-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Dư luận xôn xao về những cái chết bất thường ở bệnh viện đa khoa địa phương. Tất cả những bênh nhân đều chết một cách bí ẩn tại phòng Hồi sức cấp cứu của khoa săn sóc đặc biệt, mà nay người ta gọi là "Chiếc giường trong căn phòng tử thần". Cứ vào một giờ nhất định: Đúng 18 giờ với ít phút chênh lệch thì người bệnh nằm ở cái giường này sẽ bị chết. Nhưng điều đáng nói là cái chết chỉ rơi đúng vào những ai nằm ở chiếc giường ngay cuối phòng với bất cứ bệnh gì, còn các giường khác thì không . Đã hàng tháng trời trôi qua , các y bác sĩ điều trị thậm chí không dám cho bệnh nhân nằm tại chiếc giường này. Nhưng có những lúc bệnh nhân đông, vẫn phải đưa nằm vào đấy và lại thêm một cái chết bí ẩn. Tin đồn tràn lan với mọi sự giải thích khoa học và thần bí, khiến mọi người căng thẳng. Tất cả mọi biện pháp có thể đều được ứng dụng kể cả ngoại cảm, cúng bái, bùa chú ...vv...Và cuối cùng là cơ quan điều tra vào cuộc với những thám tử tài ba và trang thiết bị hiện đại. Khoảng hơn 18g giờ khi chiều tím và hoàng hôn đổi chỗ cho nhau ( mượn giọng văn của Thiên Sứ ) - giờ của tử thần. Mọi con mắt đổ dồn vào chiếc camera theo dõi. Cánh cửa phòng mở ra, một người phụ nữ mặc áo xanh đại dương bước vào . 1 bàn tay gầy guộc giơ lên thản nhiên rút phích cắm trên tường và thay vào đấy là phích cắm máy hút bụi và lặng lẽ làm công việc của mình , xong việc bà đi ra mọi người ập vào , bệnh nhân đã tắt thở không có dấu vết để lại . Mọi người chợt nhớ ra rằng cái phích cắm mà bà ta rút ra là đường dây điện của máy thở oxy cho bệnh nhân nằm tại giường này. Và người ta cũng biết được rằng 18g cũng chính là giờ hộ lý .... quét dọn phòng .
-
Lời tỏ tình phái mạnh thích nhất Có quá nhiều những lời tỏ tình kiểu cổ điển, đại khái như quỳ xuống hỏi một câu xưa như trái đầu: "Anh yêu em", "Đồng ý lấy anh nhé!". Tuy nhiên, phái mạnh xem những lời tỏ tình dưới đây là lãng mạn và có sức nặng nhất. - Nếu em không sinh ra trên cõi đời này thì anh chỉ là một động vật thừa. - Yêu em chính là mệnh lệnh của trái tim anh. - Trong giấc mơ đêm qua, anh đã tìm em khắp nơi để tìm lại trái tim mình vì chính em đã đánh cắp nó đi. Bây giờ anh không cần em trả lại nữa, chỉ cần em trả cho anh tình yêu của em thôi. - Cái nhìn đầu tiên của em đã cướp đi linh hồn anh, đến cái nhìn thứ hai thân xác anh đã thuộc về em. Giờ đây anh không còn gì để cho em nữa cả. - Em có tin vào tình yêu sét đánh không? Nếu không thì bây giờ đã đến lúc em tin rồi, vì anh chính là nạn nhân của tình yêu đó.- Nếu như có một người luôn chờ, yêu, hy vọng em sẽ cùng chung bước với người đó trên một con đường... và người đó đang nói với em điều này, em sẽ nghĩ gì? - Nếu một hạt cát nói được câu "Anh yêu em" thì anh muốn tặng em tất cả các bãi cát trên thế giới này. - Em và anh đều biết chúng ta không phải là người đầu tiên của nhau, nhưng anh hy vọng chúng mình sẽ là người cuối cùng của nhau kể từ ngày hôm nay. - Không ai có thể biết hết về nhau rồi mới tiến tới hôn nhân. Chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu về nhau trong từng ngày tới và cùng nhau chia sẻ vui buồn trong cuộc sống này. Hãy làm vợ của anh nghe em. - Em có tin vào tình yêu từ cái nhìn đầu tiên không? Hãy để anh đi qua một lần nữa. - Người ta nói tình yêu phải trả giá, hãy nói cho anh biết em cần bao nhiêu? - Liệu cha của em có phải là một tay trộm không? Vì ông ấy đã đánh cắp những vì sao trên trời và đưa chúng vào mắt em. (Theo Thế Giới Phụ Nữ )
-
Bùn hay "tri thức rởm" thì cũng lấm lem như nhau Thứ sáu, 6/6/2008, 07:00 GMT+7 Khi chính chúng ta chưa rũ bỏ được sự vị kỷ cá nhân, đừng bao giờ nghĩ đem lợi ích đến cho người khác. Chưa nói đến sự hiểu biết của chúng ta đôi khi chỉ là giả tạo, tưởng thế nhưng không phải thế. 1. Một lần ông Nguyễn Văn Phú - một nhà sưu tập đồ cổ - mua được vài cuốn sách hay. Trên đường về, ông gặp một người bạn, cũng vừa đi mua đồ về. Trên tay ông bạn là một túi đựng đầy bánh mì, xúc xích, thịt hun khói, bơ… thơm ngất ngây. Thấy ông Phú đang cầm trên tay mấy cuốn sách, ông bạn tò mò muốn biết sách gì. Khi nhìn lướt qua nhan đề mấy cuốn sách ấy, ông ta reo lên: “… sách này hay quá! Tôi thích lắm! Cho tôi mượn được không?”. Ông Phú thẳng thừng nói: “Không!”. Ông bạn tỏ vẻ khó chịu vì có cuốn sách mà cũng không cho mượn. Thấy vậy ông Phú liền bảo: “Nếu thế, ông cho tôi mượn cái túi bánh mì xúc xích kia đi… để có mấy cuốn sách này tôi phải nhịn xúc xích đấy…”. Ông ta lúng túng một hồi rồi không nói gì nữa. Câu chuyện chỉ có thế và nó xảy ra vào cái thời kỳ bao cấp khó khăn. Nhưng cho đến bây giờ cánh họa sĩ và sưu tầm đồ cổ thỉnh thoảng vẫn nhắc lại. Họ lại cười, lại bình luận… Và cái mấy tay họa sĩ bình luận nhiều nhất vẫn là chuyện “khôn” vặt của những vị tỏ ra yêu thích văn hóa. Chuyện này trong giới họa sĩ gặp rất nhiều. Thường thì những vị tỏ ra hiểu biết ấy vẫn nói họ rất yêu hội họa. Chỉ có điều, mỗi lần đến thăm xưởng vẽ của họa sĩ, họ chỉ xin hoặc mượn về treo. Và cái lý do bao giờ cũng kiểu: Đẹp quá! Mình thích lắm! Tặng được không? Mượn được không? Cái lý do yêu – thích – mê ấy xem ra đáng được trân trọng lắm lắm! Ai chẳng sướng khi người khác bảo rằng, họ thích tác phẩm của mình. Ơ, nhưng mà cái “thích” kia thật lạ lùng. Nó chỉ được thốt ra từ cái miệng mà thôi. Nói là thích đấy, yêu đấy nhưng đố dám hỏi mua, hoặc đổi chác. Chỉ cần nói đến chuyện mua bán, hay đổi chác thì ngay lập tức họ im lặng, hoặc giả tròn mắt ngạc nhiên như đứa trẻ ngây ngô. Có người còn thốt lên: “Gì mà ghê thế, tranh gì mà đắt như bất động sản thế?!”. Mới thấy cái chuyện kiên quyết không cho mượn sách của sưu tập gia Nguyễn Văn Phú thật hay. Nó hay vì thật quá, mà thật quá lại trở nên buồn cười. Cái ông bạn kia quả là khôn thật, vừa muốn có sách đọc, vừa có xúc xích và bánh mì để ăn. Điều quan trọng nằm ở chỗ, anh ta chỉ dám bỏ tiền ra mua xúc xích, còn sách thì đi mượn. Hề hề… cái kiểu này thật tham lam! Chứng tỏ sự yêu – thích – mê kia chỉ là giả tạo. Nếu anh bảo, anh thích, anh mê thì cứ bỏ tiền ra mà mua; nếu không có tiền thì tìm cái gì đó để mà đổi. Nhưng rất ít vị chịu làm thế. Vì vậy chứng tỏ không mê, không thích, cũng chưa yêu thực sự. Cũng na ná kiểu, đứng trước người phụ nữ đẹp cứ tha thiết nỉ non: anh mê em, anh yêu em, anh không thể sống thiếu em! Thế nhưng chẳng bao giờ dám cưới em, nếu có cưới em về cũng đối xử chẳng ra gì vì có yêu thật đâu . Người viết bài này cũng đang vẽ tranh và nhiều lần bị cái kiểu giả vờ ấy làm phiền. Có lần một người bạn đến nhà cứ rối rít nói thích bức tranh tĩnh vật mới vẽ của tôi. Thực ra tôi thấy bức tranh ấy cũng chỉ ở dạng tầm tầm, dễ nhìn, dễ treo để trang trí nhà cửa, lại thêm được cái anh bạn dẻo miệng kia khen, hứng chí tôi tặng luôn. Thời gian sau tôi đến nhà anh ta chơi, thấy “đứa con” tội nghiệp của tôi nằm chỏng gọng ở góc tường mốc meo, xám xịt như một mớ giẻ rách. Hóa ra anh ta chỉ nói thế chứ chẳng biết gì hoặc chẳng yêu gì bức tranh đó. Bẵng đi rất lâu, một hôm anh ta lại đến chơi và nói rằng vừa mới xây nhà xong, muốn có một bức tranh để treo cho đẹp. Lần này anh ta cũng diễn cái vở xuýt xoa khen ngợi ấy, rồi chỉ vào một bức mà rằng: "Đẹp quá! Thích quá!" Tôi trả lời thẳng thừng: “…Bức này giá 10000 USD, nhưng chỗ quen biết khuyến mại chỉ cần xin bạn 1 triệu viẹt nam đồng ...." Ngay lập tức, sắc mặt của anh ta chuyển từ đỏ sang xanh rồi xám ngoét, và chẳng thấy nói thích nữa. Hề hề… đụng vào vật chất thì biết ngay mà! Cái kiểu thích ấy chẳng lạ gì với cánh họa sĩ chúng tôi. Đố dám bỏ tiền ra mua đấy. Mà bỏ tiền ra mua rồi, đố bỏ ở xó nhà cho mốc meo đấy! Thế nhé, đừng bao giờ nói thích nữa nhé! Anh bạn nọ, loanh quanh một hồi, lại phân trần rằng, vừa mới mua cái TV lớn màn hình phẳng, hết tiền mặt, nếu còn tôi trả ông ngay, một triệu có gì to tát đâu v.v và v.v. Nhưng tôi lại quả quyết, nếu thế lấy cái TV màn hình lớn kia sang đổi, tôi đang cần để xem. Đến nước này anh bạn nọ giãy nảy lên như đỉa phải vôi, chuồn thẳng. Tôi kể những mẩu chuyện này không hàm ý ám chỉ vật chất mới chứng tỏ được cái sự yêu – thích – mê kia. Cũng có người say mê hội họa thật sự, yêu thích nghệ thuật thật sự nhưng vì nhiều lẽ nên không có điều kiện để sở hữu chúng. Những người như thế họ rất ít khi mở miệng nói ra. Hoặc, họ sẽ làm tất cả những gì có thể để được sở hữu chúng. Có người đã đổi cả nhà cửa chỉ để được sở hữu tranh của Bùi Xuân Phái, đó mới là yêu – thích – mê thật. Và cái câu chuyện, không cho mượn sách của ông Phú sưu tập gia kia, chứng tỏ một điều rằng, nếu anh yêu ai đó, hay cái gì đó - hãy hy sinh đi, dù là ít ỏi. Chỉ khi nào anh chịu hy sinh lợi ích của bản thân mới chứng minh được những lời anh nói. Thế thôi ! Có một thực tế đang diễn ra rất phổ biến ở giới được gọi là trí thức, hay tự nhận là trí thức. Nếu họ muốn ám chỉ điều gì đó thật ngốc nghếch, ngu tối, ngờ nghệch, hèn hạ, tham lam… thì lập tức họ so sánh: thằng kia nông dân lắm, cái đứa nọ quê một cục… Kiểu nói đó quá quen thành ra tưởng đúng. Cách miệt thị này hình như chỉ ở mình mới có, chứ các nền văn hóa khác họ chẳng so sánh thế bao giờ. Mà tôi thấy, nếu ai so sánh thế cứ như người ta tự suy từ bản thân ra thì phải. Người nông dân đâu có hèn hạ, đâu có ngốc nghếch, đâu có ngu tối, tham lam...? Họ không thế! Và nếu ai mở miệng so sánh như thế chỉ chứng tỏ một điều: không phải trí thức! Nếu sự hiểu biết của anh ta là thực chất, cái nhìn của anh ta về người nông dân sẽ khác. Một vị đạo diễn đi xuống nông thôn làm phim có phàn nàn: Bây giờ người nông dân khác lắm rồi ông ạ, có mỗi một cảnh để quay mà phải xì tiền ra họ mới làm, chứ ngày xưa chỉ cần hô một cái họ nhiệt tình ủng hộ, chẳng cần xu nào. Rồi anh ta lắc đầu ngao ngán. Và chỉ sau đó anh ta lại quả quyết: cái bộ phim này nếu không ứng tiền ra tôi sẽ không làm nữa, bây giờ cái gì chẳng cần tiền, có tiền mới hứng khởi “sáng tạo” chứ ông nhỉ… A ha! Cái anh nghệ sĩ này hay thật! Anh bắt người nông dân tình nguyện làm không công cho anh, nhưng anh lại đòi người khác phải ứng tiền ra mới làm thì ai dại, ai khôn? Đã thế lại còn luyến tiếc cái chuyện ngày xửa ngày xưa ấy. Làm gì có chuyện mình bắt nông dân phải ngốc nghếch, trong khi đó mình lại khôn như rận. Thế thì từ này đừng bao giờ đem họ ra so sánh với bất cứ cái gì ngu tối nữa nhé. Lại một vị nhiếp ảnh gia lên miền núi tác nghiệp, rồi cũng cau mặt nói với tôi: "Dân miền núi các ông khôn bỏ xừ, chụp mỗi cái ảnh cũng đòi tiền, mất cả cảm hứng!" Hề hề… khôn chứ sao lại không? Nếu tôi đăng ảnh của anh lên báo mà không trả nhuận bút anh có chịu không? Chắc là không rồi! Làm gì có chuyện sử dụng tác phẩm của tôi mà không trả thù lao! Vô lý! Bất công! Kiện cho đi tù cả lũ ngay! Thế đấy, anh có chịu thiệt đâu, anh lại bắt người miền núi phải cho không anh “cái công” làm mẫu kia. Xin các vị đừng bao giờ có lối tư duy khôn vặt ấy nữa. Cũng xin các vị đừng bao giờ so sánh họ với những thứ thấp hèn mà các vị nghĩ. Họ không phải thế, cũng chẳng đời nào chịu thế. Họ cũng là con người, biết tư duy, biết tự trọng, có tâm hồn… Làm gì họ dại như các vị so sánh. Sai hết! Sai cơ bản, sai cả tư duy rồi! Có thể nói, chính giới trí thức, định hướng cách sống của họ, tư duy của trí thức đi trước để “soi sáng” tư duy của nông dân, anh nghĩ thế nào, hành động thế nào, họ cũng làm y như thế, không chệch hướng tí nào, rất chính xác. Cái việc họ sẵn sàng đòi thù lao ấy, ở chừng mực nào đó chính các vị “dạy” cho họ đấy! Cũng vài vị nhiếp ảnh gia, lên miền núi sáng tác khi về cứ trề môi chê bai rằng, ai đời nhà sàn lại lợp fibrôximăng, không hiểu họ nghĩ thế nào lại đem mấy cái tấm lợp cứng đanh, xấu xí ấy về dùng, làm mất cả thẩm mỹ, chán không thể tả! Hay thật! Các vị ích kỷ quá, chỉ nghĩ cho chính lợi ích của các vị. Quả đúng, một cái mái được lợp bằng cỏ gianh sẽ phù hợp hơn với cái nhà sàn của họ, nhưng các vị ơi! Chỉ cần một đợt lốc, hai đợt mưa, ba đợt nắng… mái nhà của họ hỏng rồi. Còn cái tấm lợp xấu xí như các vị chê bai kia nó bền lắm. Cả chục năm mưa nắng không lọt vào nhà của họ, tại sao không dùng? Các vị chỉ đi lướt qua, chụp vài cái ảnh, nhếch mép khen ngợi vài câu rồi các vị ra về. Còn người bản xứ, họ phải chịu đựng mưa nắng, bão lụt với cái mái nhà lợp bằng cỏ gianh yếu ớt kia, khổ nhường nào, rét nhường nào các vị đâu có quan tâm. Ấy vậy mà khi người ta bỏ cách lợp mái nhà bằng cỏ gianh, thay bằng tấm lợp tổng hợp rất bền ấy các vị lại bảo họ không biết gì là thẩm mỹ! Chính các vị “vô thẩm mỹ” đấy chứ! Thẩm mỹ con người đâu phải ở hình thức, nó nằm ở tư duy kia mà! Sự ích kỷ cũng là vô thẩm mỹ đấy! Chưa kể đến phần lớn giới trí thức ở ta đều từ nông dân mà ra. Nếu vén áo các vị lên tôi tin chắc mùi bùn đất vẫn còn vẩn vơ ở đó. Ấy thế mà chỉ mới có một chút hiểu biết đã đem nông dân ra miệt thị. Một người nông dân rất có thể văn hóa cao hơn chúng ta nhiều, họ chỉ thiếu tri thức. Nhưng nên nhớ rằng, họ có văn hóa và cái nền tảng văn hóa ấy mới là nơi chắc chắn nhất để làm nên một con người. Còn tri thức vặt, nếu không biết cách sử dụng, nó sẵn sàng biến chúng ta thành những cỗ máy vô cảm và lạnh lùng. Thực tế, không ít giáo sư, tiến sĩ của chúng ta cái đầu đầy một bồ chữ nhưng hành động còn thấp kém hơn cả nông dân vì có văn hóa đâu. Cứ bảo tiến sĩ, thạc sĩ ngành này ngành nọ, chẳng thấy công trình khoa học nào có ích cho đời, chỉ suốt ngày chăm chăm viết dự án kiếm tiền, hoặc mê mải theo đuổi công việc khác… Bất cứ cái gì động đến lợi ích lập tức kêu ầm lên, kiện tụng ầm lên. Thế chẳng là tham lam sao, chẳng là thiếu liêm sỉ sao!? Đã khá lâu, chúng ta (những người tự nhận là trí thức) vẫn đối xử với người nông dân như thể họ đáng thương hại. Bao giờ cũng nghĩ: dạy họ cái này, bảo họ làm cái kia, làm cho họ thoát nghèo, đưa họ ra khỏi sự u tối… Nhưng chính chúng ta – những “nông dân” đáng thương hại kia ơi! Hãy cứ tự thanh lọc bộ óc vị kỷ của mình đi đã. Khi chính chúng ta chưa cởi bỏ được sự vị kỷ, đừng bao giờ nghĩ đem lợi ích đến cho người khác. Chưa nói đến sự hiểu biết của chúng ta chỉ là giả tạo, cứ tưởng thế nhưng không phải thế. Và tất cả những ai, nếu muốn miệt thị ai đó đừng bao giờ đem nông dân ra làm thớt. Các vị hãy tự tát vào cái miệng của chính mình, may ra cái óc các vị sáng ra đôi chút! A Sáng (Vietimes) nguồn vietimes
-
Ba bác sĩ phẫu thuật ngồi nói chuyện phiếm về nghề nghiệp. Sau hồi trà dư tửu hậu, ba người tranh luận về kiểu bệnh nhân mà mình thích. Bác sĩ thứ nhất: - Tớ thích mổ bọn làm nghề điện tử. - Sao ông thích bọn này? - À, khi mổ bọn này ra, bộ phận nào chúng nó cũng đánh dấu bằng mã màu khác nhau nên không sợ bị cắt nhầm. Bác sĩ thứ hai: - Tớ thì thích chọc bọn thủ thư. - Tại sao? Bọn này chán ngắt mà? - Ừ, nhưng bọn này rất ngăn nắp, quy củ, chỗ nào gọn gàng chỗ nấy. Bác sĩ thứ ba: - Tớ lại khác, tớ khoái bọn luật sư cơ. - Luật sư á???? - Đúng thế đấy. Cái lũ này chẳng đứa nào có tim, xương cũng không có nốt. Nhưng mà khoái nhất là đầu và đít chúng nó có thể đổi chỗ cho nhau được! Tư ChọcViệt Báo// (Theo_24h.com )
-
Thân chào Rubi , Wild không lạ với VLS và người nhà của LHDP hân hạnh làm quen với tài năng trẻ và triễn vọng .rất mong nhận đươc sự đóng góp đầy sáng tạo của bạn. Wild là Má hồng phận KIM hì hì !
