người có bệnh về huyết áp, xuất huyết não, các bệnh về tim mạch. Nếu bạn muốn thử liệu pháp tắm tương phản nóng lạnh, trước hết bạn nên xin tư vấn của bác sỹ. Hường Anh Theo gen.su nguồn dantri.com
-
Sau khi Hòa Thân chết đi, phủ Hòa Thân được Từ Hi thái hậu tặng cho Cúng Thân vương ( thưởng cho lòng trung thành của ông này trong cuộc dẹp biến cố chính trị ). Sau khi phát hiện ra kho tàng trong 1 hòn giả sơn trong Cúng vương phủ này, Từ hy đã khai quật và phát hiện ra 1 kho tàng bảo vật lớn hơn cả quốc khố của Hòa Thân, trong đó có 1 đôi Kỳ Hươu trấn giữ, từ đấy đôi Kỳ Hươu này lọt vào tay Từ Hy. Các bạn sẽ đặt câu hỏi, vì sao Kỳ hươu trấn giữ mà Hòa Thân sau này vẫn bị xử tội chết - như vậy thì linh nghiệm ở đâu. Xin thưa với tội lớn tày trời, tham ô tài sản lớn hơn cả quốc khố, vậy mà cuối đời sau khi Càn Long băng hà mới bị xử tội chết 1 mình, gia tộc vẫn bình an, thử hổi có phải là phúc trạch lớn đến nhường nào. Với thời bấy giờ, tội này phải diệt tộc rồi, âu cũng là có phước trong họa vậy. Lan man sang sử Tàu nhiều quá, có bác nào thích nói chuyện về sử Ta không vậy, 1 lịch sử cũng oai hùng lắm, kể từ thời Lĩnh Nam Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Có người Trung Quốc hỏi em : Trụ đồng Mã Viện đặt tại đâu và để làm gì ( vì trong sử Trung Quôc đoạn sử này cũng mơ hồ lắm ) có bác nào trả lời giúp em với. Hê hê bác có biết VN ta là đất địa linh nhân kiệt không, văn hóa VN có thua TQ bao giờ đâu. lịch sử VN ta oai Hùng lắm đấy, kỳ hươu thấm vào đâu. Thời An Dương Vương có ngài Lý Thân, là người được cử sang Tàu, giúp Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành, ngài là lưỡng quốc đại tướng quân giúp Tần Thủy Hoàng dẹp tan quân Hung Nô, về sau ngài về nước và mất, TTH phải cho người dựng tượng ngài bằng đồng, đặt lên VLTT, quân Hung Nô tưởng ngài còn sống, không dám xâm phạm Trung Nguyên. Thời Hai Bà Trưng lại càng oai hùng, khởi nghĩa đánh chiếm lại >60 thành trì, xưng là Trưng Vương, lãnh thổ VN kéo dài đến tận Hồ Động Đình ( nơi quốc tổ Lạc Long làm đám cưới với Quốc mẫu Âu Cơ ). Về sau vua Hán Quang Vũ cử Mã Viện ( là tướng tài bậc nhất thời đấy ) đánh dẹp, mà Mã Viện phải dùng đến tận thủ đoạn hạ lưu , cho quân lính cởi truồng đối trận với lực lượng nữ binh của hai Bà nên mới thắng lợi được, và dựng lên trụ đồng Mã Viện, khắc 5 chữ lên đó " Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt ", 1 hình thức trấn yểm để nước Nam không còn sản sinh nữ hào kiệt được nữa ( trụ đồng tượng trưng cho sinh thực khí đàn ông, lại cắm lên huyệt âm tượng đàn bà, hòng trấn yểm - ngày nay trụ đồng Mã Viện đặt ở đâu vẫn là điều nghi vấn cho những người yêu thích sử học. Thời Anh hùng Tiêu Sơn nhà Lý, đã từng xua quân đánh tan kho lương thảo của quân Nam Tống tích trữ trong 10 năm, đập tan chiến lược trữ lương chiếm nước ta của tể tướng Tống Vương An Thạch. Đến đời Trần, thái Sư Trần Thủ Độ, trong cuộc kháng Nguyên thứ nhất, đã đập tan sự kiêu hùng của đoàn Lôi Kỵ Mông Cổ ( trong lịch sử lần đầu tiên Lôi Kỵ Mông Cổ không còn đất dụng võ là tại VN ) và thời An Dương Vương , Cao Cảnh Hầu Cao Lỗ đã phát minh ra Nỏ thần ( liên châu tiễn ), và đời nhà Trần, hậu duệ của ngài đã phát minh ra Lôi Tiễn ( tiền đề cho tên lửa thời nay ), mà về sau, nhà Nguyên đã học hỏi và trang bị cho đoàn Lôi Kỵ vô địch của mình - từ đó Lôi Kỵ Mông Cổ lại càng đáng sợ hơn, vậy mà cuộc xâm lăng lần 2, lần 3 vẫn bị Tiết chế Quốc Công Hưng Đạo Vương đập tan, thử hỏi có oai hùng không bác. Thoát Hoan vì muốn thoát chết, thoát khỏi lôi tiễn, phải chui vào ống đồng chạy trốn. Đời Lê, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã đập tan đoàn quân hùng mạnh của nhà Minh, sau khi chiến thắng đã thả toàn bộ tù binh về nước, thử hỏi trong lịch sử các nước khác có nước nào làm nổi điều này không. lại nói Quang Trung đại đế, ngài là người duy nhất trong lịch sử dám cử sứ sang TQ gặp vua Càn Long & đưa ra 2 điều kiên : 1. Đòi cưới công chúa con Càn Long. 2. Đòi lại cố thổ VN bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây. Lần cử sứ sang TQ này thực ra là 1 cử chỉ gây hấn của ngài, để có cớ đem quân lên Phương Bắc tranh hùng. Trong lúc sứ đoàn đang tại TQ thì ngài băng hà, thật đáng tiếc làm sao. Người thời đấy vẫn thường nói rằng nếu Quang Trung sống thọ thêm 10 năm nữa, e rằng nước Nam ta sẽ có người làm vua xứ Bắc, tiếc thay. Cuộc đời binh nghiệp của ngài nổi tiếng với 2 chiến dịch Rạch gam - Sài mut ( không biết viết đúng chưa ) đập tan viện binh Xiêm La do Gia Long dẫn về, và cuộc hành binh thần tốc tiêu diệt 30 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống dẫn về. Lý Công Uẩn vốn là nhà sư trên núi Tiêu Sơn, vì vậy nên ngoại sử gọi là triều đại Tiêu Sơn, cũng như nhà Trần gọi là Đông A, vì triết tự theo chữ Hán thì Đông A ghép lại là chữ Trần, triều đại Lĩnh Nam là thời Hai Bà Trưng. Cũng như vậy, nhà Đại Minh do Chu Nguyên Chương sáng lập, họ Chu này vốn là 1 giáo đồ của Minh Giáo Ba Tư, sau cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên, để ghi nhớ công ơn Minh Giáo và giáo chúng, họ Chu đã lấy quốc hiệu lạ Đại Minh. Điều này là lịch sử ghi nhận chứ không phải do em đọc Cô Gái Đồ Long của Kim Dung đâu nha. Còn về quốc hiệu của Đại Thanh, theo 1 anh TQ nói lại : sau khi Mông Cổ thôn tính xong Đại Kim quốc, có 1 bộ phận người Kim trốn thoát được , từ đó sản sinh ra bộ tộc Nữ Chân. Đến thời Minh mạt, bộ tộc này dã tâm thôn tính Trung thổ, nên đã nguyên cứu rất kỹ về văn hóa, binh lực, phong thủy Trung Quốc. Nhờ đó họ giỏi về văn hóa Trung Quốc lắm. Đại Minh vốn thoát thai Minh Giáo, theo ngũ hành thì là Hỏa ( Thánh hỏa lệnh Cô gái Đồ Long đó ) , còn Nữ Chân thì thoát thai từ Đại Kim, về ngũ hành Hỏa khắc Kim, không thể thôn tính được, vì thế bộ tộc Nữ Chân mới lấy hiệu là Đại Thanh, có nghĩa là nước, Thủy khác Hỏa. Bây giờ mọi ngượi đã hiểu bất cứ điều gì, người Trung Hoa đều suy xét đến tính lợi hại, sinh khắc của nó, cho dù là cái tên. Cũng như em mệnh hỏa, mà chạy xe xanh ----> hỏng suốt, hichic Đây là Đức Thắng Môn - Lầu Phong Thủy Đôi sư tử đá và kỳ lân tại Di Hòa Viên Đôi kỳ hươu đặt tại nhà hàng tại Bắc Kinh, luôn luôn hướng ra cổng để chiêu tài, gọi khách Thật ra kiến thức của em hổng nhiều lắm, nếu có chỗ nào không chính xác, kính mong các bậc cao nhân chỉ bảo giùm em ạ Last edited by hungisu : 17-10-2007 at 11:43 AM. nguon thegioivohinh.com
-
Hạnh phúc cũng có nghĩa là bình an, thanh tịnh, nhưng thường ít ai nghĩ đến điều đó. Trái lại là trạng thái bình an, thanh tịnh lại bị coi là “nhàm chán”, “không có gì xảy ra”, là sự vắng mặt của phát triển, sinh động. Mà đâu phải bình an, thanh tịnh có mặt ở khắp mọi nơi. Trạng thái đó rất khó có được nhưng cũng không mấy ai bỏ công kiếm tìm. Vì có lẽ, sự bình an thanh tịnh tựa như thiếu sức sống, như phủ nhận cái Ngã tối thượng của con người. Chỉ có các hành giả tha thiết với đời sống tâm linh mới quan tâm, mới tìm kiếm sự bình an, thanh tịnh. Bản năng tự nhiên của con người là tìm cách tôn vinh mình, trái ngược với một cực đoan khác là lòng tự ti. Những kẻ giàu lòng tự cao, thì khó có thể tìm được sự bình an. Lúc nào họ cũng phải tranh hơn thua với mọi người xung quanh: “Ai làm được điều gì, thì tôi cũng làm được tốt hơn như thế”. Nhưng khi thấy thực tế không phải là thế thì đổi lại là “Bất cứ chuyện gì bạn làm, tôi cũng không thể làm tốt bằng”. Trong cuộc đời, có ai không có lúc phải thừa nhận rằng có những việc mình phải thua kém người khác, dầu đó là quét đường hay viết sách. Mặc cảm tự tôn hay tự ti đều không mang lại sự bình an. Sự phô trương tài năng hay mặc cảm thiếu sót, kém cỏi tài năng đều khiến lòng ta không yên. Lúc nào ta cũng cảm thấy phải tìm kiếm, chờ đợi một kết quả nào đó, qua sự tán thưởng, khen ngợi hay chê bai của người. Khi bị chê bai, trong ta dường như có cả một cuộc chiến tranh, nhưng với lời khen ngợi thì ta lại như một kẻ thắng trận. Trong chiến tranh, không bao giờ có người chiến thắng, chỉ có những kẻ thất bại. Không cần biết ai là người phải ký bản hòa ước trước, cả hai phe đều thua trận. Cũng thế, nếu bạn cảm thấy mình là người chiến thắng, kẻ mạnh hơn, hiểu biết hơn, thông minh