wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Oh ! tin này cũng hot lắm đây ! Thảo nào bận bịu quá ! Chúc mừng !
  2. Một nhà văn Việt "chê" Gia Cát Lượng ngay tại Trung Quốc Thứ năm, 12/6/2008, 07:00 GMT+7 Vào năm 1992, Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc tổ chức cuộc thi Tìm hiểu lịch sử, văn hóa Trung Quốc - Cúp Giai Lệ. Cuộc thi kéo dài từ năm 1991 sang năm 1992, dành cho tất cả thính giả nghe đài của tất cả các thứ tiếng. Có 10 câu hỏi, thính giả nào trả lời được coi như đã nắm được những gì là cơ bản nhất của văn hoá Trung Hoa. Các câu hỏi hỏi về các nội dung: Người vượn Chu Khẩu Điếm Bắc Kinh, về Khổng Tử, Tôn Tử, Tần Thuỷ Hoàng, về 4 phát minh thời cổ đại của Trung Quốc, về Con đường tơ lụa, về cuốn du ký đầu tiên của nhà thám hiểm Marco Polo viết về đất nước Trung Hoa thế kỷ XIII, về Kinh Kịch, về 3 nhà văn tiêu biểu cận đại của Trung Quốc... Bằng chứng nhận giải thưởng Cuộc thi đã thu hút trên 100.000 thính giả của hơn 100 nước dự thi, Việt Nam có hơn 1000 người dự thi. Cuộc thi bao gồm 1 hệ thống giải từ giải nhất đến giải tư được Đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc gửi tặng thưởng tới tận tay. Ngoài hệ thống giải chính thức này, Đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc đã trao 6 giải đặc biệt cho 6 thính giả có bài dự thi xuất sắc nhất, 6 thính giả này được Đài mời thăm Bắc Kinh 1 tuần vào cuối tháng 11 năm 1992; đi về bằng vé máy bay do Đài đài thọ. 6 nước có thính giả được nhận giải đặc biệt: Ấn Độ, Pakistan, Xirilanca, Nhật Bản, Hàn Quốc, tôi là thính giả Việt Nam được trao giải này. Trong số 20 thính giả Việt Nam được trao giải, tôi còn nhớ dịch giả Ông Văn Tùng đã được trao giải 3...Chúng tôi, 6 thính giả đã được trao giải là 1 bằng, 1 lọ gốm sứ Thái Lam; lễ trao tại Đại Lễ đường nhân dân Bắc Kinh. Tại buổi trao giải có mặt Thứ trưởng Bộ Điện ảnh, Phát thanh và Truyền hình Lưu Tập Lương, Thứ trưởng Bộ Văn hoá Trung Quốc Lưu Đức Hữu, Ban giám đốc Đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc và các đài báo Bắc Kinh, Chủ tịch Chính Hiệp Cốc Mục... Sau buổi trao giải, 7 ngày tại Bắc Kinh, chúng tôi được mời đi thăm: Cố Cung, Di Hoà Viên, Vạn Lý trường thành, Định Lăng, Thiên đàn, làng Olympic Bắc Kinh và nhiều công trình văn hoá nổi tiếng của Bắc Kinh... Những câu hỏi về các nội dung trên, tôi tin nhiều người trả lời được, bài dự thi hiện tôi còn lưu bản gốc dài 7 trang đánh máy. Tôi cho rằng, sở dĩ tôi đã được trao giải đặc biệt ngoài việc trả lời đúng các nội dung mà Đài yêu cầu, tôi còn viết thêm một vài vấn đề về nhận thức cũng như quá trình ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đối với bản thân và gia đình. Một trong những nội dung tôi viết ngoài câu hỏi, đó là việc tôi hiểu và chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa thông qua các tác phẩm văn học Trung Quốc, đáng chú ý nhất là bộ Tam Quốc diễn nghĩa. Đối với thời thanh thiếu niên của tôi, hình tượng Gia Cát Lượng đã làm cho tôi khâm phục và mê say. Nhưng cho đến thời điểm này, khi đã có độ chín về tuổi tác, suy ngẫm lại tôi thấy, qua những gì La Quán Trung mô tả về nhân vật này, tôi cảm nhận được còn nhiều vấn đề thuộc về tài trí, nhân cách của Gia Cát Lượng phải được bàn và đánh giá lại. Qua ngòi bút tinh diệu của La Quán Trung và nhuận sắc của anh em nhà Mao Tôn Cương, bản thân tôi thấy hình như còn có nhiều chỗ uẩn khúc bởi sự thiên vị của các tác giả. Cần phải đánh giá lại Gia Cát Lượng, bởi theo tôi nhân vật lịch sử này đã bị bộ tiểu thuyết Tam Quốc làm cho hậu thế hiểu sai lạc về tài trí và nhân cách của ông. Tôi phát biểu điều này chủ yếu bằng cảm nhận chứ tôi làm gì có tài liệu lịch sử nào của Trung Quốc và tôi cũng không biết tiếng Trung Quốc. Sau khi đi Bắc Kinh nhận giải, trở về nước, tôi đã viết và đăng những ý kiến của mình về Gia Cát Lượng mà tôi tin: nhờ cách đặt vấn đề mang tính phản biện này mà tôi được đánh giá cao. Bài viết có tựa đề: Những sai lầm chiến lược của “vạn đại quân sư” Gia Cát Lượng đã được 2 tờ báo Truyền Hình và Lao động Xã hội đăng vào năm 1993 và bài viết này đã được đưa vào tập Mặt trái của cơ chế thị trường, Nhà xuất bản Văn hoá ấn hành năm 1996. Trong bài viết, tôi lật lại vấn đề chiến lược quân sự Lưu Bị giỏi hay Gia Cát Lượng giỏi hơn? Tôi có đặt vấn đề xem lại việc Gia Cát Lượng cử Quan Vũ đánh Uyển Thành, liệu có phải là một sai lầm của ông dẫn đến tan vỡ cục diện chiến lược chân vạc, đẩy nhà Thục Hán vào chỗ suy vong? Với thời điểm năm 1992, do còn trong sáng nên tôi đánh giá việc làm này của Gia Cát Lượng là kém, là đánh cờ tính không hết nước nên mới hở sườn. Khi đọc Tam Quốc tôi đã đặt ra những “ nghi án” về “nước cờ” này của Gia Cát Lượng. Bây giờ ngẫm lại tôi thấy ý kiến của giáo sư Chu Tử Ngạn trên Quang Minh nhật báo là có cơ sở. Thực ra đây không phải là do Gia Cát Lượng tham lợi nhỏ mà Gia Cát Lượng đẩy Quan Vũ vào chỗ chết để mình có thể ngoi được lên vị trí thứ 2 về quyền lực trong tập đoàn quân phiệt Lưu Bị, đánh giá như vậy là biện chứng. Nếu Quan Vũ không tử trận thì Gia Cát Lượng giỏi lắm cũng chỉ có thể ngang hành với Quan, Trương, Triệu... Trong bài viết của tôi, tôi còn có phát biểu một nhận định quan trọng, việc bình Man, đánh phương nam cũng là một sai lầm mang tính chiến lược của Gia Cát Lượng. Dùng quân đội đánh phương nam, người phương bắc chỉ hao binh tổn tướng không bao giờ có thể bình ổn được. Thời điểm 1992 nhân việc bàn về các sai lầm có tính chiến lược của Gia Cát Lượng, đề cập tới vấn đề này với một cơ quan ngôn luận lớn của Trung Quốc là một việc đáng làm cho cho người Trung Quốc phải suy nghĩ. Phạm Viết Đào nguồn vietimes
  3. ĐỌC " Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam " Lê Thành Khôi Cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam * của ô. Trần Ngọc Thêm (TNT) ra mắt độc giả năm 1996 đã thu hút được sự chú trọng của dư luận và được bằng khen của ô. Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo. Xuất bản lần 3 năm 2001, sách dày gần 700 trang. Lướt qua 6 chương, danh sách 436 tài liệu tham khảo và bảng chỉ dẫn, cảm tưởng đầu tiên là đây là một công trình nghiên cứu có hệ thống, công phu. Ðọc kĩ hơn, tôi thấy thỉnh thoảng có vài sai lầm và một số lập luận phải bàn sâu. Vậy, như tác giả đã gợi ý trong lời nói đầu, tôi xin đóng góp vài lời sau đây. Bài này chỉ liên quan đến Chương I của sách : Cơ sở lí luận cho cách nhìn hệ thống - loại hình về văn hoá Việt Nam (Cái nhìn hệ thống - loại hình là phụ đề của quyển sách). Những chương sau sẽ được bàn tiếp. Trước hết tôi muốn nói là tôi hoàn toàn đồng ý với hai quan điểm phương pháp của tác giả : một là cái nhìn hệ thống, hai là cái nhìn "độc lập", không lấy Trung Hoa hay Âu Tây làm trung tâm nhưng không phủ định ảnh hưởng của họ. Từ lâu tôi đã đi đến kết luận rằng Trung Hoa đã nhận được nhiều đóng góp của Ðông Nam Á (các văn hoá ở miền Nam sông Dương Tử), nhưng vì người Hán đã chiếm lãnh thổ ngày nay của Trung Quốc và, vì có chữ viết, đã viết lịch sử theo cách nhìn của họ (coi các dân tộc khác là man di) nên thế giới thường tưởng rằng văn hoá Trung Hoa hoàn toàn do người Hán lập ra. Mới gần đây thôi các nhà sử học và khảo cổ học mới nhận có sự đóng góp của nhiều văn hoá trong sự hình thành của văn hoá Trung Hoa, như trong 2 quyển sách xuất bản năm 1999 : Yang Xiaoneng, ed., The Golden Age of Chinese Archaeology (Washington) và M. Loewe and E.L. Shaughnessy, eds, The Cambridge History of Ancient China : From the origins of Civilization to 221 B.C. (Cambridge University Press). Trung Hoa, trong giai đoạn từ đồ đá giữa đến đồ đá mới (7000-2000 trước C.N.), nông nghiệp đã nhô lên với hai loại cốc chính : kê ở miền sông Hoàng Hà và lúa ở miền sông Dương Tử. Những vết tích sớm nhất của lúa gạo đã tìm thấy trong một động ở Hồ Nam, vào khoảng 12.000 năm trước C.N., kê thì muộn hơn một tị ở miền trung sông Hoàng Hà. Trong mỗi miền trồng trọt có 3 vùng văn hoá chính, từ Tây sang Ðông, ở miền Bắc : Yangshao, Dawenkou và Hongshan ; ở miền Nam : Daxi, Liangzhu và Dapenkeng. Mỗi văn hoá có đặc trưng của mình trong hình dạng và trong trang trí của đồ gốm, đồ tạo bằng đất nung (và ngọc ở Hongshan và Liangzhu). Giữa các văn hoá có sự trao đổi, bằng chứng là một số hoa văn như là rồng rắn và mặt nạ súc vật. Ưu điểm thứ nhì của TNT là cái nhìn hệ thống, từ môn học gốc của ông. là ngôn ngữ học : ngôn ngữ là một hệ thống. Nhưng nó có thể trở thành nhược điểm nếu không thấy tất cả sự phức tạp của một hệ thống khác, hệ thống xã hội : ngôn ngữ ít mâu thuẫn, xã hội nhiều mâu thuẫn. TNT viết rằng ông nhìn một cách tổng hợp, biện chứng. Nhưng chữ biện chứng ở đây dùng với nghĩa "trung cổ" của nó nghĩa là dùng mọi cách để thuyết phục đối phương chứ không với nghĩa "triết" của nó từ Héraclite, Hegel và Marx ở Âu Châu, từ hơn 2000 năm ở Á Châu với Kinh Dịch. Theo phép lí luận này phải coi 4 quy luật của sự vật : vận động không ngừng, tương tác, mâu thuẫn, chuyển từ lượng sang phẩm. Yếu tố quan trọng là sự mâu thuẫn. Hegel đã viết trong Lôgic : "Mâu thuẫn là gốc của mọi vận động... chỉ trong mức độ nó có mâu thuẫn thì một sự việc mới có thể thay đổi, hành động...". Nếu không có mâu thuẫn trong xã hội thì cũng không có lịch sử. Nếu tôi không nhầm thì TNT không dùng chữ mâu thuẫn. Và vì không nhìn thấy mâu thuẫn nên nhiều khi TNT có những khái quát quá đơn giản. Tôi sẽ trở lại vấn đề này. Một nhược điểm khác cũng đưa đến kết quả ấy là kiến thức có hạn của tác giả về lịch sử hoàn cầu để so sánh đúng đắn các văn hoá xưa và nay. Chắc tác giả không có nhiều tài liệu để tham khảo và nhiều khi tài liệu lại quá xưa. Sử học và nhất là khảo cổ học đi rất nhanh. Một bài viết cách đây 30 năm khó mà còn giá trị bây giờ (tôi nghĩ đến bài của N. Cheboksarov và W. Solheim dẫn ở tr 33-34 và 69-74). Và thỉnh thoảng người đọc có cảm tưởng rằng vì không đủ bằng chứng khoa học mà tác giả đưa ra ý kiến của một học giả có danh tiếng để bênh vực lời của mình. Nhưng, dù có danh tiếng đến đâu, ý kiến của một học giả mà không có chứng minh thư tịch hay khảo cổ, chỉ là một ý kiến hay một giả thuyết chứ không phải là một bằng chứng khoa học. Chẳng hạn, ở ta, tôi thấy nhiều người (kể cả TNT tr. 49) dẫn Karl Marx để chứng minh "công xã nguyên thuỷ". Nhưng chẳng ai biết công xã nguyên thuỷ là gì ! Và cũng chẳng ai biết được vì không có gì chứng minh dù là thư tịch (chữ viết mới xuất hiện 3100 năm tr. C.N.) hay khảo cổ. Có khi TNT dẫn một tác giả không phải là một người nghiên cứu mà chỉ là một người phổ biến thôi (W. Durant). Tiện đây tôi muốn nói về "4000 năm văn hiến" của Việt Nam (tr.27). 4000 năm nghĩa từ -2000 đến bây giờ. Nếu tính có 18 vua Hùng trị vì từ -2000 đến -258 (lúc mất nước cho An Dương Vương) nghĩa là trong 1742 năm có 18 vua, mỗi vua trị vì gần 100 năm : ai tin được ? Theo Việt sử lược thì nước Văn Lang ra đời vào thời Trang Vương nhà Chu (696-681). Như thế còn có thể tin được vì mỗi vua Hùng trị vì hơn 20 năm. Tất cả các truyện về Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều là huyền thoại tổ tiên ta bịa ra (cũng như người Hán bịa ra Tam Hoàng) để có một "lịch sử " gần xưa bằng Trung Hoa. Nhưng huyền thoại vẫn có thể phân tích và hiểu theo góc dân tộc học. Và một huyền sử hay một giả thuyết có thể thành sự thực một khi đã được khảo cổ học chứng minh. Ta có thể lấy thí dụ nhà Hạ mà trước kia nhiều người coi là hoang đường. Nhà Hạ đã thành (một phần) sự thật trước nhà Thương từ khi đào được địa điểm Erliton ở Hà Nam. Cacbon 14 cho biết văn hoá Erliton có từ -2000 đến -1600 (nhà Thương : từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 11 trước C.N.) 1. Một điểm khác làm tôi ngạc nhiên là TNT (và nhiều nhà dân tộc học ở Việt Nam) nhầm mẫu hệ (matrilinéarité) và mẫu quyền (matriarcat) (tr 54). Mẫu hệ nghĩa là con cái nhận tên và của cải của... giòng mẹ (mẹ, anh em mẹ....). Mẫu quyền là đàn bà cầm quyền trong xã hội. Hai sự việc khác nhau. Rất ít xã hội có mẫu quyền. Tôi đi công tác ở Phi Châu gặp nhiều tộc mẫu hệ, nhưng ở đâu cũng là đàn ông cầm quyền. Ở Vân Nam, người Naxi mà nhiều người gọi là theo mẫu quyền sự thật chỉ theo mẫu hệ. Ðàn bà tự do chọn đàn ông làm bạn, tiếp họ ban đêm, trước sáng họ đi. Con chỉ biết mẹ không biết bố. Trong gia đình quyền chia giữa mẹ và bác. Người bác có nhiều quyền hơn 2. Dù sao, địa vị của người đàn bà trong một xã hội mẫu hệ cao hơn là trong một xã hội phụ hệ. Nay tôi đến hai vấn đề chính cho cơ sở lí luận của TNT ở Chương I : Khái niệm văn hoá và loại hình văn hoá. Về khái niệm văn hoá, ai cũng biết có hàng trăm định nghĩa. TNT định nghĩa văn hoá là "một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" (tr.25) Ðịnh nghĩa này gần định nghĩa của Hồ Chí Minh mà TNT dẫn ở trang 4, nhưng rất xa câu sau của Edouard Herriot mà ông dẫn như sau: "Văn hoá là cái tồn tại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả". Tôi thấy định nghĩa này, đúng về cá nhân chứ không đúng về xã hội, không những thiển cận mà còn có tính cách giai cấp : "tất cả" là gì đối với một người nhà quê và một người trí thức ? ai học được "tất cả" ? Tôi định nghĩa văn hoá là "một tổng thể các sáng tạo vật chất và không vật chất của một cộng đồng người trong quá trình quan hệ với thiên nhiên và với những cộng đồng người khác, những sáng tạo mà có với họ hay với phần đông của họ một ý nghĩa riêng xuất phát từ lịch sử đã qua hay hiện hành của họ mà các cộng đồng khác không chia sẻ" (Lê Thành Khôi, Culture et Développement, Revue Tiers Monde, no 97, janvier-mars 1984, tr.15). Ðịnh nghĩa này nhấn mạnh vào ý nghĩa của văn hoá. Một yếu tố cùng một gốc có thể có một ý nghĩa khác từ nước này sang nước khác, từ tộc này sang tộc khác : đạo Phật ở Tây Tạng khác đạo Phật ở Trung Hoa, đạo Phật ở Trung Hoa khác đạo Phật ở Việt Nam, ở Nhật