-
................................................................................ Căn cứ vào những điều trên, tôi nhận xét rằng: Những ngôi mộ chôn ở nghĩa trang này hầu hết con cái ly tán Thiên Sứ ................................................................................ Tôi xin xác nhận gia đình dòng họ tôi rơi vào điều kiện này . Ly tán . Không còn ai biết cuộc sống của ai ra sao nữa .
-
Thứ Năm, 05/06/2008 - 4:55 PM Dư chấn 5,3 độ richter lại làm rung chuyển Tứ Xuyên Những ngôi nhà bị phá hủy tại tỉnh Tứ Xuyên. (Dân trí) - Một đợt dư chấn mạnh với cường độ 5,3 độ richter đã xảy ra tại tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc vào chiều nay, giữa lúc mực nước tại một hồ hình thành do lở đất sau động đất dâng cao khiến người dân tại vùng hạ lưu phải sơ tán. Hiện chưa có thông tin về thiệt hại hoặc thương vong mới gây ra do cơn dư chấn 5,3 độ richter. Cơ quan địa chất học của Mỹ cho hay, dư chấn xảy ra vào khoảng 12h41 giờ địa phương tại phía nam thị trấn Thanh Xuyên, thuộc tỉnh Tứ Xuyên ở độ sâu 9,6km. Trước đó, các nhà chức trách đã bắt đầu sơ tán người dân tại khu vực hạ lưu của hồ Đường Gia Sơn. Hồ này hình thành tại thị trấn Bắc Xuyên vốn bị tàn phá nặng nề sau trận động đất kinh hoàng hôm 12/5. Mực nước tại hồ đã dâng rất cao và chỉ còn khoảng 1,8m nữa là tràn bờ. Các nhà chức trách địa phương đã lên kế hoạch xả nước hồ Đường Gia Sơn vào sáng nay. Đến buổi trưa, người dân tại thành phố Miên Dương ở khu vực hạ lưu đã bắt đầu di chuyển lên các khu đất cao hơn. Vài lều tạm được dựng lên làm nhà cho các nạn nhân động đất đã vắng bóng người. Cảnh sát và quân đội đã được điều động để chặn lối vào các khu vực thấp. Các đợt dư chấn vẫn tiếp tục gây lở đất khắp khu vực bị ảnh hưởng bởi trận động đất tháng trước, làm 14.000 người quanh thị trấn Hanwang phải đi sơ tán. Cho tới nay, trận động đất đã cướp đi sinh mạng của hơn 69.000 người. Phát ngôn viên Hội đồng Nhà nước Trung Quốc cho hay, hiện chưa xác định được có bao nhiêu học sinh thiệt mạng trong tổng số các nạn nhân. Hơn 17.991 người vẫn mất tích và khoảng 5 triệu người bị mất nhà cửa. Theo nguồn tin từ chính phủ Trung Quốc, ước tính khoảng 7.000 lớp học đã bị phá hủy. Trong khi đó, Tân Hoa Xã đưa tin, các nhân viên tìm kiếm hiện vẫn chưa tìm thấy mảnh vụn hoặc những người sống sót trên chiếc trực thăng cứu hộ bị mất tích hôm thứ 7 tuần trước. Cơ may 19 người trên khoang sống sót được cho là rất mong manh. Ánh Ninh Theo AP nguồn dantri.com
-
Theo wild thì Thăng quan tiến chức bằng đôi cánh có ô của mình chắc hơn hi hi hi :lol:
-
Quách Đàm sinh năm 1863, quê gốc Triều Châu (Trung Quốc), 17 tuổi theo chú sang Việt Nam. Xuất thân từ gánh ve chai dạo khắp hang cùng ngõ hẻm Sài Gòn, chỉ mấy năm sau Quách Đàm đã trở thành chủ hãng buôn Thông Hiệp (cũng là tên hiệu của ông) chuyên nhập khẩu đường cát và xuất khẩu lúa gạo. Khoảng cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, nhận thấy Chợ Lớn cũ đã trở nên quá chật hẹp, Quách Đàm bèn xuất tiền xây dựng ngôi chợ mới, khởi công năm 1928 và khai trương ngày 14/3/1930 đặt tên là chợ Bình Tây (nằm ở đường Tháp Mười, phường 2, quận 6 hiện nay). Bình Tây là ngôi chợ lớn nhất ở TP.HCM và là ngôi chợ duy nhất có... một vườn hoa giữa chợ. Chính tại vườn hoa này, tượng Quách Đàm đã được dựng lên để ghi nhớ người khai sinh ra ngôi chợ. Tượng Quách Đàm đã định vị tại đây cho đến năm 1975 thì được đưa vào... cất trong Phòng Văn hóa - Thông tin quận 6 và đến năm 2003 thì được dời về trong khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM. Tại chiếc bệ đá nơi từng đặt tượng ở chợ Bình Tây, nay đặt một lư hương để bà con tiểu thương ngày 2 lần đến thắp nhang khấn vái ông Quách Đàm - “thần tài” của họ. Nguồn vietbao ( bao thanh nien )
-
Vấn đề này Wild đã trình bày với Thiên Sứ để có dịp thẩm định nguồn gốc có sẵn với sự định vị của Thầy Phong Thủy Tàu ứng dụng cho vị đại phú thời đó với Phong thủy Lạc việt của chúng ta qua 5000 năm văn hiến . Thiên Sứ cũng đã cùng Wild đi thực tế với tinh thần nghiên cứu chứng minh PTLV . Hy vọng bài viết này đươc Thiên Sứ quan tâm và giải thích để khám phá sai biệt . Chợ Bình Tây do ông Quách Đàm, quê quán ở Triều Châu, Trung Quốc bỏ tiền xây dựng. Chợ được xây bằng xi – măng cốt thép theo kỹ thuật hiện đại của phương Tây thời bấy giờ nhưng lại mang đậm phong cách của kiến trúc Á Đông. Tháp chính vươn cao có bốn mặt đồng hồ, có lưỡng long chầu châu. Toàn bộ mái chợ được lợp bằng ngói âm dương theo kiểu chồng lớp để tạo sự thông thoáng. Ở các góc mái có nét uốn lượn theo kiểu chùa chiền phương Đông. Nét độc đáo của chợ Bình Tây là giữa chợ có sân trời rộng rãi được trồng cây xanh thoáng mát. Tại đây có xây dựng bệ đá ghi công ông Quách Đàm người đã xây dựng chợ. Xung quanh bệ đá có bốn con sư tử ngậm châu và bốn con rồng đang phun nước (tất cả đều được đúc bằng đồng). Kiến trúc toàn chợ có ý nghĩa tạo sự sung túc, phát đạt cho mọi người đến đây làm ăn, mua bán. Có lẽ chính vì thế từ khi mới thành lập đến nay, chợ Bình Tây đã và đang phát triển không ngừng.
-
Thứ tư, 4/6/2008, 07:00 GMT+7 Kính thưa những giấc mơ nhỏ! Nếu như các vị có con gái đang đến tuổi trưởng thành, xin dành đôi chút thời gian cho bức thư ngỏ này của tôi. Và nếu các vị là bậc phụ huynh biết coi con cái là những người bạn, trân trọng và biết lắng nghe nó thực sự thì chỉ cần đến dòng này là có thể bỏ qua và bước sang trang khác. Nhưng nếu các vị không thể xâm nhập nổi thế giới của con cái mình và cứ muốn điều khiển chúng theo ý riêng, thì mong quý vị ở lại đây lâu một chút. Chúng ta sẽ cùng bàn luận và trao đổi về nhiều vấn đề khúc mắc. Chủ đề đầu tiên, như quý vị đã biết, có ngay ở đề bài.Quả thật, bàn luận về chữ sex trong giới trẻ hiện nay quả đã cũ kỹ và nhàm chán. Đâu đâu cũng thấy một gam mầu ảm đạm. Nhưng những bài viết kiểu như “9x vào nhà nghỉ”, “9x – ăn chơi và thác loạn”, “9x và quan hệ đồng giới”, “9x với tình dục tập thể”… xuất hiện tràn lan trên các báo lá cải, chính thống, báo mạng, đặc biệt trên blog và các diễn đàn khiến chúng ta phát hoảng. Ảnh minh họa: Nguồn ảnh - Internet Điều này thật kinh khủng. Nhìn kia! Con gái các vị đang đến tuổi trưởng thành. Nó có thể xinh đẹp hoặc không. Nhưng rõ ràng là đường nét của một người đàn bà đang dần phát lộ. Mình phải làm gì đây? – nhiều người lẩm nhẩm trong đầu. Ngày nào mình cũng răn đe nó không được đánh mất mình Chỉ cần bước chân ra khỏi bất kỳ cổng trường nào cũng có thể thấy nhan nhản các quán nước vỉa hè. Ở đó không ít những kẻ ngồi vắt chân khệnh khạng, môi thâm sì vì rít thuốc, mắt lờ đờ mặc những chiếc áo trắng gắn phù hiệu học sinh (trong đó có cả nữ sinh). Sinh hoạt văn nghệ trong nhà trường luôn là cơ hội để nâng từ bậc thường dân thành “sao trường”. Có lẽ vì vậy mà học sinh chí thú đến văn nghệ nhiều khi còn hơn cả chuyện học hành. Xin cả nghỉ học để luyện tập, múa hát, trang điểm, tập diễn trò. Chuyện này nơi nào cũng thế, thời nào cũng vậy. Rồi lại chuyện, nhiều nữ sinh khoe cơ thể đang mơn mởn bằng những bức ảnh uốn éo, liếm môi trong tư thế… độc quần lót hoặc “chẳng gì cả” đang làm các diễn đàn trên mạng phát sốt phát rét. Những khuôn mặt trắng nõn, ngây thơ nhưng ánh mắt lại dâm dục được chụp cận cảnh. Chẳng khó khăn gì để truy ra nhân vật trong bức ảnh là ai, học lớp mấy, trường gì. Nhiều nữ sinh mới chỉ 14, 15 tuổi. Tuổi đó dù có uống hết sữa của công ty sữa Vinamilk thì cơ thể cũng không thể phát triển như một người đàn bà. Thế nhưng những động tác gợi tình sành sỏi trên giường thì còn khiến nhiều phụ nữ phải chạy dài, dù họ đã làm chuyện ấy hàng chục năm nay. Ôi thời học trò xưa, sao đẹp thế...! Ảnh: Internet Còn nhớ cách đây chục năm chứ mấy, đa phần con gái rất ngại khoe cơ thể mình. Nhiều cô đến thì nảy nở, ngực to một chút là hoảng sợ mua ngay áo nịt ngực thắt chặt lại, mặc áo gài khuy cao tới tận cổ. Cô nào muốn tỏ vẻ người lớn, sành sỏi chơi trội mặc áo mỏng tang, cổ mở hai khuy đủ nhìn thấy ti tí bên trong là bị bình phẩm ngay. Thế là nàng ngượng. Đỏ mặt nhanh tay cài khuy áo.Lùi xa hai chục năm nữa, thời thiếu nữ của các vị. Khi ấy con gái tóc tết bím hai bên, mặc áo trắng, quần lanh đen, đẹp và trong sáng vô cùng. Con gái thường là bẽn lẽn đứng thành một nhóm. Thích cậu nào thì chỉ biết giấu trong lòng. Tình yêu học trò đầy mộng mơ. Một cái nhìn cũng đủ xao xuyến cả đêm. Một cái nắm tay cũng khiến toàn thân run rẩy. Ôi thời học trò xưa, sao đẹp thế! Nhưng bây giờ, thử kể lại những câu chuyện đó xem. Kiểu gì cũng: Ôi dào, các cụ “quê” quá! Mốt bây giờ là phải “cutie và sexy” (dễ thương và hấp dẫn). Ai có nói: Con này… đĩ thì cũng đừng sợ bị giận. Các cô lại cười khoái chí. Và hôm sau lại mặc váy ngắn hơn, áo trễ hơn không chừng! Hiển nhiên là các giá trị về sắc đẹp, sự đức hạnh, sự kín đáo đã có những thay đổi quan trọng trong đời sống hiện đại. Chúng ta không thể cứ khư khư mang các giá trị mà chúng ta nghĩ nó là "truyền thống" và do đó là "tốt đẹp" hơn hiện tại để đánh giá những giá trị của xã hội hiện đại. Một người phụ nữ hiện đại đã và đang được học kỹ càng kiến thức về giới tính, về sự quyến rũ và kiềm chế sự quyến rũ của chính bản thân mình... (Còn nữa) Xuân Thì
-
Chuyện những ngôi đền thiêng từ thời... An Dương Vương! Thứ sáu, 30/5/2008, 07:00 GMT+7 Những ngôi đền – đó chính là chứng tích cụ thể mà sống động, hiện thực mà vẫn huyền hồ của các truyền thuyết. Dòng truyền thuyết An Dương Vương khi vang động qua các vùng miền, khi chảy trôi qua các địa vực đã lưu lại biết bao lớp phù sa văn hóa. Lớp phù sa đọng lại nổi nét nhất, hiện hữu nhất chính là sự hiện tồn của những ngôi đền thiêng. Đền Thục An Dương Vương ở trong Thành Nội (xóm Chùa ngày nay), Cổ Loa, Hà Nội; đền Cuông ở lưng chừng núi Mộ Dạ, Diễn Châu, Nghệ An; đền Đức Vua ở xã Thượng Xá (nay thuộc xã Nghi Xá), huyện Nghi Lộc, Nghệ An là những địa chỉ neo giữ linh hồn truyền thuyết. Có thể nói, những ngôi đền kia là gốc cội linh thiêng để truyền thuyết “trú chân” và tiếp tục ăn sâu vào tâm hồn dân gian xứ sở ấy, vùng quê ấy. Truyền thuyết có một quá trình lưu chuyển rộng rãi trong nhân dân, xuyên qua không gian và thời gian. Nhờ quá trình lưu chuyển này mà một truyền thuyết có cội rễ sâu chặt trong dân gian luôn tiềm tàng khả năng biến thành một hệ truyền thuyết với những câu chuyện phái sinh từ truyền thuyết gốc. Nhưng, trong sự tồn tại của truyền thuyết cũng luôn luôn xảy ra một quá trình ngược lại quá trình phát triển và nảy nở những chi lưu mới, những cành nhánh mới, đó là quá trình cố định hóa và văn bản hóa. Hai quá trình này song song tồn tại trong sự mâu thuẫn, đối lập nhau, tưởng chừng như quá trình này là vật cản của quá trình kia , nhưng thực tế lại không phải như vậy. Chúng ta có thể hình dung một cách đơn giản nhất về sự tồn tại của những ngôi đền, đó là sự cố định hóa, hiện thực hóa, cụ thể hóa các truyền thuyết dân gian. Bằng sức mạnh của niềm tin, nhân dân không chỉ thêu dệt nên biết bao nhiêu câu chuyện xung quanh một sự kiện lịch sử, một nhân vật lịch sử để làm nên truyền thuyết, họ còn có ước vọng lớn hơn khi biến những truyền thuyết ấy thành cái hiện hữu vĩnh hằng. Những ngôi đền ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của nhân dân. Vốn là những con người sống giữa ám ảnh về các vị thần từ thuở hồng hoang, nhân dân ta có một nhu cầu gọi là nhu cầu “thần thánh hóa” các nhân vật lịch sử. Với lòng kính mộ, với tất cả nỗi say mê thần thánh, nhân dân đã đắp bồi thêm cho những nhân vật lịch sử một lớp áo huyền ảo - đủ để gây ra cơn chấn động nhận thức, đủ để người ta nghi hoặc về sự tồn tại của một ông thánh, ông thần, đủ để người ta giữ một góc bí mật nhất, thiêng liêng nhất trong tâm hồn để nghiêng mình cẩn trọng trước các nhân vật ấy. Bàn dẫn tích đền Cuông trên núi Mặc nhiên, có thánh rồi thì phải có nơi để thánh “ngự”, phải có chỗ để nhân dân đến tỏ bày sự ngưỡng vọng của họ đối với các vị thánh. Ngôi đền chính là ngôi nhà thiêng của các vị thánh. Đó là nơi nhân dân trình diện tín ngưỡng của họ, là nơi truyền thuyết được cố định lại bằng các thần tích, thần phả, ngọc phả. Đó cũng là nơi phát xạ ra những luồng truyền thuyết mới xung quanh hệ truyền thuyết gốc. Do vậy, cứ ngỡ rằng quá trình cố định hóa, văn bản hóa truyền thuyết bằng sự hiện hữu của các ngôi đền sẽ chặt đứt đôi cánh bay bổng của truyền thuyết nhưng hóa ra không phải. Trái lại, chính nhờ sự cố định hóa, hiện thực hóa ấy, truyền thuyết càng găm chặt hơn trong tâm thức dân gian, càng ngấm sâu hơn vào tâm hồn dân gian, càng có khả năng phát tỏa ra những hào quang mới, tuôn chảy ra những chi lưu mới từ truyền thuyết gốc.Vậy, có thể nói, mỗi ngôi đền là một nơi tụ khí thiêng của truyền thuyết, là mạch nguồn năng lượng nuôi dưỡng truyền thuyết, để truyền thuyết giữ được hồn cốt của nó bất chấp thời gian. Nhìn truyền thuyết An Dương Vương từ phía những ngôi đền, chúng ta sẽ càng thấm thía điều đó. Nhắc đến đền thờ An Dương Vương, hẳn là không ai không biết đến cả một quần thể còn được bảo tồn tại Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Ở địa phận xóm Chùa ngày nay còn lưu lại một quần thể gồm đền thờ Thục An Dương Vương (còn gọi là Đền Thượng) và Am Bà Chúa thờ công chúa Mị Châu. Đền Thục An Dương Vương nằm trên một gò đất cao dưới chân lũy thành Cổ Loa xưa, về phía góc Tây - Nam. Kiến trúc của đền gồm có hạ điện và thượng điện, được cấu trúc theo hình chữ khẩu. Cách đền Thượng mấy trăm mét là Am Bà Chúa, nơi thờ công chúa Mị Châu. Am Bà Chúa náu mình dưới một cây đa cổ thụ từ thời Ngô Quyền. Am cũng gồm thượng điện và hạ điện. Hạ điện là một ngôi nhà nhỏ ba