hơn, bạn cũng không thể tìm được sự bình an, vì chiến tranh và hòa bình không đi đôi với nhau. Cuối cùng người ta tự hỏi rằng: Có ai thực sự muốn tìm sự bình an? Có ai thực sự tìm được nó không? Ta cần phải quay vào bên trong, soi rõ tâm mới có thể tìm được câu trả lời. Hành động tự vấn này không phải dễ làm. Đối với nhiều người, dường như có một cánh cổng sắt nặng nề đóng kín cửa ngõ tâm. Họ không bao giờ biết được điều gì đang xảy ra bên trong họ. Nhưng tất cả chúng ta đều phải cố gắng tự vấn để xem thật sự mình muốn gì. Trong những cơn hoạn nạn, khi chúng ta không thiết gì về mặc cảm tự tôn hay tự ti, những lúc đó chúng ta thực sự chỉ cầu mong được bình an. Khi lòng xao động hay mặc cảm tự tôn, tự ti đã biến mất, thì điều gì sẽ xảy ra? Có phải lúc đó thực sự chúng ta chỉ mong được bình an? Hay chúng ta mong được trở thành một nhân vật đặc biệt, một người quan trọng, đáng kính? Là một “nhân vật” thì sẽ chẳng bao giờ có bình an. Có một giai thoại thú vị về cây xoài như sau. Một vị vua khi cưỡi ngựa qua rừng. Ngài đã trông thấy một cây xoài trĩu quả. Ngài ra lệnh cho quân hầu: “Tối nay hãy trở lại đây hái tất cả xoài đó cho ta.” Quân lính ra đi và trở về tay không. Họ thưa: “Tâu Bệ hạ, tất cả mọi quả xoài trên cây đều đã bị hái, chẳng còn gì trên cây cả”. Nhà vua cho rằng quân hầu lười biếng không muốn trở lại khu rừng kia, nên Ngài thân hành cưỡi ngựa trở lại đó, và nhà vua đã thấy thay vì một cây xoài tươi đẹp trĩu quả, giờ chỉ là một thân cây xác xơ tội nghiệp. Người ta đã bẻ cả các cành cây để hái quả. Khi nhà vua dong ngựa đi xa hơn tí nữa, ngài đã gặp một cây xoài khác xanh tươi đẹp đẽ với lá cành xum xuê nhưng không có quả trái gì trên cành. Chẳng có ai đến gần cây xòai này. Vì không có trái nên cây xoài được yên thân. Trở về cung điện, nhà vua trao áo mũ, ngai vàng lại cho các quan thần và nói: “Các ngươi hãy giữ gìn quốc gia này, còn ta, ta sẽ vào sống ẩn dật trong rừng kia.” Khi ta không là ai cả và không có gì cả, ta sẽ không sợ bị tấn công, mất mát, ta sẽ có được sự bình an. Cây xoài trĩu quả không có được một phút yên ổn vì ai cũng muốn hái được quả của nó. Vì thế, nếu thật sự muốn được bình an, hãy không là ai cả. Không phải là người quan trọng, cũng không thông minh, đẹp đẽ, nổi tiếng hay giữ chức quyền gì cả. Mà hãy là người khiêm tốn, ít phô trương, không có nhiều cá tính càng tốt. Hãy nhớ cây xoài không trái đã được đứng bình yên, được giữ lại những cành lá xanh tươi của mình để tỏa bóng mát cho người. Không là ai cả, không có nghĩa là không làm gì cả. Chúng ta vẫn hành động nhưng không phô trương tự ngã, không mong muốn lợi lộc. Cây xoài cho bóng mát, chỉ lặng lẽ tỏa bóng mát, đâu có cần ai biết đến. Đó là một đức tính rất cần thiết cho tâm tĩnh lặng. Phần đông chúng ta hoặc ở cực đoan này hoặc ở cực đoan khác, hoặc không làm gì cả, với ý nghĩ rằng: “Không có tôi, xem họ xoay xở thế nào”, hoặc phải nắm quyền lãnh đạo, phát biểu ý kiến này nọ nên khó có được tâm tĩnh lặng. Là một ai đó, có vẻ quan trọng, điều này đã ăn sâu trong suy nghĩ của ta hơn là có được sự bình an. Vì thế, ta cần phải quát sát tâm cẩn thận để biết thật sự ta tìm kiếm điều gì. Ta mong mỏi điều gì trong cuộc sống? Nếu chúng ta muốn làm người quan trọng, muốn được kính trọng, mến yêu, thì cũng phải biết chấp nhận cái giá phải trả. Mọi việc đều có mặt tích cực và tiêu cực của nó, giống như mặt trời có bóng. Nếu muốn được cái này thì phải chấp nhận cái kia, đừng than thở. Nếu chúng ta thực sự muốn tâm được bình an, muốn có nội lực vững chãi thì chúng ta phải từ bỏ ý muốn trở thành một người khác. Như thế ta không phải đánh mất nhân tâm, cái ta mất là lòng ham muốn chứng tỏ sự quan trọng, sự cao siêu của con người đặc biệt mà ta gọi là “cái Tôi”. Tất cả mọi người đều tự coi mình là quan trọng. Nhưng trên trái đất này, có hàng tỉ con người khác, vậy thì có ai là người nghĩ đến chúng ta? Hãy thử đếm xem. Sáu hay tám, hay mười hai, mười lăm trong những con số tỉ này. Có lẽ chúng ta đã phóng đại quá tầm quan trọng của cá nhân mình. Hiểu được như thế, sẽ giúp ta thấy cuộc đời dễ sống hơn. Muốn được là ai đó rất nguy hiểm. Giống như chơi với lửa, sẽ không tránh khỏi bị phỏng tay. Người khác không phải lúc nào cũng ủng hộ ta. Có người đã thành công trong việc trở thành một ai đó, ví dụ những nguyên thủ quốc gia, nhưng họ đã phải nhờ đến các chiến sỹ bảo vệ vì mạng sống của họ luôn bị đe dọa. Giữa bao nhiêu thứ trên đời – tha nhân, cầm thú, vật dụng thiên nhiên hay nhân tạo – chỉ có một thứ ta làm chủ được, đó là tâm của ta. Nếu bạn thật sự muốn trở thành ai đó, hãy trở thành con người hiếm có – người có thể làm chủ được tâm mình. Trở thành một con người như thế, không chỉ là đặc biệt mà còn mang đến cho ta nhiều lợi lộc nhất. Một người như thế sẽ không thể rơi vào bẫy của tội lỗi, cấu uế. Có câu chuyện về ngài Aachan Chah, một vị thiền sư nổi tiếng ở miền đông bắc Thái Lan. Có lần ngài bị phê bình là chứa chất nhất sân hận. Ngài Aachan Chah đã trả lời: “Cũng có thể đúng, nhưng tôi ít sử dụng chúng lắm.” Một câu trả lời như thế phải xuất phát từ một con người hiểu rất rõ về cá tính của mình. Đó là một người không để cho lời nói, ý nghĩ, hành động của mình trở nên bất thiện. Một người như thế mới đúng là một nhân vật, một ai đó. Ngài không cần phải chứng tỏ, hay thanh minh với ai, nếu không muốn nói là ngài không cần phải chứng minh điều gì vì điều đó đã quá rõ ràng. Ngài chỉ có một ước muốn không di dịch – đó là tâm bình an. Khi chúng ta đặt sự bình an của tâm lên hàng đầu, làm điều tâm huyết, thì tất cả mọi ý nghĩ, lời nói hay hành động, đều hướng về đó. Tất cả những gì không đem lại sự bình an cho tâm đều bị hủy bỏ. Tuy nhiên, ta đừng lầm lẫn điều này với việc lúc nào cũng phải là người đúng, là lẽ phải. Có thể người khác sẽ không đồng ý với ta. Nhưng tâm bình an là của riêng ta. Ta sẽ đạt được điều đó nếu ta cố gắng tu tập. (Trích sách Ốc đảo tự thân – Phương pháp luyện tâm thanh tịnh, Tác giả: Ni sư Ayya Khema, Dịch giả: Diệu Liên, Lý Thu Lin, Phát hành: Thái Hà Books & NXB Phương Đông ) nguồn( tuanvietnamnet)
-
Tào Tháo - Người đầu tiên chú giải “Binh pháp Tôn Tử” Thứ sáu, 23/5/2008, 07:00 GMT+7 Ngoài tài nam chinh bắc chiến thống nhất phương Bắc cùng tài năng văn học, Tào Tháo còn có cống hiến to lớn cho cuốn binh thư nổi tiếng nhất của Trung Quốc – “Binh pháp Tôn Tử”. Tào Tháo đã viết lời tựa cho “Binh pháp Tôn tử”, sử gọi là “Nguỵ Vũ Đế chú Tôn tử . Tự”, cũng là người đầu tiên viết lời chú cho cuốn sách này, giúp cuốn sách lưu truyền hậu thế. Đó chính là bản chú sớm nhất của “Binh pháp Tôn tử” hiện đại. Tào Tháo thuộc nằm lòng cuốn sách, lại biết ứng dụng hết sức linh hoạt. Trong cuộc đời binh nghiệp hơn ba mươi năm ròng của ông, tay không rời “Tôn tử”, lâm chiến càng không rời nó. Trong hơn một trăm trận đánh lớn nhỏ, cứ mười trận thì ông phải thắng tới chín, đặt cơ sở vững chắc cho thế cục thượng phong thời Tam quốc và cuối cùng thống nhất toàn quốc. Do vậy, sử sách trong lịch sử gọi Tào Tháo là nhà chính trị và nhà quân sự kiệt xuất. Do bản cổ đại của “Tôn tử” không còn tồn tại đến ngày nay, nên có người cho rằng “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là do Tào Tháo nguỵ tạo nên. Tuy nhiên, năm 1972, bản sách thẻ tre của cuốn “Tôn tử” tìm thấy trong di chỉ lăng mộ thời Tiền Hán ở Lâm Nghi - tỉnh Sơn Đông đã chứng minh “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là bản thực, nhờ vậy mà rửa sạch được tiếng hiềm Tào Tháo nguỵ tạo binh thư. Người chú giải “Tôn tử binh pháp” rất nhiều, phải xếp hạng nhất trong những cuốn binh pháp. Sau Tào Tháo, còn có Mạnh thị (Lương), Đỗ Hữu, Trần Hạo, Lý Thuyên, Đỗ Mục thời Đường, Vương Triết, Giả Lâm, Mai Nghiêu Thần, Hà Diên Tích và Trương Dự thời Tống, tổng cộng có 11 nhà chú “Binh pháp Tôn tử”, trở thành trước tác quân sự trứ danh khắp năm châu. Lời tựa Tào Tháo viết có 197 chữ, muốn nắm được tường tận chỉ cần gói gọn trong 20 chữ trong ấy. Tào Tháo nêu rằng khi dùng “Binh pháp Tôn tử”, người chỉ biết dụng võ thì tất diệt mà kẻ chỉ biết dụng văn cũng vong. Tào Tháo đã thấy được văn trị cần thiết phải kết hợp với đấu tranh vũ trang mới