Bản, v.v. Văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng chứ không phải của "con người" : "con người" là ai ? có thể tách rời xã hội được không ? Trong một xã hội có giai cấp, các "giá trị" không cùng một nghĩa cho mọi người. Giáo dục mới nhìn có thể coi là một giá trị phổ thông. Nhưng giáo dục cũng là một dụng cụ chính trị cho giai cấp thống trị nhằm thiết lập hệ tư tưởng của mình. Ðó chính là nghĩa chữ " giáo " trong nho giáo : vua "giáo" dân nhưng dân không "giáo" được vua ! Trái lại giai cấp bị trị có thể dùng giáo dục để chống lại. Cố nhiên nội dung sẽ khác. Sự kiện này rất rõ ràng ở Âu Tây trong thế kỉ 19. Giai cấp công nhân đã mở những lớp phổ thông, dạy lẫn nhau, những đại học bình dân, để chống lại giai cấp tư sản. Cho nên tôi không đồng ý với TNT khi ông viết : "Văn hoá thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội... văn hoá chỉ chứa cái đẹp" (tr.21), "không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển..., là động lực cho sự phát triển" (tr.23), "thường xuyên tự điều chỉnh" (tr.24). Rõ ràng TNT không nắm được quy luật mâu thuẫn của biện chứng pháp, cái quy luật mâu thuẫn là động cơ của lịch sử. Văn hoá không phải "chỉ chứa cái đẹp", không phải thường xuyên "tự hoàn thiện", "tự điều chỉnh", "là động lực cho sự phát triển". Nếu thật như thế thì làm sao giảng nghĩa được sự suy đồi của Trung Hoa và Việt Nam ở thế kỉ 19 ? Chính vì văn hoá của hai nước này không biết "tự hoàn thiện" mà đã bị Âu Tây xâm lăng, biến thành bán thuộc địa và thuộc địa. Trong khi đó thì Nhật Bản với một nền văn hoá không khác mấy (ở đây Tống Nho cũng là tư tưởng thống trị) đã biết thay đổi thích nghi mà giữ được độc lập của mình. Tại sao có hai hình trạng khác nhau ? Ta không được quên rằng văn hoá bao giờ cũng hành động theo cách hiểu của mỗi xã hội và nhất là của giai cấp thống trị trong xã hội đó. Ở Trung Hoa và Việt Nam, giai cấp thống trị là quan lại nhà nho chọn lọc qua thi cử : nho giáo là chủ nghĩa pháp hoá quyền lực của họ. Ở Nhật thì khác : giai cấp thống trị là võ sĩ cha truyền con nối : nho giáo đối với họ chỉ là một dụng cụ chính trị. Thời thế thay đổi họ có thể tìm một dụng cụ thích hợp hơn. Một đằng khác là võ sĩ thì luôn luôn phải để ý đến quan hệ lực lượng. Võ sĩ Nhật đã thấy ngay sức mạnh của Âu Mĩ và biết mình không địch được : thà rằng mở cửa và giữ độc lập còn hơn là đóng cửa và mất nước. Cuối cùng người Nhật có một truyền thống tiếp nhận những thành tựu của nước ngoài : từ thế kỉ 6 đã tiếp thu nho giáo, đạo giáo, phật giáo, chữ viết, từ Trung Hoa qua Triều Tiên; từ thế kỉ 16 tiếp thu tây học, làm súng theo kiểu Âu, đến thế kỉ 19 tiếp thu khoa học, kĩ thuật, văn học của Âu Mĩ. Trung Hoa thì kiêu căng, vẫn coi mình là trung tâm của thiên hạ, Âu Mĩ là man di. Còn Việt Nam thì chỉ biết có "thiên triều". Thật sự ở hai nước có một vài người thức thời nhưng họ không có quyền hành. Vẫn trong chiều hướng đó, tôi không tin như TNT rằng "mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc, quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hoá của mình" (tr.29). Lịch sử cho thấy nhiều văn hoá không tiếp thu những thành tựu bên ngoài vì cớ này hay cớ khác, vì muốn "giữ bản sắc của mình". Ở Trung Hoa từ thế kỉ 17 các thày tu dòng Tên (Jésuites) đã mang đến nhiều kiến thức toán, thiên văn và địa lí học tiến bộ hơn những kiến thức của người Hán, nhưng không ra khỏi triều đình nhà Thanh. Một thí dụ còn điển hình hơn là văn hoá Hồi đã tiếp nhận giấy của Trung Hoa nhưng không tiếp nhận nghề in. Năm 751 ở Trung Á cạnh sông Talas quân Ả rập thắng quân nhà Ðường đã học của người Hán nghề làm giấy và từ đó đã truyền cho châu Âu. Nhưng họ không học nghề in (xuất hiện ở Trung Hoa vào thế kỉ 9) tuy buôn bán với Trung Hoa và biết Trung Hoa biết in. Tại sao vậy ? Bởi vì đối với người Hồi sách Coran là lời nói của chúa Allah, nếu in ra thì sẽ mất giá trị thiêng liêng. Cho nên đến năm 1726 mới có một nhà in của người Hồi ở Thổ Nhĩ Kì, nhưng chỉ in những sách khoa học, kĩ thuật, ngôn ngữ và lịch sử, không được in sách về đạo và pháp luật (luật Hồi theo đạo). Chính vì không chịu in sách mà văn hoá Hồi, rực rỡ trong mấy thế kỉ, dần dần suy. Về loại hình văn hoá, TNT bắt đầu từ sự hình thành các chủng người trên thế giới (tr.33). Nhưng các tài liệu tham khảo viết từ 30 năm nay bây giờ đã lạc hậu ! Bây giờ ai cũng nhận là loại người xưa nhất là Australo-pithecus và Homo habilis đều xuất hiện ở Phi Châu (mà chỉ thấy ở Phi Châu thôi) cách đây từ 7 triệu đến 4 triệu năm. Còn homo sapiens sapiens (người hiện nay) thì xuất hiện cách đây 40.000 năm ở Tây Á (Palestin, Syria) với nông nghiệp, du mục, đồ gốm và đá mài. Khoảng 3100 năm trước C.N. thì chữ viết ra đời gần như cùng một lúc ở Lưỡng Hà (Mésopotamie) và Ai Cập. Ở Trung Hoa thì chữ viết ra đời chậm hơn, vào khoảng 1500 năm tr. C.N. Ở đâu người cũng bắt đầu sống bằng hái lượm, săn bắn, câu cá. Trừ một vài khu địa lí không thuận tiện cho sự trồng trọt, thường thường nông nghiệp xuất hiện cùng với du mục, ở miền Lưỡng Hà cũng như ở lưu vực sông Hoàng Hà hay sông Vị (không có sách mới nào nói người Hán đến từ Trung Á). Cố nhiên sự quan trọng của nông nghiệp hay du mục tuỳ theo địa lí và khí hậu ở mỗi nơi. Cho nên tôi không tin rằng du mục một đằng, nông nghiệp đằng khác đã đưa đến hai loại hình văn hoá khác biệt, một bên trọng động vì phải "thường xuyên di chuyển" (phương Tây) một bên trọng tĩnh vì phải "lo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài" (phương Ðông). Không thể giải nghĩa hai hay ba nghìn năm văn hoá bằng tâm lí được. Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự khác biệt giữa hai văn hoá, cái "gốc" không quan trọng bằng những sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị "đương thời". Mà trong 2000 năm nông nghiệp là nghề chính của đại đa số nhân dân trên thế giới. Nếu ta coi lịch sử thế giới từ 2000 năm nay, mỗi xã hội có thời "tĩnh" và thời "động". TNT viết rằng "chính vì động cho nên văn hoá phương Tây đã chuyển biến rất nhanh" (tr.38). Sự thật mà ông quên là Âu Tây đã "tĩnh" trong 1000 năm từ sự sụp đổ của La Mã (thế kỉ 5) đến thời Phục Hưng (thế kỉ 15) từ đó mới tiến nhanh. Tinh thần chinh phục thiên nhiên mới nẩy nở từ đó chứ không phải "luôn" như ông viết (tr.39). Mà nếu nó nẩy nở chính vì có một giai cấp tư bản (tài chính và thương mại) đã xuất hiện với một chủ nghĩa mới : chinh phục thiên nhiên để giành lợi. Lợi lộc là một động cơ rất lớn. Trước kia, thời Trung Cổ "tĩnh" vì sự thống trị của đạo Ki-tô coi việc cần của con người là sửa soạn cho thế giới "bên kia" chứ không phải là hưởng thụ "bên này". Ở phương Ðông cho đến thế kỉ 15, văn hoá Trung Hoa tiến nhanh hơn văn hoá Âu rồi sau đó suy dần cho đến nửa thế kỉ 20. Văn hoá Ả-rập thì "tĩnh" rồi "động". Ðộng cơ ở đây không phải là sự mưu cầu lợi nhuận như ở Âu Tây mà là một đạo mới, đạo Hồi, nảy nở ở thế kỉ 7. Chỉ trong hơn một thế kỉ, người Ả-rập đã lập một đế quốc rộng lớn từ miền tây Ðịa Trung Hải (gồm Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha) đến Trung Á và Sind (ở Ấn Ðộ). Ðối với họ, chiến thắng chính là dấu hiệu biểu lộ chân lí của đạo mới. Ðiều lí thú, đi trái ngược hẳn lí thuyết của TNT là dù "tĩnh" hay "động" nghề chính của người Ả-rập là du mục. Những thí dụ trên đây và nhiều thí dụ khác cho thấy sự phân chia hai loại hình văn hoá theo gốc du mục hay nông nghiệp không có cơ sở khoa học. Còn nhiều khẳng định của TNT cũng như thế, trái với sự thật lịch sử : "Tất cả những cuộc chiến tranh xâm lược đều do những dân tộc thuộc loại hình văn hoá động gây ra cho những dân tộc thuộc loại hình văn hoá trọng tĩnh (hoặc tĩnh hơn)" (tr.47). Sự thật có rất nhiều chiến tranh xâm lược do một nước " tĩnh "mạnh gây cho một nước cũng "tĩnh" nhưng yếu hơn (hay bị coi là yếu), chẳng hạn Nhật Bản đối với Triều Tiên, Việt Nam đối với Chiêm Thành hay Campuchia, chưa kể người Hán đã thôn tính bao nhiêu dân tộc, gần đây nhất là Tây Tạng. "Phương Tây coi trọng cá nhân" (tr 35 và 48). Nói thế là không đếm xỉa gì đến bao nhiêu thế kỉ nô lệ ở Âu Châu tuy chính TNT đã dẫn Aristote viết rằng "nô bộc là hạng người sinh ra để làm công cụ cho lớp thống trị và phụ nữ là để sản xuất và nuôi con" (tr.51). Tôi thì thấy rằng địa vị phụ nữ ở Việt Nam cao hơn ở Pháp cho đến thế kỉ 20. "Trọng tĩnh là dân chủ, trọng động thì quân chủ" (tr.48). Thật lạ. Nhìn qua lịch sử thế giới từ 4-5000 năm tới nay gần như hầu hết các xã hội đều theo chế độ quân chủ cho tới thế kỉ 19 hay 20. Mà bây giờ có bao nhiêu chế độ gọi là "cộng hoà" mà thật sự là "quân chủ" lối mới, nghĩa là có một người độc tài cầm quyền. Và ở đâu cũng trọng nam hơn nữ vì sức lao động và sức chiến đấu cao hơn (cố nhiên địa vị người đàn bà có khác tuỳ theo nước). "Quy luật chung là chiến tranh thường đi từ vùng du mục hơn đến vùng nông nghiệp hơn, ngược lại văn hoá lại thường đi từ vùng nông nghiệp hơn đến vùng du mục hơn" (tr 52) : quy luật thật là chiến tranh là một dụng cụ chính trị của kẻ mạnh hơn (hay nghĩ là mình mạnh hơn) gây ra cho kẻ yếu hơn (hay bị coi là yếu hơn). Giữa các nước Tây lẫn nhau, giữa các nước Ðông lẫn nhau : La Mã xâm lăng Ai Cập và Ba Tư nhưng Ba Tư trước đó đã xâm lăng Hi Lạp, v.v. Còn văn hoá thì cũng đi nhiều đường từ Ðông sang Tây (không nên quên rằng đạo Ki-tô sinh ở Á Châu), từ Tây sang Ðông (văn hoá công nghiệp và kĩ thuật), từ Bắc xuống Nam (Khổng giáo), từ Nam lên Bắc (Ðạo giáo sinh ở miền Nam sông Dương Tử), từ một trung tâm nào đó lan rộng toàn thế giới (các tôn giáo lớn, khoa học hiện đại). Về toạ độ và tiến trình của văn hoá Việt Nam, tôi đã dẫn ở trên những phát minh khảo cổ gần đây và sự công nhận của giới khảo cổ học về sự đóng góp của các văn hoá không Hán cho nền văn hoá Trung Hoa. TNT dẫn một bài của Solheim viết từ 1971 trong đó Solheim đưa ra một số giả thuyết về tiền sử Ðông Nam Á châu. Bây giờ những giả thuyết đó đã bị bác bỏ. Không ai phủ nhận rằng bước đầu của văn minh loài người đã xuất phát ở Tây Á như tôi đã dẫn ở trên. Ở Ðông Á, văn hoá đồng của Ðông Sơn xuất hiện chậm hơn văn hoá đồng của người Hán, 1 thiên niên kỉ chậm hơn. Ðối với những tượng và mặt nạ bằng đồng không Hán tìm thấy ở Tứ Xuyên hay Giang Tây cũng chậm hơn từ 500 đến 700 năm (xem Yang Xiaoneng, sđd). Bây giờ không thể viết như Hà Thúc Cần (dẫn tr. 83) hay Hà Văn Tấn (dẫn tr. 85) rằng văn hoá Ðông Sơn đã ảnh hưởng Vân Nam, Quảng Tây và cả đất Sở. Năm 2001 tôi đi chơi Vân Nam được dịp xem bảo tàng Côn Minh, ở đó có trưng bày nhiều cổ vật bằng đồng của văn hoá Ðiền (tên hồ cạnh Côn Minh) tìm thấy ở những mộ vua chúa khoảng 600 đến 300 tr. C.N. Có đồ giống đồ Ðông Sơn (một số trống và chuông, có hoa văn chim, mặt trời, hình tròn ở giữa có điểm, ếch tượng trưng khả năng phồn thực, v.v.), có đồ khác (thạp đựng ốc tiền). Ðây là một vương quốc giàu, ở một giai đoạn tổ chức xã hội cao hơn Ðông Sơn còn ở tình trạng bộ lạc, buôn bán với người Hán, Ấn Ðộ, Tây Tạng, Miến Ðiện. Tôi nghĩ rằng Ðiền và Ðông Sơn cùng thuộc về một loại văn hoá đồ đồng lan rộng từ miền Nam sông Dương Tử cho tới các hải đảo (trống đồng cũng có ở Phi Luật Tân, Java, Lào, Cao Mên v.v.), khác văn hoá đồ đồng của người Hán thời Thương và Tây Chu, nhưng chịu ảnh hưởng của họ qua sự trao đổi hàng hoá (ảnh hưởng này rõ rệt ở các gương đồng, đồ nữ trang bằng ngọc tìm thấy ở Ðiền v.v.). Ở đây tôi cũng muốn nói là tôi không đồng ý với Hà Văn Tấn khi Tấn viết rằng "có một hệ thống chữ Việt cổ thời các vua Hùng" (dẫn tr.94-96) : 20 chữ - nếu đúng là chữ viết - không đủ để thành một "hệ thống". Một "hệ thống" dùng đúng nghĩa của nó phải có vài nghìn chữ đủ để tả cảnh vật, diễn đạt tính tình và ý niệm. Ở Trung Hoa cuối thời nhà Thương (thế kỉ 11 tr. C.N.) người Hán đã có 5000 chữ. Cuối cùng có một điểm cần xét lại. Trang 90, TNT (cũng như nhiều người khác) viết rằng nhà Lí "xây Văn Miếu năm 1070, lập Quốc Tử Giám năm 1076". A. Poliakov đã nghiên cứu vấn đề này, năm 1990 ở Hà Nội có đưa cho tôi bài viết của ông, Etudes Vietnamiennes đăng ở số 3, septembre 1991, tr 27-36 : " Sur la date de construction du Van Mieu". Theo Poliakov, chỉ có Ngô Sĩ Liên mới biên sự kiện này, không thấy ghi ở các sử trước (Lê Văn Hưu, Việt sử lược v.v.). Thời đó Phật giáo là quốc giáo, chưa có nhiều nhà nho để dạy học và tổ chức thi cử. Ngô Sĩ Liên viết rằng thái tử Lí đến học ở Văn Miếu sau khi Văn Miếu được xây dựng, nhưng lúc bấy giờ mới có 4 tuổi ! Chỉ đến thế kỉ 13 nho giáo mới bắt đầu phát triển. Chương 2 tìm hiểu những giá trị văn hoá nhận thức, nghĩa là những triết lí giải thích bản chất của vũ trụ, cấu trúc không gian và thời gian. Theo Trần Ngọc Thêm (TNT), âm dương ngũ hành có nguồn gốc ở phương Nam, bát quái thì nguồn gốc phương Bắc, tuy người Hán (TNT dùng chữ "Hoa tộc" không đúng) " đã có công rất lớn trong việc tổng hợp tri thức rồi hệ thống hoá và phát triển chúng" (tr. 98). Lập luận của TNT không thuyết phục tôi vì những lẽ sau này : Lẽ thứ nhất rất đơn giản là không thể khái niệm hoá nếu không có chữ viết. Một vật cụ thể ai cũng nhận được không cần phải nghĩ xa xôi. Từ thượng cổ ở đâu cũng biết phân biệt nam nữ ngày đêm vì đó là tự nhiên thôi (trời sáng trời tối). Ngày đêm, sáng tối đưa đến đen trắng : ngôn ngữ nào cũng có tối thiểu là 2 màu đen và trắng (TNT dẫn khảo sát của Berlin và Kay, tr. 135). Ðó cũng là nghĩa đầu của âm và dương : âm là sườn núi tối (mặt trăng), dương là sườn núi sáng (mặt trời). Nếu nói "gốc" thì âm dương là nhận thức của mọi người chứ không phải của riêng Ðông Nam Á hay Tây Bắc Á. Trừu tượng hoá âm dương để thành một triết lí thì phải có chữ viết. Chữ viết không những có chức năng truyền thông rộng hơn là tiếng nói, mà còn cho phép trữ kiến thức, tăng thêm nó, phổ biến nó, và nhất là phát triển tư tưởng phê bình và khoa học. Tôi không nói là một xã hội