gian, cửa luôn đóng kín. Thượng điện cách hạ điện bởi một cái sân nhỏ, gian giữa đặt bàn thờ công chúa Mị Châu. Hai bên thờ mười hai nàng hầu của công chúa. Phía sau bàn thờ Mị Châu là một khối đá hình người có hai vai, cao hơn một mét, tương truyền đó là hình vóc còn lại của Mị Châu sau khi bị chém đứt đầu hóa đá. Về nguồn gốc của Am Bà Chúa, nhân dân Cổ Loa còn truyền tụng một câu chuyện bi thương về công chúa Mị Châu. Chuyện xưa kể, khi bị vua cha vung gươm lên chém đầu, Mị Châu đã thống thiết mà rằng: "Nếu vì lòng phản bội mà con hại cha thì sau khi chết con xin làm cát bụi, nhưng nếu vì mù quáng mà dẫn đến cảnh ngộ này thì sau khi chết, con xin hóa đá...". Sau khi nhận nhát kiếm nghiệt ngã của vua cha, thi thể Mị Châu bị sóng cuốn đi. Như lời cầu nguyện, thi thể ấy biến thành một tảng đá, chìm xuống đáy biển. Theo năm tháng, tảng đá ấy được những con nước ba động đẩy dần đến cửa Đại An, chính là cửa sông Hồng ngày nay. Từ đó, nó ngược theo sông Hồng, qua sông Thiếp - một nhánh sông Hồng rồi dạt vào Đầm Cả ở phía Đông thành Cổ Loa. Sau một đêm mưa gió dữ dội, dân làng Cổ Loa thấy trên cồn Đầm Cả xuất hiện một tảng đá. Mọi người thử ra khiêng, nhưng không sao khiêng nổi, dù nó không quá to. Lũ trẻ chăn trâu nếu nghịch ngợm trèo lên tảng đá chơi đều bị ốm, cha mẹ chúng phải đem hương hoa ra khấn thì chúng mới khỏi bệnh. Dân làng thấy thế, gọi tảng đá ấy là tảng đá thần. Rồi một đêm, các già làng đều nằm mơ thấy một cô gái có xiêm y màu trắng đến gặp và nói: "Tại sao các ngươi cứ để ta nằm ở chốn bùn lầy mãi?" Các già làng đoán được oan hồn Mị Châu trở về, bèn họp làng bàn chuyện rước tảng đá về thành Cổ Loa. Thật lạ lùng, trước đây khi khiêng thử, bao nhiêu người cũng không khiêng nổi. Ấy vậy mà khi có lễ rước long trọng, đủ cờ quạt, trống chiêng thì tảng đá thần bỗng nhiên nhẹ bẫng. Đặt tảng đá trong một cái cáng hai người khiêng mà vẫn thấy nhẹ tênh. Nhưng khi cáng đến gần đình Cổ Loa thì tảng đá trì xuống, hai trai làng không đi nổi. Dân làng đoán công chúa muốn nghỉ lại nơi đây, bèn cho đặt cáng xuống. Nơi ấy, dân làng lập Am Bà Chúa thờ Mị Châu. Về sự linh thiêng của Am Bà Chúa, người ta còn lưu truyền câu chuyện Mị Châu giúp Hai Bà Trưng thắng lớn. Tương truyền, khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh, họ đã chọn Cổ Loa làm căn cứ, kéo quân về. Một đêm nghỉ tại Am Bà Chúa, hai bà nằm mộng thấy một người con gái xinh đẹp, xiêm áo trắng đến khóc: "Em vì thật bụng tin người nên đã gây họa lớn. Nay hai bà chí lớn, khởi quân giết giặc, em xin nguyện âm phù giúp hai bà chiến thắng". Tỉnh dậy, Hai Bà Trưng cho quân mổ lợn, giết trâu cúng công chúa Mị Châu. Sau khi nghe tin ấy, các hào kiệt trong vùng đều nhất tề theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Quả nhiên, trận ấy, Hai Bà Trưng xuất quân và thắng lớn. Lễ hội đền Cuông (đền thờ An Dương Vương) Đền Cuông (hay còn gọi là đền Công) nằm ở lưng chừng núi Mộ Dạ (Diễn Châu, Nghệ An) cũng là một ngôi đền linh thiêng nổi tiếng khắp dân gian xứ Nghệ. Sở dĩ đền có tên như vậy là vì xưa kia, núi Mộ Dạ là nơi sinh sống của rất nhiều chim công. Người dân nơi đây thường gọi chim công theo tiếng địa phương là chim cuông. Do đó, ngôi đền nguy nga nằm trên ngọn núi này cũng được gọi luôn là đền Cuông (đền Công). Đền được lập nên để thờ An Dương Vương. Về nguồn gốc ngôi đền, người dân xứ Nghệ còn kể cho nhau nghe câu chuyện này...Tương truyền, từ rất xưa, một buổi sáng, dân chài ra biển thấy một chiếc kiệu lớn từ biển Đông trôi vào cửa Hiền (một cửa biển đã bị bồi lấp, nay thuộc địa phận xã Diễn Trung). Khi sóng đẩy kiệu lên bờ, dân các làng ven cửa biển ấy đều thi nhau ra khiêng nhưng không sao khiêng nổi. Nhưng đến khi dân làng Cao Ái ra khiêng kiệu thì lại khiêng được. Kiệu được rước về đình làng Cao Ái. Dân làng Cao Ái rất hãnh diện vì cho rằng, hồn thiêng của vua Thục nhập vào trong kiệu đã chọn dân làng mình rước kiệu về. Có kiệu vua rồi, nhân dân mới lập đền thờ. Chỉ riêng việc dựng đền Cuông, trùng tu tôn tạo đền cũng đã đủ cho dân gian thêu dệt nên biết bao nhiêu câu chuyện nữa. Nói như thế để thấy rằng, mỗi cột nanh, mỗi chiếc cổng tam quan, mỗi ban thờ của một ngôi đền khi được dựng nên đều chất chứa biết bao nhiêu sự tích kỳ bí. Sự ra đời của một ngôi đền có thể lưu lại vết tích rõ nét của một truyền thuyết trên một xứ sở, hơn thế, đó còn là sự khơi gọi cả một bầu không gian truyền thuyết, cứ tiếp nối đời đời với những câu chuyện mới có liên quan với truyền thuyết gốc. Nguyễn Thanh Lưu (Viện Văn học) nguồn vietimes
-
Những câu chuyện bí ẩn của gã người Tày Thầy Tào và câu chuyện thần linh người Tày . A Sáng. Thứ năm, 8/5/2008, 07:00 GMT+7 Trong cuộc sống tinh thần của người Tày, thầy Tào ở đẳng cấp cao nhất. Họ là những người có khả năng liên thông với thế giới linh hồn và thần thánh. Thầy Tào có rất nhiều công việc, nhưng công việc quan trọng bậc nhất - đưa linh hồn người chết về nơi yên nghỉ. Từ những nghi lễ của hình thức, chúng ta sẽ tìm thấy những ý nghĩa sâu xa hơn của thầy Tào. Họ cho rằng, linh hồn của con người tồn tại như ý nghĩ. Nếu ý nghĩ của bạn chân thành, trong sáng… khi chết đi, linh hồn bạn sẽ rực rỡ ánh hào quan, bay lượn ở tầng cao nhất của thế giới thần linh. Còn khi sống bạn có ý nghĩ xấu xa, cũng có nghĩa linh hồn bạn nặng nề, đen tối và bị chìm xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn. Và cái thế giới tối tăm đó rất gần với thế giới vật chất của con người vì thế nó luôn đau đớn... Ông nội tôi là thầy Tào nên từ bé tôi đã quen với cảnh cúng bái, bùa chú, làm phép… Và trong bản mệnh tôi cũng có duyên với cái nghề đặc biệt ấy, thế nên tôi thường được đi theo ông mình trong những buổi hành lễ. Nhiệm vụ của tôi rất đơn giản: gõ não bạt. Đó là hai lá đồng có hình như cái đĩa, chúng phát ra tiếng kêu khá dày và ngân dài theo từng nhát gõ. Ngày đó tôi mới chỉ là đứa trẻ nên chưa hiểu lắm về nghề thầy Tào. Tôi chỉ thấy ông tôi được người trong vùng kính trọng, họ luôn cúi chào mỗi khi nhìn thấy ông tôi. Hằng đêm, tôi thường được ngủ với ông và nghe những bài giảng về pháp thuật của thầy Tào. Đó là những câu chuyện liên quan đến linh hồn người chết. Ông tôi bảo, muốn trở thành thầy Tào cần học khoảng 12 năm, đọc thuộc mười vạn bài cúng, viết được mười vạn lá bùa… Nói chung rất trường kỳ chỉ có những người kiên nhẫn và có duyên mới theo được. Trong họ Hoàng nhà mình, nếu tính tướng số, chỉ cháu có duyên với nghề này - ông tôi bảo thế. Có lần tôi hỏi con ma là cái gì? Ông tôi cười rồi nói, con ma là linh hồn của vạn vật khi chết đi. Vạn vật trên thế giới này đều có linh hồn, khi chết đi linh hồn ấy được gọi là con ma. Và trong vạn vật ấy, linh hồn con người là quan trọng nhất, cũng phức tạp nhất, vì thế mới sinh ra thầy Tào. Hồi đó, tôi chưa hiểu những câu nói đầy ý tứ sâu xa của ông tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy những lời của ông mình thật có lý. Quả đúng thế, linh hồn của một cái cây sẽ rất hiền từ như chính cái cây kia vậy, nó vẫn sẽ rì rào tỏa bóng mát, nở những bông hoa thơm ngát, hát những khúc ca riêng của nó, vẻ đẹp của nó làm sao loài người có được? Nó đẹp và đơn giản như chính bản thân nó mà thôi! Con ma người – linh hồn người có cái gì liên quan đến nhau? Và tại sao phải xuất hiện thầy Tào chỉ vì sự phức tạp của con người? Tất cả những câu hỏi đó phải cho đến bây giờ tôi mới lờ mờ nhận ra. Nói cách khác, nếu trên thế giới này không có con người, cũng có nghĩa không còn sự phức tạp và đương nhiên chẳng cần thầy Tào làm gì. Còn trước kia, khi theo ông nội đi hành lễ cho người chết, tôi chỉ nhận được những bài giảng đơn giản của thầy mình. Ông tôi giảng, khi người mới chết, linh hồn chưa dám thoát ra, nó vẫn chưa tin thân xác đã chết, nó nằm im trong lồng ngực và thỉnh thoảng thử bay ra ngoài. Nhưng bên ngoài – cái thế giới của riêng nó thật hãi hùng. Ở đó đã có vô vàn những linh hồn khác đang rình rập. Những linh hồn đó luôn sẵn sàng lao vào cái thân xác mới chết kia để trở lại trần gian. Tất cả những linh hồn xấu xa đều muốn quay lại trần gian vì sự tiếc nuối cuộc sống trần tục, hoặc còn nhiều việc mà chúng chưa làm xong. Hơn nữa chúng bị đày xuống tầng thấp nhất của thế giới linh hồn, vì thế nặng nề và đau đớn. Và nhiệm vụ của thầy Tào là đưa những linh hồn yếu ớt ấy rời khỏi thân xác, đến một nơi an toàn. Để làm được việc đó cần có hai nhãn thần nhìn rõ thế giới linh hồn, hát chính xác những bài ca bùa chú… chỉ khi ấy mới đủ sức đưa linh hồn đi đúng hướng, nếu không linh hồn kia sẽ không có cơ hội đầu thai. Khi tôi tò mò muốn nhìn thấy linh hồn có hình thù như thế nào? Ông tôi cười rồi nói: “… Cứ học đi, đến bao giờ khai mở được nhãn thần sẽ thấy. Linh hồn không có hình thù cụ thể, nó chỉ lờ mờ như một làn khói, nó như ý nghĩ của con người vậy, nghĩ thế nào sẽ có hình thế nấy…”. Rồi ông tôi kết luận, đại loại cũng như đứa trẻ mới sinh ra, cần một bà đỡ, nếu không sẽ rất nguy hiểm. Những bài học kiểu thế diễn ra hàng đêm, nhưng rất tiếc sau này tôi đã không theo học vì nhiều lý do. Trong đó có sự sai lầm của tôi, khi tiếp xúc với nền văn hóa khác – đó là sai lầm thật đáng tiếc. Nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in tất cả những nghi thức và lý giải một cách chi tiết về cách thức đưa linh hồn của người chết về nơi cần đến. 1- Khâm liệm và nhập quan Người Tày quê tôi, mỗi khi có người chết, nhất thiết họ phải mời thầy Tào đến nhà. Việc đầu tiên là khâm liệm cho người chết. Công việc này cực kỳ quan trọng, nếu để xảy ra sơ xuất sẽ vô cùng khó khăn cho thầy Tào và linh hồn yếu ớt kia. Người con trưởng trong nhà phải đi cõng nước từ một cái mỏ thật sạch sẽ, sau đó đun sôi cùng lá bưởi. Khi nước đã chuẩn bị xong, thầy Tào bắt đầu làm phép với những bài hát thần bí. Nội dung của những bài hát đó khuyên nhủ linh hồn đừng nên luyến ái cuộc sống trần tục, hãy đi về với thế giới riêng của mình, cái thân xác này cần được gột rửa và cất kỹ trong áo quan để những linh hồn xấu xa bên ngoài không thể xâm nhập… Thầy Tào cần hát để linh hồn tin rằng, cái thân xác kia đã chết, không còn gì để luyến ái nữa. Người nhà sẽ phải thay quần áo mới cho người chết, lau rửa sạch sẽ bằng nước là bưởi. Sau đó sửa lại tư thế cho thật ngay ngắn. Đặc biệt miệng phải được ngậm bạc trắng do thầy Tào yểm bùa, nếu không sẽ là nơi rất dễ bị linh hồn xấu xa xâm nhập. Tiếp sau, thầy Tào cần vẽ một bài vị - nó như một cái nôi đón linh hồn của người chết và bảo vệ nó khỏi sự phiền nhiễu của những linh hồn bên ngoài. Thầy Tào một tay cầm bài vị, tay kia cầm kiếm, miệng niệm thần chú, nhãn thần rực rỡ, tỏa hết hào quang… xua đuổi những con ma xấu đang vật vờ rình rập. Theo sau ba đệ tử: một cầm chiêng, một cầm não bạt, một cầm cờ phướn (cờ hiệu riêng của thầy Tào), theo sau nữa là đám người nhà. Họ không được phép khóc, nếu chưa có lệnh của thầy Tào. Có lần tôi đã hỏi, tại sao người nhà không được phép khóc, nếu như thầy Tào chưa cho phép? Ông tôi giải thích: tiếng khóc của người nhà có một sức mạnh ghê ghớm, nó như một lực hút cực mạnh, càng làm linh hồn tiếc nuối, khi đó linh hồn sẽ không còn nghe theo lời hát của thầy Tào, có những lúc nó bay ra khỏi bài vị muốn trở lại thân xác vì sự luyến ái trần gian. Và khi ấy tất cả những linh hồn xấu xa bên ngoài sẽ lao vào nó, lợi dụng sự yếu ớt của nó để quay lại thân xác. Nếu thầy Tào không kịp xoay sở, linh hồn yếu ớt ấy có thể tan ra và không bao giờ có cơ hội đầu thai. Thầy Tào bắt đầu vòng quanh áo quan. Mỗi bước đi là một câu hát, kiếm vung lên đầy uy lực, đám đệ tử cần gõ các nhạc cụ theo đúng nhịp đưa của lưỡi kiếm. Âm thanh lúc này thường chầm chậm, êm ái như một bài ru của người mẹ. Tiếng não bạt phải thật dài như gió chạy qua hang núi, tiếng chiêng cũng ngân lên thật ấm áp. Âm điệu của bài hát thật chậm rãi, tỉ tê, dỗ dành. Cũng có lúc thật dứt khoát với tiếng thét đầy uy lực, cùng nhát kiếm vung lên sáng ngời . tiếng não bạt phải căng ra để thị uy trước đám ma quỷ bay lượn bên ngoài.Sau khi đã vòng áo quan đủ 36 lượt, làm nên một vòng hào quang đủ sức xua đuổi đám ma quỷ quấy nhiễu, thầy Tào dừng lại và ra lệnh cho người nhà được khóc. Lúc này tiếng khóc lại có sức mạnh thật huyền diệu. Tiếng khóc ấy (tất nhiên phải khóc thực lòng) sẽ như một đám mây êm ái, bao bọc lấy linh hồn yếu ớt kia, nó như một cái áo mềm mại che phủ lên linh hồn. Và bốn người đàn ông được phép nhấc cái thân xác không còn linh hồn ấy vào trong áo quan. Sau khi đã sửa sang tư thế nằm cho thân xác, người ta phải lấy bốn viên ngói trên mái nhà, kê hai bên đầu thân xác, cấm kị việc đầu người chết bị nghiêng. Hơn nữa người ta rất sợ khi chôn thân xác ấy xuống đất, cùng năm tháng rễ cây có thể ăn sâu vào áo quan, chui vào lỗ tai của người chết – sẽ làm đau đớn linh hồn và ảnh hưởng đến con cháu. Khi đã hoàn thành việc đưa thân xác vào áo quan, tất cả người nhà phải lùi ra xa, thầy Tào ngậm một bát nước bùa, thổi ba lần lên thân xác kia rồi lệnh đóng nắp áo quan lại. Và tại sao thầy Tào lại thổi ba lần nước bùa lên thân xác? Đây cũng là điểm quan trọng khi hành nghề thầy Tào. Việc thổi nước bùa ấy không chỉ mang tính hình thức, cũng không hẳn là gột rửa thân xác. Cái bát nước bùa ấy là cả một bí quyết mà chỉ những thầy Tào có đủ nhãn thần mới tinh luyện được nó. Vì khi thổi bát nước đó lên thân xác người chết, cũng có nghĩa thầy Tào đã đưa một phần linh hồn được gọi là “hen mo” (trông mộ). Nếu không đưa được một phần linh hồn này vào áo quan cũng có nghĩa cái thân xác kia và cả ngôi mộ sau này không còn ý nghĩa. Linh hồn này được giao nhiệm vụ ở lại thân xác, chăm bẵm ngôi mộ và liên lạc với con cháu thông qua những giấc mơ... Còn tiếp ( nguồn vietimes )