thực hiện được mục đích thống nhất thiên hạ, chỉ nhờ cậy vào vũ lực đơn thuần hay vào văn trị đơn thuần thì bậc quân vương đều khó tránh khỏi bị diệt vong. Trong lời tựa, Tào Tháo chỉ dùng vỏn vẹn có 8 chữ “thẩm kế trọng cử, minh hoạ thâm đồ” làm lời tổng kết cho cao chiêu “vẽ rồng điểm mắt”. Ông cho rằng, nội dung trung tâm của tư tưởng quân sự trong binh pháp Tôn Tử là: nghiên cứu quân sự tường tận lập mưu cho kín kẽ (thẩm kế); thận trọng với từng hành động quân sự (trọng cử); vạch trận đồ rõ ràng (minh hoạ); tính toán sâu xa mọi ý đồ quân sự (thâm đồ). Cuối cùng kết luận là: bất khả tương vu. Cũng tức là không thể cố tình hiểu sai ý ấy đi được. Tào Tháo dốc lòng nghiên cứu, viết nên bản chú văn cho “Binh pháp Tôn Tử” với gần 2 vạn chữ. Ngoài ra, các trước tác quân sự của Tào Tháo cũng nhiều vô vàn, như “Nguỵ Vũ Đế Thái Công âm mưu giải tam quyển”, “Nguỵ Vũ Đế Tư mã binh pháp chú” v..v…, đáng tiếc ngày nay đều đã thất truyền. “Binh pháp Tôn Tử” giúp Tào Tháo thoát hiểm nguy, lập nên nghiệp lớn Ngoài việc chú giải “Binh pháp Tôn Tử”, Tào Tháo còn ứng dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào cuộc đời binh nghiệp, dùng thực tiễn quân sự của ông làm phong phú thêm cuốn sách. Những ví dụ về việc này có rất nhiều, Tào Tháo cũng là nhà quân sự duy nhất dùng “Binh pháp Tôn Tử” để thống nhất thiên hạ trong vô số nhà chú giải kể trên. Bạch Mã giải vây: xa tận chân trời, gần ngay trước mắt Hồi 25, 26 trong "Tam quốc diễn nghĩa" đã phác lại cảnh Quan Vũ chém Nhan Lương giết Văn Xú: Quan Vũ tay cầm Thanh Long đao, ngồi trên ngựa Xích Thố, phóng như bay vào doanh trại Viên Thiệu như đi vào chốn không người. Nhan Lương trở tay không kịp, bị chém nhào xuống ngựa. Văn Xú đấu với Quan Vũ không đầy ba hiệp, bị Quan Vũ cho một đao vào đầu, chém dưới mình ngựa. Ngần ấy uy thần thực quả làm người ta ngưỡng vọng! Nhưng khó hiểu là ở chỗ, đã biết Quan Vũ lợi hại làm vậy, mà tại sao trong khi chiến đấu với Tào Tháo, Quan Vũ lại thua trận mà hàng? Đỗ Mục đời Đường đã thuật lại trận chiến ở Bạch Mã như sau: Tào Tháo cùng Viên Thiệu đụng độ nhau ở Quan Độ, Viên Thiệu phái bọn Quách Đồ, Nhan Lương đánh vào Bạch Mã, lúc bấy giờ người cầm đầu quân Tào là Lưu Diên không trụ được. Viên Thiệu dẫn binh vào Lê Dương (ở phía bắc Hoàng Hà), sắp qua sông. Tào Tháo chuẩn bị phái cứu binh lên phía Bắc, Tuân Du tâu: Tướng quân có thể phái binh đến Diên Tân, làm ra vẻ ta muốn qua sông, Viên Thiệu tất sẽ chạy theo phía Tây để phòng ngự. Lúc bấy giờ quân ta dùng khinh kỵ binh đột nhập vào Bạch Mã, xuất kỳ bất ý là hạ được ngay Nhan Lương. Tào Tháo nghe theo kế ấy, Viên Thiệu nghe tin quân Tào chuẩn bị qua sông thì lưu lại cố thủ bên sông, lại chia quân tới Diên Tân nghênh chiến. Tào Tháo lập tức thân chinh dẫn quân tức tốc tới Bạch Mã, Nhan Lương hoảng kinh thất sắc, Tào Tháo phái Trương Liêu và Quan Vũ tốc chiến vào doanh trại, chém Nhan Lương giải được vây cho Bạch Mã. Kỳ thực, đây chính là chiêu "xa tận chân trời, gần ngay trước mắt" mà Tào Tháo ứng dụng từ "Binh pháp Tôn tử", làm vẻ đánh xa mà thực té thì tấn công vào kẻ địch ở ngay gần. Trận Quan Độ: dùng kế hoả công trong Binh pháp Tôn tử Trận Quan Độ là một trận kinh điển về chiến thuật lấy yếu thắng mạnh của Tào Tháo. Đỗ Hữu đã thuật lại trận ấy như sau: Thủ hạ của Viên Thiệu là Hứu Du ra hàng, tâu với Tào Tháo, quân lương của Viên Thiệu có khoảng hơn vạn xe, được quản lý không chặt chẽ. Nếu dùng khinh kỵ binh tập kích bất ngờ, dùng lửa đốt sạch thì trong không quá ba ngày, Viên Thiệu tất sẽ bại. Tào Tháo cả mừng, chọn ra năm ngàn quân kỵ binh tinh nhuệ, đều dùng cờ phướn của Viên, thổ binh ngậm thẻ gỗ, ngựa rọ mõm im lặng tiến quân, xuất binh từ đường nhỏ, trong tay ôm bó củi buộc chặt. Khi có người hỏi thì trả lời là Viên Thiệu lo Tào Tháo chạy lối sau, phái binh đến phòng bị. Người nghe được tin đó tưởng thật, quân Tào nhờ vậy thuận lợi tới được lương doanh của quân Viên, phóng hoả đốt, doanh trại Viên bỗng chốc đại loạn, đại quân tan vỡ, lương thảo quân bị đều bị đốt rụi. Đây là kế hoả công thứ 3 trong thiên Hoả công của Binh pháp Tôn tử: đốt xe hòm, tức dùng lửa đốt lương thảo quân bị. Thắng lợi trong trận Quan Độ khiến quân Viên đại bại chạy về phía Bắc Hoàng Hà, Viên Thiệu thổ huyết mà chết. Trận Xích Bích: mười hai chữ giúp Tào Tháo thoát nguy chuyển bại thành thắng Tất nhiên, Tào Tháo cũng có những khi chiến bại, trận Xích bích trứ danh là một ví dụ. Tào Tháo bị Hoàng Cái dùng kế hỏa công đốt chiến thuyền liên hoàn trên sông Trường Giang, buộc phải nhanh chóng rút quân đề giảm tổn thất. Khi lựa chọn con đường an toàn là rút quân, Tào Tháo đã quyết đoán chọn Hoa Dung đạo, con đường này nay là Tiềm Giang Tây tỉnh Hồ Bắc. Mấy trăm năm sau khi Tào Tháo đi con đường này, từng có người tới khảo sát Tào Tháo thoát hiểm bằng Hoa Dung đạo cũng là cơ mưu từ trong binh pháp Tôn tử mà ra hay chăng? Nếu mở "Hư thực thiên", chúng ta sẽ đọc được: "Đi ngàn dặm không mỏi mệt, là khi đi giữa chốn không người" (Tào Tháo chú vào đoạn này rằng: xuất binh nơi trống vắng, tránh chỗ phòng thủ, đánh vào chỗ không ngờ) . Tuân Tử cho rằng, hành quân ngàn dặm mà không mỏi mệt ấy là nhờ đi vào giữa chỗ mà kẻ địch không phòng thủ. Tào Tháo lại chú vào để trỏ: xuất quân tới chỗ kẻ địch phòng bị không đủ, tránh chỗ kẻ địch phòng bị nghiêm cẩn, đánh chỗ kẻ địch liệu ý không tới. Thất bại của trận Xích Bích là do Tào Tháo vốn không tính toán hết được, tuy đã đột ngột xuất hiện hoả hoạn không lường trước được, cố gắng ứng phó thất bại để ngăn ngừa những tổn thất to lớn hơn, ấy là nguyên nhân Táo Tháo quyết định đi vào chỗ hiểm nguy này. Mười bốn chữ trong "Binh pháp Tôn tử" cùng 12 chữ mà Tào Tháo chú vào, có lẽ chính là chỗ cao minh hơn hẳn của ông so với Chu Du hay Gia Cát Lượng. Tiễn Bách Tán nói, Tào Tháo bị chủ nghĩa chính thống phong kiến biến thành điển hình của kẻ gian thần đã quá lâu rồi. Quách Mạt Nhược thì cho rằng, Tào Tháo đã làm khuôn mẫu răn dạy cảu kẻ phản diện hơn một ngàn năm. Cho tới tận thế kỷ 21 này, chúng ta cảm nhận được rằng, Tào Tháo có thể xuất hiện đường hoàng với tư cách của một tấm gương chính diện. Tất nhiên, một số khuyết điểm của ông chúng ta cũng có thể lấy đó mà làm gương. So sánh với một số danh nhân trong thời phong kiến, sức hút của Tào Tháo là ở chỗ: văn tài chí tình như Tần Hoàng Hán Vũ, như ngân hà rực rỡ; khí chất văn học hơn cả Đường tông Tống tổ, như vút roi mà băng biển lớn; võ lược văn đạo vượt mọi nhân tài đương thời, thực là người phi thường; chưa giành tột bực danh vọng lên làm bậc đế vương một thời, là kiệt nhân siêu thế. Mao Trạch Đông trong lời bình cuốn "Tư trị thông giám" có viết: "nói Tào Tháo là gian thân mặt trắng, ấy là án oan mà quan niệm chính thống phong kiến làm ra, cái án ấy phải được lật lại". Tích "Quan Vân Trường trọng nghĩa bỏ Tào Mạnh Đức" trong "Tam quốc diễn nghĩa", ấy chỉ là lời của một tiểu thuyết gia, không phải là sự thực lịch sử. Chu Du và Gia Cát Lượng hay những bất cứ trí giả nào khác thời bấy giờ không thể lường được Tào Tháo sẽ chọn con đường Hoa Dung ấy. Tường Châu (Vietimes) dịch từ “Thanh niên báo”
-
Redriver :rolleyes: Tụi em dự định cưới vào tháng 10 AL , mẹ em cũng đã chọn ngày 26/10 AL làm ngày cưới )(em cũng đã đặt nhà hàng ngày này rồi). ) Ngày cưới đã định nhà hàng đã đặt vậy hỏi có thay đổi được gì ?
-
Trước hết cháu nó Cám ơn Cô TT ! Phần Wild chiêm nghiệm thì Quẻ của TT sát với thực tế hơn , thường khi lên 2 quẻ khác nhau ta phải nghiệm xem quẻ nào hợp lý nhất đó sẽ là quẻ đúng ! kinh nghiệm này Wild đã có dịp trao đổi với Chú Thiên Sứ cũng như một sự việc nhưng hỏi ở 2 thời điểm khác nhau thì quẻ tiếp theo sẽ là quẻ gần và hợp cách nhất !
-
Đúng ! Với điều kiện hướng nhà của HC có nhiều tạp khí xấu . Hoặc HC muốn ra khỏi nhà để nhanh chóng rời nhà ( ví dụ : Bán nhà , dời nhà ).
-
Bài viết có thể theo tài liệu xưa hoặc truyền miệng chưa thể hiện sự nghiên cứu 1 cách nghiêm túc . Vấn đề là ĐỒNG TIỀN ngậm ở MIỆNG CÓC và ứng dụng thực tế , hiệu quả như thế nào mấy ai tường tận ! Đồng tiền duy trì ở miệng cóc chỉ có ý nghĩa NGẬM MIỆNG ĂN TIỀN , và như thế thì CÓC chả mở miệng thì sao nhỉ ?