truyền khẩu không biết phê bình. Nhưng họ chỉ biết phê bình cái gì họ nghe và thấy. Nghe một nhà hùng biện có thể bị lôi kéo mất óc phê bình. Chữ viết cho phép đọc từng dòng từng chữ, đọc đi đọc lại, có thời giờ ngẫm nghĩ suy luận, đối chiếu nhiều ý kiến. Và chữ viết cho phép trừu tượng hoá, mở đầu cho khoa học. Không có chữ viết không có khoa học, đó là một sự thật không ai chối cãi. Nhất là toán học, một dụng cụ chủ yếu của khoa học. Ta có thể làm vài tính thường trong óc. Nhưng tính phức tạp thì không được, phải viết trên giấy. Triết lí cũng vậy (chưa nói đến triết học). Triết lí cần chữ viết để trừu tượng hoá quan niệm thông thường, để dựng một hệ thống có quy củ, để xem xét, phê bình, sửa đổi. Người Việt dù có 20 chữ hay 200 chữ cũng không đủ để trừu tượng hoá âm dương thành triết lí. Người Hán thì có thể vì có chữ từ thế kỉ 16 TCN, đến thế kỉ 11 TCN đã có 5000 chữ. Chữ "văn" trong văn hoá hay văn minh không có nghĩa là "đẹp" như TNT viết tr. 27, mà nghĩa là "chữ viết". Ði đôi với sự xuất hiện của chữ viết là sự xuất hiện của một loại người lấy chữ làm nghề. Ðó là loại sĩ, có người thì làm việc cho triều đình (soạn và giữ các văn kiện, bói toán, làm cố vấn cho nhà vua), có người thì dạy học, suy nghĩ, viết sách. Chỉ có nhóm này mới có thời giờ và tri thức để xây dựng một hệ thống tư tưởng triết lí. Mà nhóm này chỉ có ở người Hán. Ở Việt Nam cũng như ở tất cả miền Nam sông Dương Tử không nơi nào có những điều kiện ấy, nhất là đủ chữ và người để nghiên cứu triết lí. Có "gốc" không đủ để đi đến một quan niệm và cũng không đủ để đi đến một khái niệm. Nhất là khi "gốc" là của toàn thế giới ! Trừu tượng hoá "nữ" = "tối", "nam" = "sáng" không phải văn hoá nào cũng làm (hay làm được). Và nói như TNT rằng ngũ hành và bát quái là sản phẩm của hai dân tộc khác nhau vì có sách chỉ nói đến bát quái không nói đến ngũ hành, hay vì trong ngũ hành và bát quái cùng một số hiện tượng (đất, nước, lửa) có những tên khác nhau, do đó phải xuất phát từ hai kiểu tư duy khác nhau, thì đó là chuyện thường trong văn học. Ở một trình độ nào đó trong một nước, về một vấn đề có nhiều ý nghĩ khác nhau, cùng một chữ có nhiều cách hiểu. Trong một nước Pháp có bao nhiêu sách khác nhau nói về tư tưởng của Marx ! Khổng giáo và Phật giáo cũng thế. Ở Tây Tạng có 4 phái đều được coi là chính phái của Phật giáo ! Nói về nước Việt ta thì phải công nhận ta không có óc triết học (người Nhật Bản cũng thế). Ngoại trừ mấy thiền sư thời Lí-Trần, ta không có một nhà triết học nào cả. Lê Quý Ðôn mà nhiều người gọi là một nhà triết học, sự thật chỉ là một người sưu tập. Một lẽ cuối cùng mà TNT không nhận thấy là một mâu thuẫn lớn giữa tín ngưỡng cổ của người Hán và người Việt. TNT viết (tr. 99) : "đất được đồng nhất với mẹ, trời được đồng nhất với cha" (trong quan niệm của người nông nghiệp). Sự thật người Việt cổ coi trời là mẹ chứ không phải là cha, như trong câu : Ông Trăng mà lấy Bà Trời Chính TNT cũng nói đến Bà Trời trong Chương 4, §13,2, nhưng khi viết Chương 2 thì quên đi ! Chắc rằng ta nói Bà Trời, Bà Ðất, Bà Nước, v. v. , vì lúc bấy giờ ta còn ở chế độ mẫu hệ trong khi người Hán đã sang chế độ phụ hệ. Sau này bị Hán xâm chiếm và ảnh hưởng, ta mới sang chế độ phụ hệ và gọi Trời là Ông. Ở thời Thượng cổ ta gọi Trăng là Ông trong khi người Hán thì coi là âm (nữ) đối với mặt trời (dương). Tất cả những lí lẽ trên đây đưa đến kết luận là triết lí âm dương ngũ hành là gốc Hán chứ không phải là gốc Việt. Từ Chương 3 đến Chương 6, TNT lần lượt phân tích văn hoá Việt Nam : tổ chức cộng đồng (đời sống tập thể và cá nhân) ; ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Ở đây cơ sở lập luận vững hơn là ở hai chương đầu : TNT hiểu biết văn hoá Việt Nam nhiều hơn là văn hoá nước ngoài và lịch sử thế giới. Tuy nhiên vẫn có nhiều câu không đúng khi so sánh Việt Nam với Trung Quốc hay "phương Tây" và nhất là về phương diện phương pháp luận. Trong Chương 3 : "Văn hoá tổ chức cộng đồng : đời sống tập thể", khác với lời viết của TNT (tr. 180), dòng họ rất quan trọng ở Tây Âu thời La Mã và phong kiến. "Cá nhân" xuất hiện từ thời Phục Hưng (thế kỉ 15), gia đình hạt nhân thì với chủ nghĩa tư bản và công nghiệp. Ở người slav dòng họ (zadruga) quan trọng cho tới thế kỉ 19. Trung Hoa cũng coi trọng gia tộc không kém Việt Nam, nhưng đó là gia tộc phía đàn ông, trong khi Việt Nam coi trọng cả hai dòng (nội và ngoại) tuy "nội" vẫn được trọng hơn "ngoại". Tôi không chắc là "ở Việt Nam làng và họ nhiều khi đồng nhất với nhau". Nhiều tác giả thấy rằng phần đông các làng, nhất là ở trong Nam, gồm nhiều họ, dù rằng có một họ đã sáng lập. Ta có câu "láng giềng gần hơn họ xa". Tiếc rằng không có thống kê về vấn đề này. Ở tr. 181, về Tây Nguyên, nói về sự điều hành trong nhà dài của người phụ nữ chủ nhà chỉ đúng ở chế độ mẫu hệ thôi. Ngược lại, tr. 186, không phải chỉ ở phương Nam mới trọng tuổi già. Tuổi già được trọng ở mọi nơi không có chữ viết hay ít dùng chữ viết dù xã hội là du mục hay nông nghiệp, bởi lí do đơn giản là kinh nghiệm đến với tuổi tác. Khi mà chữ viết và học thức lan rộng, tuổi già không được trọng nữa vì người trẻ có thể biết nhiều hơn người già. Tr. 190-1, tôi không biết tính tự trị có phải là một đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam không. Lần đầu tiên nói đến xã là về thời Khúc Hạo (907-917). Sử viết là Khúc Hạo chia cả nước thành lộ, phủ, châu, giáp, xã : mỗi xã có một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Ðến thời Lí, khu vực hành chính gồm có lộ, phủ, huyện, hương, giáp. Ðời Trần có xã quan. Lê Thánh-tông lại đổi thành xã trưởng. Xã trưởng do dân chọn nhưng nhà nước bổ nhiệm. Cho đến 1732 nhà nước Lê Trịnh suy mới thôi kiểm tra và lúc bấy giờ làng mới hoàn toàn tự trị. Nhưng tự trị không có nghĩa là dân chủ. Dân chủ là gì ? TNT không định nghĩa chữ ấy, chỉ kết hợp dân chủ và bình đẳng (tr. 195). Nhưng có bình đẳng đâu ! Chính TNT cũng viết rằng có dân chính cư và dân ngụ cư, dân chính cư chia làm 5 hạng : chức sắc, chức dịch, lão, đinh, trẻ con. Hai hạng trên và một phần hạng thứ ba mới là quan viên. Thế thì có bình đẳng đâu ! Nếu là dân chủ theo nghĩa bây giờ thì ai là tráng đinh cũng phải có quyền bầu người lãnh đạo. Cho nên nói đúng hơn đây là một tập đoàn trị (oligarchie). Theo TNT, tính cộng đồng và tính tự trị đưa đến hậu quả tốt và hậu quả xấu : óc ích kỉ, bè phái, v. v. Ở đây tôi thấy chủ quan quá. TNT chứng minh bằng một số ca dao hoàn toàn trái ngược. Ở đâu mà chả có người xấu người tốt ? Trong mức độ nào ? Ðó là vấn đề. Bây giờ tâm lí xã hội học đã đưa ra một số biện pháp để biết rõ hơn (tôi không nói là với kết quả hoàn toàn khoa học, tôi chỉ nói là khách quan hơn, lúc mà mình làm đúng quy tắc) tỉ số những người nghĩ thế này thế khác. Ở mục 11 : "Cách tổ chức quốc gia", có nhiều câu đặt vấn đề (ngoài những điểm mà tôi đã phê bình). Tôi chỉ nêu vài ví dụ không bàn dài dòng : Tr. 200 : "đơn vị trung gian giữa làng và nước không quan trọng ... thể hiện ở chỗ tên gọi ... luôn thay đổi" : chứng minh này không đủ và có thể chỉ bắt chước Trung Hoa (các tên đều lấy từ Trung Hoa). Tr. 201 : "ở phương Tây, lãnh địa là trụ cột ổn định của quốc gia" : hoàn toàn sai ! Trái lại, các nhà vua luôn luôn ráng sức làm giảm bớt quyền lực của lãnh chúa để củng cố quốc gia. Vào thời kì phát triển tư bản đã hết lãnh địa và phong kiến từ lâu, nhà nước thống nhất chứ không phải là liên bang. Ở Ðức có nhiều vương quốc, Phổ (Prusse) thống nhất thành một Ðế quốc liên bang chứ không phải là một liên bang thực sự. Liên bang thật sự ở Âu Châu thế kỉ 19 chỉ có ở Thuỵ Sĩ do hoàn cảnh riêng của nước này. "Ở Việt Nam. . . các làng phải tập hợp nhau lại thành ‘nước’". Không đúng. Ở đây cũng như ở Trung Hoa hay Âu Châu, một sức mạnh ngoài làng (một anh hùng, một tướng mạnh) đã tập hợp các làng, các vùng thành nước. Tr. 202 : "Ở phương Tây ranh giới quốc gia rất mờ". Lại sai. Chính ở đây đã xuất hiện hộ chiếu. Từ khi có Cộng đồng Âu Châu, nghĩa là từ vài chục năm nay, những người trong Cộng đồng mới đi lại dễ dàng, những người ở ngoài vẫn phải xin thị thực. "Giới tư sản các nước liên minh chặt chẽ với nhau" : phải thêm là để hợp tác và cũng là để cạnh tranh. Còn công nhân thì "tinh thần quốc tế vô sản" bây giờ không còn nữa ! Tr. 206 và sau, TNT đối lập Trung Hoa với Việt Nam cho là ta vì có gốc nông nghiệp nên có một truyền thống dân chủ hơn Trung Hoa là gốc du mục. Tôi thì thấy ở đâu cũng có vua tốt vua xấu. Vua ta đã theo Trung Hoa tự coi mình là thiên tử, mặc áo vàng, đặt quan chế theo kiểu Hán. Không phải chỉ vua ta mới "coi dân như con cháu mình", người Hán cũng có câu "quan là phụ mẫu" của dân. Quan hệ huyết thống (vua anh - vua em, vua chị - vua em, vua cha - vua con) hay pháp lí (vua Lê - chúa Trịnh) không thể gọi là "lãnh đạo tập thể" được (2 người không phải là "tập thể" nhất là khi cùng dòng họ). Chế độ vua cha - vua con có thấy ở một số nước mà không gọi được là dân chủ (Nhật Bản chẳng hạn). Còn chế độ kiểu Vua Lê - Chúa Trịnh thì cũng thấy ở Nhật và nhiều nước trong đó có Pháp "gốc du mục". Tr. 213 : "Truyền thống dân chủ nông nghiệp còn thể hiện trong việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại". Không thể nói thế được vì ta chỉ bắt chước Trung Hoa là nước đầu tiên có việc này, một nước mà theo TNT có gốc vừa du mục vừa nông nghiệp. Ở Triều Tiên "gốc nông nghiệp", chỉ là quý phái mới được đi thi (thường dân không được). Ở Nhật cũng là một nước nông nghiệp, giai cấp thống trị là võ sĩ cha truyền con nối hay được người trên chọn, cho tới đầu thế kỉ 20. Tr. 216-7 : TNT viết rằng "truyền thống thương nghiệp Việt Nam là gian dối", tôi thấy rất là chủ quan. Một hai tục ngữ ca dao không là chứng minh được. Còn nói ở phương Tây xã hội trọng vọng và kính nể nhà doanh nghiệp hay thương nhân thì chỉ đúng từ thời Phục Hưng thôi, thời Trung Cổ họ bị khinh vì sự thống trị của đạo Ki-tô y như là với Khổng giáo ở Ðông Á. Ở hai nơi giai cấp thương nhân đã nảy nở không phải nhờ tôn giáo mà mặc dù tôn giáo chống (tới một trình độ nào tiền mạnh hơn đạo). Tr. 243 : Về lễ nam giao và lễ tịch điền, TNT lập luận rằng vì "tục thờ mặt trời có nguồn gốc ở phương Nam thì làm sao lễ tế Trời và Ðất lại bắt nguồn từ phương Bắc được ?". Người ta có thể trả lời rằng chữ và quan niệm "thiên địa nhân" và "thiên tử" xuất phát ở người Hán. Vua tế trời vì tự coi là con trời (thiên tử) có mệnh của trời trị vì thiên hạ (là đất dưới trời) nhiệm vụ đầu tiên là phát triển nông nghiệp. Có rất nhiều dân tộc thờ mặt trời : Amaterasu là nữ thần mặt trời ở Nhật Bản. Người Turc và người Mông Cổ (du mục) cũng thờ Trời nhưng là một thần Nam. Trang 245 : "Rồng xuất phát từ Nam Á và từ đó đã đi vào văn hoá Trung Hoa" ? Khảo cổ thì có bằng chứng khác. Ở Trung Hoa, người ta đã đào được một số đồ bằng ngọc hình rồng thuộc văn hoá Hongshan (4700-2920 tr. C. N.) tỉnh Liao-ning và Nội Mông Cổ. Hình rồng cũng có ở văn hoá Yangshao (5000-3000) và Taosi Longshan (2500-2000 tr. C. N.). Bên cạnh hình rồng có hình rắn trên đồ đất nung 3. Ở Việt Nam không (chưa ?) tìm được hình rồng nào xưa như thế. Người Hán chẳng cần phải qua sông Dương Tử để biết rồng ! Tr. 272-3, chú thích 14 : Nước Sở thế kỉ 4-3 tr. C. N. dân Việt nhưng vua và quý tộc là Hán. Khuất Nguyên là người Hán không được vua nghe nên tự vẫn chứ không phải "bất bình với sự cai trị của vua nhà Hán" : nhà Hán lập nghiệp năm 206 tr. C. N. , nghĩa là 70 năm sau khi Khuất Nguyên mất. Tr. 288-9 : "Văn hoá gốc du mục trọng dương. . . thiên về văn xuôi". Sự thực phức tạp hơn nhiều. Có nơi bắt đầu bằng thơ, như ở Hi Lạp với Homère (Iliade, Odyssée) hay ở Pháp với Chanson de Roland, có nơi bắt đầu bằng vừa thơ vừa văn xuôi như ở La Mã với Lucrèce và Cicéron, v. v. Văn xuôi bắt đầu thịnh hành từ thế kỉ 18, nghĩa là khá xa với "gốc". Tr. 410 Ngọ Môn có thể được dịch bằng Porte du Midi và Midi cũng có nghĩa là hướng Nam (Chú thích của DÐ : TNT chê dịch như vậy là sai vì ông tưởng Midi chỉ có nghĩa là giờ ngọ). Tr. 457 : Tượng Phật ở chùa Phật Tích trước đây Bezacier cho là tượng Adiđà, bây giờ Trần Lâm Biền và Chu Quang Trứ cho là tượng Phật Thích Ca, tôi nghĩ đúng hơn. Tr. 467 : Quan Âm là Phật Bà không những ở Việt Nam mà cả ở Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản tuy rằng họ không "thiên về nữ tính". Tr. 482 và sau : TNT viết rằng Nho giáo "ra đời và nuôi dưỡng bởi hai dòng sữa : truyền thống văn hoá du mục phương Bắc và truyền thống văn hoá nông nghiệp phương Nam". Trên đây tôi đã đưa ra nhiều chứng minh đối lập với thuyết "hai văn hoá" ấy. Ở đây chỉ cần nói rằng nhiều dân tộc du mục nhỏ ở phương Ðông (chẳng hạn ở Trung Á) không có "tham vọng bình thiên hạ" còn "trọng sức mạnh" thì cũng thấy ở nước nông nghiệp (Nhật Bản chẳng hạn). Hay là nông nghiệp "phương Bắc" khác nông nghiệp "phương Nam" ? Nhật Bản khác Việt Nam vì có một chế độ phong kiến rất giống phong kiến Âu Châu. Do đó họ trọng sức mạnh, không trọng phụ nữ. Nhưng đó là kết quả của chế độ xã hội chứ không phải của nông nghiệp. Người ta cũng có thể lí luận như thế đối với "lối sống trọng tình" hay "tinh thần dân chủ", hai ý niệm rất chủ quan, hay cho người làm văn viết truyện nhưng người khoa học thì nên tránh. Tôi không nói là không có người sống trọng tình hay không có tinh thần dân chủ. Tôi chỉ phê bình sự khẳng định khái quát là nông nghiệp đưa ra lối sống trọng tình và tinh thần dân chủ. Tr. 579 "Hoa tộc (đúng hơn phải nói Hán tộc) đã thu từ phương Nam. . . cái rìu, cái nỏ, nghề nấu thuỷ tinh, phần nào nghề luyện kim đồng" : không đúng. Trung Hoa cũng có rìu (một vật ở đâu cũng thấy từ thời Thượng cổ : paleolithique = đá cũ, neolithique = đá mới), có nỏ (một lợi khí đã giúp Tần thống nhất Trung Hoa), biết luyện kim đồng trước người Việt (Ðông Sơn sớm nhất là thế kỉ 6-5 tr. C. N. , nhà Thương có đồ đồng từ thế kỉ 16-15 tr. C. N. ). Còn nghề nấu thuỷ tinh, tôi không biết TNT dựa vào tài liệu nào mà nói người Việt biết nghề ấy. Theo tất cả các sách khảo cổ mà tôi biết, thuỷ tinh được phát minh ở Ai Cập và Mêzôpôtami trước -1500, lan ra Tây Á vào thế kỉ thứ 6 tr. C. N. , nghề thổi thuỷ tinh xuất hiện ở thế kỉ 1 ở đấy. Ðể kết luận, tôi thấy quyển sách của ô. Thêm có hai phần. Phần có giá trị là khi tác giả phân tích văn hoá Việt Nam. Có những trang rất lí thú về đời sống cá nhân, văn hoá ứng xử với môi trường : ăn uống, mặc, ở và đi lại, tuy có khi người đọc có thể không đồng ý về điểm này hay điểm khác. Phần yếu của quyển sách là khi tác giả khái quát mà không có chứng minh khoa học, đặt cơ sở lí luận trên sự phân chia hai loại hình văn hoá, trọng tĩnh và trọng động, theo nguồn gốc nông nghiệp hay du mục của nó. Lịch sử thế giới không chứng minh lí luận đó : phần lớn các văn hoá khi xuất hiện ở phương Ðông cũng như ở phương Tây đều phối hợp nông nghiệp và du mục (tuy với trình độ khác nhau). Chỉ trong một số trường hợp vì hoàn cảnh địa lí khí hậu ta thấy chỉ có nông nghiệp (các đồng bằng Ðông Nam Á Châu) hay chỉ có du mục (Trung Á, Trung Phi, bán đảo Ả rập v. v. ). Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự kiện lịch sử xã hội, "gốc" không quan trọng bằng các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, đương thời. Gốc là một khái niệm khái quát quá, lờ mờ quá, nhất là một gốc du mục hay nông nghiệp đưa ra nhiều xã hội khác nhau. Nhiều ý niệm khác tác giả dùng cũng không ở trong phạm trù khoa học : tính âm, tính dương, tính tĩnh, tính động, của một văn hoá là gì ? Chữ tĩnh hàm ý không thay đổi, hay không thay đổi trong một thời gian lâu, và có ở tất cả mọi người, dù là nam hay nữ, ở địa vị này hay địa vị nọ, ở đẳng cấp, giai cấp này hay đẳng cấp, giai cấp nọ. Sự thật thì cái gì cũng thay đổi, chậm hay nhanh. Có khi vì muốn đề cao văn hoá nước mình, tác giả đã quên nhiều sự kiện lịch sử. TNT cho rằng hai truyền thống quan trọng của Việt Nam là "dân chủ" và "trọng tình" (tr. 498) : "vua nông nghiệp. . . coi dân như con cháu mình" (tr. 206 : có bao nhiêu ông vua như thế ?) ; "các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng phải thực hiện đều mang tính tự vệ (cả) với người Chiêm Thành" (tr. 498). Năm 1471 Lê Thánh-tông đánh Chiêm Thành để "tự vệ" hay để mở mang bờ cõi ? Sau khi chiếm thủ đô Chăm, Lê Thánh-tông đã giết hơn 40.000 người và bắt hơn 30.000 người về để làm gia nô hay điền binh (Ðại Việt sử kí toàn thư). Ðó có phải là một hành động "trọng tình" không ? Tôi thì gọi nó là dã man, lấy làm hổ thẹn, chỉ biết ... tạ lỗi với người Chăm. Gần đây cải cách ruộng đất có "trọng tình" không ? Và bây giờ các chủ nhân xí nghiệp "gốc nông nghiệp" đối xử với công nhân "trọng tình" hay "bóc lột" như người mác-xít vẫn nói ? Nói chung các văn hoá "gốc nông nghiệp" bây giờ "trọng tình" hay "trọng tiền" hơn ? Ông Trần Ngọc Thêm còn nhiều thời giờ để đọc sách, nghiên cứu và suy nghĩ về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và phương pháp luận. Với khả năng của ông, tôi tin rằng ông sẽ vượt các khuyết điểm hiện giờ và đóng góp nhiều cho nền khoa học xã hội và nhân văn của nước nhà. Lê Thành Khôi nguồn dongtac.net
  4. Wild có một điễn tích này muốn đưa lên Diễn Đàn mong ACE có người nào có thêm tư liệu bổ sung . Phần Âm trạch của gia đình Wild tình cờ an táng tại nghĩa trang Triều Châu tọa lạc tại xã Hóa an tỉnh Bình Dương cách tp Hcm 30 km . Nghĩa trang này theo lời kể vốn của Chú Hỏa tên QUÁCH ĐÀM người Hoa giàu có nhất Đông Dương thời đó và khởi nghiệp bằng gánh ve chai , nhiều thêu dệt quanh cuộc đời Ông như Cô con gái mắc bệnh Phong cùi ( hansen ) bị giấu dưới tầng hầm của ngôi biệt thự gia đình và đêm đêm cất tiếng oán than số phận vang vọng quanh khu phố ( vì thời đó bệnh này chưa có thuốc chữa và bị cách ly ) Ông là người khai sinh Chợ Bình Tây , bệnh viện Từ Dũ (ngày xưa là nhà thương thí cho các dân nghèo sanh nở ), căn nhà 3 mặt tiền tọa lạc ở 97 Phó Đức Chính nay thuôc quyền quản lý của Sở Văn Hóa Thông Tin Tp và mãnh đất Nghĩa trang Triều Châu ngày nay vị trí đất này được truyền có sự can thiệp của Thầy Địa Lý phong thủy bên tàu chọn cho Chú Hỏa ( phần mộ của gia tộc chú Hỏa năm ở vị trí đồi cao so với toàn bộ khu đất đó ) vì được trú trọn vẹn phần Thân và đuôi Rồng , phần đầu Rồng nằm ở Núi Bửu long .Đặc biệt Đất ở đây là loại Đất thịt Cát vàng rất mịn và khô ( đất này không phát triễn đươc vấn đề mối đùn như các nghĩa trang khác ). Các ngôi mộ đều xây 1 kiểu giống nhau , còn có những ngôi mộ táng 2 đến 3 người trong đó có 1 chồng và 2 bà vợ . Đây là một nghĩa trang rất tàu mà không Bắc Trung Nam của ta thường có. Điều Wild muốn nêu lên ở đây sự can thiệp của Phong Thủy Tàu ĐÚNG hay SAI khi vận mệnh của Chú Hỏa sau khi mất con cháu thế nào ?
  5. Thứ sáu ngày 13” có đáng sợ ? Các nhà xã hội học Hà Lan vừa công bố một thống kê cho thấy "thứ sáu ngày 13" thật ra còn an toàn và bình lặng hơn các ngày thứ sáu khác. Ít tai nạn hơn, ít hỏa hoạn hơn, ít trộm cắp hơn, và ít những cú gọi cầu cứu cảnh sát hơn. Theo Reuters, các chuyên gia cho rằng khi cái ngày xui xẻo này đến người ta hầu hết đều cảm thấy cần phải thận trọng hơn, nhiều người hạn chế ra đường, chỉ muốn ở nhà thư giãn cho khỏe, còn những tên ăn trộm thì không can đảm chọn "thứ sáu ngày 13" để "làm ăn". P.An nguồn vietbao
  6. Món ăn chữa cảm nắng 22:36:08, 14/06/2008 Dừa tươi, đậu xanh, dưa hấu trị trúng thử rất hay - Ảnh: Khánh Vy Mùa hè nóng nực, sau một cơn mưa, hơi đất bốc lên, thấp khí thăng cao, khí nóng cũng tạm hạ thấp, dễ dẫn đến mắc bệnh trúng thử (cảm nắng). Xử lý khi trúng thử Trúng thử có triệu chứng đầu óc mơ màng, đổ mồ hôi, miệng khát, buồn nôn, nặng thì đột nhiên bất tỉnh, hôn mê. Nguyên nhân chính là do rối loạn nước, chất điện giải. Bệnh này quan trọng ở phần dự phòng, cho nên cần chú ý ở triệu chứng báo trước của trúng thử như: đầu óc mơ màng, ù tai, ngực oi bức khó chịu, tim đập nhanh, đổ mồ hôi, tứ chi mất sức, miệng khát buồn nôn, nóng hôn mê đột nhiên ngất lịm, bất tỉnh nhân sự, sắc mặt trắng nhợt, tay chân lạnh mất cảm giác, chuyển đi thì dần dần tỉnh lại. Nguyên tắc thực liệu: lấy thanh nhiệt giải thử là chính, dùng các đồ ăn và bài thuốc tân hàn thanh nhiệt, giải thử, ngọt, chua ích khí sinh tân, phương hương (có mùi thơm) tỉnh não. Đối với người bị trúng thử cần phải cấp cứu ngay, không cho uống nước lạnh, không cho nằm dưới đất ướt, cho uống nước nóng, rồi lấy vải xanh nhúng nước nóng mà đắp vào rốn cho ấm. Dùng lá bạc hà tươi giã nát vắt lấy nước cốt 1 bát cho uống; cho uống một ly nước dừa tươi; dùng lá tía tô, lá mã đề, vò với nước, vắt lấy nước cốt cho uống; trái bồ kết (đốt tồn tính), cam thảo sao qua, lượng bằng nhau tán mịn cho uống 5g với nước nóng. Sau khi đã tỉnh cho uống bài thuốc sau: rau má tươi 12g, lá tre 12g, hương nhu (lá) 16g, củ sắn dây 12g, bồ chính sâm 20g, mạch môn 10g, ngũ vị tử 6g, rễ đinh lăng 16g, xương bồ 12g .Sắc uống ngay khi còn nóng 1 thang . Dừa . Đỗ xanh còn võ và đãi võ . Những món ăn phòng trúng thử Trúng thử có thể đề phòng, chữa trị bằng các món ăn - bài thuốc có hiệu quả như dưới đây: Nước dưa hấu ngân hoa - vỏ dưa hấu 200g, ngân hoa 9g, đường trắng 30g. Rửa sạch vỏ dưa hấu, cắt nhỏ, rửa sạch ngân hoa. Bỏ vỏ dưa hấu và ngân hoa vào nồi, đổ nước vừa đủ, đun to lửa sắc 30 phút. Dùng vải xô lọc bã lấy nước, cho đường vào đợi nguội uống. Uống nhiều lần. Tác dụng: khu thử sinh tân, thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu. Thích ứng: chữa bệnh thử phát nhiệt, tâm phiền miệng khát, mắt đỏ, thần trí không tỉnh táo, cổ họng sưng đau, tiểu tiện ngắn ít, vàng đỏ, nhọt độc lở loét. Hoặc dùng nước ô mai chua: ô mai 20 quả, bạc hà 12g, đường trắng 30g. Đem ô mai, bạc hà rửa sạch, rồi bỏ ô mai vào nồi sắc 30 phút, bỏ tiếp bạc hà sắc tiếp 2-3 phút dùng vải xô lọc bã lấy nước, cho đường vào là được. Uống nhiều lần, có tác dụng, thanh thử giải nhiệt, sinh tân chỉ khát. Thích ứng với bệnh thử phát nhiệt, ác phong hàn nhẹ, đau đầu, đầu óc mê mẩn, tâm phiền miệng khát. Hay dùng nước thanh hao: thanh hao tươi 50g, đường trắng 25g. Rửa thanh hao rồi thái nhỏ, cho vào cốc có nắp đậy, đổ nước sôi vào cốc đậy nắp lại, ngâm 3 - 5 phút, dùng vải xô lọc bỏ bã, cho đường vào quấy đều là được. Uống nhiều lần. Có tác dụng thanh thử, thoái nhiệt. Thích ứng chữa thương thử phát nhiệt không lui, tâm phiền miệng khát, đầu óc mê muội, hoặc thấy lạnh run tráng nhiệt. Nước đậu xanh bạc hà: đậu xanh 100g, bạc hà 12g, đường trắng 30g. Đậu xanh và bạc hà đãi rửa sạch. Bỏ đậu xanh vào nồi đổ 1 lít nước, to lửa đun sôi, bỏ bạc hà vào đun thêm 2 phút (nếu sau quá trình sắc mà nước không có màu xanh thì vô hiệu), dùng vải xô lọc qua rồi bỏ đường quấy đều là được. Uống nhiều lần. Có tác dụng thanh nhiệt, khu thử, sơ phong, giải biểu, trừ phiền chỉ khái. Thích ứng: chữa thử phát nhiệt, ác phong hàn nhẹ, đau đầu, đầu óc mơ màng, tâm phiền miệng khát. Nước dưa hấu cà chua: dưa hấu 1 quả, cà chua 1kg. Dưa hấu rửa sạch lấy ruột, bỏ hạt. Dùng nước sôi ngâm nóng bỏng cà chua, lột bỏ vỏ bỏ hạt. Cùng cho vào vải xô xoắn vắt lấy nước (máy xay nhỏ lọc). Uống thường xuyên. Tác dụng thanh nhiệt, giải thử, sinh tân khai vị. Thích ứng: chữa bệnh thử phát nhiệt, miệng khát, thanh nhiệt, ăn uống không ngon miệng, tiêu hóa không tốt, tiểu tiện nóng đỏ. Cháo hà diệp: Hà diệp tươi 1 lá, gạo tẻ 150g, đường trắng 30g. Đãi sạch gạo, đổ vào nồi, cho nước vừa đủ, hầm thành cháo, lấy lá sen úp lên trên mặt cháo, đun 5 phút, đợi cháo nguội bỏ lá sen đi, cho đường vào là được. Ăn sáng hoặc bữa tối. Có tác dụng thanh thử nhiệt, khu phiền khát. Thích ứng: chữa mạo thử mùa hạ. Lương y Hoài Vũ nguòn thanhnienonline
  7. Văn hoá Đông Sơn Văn hoá Đông Sơn là một nền văn hóa đồ đồng và đồ sắt sớm, từng tồn tại ở một số tỉnh miền bắc và bắc trung bộ Việt Nam mà trung tâm là khu vực Đền Hùng, dọc ba con sông chính của đồng bằng Bắc Bộ: sông Hồng, sông Mã, sông Lam.Nền văn hoá này được đặt tên theo địa phương nơi các dấu tích đầu tiên của nó được phát hiện ở gần sông Mã, Thanh Hoá. Nhiều dấu tích đặc trưng cho văn hoá Đông Sơn cũng được tìm thấy ở một số vùng lân cận Việt Nam như ở Vân Nam, Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc, ở Lào hay ở Thái Lan... Các nghiên cứu Có những nghiên cứu cho rằng trên cơ sở văn hóa Đông Sơn nhà nước văn minh đầu tiên của người Việt, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nối tiếp là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương đã phát triển, trước khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Hán. Theo đánh giá của các nhà khoa học, thì nền Văn hóa Đông Sơn là sự phát triển liên tục và kế thừa từ các thời kỳ tiền Đông Sơn trước đó là Văn hóa Phùng Nguyên đến Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò Mun. Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hoá phát triển cùng thời ven biển Đông như văn hóa Sa Huỳnh (ở Trung Nam Bộ) và văn hóa Đồng Nai (ở lưu vực sông Đồng Nai). Hiện nay người ta bước đầu mới tìm thấy bằng chứng xưa nhất về các cư dân sinh sống ở vùng Bắc Bộ Việt Nam là khoảng 18.000 năm thuộc di chỉ Sơn Vi. Nhưng một thực tế rằng, khu vực Bắc Bộ Việt Nam thuộc khu vực Bắc lục địa Đông Nam Á là một vùng đất trung gian nối liền hai trung tâm là Kalimantan và Mã Bá (Quảng Đông) là những nơi cho đến nay đã tìm thấy Người hiện đại (homo sapiens) có niện đại cách nay trên dưới 40.000 năm. Tại Hội nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham luận, sau khi các dữ kiện được kiểm chứng, so sánh với ý kiến của các học giả khác, đã được xuất bản năm 1980 [1]. Cho đến lúc đó (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng tìm thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại C14 = 1425 ± 100BC [bLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có niên đại C14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi) [2]; đồ đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì khiến hợp kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có chì) [3]. Chạm khắc trên khuôn đúc đồngVăn hóa Đông Sơn là thời kỳ kế thừa của các nền Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại cách nay khoảng 4.000 năm, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Gò Mun và có các điểm chính phải nhấn mạnh: • Văn hóa lúa nước phát triển, thực phẩm dồi dào và có dự trữ dẫn đến sự phân cấp xã hội người Việt cổ. • Kỹ thuật đồng thau mà đỉnh cao là các trống đồng Đông Sơn. • Kỹ thuật về quân sự mà đỉnh cao là thành Cổ Loa (thành, mũi tên đồng và nỏ). • Sự tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xã thôn tự trị mà đỉnh cao là sự thành lập nhà nước Văn Lang. Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Người Việt trong cộng đồng chủng Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước. Trong di chỉ khảo cổ cho thấy một bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng phong phú, vào giữa và cuối thời kỳ Đông Sơn có xuất hiện khá nhiều đồ sắt và đồ đồng đã chuyển sang các loại vật dụng trang trí và tinh xảo hơn. Lưỡi cày và di cốt trâu, bò nuôi chứng minh một trình độ luân canh định cư của cư dân Đông Sơn dẫn đến có một lượng thặng dư về thực phẩm. Điều này thúc đẩy một bộ phận dân cư chuyển sang làm các ngành nghề như đồ gốm, dệt, đồ trang sức, xây dựng, luyện kim, làm sơn... Công nghệ luyện kim Miền Bắc Việt Nam từ nghìn xưa vốn có nhiều mỏ kim loại như các mỏ vàng, bạc, chì, sắt, đồng... Các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hoá... có hàng chục mỏ đồng. Những mỏ này thường nhỏ, nông và lộ thiên, thuận tiện cho cách khai thác giản đơn. Đó là điều kiện đầu tiên để có thể phát triển một nền văn hoá đồng thau rực rỡ. Trống đồng Ngọc LũĐến giai đoạn văn hoá Đông Sơn, giai đoạn cực thịnh của thời đại Hùng Vương thì thấy trong thành phần hợp kim đồng thau, tỷ lệ đồng và thiếc giảm xuống và tỷ lệ chì tăng lên. Việc sáng tạo ra loại hợp kim mới này không phải là ngẫu nhiên mà là xuất phát từ những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật của cả một thời kỳ lịch sử. Trong các giai đoạn trước Đông Sơn hợp kim đồng thau chủ yếu dùng để chế tạo các đồ nghề, đòi hỏi có tính năng kỹ thuật sắc bén, bền chắc. Đến giai đoạn Đông Sơn, đồng thau chuyển mạnh vào lĩnh vực đồ dùng hằng ngày; các loại thạp, thố, trống đồng đòi hỏi sản xuất nhiều. Những đồ vật này lại cần phải trang trí đẹp, phức tạp và như vậy cần hợp kim có tính năng dễ đúc để dễ dàng tạo nên các chi tiết tinh xảo sắc nét trong khi đúc. Vì vậy mà người Việt cổ sử dụng hợp kim đồng - thiếc - chì. Mặt khác, hợp kim mới với 3 thành phần chính có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, do đó giảm bớt những khó khăn trong việc nấu và đúc, và như vậy, người Việt cổ lúc đó đã bước đầu biết đến mối quan hệ giữa thành phần và tính chất của hợp kim, mà thuật ngữ khoa học kỹ thuật luyện kim hiện đại gọi là điểm nóng chảy thấp. Rìu đồngĐiều nữa, còn nhận thấy rằng ở giai đoạn Đông Sơn, thành phần của các kim loại trong hợp kim đồng - thiếc - chì (hoặc đồng - chì - kẽm) lại thay đổi theo chức năng của từng loại đồ nghề, đồ dùng hay vũ khí. Ví dụ: Rìu xoè cân Thiệu Dương có thành phần: đồng: 82,2%, thiếc: 10,92%, chì: 0,8% và rìu lưỡi xéo Thiệu Dương có thành phần: đồng: 82,2%, thiếc: 6,8%, chì:1,4%, nhờ vậy vật liệu sẽ có độ cứng nhưng không giòn và có thể chặt, cắt tốt. • Mũi tên đồng ở Cổ Loa có thành phần: đồng: 95%, chì: 3,4-4,2%, kẽm: 1-1,1%. Tỷ lệ này đảm bảo hợp kim có độ cứng lớn nhất để đảm bảo tính năng xuyên thủng áo giáp. • Lưỡi giáo Thiệu Dương có thành phần: đồng: 73,3%, thiếc: 13,21%, chì:5,95% để đảm bảo cho vũ khí vừa dẻo vừa bền. Lẫy nỏ, rìu, khuôn đúc đồngVề phương pháp chế tác các công cụ đồng, có thể nhận thấy ngoài một số ít công cụ cỡ nhỏ như lưỡi câu, mũi nhọn... mang dấu vết của kỹ thuật rèn, còn hầu hết các di vật đồng thau là sản phẩm đúc. Cho đến nay đã tìm thấy hơn 30 loại khuôn đúc giáo, dao găm, rìu, mũi dùi, mũi tên... Những khuôn đúc này hoặc bằng đất hoặc bằng đá và sa thạch. Khuôn đúc bằng đất tìm thấy ở Đồng Đậu, Cam Thượng, đất sét làm khuôn được phát hiện ở nhiều địa điểm trong các tỉnh Cao Lạng, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hà Nội, Bình Trị Thiên. Các khuôn đá tìm thấy đều là khuôn có hai mảnh (ví dụ các khuôn đúc rìu), mặt giáp hai mảnh rất nhẵn và kín, nếu úp mặt 2 mảnh rồi soi lên, chúng ta không thấy có chút ánh sáng nào lọt qua. Có những khuôn đúc đồng thời đúc được nhiều dụng cụ một lúc, ví dụ khuôn đất đúc 3 mũi dùi, khuôn đá đúc 2 mũi tên cùng một lúc ở Đồng Đậu. Những chiếc dao găm tìm thấy ở Tràng Kênh Hải Phòng cho thấy có chuôi hình người với đầy đủ mũ, áo, quần với trang trí tinh xảo. Công cụ sản xuất nông nghiệp Đông Sơn có các loại: lưỡi cày, thuổng, rìu, cuốc, mai, vời... Công cụ sản xuất thủ công có các loại đục (đục bẹt, đục vũm, đục một), nạo, dùi, giũa, dao, dao khắc, rìu, kim, dây... Về mặt kỹ thuật, đặc trưng hợp kim đồng thau của giai đoạn Đông Sơn là hàm lượng chì cao, có khi đến 20%. Các nhà khảo cổ học cho rằng hợp kim đồng - thiếc - chì là một sáng tạo của kỹ thuật luyện đồng của người Đông Sơn ở Đông Sơn. Vào cuối giai đoạn Đông Sơn, công cụ sắt đã tương đối phổ biến: đó là các loại cuốc, mai, búa, đục, dao, giáo, kiếm... Chà xát huyệt dũng tuyềnVăn hóa Đông Sơn, kể từ văn hóa Phùng Nguyên tính đến thời điểm này, vẫn có thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Các sinh hoạt văn hóa của cư dân Đông Sơn được mô tả khá phong phú trên các hoa văn rất sắc nét của trống đồng. Thật may mắn cho những trang sử được chạm khắc trên chất liệu đồng đã lưu giữ cho người Việt Đông Sơn một trong những chứng cứ về văn hóa Đông Sơn. Các loại nhạc cụCác yếu tố thuộc về văn hóa ở Đông Sơn không hề có bóng dáng của yếu tố bên ngoài. Bởi vì thời điểm văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ nhất và thông qua niên đại xác định bằng C14, thì cách nay trên 2.500 năm. Nghệ thuật Đông Sơn cho ta thấy sự cảm nhận tinh tế của các cư dân thời đó qua khả năng chạm khắc, tạo hình tinh tế và một đời sống ca múa nhạc phong phú. Hình chạm khắc trên tống đồng Đông Sơn cho ta thấy những hình người thổi kèn, các vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công (một loài chim đặc sắc phương Nam nhiệt đới), nhà sàn của cư dân vùng nhiệt đới Đông Nam Á, bộ sưu tập về các loài chim cổ mà ngày nay nhiều trong các số loài đó đã tuyệt chủng. Đồ dùng Đông Sơn gồm có các loại thạp, có nắp hay không nắp, với những đồ án hoa văn trang trí phức tạp, những thổ hình lẵng hoa có chân đế và vành rộng, các loại gùi, vò, ấm, lọ, chậu. Qua đó làm chứng cứ về một xã hội phức tạp trên cơ sở các đại gia đình, các dòng họ trong cộng đồng làng xã đã định cư ổn định. Người Đông Sơn trang sức bằng các loại vòng tay, vòng ống ghép, nhãn, hoa tai, móc đai lưng, bao tay, bao chân, ví dụ như bao tay và bao chân tìm thấy ở di tích Làng Vạc, Nghệ An. Nghệ sĩ tạc tượng Đông Sơn để lại cho chúng ta nhiều loại tượng người, tượng thú vật như cóc, chim, gà, chó, hổ, voi… Nhạc sĩ Đông Sơn đã diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng. Số lượng trống đồng Đông Sơn tìm được cho đến nay trên vùng đất Việt Nam đã khoảng 140, chiếm già nữa số lượng trống loại này hiện đã biết ở Đông Nam Á. Đôi trai gái trên thạp đồng Đào Thịnh ( còn tiếp )
  8. Tín ngưỡng - tập tục Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ và thờ cả hành vi giao phối. Người Việt tôn sùng cây cối, các loại cây lương thực chính. Các sản phẩm làm từ gạo nếp, gạo tẻ đã có lịch sử hàng nghìn năm và còn lưu truyền đến ngày nay. Các loại bánh trái đặc trưng của người Việt đã đi vào huyền thoại bằng văn hóa truyền khẩu [4]. Các làng xã Việt bao giờ cũng có các cây đa cổ thụ bởi vì họ tôn thờ và bảo vệ từ thế kỷ này sang thế kỷ khác [5]. Trong tín ngưỡng người Việt, việc sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt, mà ngày nay vẫn còn như một thứ tín ngưỡng từ Bắc vào Nam. Người Việt yêu cuộc sống đầm ấm làng xã, thích định cư dài lâu và có truyền thống coi trọng mồ mả của tổ tiên, họ ít phiêu lưu, chinh chiến, yêu hòa bình, yêu ca hát, lễ hội, nhảy múa (các sử cổ của Trung Quốc còn ghi lại rõ từ trước Công Nguyên). Người Việt trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng. Ấm đồng Uống trà của người Việt cổ có từ xa xưa, khi người Hán ở Trung Nguyên Trung Quốc chưa biết đến trà được thể hiện qua mô tả của sử Trung Hoa. Tập tục ăn trầu cũng là đặc trưng chính của người Việt cổ, được thể hiện qua câu chuyện cổ về sự tích trầu cau mà tầm lan tỏa và tập tục ăn trầu lan đến hầu hết các cư dân Nam đảo và Đông Nam Á. Người Việt cổ biết dùng hóa chất và các loại nhựa, sơn cây dùng để nhuộm răng đen, mà mãi đến giữa thế kỷ 20 cũng vẫn còn khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam [6]. Cuộc sống theo tín ngưỡng phồn thực và trọng thiên nhiên, sống hài hòa với thiên nhiên và thuyết âm dương có lẽ bắt nguồn từ đây. Ở đây ta cũng nhắc đến vài nét chính của nghệ thuật chôn cất người chết mà các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hầu như rải rác trên toàn bộ Bắc Bộ kéo dài đến miền Trung Việt Nam - Mộ thuyền là một cách chôn cất khá độc đáo của người Việt cổ thuộc văn hóa Đông Sơn. Mộ thuyền Năm 2004 các nhà khảo cổ học tìm thấy thêm một ngôi mộ bên triền sông Cửu An, thuộc thôn Động Xá, xã Lương Bằng, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Đây không chỉ là ngôi mộ có quan tài hình thuyền như những phát hiện trước đó, mà thực sự là một con thuyền độc mộc chở người Đông Sơn vào giấc vĩnh hằng từ 2.500 năm trước. Khi nắp quan tài bật mở, người ta thấy tất cả bùn đất tích tụ từ thiên niên kỷ I TCN phủ kín hiện vật. Khi lớp bùn được gạt ra, nhóm khai quật nhìn thấy người chết đặt nằm ngửa, thân bó vải, hai tay để xuôi, chân duỗi thẳng. Ngoài ra, còn có một số hiện vật đi kèm là đồ gốm, hạt thực vật. So với các mộ thuyền Đông Sơn được phát hiện từ những năm 1960, 1970 tại Châu Can Hà Tây, Việt Khê Hải Phòng, La Đôi Hải Dương..., đây là mộ duy nhất còn nguyên vẹn xương cốt với quần áo hoàn chỉnh. Phát hiện này khiến các chuyên gia Viện Khảo cổ và Trung tâm nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á vô cùng phấn khởi. Bởi tìm hiểu về nguồn gốc cư dân thì cốt sọ giữ vai trò quan trọng nhất, giúp các nhà khảo cổ làm sáng tỏ những người đã sáng tạo ra nền văn hóa Đông Sơn. Kỹ thuật quân sự Dao găm Đông Sơn Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại hình, độc đáo về hình dáng và phong phú về số lượng. Điều này gắn liền với các thần thoại và truyền thuyết về truyền thống chống giặc ngoại xâm, giữ nước của dân tộc Việt, ví dụ như câu chuyện nỏ thần của vua Thục Phán An Dương Vương bắn mỗi phát ra hàng loạt mũi tên đồng làm cho tướng xâm lược Triệu Đà phải khiếp vía kinh hồn. Những cuộc khai quật ở thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) đã phát hiện ra kho chứa hàng vạn mũi tên đồng. Mũi tên Cỗ Loa có các loại hình cánh én, hình lao có họng hay có chuôi, loại 3 cánh có chuôi dài. Ngoài ra còn có giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, rìu chiến... Rìu chiến có đến gần 10 loại: các loại rìu xéo (hình dao xéo, hình thuyền, hình hia, hình bàn chân) rìu lưỡi xoè cân, rìu hình chữ nhật, rìu hình dao phạng. Dao găm có các loại lưỡi hình lá tre đốc củ hành, đốc bầu dục hay có chuôi là một tượng hình người, có loại dao găm lưỡi hình tam giác, cán dẹt hay tròn. Các tấm che ngực có hình vuông hay hình chữ nhật, có hoa văn trang trí đúc nổi. Ở Hà Nam Ninh còn tìm thấy cả giáp che ngực và mũ chiến bằng đồng. Mũi tên đồng Cổ Loa Một kỹ thuật đặc biệt cũng cần nhắc đến cho vũ khí Đông Sơn là vừa qua các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khám phá ra kho mũi tên đồng Cổ Loa có hàng vạn chiếc ở khu vực thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Mũi tên đồng của vương quốc Âu Lạc có cấu tạo độc đáo ba cạnh. Xét về mặt xuyên thủng thì không phải là yếu tố chính. Nhưng xét về mặt giải phẫu, thì với mũi tên ba cạnh (quả khế) thì vết thương do mũi tên này gây ra có thể nói rằng rất trầm trọng. Kẻ bị bắn trúng mũi tên này không dám rút mũi tên ra vì việc này sẽ gây mất máu và dẫn đến tử vong rất nhanh. Giáp tay Nghệ An Có lẽ kết hợp với yếu tố sông nước và kỹ thuật vũ khí mà đội quân đông hàng chục vạn của Tần Thủy Hoàng phải thất bại thảm hại trước một dân tộc phương Nam, trong khi trước đó quân Tần chưa hề nếm mùi thất bại khi thống nhất lãnh thổ Trung Hoa. Nếu Trung Hoa có chiến xa trong chiến tranh thì người Việt Đông Sơn lại có thuyền chiến lớn, chở được nhiều người, đủ các loại vũ khí, cơ động rất tài tình trên vùng sông nước của các con sông lớn nhỏ thuộc đồng bằng Sông Hồng. Voi chiến của các cư dân Đông Sơn cũng là nỗi khiếp nhược cho những kẻ xâm lăng. Thành quách Xem bài chính Thành Cổ Loa Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó hẳn là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn. Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở trung tâm đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn. Chạm khắc trên mảnh áo giáp Sự hình thành nhà nước Kinh tế phát triển-xã hội giàu có Để phục vụ cho trồng trọt, cư dân Đông Sơn bấy giờ đã đẩy mạnh chăn nuôi trâu, bò để lấy sức kéo và phân bón. Nhiều di vật văn hóa Đông Sơn có xương trâu, bò. Các gia súc, gia cầm cũng được cư dân Đông Sơn chăn nuôi rộng rãi, như lợn, gà, chó v.v... Nghề thủ công đạt được bước tiến rất quan trọng từ khi cư dân Phùng Nguyên phát minh ra nghề luyện kim, đúc đồng, tiến lên nghề luyện sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Việc phát hiện được những khuôn đúc đồng và xỉ đồng đã khẳng định nghề luyện kim do cư dân Hùng Vương sáng tạo ra. Với kỹ thuật luyện đồng, cư dân Đông Sơn bầy giờ đã tạo nên bước ngoặt, loại trừ hẳn đồ đá. Trong một số di tích thời Hùng Vương như Tiên Hội, Đường Mây, Gò Chiền Vậy, Đồng Mõm, Vinh Quang tìm thấy các di vật bằng sắt. Nghề làm đồ gốm của các cư dân Đông Sơn cũng phát triển lên một bước. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến. Người thợ gốm bấy giờ còn biết dùng phương pháp tạo hình bằng cách đổ khuôn và nung trong lò kín chuyên dụng. Chất lượng gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Trình độ tạo hình cũng ngày càng cao hơn. Các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, song song chạy quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng. Sự phát triển của nền kinh tế trên nhiều mặt là cơ sở cho sự mở rộng trao đổi hàng hóa với nước ngoài. Hiện tượng một số trống đồng loại I Hêgơ của nước Văn Lang ở Thái Lan, Malaixia, Indonesia... cũng như sự có mặt của những lưỡi qua đồng Chiến quốc ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn đã chứng tỏ có sự buôn bán giữa người Việt cổ đương thời với các quốc gia quanh vùng. Một số đồ trang sức và trâu, bò cũng đã trở thành hàng hóa trong việc buôn bán giữa Văn Lang-Âu Lạc với các nước lân bang. Xã hội phức tạp - phân hóa giàu nghèo Thổi khèn hay hút thuốc, uống rượu cần? Về tổ chức xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phân công lao động xã hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, sự trao đổi sản phẩm và các nguyên liệu giữa các địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng thêm nguồn của cải xã hội. Sản phẩm thặng dư xuất hiện ngày càng nhiều hơn, đã tạo nên cơ sở cho sự phân hóa xã hội. Những của cải chung của xã hội (do lao động công ích, do thu nhập từ ruộng đất công cộng của chiềng, chạ) dần dần bị một số người tìm cách chiếm đoạt biến thành của riêng. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời cũng dẫn đến một chuyển biến xã hội quan trọng là xã hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo. Từ thời Phùng Nguyên, hiện tượng phân hóa xã hội đã xuất hiện, nhưng chưa đáng kể. Trong số 12 ngôi mộ khai quật ở Lũng Hoà Vĩnh Phúc có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có tới 20 hiện vật và 24 hiện vật, phổ biến là số mộ còn lại đều có từ 3 đến 13 hiện vật. Đồ tuỳ táng giống nhau gồm: gốm công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm. Như vậy là, ở giai đoạn đầu thời Hùng Vương quan hệ cộng đồng nguyên thuỷ mới bước vào quá trình tan rã. Từ sự phân tích các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã hội bấy giờ đã có hiện tượng phân hóa thành các tầng lớp giàu, nghèo khác nhau. Sự phân hóa đó đã diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét, trải qua một quá trình lâu dài từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội bấy giờ thành hai cực chưa sâu sắc. Sự phân hóa tài sản là biểu hiện của sự phân hóa xã hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của nô lệ gia trưởng, dẫn tới sự hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau: • Quý tộc (gồm có các tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu có khác). • Nô tì. • Tầng lớp dân tự do của công xã nông thôn là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội, giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu. • Tầng lớp trên của xã hội ngày càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lý công việc công cộng của chiềng, chạ... Như vậy, những tiền đề đầu tiên cho sự hình thành quốc gia và nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương vào giai đoạn đầu Đông Sơn đã xuất hiện và phát triển, sau này chuyển tiếp cho vương quốc Âu Lạc vào giai đoạn cuối Đông Sơn. Wikipedia