-
Thầy Tào và câu chuyện thần linh người Tày của A Sáng (Phần cuối) "…Hơn nữa, khi bước vào giới âm, có vô vàn linh hồn, ở nhiều tầng khác nhau, làm sao có thể nhận ra một linh hồn cụ thể nếu như chỉ dựa vào tên tuổi, quê quán, hay một số di vật mà người còn sống đưa cho. Ở đây cũng thấy rõ họ “bắt chước” thế giới trần trục, theo kiểu tra hồ sơ. Đừng ngây thơ nghĩ rằng, nhắm mắt rồi đọc tên tuổi của họ thì họ sẽ hiện ra, hoặc đưa những di vật (quần áo, đồ đạc...) của linh hồn khi còn sống thì họ cũng hiện về. Nếu hiểu như thế chứng tỏ vị “ngoại cảm” đó chẳng biết gì về giới âm, cũng có nghĩa khả năng “giao tiếp” với linh hồn là sự bịa đặt. Nên nhớ linh hồn chỉ liên thông với thế giới trần tục bằng một “kênh” duy nhất – đó là ý nghĩ...!" Linh hồn không thể làm gì ở thế giới trần tục Sau những đám ma, nếu người nhà còn mơ thấy người chết, chứng tỏ khả năng pháp thuật của thầy Tào chưa cao. Hoặc, khi thực hiện các nghi lễ đã mắc những sai sót nào đó. Và việc người nhà thường nằm mơ thấy người đã chết hiện về là một điều không tốt. Ông tôi vẫn nói, nếu người nhà còn mơ gặp người đã chết, cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa thực sự siêu thoát. Nhưng cũng không hẳn những giấc mơ kia đều do linh hồn của người thân ám ảnh. Điều này phần nhiều phụ thuộc vào người còn sống. Tất nhiên, trong giấc mơ, mọi “thông tin” mà người còn sống nhận được đều không rõ ràng, thậm chí rất vô lý… Nhưng thế nào đi nữa, việc thường xuyên mơ thấy người mới chết chẳng tốt lành gì, đặc biệt với người đang sống.Và việc cắt mộng cho họ vừa đơn giản, vừa phức tạp. Thông thường những người đến xin cắt mộng đều được chấp nhận sau khi đã kể tất cả những giấc mơ thường thấy cho ông tôi nghe. Cũng có trường hợp, sau khi kể lại sự mộng mị của mình, ông tôi bảo cứ về sống bình thường rồi mọi chuyện sẽ kết thúc. Với những trường hợp cần cắt mộng, ông tôi lập một bàn cúng, bảo người cần cắt mộng đọc theo những lời ông nói. Tiếp sau, họ cần ngồi xếp tròn (thiền) khá lâu, để ông tôi nói gì đó bên cạnh. Hết bài cúng người đó được mời lại ăn cơm và đêm đó ngủ lại nhà của tôi. Trước khi đi ngủ, họ được uống một bát nước bùa do ông tôi pha chế. Tất cả những người đến xin cắt mộng, hôm sau đều vui vẻ ra về, họ đều nói đêm qua ngủ rất ngon và chẳng mộng mị gì. Cũng từ đó tinh thần họ rất tốt, mọi ám ảnh, u sầu đều biến mất. Theo ông tôi, giấc mộng của một người còn sống giống như một cái hồ nước. Ở đó những linh hồn có thể bơi vào và nhắn những “thông tin” cần thiết với hy vọng chuyển tải nó đến thế giới trần tục. Bởi khi ta ngủ say, cái “vách ngăn” âm dương thường không được kiểm soát, tùy thuộc vào độ mỏng dày của từng người. Nếu vách ngăn ấy quá mỏng, hoặc mở toang, sẽ rất nhiều linh hồn đi vào để “nhắn” thông tin thông qua ngôn ngữ, hay hình ảnh mà ta thường mơ thấy. Đó cũng là mấu chốt của việc những giấc mộng thường không rõ ràng, lộn xộn, đôi khi vô lý. Vì ông tôi cho rằng, chưa hẳn những “thông tin” trong giấc mơ đó là của người thân mình ở thế giới linh hồn. Rất có thể những thông tin ấy là của các âm hồn khác. Đó là những âm hồn còn quá nặng nề với trần tục, họ luôn luôn muốn quay trở lại trần gian, hoặc chưa bao giờ tin mình đã chết. Cũng có thể họ muốn mượn người đang còn sống làm giúp những việc ở trần gian (chẳng hạn như những oan hồn). Điều này chẳng lợi cho ai, cả người còn sống lẫn linh hồn. Người sống sẽ hoang mang lo sợ, còn linh hồn cũng chẳng bao giờ thực hiện được điều mong muốn. Vì thế, cắt mộng cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát được “vách ngăn” âm dương của người còn sống. Để kiểm soát được nó, cách tốt nhất ông tôi vẫn thường làm: tạo cho họ một độ vững cần thiết của thần kinh. Ở đây không có gì thần bí, cũng chẳng dùng đến phép thuật cao cường nào. Bài thần chú, ông tôi vẫn đọc cho người cần cắt mộng nghe thường là một bài hát bằng tiếng Tày cổ, có âm điệu du dương như ru người ta ngủ. Sau đó, cho họ uống bát nước bùa, thực chất là một loại thảo dược có tác dụng làm dịu thần kinh, kéo độ sâu của giấc ngủ xuống mức độ cần thiết. Nếu ai đó vì quá căng thẳng vẫn bị mộng mị thì uống nhiều lần trước khi đi ngủ, chỉ một thời gian sẽ chẳng còn mộng mị nữa. Có lần tôi hỏi rằng, nếu linh hồn có thể đi vào giấc mơ của mình, thì tại sao không để cho linh hồn đi vào, biết đâu họ sẽ nói được với người còn sống những điều oan uổng mà khi còn sống họ phải gánh chịu? Ông tôi bảo, điều này là tối kị! Âm dương không thể lẫn lộn. Điều quan trọng với các linh hồn là đi đúng đường, tới nơi cần tới, hay vẫn gọi là về với tổ tiên. Ngoài ra họ không cần thiết phải làm gì, cũng như một đứa trẻ, cần ăn uống cho tốt, học hành cho tốt vì đích đến là làm một con người tử tế và có ích. Thông thường oan hồn vẫn được hiểu là linh hồn bị phát tán, bay vật vờ trong giới âm, họ đau đớn, tuyệt vọng, xót thương… chẳng khác nào đứa bé còi cọc, yếu về thể chất, kém về tinh thần sẽ khó trở thành người có ích. Vì thế cách tốt nhất vẫn là khuyên nhủ họ, cầu khấn cho họ - thực sự xót thương họ - cầu cho họ yên nghỉ… Chỉ có những ý nghĩ chân thành, yêu thương ấy mới đủ sức mạnh xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn, gom linh hồn lại, làm nhẹ mọi luyến ái, đưa họ bay lên tầng cao hơn, về với nơi cần về! Việc mở “vách ngăn” ấy để cho họ đi vào giấc ngủ của mình chẳng khác nào làm cho họ ngày càng nặng nề hơn, đau đớn, chẳng bao giờ đi đúng hướng (siêu thoát). Ông tôi còn khẳng định: chỉ có người sống mới làm yên lòng linh hồn (người đã chết), còn linh hồn hay giới âm hoàn toàn không thể làm gì cho người sống. Còn những câu chuyện đại loại như linh hồn báo mộng để người còn sống tìm được một kho vàng nào đó thì không bao giờ có thật. Những câu chuyện đại loại như thế, đều xuất phát từ tham vọng thô thiển của người còn sống. Nếu những linh hồn ấy có biết nơi cất giấu của cải, họ cũng không bao giờ chỉ cho người còn sống. Vì họ tồn tại như ý nghĩ – cái ý nghĩ ấy không bao giờ muốn của cải bị chiếm đoạt bởi người khác, đơn giản vì bản thân linh hồn ấy đã bao giờ tin mình chết đâu! Còn với những linh hồn đã đi đúng hướng, mọi vật chất ở thế giới trần tục không còn quan trọng với họ nữa, điều họ cần ở người còn sống là những ý nghĩ chân thành dành cho họ, chỉ với sức mạnh của lòng từ tâm mới có ích cho họ ở thế giới xa xôi kia. Nếu chiểu theo những quan điểm của ông tôi, mới thấy những linh hồn khác xa với suy nghĩ bình thường của chúng ta. Việc hy vọng vào sự phù trợ của những linh hồn, hay thần thánh ở cuộc sống trần tục sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Sự hy vọng này chỉ xuất phát từ dục vọng của người đời. Mục đích tối thượng của thầy Tào: cho linh hồn yên nghỉ bằng suy nghĩ chân thành. Nếu linh hồn ấy vẫn vật vờ “bay” vào giấc mơ của chúng ta cũng có nghĩa linh hồn ấy chưa tin mình đã chết, họ vẫn tưởng tượng rằng họ là con người, sống ngay cạnh chúng ta, họ vẫn ăn vẫn uống, vẫn làm việc (dù chỉ là lầm tưởng)… và như vậy họ sẽ không thể làm gì cho người sống, nếu có muốn cũng không thể vì khi đó họ chỉ tồn tại như ý nghĩ và ở một thế giới hoàn toàn khác biệt với thế giới trần tục này. Qua thời gian, thân xác không hoàn toàn quan trọng với linh hồn Gần đây nhiều nhà ngoại cảm xuất hiện. Họ không trải qua bất cứ hình thức luyện tập nào để khai mở nhãn thần. Có chăng chỉ là những chuyện mang tính huyền bí. Chẳng hạn như bị tai nạn, rồi thoát chết - tự nhiên nhìn thấy thế giới linh hồn. Việc gọi hồn người chết, được hiểu họ có thể “đối thoại” với một linh hồn nào đó, đặc biệt với những linh hồn liệt sỹ, để chỉ ra những bộ hài cốt của mình bị thất lạc đâu đó trong trần gian. Khả năng đó ngoài tính huyền bí và vô lý còn mang tính vụ lợi - cái tính vụ lợi ở đây thể hiện rất rõ trong hành động có xu hướng chiếm đoạt vật chất. Còn với linh hồn, cái đích cuối cùng và ở nền văn hóa nào cũng chỉ mong họ được yên nghỉ, được đi đến nơi họ cần đến. Ngoài điều đó linh hồn chẳng cần thiết đem theo cái gì để đến thế giới của họ. Việc tìm lại những bộ hài cốt, được hiểu đó là những gì còn lại của thân xác cũng rất quan trọng, nhưng không quyết định sự siêu thoát của linh hồn. Hiểu một cách khác, đó là những vật chất còn lại ở trần gian của linh hồn. Theo quan điểm của thầy Tào, nếu một linh hồn có mồ mả hẳn hoi, sẽ có một phần linh hồn như đã nói được gọi là “Hén Mo”(trông mộ), phần linh hồn này có nhiệm vụ trông coi ngôi mộ và liên lạc với người thân thông qua những giấc mơ. Nhưng đó chỉ có ích khi linh hồn mới lìa khỏi thân xác. Theo thời gian cái “vách ngăn” của người còn sống đã ổn định, cũng đồng nghĩa với việc liên lạc ấy không còn, hoặc rất ít. Thực tế chỉ ra rằng, chúng ta sẽ hiếm hoi mơ thấy cha mẹ, hoặc ông bà khi những người ấy mất khá lâu. Cái bộ hài cốt (thân xác còn lại) nằm ở ngôi mộ là nơi để chúng ta dễ nhớ đến họ, vào những dịp tết lễ chúng ta đến đó thắp hương, cầu khấn, chính khi đó nếu thật thành tâm, hội tụ đủ sức mạnh, ý nghĩ sẽ xuyên qua “vách ngăn” để linh hồn ở giới âm nhận được. Và càng nhiều ý nghĩ chân thành thì linh hồn càng nhẹ nhõm, bay lượn ở tầng cao của thế giới vĩnh hằng ấy. Ở chừng mực nào đó, có thể hiểu ngôi mộ (chứa hài cốt) là nơi để ý nghĩ (sự thành tâm) xuất phát đi xuyên qua “vách ngăn” tới được linh hồn. Ngoài ra không còn ý nghĩa quan trọng nào khác. Nhưng, ý nghĩ của chúng ta, có thể xuất phát bất cứ lúc nào, ở mọi hoàn cảnh đều có thể nghĩ đến người thân đã mất. Vì thế việc có bộ hài cốt, hay ngôi mộ không quyết định đến sự siêu thoát của linh hồn. Nó chỉ mang nhiều ý nghĩa với người còn sống. Chỉ vì người còn sống vẫn quan niệm: thân xác ở đâu, linh hồn ở đó. Nên họ mong muốn tìm được thân xác người thân, chôn cất cẩn thận và thờ cúng để linh hồn được yên nghỉ. Điều này không sai, nhưng hoàn toàn không quan trọng và cần thiết. Với những trường hợp chết không biết thân xác ở đâu, ông tôi vẫn làm ma cho họ một cách bình thường. Và bao giờ cũng làm cho họ một ngôi mộ giả. Ở đó chỉ cần chôn theo một di ảnh, hay một đồ vật nào đó của người chết. Bởi khi làm ma, những phương pháp của thầy Tào đã gom đủ linh hồn, đưa vào bài vị, dẫn đi đúng đường, đến nơi cần đến. Thế nên ngôi mộ giả ấy chỉ mang tính chất tượng trưng, và sau này nếu tìm thấy thấy hài cốt (thân xác) có thể chôn xuống chính ngôi mộ ấy, chẳng ảnh hưởng đến linh hồn ở giới âm. Không nên hiểu linh hồn cũng như con người. Có thể thân xác của người chết ở tận đâu đó rất xa, nhưng linh hồn họ khi ấy tồn tại như ý nghĩ, vì vậy không gian, thời gian chẳng còn ý nghĩa gì. Thân xác có thể ở tận nước ngoài, nhưng chỉ cần ta nghĩ đến họ, lập tức họ ở ngay cạnh ta vì họ là ý nghĩ. Chỉ tiếc, thời nay có quá nhiều “thầy” không biết khả năng khai mở nhãn thần đến đâu, nhưng họ rất biết lợi dụng vào tâm lý của người còn sống để khoa trương thanh thế và trục lợi. Cũng có trường hợp, luyện tập chưa xong, hiểu biết còn ít đã nhảy ra làm thầy nên làm sai lệch những quy luật của âm dương. Có vị “ngoại cảm” đã khăng khăng miêu tả rằng, nhìn thấy linh hồn và trò chuyện được với họ. Và theo như vị đó miêu tả, linh hồn đó mờ ảo có hình như con người, thậm chí còn miêu tả dung mạo của linh hồn ấy. Điều này chứng tỏ, sức tưởng tượng của vị “ngoại cảm” rất nghèo nàn. Thế giới linh hồn không có hình thù nào cụ thể, đó là ý nghĩ: không hình, không màu, không mùi vị, không âm thanh, không vật chất… chỉ có ý nghĩ, rất trừu tượng, rất mơ hồ ngoài sức tưởng tượng của con người. Sự quả quyết của vị “ngoại cảm” ấy, chẳng qua chỉ liên tưởng từ thế giới trần tục rồi áp đặt vào giới âm. Như thế thật thô thiển và lộ rõ sự lòe bịp. Hơn nữa, khi bước vào giới âm, có vô vàn linh hồn, ở nhiều tầng khác nhau, làm sao có thể nhận ra một linh hồn cụ thể nếu như chỉ dựa vào tên tuổi, quê quán, hay một số di vật mà người còn sống đưa cho. Ở đây cũng thấy rõ họ “bắt chước” thế giới trần trục, theo kiểu tra hồ sơ. Đừng ngây thơ nghĩ rằng, nhắm mắt rồi đọc tên tuổi của họ thì họ sẽ hiện ra, hoặc đưa những di vật (quần áo, đồ đạc...) của linh hồn khi còn sống thì họ cũng hiện về. Nếu hiểu như thế chứng tỏ vị “ngoại cảm” đó chẳng biết gì về giới âm, cũng có nghĩa khả năng “giao tiếp” với linh hồn là sự bịa đặt. Nên nhớ linh hồn chỉ liên thông với thế giới trần tục bằng một “kênh” duy nhất – đó là ý nghĩ! Những “thầy” kiểu ấy không chỉ riêng thời nay mới có, từ rất xa xưa vẫn cứ tồn tại những vị như vậy. Ông tôi bảo, thầy Tào cũng có nhiều trường phái, mỗi trường phái đều có cách thức riêng của mình để hiểu biết về linh hồn. Nhưng cái quan trọng bậc nhất vẫn phải đưa được linh hồn về nơi cần đến. Còn tất cả những ai không đi theo quan niệm này đều là tà giáo. Để phân biệt tà giáo hay chính giáo trong thế giới tinh thần con người rất khó khăn. Chỉ có điều, cho đến một ngày tất cả chúng ta đều trở thành linh hồn (chết đi), chỉ khi đó mới thực sự biết cái gì đang đợi linh hồn của mình. Lời kết: Hãy chân thành, trong sáng để bay lượn ở tầng cao nhất của thế giới linh hồn. …Và khi còn sống nếu ý nghĩ của chúng ta chân thành, trong sáng, hành động của chúng ta cao đẹp cũng có nghĩa linh hồn chúng ta sẽ nhẹ nhõm, dễ dàng siêu thoát. Còn ai đó xấu xa trong ý nghĩ, nặng nề với dục vọng, nhiều hành động sai trái, tất nhiên linh hồn nặng nề nằm ở tầng thấp nhất của giới âm. Và khi đó sự đau đớn sẽ đến, cái tầng thấp nhất ấy nằm rất gần với thế giới vật chất phàm tục của con người. Ông tôi - một thầy Tào - bảo thế! A Sáng (Vietimes)
-