-
Xác ướp của một nữ quý tộc Sài Gòn 00:21:21, 20/05/2008 Tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q.1, TP.HCM, xác ướp của một nữ quý tộc thời Nguyễn đã được trưng bày trong lồng kính suốt 10 năm qua. Tiến sĩ Bá Trung Phụ (ảnh) - Trưởng phòng trưng bày và tuyên truyền của bảo tàng đã cho PV Thanh Niên biết thêm nhiều chi tiết thú vị. * Ông có thể cho biết xác ướp trên đã được phát hiện ở đâu và trong trường hợp nào? Xác ướp này được tìm thấy dưới một ngôi mộ cổ ở xóm Cải (P.8, Q.5, TP.HCM) trong đợt khai quật liên tiếp 16 ngôi mộ cổ quanh vùng để giải tỏa dành đất xây các công trình mới, cách đây 14 năm. Ngôi mộ được xây rất vững chắc bằng một số vật liệu như vôi sống giã nhỏ từ san hô, cát, mật đường mía, than hoạt tính và có thể thêm một số chất khác chưa biết. Tất cả trộn lại thành một hợp chất giúp ngôi mộ "cứng hơn cả bê tông". Vì thế phải vất vả và làm việc cật lực mới đập vỡ được nấm mộ để lộ phần quan quách ra. Trước khi bắt tay vào việc, người ta cũng phải dỡ bỏ những kết cấu được dựng lên quanh nấm mộ với diện tích cả trăm mét vuông, gồm chiếc cổng cao đến 2,4m và dày hơn nửa mét. Cửa ra vào của mộ cũng cao hơn một mét, bên trong có xây nhà mồ, có sân bia, với hai mộ song táng nằm bên nhau, một trong hai mộ này có xác ướp bên dưới. Xác ướp được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Ảnh: G.H Để bảo vệ xác ướp, người xưa đã dùng hợp chất trên đổ thành một khối thống nhất và hết sức rắn chắc bọc từ nấm mộ xuống tới đáy huyệt sâu đến 7 mét. Đó là một khối "thép" đúc lại có khả năng ôm giữ bền chặt xác ướp để bảo đảm tồn tại vượt thời gian, bất chấp mưa nắng trở trời. Khi khai quật mộ, các nhà khảo cổ phải nhờ đến 15 công nhân đục từng mảnh, từng miếng ròng rã suốt 41 ngày mới chạm đến lớp cát dày độ 40 cm phủ lên trên quan quách. Các nhà khảo cổ học có mặt khi đó tại huyệt mộ đã nói gì về mộ địa và xác ướp này? [/i]Phải kể đến ý kiến của vị chủ trì cuộc khai quật là nhà khảo cổ học lão thành Đỗ Đình Truật. Ông có mặt từ đầu đến cuối và là người viết bản báo cáo mô tả đầu tiên về các chi tiết của ngôi mộ và lai lịch xác ướp. Theo đó, bọc ngoài quan tài là chiếc quách bằng gỗ dài 2,2m và cao nửa thước. Toàn bộ quách và quan tài được phủ một lớp sơn ta cổ, rất tốt và rất kín trông giống như một lớp hắc ín. Nhờ lớp sơn ta ấy nên nước bên ngoài không thể ngấm vào được áo quan và ngược lại nước bên trong cũng không ra ngoài được, giữ cho người nằm bên trong ổn định với những dược liệu giữ xác. Ông Truật kể lại, khi vừa mở nắp áo quan thấy có hai chiếc chiếu cói đắp lên trên. Bên dưới là lớp giấy bản dày độ 0,10m đều thấm dung dịch thuốc. Tiếp đó là một tấm lá triệu bằng lụa, còn nguyên, nhưng khá bở, có một dòng chữ ghi tóm tắt về tên họ và sự nghiệp chủ nhân. Tiếc rằng chữ viết trên đó quá phai mờ, không còn đọc rõ được, song còn mấy chữ: "Hoàng gia...". Nhờ đó, các nhà nghiên cứu biết được chủ nhân xác ướp là bà Nguyễn Thị Hiệu, mất vào khoảng 60 tuổi, là một nữ quý tộc dưới thời Nguyễn Đôi hài bên chân xác ướp - Ảnh: G.H Dưới lá triệu là một lớp vải ta có thắt 9 nút, cuối cùng sau lớp vải ấy xuất lộ xác ướp nằm trong một bọc lớn bằng lụa và gấm. Hai chân bà nằm trong bọc còn nguyên vẹn, không rã nát, các ngón chân không long mất ngón, nghĩa là xác bà còn nguyên và được chuyển về nhà lạnh của trường Đại học Y dược TP.HCM nghiên cứu, sau đó đưa về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP.HCM trưng bày đến nay. Để giữ gìn xác ướp, bảo tàng chúng tôi có hợp đồng với cơ quan chuyên ngành y dược có biện pháp bảo quản theo phương pháp y học. Cứ định kỳ, lồng kính sẽ được mở ra và xác ướp sẽ được các chuyên gia tiến hành các biện pháp y học giữ cho lâu dài. * Bên cạnh xác ướp, các đồ tùy táng được chôn theo ra sao? Chôn theo nhiều thứ lắm, như vòng chuỗi, nhẫn đeo tay, lụa vải... Trong đó, có hai chiếc chiếu cói gấp lại còn nguyên và còn rất chắc, không bị mốc ẩm, có hàng trăm xấp giấy để chần đầu và chân tay, tất cả đều được bó tròn như những chiếc gối. Có một lớp vải sô và một lớp lụa gấm quấn quanh xác. Số áo và quần cũng chôn theo với số lượng mỗi thứ 9 cặp, may theo kiểu xưa, rộng và thụng với khuy gài bằng những hạt mã não và kim loại. Vải gấm toàn loại hàng cao cấp tuyệt đẹp là thứ hàng xưa của cung đình thường dùng. Xác ướp đeo một chuỗi hạt bồ đề cho biết bà là một Phật tử. Hai tay đều đeo vòng kim loại quý. Chân mang một đôi hài dài hẹp khoảng 23 cm, rộng độ 12 cm. Đôi chân nhỏ nhắn cho biết chủ nhân xác ướp thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội xưa. Một đôi hài khác có đế làm bằng loại da mịn, thân bằng một loại vải dày tốt giống như loại bố tơ tằm. Trên mỗi đôi hài trang trí hoa văn có hình bông cúc dây bằng vàng với những sợi chỉ vàng may bện thêm vào. Căn cứ vào cách chôn cất với một lăng mộ nguy nga và các đồ tùy táng nói trên, các nhà nghiên cứu cho đây là xác ướp của một nữ quý tộc dưới triều Nguyễn, mất vào khoảng năm 1868. * Nhân trường hợp này, ông có thể cho biết thêm về công việc khai quật các mộ có xác ướp ở Việt Nam từ trước đến nay ? Để trả lời câu hỏi này cần có tầm nhìn bao quát như nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh chẳng hạn. Ông Ninh viết rằng: những cách thức nói trên đã giữ được những ngôi mộ nguyên vẹn cả quan tài và mọi vật chôn theo. Thậm chí cả miếng cau tươi, miếng trầu không, hộp thuốc lào, đều còn đầy đủ, màu sắc gần như khi mới bổ, mới têm. Quần áo, vải vóc, quạt giấy, tràng hạt, quyển kinh mọi thứ đều như không suy suyển. Những tư liệu chân thực của loại mộ này đã giúp rút ra được nhiều kết luận bổ ích về lịch sử. Riêng về xác người chết, mọi bộ phận nguyên vẹn song đều teo đét lại, vành tai còn như một mảnh giấy mỏng, môi co lại lộ rõ cả hai hàm răng, nội tạng co dúm hoặc lép lại thành màng mỏng. Những nhà y học đã nghiên cứu và kết luận rằng: những vi khuẩn yếm khí trong quan tài tuy còn có thể hoạt động, song chỉ một mức độ nhất định rồi bị diệt. Dầu thơm thẩm hút vào mọi bộ phận của cơ thể. Đến một thời gian sự tan rữa bị đình chỉ hoàn toàn, nhưng cũng phải có hàng trăm năm. Sau đó nếu có để xác ra ngoài không khí thì chỉ bị xám lại, khô đét đi chứ không thối rữa nữa. Thiết tưởng những ghi nhận này của ông Ninh đã giúp ích cho việc tìm hiểu thêm về trường hợp xác ướp của một nữ quý tộc thời Nguyễn được mai táng trên đất Sài Gòn xưa vậy. Giao Hưởng nguồn .thanhnienonline
-
Tống Mỹ Linh- Tình yêu thuở học đường và khát vọng quyền lực (Phần 1) 10:51' 17/05/2008 (GMT+7) Từ nhiều năm nay, mỗi khi nhận xét về ba cô con gái nhà họ Tống (Tống Ái Linh, Tống Khánh Linh và Tống Mỹ Linh) người dân Trung Quốc thường nói: "Cô cả yêu tiền, cô hai yêu nước, cô ba yêu quyền”. Ba chị em họ Tống: Tống Khánh Linh (giữa), Tống Ái Linh (trái) và Tống Mỹ Linh (phải). Cô ba ở đây là Tống Mỹ Linh. Với lời ước nguyện đầy tham vọng “Không phải anh hùng quyết không lấy!”, Tống Mỹ Linh dễ dàng từ bỏ mối tình đầu đầy thơ mộng với Lưu Kỷ Văn để cùng sánh vai với Tưởng Giới Thạch, trở thành Đệ nhất phu nhân quyền uy.Đôi nét về mối tình đầu của Tống Mỹ Linh Trước khi gặp Tưởng Giới Thạch, Tống Mỹ Linh đã đem lòng yêu Lưu Kỷ Văn, chàng trai đất Giang Tô có gương mặt thanh tú, phong thái lịch thiệp và lối sống đậm vẻ Tây phương. Cả hai đều du học ở Mỹ: Mỹ Linh học trường Nữ học, còn Kỷ Văn tu nghiệp tại Đại học Havard. Họ gặp nhau, ngay lập tức đôi trai tài gái sắc đã bị cuốn vào vòng xoáy ái tình. Hiện trong hồ sơ lưu trữ của trường Nữ học còn ghi lại: “Cô Tống đã chọn cho mình vị hôn phu tương lai là một lưu học sinh Trung Quốc. Họ sẽ chính thức kết hôn vào một thời điểm hiện còn chưa xác định”. Tuy nhiên, “thời điểm… chưa xác định đó” đã chẳng bao giờ tới! Trở về nước, đã mấy lần Lưu Kỷ Văn đề nghị tổ chức lễ cưới, nhưng cả mấy lần Mỹ Linh đều khéo léo gạt đi. Trong suy xét của cô, Kỷ Văn tuy có nhiều nét đáng yêu song không phải là người chồng lý tưởng, khó có thể đáp ứng được những tham vọng đang chất chứa trong tâm hồn cô lúc đó. Gặp gỡ Tưởng Giới Thạch Năm 1917, khi Mỹ Linh từ Mỹ về đến Thượng Hải thì cả hai người chị của cô đều đã lập gia đình (Tống Ái Linh kết hôn với Khổng Tường Hy, Tống Khánh Linh kết hôn với Tôn Trung Sơn). Lập tức trong gia đình họ Tống, Mỹ Linh trở thành điểm thu hút chói sáng, hấp dẫn nhất. Với dung nhan yêu kiều, lại biết nhiều thứ tiếng, trình độ văn hoá sâu rộng, Mỹ Linh đã chiếm được cảm tình của không ít nhân sĩ, học giả, chính khách thường lưu tới ngôi biệt thự rộng lớn (có cả phòng nhảy) của gia đình cô ở đường Hà Phi - Thượng Hải. So với nhiều người thì Tưởng Giới Thạch biết đến Mỹ Linh hơi… muộn, song đó lại chính là nhân vật vừa biết “tấn công” vừa biết “trường kì mai phục” một cách ngoan cường, bất khuất nhất. Tống Mỹ Linh trong một cuộc gặp với Tưởng Giới Thạch. Lần đầu tiên Tưởng bước chân vào tư dinh nhà họ Tống là một tối tháng 12/1922. Với danh nghĩa người phò tá trung thành của Tôn Trung Sơn, Tưởng được mời tới dự buổi dạ hội đạo Ki-tô do Tống Tử Văn (anh trai Tống Mỹ Linh) tổ chức. Tại đây, Tưởng được giới thiệu làm quen với Tống Mỹ Linh và ngay lập tức, nhan sắc và phong thái của cô tiểu thư họ Tống đã làm Tưởng mê đắm. Và tất nhiên, nếu chiếm được tình cảm và kết hôn với Mỹ Linh - em vợ Tôn Trung Sơn thì còn gì bằng. Nhất là, gia đình họ Tống có tài lực hùng hậu, các anh rể và anh trai của Mỹ Linh đều là người có ảnh hưởng chính trị sâu rộng…Để kết duyên được với Mỹ Linh, một mặt Tưởng khẩn cầu Tôn Trung Sơn (khi đó Tôn Trung Sơn rất có thiện cảm với Tưởng) vận động vợ là Tống Khánh Linh vun vào, mặt khác, Tưởng cũng năng qua lại chỗ Tống Ái Linh, hy vọng trong vai trò chị cả, bà sẽ có tác động phụ trợ. Qua sự sắp xếp của Tống Ái Linh, Tưởng Giới Thạch từ Quảng Châu lên Thượng Hải và gặp Tống Mỹ Linh ở một quán cà phê. Khi Mỹ Linh cúi đầu dùng những ngón tay thon thả xoay xoay tách cà phê thì Tưởng - từ bên kia bàn nắm chặt lấy bàn tay ấy. Là một tướng lĩnh quân sự, Tưởng Giới Thạch có cái bạo dạn, tự tin lạ thường, khác hẳn với sự nhẹ nhàng, điềm đạm của Lưu Kỷ Văn. Mỹ Linh rút mạnh tay ra khỏi tay Tưởng, chăm chú nhìn ông ta, nói rành rẽ: - Tôi không yêu ngài. Tôi đã có chồng chưa cưới. Anh ấy đang học để thi lấy học vị tiến sĩ tại trường Đại học Havard… Chúng tôi đính hôn được 5 năm… Nói đến đó, bỗng nhiên nước mắt Mỹ Linh trào ra. Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa nắm chặt tay Mỹ Linh, nói: - Nàng khóc, cho thấy lòng nàng đang mâu thuẫn. Tôi không thể rút lui, tôi sẽ cạnh tranh với anh ta. - Ngài không thể đoạt được cái mà người ta yêu - Mỹ Linh nghiêm khắc cảnh báo. Tưởng Giới Thạch nói thẳng vào vấn đề: - Anh ta mới chỉ là chồng chưa cưới của nàng, chứ không phải là chồng. Tôi không làm điều gì vi phạm đạo đức. Nàng không thoát khỏi tôi đâu. Tôi nhìn thấy tâm sự của nàng, nàng có biết không? Tôi muốn thống nhất cái đất nước đang chia năm sẻ bảy của chúng ta. Tôi cần một người phụ nữ tốt giúp đỡ tôi và người đó là nàng. Lưu Kỷ Văn cao nhất chỉ có thể trở thành một học giả. Nàng là người thông minh, xin suy cho kỹ! Những lời Tưởng nói đã đánh trúng những điều Mỹ Linh đang còn phân vân. Cùng đặt Kỷ Văn lên bàn cân, rõ ràng Tưởng Giới Thạch nặng hơn nhiều lắm! Theo cuốn Chuyện tình những người nổi tiếng thế giới nguồn lanhdao.net