  9. XEM rồi thì đừng sợ ! Sợ rồi thì đừng cười nha ! http://vat1-k9.darkbb.com/forum-f17/topic-t87.htm
  10. Rin thân mến ! Đọc bài của bạn tôi thấy chạnh lòng muốn chia sẽ . Bạn ơi trên trái đất này nơi nào cũng có người xấu kẻ tốt trộn lẫn nhau mà sống , có những kẻ vừa mới hôm qua đây họ là người lành ( khác với hiền) mà hôm nay họ trở thành người hiểm ( chưa ác ) , vì họ vừa đón nhận 1 đòn tan tác . không mở mắt được (hoặc muốn nhắm mắt luôn để khỏi nhìn thấy ai nhìn thấy gì nữa ). Thế là bản ngã tha thứ không thắng được , bản năng trả thù hoặc bản năng vùng lên lan tỏa từ đầu ngón chân lên não bộ thế là tất cả bị nhuộm màu Xám ngắt . Thời gian như thế cứ trôi cứ trôi họ lại gặp vài người như thế vài lần như thế .... họ sẽ trở thành .......Giang hồ hiểm ác ! Nói thế không có nghĩa là ai cũng va đập như thế có những người bản chất họ hiểm ác từ trong máu , sơ đồ của cái ác như ván cờ trong từng sợi thần kinh , huyệt đạo ( nam mô gặp loại người này xin cho con nhận biết ! ) chỉ chờ có con nai nào ngơ ngác họ bèn dẫn dắt để giẫm nát khu rừng già để có cơ hội thụ hưởng mà họ vẫn ngây thơ như thiên thần trong trắng . Tuy nhiên bạn ơi người tốt vẫn không hiếm , người ngay vẫn trùng trùng nhưng đưa 2 tay cao khỏi đầu mà hỏi làm sao cho con gặp ???? Vậy mà ta vẫn gặp nếu có định duyên . Vài hàng tản mạn chúc bạn sớm đươc đến nơi mơ ước và cuộc sống luôn gặp người nhân hậu .
  11. Ngày tôi còn nhỏ, nghe đồn có ông thầy chấm tử vi hết ý, trong một dịp đi lễ chùa, mẹ tôi đến xin thầy chấm cho gia đình tôi mỗi người một lá số. Lá số của tôi thuộc hàng đại tốt, còn các anh chị tôi chỉ thường thường. Vì thiên cơ bất khả lậu, do đó thầy chỉ nói mí mí. Phần tôi, thầy phán lớn lên tôi sẽ : Về tình duyên gia đạo: - Có chồng có con như mấy đứa con gái khác. (Hú hồn, không phải ở giá!). 2) Về công danh sự nghiệp (đáng quan tâm đây): - Ra đường lúc nào cũng có dù lọng che nắng, che mưa. (Giống các vua chúa ngày xưa). - Thường xuyên có mặt ở những nơi đông người như các khu vui chơi giải trí, hội chợ... Trước mặt luôn có nhiều trái cây đã được gọt sẵn, có khi còn được ướp lạnh. - Có xe riêng. Nghe đoán số, mẹ tôi mừng rơn trong bụng nên quên hỏi thầy là tôi sẽ có xe gì? Mấy bánh? Tôi đinh ninh với lá số tử vi trên cả tuyệt vời như thế, lớn lên chắc chắn tôi sẽ có cuộc sống hơn cả mơ ước. Bây giờ, những gì thầy phán tôi thấy đúng y chang, nhưng niềm hy vọng ở con gái rượu của mẹ tôi không còn nữa, lâu lâu mẹ chỉ kể lại cho vui. Tôi là người bán trái cây dạo. Nguyễn hoàng Hải ( vũng tàu ) nguồn vietbao.vn
  12. Bánh chưng bánh dầy đã trở thành niềm tự hào của tất cả những ai mang dòng máu việt , dù cho nhân danh học vị học hàm cao đi chăng nữa cũng đừng cố tình phủ nhận giá trị văn hóa của nguồn gốc 2 loại bánh đã thấm sâu vào huyết mạch vào tinh thần của người việt . Các vị có thể phân tích chứng minh bằng các từ ngữ cao học , nhưng không thể chối bỏ truyền thống văn hóa trong ẩm thực mang tính lịch sử này . Vài dòng tâm huyết chia sẽ cùng tất cả những ai đã từng thưởng thức 2 loại bánh này .
  13. Truyền thuyết về Kỳ Hươu - Tản mạn Phong thủy, Lịch sử Ở Trung Quốc , người ta rất quan trọng phong thủy, có thể thấy ở bất kì công trình xây dựng này. Trung Quốc có 3 linh vật rất được sùng bái, có tác dụng đem lại tài vật , bảo vệ gia trạch , trấn trạch cho những nơi nào phong thủy không tốt, hóa giải mọi điều bất lợi. Đó là 3 linh thú : Sư tử, Kỳ Lân, Kỳ Hươu. Đến đây mọi người thấy rằng đã nhìn thấy rất nhiều tượng đôi sư tử đá tại nhiều công trinh của Trung Quốc từ cổ chí kim đúng không Sư tử đá thì ai cũng biết và nhìn thấy rồi nên không bàn đến. Còn Kỳ Lân thì tượng trưng cho người quân tử, vì vậy hợp với giới quan chức, làm chính trị. Xin nói nhiều đến Kỳ Hươu : Là linh thú thứ 3, đây là 1 con vật trong truyền thuyết ( ở VN gọi là Tỳ Hưu hoặc Thiên Lộc ), con thú này chỉ ăn tiền, vàng bạc châu báu, nhưng lại không có hậu môn nên chỉ kiếm tiền và tích lũy, không hề thải ra, vì vậy nên cực kì hợp với người làm kinh doanh, buôn bán, và nó rất hung dữ nên dùng để trấn trạch trừ tà . Nếu đến Bắc Kinh, mọi người nên đến tham quan Ngân hàng Trung Quốc, ở đây là một ví dụ về phong thủy, trấn trạch và đặt kỳ hươu. Ở Lầu Đức Thắng Môn ( lầu phong thủy ) Bắc Kinh có đặt một con Kỳ Hươu bằng đá trắng, có niên thọ gần 600 năm rồi, trong lịch sử, mỗi lần hoàng đế Mãn Thanh duyệt binh ra trận đều ở đến thỉnh kỳ hươu bảo hộ ( cờ xuất trận của Hoàng đế Mãn Thanh có thêu hình Kỳ Hươu ở đuôi cờ. trong lịch sử 600 năm của Kỳ hươu tại lầu Đức Thắng môn, có 2 sự kiện lớn : vua Sùng Chinh mất nhà Minh về tay nhà Thanh do bị gián điệp của Mãn Châu lừa xoay ngược lại hướng của Kỳ Hươu. Năm 1989 trong quá trình trùng tu lầu Đức Thắng, do sơ ý nên công nhân đã làm đổ con Kỳ Hươu này và bị mẻ 1 miếng lớn ở cánh, và năm 89 đã xảy ra 1 biến cố chính trị rúng động toàn nước Trung Hoa, đó là biến cố Thiên An Môn. Kỳ Hươu có 1 đặc điểm, đó là luôn luôn hướng ra cửa, đuôi hướng vào trong thì mới chiêu tài, trấn trạch được, còn ngược lại sẽ đem tai họa đến nhà. Các cassino tại macao và 1 số cassino trên thế giới đều đến thỉnh kì hươu đem về trấn , có lẽ vì thế nên có ai đem được tiền từ đấy về đâu. 1 Khách sạn lớn tại Sài Gòn đã thỉnh 1 đôi Kỳ Hươu lớn về đặt tại KS trị giá > 3 tỷ đồng, và luôn thuê 2 vệ sỹ để bảo vệ không cho ai được sờ vào, vì nếu ai sờ vào Kỳ Hươu của bạn, có nghĩa là người ta sẽ đem mất lộc của bạn do Kỳ Hươu đam lại đi mất. Kỳ Hươu luôn phải chế tác bằng vật liệu quý như ngọc, vàng. Nếu chế tạo bằng vật liệu rẻ tiền thì sẽ phản tác dung. sau khi chế tác xong, người ta phải đưa Kỳ Hươu vào lầu phong thủy đặt tối thiểu 5 năm để tích tụ tinh hoa của trời đất, đủ hạn kỳ thì mới có thể làm lễ khai quang điểm nhãn cho nó, sau đó chúng ta mới có thể thỉnh về được, còn không thì cũng chỉ là 1 vật lưu niêm thông thường. Sau khi tích tụ đủ linh khí, con kỳ Hươu sẽ được khắc chữ " Vân " vào dưới bụng. Nhờ cơ duyên, em đã thỉnh được 1 đôi kỳ Hươu, 1 con bằng bạch ngọc em để ở nhà để trấn trạch ( nhà em cũng phạm phong thủy- mệnh hợp Đông tứ trạch mà nhà em lại hướng Tây tứ trạch ), 1 con bằng bích ngọc em đặt tại phòng làm việc công ty, nói thật các bác tin không, từ hôm em thỉnh về đặt tại Cty & nhà riêng, em thấy mọi công việc đều tốt lên rất nhiều. Em up hình con Kỳ Hươu bằng bích ngọc lên cho mọi người xem nhé. Nếu ai không tin về lĩnh vực này thì hãy coi như đọc một mẩu chuyện mà thôi, còn ai muốn tìm hiểu, em sẽ rất vui được chia sẻ ạ http://img218.imageshack.us/img218/6319/dsc00497se0.jpg Mỗi nơi đặt tên nó 1 khác, theo khẩu âm ở địa phương. Ngày xưa thời còn chế độ phong kiến, con Kỳ hươu đặc biệt được yêu chuộng vào thời Minh và Thanh. Nó là con vật biểu tượng cho giai cấp vua quan. Nếu dân thường mà thỉnh Kỳ hươu thì sẽ phạm vào tội diệt tộc. Các triều đại nhà Thanh, vì cấm dân chúng sử dụng kỳ hươu để trấn trạch, sợ ảnh hưởng đến long mạch đế vương của mình nên đã đổi tên là Thao Thiết ( đấy là em phiên âm ra tiếng Việt chứ chữ Hán của em 1 chữ không cần bẻ đôi em cũng ứ biết nó là chữ gì ) Và như thế sau một vài trăm năm, dân chúng đã quên đi con Kỳ hươu này, vì vậy vào những triều đại cuối cùng của nhà Thanh, kỳ hươu chỉ xuất hiện trong Tử Cấm thành, Di Hòa Viên, và trong phủ của Hòa Thân ( Cúng Vương Phủ ) mà thôi. Còn trong dân gian chỉ còn lại các hình ảnh sư tử đá và kỳ lân mà thôi. Có lẽ vào triều đại Mãn Thanh, hình tượng Kỳ Hươu chỉ đứng sau hình tượng Rồng của hoàng đế mà thôi. Trước khi Thanh binh nhập quan ải tiến chiếm giang sơn Đại Minh ( hồi đó còn là Mãn Châu - tộc Nữ Chân dòng Đại Kim ) đã nghiên cứu rất kĩ về văn hóa, phong thủy, biết rằng nhà Đại Minh long mạch đế vương còn thịnh lắm, nếu không phá được phong thủy của Bắc Kinh thì không thể nào chiếm chọn Trung nguyên được, mà có chiếm được cũng không thể giữ được vì Trung Nguyên rông lớn, Mãn Châu sẽ nhanh chóng bị nuốt chửng và bị đồng hóa. Trong truyền thuyết, Lưu Bá Ôn đã từng để lại lời dặn cho nhà Minh rằng muốn Đại Minh trường tồn thì phải giữ gìn đặt con Kỳ Hươu trên lầu thành Đức Thắng Môn, mặt ngoảnh về phía Vạn Lý trường thành để trấn áp dân Hung Nô, dân Nữ Chân. Chừng nào mặt Kỳ Hươu còn ngoảnh về phương ấy thì Đại Minh còn. Mãn Châu biết được truyền thuyết ấy, biết được Sùng Chinh rất tin tưởng vào con Kỳ hươu này, nên nghĩ ra 1 kế, cho 1 đại sư về phong thủy của mình, lập kế chiếm được lòng tin tưởng của Sùng Chinh, sau đó mới xui Sùng Chinh xoay lại con Kỳ Hươu vào, hướng về nội đô. Vận khí nhà Minh đã hết ,và Sùng Chinh đã nghe lời xui khiến , và giặc giã nổi lên khắp nơi, đầu tiên là Sấm Vương Lý Tự Thành ( cũng là 1 anh hùng áo vải ), và sau đó là sự cố Ngô Tam Quế mở ải Sơn Hải Quan, dẫn Thanh binh nhập quan. Nhà Minh tuyệt diệt, Sùng Chinh phải tự tay chém Trường Bình công chúa rồi treo cổ tự vẫn. Đó là nguyên nhân vì sao Đại Thanh lên ngôi, cấm tuyệt dân gian dùng kỳ hươu, và vì sao trên đuôi cờ của Bát Kỳ ( 8 đạo quân thân vương ) đều có thêu hiệu kỳ hươu , bởi vì Kỳ hươu đã đem lại giang sơn cho bộ tộc Nữ Chân, 1 bộ tộc nhỏ, đã bắt 1 dân tộc Hán cúi đầu, thắt bím tóc ( ước gì các "bô lão " VN có kỳ hươu nhỉ - hihi ) Rất tiếc là con kỳ hươu 600 năm đó không thể chụp ảnh - Còn nữa nguồn thegioivohinh.com
  14. SỨC KHỎE Chữa viêm gan bằng cây chó đẻ 17:16:00, 09/06/2008 Cây chó đẻ - Ảnh: K.Vy Cây chó đẻ gồm nhiều loài khác nhau và có tên gọi khác nhau là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu nhưng có cùng công dụng (toàn cây chó đẻ bỏ rễ, rửa sạch dùng tươi hoặc phơi khô có thể làm thuốc chữa bệnh). Bảo vệ gan Cây chó đẻ có tên khoa học là Phyllanthus urinaria L, là dạng cây thảo, thường cao 20 cm - 30 cm, có khi tới 60-70 cm. Thân nhãn có màu hồng đỏ, lá mọc so le hình bầu dục, xếp kề nhau thành hai dãy như một lá kép hình lông chim (xem hình). Phân tích thành phần hóa học của cây chó đẻ người ta thấy, có nhiều chất thuộc nhóm hóa học khác nhau như: flavonoit, tritequen, tamin, axit hữu cơ, phenol, lignam... Về tác dụng dược lý: trong thí nghiệm về hoạt tính bảo vệ gan của cây chó đẻ, thấy có tác dụng bảo vệ gan. Các thí nghiệm về cây chó đẻ với kháng nguyên HBsAg chứng tỏ cây chó đẻ có tác dụng kháng virus viêm gan B. Theo y học cổ truyền, cây chó đẻ có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tốn ứ, thông huyết, điều kinh, thanh càn, hạ nhiệt..., thường được dùng làm thuốc chữa các bệnh đau gan, đau thận, bệnh về đường tiết niệu, đường ruột, ngoài da. Một số bài thuốc Chữa viêm gan B thì dùng chó đẻ 30g, nhân trần 12g, sài hồ 12g, chi từ 8g, hạ khô thảo 12g, sắc (nấu) uống ngày 1 thang. Chữa nhọt độc sưng đau thì dùng cây chó đẻ một nắm với một ít muối giã nhỏ, chế nước chín vào, vắt lấy nước cốt uống, dùng bã đắp chỗ đau; chữa bị thương làm đứt chảy máu, dùng cây chó đẻ với vôi giã nhỏ, đắp vào vết thương; chữa lở loét thối thịt không liền miệng dùng lá cây chó đẻ, lá thồm lồm (với lượng bằng nhau), đinh hương 1 nụ, giã nhỏ đắp; chữa bệnh chàm (eczema) mãn tính dùng cây chó đẻ vò, xát nhiều lần vào chỗ bị chàm, làm liên tục hằng ngày sẽ khỏi; chữa viêm gan, vàng da, viêm thận đái đỏ, hoặc viêm ruột tiêu chảy, hoặc mắt đau sưng đỏ dùng cây chó đẻ 40g, mã đề 20g, dành dành 12g để sắc uống; chữa sốt rét dùng cây chó đẻ 8g, thảo quả, dây hà thủ ô, lá mãng cầu ta tươi, thường sơn, dây gắm mỗi vị 10g, binh lang (hạt cau), ô mai, dây cóc (mỗi vị 4g) đem sắc với 600 ml nước, còn 200 ml, chia uống 2 lần trước khi lên cơn sốt rét 2 giờ. Nếu không hết cơn, thêm sài hồ 10g. Chữa ăn không ngon miệng, đau bụng, sốt, nước tiểu màu sẫm dùng cây chó đẻ 1g, nhọ nồi 2g, xuyên tâm liên 1g. Tất cả các vị thuốc trên phơi khô trong bóng râm và tán bột. Sắc bột thuốc này và uống hết ngay một lúc. Uống mỗi ngày 3 lần (y học dân gian Ấn Độ). Lương y Hoài Vũ nguồn thanhnienonline