Mất ngủ 1 đêm cũng làm bộ não “shut down” tạm thời! 08:12' 29/05/2008 (GMT+7) Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh được rằng thậm chí chỉ một đêm không ngủ cũng đủ làm cho bộ não của bạn mất thăng bằng nghiêm trọng. Dù bạn chỉ một đêm không ngủ cũng đủ làm cho bộ não của bạn hoạt động không ổn định và nó còn hạn chế khả năng ngay cả với những nhiệm vụ đơn giản nhất. Ảnh minh họa (nguồn:new.softpedia)Hầu hết không ai có thể phủ nhận rằng mình đã từng vài lần mất ngủ trong quãng đời của mình, với rất nhiều lý do khác nhau. Sự lo lắng, bồn chồn cho một kỳ thi, sự hoàn thành một dự án vào sáng ngày hôm sau, trẻ quấy... tất cả đều là những nguyên nhân có thể làm chúng ta phải thức cả đêm và để rồi phải đương đầu với những tác dụng của nó vào ngày hôm sau. Chúng ta cũng đã không ít lần tự nhủ rằng một đêm trắng sẽ chẳng ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, nếu như ta chịu khó đi khủ sớm một chút vào tối ngày hôm sau. Tuy nhiên, điều đó không hoàn toàn đúng trong trường hợp này. Một nghiên cứu mới đây của Trường Đại học Y Pennsylvania - xuất bản trên Tạp chí Neuroscience, cho biết rằng chỉ một đêm mất ngủ cũng có thể làm cho bộ não của bạn bị “shut down” tạm thời! David Dinges, một trong những tác giả của nghiên cứu này giải thích: “Bạn hãy thử tưởng tượng xem, giả sử bạn đang ngồi trong một căn phòng và xem một bộ phim với các đèn phòng đang được bật sáng. Nếu như bộ não bạn đã buồn ngủ, ánh đèn sẽ vụt tắt một cách đột ngột. Và dù bạn có buồn ngủ hay vẫn tỉnh táo thì sự chuyển đổi giữa 2 trạng thái trên là rất nhanh.” Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp chụp não fMRI (Functional magnetic resonance imaging/phương pháp chụp cộng hưởng từ chức năng). Phương pháp này kiểm soát và đo lưu lượng máu chảy trong não. fRMI cho thấy rằng tại một số vùng trên não xảy ra hiện tượng nhãng trí - không hoạt động tốt ở những người bị mất ngủ hoặc thiếu ngủ và cho kết quả ngược lại ở những người ngủ đầy đủ. Nghiên cứu cho thấy rằng não bộ thiếu ngủ sẽ đan xen giữa những khoảng thời gian mà não hoạt động gần như bình thường và những khoảng “nhãng trí” nghiêm trọng về khả năng xử lý thị giác và sự tập trung. Qua nghiên cứu này, chúng ta có thể tự rút ra được một kết luận rằng, dù bạn chỉ tự hành mình bằng một đêm không ngủ cũng đủ làm cho bộ não của bạn hoạt động không ổn định và nó còn hạn chế khả năng ngay cả với những nhiệm vụ đơn giản nhất. Điều này có nghĩa rằng tất cả chúng ta không nên thức cả đêm, thậm chí kể cả việc ngủ ít cũng không nên! Bùi Thành (Theo new.softpedia) nguồn vietnamnet
-
Mai04 bạn hãy tìm đoc bài GIẢI HẠN GIẢM HỌA ở Topic Tiềm năng con người , bạn sẽ giải quyết được vấn đề . chúc may mắn !
-
Những cái cười… suy đồi . 23/5/2008, 22:42 GMT+7... Chúng ta đang mất mùa người. Câu nói đó có vẻ văn chương nhưng thật kinh hoàng. Mất mùa lúa ngô nghĩa là chưa mất gì đáng kể. Nhưng mất mùa người thì có thể mất hết mọi thứ. Đau đớn và kinh hãi thay!... Khi bản án được tuyên và còng số 8 đã khoá, có những bị cáo được công an dẫn giải về nơi giam giữ. Chúng ta không hề nhìn thấy một chút gì của sự đau khổ hay ân hận. Ngược lại, những tội nhân kia giơ cao còng số 8 lên và nở nụ cười… rất tươi như chẳng có chuyện gì và cũng như thách thức cả xã hội. Chúng ta từng được nhìn thấy những nụ cười trước kẻ thù của những người hy sinh cuộc đời mình cho sự nghiệp vĩ đại của dân tộc họ. Những nụ cười đó đã để lại trong lòng chúng ta niềm tự hào và kính trọng. Chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy những nụ cười như thế của kẻ phạm tội. Bây giờ thì chúng ta đã nhìn thấy. Nhưng những nụ cười như thế đã làm chúng ta thực sự xấu hổ và rất lo ngại. Khi nhìn thấy cái cười của những kẻ phạm tội ấy, có người bạn tôi đã phải kêu lên: “Một cái cười suy đồi”. Ngẫm cho kỹ thì cái cười ấy đã cho chúng ta thấy nhân cách của con người hiện nay đã quá suy đồi. Trước kia, một kẻ mắc tội dù là nhỏ cũng thấy xấu hổ và nhục nhã trước xã hội. Có kẻ phạm tội đi học tập cải tạo về cả năm ở trong nhà không dám ra đường. Có kẻ bỏ nơi ở cũ đến một nơi khác vì không dám nhìn người quen. Có kẻ phạm tội ăn cắp con gà, con vịt ở quê thấy xấu hổ mà phải bỏ làng, bỏ nước. Những kẻ như thế cho dù đã phạm tội nhưng lương tâm vẫn còn ít nhiều tự trọng. Còn bây giờ, ăn cắp đấy, ăn trộm đấy, ăn cướp đấy, tham ô đấy, tham nhũng đấy… mà lại bị đưa lên báo chí, lên truyền hình thế nhưng vẫn cười như chẳng có gì quan trọng. Vì sao lòng tự trọng của con người bây giờ lại khác con người trước kia? Không phải là do tội lỗi bây giờ được quan niệm khác với trước kia. Tội lỗi mãi mãi vẫn là tội lỗi, cái ác mãi mãi vẫn là cái ác, cho dù xã hội có văn minh đến đâu, có dân chủ đến đâu. Chỉ vì bây giờ, kẻ phạm tội nhiều hơn và còn trắng trợn “rủ rê” nhau phạm tội. Cả một tập thể cùng tham nhũng thì việc gì mà phải xấu hổ. Trước kia, nói đến chuyện mua dâm là nhục nhã lắm. Bây giờ nhiều lúc cả một nhóm người là bạn bè và thậm chí cùng cơ quan rủ nhau đi mua dâm tự nhiên cứ như rủ nhau đi uống cà phê vậy. Cả một tập thể những người xây dựng bàn bạc nhau rút sắt, rút thép trong các công trình xây dựng mà chẳng một chút ngượng ngùng. Bây giờ người ta sẵn sàng làm mọi chuyện chỉ để có lợi cho bản thân. Đấy chính là sự suy đồi. Và không ít người hiểu rằng: cái cười của những kẻ phạm tội kia như muốn nói với xã hội rằng họ đang có tiền, có rất nhiều tiền và họ sẽ đổi thay mức án mà Tòa vừa tuyên. Thực tế, tiền đã đảo lộn quá nhiều giá trị tưởng như mãi mãi bền vững của con người. Không biết có bao nhiêu người để ý đến cái cười vô tư của những kẻ lừa đảo Nhà nước, lừa đảo nhân dân lao động để làm giàu cho chúng. Cái cười ấy là báo động ở cấp cao nhất về nhân cách của con người trong xã hội chúng ta. Nếu đó là những kẻ bụi đời, những kẻ hết tính người, những kẻ không được học hành giáo dục chi hết thì còn dễ hiểu và đỡ lo sợ. Nhưng đó lại là những cán bộ Nhà nước, trong đó có cả những đảng viên, thì cái cười ấy chính là những “vết hoại tử” của một cơ thể. Hỏi có bao nhiêu người nhận ra “Bản thông cáo đen” ấy ??? Có biết bao “Bản thông cáo đen” hay là những “vết hoại tử” từ nhiều năm nay trong xã hội chúng ta mà chúng ta hình như không để ý. Chúng ta mới chỉ để ý đến việc đứng lên trong Toà án để tuyên án kẻ có tội 1, 3 hay 5, 10 năm tù hoặc tử hình. Nhưng chúng ta lại không đứng lên tuyên án nhân cách và lương tâm con người trong xã hội chúng ta. Nếu chúng ta chỉ biết có mỗi việc bắt giữ và tuyên án mức án của kẻ phạm tội, chỉ biết xây các trại giam cho kiên cố… mà không biết tuyên án nhân cách và lương tâm con người đang ngày một suy đồi thì còng số 8, vành móng ngựa, trại giam, trường bắn… phỏng có cứu được sự suy đồi của con người hay không? Không. Câu trả lời duy nhất là vậy. Một cái cười rất tươi và khinh thường thiên hạ của những kẻ có tội làm cho những người có suy nghĩ choáng váng như bị nện một nhát búa trúng đỉnh đầu. Khi con người không còn biết xấu hổ, không còn biết nhục nhã, không còn biết ăn năn thì cái Thiện bắt đầu kết thúc. Một xã hội với 1.000.000 kẻ có tội nhưng biết xấu hổ, biết nhục và biết ăn năn thì chúng ta còn hy vọng vào con người. Còn một xã hội chỉ với 100 kẻ tội nhưng chúng vô cảm với tội lỗi của chúng thì chúng ta càng thêm tuyệt vọng mà thôi. Và suốt một năm qua, chúng ta từng chứng kiến biết bao hành động của sự vô cảm của con người đối với tội lỗi của họ trong xã hội chúng ta. Hỏi có những ai giật mình vì những “Bản thông cáo đen” như thế ??? Tôi chỉ là một người bé mọn trong xã hội này. Nhưng tôi cam chắc rằng, nếu chúng ta không biết và không dám tuyên án sự suy đồi của nhân cách chúng ta như hiện nay một cách thực sự thì chúng ta sẽ bị phá sản hoàn toàn trong công cuộc xây dựng một xã hội như chúng ta mong muốn. Một người bạn tôi nói: Chúng ta đang mất mùa người. Câu nói đó có vẻ văn chương nhưng thật kinh hoàng. Mất mùa lúa ngô nghĩa là chưa mất gì đáng kể. Nhưng mất mùa người thì có thể mất hết mọi thứ. Đau đớn và kinh hãi thay! Người quan sát Vietimes nguồn vietimes
-
Thuốc từ hoa hướng dương Thứ ba, 27/5/2008, 08:07 GMT+7 Hoa hướng dương tính ôn, vị ngọt, vào hai kinh: can, phế, có công năng khư phong, sáng mắt, thông thoáng, mao khổng ở da, chữa đau đầu, huyễn vựng, mặt má sưng và đau răng... Trà hoa hướng dương: Hoa hướng dương 20g, đường phèn 10g, câu kỷ tử 50g. Hoa hướng dương rửa nhanh và sạch, vớt ra, để ráo. Cho hoa hướng dương vào nồi, thêm câu kỷ tử, đường phèn và 500ml nước, đung sôi nhỏ lửa độ 2 phút là được. Có tác dụng cải thiện tình trạng mắt mệt mỏi, tăng lực. Hoa hướng dương nấu với sò: Sò 0,5kg, hoa hướng dương 20g, gừng tơ 1 thìa, bao vải 1 cái, muối 1 thìa. Cho sò vào nước ngâm, bó vỏ rồi để ráo cho hoa hướng dương vào bao vải, thắt chặt miệng bao cho 3 bát nước vào nồi, cho bao vải hoa hướng dương vào đun, khi sôi cho tiếp thịt sò và gừng. Đợi nước sôi lại cho muối điều vị, vớt bao vải ra, uống nước thang, ăn thịt sò.Có tác dụng: Thanh can hoả, tiêu trừ mệt mỏi. Chữa đau đầu: Hoa hướng dương 200g, sắc nước thêm đường đỏ, uống trị kinh nguyệt không đều, thống kinh, triều nhiệt ở tuổi mãn kinh, đầu vựng, đầu trướng, sán khí, bệnh lậu dương vật. Chữa bỏng: Hoa hoặc lá hướng dương nghiền thành bột, lấy dầu vừng chế thành cao đắp chữa vết thương bỏng. Chữa ho: Hoa hướng dương từ 1 – 2 đoá, thêm đường phèn sắc uống trị ho (nhất là chữa ho gà), đờm xuyễn, nhuận phế, thông yếu hầu, đẹp nhan sắc. Chữa má sưng: Hoa hướng dương 20g sắc uống hoặc trưng thành than rồi thêm 1 – 2 quả trứng gà nấu kỹ, trị đầu choáng mắt hoa, đau đầu khó chịu, mặt má sưng đau, ngực đầy ngắn hơi... Chữa cảm mạo: Hoa hướng dương 12g, hoa mào gà trắng 8g, lá tử tô 20g sắc uống thành trà, chữa chứng nổi mề đay cảm phong hàn, da dẻ quá mẫn cảm, phong chuẩn nổi cục, có thêm đường phèn lượng thích hợp. Chữa viêm tuyến vú: Hoa hướng dương 200g sắc đặc thành dạng cao, đắp vào chỗ đau chữa viêm khớp, thũng thống, viêm tuyến vú. Chữa cao huyết áp: Hoa hướng dương 30g, lá dâu 20g, mộc nhĩ 10g, sắc uống ngày một thang. Theo Lương y Vũ Quốc Trung Khoa hoc và đời sống nguồn tintuconline
-
"Ý nghĩa" của sắc màu trái cây Thứ tư, 28/5/2008, 11:42 GMT+7 Mỗi màu sắc của trái cây, rau củ quả tượng trưng cho một loại thực vật dinh dưỡng phyto, rất có ích cho sức khỏe. Các nhà nghiên cứu cho rằng biết cách làm phong phú màu sắc cho bữa ăn hàng ngày từ các loại trái cây và rau quả, bạn sẽ bảo vệ cơ thể khỏi các bệnh ung thư, tim mạch... Màu đỏ của cà chua, màu vàng rực của dứa... không chỉ giúp chúng thêm đẹp. Mỗi màu sắc còn tượng trưng cho một loại thực vật dinh dưỡng phyto, giúp trái cây, rau, củ tự bảo vệ khỏi tác hại của ánh mặt trời, bệnh tật, nhiệt độ khắc nghiệt... Chúng tạo ra những hóa chất chống lại quá trình ô-xy hóa. viêm nhiễm, sưng tấy... Những thành phần này sẽ chuyển vào cơ thể khi chúng ta ăn vào. Mỗi màu sắc của từng loại trái cây đều có công dụng riêng và rất tốt cho sức khỏe con người 1. Màu xanh lá: Từ quả kiwi, bắp cải xanh, xà-lách, cải xoăn, quả bơ... Lợi ích sức khỏe: Những loại rau có màu xanh lá chứa rất nhiều lutein và zeaxanthin. Đây là hai loại caroteniod giúp bảo vệ thị lực và làm giảm nguy cơ đục thủy tinh thể, dễ dẫn đến mù lòa. Bắp cải xanh, cải xoăn và các loại rau thuộc họ cải còn chứa isothiocyanates, một thành phần chống ung thư. 2. Màu đỏ: Từ cà chua, hành đỏ, dưa hấu, dâu tây... Lợi ích sức khỏe: Lycopene, hợp chất có trong cà chua, dưa hấu, giúp làm giảm triệt để nguy cơ mắc bệnh về tim mạch. Resveratrol có trong nho và vang đỏ giúp chữa trị các bệnh về phổi, hen suyễn, làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. 3. Màu cam: Từ cà rốt, quả mơ, xoài, cam, khoai lang màu cam... Lợi ích sức khỏe: Các loại rau củ mang gam màu này được xem là ngân hàng chứa beta-carotene. Chúng kích thích hệ kháng thể hoạt động tích cực, duy trì làn da, xương cốt khỏe mạnh và thị lực tốt. Kali có trong cam, quýt giúp ngăn chặn sự phát triển bệnh tim mạch. 4. Màu trắng: Từ quả lê, chuối, bông cải trắng, nấm, hành trắng, tỏi... Lợi ích sức khỏe: Allicin, thành phần có nhiều nhất trong hành trắng và tỏi giúp chặn đứng sự sinh sôi, nảy nở của các tế bào ung thư. Quả nhỏ là giúp giảm nếp nhăn và tăng sức đề kháng cho cơ thể Phytoncides trong tỏi là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn. Hoạt tính màu vàng giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành mạch máu. Nhờ đó, tỏi có tác dụng chữa bệnh cao. Một số quả khác thuộc nhóm này còn chứa flavanoid, làm giảm nguy cơ tim mạch và một số loại ung thư khác. 5. Màu đen: Từ quả nho đen, dâu ta đen... Lợi ích sức khỏe: Loại quả này chứa nhiều sinh tố C, chất chống oxy hóa, bảo vệ tế bào, chống lại sự hình thành gốc tự do. Chúng giúp bạn trẻ lâu, giảm nếp nhăn, tăng sức đề kháng... 6. Màu vàng: Từ bưởi, dứa, ớt chuông vàng, chanh dây, quả bí ngô, chanh... Lợi ích sức khỏe: Các nhà nghiên cứư cho rằng limonoids, có nhiều trong nước cốt chanh, giúp phòng chống bệnh ung thư da, phổi, bao tử và ruột. Ớt chuông vàng chứa rất nhiều vitamin C, hỗ trợ kháng thể. 7. Màu tím: Từ nho tím, mận, hành tím, cà tím... Lợi ích sức khỏe: A-xít ellagic là thành phần nổi trội nhất trong loại trái, quả màu tím. Chúng có khả năng vừa chống ung thư, vừa làm giảm quá trình lão hóa, duy trì tuổi thanh xuân. Theo Tạ Ngọc Phúc Tiếp thị Gia Đình nguồn tintuconline
-
Qua bài viết của các anh Wild có trao đổi với Thiên Sứ nhưng vì Anh ấy đang ở Hà Nội nên Anh ấy có gởi lời đến Gia Nhân về việc giới thiệu quyển sách Lục Độ tập kinh , anh ấy bảo đã đọc . qua điện thoại anh có nhờ tôi gõ vài hàng cám ơn và hẹn về tp có thời gian điều kiện trình bày tiếp về đề tài này .