-
Xem bói chữ các ứng cử viên tổng thống Mỹ 17:24' 19/05/2008 (GMT+7) Hillary rất thông minh nhưng ứng xử có phần lạnh lùng. John McCain là người theo chủ nghĩa lý tưởng, nhưng lại hơi nóng vội. Barack Obama rất có sức hút, song cũng là người bí ẩn, khó nắm bắt. Đó là những phân tích về tính cách thể hiện qua chữ viết tay của 3 ứng của viên tổng thống Mỹ hiện nay. Chữ ký của 3 ứng viên (từ trên xuống): Hillary Clinton, John McCain, Barack Obama Tuy ngành khoa học nghiên cứu về chữ viết tại Mỹ không phổ biến như ở châu Âu song đối với giới truyền thông việc xem xét chữ viết tay hay chữ ký của những người nổi tiếng là một biện pháp hiệu quả để thu hút sự hiếu kỳ của công chúng. Mỗi khi cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ mới bắt đầu, việc xem chữ ký các ứng cử viên luôn là thông tin được nhiều cử tri chờ đợi. Chuyên gia chữ viết có hơn 40 năm kinh nghiệm tại tòa án California Jake Larris cho biết: “Phân tích chữ viết không giống như một trò bói toán nhảm nhí, nó là môn khoa học đòi hỏi sự tinh tế, cẩn trọng là những suy luận logic. Việc xem xét chữ viết của các ứng cử viên giống như việc vén bức màn bí mạt để khám phá nội tâm các chính trị gia đầy bí ẩn này”. Ông cũng nhấn mạnh về sự cần thiết phải nắm những thông tin khác nhau của các ứng cử viên trước khi cuộc bầu cử vào giai đoạn quyết liệt. Các chuyên gia về chữ viết các bang sau khi xem xét độc lập đã gửi những kết quả của mình cho Hiệp hội Báo chí Hoa Kỳ. Và sau đây là kết quả tổng hợp những đánh giá lặp lại nhiều nhất của các chuyên gia: 1. Ứng viên John McCain Ứng cử viên của đảng Cộng hòa được đánh giá là người giàu tham vọng, có một ý chí thép và tinh thần cầu tiến tích cực. Tuy nhiên, ông McCain lại là người dễ bị kích động. Kinh nghiệm 30 năm phục vụ trong quân đội cũng không giúp ông kiềm chế được bản tính nóng nảy của mình. Chữ J của McCain được viết rất bay bướm, thể hiện sự tự phụ và đời sống tình cảm phong phú của ông. Chữ B của tên Barack Obama cũng rất hoa văn cách điệu thể hiện cá tính mạnh mẽ. Hai ứng cử viên này đều có xu hướng viết không rõ họ của mình. Theo các chuyên gia đây là dấu hiệu cho thấy họ đều muốn tách khỏi tầm ảnh hưởng của những người cha của mình, muốn tập trung vào sự nghiệp để có được thành tựu riêng mình trong khi đều ít đả động đến xuất thân gia đình. 2. Ứng viên Barack Obama: Obama có nét chữ rắn rỏi và mang một vẻ riêng biệt. Theo các chuyên gia, chữ ký của ông thể hiện rõ sức mạnh trí tuệ trong khi những chữ viết tay lại chỉ ra tài năng ngoại giao, thuyết phục người khác. Chữ ký của ông rất khó luận, là biểu hiện của việc luôn bảo vệ đời sống riêng tư, không muốn cho công chúng biết quá nhiều về những chi tiết cuộc sống, tình cảm. Việc chữ ký khó nhận biết nhấn mạnh nét bí ẩn mơ hồ của chính trị gia này. Các chữ viết đan xen và được viết liền nét cho thấy ông là một người làm việc nhanh nhạy, có ý chí kiên cường và theo chủ nghĩa thực dụng, không làm những việc vô ích. 3. Ứng viên Hillary Clinton Chữ viết của bà Hillary rõ ràng, tròn trịa nhưng thiếu nhiệt tình và sự mẫn cảm. Hai chữ “l” trong tên của bà tuy đã được giản lược nhưng cũng đều được viết rất rõ ràng, tách biệt. Điều này cho thấy, Hillary có tư duy rất rành mạch. Nhưng chi tiết này cũng cho thấy điểm yếu: tính cách của Hillary không có nét thần bí, dù tư duy của bà rất tốt song khả năng linh cảm của phụ nữ lại không nhạy bén. Các chữ cái đầu được viết hoa khá rõ ràng cho thấy sự cầu toàn của nữ chính khách này, chữ viết đều thẳng cho thấy tính kỷ luật. Một điều đặc biệt là các chuyên gia đều cho rằng chữ ký của Hillary khá nam tính trong khi chữ ký Bill Clinton được đánh giá là nữ tính. Chữ viết còn cho thấy ai là người thuận tay trái. Trong 3 ứng cử viên tranh cử tổng thống trên, chỉ có nữ chính khách Hillary là thuận tay phải, bị nhiều người cho rằng thiếu quyết đoán. Bà đã phản pháo luôn: “Chữ viết không nói lên được nhiều điều. Bản thân con người chúng ta vốn dĩ rất phức tạp". Mỹ Trang Theo Nhật báo thế giới
-
Thầy Tào và câu chuyện thần linh người Tày của A Sáng (Kỳ II) Thứ ba, 20/5/2008, 07:00 GMT+7 ... "Có người sẽ cho rằng tôi bịa đặt khi kể chuyện này, nhưng đó là sự thật – sự thật ấy nhiều người ở quê tôi được chứng kiến. Việc bước qua than hồng mà không bị bỏng nghe có vẻ vô lý, nhưng đó là một bí quyết trung hòa nhiệt độ. Ông tôi bảo, than càng hồng, nhiệt độ càng cao thì càng dễ để trung hòa sức nóng để người bước qua không bị bỏng. Chỉ cần một chút “bua”, thực chất là một loại thuốc được chiết xuất từ mỡ lợn trộn đều với diêm sinh rắc lên đám than hồng và khi bàn chân đặt thật chặt xuống hòn than lập tức nhiệt độ được trung hòa, chỉ mang cảm giác âm ấm. Và cứ thế thoải mái bước qua, nhưng nó chỉ giữ được vài phút sẽ bay hết thuốc và nóng trở lại. Phải thật khéo léo nhắc đám người nhà đi đúng với vết bàn chân của thầy Tào mới không bị bỏng..." Ngày mùa Bước qua sông lửa để sinh ra lần nữa Khi đã nhập quan xong, coi như linh hồn được an toàn. Tuy nhiên, có những người khi mới chết, người nhà không chú ý, hoặc sơ xuất như khóc quá nhiều, nước mắt rơi vào thân xác, để nhiều người đụng chạm, linh hồn phát tán ra ngoài, hoặc mời thầy Tào quá chậm… Vì thế khi lập bài vị không gom đủ linh hồn. Trường hợp này, thầy Tào cần bước vào giới âm, gom đủ linh hồn người chết. Đây là giai đoạn rất khó khăn, cũng chứng tỏ được đẳng cấp và khả năng pháp thuật của thầy Tào. Việc này thường được gọi là phá ngục. Đã rất nhiều lần tôi chứng kiến cảnh ông tôi đi phá ngục. Thông thường ông tôi ngồi thiền, mắt nhắm nghiền, khai mở hết nhãn thần để linh hồn thoát ra khỏi thân xác và bước vào giới âm. Mỗi lần như thế, những đệ tử đi theo cần hết sức thận trọng, tiếng chiêng, tiếng trống thật dũng mãnh, đặc biệt não bạt phải được đánh liên hồi, đến khi thầy Tào mở mắt, nói rằng đã gom được linh hồn mới được phép dừng lại. Cũng rất nhiều lần tôi hỏi, khi bước ra khỏi thân xác thì cái thế giới linh hồn trông như thế nào? Ông tôi vẫn chỉ cười và nói đại loại rằng: khi bước ra khỏi thân xác, thầy Tào cần đem theo mình hai thứ: vũ khí và tiền bạc. Nếu linh hồn cần tìm đang bị chìm ở tầng thấp nhất cũng có nghĩa thầy Tào phải đối mặt với đám linh hồn xấu xa. Chúng luôn vây quanh những linh hồn mới đến, vì thế việc mang theo vũ khí là để xua đuổi chúng. Nếu thầy Tào không đủ pháp thuật sẽ rất khó khăn gom được linh hồn cần tìm. Còn nếu linh hồn cần tìm đang ở tầng rất cao của giới âm, thì việc rải tiền dọc đường được coi như một cách chuộc lại linh hồn cần tìm ấy. Nhưng ông tôi vẫn khuyên rằng, tốt nhất không nên phá ngục vì điều này cần có bản lĩnh và kinh nghiệm. Trong trường hợp, không thể gom đủ linh hồn ngay lúc người mới chết, có thể chờ cho đến khi làm lễ 49 ngày cũng không sao. Vì khi đó, linh hồn ấy đã bắt đầu quen với giới âm, có thể nghe theo tiếng hát của thầy Tào mà về. Tuy nhiên, có những người chết không phải do tuổi tác, hoặc bệnh tật, cái chết của họ do ngoại cảnh tác động như: bị giết, tai nạn… Đặc biệt cái chết ấy lại diễn ra bên ngoài, mà thông thường người ta vẫn gọi: “chết đường, chết chợ”. Những cái chết kiểu này rất khó làm ma cho họ. Hơn nữa thể xác của người chết đã không còn nguyên vẹn nên việc khâm liệm, nhập quan rất khó khăn. Và chỉ những thầy Tào thật cao tay như ông tôi mới làm được. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in cách làm sông lửa của ông nội tôi. Người nhà cần đào một cái rãnh dài chừng hai sải tay người lớn, dưới đó chất đầy than củi, tôi đảm nhiệm việc quạt cho than cháy thật to. Những hòn than đỏ rừng rực, rồi ông tôi bắt đầu làm phép: miệng đọc thần chú, tay trái cầm kiếm, tay phải bắt quyết, bước đi nhịp nhàng, cứ thế ông tôi đi lại bên cái “sông lửa” và càng lúc bước đi càng nhanh, câu thần chú cũng đọc to hơn, cho đến khi những lửa trong sông chuyển màu xanh biếc. Khi đã làm phép xong, ông tôi bỏ dép, cứ thế bước qua “sông lửa” ba lần. Rồi lệnh cho con trưởng của người chết tay cầm bài vị đi đầu, theo sau là đám người nhà, họ lần lượt cởi bỏ hết giày dép, cứ thế chân trần bước qua những hòn than đỏ rực kia. Điều kỳ lạ, họ không hề bị bỏng. Nếu ai đó quá sợ, dẫm trượt lên mép cái rãnh lập tức bị bỏng, còn cứ theo bước chân thầy Tào thì những cục than đỏ rực ấy chỉ mang lại cảm giác âm ấm ở gam bàn chân mà thôi. Về mặt hình thức, đây như một trò ảo thuật, tất cả những người chứng kiến cảnh này đều thót tim vì sợ. Nhưng đây là công đoạn không thể thiếu với những người chết bên ngoài vì khi bài vị được con cháu đưa qua sông lửa, cũng có nghĩa người chết kia được sinh ra một lần nữa, linh hồn người ấy sẽ tinh khôi như một đứa trẻ, mọi tội lỗi, mọi linh hồn vẩn đục đang bám xung quanh sẽ được gột rửa. Như thế mới đủ điều kiện để trở về với tổ tiên và không còn đau đớn! Những đám ma thầy Tào làm sông lửa có rất nhiều người đến xem. Họ đến đa phần vì sự tò mò, nhưng cũng có người đến để tình nguyện được bước theo. Những người tình nguyện bước theo ấy thường là những phụ nữ hiếm muộn con cái, hoặc khó sinh nở. Vì khi họ đi qua khúc sông lửa ấy, mọi tội lỗi của tiền kiếp, hay những âm khí bám quanh họ được gột rửa như thế họ có thể dễ dàng sinh con hơn. Có người sẽ cho rằng tôi bịa đặt khi kể chuyện này, nhưng đó là sự thật – sự thật ấy nhiều người ở