  15. Rất chân thành cám ơn Như Thông !
  16. Thiên Sứ có nói với tôi nhân vật QUÁCH ĐÀM không phải là Chú Hỏa , trước khi chúng tôi thực hiện chuyến đi , qua tư liệu dưới đây đã khẳng định điều Thiên Sứ nói đúng ! tuy nhiên việc chúng tôi tìm hiểu Phong Thủy Địa lý nơi mộ Chú Hỏa để xác tín Phong Thủy Tàu và Phong thủy Lạc Việt có sự khác biệt bằng những chứng minh đổi chỗ Tốn Khôn của công trình nghiên cứu Văn Hóa Việt mang tính hợp lý. Mời ACE xem tư liệu dưới đây : nhân đây ACE nào có tư liệu về cuộc đời CHÚ HỎA bổ sung cho Diễn Đàn . Quách Đàm - Người giàu kẻ chợ Hoa kiều từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Họ đến nước ta từ khá sớm và được biết đến với tài kinh doanh thao lược khiến người bản xứ nể phục. Nhiều câu chuyện kỳ thú được thêu dệt bên cạnh cuộc đời của họ. Hư thực chẳng biết thế nào, nhưng chắc chắn cũng cho ta ít nhiều cách nhìn về doanh nhân xưa. Cuộc đời của tỉ phú “kẻ chợ” người Việt gốc Hoa - Quách Đàm, là một trong những câu chuyện như thế. Quách Đàm sinh trưởng ở Trung Hoa, xuất thân nghèo khổ, di cư sang Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông được miêu tả là người thành thật, nhưng can trường và lắm cơ mưu. Chuyện còn kể rằng: hồi mới đến Sài Gòn, ông làm nghề mua ve chai, ngày ngày quảy gánh trên vai rong ruỗi khắp thôn cùng ngỏ hẻm. Tối đến ngã lưng nơi hàng ba phố chợ. Một hôm, ông bị một anh phu vác lúa đi theo rình mò móc hết giấy tờ tuỳ thân, bắt chẹt ông phải đóng thuế chuộc lại lúc năm xu khi một cắc. Thế nhưng ông không hề thù ghét mà trái lại, đến khi thành ông chủ lớn trong nghề kinh doanh lúa gạo, Quách Đàm còn cho người đi tìm bằng được anh phu vác lúa này về và sắp xếp công việc cho làm, khiến người này phục sát đất, từ đó về sau trung thành rất mực. Là người sáng nước trên thương trường nên ông làm giàu rất nhanh, từ mua ve chai chuyển lên mua bán da trâu bò, rồi thu mua xuất khẩu vi cá, bong bóng cá sang Hồng Kông, Trung Quốc và nhiều nước khác. Khoảng năm 1920, để mở rộng châu thành, ngài Chánh Tham biện chợ Lớn lúc đó thấy chợ đã cũ lại nhỏ hẹp chật chội, muốn tìm đất rộng để xây chợ mới cho khang trang thoáng rộng hơn. Ông này biết có một chủ điền người Việt quốc tịch Pháp có vùng đất ở ngoài ô khá rộng lớn, bèn ngỏ ý muốn mua. Nhưng ông chủ này chỉ thấy lợi trước mắt nên ra giá trên trời dưới đất. Trước đó, Quách Đàm cũng đã mua được một miếng đất ruộng rộng lớn ở vùng Bình Tây. Biết được tin quan Tham biện muốn mở chợ mà chưa có đất, ông chủ động tìm đến bàn kế hiến đất, chẳng những thế ông còn tình nguyện bỏ tiền ra xây chợ. Được sự đồng ý của quan Tham biện, một cái chợ rộng lớn bậc nhất thời đó theo kiểu kiến trúc của chợ Trung Hoa đã mọc lên, đó chính là chợ Bình Tây ngày nay. Khi bỏ tiền xây chợ ông chỉ xin với chính quyền thời đó chấp thuận với ông hai việc: thứ nhất cho phép ông xây các dãy phố xung quanh chợ để cho người ta thuê vào chợ buôn bán, thứ hai là được đặt tượng đồng của mình trước chợ. Và đúng như thiết kế, tượng Quách Đàm được đặt trước chợ với triều phục Mãn Thanh, tay cầm phong thư, cưỡi trên giao long ngửa đầu phun nước, như một sự thể hiện lòng tự hào về cội nguồn của mình. Trong khảo cứu của một số nhà khoa học, Quách Đàm cũng thuộc hàng những nhân vật xưa của Sài Gòn còn để lại nhiều giai thoại kỳ thú. Chuyện kể rằng, khi nhà họ Quách mới lập nghiệp có thuê một căn nhà trên đường Khổng Tử ngày này, trước nhà có con kênh chảy qua. Khi sự nghiệp kinh doanh mới phất lên, dịp tết Quách Đàm tìm đến thầy đồ Tàu chuyên cho chữ. Thầy đồ hỏi ông làm nghề gì? Khi nghe ông nói làm nghề buôn bán da trâu bò và xuất cảng vi cá, liền khoát tay cho hai chữ “thông hiệp”, nét chữ mạnh, nghĩa lại tốt, bên dưới lèm thêm hai câu: “Thông thương sơn hải Không biết linh ứng thế nào mà sau đó công việc kinh doanh của Quách Đàm lên như diều gặp gió. Dù tiền nhiều đến mức có thể xây thêm một cái chợ Bình Tây mới, nhưng ông quyết không dời chỗ buôn bán, mặc cho người chủ nhà luôn tìm cách bắt chẹt nâng giá nhà lên ngất ngưởng, mỗi tháng đến 300 bạc. Bởi theo ông thầy Tàu ấy, nếu phải dời chỗ thì chẳng khác nào phải lấp con kênh “sinh mạng”. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, con kênh cũng bị chính quyền lấp thật. Lúc đó cũng đúng vào lúc kinh tế Nam kỳ suy thoái, Quách Đàm do đứng ra bảo lãnh cho các con nợ tại ngân hàng Đông Dương, không còn khả năng trả nợ buộc ngân hàng phải phát mãi tài sản, do đó họ Quách cũng sụp đổ theo. Nhưng Quách Đàm không trách móc gì chuyện ấy mà chỉ trách ai kia đã cho lấp con kinh sinh mạng trước nhà, làm mất đi cao phong thủy hanh thông của ông. Lại nói chuyện Quách Đàm là tay nhiều cơ mưu. Chuyện còn kể lại, thời đó đang buổi hưng thịnh của việc xuất cảng gạo, ông trữ lúa ngập kho chờ ngày xuất. Nào ngờ đùng một cái, ở bên Singapore đánh tin về việc lúa gạo đang ứ đọng, giá sụt từng giờ. Tưởng ông chủ này sẽ sa mặt sa mày, nhưng nào ngờ vẫn vui vẻ hối thúc huy động hết tay chân thuộc hạ đi về lục tỉnh tìm mua lúa, rồi lại bí mật cho người sang Singapore gởi tin về loan báo là bên ấy đang hút hàng lúa gạo, tăng giá hằng ngày. Rồi làm như vô tình để những bức điện ấy lọt vào tay các thương lái thu mua lúa khác. Sau khi tạo thành cơn sốt giả, Quách Đàm bí mật chỉ đạo bán lúa gạo ra. Còn các nhà buôn kia bị thông tin giả đánh lạc hướng cứ thế vô tư gánh lấy món nợ kếch xù cho họ Quách. Khi Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng, đủ thứ nhạc tấu lên, khách đi đường nếu đi theo đưa đám thì tự khắc có người lễ phép đáp lễ bằng một ly nước dừa hay la-ve và tặng thêm một cây quạt giấy với tờ bạc 5 đồng. Được biết Quách Đàm đã yên nghĩ tại một ngôi mộ khá lớn nhưng điêu tàn cạnh chùa Giác Lâm trong Chợ Lớn. Nơi đây, mỗi khi ế chợ rạc hàng, nhiều tiểu thương vẫn đến đây để sụp lạy khấn vái bên bệ tượng của ông, dù cho pho tượng này ngày nay không còn nữa. nguồn Doanh nhan 24h.com
  17. Hỏi người lòng cũng nông như vậy/ Làm sao biết yêu sâu?" Thứ ba, 10/6/2008, 07:00 GMT+7... "Cha tôi nói: Con thử gõ lên bờ đá giếng chàm làng mình mà xem, nếu nghe tiếng kêu nó đục, là biết ngày mai sẽ mưa. Nghe tiếng trong, ắt ngày mai sẽ nắng gắt. Nghe tiếng thanh, biết người làng sắp sinh em bé. Nghe tiếng trầm biết tiễn người đi. Giếng chàm làng tôi ít ai ngờ tới. Dù cả đời chẳng nói năng, mà thăm thẳm như người..." Vào những ngày này, ở làng Hiếu Lễ của tôi, giếng ngâm chàm của nhà nào cũng có màu xanh như ngọc. Vì đây là thời kỳ giữa hè, cây chàm đang lúc chín rộ. Khi chín, toàn thân nó có màu xanh đậm. Nếu để quá thì quá lứa, chàm sẽ bị rụng lá. Để chàm rụng lá coi như tự mình làm mất mùa chàm. Mất mùa chàm thì lấy gì nhuộm vải. Thế nên, mọi người mọi nhà vội vàng lên nương thu hái. Họ mang cây chàm bỏ xuống giếng, tháo nước vào ngâm. Ngâm độ vài ba ngày, lá chàm sẽ bị nước phân hủy và lắng xuống thành cao. Tháo phần nước loãng đi, chỉ còn lại cao chàm nằm dưới đáy giếng. Người ta mang nó bỏ và chum để dùng dần. Cành xương còn lại thì vớt lên, đem phơi khô, mang về làm nòm nhóm bếp. Khói bếp có mùi gây cay cay. Mùi khói chàm bay lan ra làm cho muỗi bay, ruồi bay, chuột lủi, gián chạy. Có lẽ vì thế mà hồi xưa trên quê tôi rất ít loài côn trùng và động vật gây hại. Mỗi giếng chàm có đường kính từ một thước rưỡi đến hai thước tây. Giếng nào cũng sâu ngang ngực. Chúng có từ những ngày dân tứ chiếng đến đây khai hoang lập làng. Nhìn vào những vết đục đẽo, biết tay nghề của các bậc tiền nhân. Tuy thô sơ nhưng tình cảm của họ đối với mảnh đất này vô cùng sâu đậm. Hồi còn bé, tôi được nghe những ông già bà cả kể về dòng họ Đàm, có nguồn gốc là người Cai Phạ . Còn họ Hứa là người Nùng Inh. Cai Phạ với Nùng Inh là tộc danh hay địa danh? Chịu. Chỉ biết đại khái đến thế. Tất cả đều từ bên kia biên giới kéo sang. Thế là xong. Đây là hai dòng họ lớn nhất ở làng. Kẻ trước người sau đến đây định cư đã được vài trăm năm có lẻ. Từ rất lâu, họ tự nhận mình là cư dân người Tày. Cánh đồng ruộng lúa Bo Thang Bo Ít rộng lớn kia là mồ hôi nước mắt là tài sản vô giá mà họ để lại. Tuy rằng đồng làng tôi cứ hai phần đất có một phần đá. Đá với đất hình thành cá tính con người. Đá đứng. Đá ngồi. Đá nằm. Người cũng vậy. Họ không muốn đi xa ngôi làng này. Đi xa ắt sẽ có đất đai màu mỡ dễ dàng canh tác hơn. Rau màu sẽ tươi tốt hơn. Nhưng họ không chịu. Họ yêu đất này như máu thịt. Người làng tôi cho rằng: Cha mẹ sinh ra cho mình một cái bọc. Đến lượt cái bọc phải tự sinh ra mình. Giàu nghèo đều tự mình gây dựng. Đất đai làng Hiếu Lễ trở thành người mẹ thứ hai. Người mẹ này đùm bọc, nuôi nấng và dạy khôn cho họ. Người mẹ ấy tuy khốn khó nhưng yêu thương con hết mực. Kể từ con trâu con bò do người làng tôi nuôi dạy, cũng chịu thương chịu khó. Và còn một điều này, hình như chúng cũng biết ai là cường quyền, ai là thảo dân. Nếu là cường quyền thì chúng ngang tàng khó lòng khuất phục. Nếu là thảo dân thì chúng cúi đầu ngoan ngoãn, bảo gì nghe đấy. Cha tôi nói: Con thử gõ lên bờ đá giếng chàm làng mình mà xem, nếu nghe tiếng kêu nó đục, là biết ngày mai sẽ mưa. Nghe tiếng trong, ắt ngày mai sẽ nắng gắt. Nghe tiếng thanh, biết người làng sắp sinh em bé. Nghe tiếng trầm biết tiễn người đi. Giếng chàm làng tôi ít ai ngờ tới. Dù cả đời chẳng nói năng, mà thăm thẳm như người. Vào những đêm trăng sáng. Thanh niên làng tôi tụ tập bên giếng chàm. Lúc đầu chỉ vài ba người. Càng về khuya càng đông. Họ đến đây là để ngồi chơi gió. Gió vờn bay tóc dài xanh mướt. Xanh mướt thơm mùi lá chua. Lá chua đầy lên trong lòng người trai thầm yêu. Nhưng hình như cánh đàn ông làng tôi ai ai cũng đều vụng và sợ đàn bà con gái. Hãy lắng nghe cánh đồng lúa đang thì con gái. Lúa cắn nhau. Lúa nói . Lúa cười. Rồi lúa làm gì mà chỉ nghe tiếng: Suỵt! Soạt! Tiếng kêu rên há hứ. Toát lên đầy vẻ thích thú mãn nguyện. Nhiều đôi sau này trở thành vợ chồng. Hàng năm, cứ đến ngày sinh đứa con thứ nhất cả nhà bồng bế nhau ra giếng chàm. Lúc này không chỉ ra đây để hóng mát mà còn để nhớ lại biết bao kỷ niêm đẹp đầu đời. Giếng chàm là nơi tình tự, trở thành “công viên đá” của tuổi trẻ. Giếng chàm cũng là nơi cung cấp mọi thông tin cho làng. Từ chuyện ai nhức đầu sổ mũi ốm đau. Nhà nào có khách đến chơi, khi về họ xỏ nhầm giày. Đêm qua ai quá chén, ngủ quên nơi quán rượu. Ai thua đề bị bà vợ vác đòn càn đuổi đánh. Con nhà nào phải lòng trai trong đống rơm… Chuyện gì xảy ra ở làng đều bị mọi người tò mò thóc mách. Nhưng chỉ cần ra khỏi bờ tre chỉ vài trăm mét, mọi chuyện đều là của người ta và trở nên kín mít. Mỗi dịp được trở về thăm làng tôi lại bần thần đứng bên bờ giếng. Tôi nhớ các mẹ, các chị khi đi làm chàm, mắt ai cười cũng đen. Tiếng họ nói cũng có màu đen nhưng nhức. Giữa trưa hè nóng bức, màu đen lại biến thành màu trắng sáng. Nhưng chỉ với không gian dành riêng cho cánh đàn bà thì mới cảm nhận được điều thú vị này. Chu Văn Păn nguồn vietimes