-
Chọn nghề phù hợp với tính cách Ngày sinh của bạn có thể ảnh hưởng đến tính cách và sở thích. Dựa trên những đặc điểm đó, bạn có thể tìm ra công việc phù hợp với mình. Dương Cưu (21/3 - 19/4) Tính cách: Tham vọng, sáng tạo, tự tin và độc lập. Bạn có thể hơi thiếu kiên nhẫn nhưng trí tưởng tượng và năng lượng dồi dào của bạn sẽ truyền cảm hứng cho người khác, khiến bạn trở thành một nhà lãnh đạo bẩm sinh. Nghề phù hợp: Những người này sẽ thành công trong các lĩnh vực sáng tạo như báo chí, công chúng, xuất bản và quảng cáo. Những vị trí lãnh đạo trong quân sự hay hành pháp cũng phù hợp. Nên tìm các công việc cho phép bạn thỏa trí tưởng tượng và làm việc độc lập hay với tư cách lãnh đạo. Kim Ngưu (20/4 - 20/5): Tính cách: Thực tế, trung thành, đáng tin cậy và kiên nhẫn. Bạn thường có quan điểm mạnh mẽ nhưng cũng không dễ bị chọc tức. Nghề phù hợp: Với bản tính ngăn nắp của bạn, bạn có khả năng thành công trong tài chính và kế toán. Những người Kim Ngưu nghệ sĩ cũng nên tìm việc trong lĩnh vực kiến trúc hoặc thiết kế phong cảnh. Song Sinh (21/5 - 21/6): Tính cách: Nhiệt tình, cởi mở, lạc quan và thích khám phá tìm hiểu. Bạn đầy sinh lực và nhiệt huyết, luôn thích tìm hiểu những điều mới lạ. Nghề phù hợp: Do bạn luôn thích mày mò kiến thức, hãy tìm những công việc giúp bạn luôn học được điều mới. Hãy nghĩ đến công việc trong ngành khoa học, nghiên cứu, báo chí điều tra hay lĩnh vực cần đi du lịch nhiều. Song sinh cũng có bàn tay khéo léo nên có thể làm việc về xây dựng và nghề mộc. Cự Giải (22/6 - 22/7): Tính cách: Đầy lòng trắc ẩn, nghị lực, có trực giác tốt và trí tưởng tượng phong phú. Sự nhạy cảm, trung thành và kỹ năng tổ chức của bạn sẽ khiến bạn trở thành một người chăm sóc tuyệt vời. Nghề phù hợp: Hãy hướng tới những nghề chăm sóc sức khỏe, công tác xã hội, tâm lý hay dạy học. Bạn cũng có thể nghĩ đến một công việc trong ngành luật, nơi bạn có thể bảo vệ và bào chữa cho người khác. Sư Tử (23/7 - 22/8): Tính cách: Tham vọng, tự tin, lạc quan, thẳng thắn và thân mật, thoải mái. Sự xuất hiện ấn tượng và hào phóng của bạn luôn khiến người khác bị hút về phía bạn. Nghề phù hợp: Bạn sẽ cảm thấy thoải mái nhất trong vị trí lãnh đạo, nơi năng lượng của bạn được tỏa sáng. Hãy tìm một công việc trong ngành chính trị hoặc phim ảnh, hay kinh doanh tư nhân nơi bạn có thể điều hành người khác. Xử Nữ (23/8 - 22/9): Tính cách: Có óc quan sát, tỉ mỉ, thân thiện và chăm chỉ. Nhờ sự kiên nhẫn và bản chất phân tích của mình, bạn là những người giải quyết vấn đề rất hiệu quả. Nghề phù hợp: Lối tư duy logic và hay tò mò của bạn khiến bạn trở thành ứng cử viên tuyệt vời cho các ngành như y tế, luật, nghiên cứu hoặc dạy học. Do Xử nữ luôn để ý đến từng chi tiết, họ dễ thành công trong lĩnh vực kế toán, thống kê và lập trình. Thiên Bình (23/9 - 22/10): Tính cách: Khéo léo trong giao tiếp, mơ mộng, dễ tính, sáng tạo và thích hòa đồng. Bản chất đáng tin cậy và thích giao du của bạn khiến bạn luôn được mọi người yêu mến. Nghề phù hợp: Tư tưởng công bằng và quan tâm tới mọi người khiến bạn phù hợp với vị trí trong ngành dịch vụ công cộng, tổ chức từ thiện, luật và y tế. Bản tính tưởng tượng cũng dễ đưa bạn tới lĩnh vực nghệ thuật. Bọ Cạp (23/10 - 21/11): Tính cách: Có ý chí, có động lực, nghị lực và đầy nhiệt huyết. Sức mạnh tinh thần và sự tháo vát của bạn khiến người khác luôn cảm thấy yên tâm khi ở bên. Nghề phù hợp: Sự hăng hái, động lực và khả năng phân tích của bạn khiến những lĩnh vực như chính trị, điều tra và quân sự phù hợp với bạn. Một công việc trong ngành tình báo, vật lý hay thiên văn học cũng phù hợp với bản tính tò mò của bạn. Tính cách: Có óc quan sát, tỉ mỉ, thân thiện và chăm chỉ. Nhờ sự kiên nhẫn và bản chất phân tích của mình, bạn là những người giải quyết vấn đề rất hiệu quả. Nghề phù hợp: Lối tư duy logic và hay tò mò của bạn khiến bạn trở thành ứng cử viên tuyệt vời cho các ngành như y tế, luật, nghiên cứu hoặc dạy học. Do Xử nữ luôn để ý đến từng chi tiết, họ dễ thành công trong lĩnh vực kế toán, thống kê và lập trình. Thiên Bình (23/9 - 22/10): Tính cách: Khéo léo trong giao tiếp, mơ mộng, dễ tính, sáng tạo và thích hòa đồng. Bản chất đáng tin cậy và thích giao du của bạn khiến bạn luôn được mọi người yêu mến. Nghề phù hợp: Tư tưởng công bằng và quan tâm tới mọi người khiến bạn phù hợp với vị trí trong ngành dịch vụ công cộng, tổ chức từ thiện, luật và y tế. Bản tính tưởng tượng cũng dễ đưa bạn tới lĩnh vực nghệ thuật. Bọ Cạp (23/10 - 21/11): Tính cách: Có ý chí, có động lực, nghị lực và đầy nhiệt huyết. Sức mạnh tinh thần và sự tháo vát của bạn khiến người khác luôn cảm thấy yên tâm khi ở bên. Nghề phù hợp: Sự hăng hái, động lực và khả năng phân tích của bạn khiến những lĩnh vực như chính trị, điều tra và quân sự phù hợp với bạn. Một công việc trong ngành tình báo, vật lý hay thiên văn học cũng phù hợp với bản tính tò mò của bạn. Nhân Mã (22/11 - 21/12) Tính cách: Tích cực, ưa phiêu lưu mạo hiểm, có nguyên tắc và chân thành. Bạn rất thích du lịch, học hỏi những điều mới và truyền bá những kiến thức mới học được cho người khác. Nghề phù hợp: Vốn hay triết lý, bạn phù hợp với ngành khoa học, thần học, luật, chính trị và dịch vụ công cộng. Những nghề cho phép bạn đi du lịch cũng thỏa mãn sở thích của Nhân Mã. Nam Dương (22/12 - 19/1): Tính cách: Có trách nhiệm, kỷ luật, tham vọng và luôn thể hiện chủ quyền. Bản tính nghiêm túc và luôn có mục tiêu của bạn giúp bạn luôn thành công trong mọi công việc. Nghề phù hợp: Giỏi trong tính toán và tiền bạc, bạn sẽ phát triển trong những ngành kinh doanh nơi bạn được đảm đương nhiều trách nhiệm. Một số Nam Dương cũng khéo léo với đôi tay nên sẽ phù hợp với ngành kỹ sư xây dựng. Bảo Bình (20/1 - 28/2): Tính cách: có tính đổi mới, bao dung, và nhanh trí. Sáng tạo và độc lập, bạn đặt ra những xu hướng mà người khác theo đuổi. Nghề phù hợp: Óc thẩm mỹ của bạn giúp bạn thành công trong các ngành nghệ thuật như nhiếp ảnh, âm nhạc, viết lách và diễn xuất. Bảo Bình cũng là những người nhìn xa trông rộng nên phù hợp với ngành khoa học, hàng không và công nghệ máy tính. Song Ngư (19/2 - 20/3): Tính cách: Dễ thông cảm, kiên nhẫn, có óc nghệ sĩ và trung thực. Do bản tính nhân hậu và có trực giác, người khác thường tìm đến bạn để được giúp đỡ. Nghề phù hợp: Lòng trắc ẩn của bạn khiến bạn phù hợp với ngành chăm sóc sức khỏe, công việc xã hội, tổ chức từ thiện hay khoa học thú ý. Óc thẩm mỹ và trí tưởng tượng của Song Ngư cũng giúp bạn thành đạt trong điện ảnh, sân khấu. M.T. (theo MSN) nguồn vnexpress.net
-
Đại thi hào Nguyễn Du là chú vợ vua Gia Long Thứ ba, 27/5/2008, 16:13 GMT+7 Tháng 12-2005, trong lần về Tiên Điền, Hà Tĩnh dự lễ kỷ niệm 240 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, biết tôi là người Bắc Ninh, các cụ địa phuơng đã ngâm cho nghe đôi câu thơ - đối cổ: Trai Tiên Điền tình anh Hồng Lĩnh Gái Kinh Bắc thanh sắc Tiêu Tương Và tặng tôi cuốn "Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả". Ánh sáng từ cuốn gia phả Tượng Đại thi hào Nguyễn Du "Cào thơm lần giở" cuốn gia phả của gia tộc Đại thi hào Nguyễn Du, tôi như được lãng du về miền cổ tích và những tranh tình sử thơ mộng. Cụ tổ 9 đời của Đại thi hào Nguyễn Du là Trạng nguyên Nguyễn Thiến (đỗ năm 1532) vốn quê xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay là Hà Tây); có người cháu nội là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, thời Lê Trung Hưng có dự mưu phục tại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phuơng Nam, giấu hẳn tông tích, đến sinh cơ lập nghiệp tại Tiên Điền, trở thành người khai sáng ra dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Đến đời thứ 6 thì dòng họ này đã nổi tiếng với tiến sĩ khai khoa Nguyễn Nghiễm đỗ Hoàng giáp năm 1731 lúc 24 tuổi và Nguyễn Huệ (anh ruột Nguyễn Nghiễm, bác Nguyễn Du), đỗ tiến sĩ năm 1733. Cụ Nguyễn Nghiễm làm quan thời vua Lê - chúa Trịnh lên tới chức Tể tuớng - Đại tư đồ, tước Xuân quận công. Quan Tể tuớng giỏi ca trù, hát xuớng ra Thăng Long nhậm chức đã say mê giọng ca quan họ của các liền chị ở vùng Kinh Bắc nên cưới bà bà Trần Thị Tần, quê Hoa Thiều, Hương Mạc, Từ Sơn và sinh ra Thi hào Nguyễn Du. Bà tư Nguyễn Thị Xuyên, quê Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc sinh ra Nguyễn Quýnh. Nhưng thông tin đáng lưu ý nhất mà cuốn gia phả đã giục bước chân tôi đi điền dã là thân thế bà vợ thứ năm của cụ Tể tướng: "Nguyễn Trừ (1760-1809), anh trai thứ năm của Nguyễn Du vẫn lưu ở quê mẹ (con bà Trắc thất Nguyễn Thị Xuân; người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Năm 1779, Trừ đỗ Tứ trường, thời Chiêu Thống được bổ Tri huyện Siêu Loại, thăng Tri phủ Kinh Môn, đổi làm Tri phủ Nam Sách. Năm Gia Long thứ 8 (1890), ông mắc bệnh và mất. Nguyễn Trừ có con trai Nguyễn Trù làm Tri phủ Vĩnh Tường; con gái Thị Uyên giỏi nghề thuốc được tuyển vào làm cung tần của vua Gia Long, rất được yêu quý". Như vậy cụ Nguyễn Trừ là Quốc trượng nhà Nguyễn (bố vợ vua) và Đại thi hào Nguyễn Du là chú vợ vua Gia Long. Đôi câu đối nối mạch cội nguồn Trong ngôi nhà cổ làm bằng gỗ xoan, cột cái to vừa một người ôm, cấu trúc và hoa văn họa tiết kiểu cuối Lê, đầu Nguyễn, chúng tôi được 2 anh em cụ Nguyễn Thinh, 86 tuổi và cụ Nguyễn Thanh Bình, 67 tuổi, tiếp. Ngắm nhìn đôi câu đối cổ, nền gỗ sơn ta màu đen, chữ thếp vàng đã phôi pha treo hai bên bàn thờ cổ: "Lưỡng triều danh tể tướng. Nhất thế đại nho sư (Tể tướng uy danh hai triều đại. Nhà nho lừng lẫy nhất một thời), chúng tôi vô cùng mừng rỡ vì đây chính là những từ ngữ hàm súc nhất mà người thời Lê - Trịnh đã ngợi ca dòng họ Nguyễn Tiên Điền, ghi nhận công lao cụ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm là Tể tuớng kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám và con trai trưởng là tiến sĩ Nguyễn Khản cũng được giữ chức Nhập nhị Tham tụng (tương đương Tể tướng), Tả tư giảng (dạy chúa Trịnh học lúc còn là thế tử) và Tế tửu Quốc Tử Giám. Quan sát kỹ thì thấy ở đôi câu đối có 2 dòng lạc khoản:1, Long Phi Mậu Thìn thu2, Huân Mộc bái thưXét lên tự người viết Huân Mộc hàm nghĩa là "Tắm gội bằng nước cỏ thơm" thì có thể hợp với cụ Nguyễn Trừ (1760-1809), con trai thứ năm của Nguyễn Nghiễm. Vậy năm làm câu đối này có lẽ là năm Mậu Thìn 1808, lúc cụ Nguyễn Trừ đang là Tri phủ Nam Sách. Ngôi mộ quan Tri phủ Nam Sách bố vợ vua Gia LongChúng tôi cùng 2 cụ Thinh và cụ Bình ra viếng mộ cụ Tổ khai lập nên chi họ Nguyễn Tiên Điền tại Tiêu Sơn (Tương Giang) thì được đọc tấm bia đá cổ kích thước khoảng 30x50cm. Mặt trước khắc: Cố Nam Sách phủ tri phủ Nguyễn Hầu, Nghệ An trấn, Đức Thọ phủ, Tiên Điền xã nhân dã. Mặt sau: Minh Mệnh thập nhất niên chính nguyệt cốc nhật phụng khắc ư Vĩnh Tường phủ công sở. Những thông tin này kết hợp với ghi chép trong "Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả" thật phù hợp và đủ để kết luận: Đây là ngôi mộ cụ Nguyễn Trừ - cố Tri phủ Nam Sách quê ở xã Tiên Điền, phủ Đức Thọ, trấn Nghệ An do Tri phủ Vĩnh Tường (con trai Nguyễn Trừ) khắc năm Minh Mệnh thập nhất (ngày lành tháng Giêng năm 1830). Bức hoành phi do quan Chánh sứ của vua Càn Long tặng Vua Gia Long Trong lúc vui nói chuyện gia tộc, hai cụ cho biết thêm, năm xưa các cụ còn một bức hoành phi nữa, nhưng do đời sau gia cảnh khó khăn nên đã bán mất, may mà đôi câu đối mang nội dung quá hiển hách nên không ai dám mua về, nên còn lưu giữ, được treo ở nhà thờ tổ đến nay. Tôi bàng hoàng sững sờ, xúc động và mừng khôn xiết khi thấy 4 chữ thếp vàng rực sáng trên cao: Dịch thế Thư hương (đời đời vinh quanh nhờ văn chuơng sách vở). 