quê tôi được chứng kiến. Việc bước qua than hồng mà không bị bỏng nghe có vẻ vô lý, nhưng đó là một bí quyết trung hòa nhiệt độ. Ông tôi bảo, than càng hồng, nhiệt độ càng cao thì càng dễ để trung hòa sức nóng để người bước qua không bị bỏng. Chỉ cần một chút “bua”, thực chất là một loại thuốc được chiết xuất từ mỡ lợn trộn đều với diêm sinh rắc lên đám than hồng và khi bàn chân đặt thật chặt xuống hòn than lập tức nhiệt độ được trung hòa, chỉ mang cảm giác âm ấm. Và cứ thế thoải mái bước qua, nhưng nó chỉ giữ được vài phút sẽ bay hết thuốc và nóng trở lại. Phải thật khéo léo nhắc đám người nhà đi đúng với vết bàn chân của thầy Tào mới không bị bỏng. Việc làm sông lửa và những thủ pháp nghe có vẻ đơn giản như vậy, nhưng không phải thầy Tào nào cũng dám làm. Bài thuốc trung hòa nhiệt độ kia cũng không phải ai cũng làm được, chỉ những người lâu năm trong nghề, biết cách chế tác những gói “bua” như ông tôi mới đủ tự tin để dẫn một đoàn người bước qua những viên than nóng bỏng ấy. Về hình thức như đã nói, nó như một trò ảo thuật, nhưng ở đó mang một triết lý rất sâu xa của dân tộc Tày. Sau này tôi có tham khảo một số tài liệu của Ấn Độ giáo cũng có những tiết mục đi qua lửa để gột lửa linh hồn và làm sạch những tội lỗi. Họ cho rằng, linh hồn của người chết vì ngoại cảnh bị một cú sốc rất mạnh, chẳng bao giờ linh hồn ấy tin mình đã chết, vì vậy cách tốt nhất hãy “làm mới” họ bằng cách qua sông lửa. Chỉ khi ấy linh hồn kia mới yên tâm rời bỏ thế giới trần tục về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông tôi lại đưa ra một triết lý rất riêng của mình rằng, việc một người chết vì ngoại cảnh cũng sẽ gây một cú sốc rất lớn với những người thân. Sự đau khổ ấy không chỉ nằm ở việc xót thương người chết, trong sâu thẳm của họ vẫn nghĩ rằng, người chết có thể đã mắc những sai lầm rất lớn nào đó, hoặc đã làm một điều ác mà bị trừng phạt… Chính những suy nghĩ ấy sẽ dày vò, càng làm họ đau khổ. Và nhiệm vụ của thầy Tào không chỉ là đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ mà còn phải làm vơi đi nỗi đau của người thân, nhẹ nhõm về tinh thần, tin tưởng vào cuộc sống… Ông tôi bảo, đối với thầy Tào việc làm cho người còn sống thấy yên bình cũng quan trọng không kém việc đưa linh hồn người chết về với tổ tiên. Vì rằng, người chết họ sẽ có cuộc sống riêng của họ. Nếu ta làm đúng cách, dẫn họ đi đến nơi cần đến, hát cho họ hiểu được rằng từ nay họ sẽ có một cuộc sống mới thì tất cả sẽ êm đẹp. Nhưng với những người còn sống, đặc biệt là người thân sẽ còn rất đau khổ. Vì thế, hình thức bước qua sông lửa là cách làm tốt nhất để làm dịu nỗi đau kia. Mỗi lứa tuổi sẽ có cách làm ma riêng cho họ Những người chết đã qua bảy mươi tuổi, việc đưa họ về tổ tiên rất nhẹ nhõm, giản đơn. Đám ma kiểu thế cũng rất ít âm khí bây quanh, những linh hồn nặng nề và còn nhiều luyến ái với trần tục cũng không thể làm gì người chết. Bởi họ đã qua bảy mươi tuổi, thân xác kiệt khô, linh hồn cũng không non nớt nên chẳng ai dám làm phiền nhiễu. Kỳ thực những người lớn tuổi, linh hồn của họ thường đã ra khỏi thân xác rất nhiều lần ngay cả khi người ấy còn sống. Đó chính là những giấc mơ, người lớn tuổi thường mộng mị rất nhiều, họ mơ thấy anh em, bè bạn, cha mẹ… chủ yếu là những người đã chết. Chính trong thời khắc đó, hay còn được hiểu suy nghĩ của họ, cũng có nghĩa linh hồn họ đã thoát ra ngoài, bay lượn ở giới âm, gặp gỡ những người thân, cha mẹ, bạn bè… vì thế khi chết đi, linh hồn họ chẳng xa lạ gì với thế giới linh hồn. Mỗi lần đến những đám ma kiểu thế, ông tôi thường hát những bài bùa chú mang nội dung chúc tụng, ngợi ca người chết, kể cho họ nghe những công đức mà khi còn sống họ đã làm được… nói chung rất nhẹ nhõm. Chỉ có những người chết dưới buốn mươi tuổi, mà họ đã lập gia đình, có con cái mới thật sự căng thẳng. Cũng dễ hiểu bởi, những người chết trẻ kia họ đã đủ “tiêu chuẩn” để làm ma vì đã có con cái, nhưng về thể xác lẫn tinh thần của họ còn rất trẻ, chưa bao giờ tinh thần của họ nghĩ đến cái chết, vì vậy sự luyến ái rất nặng nề. Lại thêm đám cô hồn xấu xa bên ngoài luôn rình rập, quấy nhiễu nên âm khí nặng nề. Để làm ma cho họ, ông tôi thường viết rất nhiều lá bùa, bảo đám đệ tử dán khắp nơi. Đám người nhà không được phép khóc nhiều, đặc biệt người vợ (hoặc chồng) phải lánh xa thân xác người chết. Những kẻ nhẹ vía, ốm đau không được đến đám ma vì những người như thế, cái “vách ngăn” của họ với giới âm rất mỏng, họ chỉ cần khóc nhiều sẽ bị mở “vách ngăn”, chẳng hạn như: ngất xỉu, ngủ quên, mệt lả… Chỉ đợi có thế những linh hồn đầy luyến ái sẽ xâm nhập vào họ, quấy nhiễu đời sống trần tục, làm loạn quy luật của âm dương. Những đám ma như thế thường được ông tôi tiến hành các thủ tục rất nhanh, mọi công đoạn sẽ được rút ngắn. Và sau khi đã chôn cất xong người chết, người nhà cần gom tất cả đồ vật của người chết, mọi khăn tang, áo xô, cờ phướn, bùa chú… đều phải hóa. Trong thời gian 49 ngày cũng không có bài vị để thờ vì khi làm ma ông tôi đã lập cho họ một bài vị riêng được gọi là trung giới. Nó được gọi là trung giới vì không được đặt ở trần gian, cũng chẳng ở giới âm mà ở một tầng khác. Sau 49 ngày cái bài vị ấy sẽ được ông tôi cải hóa và linh hồn sẽ bay về với tổ tiên. Mục đích của việc “xóa sạch dấu vết” ấy là để người còn sống quên hẳn người chết. Ông tôi giải thích rằng, những người chết ở lứa tuổi ấy, sẽ để lại cho người sống nỗi nhớ nhung khôn nguôi. Nhưng người sống không thể đau khổ mãi được, vì thế việc để tang sẽ chẳng tốt lành gì. Đặc biệt người vợ (hoặc chồng) có thể sẽ đi bước nữa, tiếp tục phần đời còn lại. Nếu cứ để tang, khóc thương, ám ảnh… những suy nghĩ ấy sẽ đi xuyên qua “vách ngăn” và linh hồn người chết dễ dàng “bắt được”. Như thế làm cho người chết cũng không yên nghỉ mà người sống càng buồn bã hơn. Có những người vợ (hoặc chồng) vì quá đau khổ, lại mời phải thầy Tào không cao tay, làm ẩu mọi công đoạn nên sau đám tang thường mông mị gặp người chết, sự ám ảnh của những giấc mơ làm người còn sống luôn hoảng loạn và có thể phát điên. Cũng rất nhiều lần nhiều người tìm đến ông tôi để xin được cắt mộng. Họ đều nói rằng nếu cứ mộng mị như thế sẽ không thể sống nổi. (Còn nữa) A Sáng (Vietimes)
-
Rất chí lý !
-
Câu chuyện nhỏ về dòng họ mối . 17/05/2008 06:39 (GMT + 7) Mối là một loại côn trùng sống quần cư. Khi phát hiện một con mối ở đâu đó thì không bao lâu ta sẽ thấy xuất hiện cả một đàn. Thức ăn của mối chủ yếu là gỗ, nhất là loại gỗ đã mất đi nhựa đắng bên trong và đang ở quá trình mục nát. Chuyện xảy ra trong một căn nhà sàn nhỏ ở trên sông… (Ảnh nguồn: nativeamericanjobs.com)Chuyện xảy ra trong một căn nhà sàn nhỏ ở trên sông… Một ngày nọ, họ nhà mối đang gặm nhấm thức ăn, đột nhiên có tia sáng lọt vào. Cả đàn lao nhao lên vì cái sự lạ này. Tò mò, mối ta men theo tia sáng chui ra ngoài thì phát hiện trên đầu mình là một bầu trời mênh mông, còn bên dưới là một dòng sông rộng lớn. Lúc này, mối ta nhận ra món ăn khoái khẩu bấy lâu nay của dòng họ mình là những cái trụ bằng gỗ đỡ lấy căn nhà sàn, và cái nơi mà dòng họ đang cư ngụ không chỉ là mấy cái trụ cột như mối tưởng, mà nguyên cả căn nhà nhỏ ở trên sông. Thế là, cả họ nhà mối liền kéo ra bò khắp mọi nơi chiếm trọn căn nhà, hân hoan chia quả thực. Giờ đây, mối ta không chỉ ăn những cái trụ đỡ, ăn lén lút trong bóng tối, mà còn ăn giữa ban ngày, ăn một cách công khai tất cả những gì ăn được trong căn nhà sàn mà dòng họ mối đang cư ngụ. Ngày qua ngày. Một hôm có những dòng nước chảy vào theo đường đục khoét của mối, mới đầu còn thưa thớt, sau tràn ngập khắp mọi nơi trong căn nhà. Mối ta bắt đầu lo lắng. Nguyên bầy đàn tạm ngưng gặm nhắm cùng bò ra bên ngoài để thăm dò, nghe ngóng. Thì ra bầu trời không còn trong trẻo như dòng họ mối ngỡ, mà đang sấm chớp, nổi giông. Nước của những cơn mưa kéo dài thấm vào căn nhà từ lâu vốn đã dột nát, nay thêm xiêu vẹo, hiện trong tình trạng có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Tệ hại nhất là những cái trụ đỡ. Nơi đây bị đục khoét nhiều nhất vì gần mặt nước. Gỗ tại những chỗ này mục ruỗng cho nên mềm, mối rất dễ ăn. Thấy được nguy cơ trước mắt, mối ta không còn cách nào khác là phải họp cả dòng họ lại để bàn cách đối phó. Trong cuộc họp, tất cả đều đồng ý với giải pháp: rời khỏi căn nhà và lên bờ trước khi nhà sập. Nhưng lên bờ như thế nào cho an toàn thì cần phải có thời gian bàn bạc và suy nghĩ. Trong khi chờ bộ tham mưu tìm biện pháp tối ưu, mối chúa ra lệnh “không một con mối nào được gặm nhấm thêm vào căn nhà nữa”, nếu không chấp hành sẽ rất nguy hiểm cho cả bầy đàn. Sau cuộc họp quan trọng trên, nội bộ dòng họ mối chia năm xẻ bảy, phân hóa rõ rệt. Nhóm mối còn tỉnh táo thì cùng ngồi lại với nhau để bàn biện pháp nên qua sông như thế nào ít gây thương tổn nhất cho bầy đàn và cho căn nhà. Nhóm mối thuộc loại lập trường không rõ ràng thì lúc kiên quyết chống đối bọn đục khoét, lúc lại thỏa hiệp với nhóm ham ăn. Lại có nhóm mối đạo đức giả, ngoài miệng thì hô hào chống đối loại mối tiếp tục ăn, nhưng lại thập thò ăn riêng khi có điều kiện. Đáng lên án nhất là nhóm mối có chủ trương vơ vét. Nhóm này nghĩ rằng nếu nhóm của mình không ăn thì nhóm khác cũng ăn, nên ăn dữ dội hơn. Những con mối mập bự, úc núc này còn nghĩ rằng nếu nguy cơ ập xuống với căn nhà sàn nơi cả dòng họ mối đang cư ngụ thì những gì tích lũy được sau khi ăn sẽ giúp chúng đủ sức vượt qua sông nhanh hơn những con mối khác. Khổ nỗi nhóm này lại chiếm đa số trong dòng họ mối, bởi vậy cho nên việc gì đến phải đến… Căn nhà sàn xiêu vẹo đã đổ ập xuống sau một cơn gió nhẹ hều cuối mùa mưa. Diễn biến trong lúc căn nhà sập như sau: Những con mối ăn nhiều nhất nhanh chóng bị chìm xuống nước bởi quá nặng và chết vì tức thì; cá dưới sông được bữa no nê. Những con mối không mập không ốm bởi quan điểm lúc này lúc khác thì sống lay lắt, chìm từ từ để chiêm nghiệm cuộc sống. May mắn nhất là nhóm mối còn chút lương tâm không ham ăn như những nhóm khác. Nhóm này đa số có thân hình thanh mảnh, nhẹ nhàng, vì vậy khi rớt xuống sông đã còn đủ thời gian vớ được thanh gỗ hay chiếc lá. Rồi thời gian sẽ giúp nhóm mối còn chút lương tâm làm lại cuộc đời… Câu chuyện nhỏ về dòng họ mối trong căn nhà sàn ở trên sông là vậy./. TẠ THỊ NGỌC THẢO nguồn Tuanvietnamnet.
-
Quẻ của MC đoán cho cháu Mậu Thìn tốt quá , làm Wild cũng dè dặt chờ đợi 1 , 2 người nữa gieo quẻ tiếp nhưng bây giờ thì bằng lòng với quẻ của MC để có cơ sở phấn khích và gởi lời Cám ơn MC với tất cả những lời chúc thành tựu nhất với Lạc việt Độn toán .
-
Thành tâm đến chùa, đừng phí phạm bằng cách đốt vàng mã Thứ sáu, 16/5/2008, 07:00 GMT+7... "Đạo Phật không có chuyện đi đến chùa phải mua vàng lễ. Ngày xưa Đức Phật là Thái tử, con vua thì thiếu gì vàng bạc? Thế mà Ngài bỏ cung vàng điện bạc để vào trong rừng, ngồi thiền, đắc đạo, cứu độ chúng sinh. Việc đốt vàng mã ảnh hưởng từ Trung Quốc. Trước đây, vua chúa khi băng hà đều chôn theo các cung tần mỹ nữ để xuống âm phủ hầu hạ họ. Từ đó, người ta làm các người giả để thay thế - hình nhân thế mạng. Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi Phật giáo Trung Hoa, cho nên những tín ngưỡng cũng ảnh hưởng từ đó. Việc đốt vàng mã thời nay đang bị lạm dụng quá nhiều..." Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu - Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. - Ảnh: Xuân Anh PV: Theo thượng tọa, mê tín nghĩa là gì? Nghĩa là những điều không đúng mà mình cứ u mê làm theo. Chưa biết đúng sai ra sao mà đã nghe thầy bói phán là mê tín. PV: Tại sao khi đi chùa mọi người phải mang theo lễ tiền, vàng mã? Phải chăng khi mong một điều phúc, họ phải đổi tiền thật lấy tiền giả dâng lên cho Phật để có được điều phúc đó, thưa thượng tọa? Đạo Phật không có chuyện đi đến chùa phải mua vàng lễ. Ngày xưa Đức Phật là Thái tử, con vua thì thiếu gì vàng bạc? Thế mà Ngài bỏ cung vàng điện bạc để vào trong rừng, ngồi thiền, đắc đạo, cứu độ chúng sinh. Việc đốt vàng mã ảnh hưởng từ Trung Quốc. Trước đây, vua chúa khi băng hà đều chôn theo các cung tần mỹ nữ để xuống âm phủ hầu hạ họ. Từ đó, người ta làm các người giả để thay thế - hình nhân thế mạng. Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi Phật giáo Trung Hoa, cho nên những tín ngưỡng cũng ảnh hưởng từ đó. Việc đốt vàng mã thời nay đang bị lạm dụng quá nhiều. PV: Biết là tiền giấy không mua được điều phúc, nhưng người ta vẫn cứ đốt? Tôi cứ nói thế này: Khi các cô đi lấy chồng. Đến ngày giỗ cụ kị, ông bà, mẹ chồng nói: Con ra chợ mua vàng mã, quần áo để cúng cụ. Nếu cô nói: cái này mê tín dị đoan con không mua đâu, thì chắc chắn mẹ chồng sẽ phật ý. PV: Nhưng tục đốt vàng mã vốn là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thể hiện lòng hiếu nghĩa đối với những người sinh ra mình của nhiều dân tộc Đông Nam Á. Đặc biệt ở Việt Nam, không nhà nào là không có bàn thờ. Bản chất của nó là từ niềm tin người sống cũng như người chết trong một gia đình đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong khi, đi chùa là thể hiện niềm tin với một tôn giáo. Không thể so sánh việc đốt vàng mã tại gia với đốt vàng mã ở chùa. Mặt khác, trước bất kỳ cổng chùa nào cũng bày bán la liệt đồ vàng mã, xâu tiền, hoa cúng vàng bạc, thậm chí cả hình nhân thế mạng. Nhà chùa cũng dành riêng một góc để đốt vàng mã. Phải chăng nhà chùa đã gián tiếp ủng hộ việc đốt vàng mã, thưa thượng tọa? Nếu nói ra thì rất khó. Nhà chùa không thể riêng mình diệt tận gốc được. Bởi vì sao? Là phải do bên phụ trách Văn hóa cấm triệt để không cho bán hàng bán vàng mã. Cấm từ nơi sản xuất và nơi bán. Nhưng bên phụ trách Văn hóa không nói gì. Thành ra mỗi một người lên chùa lại mang theo bó hương, vàng mã, hoa quả, áo quần, hình nhân… Chúng tôi cũng rất bức xúc với chuyện này. Chúng tôi có nhiều buổi thuyết giảng với các Phật tử, thậm chí viết những quyển sách phát không cho họ. Nhưng đâu lại vào đấy thôi. Vì đến khi đến chùa họ lại mua lễ. Các cụ già Phật tử còn hiểu được. Nhưng những người buôn bán và thanh niên trẻ thì mua nhiều lễ lắm. Có lễ dày tới 15 cm. Mỗi khi đốt khói bay lên dày đặc, ô nhiễm môi trường. Mọi người hít thở là thấy không khí nặng nề lắm rồi. Nhưng nhà chùa không làm cách nào được. Chẳng lẽ họ đến đây mang theo lễ mình lại từ? Mình không có chỗ đốt để nó bay lung tung cũng không được. Nơi để đốt thực chất dùng đốt những tờ sớ đơn giản. Ai không biết khấn thì nhờ nhà chùa viết cho tờ sớ. Còn vàng mã, ngoài cổng họ vẫn bán thì chúng tôi biết làm sao? Không thể cấm người ta được. PV: Thưa thượng tọa, những buổi thuyết trình khuyên Phật tử hạn chế mê tín dị đoan, điển hình là đốt vàng mã đã có từ lâu chưa, hay mới trong vài năm gần đây? Chúng tôi nói từ lâu rồi. Nhưng thật ra chỉ có những người đã quy Phật mới đến nghe giảng. Tại sao lấy tiền thật để mua tiền giả rồi đem đốt đi? Tôi tính thế này: đi lễ người 3 lễ, người 7 lễ, người 9 lễ. Nếu cộng số tiền đấy lại đi làm công đức thì không nhỏ. Mình mua từ ngòai kia đặt vào ban thờ Phật, Phật cũng chẳng làm chứng cho. PV: Theo thượng tọa tại sao hiện tượng mê tín lẽ ra trong xã hội càng văn minh càng giảm đi thì thực tế ngày càng bị lạm dụng và lan rộng, không chỉ ở những người văn hóa thấp mà còn ở nhiều người tri thức, thậm chí cả các quan chức? Luật nhân quả của Phật giáo nói rất rõ. Làm điều gì xấu mình không thể “đỡ” lại bằng việc đi chùa thường xuyên để cúng tiền, vàng mã. Người giàu cúng 1 triệu cũng có phúc ngang như người nghèo cúng 1 đồng. Mình đến lễ Phật nên với thành tâm của mình, làm theo lời Phật dạy là ăn hiền ở lành. Đa số người đến chùa đều xin tài lộc, may mắn, xin “phong bì”, qua thuế, công an trót lọt… Đức Phật không bao giờ phù hộ những điều như thế. Hàng năm tại Đền Bà chúa Kho không biết bao cán bộ lên đấy, đầu năm vay, cuối năm trả. Mấy năm nay vì bị báo chí “soi” nên đi xe công lên, họ đổi từ biển xanh sang biển trắng. Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu - Ảnh: Xuân Anh PV: Giáo lý của đạo Phật khuyên dạy con người bớt mê tín như thế nào, thưa thượng tọa? Cái này phải tự giác thôi. Con người muốn hiểu biết thì phải tự học. Phật giáo chỉ hướng cho con người có hiếu nghĩa với tổ tiên, ông bà, bố mẹ. Phật ở trong tâm, tâm ở trong Phật. Trước hết, bố mẹ là Phật trong nhà. Thế mà cứ để bố mẹ nằm ốm còng queo mà lên lễ chùa thì không có tác dụng gì. PV: Đức tin của giới trẻ đi chùa bây giờ có gì khác so với thế hệ trước? Tôi nghĩ, đức tin của các cụ ngày xưa nó khác nhiều. Các cụ xưa đi chùa tin tuyệt đối. Bây giờ tôi hoang mang không biết họ có tin hay không nữa, chỉ thấy họ lên chùa rất đông. Lớp trẻ bây giờ hầu như chỉ có việc gì cần như xin lộc, xin thi đỗ đại học, xin có người yêu mới đến lễ chùa. Đi nhiều cũng thành thói quen. Đi lễ có nhiều loại người. Có những người quy Phật, cũng có những doanh nghiệp hay những người làm ăn thất bại, thậm chí là trộm cắp đến lễ... Lớp trẻ bây giờ dù hiện đại đến mấy cũng phải cần có tâm linh. PV: Đến chùa để xin cho mình, ví như xin làm ăn phát đạt, trốn thuế, nhiều quan lộc, sống lâu, ít tai ương…, nghĩa là bản thân người đến xin đã mang trong mình cái “sân” (tham). Thưa thượng tọa, đạo Phật có phù hộ cho con người những thứ mong muốn ích kỷ ấy không? Là do cái tâm của mình. Mình biết sợ như thế thì phải làm những điều thiện, việc tốt. Tâm mình an lành thì mọi việc sẽ an lành. Đó là cái đạo Phật muốn hướng tới cho chúng sinh. Chúng tôi ngồi ở phòng trực lễ này là nghe đủ mọi thứ chuyện. Không thiếu chuyện gì. Chuyện cúng lễ, bói toán, con cái hư hỏng, vợ chồng cãi vã, bỏ nhau…Nhiều khi thầy chùa chẳng khác gì một bác sĩ tâm lý. Xem ngày làm nhà cũng nhờ đến ông sư, động thổ cũng ông sư, cúng hoàn long mạch cũng thế. PV: Những hình thức cúng bái trên có gần với mê tín? Và như thế là đi ngược với giáo lý của đạo Phật? Ở nước mình trước đây không có nhiều hình thức cúng bái. Nhà sư chủ yếu tụng bài kinh cầu an, phép an tâm cho mọi người. PV: Trong trường hợp có một Phật tử đến nhờ thầy giúp làm lễ động thổ, họ nghe lời thầy bói mua lễ tới 20, 30 chục triệu đồng để đốt. Thượng tọa sẽ khuyên người ta những gì để người ta bỏ ý định đó? Cái tiền ấy là do ông thầy bói phán. Đốt vàng mã thì vô tác dụng. Không cần phải mua quá nhiều như thế. PV: Thực sự họ có nghe không? Họ nghe hay không là quyền của họ. PV: Thưa thượng tọa, sao các thầy chùa không từ chối việc cúng bái khi một Phật tử chi quá tốn kém cho việc đốt vàng mã? Khuyên cũng có cái khó. Mình phải ở tâm lý của họ mới hiểu được. Chẳng hạn như chuyện chết “trùng” – chết hàng loạt những người có họ hàng trong thời gian ngắn, kể cả gia đình nghèo cũng sẵn sàng bỏ ra hàng triệu để làm lễ để tính mạng người thân họ được an toàn – ít ra họ yên tâm là thế. Những nhà giàu còn bỏ ra hàng trăm triệu. PV: Bản thân thượng tọa có hay đi cúng không? Không tôi không đi cúng. PV: Nhân Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc (Vesak) diễn ra ở Việt Nam, thượng tọa có lời nào nhắn nhủ đối với Phật tử? Nhân ngày Đại lễ Phật đản, chúng tôi muốn nói với các Phật tử rằng: chúng ta là là những người theo Phật, tin vào Phật thì đừng tin vào những điều mà Phật không dạy. Chỉ cần sống lương thiện, an bình, có hiếu nghĩa với tổ tiên, ông bà, dạy dỗ con cái trở thành những người tốt trong xã hội…đấy là những điều mà Đức Phật mong muốn. PV: Xin cảm ơn thượng tọa! Xuân Anh (Vietimes) thực hiện
-
Nhân câu hỏi này của Vespa , Wild có đọc bài bên VLS Topic TƯỚNG PHÁP của hội viên Phạm Bảng Linh không ghi nguồn , xin được copy vào để ngẫm . 2) An Lộc Sơn lúc nhỏ nghèo hèn, đi hầu cho Trương Thủ Khuê. Lúc rửa chân cho Khuê bỗng ngừng ta chăm chú nhìn, Khuê hỏi: - Mày nhìn gì thế? Lộc Sơn thưa: - Tại tôi thấy bàn chân trái ngài có nốt ruồi lớn. Khuê bảo: - Đấy là cái tướng phất cờ khởi loạn của tao. An Lộc Sơn vái chủ rồi nói: - Thưa ngài cả hai bàn chân tôi đều như vậy. Khuê hết sức ngạc nhiên. Về sau An Lộc Sơn làm loạn đốt cháy kinh đô Nhà Đường , khiến Đường Minh Hoàng phải bỏ chạy.