2 dòng lạc khoản là: Bên phải: Càn Long Tân Tỵ, lạp tiền nhất nhật sách phong Chánh sứ Đức Bảo đề Bên trái: Minh Mệnh Giáp Ngọ... vọng phụng... ư Vinh Tường tân tu Đối chiếu trong gia phả thấy chép: "Tháng 12 năm ấy (Tân Tỵ), sứ nhà Thanh sang sắc phong, Nguyễn Nghiễm được sai đến Thiều Dao công quán thăm hỏi, ông có làm thơ tặng Chánh sức là Đức Bảo và Phó sứ là Cố Nhữ Tu. Hai người rất khen trọng và có họa đáp. Đức Bảo lại viết 4 chữ Dịch thế Thư hương tặng ông". Không còn nghi ngờ gì nữa, thông tin trong gia phả và bức hoành phi cổ thật trùng khớp, có thể kết luận chính xác rằng: Tại ngôi nhà cổ ở ngõ "Quan Phủ" thôn Hưng Phúc, xã Tương Giang, huyện Từ Sơn (xưa là Tiêu Sơn, Yên Phong, Kinh Bắc) do cụ Nguyễn Trừ (con trai Nguyễn Nghiễm), anh trai Đại thi hào Nguyễn Du) tạo dựng còn lưu giữ được một đôi câu đối cổ Lưỡng triều danh tể tưởng. Nhất thế đại nho sư tạo tác năm Mậu Thìn 1808 và một bức hoành phi Dịch thế Thư hương do Chánh sứ của vua Càn Long và Đức Bảo viết tặng cụ Tể tướng Nguyễn Nghiễm vào truớc tháng chạp năm Tân Tỵ (1761) một ngày. Bức hoành phi này chắc năm 1761 Chánh sứ Đức Bảo viết tặng vào giấy hoặc lụa, đến năm Minh Mệnh Giáp Ngọ (1834) cháu nội cụ Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Trù làm Tri phủ Vĩnh Tường mới chuyển sang tần tu bằng gỗ sơn son thếp vàng như hiện treo ở nhà thờ họ Phạm. Chúng tôi đã thông báo những tư liệu trên cho ông Đinh Sỹ Hồng, Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông Hồng đã cử 2 cán bộ là Lê Vân và Hồng Vinh ra Bắc Ninh cùng tôi về Tiêu Sơn thắp hương trước mộ cụ Nguyễn Trừ và chiêm ngưỡng, thẩm định các di vật văn hóa quý giá trên. Gia đình cụ Thinh và cụ Bình rất phấn khởi khi được chúng tôi và cán bộ Bảo tàng Nguyễn Du khẳng nhận chắp nối dòng họ Nguyễn Tiêu Sơn vào dòng đại tông Nguyễn Tiên Điền và gia tộc đã nhờ thợ giỏi làm phiên bản bức hoành phi và đôi câu đối cung tiến về nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền vào ngày 1 tháng 10 năm Đinh Hợi (10-11-2007). Bản Truyện Kiều chữ Nôm ở gia đình hậu duệ cụ Nguyễn Trừ Khi hỏi về sách vở của các quan phủ xưa, hậu duệ cụ Nguyễn Trừ cho biết: "Trước còn một cuốn gia phả, nhưng đến năm lụt 1971 thì thất lạc, may còn một cuốn Truyện Kiều nhưng cũng nát lắm rồi". Chúng tôi mừng rỡ khôn xiết, run run mở ra xem, thấy đây thực là một bản Truyện Kiều cổ, khắc ván in trên giấy bản, có kích thước 12x17cm. Cuốn Truyện Kiều chữ Nôm in theo cách khắc ván này bị mất hẳn 8 trang đầu, 7 trang cuối, các trang 9, 10, 11, 12 chỉ còn non nửa trang phía gáy sách. Nhận xét chung là bản Truyện Kiều sưu tầm được ở nhà cụ Nguyễn Trừ gọi là bản Tiêu Tương, hình thức giống các bản Kiều đời Tự Đức. Bản Kiều này ở câu 1728: Tuồng chi những giống bơ thờ quen thân. Câu 2066: Khen rằng khéo giống của nhà Hoạn nương. Và câu 1988: So vào với Thiếp Lan Đình nào thua, ...lại còn quý hơn các bản Kiều cổ đời Tự Đức vì không kị húy tên vua Gia Long là Chủng (âm Nôm là Giống) và cũng chẳng kị húy chữ Lan là mẹ vua Gia Long. Việc kị húy vua Tự Đức cũng không được thực hiện nghiêm chỉnh. Từ đầu đến trang 102 không kị húy chữ Thì, Nhậm (tên húy vua Tự Đức); chỉ từ trang 103 trở đi mới kiêng húy hai chữ trên. Do vậy có thể suy luận bản Truyện Kiều này khắc vào cuối thời Thiệu Trị, đầu đời Tự Đức (1847-1848), nghĩa là vào hàng cổ nhất trong số các bản Kiều sưu tập được hiện nay. Châu về Hợp Phố Cụ Bình tâm sự: "Thời gian trôi qua, chiến tranh lưu lạc, các cụ chúng tôi về quê ngoại sống đã lâu. Trước, nhà có giữ bản gia phả, nhưng sau bị thất lạc. Bây giờ quay về, chẳng có bằng chứng gì, sợ bị mang tiếng thấy người sang bắt quàng làm họ, nên hàng năm đều tưởng nhớ, nhưng chẳng dám về". Chúng tôi trân trọng tặng gia tộc bản "Hoan châu - Nghi Tiên Nguyễn Gia thế phả", cụ Bình xúc động đón nhận và cho đánh máy tính lại toàn văn, sao nhiều bản, giao cho mỗi gia đình giữ một bản để "nối mạch cội nguồn". Họ Nguyễn Tiên Điền có dòng dõi từ Trạng nguyên Nguyễn Thiến đời nhà Mạc ở Canh Hoạch, trấn Sơn Nam; trài nhiều đời ở Hồng Lĩnh - Lam Giang vẫn nối tiếp được truyền thống khoa bảng, văn võ toàn tài của tổ tiên mà dân Hoan Châu đã ca ngợi. Bao giờ ngàn Hồng hết cây Sông Lam hết nước, họ này hết quan Đến đời cụ Hoàng giáp Tể tướng Nguyễn Nghiễm lại gắn bó với vùng Kinh Bắc để sinh thành ra cho dân tộc Đại thi hào Nguyễn Du mà người xứ Bắc vẫn nhắc nhở trong câu thành ngữ "Trai Tiên Điền - Hồng Lĩnh, Gái Kinh Bắc - Tiêu Tương". Và nay, qua duyên may run rủi, chúng ta lại biết được tại Tiêu Sơn, Tương Giang, Từ Sơn, một nhánh của dòng họ Nguyễn Tiên Điền do Nguyễn Trừ (anh trai Nguyễn Du), lại là bố vợ vua Gia Long, từng làm Tri phủ Nam Sách, sinh con trai là Nguyễn Thích (Tri phủ Nguyễn Hưng, Nam Định), Nguyễn Trù (chi phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) và con gái là Nguyễn Thị Uyên, sau này là cung tần của vua Gia Long, đã nối tiếp xứng đáng truyền thống vẻ vang của gia tộc. Theo Nguyễn Khắc Bảo An ninh thế giới nguồn tintuconline
-
An Dương Vương và những dấu chân trần gian! (Phần I) Thứ ba, 20/5/2008, 07:00 GMT+7 Truyền thuyết An Dương Vương đã được ghi chép lại trong nhiều sử sách với nhiều cái tên như: Truyện Loa Thành, Truyện Thục Vương, Truyện Mị Châu, Truyện Rùa Vàng, Truyện thần Cao Lỗ, Truyện Nước Giếng - Ngọc Trai, Truyện Mị Châu - Trọng Thủy... Những câu truyện trong dòng truyền thuyết An Dương Vương nêu trên đều có cái lõi chung nhưng không hoàn toàn như nhất ở các tiểu tiết, các tên gọi cụ thể. Có lẽ chính vì thế mà truyền thuyết này được xem là một hiện tượng phức tạp, không chỉ làm đau đầu giới nghiên cứu folklore mà ngay cả những nhà sử học, dân tộc học cũng không ít lần kỳ công khám phá. Tính đa chiều, phức diện của truyền thuyết này từng được bàn luận khá sôi nổi trong một cuộc tranh luận kéo dài gần trọn một năm trời (12/1960 - 9/1961) trên tạp chí Nghiên cứu văn học. Dĩ nhiên mọi vấn đề về truyền thuyết này chưa được ngã ngũ . Nảy sinh từ lịch sử, gắn bó chặt chẽ với lịch sử nhưng đồng thời cũng luôn luôn mang khoác một tấm áo huyền hoặc, đủ làm mờ nhòe đi cái hình dáng ban đầu, sơ khai của lịch sử - đó chính là truyền thuyết. Việc của các nhà sử học là dùng con mắt tinh tường của khoa học lịch sử mà bóc tách lớp sương mù huyền ảo của trí tưởng tượng dân gian, lọc lựa lấy các chi tiết có thật, các nhân vật và sự kiện có thật để bổ sung vốn tri thức lịch sử nước nhà. Nhưng thật là khó cho các nhà nghiên cứu sử học khi muốn đi tìm cái lõi lịch sử trong vô số lớp lang chi tiết được thêu dệt và tích tụ trong truyền thuyết. Bởi lẽ, trí tưởng tượng phong phú và niềm đam mê tái tạo liên tục các truyền thuyết dân gian của nhân dân khiến số lượng các dị bản gia tăng theo thời gian và truyền thuyết cũng không ngừng thâu nhận những giá trị mới, không ngừng lắng đọng những lớp phù sa mới... Truyền thuyết càng đầy đặn, càng nhiều chi tiết, càng liên quan đến nhiều địa danh, các nhà khoa học càng có nhiều cơ sở để tham chiếu, đồng thời, càng dễ gây nhiễu loạn cho sự phân tích, bóc tách của họ. Truyền thuyết An Dương Vương là một truyền thuyết đẹp đẽ và bí ẩn vì nhiều lẽ. Sự quy tụ của nhiều địa danh, sự liên quan tới nhiều vùng đất đem lại một vẻ đẹp huyền hoặc, thôi thúc sự khám phá cho truyền thuyết này. Lần theo dòng truyền thuyết An Dương Vương và những nghiên cứu về nó, chúng tôi nhận thấy có 3 địa danh liên quan và có nhiều nghi vấn. Địa danh thứ nhất được đưa ra như một câu hỏi lớn về gốc tích của ông vua Thục Phán. Bằng các vết tích văn hóa mang đậm dấu ấn của các dân tộc Thái, Tày, Nùng, Choang - các dân tộc cư ngụ ở địa bàn vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Quảng Châu, Vân Nam trong truyền thuyết về An Dương Vương, có thể đoán định "nước" của Thục Phán là một nước ở phía Bắc "nước" Văn Lang. Lật giở lại các truyền thuyết của người Tày, đặc biệt là truyền thuyết Cẩu chủa cheng vùa (Chín chúa tranh vua), người ta đặt ra nghi vấn: phải chăng vua Thục là một ông vua có gốc tích miền núi hoặc cụ thể hơn là một ông vua người Tày. Nước Nam Cương của vua Thục vốn đóng đô ở Cao Bình, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Sau khi phế vua Hùng, Thục Phán mới nhập nước Văn Lang và nước Nam Cương thành nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội). Khảo sát một lượt các biểu tượng trong truyền thuyết An Dương Vương, các nhà khoa học đã tìm ra nhiều nét tương đồng với văn hóa Tày cổ. Người Tày - Nùng có truyền thuyết về áo lông chim - gợi nhắc đến biểu tượng áo lông ngỗng của công chúa Mị Châu. Có thể nói, sử dụng áo lông ngỗng là một phong tục đặc biệt phổ biến ở người Tày cổ. Thư tịch cổ Trung Quốc xác nhận phong tục dùng lông ngỗng làm gối, chăn, áo ở Lĩnh Nam. Biểu tượng Rùa vàng trong truyền thuyết An Dương Vương cũng rất có thể được bắt nguồn từ vật tổ của người Tày cổ. Các vùng Tày - Thái còn lưu truyền khá nhiều truyền thuyết về Rùa và đặc biệt là họ có tục thờ rùa. Truyền thuyết rùa dạy người làm nhà của người Tày - Thái gợi nhắc đến chi tiết thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Ốc. Hai địa danh được nhắc đến trực tiếp trong khá nhiều truyền thuyết nằm trong dòng truyền thuyết về An Dương Vương là Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay) và Diễn Châu (Nghệ An). Cổ Loa là nơi Thục Phán An Dương Vương dốc sức xây thành Ốc, trải qua nhiều khó khăn do sự quấy phá của tinh gà trắng nhưng nhờ sự giúp đỡ của thần Kim Quy nên đã thành công. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Bấy giờ đắp thành ở Việt Thường, rộng hơn nghìn trượng, như hình trôn ốc, nên gọi là Loa Thành, lại có tên là thành Tư Long...". Việt Thường được xác định là Cổ Loa ngày nay. Có thể coi đây là nơi An Dương Vương xây dựng cơ đồ, làm nên nghiệp lớn. Nơi đây còn lưu lại nhiều vết tích như: ba vòng lũy thành Cổ Loa (theo sách xưa chép thì thành Cổ Loa có chín lớp, chu vi chín dặm). Thành được đắp bằng đất, thành ngoại hình bầu dục cao từ 4 đến 5 mét, có nơi tới 8 đến 12 mét. Mặt ngoài thành thẳng đứng nhưng phía trong lại dốc nên mặt trên thành là 6 đến 12 mét, chân thành từ 20 đến 30 mét. Ngoài ra, đền Thục An Dương Vương, Am Bà Chúa, giếng Ngọc (nơi xưa kia Trọng Thủy nhớ Mị Châu gieo mình) cũng là những chứng tích cho thấy truyền thuyết An Dương Vương đã "sống" bằng hơi thở của dân gian, bằng tâm hồn dân gian như thế nào. Sơ đồ Thành Cổ Loa Diễn Châu (Nghệ An) là nơi "vua cầm sừng văn tê dài 7 tấc nhảy xuống biển đi mất (tức là sừng tê rẽ nước ngày nay...)"Đại Việt sử ký toàn thư có chép rõ: "tục truyền núi Dạ Sơn xã Cao Xá thuộc Diễn Châu là nơi ấy". Theo các sử liệu, việc lập miếu thờ An Dương Vương đã có từ lâu lắm rồi. Nơi thờ đầu tiên có thể kể đến là một ngôi đền nhỏ ở một mỏm núi thuộc làng La Nham (bây giờ không thấy còn dấu tích nữa). Ngày nay, hai đền thờ Thục Phán An Dương Vương tương đối quy mô còn tiếp tục hương khói tại Nghệ An là đền Đức Vua ở Nghi Lộc, phía bên hữu ngạn cửa sông Cấm và đền Cuông ở Diễn Châu, phía bên tả ngạn cửa sông Cấm. Truyền thuyết dân gian có khả năng truyền dẫn qua thời gian và lan truyền qua không gian, được nuôi dưỡng nhờ "bia miệng" và sức sáng tạo dồi dào của dân gian. Thế nhưng, một truyền thuyết mà trong đó hội tụ tới 3 địa danh có khoảng cách địa lý thực tế tương đối xa cách như truyền thuyết An Dương Vương với sự xuất hiện của vùng đất miền núi: Hòa An (Cao Bằng), miền đồng bằng châu thổ sông Hồng: Cổ Loa (Hà Nội) và miền trung: Diễn Châu (Nghệ An) lại là một chuyện đáng bàn. Hẳn rằng, đó không đơn thuần là kết quả của tính năng dẫn truyền của truyền thuyết! ... hay là bản đồ chỉ dẫn một mạch đời? Nếu hội tụ các địa danh trên dưới một nguồn ánh sáng - mạch đời của nhân vật đã được xác định là có thật trong lịch sử nước nhà - Thục Phán An Dương Vương, chúng ta có thể thấy vấn đề sáng rõ ra rất nhiều. Địa danh Hòa An (Cao Bằng) sẽ là câu trả lời cho nghi vấn về gốc tích của An Dương Vương. Vậy, có thể nói, đó chính là nơi phát tích của Thục Phán và cũng là nơi bắt đầu mở ra mạch truyền thuyết về An Dương Vương trên đất Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và Diễn Châu (Nghệ An). Đền thờ An Dương Vương và giếng Ngọc ở Cổ Loa Cổ Loa với những di tích và những tên làng, tên xóm liên quan, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng nước Âu Lạc chính là địa danh ghi dấu quãng thời gian hùng mạnh của ông vua Thục Phán An Dương Vương. Đó là địa danh chỉ dẫn một quãng đời, một quãng thời gian tiếp nối mạch đời của An Dương Vương. Mạch đời của con người đặc biệt ấy, của số phận li kỳ ấy đã đặt dấu chấm hết trên địa danh Diễn Châu (Nghệ An). Trong cái bản đồ cuộc sống của An Dương Vương, điểm kết thúc hay chính là điểm hóa thân thần thánh của ông được dân gian lưu truyền là Diễn Châu (Nghệ An) - lúc bấy giờ cũng là điểm tận cùng của đất nước Âu Lạc. Đó là sự thật lịch sử, hay đó chỉ là một tưởng tượng nảy sinh trên một thứ logic suy tư về biên giới của nhà nước Âu Lạc xa xưa? Phải chăng, người xưa coi cuộc ruổi ngựa của An Dương Vương thủa nọ trốn chạy sự truy đuổi của quân Triệu Đà là một hành trình đi đến điểm "sơn cùng, thủy tận", đi đến hết lãnh vực mà ông cai quản, để thấm thía mãnh liệt nỗi đau mất nước, để trong cơn đớn đau cùng kiệt ấy đã lấy vị thế của một ông vua mà rút gươm kết liễu cuộc đời cô con gái yêu ngồi sau lưng ngựa? Dẫu thế nào, đất Nghệ An vẫn còn lưu dấu biết bao nhiêu ảnh xạ của truyền thuyết An Dương Vương - những mẩu nhỏ dệt nên một huyền thoại còn vang động cho tới tận ngày nay... (Còn nữa) Nguyễn thanh Lưu ( viện văn học) Nguồn vietimes