-
Để hài nhi không bị cuốn trôi..." 15/05/2008 09:30 (GMT + 7) Nếu được một lần quay lại Huế, chắc chắn tôi sẽ trở lại viếng một nghĩa địa đặc biệt - khu mộ của những hài nhi, những sinh linh chưa kịp chào đời nằm dưới chân cầu Gia Hội, sát bờ sông Hương. Nghĩa địa rộng hơn 50m2, hàng trăm nấm mộ nhỏ xíu, chen chúc, chồng chất tràn ra tận mép sông. Hơn 100 năm nay, những bé em bất hạnh nằm lại nơi bờ sông lạnh lẽo này, may mắn vẫn có những người trong gia đình anh Tống Văn Sung sưởi ấm... Tôi ngồi nói chuyện với vợ chồng anh Sung trong căn nhà xập xệ ở khu lao động cầu Gia Hội. Giữa trưa, trời nắng và oi ả, căn nhà tạm bợ vẫn tối như một buổi chiều muộn, những khe nhỏ từ các tấm gỗ lợp hắt vào một thứ ánh sáng mờ mờ. Những câu chuyện của vợ chồng anh chậm chậm, đều đều như một tiếng thở dài khó nén. Anh Tống Văn Sung, 48 tuổi: Tui sinh ra và lớn lên ở đây. Đã 5 đời rồi, nhà tui có 6 người coi giữ khu nghĩa địa này. Ông cố tui là quan Thượng thư bộ lại triều Nguyễn. Bà cố tui là cháu của Tống Duy Tân. Ông cố tui đã bỏ triều đình bán nước ấy, về khai hoang lập làng ở đây. Khi ấy, nơi đây là một vùng đất hoang vắng, phía trong là Đại nội, chợ Đông Ba còn chưa có. Những hài nhi bị sa, bị tử của các thợ thuyền chôn rải rác nơi cồn sa bãi nổi. Ông cố tui liền quy tập lại thành một khu nghĩa địa, nhang khói cẩn thận. Cũng đã hơn 100 năm rồi. Chị Trần Thị Huệ, vợ anh Sung: Thời đó, ở đây có một cái miếu to lắm, do những người Hoa đưa con tới đây chôn, góp ít tiền lo nhang khói và xây miếu, để linh hồn tụi nhỏ có nơi đi về. Năm 1982, ở Huế rầm rộ phong trào bài trừ mê tín dị đoan, người ta phá bỏ mất. Không còn nơi thờ cúng, nhưng số vong linh ở đây vẫn ngày càng tăng. Anh Sung: Khi đã được tượng hình trong bụng mẹ, hài nhi đã có một linh hồn. Những đứa bé được sinh ra, chưa cất tiếng chào đời mà chết, tất cả đều trong trắng, vô tội. Nếu được chôn cất tử tế, linh hồn tụi nhỏ cũng được siêu thoát. Xưa kia, ở đây có tất cả 652 ngôi mộ. Bây giờ chỉ còn 540 ngôi. Năm 1999, ở Huế có một trận lụt lớn, lở trôi hết cả. Trận lụt to quá, làm trụt cả cây bồ đề lớn, sụp cả bức tường bê tông chắn ngoài bờ sông. Năm nào cũng vậy, mỗi lần bão lũ, bùn lầy phủ lên khu mộ dầy đến hàng mét. Vợ chồng tui phải vớt bùn, tự bỏ tiền xây lại những mộ phần hư hỏng, dựng lại rào gỗ, ngày ngày chăm nom. Nghĩa địa liền nhà anh Sung - chị Huệ Chị Huệ: Điều buồn nhất là vẫn có khoảng 150 ngôi mộ không có thân nhân. Họ hàng bỏ đi xa xứ hoặc lãng quên rồi. Có một cặp vợ chồng rất dã man. Ban đêm, họ lén cậy nắp một ngôi mộ sẵn có lên, rồi thả con họ xuống. Về sau, người vợ bị điên, còn người chồng làm ăn lụi bại. Hồi đó là lúc cái miếu mới bị đập đi, chừng năm 1984 thì phải. Anh Sung: Hồi mới lấy vợ, tui cất tạm một căn nhà nhỏ sát ngay khu mộ. Tui cũng lập tạm một cái am để thờ cúng. Tụi nhỏ chết, làm gì có tên tuổi mà ghi bia. Mộ nào cũng chỉ ghi ngày tháng và tên mẹ thôi. Hài nhi được chôn trong những cái tiểu, đánh dấu bằng cách xây tròn hơn hoặc dài hơn. Thỉnh thoảng có ngôi mộ bị trốc, tui lại mua xi măng ra xây lại. Dì Phạm Thị Hương, người sống cùng khu lao động chân cầu Gia Hội: Nhiều cặp vợ chồng mang con đến đây xin chôn, rồi cũng chẳng thấy quay lại nhang khói đến một lần. Có cặp còn có 2-3 đứa nhỏ ở đây. Anh Sung: Mỗi năm tui đều soạn lễ cúng cho những hai nhi yểu mệnh, vào lễ Quận nường (ngày chăm sóc cho những vong hồn chết khi chưa ra đời-28/6 Âm lịch) và Tất niên. Tui đi quyên tiền một phần, phần còn lại mình phải bỏ ra. Trong khu này, mỗi gia đình ủng hộ 5-10 ngàn, đi quyên cũng chỉ được 150-200 ngàn. Bây giờ một mâm cúng ít nhất cũng phải 300 ngàn, mình làm đầy đủ thì phải 500 ngàn. Chị Huệ: Mấy ông nhỏ linh lắm. Hồi xưa, bữa ông chồng tui làm nghề bốc vác, hay phải dậy sớm. 3-4 giờ sáng, mấy ông nhỏ hay kêu dậy đi làm lắm. Anh Sung: Bây giờ vợ chồng tui không cho người dân chôn con cái ở đây nữa. Tui bảo, ai cũng có nghĩa địa của họ tộc cả. Tại vì trước sau gì khu này cũng bị giải toả. Chính sách quy hoạch có từ năm 1995, gần đây có quyết định giải toả 146 hộ để mở đường, xây kè, làm công viên. Chị Huệ: Tui chưa biết Uỷ ban nhân dân thành phố tính toán như thế nào. Mình đi đâu đi nữa thì cũng phải lo cho các âm linh đàng hoàng. Những người đến đo đạc nhà tui bảo đây là việc của Nhà nước. Chẳng biết Nhà nước ở đây là ai. Anh Sung: Tui phải viết thư gởi Đài truyền hình hỏi xem cơ quan chức năng nào sẽ chịu trách nhiệm giải quyết. Vì điều này cũng ảnh hưởng đến niềm tin của người dân. Thêm nữa, con cái họ nằm đó, chưa biết sẽ như thế nào, làm sao yên tâm mà làm ăn. Vợ chồng tui cũng đề nghị di dời mấy trăm ngôi mộ đi thì mới đi. Chị Huệ: Chừng nào họ tới bắt vợ chồng tui dỡ nhà dời đi, tui không chống lệnh nhưng cũng phải đấu tranh cho quyền lợi của những mộ phần ở đây. Bây giờ mình đi thì ai lo? Anh Sung: Bây giờ tui chưa đặt nặng vấn đề đi hay ở. Mà là ai sẽ chịu trách nhiệm di dời những nấm mộ này? Với những ngôi mộ có thân nhân, phải đền tiền cho họ di dời. Còn nếu không có thân nhân thì chính quyền phải cấp tiền và cấp đất cho tui để tui làm. Nhưng chẳng thấy ai nói gì. Anh Sung: Tui chỉ mong khu mộ của tụi nhỏ ở đây sớm được đưa đến nghĩa trang thành phố Huế. Ở đấy, tụi nó không phải nằm chồng chất lên nhau, cũng không sợ bị cuốn trôi ra sông mỗi mùa bão lũ... Bài và ảnh: Đinh Phương Linh nguồn tuanvietnamnet
-
ACE ra quẻ dùm Wild nhé ! Cô bé Mậu Thìn của Wild năm nay có đậu Đại Học không ? tháng 7 al này cháu có chuyến du lịch Châu Âu không ? Thời gian bao lâu ? Gặp gỡ ai ? Chuyến đi có vui vẻ không ? Ra về có tí Lộc nào không ? Quẻ này ra có điều kiện chứng nghiệm rất gần . Cháu sẽ có quà kỷ niệm và cám ơn các bác !
-
Trên 1 chuyến tàu ngoài thủy thủ đoàn , có du khách gồm 2 người Nhật , 2 người Pháp , 2 người Đức và 2 người Việt Nam. Tối hôm đó mưa to gió lớn nên tàu cần 2 người hi sinh để giảm trọng lượng tàu. 2 người Nhật hô lớn: " Vì linh hồn Samurai vĩ đại" rồi lao xuống biển , CHẾT . Tối hôm sau lại mưa to gió lớn tàu lại cần 2 người hi sinh, 2 người Pháp la lên: " Vì Napoleon cao cả" rồi lao xuống biển. Đêm tiếp theo, tàu lại cần 2 người hi sinh. lúc này 2 người Việt Nam la lớn:" Việt Nam muôn năm" rồi lao đến.................................... đẩy 2 thằng Đức xuống biển .
-
Vắng Phoenix lâu nhỉ ? giờ xuất hiện chắc là bận ?