-
PHẢN HỒI CỦA ĐỘC GIẢ VỀ BÀI VIẾT bé ti - - judahungks@yahoo.com Cháu đọc trên tờ Thanh Niên trong loạt bài " thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chân động" nói rằng An Dương vương chỉ là "một hư cấu lịch sử"... ngay từ cái tên cũng đã "bị Hán hoá" rùi ... Lại nữa, trong Giỗ tổ vua Hùng (Hùng vương ???!!!)chiếu trên TV, các chú làm văn hoá lịch sử cũng để cho các vua Hùng nhà ta "mặc áo vàng, trên cổng làm Đại lễ cũng đề mấy chữ hán to tướng ...". Hỏi tại sao,các chú í bảo :tượng trưng thôi mà. Nhưng cháu và các bạn nhỏ khác thì lại cho là thật, vì mỗi khi hình dung về "ông vua nước Việt" thi bọn cháu lại hình dung ra ngay những ông vua (hoàng đế) Trung quốc được chiếu hàng ngày trên khắp các kênh ...(phong tục bắc nam cũng khác ,khác ở chỗ nào ạ?!) ( trích từ sau bài viết của độc giả báo vietimes ). Ôi các cháu được học lịch sử thế này thì còn nhiếu câu hỏi có dịp phát huy trí tuệ nữa !!!!!!! :rolleyes:
-
An Dương Vương và những dấu chân trần gian! (Phần II) Chạy giặc, An Dương Vương nhảy xuống biển tận... Nghệ An? Trên đất nước Việt Nam - đất nước mà ở đó, mỗi tên núi, tên sông, tên đồng, tên bãi đều mang chở một mảnh linh hồn của nhân dân, đều trở nên linh thiêng bằng những mẩu truyện dân gian sống trong niềm tin tuyệt đối của nhân dân thì đâu đâu cũng phủ che cái không khí huyền ảo của truyền thuyết. Ở những vùng đất ghi dấu ấn của những tên tuổi lịch sử thì chất truyền thuyết càng trở nên đậm đặc. Diễn Châu (Nghệ An) là một vùng đất như thế, với vô số các ảnh xạ của truyền thuyết về An Dương Vương. Thục Phán An Dương Vương kết thúc sự nghiệp hào hùng của ông trên mảnh đất này, nhưng hào quang về sự nghiệp ấy, về con người ấy và ngay cả dư chấn của nỗi uất hận ngàn thu về sự cả tin để “nỏ thần vô ý trao tay giặc/ nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” (thơ Tố Hữu) vẫn còn vang động mãi muôn đời sau. Diễn Châu (Nghệ An) có thể coi là trung tâm phát xạ ra những dư chấn ấy đớn đau ấy, những hào quang kỳ diệu ấy của cuộc đời bi kịch một đấng quân vương. Đọc lại những mẩu truyện trong dòng truyền thuyết An Dương Vương, có thể thấy rõ đoạn kết là cao trào của bi kịch mất nước, cũng là điểm thắt nút của bi kịch tình yêu. Có lẽ bởi là nơi diễn ra hồi kết nghiệt ngã của cuộc đời những nhân vật lịch sử (mà trước hết cũng là những con người có máu thịt, có tình yêu, có niềm kỳ vọng và có cả những khờ khạo, ngây thơ…) cho nên địa danh Diễn Châu (Nghệ An) trở thành một địa danh tỏa phát nhiều ảnh xạ về truyền thuyết An Dương Vương, tiếp nối mạch truyền thuyết này từ địa danh Hòa An (Cao Bằng) và Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Chúng tôi chỉ điểm sơ qua về những mẩu truyền thuyết mang tính phái sinh – có thể coi là những ảnh xạ phản chiếu ra từ mạch truyền thuyết gốc về An Dương Vương còn được lưu truyền trên đất Nghệ An. Đó có thể coi là một minh chứng hùng hồn về sự lưu dấu đậm đà của một quãng lịch sử xa hun hút trong tâm thức dân gian xứ Nghệ.1. NÚI ĐẦU CÂN Núi Đầu Cân là một ngọn núi thuộc làng La Nham, xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc (giáp với huyện Diễn Châu), tỉnh Nghệ An ngày nay. Dân gian tương truyền rằng, tên núi Đầu Cân khởi phát từ một truyền thuyết có liên quan tới sự ra đi đầy bí ẩn của An Dương Vương nơi cửa biển vùng Diễn Châu, Nghi Lộc. Dĩ nhiên, chúng ta đều có thể ngầm hiểu với nhau rằng, thời của An Dương Vương, thời của truyền thuyết, đất đai, địa vực là tự nhiên, chưa có sự phân định ranh giới như bây giờ. Thế nên, chuyện ngày nay, truyền thuyết về An Dương Vương lưu hành cả ở huyện Nghi Lộc càng minh chứng cho hồn cốt lịch sử thấp thoáng trong từng huyền thoại về dấu vết vó ngựa ngàn xưa của vị vua này trên đường chạy trốn quân của Triệu Đà. Không chỉ một địa danh đã được giới định hành chính hóa là Diễn Châu ngày nay có lưu truyền những mẩu chuyện về An Dương Vương mà cả một địa danh khác là Nghi Lộc cũng ghi dấu nhiều vết tích huyền thoại. Bởi lẽ, truyền thuyết là cái có trước ranh giới địa phương, truyền thuyết sống bằng niềm tin dân gian không biên giới. Về sự ra đi của An Dương Vương, nhân dân nơi đây kể rằng: vị vua này cùng công chúa Mị Châu mải miết phóng ngựa thật nhanh qua xứ Thanh đi về phía đất Nghệ. Một cơn gió ngược chiều thổi mạnh đã làm rơi chiếc mũ của bậc đế vương. Công chúa Mị Châu bèn lấy khăn của mình trùm lên đầu cho phụ vương. Ngựa dừng chân ở đỉnh một quả đồi thấp và dài nối liền hai dãy núi: dãy Đại Hải và dãy Đại Vạc. Hai dãy núi này tạo thành một eo biển. Tưởng đây là đất dừng chân, nào ngờ, tiếng vó ngựa quân Triệu Đà đã thấy dồn dập phía sau lưng. Bỗng nhiên, An Dương Vương thấy từ phia chân núi có một cụ già đi tới. Vua than thở: "Sao ta chạy đến đâu giặc cũng dò được đường đuổi theo ta?" Cụ già đáp: "Thưa bệ hạ, vì giặc ở ngay sau lưng ngựa bệ hạ đó thôi!". An Dương Vương rút kiếm, ngoảnh đầu nhìn Mị Châu. Mặc nàng khóc lóc, thề nguyền, ông chém đầu Mị Châu rồi men theo chân dãy Đại Hải, đến một quả núi cuối cùng thì thấy ba mặt đều là biển cả mênh mông, sóng cồn dữ dội. Gió từ ngoài khơi thổi vào hất tung chiếc khăn trên đầu Thục Phán An Dương Vương và trùm lên đỉnh ngọn núi. An Dương Vương cùng đường, ngửa mặt lên trời mà than: "Cơ đồ của ta đến đây là hết!". Nói đoạn, nhà vua gieo mình xuống biển. Về sau, quả núi đó được nhân dân đặt tên là núi Đầu Cân (nghĩa là cái khăn bịt đầu). Dân làng cũng lập một miếu nhỏ thờ Thục An Dương Vương dưới chân núi. 2. Tảng đá gạo Trong truyền thuyết dân gian, tảng đá gạo là một chứng tích của những ngày An Dương Vương thất trận chạy về xứ Nghệ. Phía đông núi Mộ Dạ, có một tảng đá tròn với những màu sắc rất kỳ lạ. Tảng đá lổm nhổm những hạt màu đỏ, vàng, đen, trắng xen kẽ nhau trông như những hạt gạo. Dân gian gọi đó là tảng đá gạo. Bằng niềm tin mãnh liệt vào câu chuyện Thục Phán An Dương Vương từng lưu bóng trên mảnh đất quê hương mình, người dân Diễn Châu cho rằng, tảng đá gạo là vết dấu của số gạo nuôi quân của An Dương Vương. Người dân còn lưu truyền một câu chuyện chứa đầy sự hoang đường về tảng đá này. Tương truyền, ngày xưa khi Thục An Dương Vương thất trận chạy đến đất Diễn Châu thì hết lương thực. Vua ngẩng mặt chắp tay vái trời cầu xin giúp đỡ. Bỗng nhiên, gió nổi lên. Từ trong gió, những hạt gạo bay ra tua tủa. Vua sai quân lính thu nhặt chất thành đống rồi chia đều cho họ. Khi biết đã đến bước đường cùng, nhà vua cho quân lính đưa số gạo được chia về quê làm ăn, không phải theo bảo vệ vua nữa. Số gạo còn sót lại về sau đã đông thành đá, trở thành tảng đá gạo. 3. Cao Lỗ - tổ sư nghề rèn Cao Lỗ là vị tướng giỏi của nước Âu Lạc, giúp An Dương Vương chế ra chiếc nỏ thần từ móng thần Kim Quy. Nhân dân Diễn Châu còn lưu truyền một truyền thuyết về một người tên là Cao Lỗ đi học nghề rèn ở bên Tàu, sau đó về truyền nghề lại cho dân chúng trong vùng. Họ suy tôn ông là tổ sư nghề rèn. Không rõ, nhân vật Cao Lỗ này và tướng Cao Lỗ của vua An Dương Vương có phải là một? Chuyện kể rằng, ở làng Nho Lâm - quê hương Cao Lỗ có mỏ sắt. Cao Lỗ biết rằng nếu có thể làm lưỡi cày, dao, kiếm bằng sắt thì sẽ tốt hơn cả đồng. Khốn nỗi, ở nước ta lúc bấy giờ chưa có nghề rèn. Cao Lỗ đã cất công sang Tàu học nghề, đường đi gặp muôn vàn khó khăn, rồi ông cũng gặp được thầy là một lão phó rèn trạc tuổi năm mươi. Biết Cao Lỗ cất công từ phương Nam tới, bác phó rèn rất khâm phục. Nhưng để rèn thêm ý chí cho Cao Lỗ, thầy buộc ông phải làm công việc thụt bệ đúng ba năm. Đó là một công việc đơn giản, dễ gây chán nản. Nhưng với người họ Cao, đó lại là một quá trình tích lũy kinh nghiệm. Ông biết khi nào thì cần thụt bệ mạnh, khi nào thì cần thụt bệ nhẹ để có được sản phẩm như ý. Sau khi đã nắm được kỹ thuật thụt bệ, Cao Lỗ lại phải học ròng rã ba năm việc quai búa rồi mới được học rèn. Thêm bốn năm học rèn, Cao Lỗ được thầy truyền bí quyết nhà nghề. Trước khi giã biệt thầy về quê hương, người học trò từ chối nhận số tiền làm lộ phí thầy cho, ông chỉ xin một bộ đồ rèn bằng sắt. Về quê, Cao Lỗ hăm hở dựng lò rèn, rủ người vào núi lấy quặng nấu thành gang, sản xuất lưỡi cày, dao, mác, ... Ông vừa sản xuất, vừa truyền nghề. Dân làng ai cũng cảm phục tài nghệ của ông. Quê ông, người ta đặt tên là xã Cao Xá (nghĩa là: nơi ở của người họ Cao). Nhân dân còn lập đền thờ ông ở động Tù Và (nay thuộc xã Công Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An). Trong bài vị có viết: "Tiên Hoàng sơ thủy tổ Cao Lỗ hiệu Lư Sơn thiết khí tôn thần". Sau này, sách "Bách nghệ tổ sư" cũng ghi lại: "Lư Cao Sơn làng Nho Lâm, thế kỷ III trước Công nguyên bỏ công mười năm sang Trung Quốc học nghề rèn về truyền lại cho dân. Ngày nay, có một cộng đồng dân cư tương đối lớn ở Diễn Châu mang họ Cao. Họ Cao ở Diễn Châu đặc trưng đến nỗi, khi người Nghệ biết một người mang họ Cao, có thể đoán luôn quê hương bản quán của người đó. 4. Tổ sư nghề làm vàng vó Tục lệ cúng tế ở Nghệ An còn in hằn dấu vết của dòng truyền thuyết An Dương Vương. Nhân dân ta thường dùng vàng mã trong cỗ bàn cúng tế. Vàng mã có loại là những tờ giấy gió hình vuông, ở giữa quét nhũ vàng hay nhũ bạc cũng hình vuông, gọi là vàng giấy. Người dân xứ Nghệ còn có loại vàng vó, làm bằng nan tre gập lại thành khối vuông, dán giấy vàng hay đỏ ghép xen kẽ nhau. Mỗi khối là một thỏi. Năm mươi thỏi ghép lại thành hình một khối chữ nhật gọi là một thớt. Tương truyền rằng, quân tướng của Thục An Dương Vương hộ tống nhà vua vào đến đây, sau khi vua chết, họ ở lại và truyền nghề làm vàng vó cho dân. Ngày nay, ở một số vùng, các phường hội làm vàng vó cúng tổ sư là: “Thục An Dương Vương chi Quân tướng” (nghĩa là: quân tướng của vua Thục An Dương Vương). Khi tìm hiểu rộng ra ở miền Bắc, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng, phần lớn các tỉnh miền Bắc chỉ làm vàng giấy, riêng ở Cổ Loa thì có tục làm vàng vó. Như vậy, có thể thấy, dòng truyền thuyết về An Dương Vương trên mảnh đất Nghệ An đã thu hút vào nó không chỉ những câu chuyện về các nhân vật chính trong truyền thuyết mà ngay cả những mẩu chuyện về vết tích quân tướng của vua Thục lưu lại nơi đây. Đó có thể là chuyện về một hiện vật kỳ lạ (như chuyện tảng đá gạo), hoặc là chuyện về một phong tục, một nghề nghiệp như câu chuyện này. Niềm tin về sự hiện diện của Thục Phán An Dương Vương trên quê hương mình thuở xa xưa đã ăn sâu vào tâm khảm những người dân xứ Nghệ. Dù là chuyện làm ăn, dù là chuyện phong tục, dù là để lý giải những hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên, họ đều nhìn thấy ẩn hiện phía sau là bóng dáng vị vua huyền thoại ấy... (còn nữa) Nguyễn Thanh Lưu (Viện Văn học)