  18. ĐI TÌM MỘT ĐẤNG TỐI CAO Trịnh Xuân Thuận Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo? 1. Sự hòa điệu của vũ trụ Ngành vũ trụ học đương đại đã khám phá rằng những điều kiện cho phép đời sống và tri giác xuất hiện trong vũ trụ này có vẻ như được mã hóa trong các phẩm tính của mỗi nguyên tử, tinh tú và thiên hà trong vũ trụ, cũng như có mặt trong tất cả những định luật vật lý chi phối, vận hành chúng. Vũ trụ được xuất hiện trong một hòa điệu lý tưởng như được tạo ra để dành cho một con người quan sát thông minh có khả năng thưởng thức cái cấu trúc và sự hòa điệu này. Cái ý tưởng vừa nêu chính là cơ sở của “nhân bản thuyết” vốn phát xuất từ danh từ “anthropos” có nghĩa là “con người” của Hy Lạp. Về thuyết lý này, có hai nhận xét cần được đặt ra. Thứ nhất, cái định nghĩa mà chúng tôi vừa trình bày chỉ liên hệ đến cái mặt “mạnh” của nhân bản thuyết. Đồng thời cũng còn có một mặt “yếu” cho là không giả định trước bất cứ ý hướng nào trong việc tạo thành thiên nhiên. Nó có vẻ như rất gần với phép lặp thừa - những phẩm tánh của vũ trụ phải được tương xứng với sự có mặt của con người- và đây là điều mà tôi cũng sẽ không bàn thảo đến. Thứ hai, cụm từ “nhân bản thuyết” là không thích đáng bởi vì nó hàm ý rằng nhân loại là mục đích mà vũ trụ được tạo ra. Trong thực tế, những lập luận về nhân bản thuyết có thể được áp dụng cho bất kỳ các loài có tri giác nào ở trong vũ trụ. Đâu là cơ sở khoa học của nhân bản thuyết? Cách thế mà vũ trụ của chúng ta được tạo ra dựa vào hai loại dữ kiện: 1) những điều kiện sơ khởi, cụ thể như tổng số khối lượng và năng lượng mà chúng có, độ trương nở ban đầu... 2) khoảng 15 hằng số vật lý: hằng số trọng lực, hằng số Plank, tốc độ ánh sáng, khối lượng của các hạt cơ bản không phân tách được... Chúng ta có thể đo được trị số của những hằng số này một cách cực kỳ chính xác, tuy nhiên chúng ta không có bất cứ lý thuyết nào để tiên đoán chúng. Bằng cách cấu trúc “những mô hình vũ trụ” với những điều kiện sơ khởi và những hằng số vật lý, những nhà vật lý không gian đã khám phá ra một điều rằng tất cả những yếu tố này phải được phối trí trong một trật tự cực kỳ hòa điệu: chỉ cần một sai biệt cực nhỏ trong những hằng số vật lý và những điều kiện sơ khởi này thì chúng ta hẳn đã không có mặt ở đây để nói về chúng. Cụ thể như, chúng ta hãy xem cái tỷ trọng ban đầu của vật chất trong vũ trụ. Vật chất có một lực kéo phản ứng lại với lực trương giãn của vũ trụ gây ra bởi vụ nổ Big Bang và làm tiết giảm độ trương nở của vũ trụ. Nếu cái tỷ trọng ban đầu này quá cao, vũ trụ sẽ sụp đổ sau một thời gian tương đối ngắn ngủi -một triệu năm, một thế kỷ, hoặc một năm không chừng, tùy theo độ chính xác của tỷ trọng. Với một sinh mệnh ngắn ngủi như thế rất khó cho những tinh tú có thể hoàn tất được sự biến đổi hạt nhân để có thể sản xuất ra những nguyên tố nặng, cụ thể như các-bon vốn cần thiết cho đời sống. Ngược lại, nếu tỷ trọng ban đầu của vật chất quá thấp, sẽ không có đủ trọng lực để những vì sao có thể hình thành. Và không có những vì sao, tức là không có những nguyên tố nặng, và không thể có đời sống! Như vậy, tất cả mọi vật đều được duy trì ở trong một trạng thái quân bình hoàn hảo. Tỷ trọng ban đầu của vũ trụ phải được cố định ở một con số thật chính xác là 10^-60. Sự chính xác tuyệt vời này có thể được đem so sánh với một tay bắn cung thiện nghệ nhắm trúng mục tiêu 1centimet vuông (1cm2) được đặt cách xa 14 tỷ năm ánh sáng, ngay tận đầu bờ vũ trụ mà khả năng ta có thể quan sát được! Mức chính xác của sự hòa điệu biến đổi tùy theo hằng số đặc biệt hay điều kiện ban đầu, thế nhưng trong mỗi trường hợp, chỉ một thay đổi nhỏ cũng đủ làm cho vũ trụ khô cằn, trống vắng sự sống và ý thức. 2. Có một nguyên lý nào chi phối cấu trúc vũ trụ? Chúng ta suy nghĩ như thế nào trước một sự hòa điệu tuyệt vời như thế? Với tôi, hình như chúng ta có hai cách thế chọn lựa khác nhau: Có thể xem sự hòa điệu này là hệ quả của một tình cờ may mắn hoặc là một tất yếu (nói theo nhan đề một cuốn sách của nhà sinh vật học Pháp, Jacques Monod, “Ngẫu Nhiên và Tất Yếu,” Alfred A. Knoff, New York, 1971). Nếu xem đây chỉ là một ngẫu nhiên, thì chúng ta phải mặc nhận một số lượng vô hạn những vũ trụ khác bên cạnh vũ trụ của chúng ta cấu thành cái được gọi là “đa vũ trụ”. Mỗi một vũ trụ này sẽ bao gồm một phối hợp của riêng mình với những hằng số vật lý và điều kiện sơ khởi. Tuy nhiên chỉ riêng vũ trụ của chúng ta là được khai sanh ra bởi một tổng hợp hoàn chỉnh để có thể tạo nên sự sống. Tất cả đều là những kẻ thua cuộc, chỉ có chúng ta là người thắng cuộc, giống như bạn chơi xổ số vô số lần, kết cuộc có ngày bạn cũng sẽ trúng số. Ngược lại, nếu chúng ta bác bỏ giả thiết cho rằng có một cái đa vũ trụ như thế và mặc nhiên công nhận rằng chỉ có một vũ trụ đơn lẻ, cái mà chúng ta đang sống, thế thì chúng ta phải mặc nhận sự hiện hữu của một nguyên lý về sáng tạo đã điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tốt đẹp. Làm thế nào để chọn lựa giữa hai khả năng này? Khoa học không giúp ích được gì cho chúng ta ở đây bởi vì nó cho phép cả hai tình huống đều có thể xảy ra. Nếu xem đây là một tình cờ, có rất nhiều cách được đưa ra để giải thích về sự sáng tạo một đa vũ trụ. Cụ thể như, nghiên cứu chung quanh xác suất miêu tả về thế giới lượng tử, nhà vật lý học Hugh Everett đã đề xuất rằng vũ trụ tách ra thành vô số những cái giống hệt nhau tùy theo những khả năng và chọn lựa được thực hiện. Một vài vũ trụ chỉ khác nhau bởi vị trí của một electron trong một nguyên tử, những cái khác có thể khác biệt căn bản hơn. Những định luật vật lý và hằng số cũng như những điều kiện sơ khởi của chúng có thể không giống nhau. Một giả thuyết khác cho là trong một chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ, đã có một loạt những vụ nổ Big Bang và Big Crunch. Bất cứ lúc nào vũ trụ được tái sanh từ đống tro tàn của mình để bắt đầu lại trong một vụ nổ Big Bang mới, nó lại được khởi đầu với một tổng hợp mới của những hằng số vật lý và điều kiện sơ khởi. Cũng còn một giả thiết khác nói về sự sáng tạo vũ trụ, đó là lý thuyết do nhà vật lý Andrei Linde và một số người khác đề ra, cho rằng mỗi một trong vô số lượng những đám bọt lượng tử sơ khai trôi nổi bập bềnh trong không gian đã cấu thành vũ trụ. Như thế thì vũ trụ của chúng ta chỉ là một cái bong bóng nhỏ trong một cái siêu vũ trụ được tạo nên bởi vô số những cái bong bóng khác. Ngoại trừ cái của chúng ta, không có cái nào trong số những vũ trụ đó nuôi dưỡng được sự sống bởi vì những hằng số vật lý và những định luật của chúng đã không thích hợp. 3. Không hề có một Đấng Sáng Tạo trong Phật Giáo Điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo với các truyền thống tín ngưỡng lớn trên thế giới là vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo? Đối với Phật giáo, ý niệm về một “nguyên nhân đầu tiên” không hề được đặt ra để lý giải do bởi ý niệm về tánh không và duyên khởi đã được bàn đến trước đây. Phật giáo xem vấn đề “sáng tạo” là không liên quan bởi vì theo họ, thế giới hiện tượng thực sự không được sinh ra, trong cái ý nghĩa là chúng trải qua tình trạng từ phi hữu trở thành hiện hữu. Chúng có mặt trong một cách thế được gọi là “tục đế” và không hề là một thực tại chân thực. Tục đế hay thực tại quy ước có mặt do sự cảm nghiệm của ta về một thế giới mà chúng ta cho rằng trong đó mọi sự vật hiện hữu một cách khách quan. Phật giáo quan niệm rằng những nhận thức như thế là sai lầm bởi vì thế giới hiện tượng, nhìn một cách rốt ráo không phải là những thực tại khách quan, có nghĩa là chúng không hề là những hiện hữu tự thân. Đây được gọi là “chân đế”. Trong những ý nghĩa này, vấn đề sáng tạo trở thành một vấn nạn giả. Cái vấn nạn về một “nguồn gốc nguyên thủy” chỉ bắt nguồn từ sự xác tín vào thực tại tuyệt đối của thế giới hiện tượng. Cái ý tưởng về sáng tạo chỉ cần thiết khi chúng ta tin là có một thế giới khách quan. Nó tan biến đi khi chúng ta nhận thức rằng thế giới hiện tượng, cho dù là chúng ta có thể thấy chúng rõ ràng, không hề có một hiện hữu độc lập, “khách quan”. Và một khi sự sáng tạo không còn là một vấn đề, ý niệm về Đấng Sáng Tạo cũng không còn là một yêu cầu được đặt ra. Tuy nhiên, quan điểm của Phật giáo không hề loại bỏ cái khả năng về một sự hiện bày của thế giới hiện tượng. Một điều hiển nhiên, cái thế giới mà chúng ta nhìn thấy chung quanh mình không phải là phi hữu, tuy nhiên Phật giáo cho rằng nếu chúng ta khảo xét cách thế mà chúng hiện hữu, chúng ta sẽ nhận ra ngay là chúng không thể được xem như bao gồm một loạt những thực thể độc lập, có hiện hữu tự thân riêng biệt. Nhà triết học lớn của Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ hai, Thánh giả Long Thọ, đã nói: “Bản tánh của vạn pháp là duyên khởi; tự nó, vạn pháp không hề có tự tánh”. Như thế sự tiến triển của chúng không phải do tình cờ may mắn mà cũng không phải bởi một sự can dự thiêng liêng nào. Thay vào đó chúng bị chi phối bởi luật nhân quả trong một mối liên hệ duyên khởi và nhân quả hổ tương bao trùm lên tất cả. Bởi vì vạn pháp không hề có thực tại độc lập, chúng không thể nào ‘bắt đầu’ và ‘kết thúc’ một cách thực sự như là những thực thể tách biệt.Và như thế, ý niệm về một sự khởi đầu và kết thúc của vũ trụ thuộc về tục đế chứ không phải chân đế. Như vậy, quan điểm này phù hợp với nền khoa học vũ trụ đương đại như thế nào? Chúng ta thấy duy chỉ có loại vũ trụ không có khởi điểm và tận cùng là loại vũ trụ tuần hoàn với một loạt những vụ nổ vô tận của Big Bang và Big Crunch ở trong quá khứ và tương lai. Thế nhưng cái trạng huống mà trong đó vũ trụ của chúng ta tự sụp đổ vào một ngày nào đó bởi một Big Crunch có vẻ như không phù hợp với những quan sát đương đại khi cho rằng mật độ khối lượng của những quang chất (0.5% trong tổng số khối lượng và năng lượng tích chứa trong vũ trụ), vật chất tối (29.5%) và năng lượng tối (70%) cộng lại với nhau chỉ là cái tỷ trọng tới hạn. Điều này có nghĩa rằng cái hình học của vũ trụ là một hình học phẳng, tức là nó sẽ trương giãn đến bất tận và độ gia tốc trương giãn này sẽ không đi đến số không sau một khoảng thời gian vô tận ở tương lai. Như thế, với mức độ kiến thức hiện nay có vẻ như chưa chấp nhận được ý niệm về một loại vũ trụ tuần hoàn. 4. Những suối nguồn của ý thức cộng hữu với thế giới vật chất Bây giờ trở lại vấn đề nhân bản thuyết. Theo như Phật giáo quan niệm, sự hòa điệu tuyệt vời của vũ trụ đủ để cho ý thức xuất hiện không hề là công trình của một Đấng Tối Cao nào cả, bởi vì nhân vật này không hề hiện hữu. Đây cũng không phải là sản phẩm của một tình cờ may mắn mà những người ủng hộ lý thuyết về một đa vũ trụ đề xuất: chúng ta có mặt và sống ở đây, trong vũ trụ này, chỉ là một ngẫu nhiên đầy may mắn do sự phối hợp chính xác của những hằng số và điều kiện vật lý. Phật giáo cho rằng cái vũ trụ vật chất này và ý thức đã luôn cộng hữu với nhau từ vô thủy. Để cộng hữu, cái thế giới hiện tượng này phải phù hợp một cách hổ tương, và do đó tạo ra sự hòa điệu kỳ diệu. Cái sau sinh khởi bởi vì vật chất và ý thức không thể loại trừ nhau, và bởi vì chúng có mối liên hệ duyên khởi. Quan điểm này phù hợp như thế nào với khoa sinh học thần kinh đương đại? Khoa sinh vật học quả là vẫn đang còn trên một lộ trình dài lâu mới có khả năng lý giải được nguồn gốc của ý thức Tuy nhiên, đại đa số những nhà sinh vật học quan niệm rằng không cần thiết giả định rằng những suối nguồn của ý thức cộng hữu với vật chất, bởi vì theo họ, cái sau có thể xuất hiện từ cái trước, rằng tâm thức có thể sinh khởi từ vật chất. Tâm thức phát sinh một khi mà hệ thống của những tế bào não bộ trong các sinh vật đạt đến ngưỡng cửa của một phức hợp. Trên quan điểm này, ý thức đã xuất hiện, cũng giống như sự sống, từ sự phức hợp của những nguyên tử vô sinh. Đến đây một câu hỏi được đặt ra: Một khi Phật giáo cho rằng ý thức được phân lìa và vượt qua tình trạng vật lý, phải chăng Phật giáo cũng rơi vào chủ nghĩa nhị nguyên tâm-thân phân lìa của Descartes, qua đó cho rằng có hai loại thực tại, một của tâm (hay tư tưởng) và một của thế giới vật chất? Câu trả lời là không. Quan điểm của Phật giáo hoàn toàn khác biệt từ căn bản với chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Chỉ có một sự khác biệt trên mặt tục đế giữa vật chất và ý thức, bởi vì ở điểm tận cùng, cả hai đều không có một hiện hữu tự thân. Bởi vì Phật giáo bác khước cái thực tại rốt ráo của thế giới hiện tượng, nó đồng thời cũng bác khước luôn cái ý tưởng cho rằng ý thức là độc lập và hiện hữu tự thân. 5. Khoa học và tâm linh: hai cửa sổ mở vào thực tại Vừa rồi chúng tôi đã cố gắng chứng tỏ rằng đã có những điểm đồng quy nổi bật giữa quan điểm về thực tại của Phật giáo và nền khoa học đương đại. Ý niệm về “vô thường”, một ý niệm then chốt trong Phật giáo, tương ứng với ý niệm về tiến hóa trong khoa học về vũ trụ, địa chất và sinh vật. Không có gì ở trong thể tĩnh, tất cả đều thay đổi, chuyển động và tiến triển, từ một hạt nguyên tử cực nhỏ cho đến một cấu trúc lớn lao nhất trong vũ trụ. Vũ trụ tự nó cũng đã có một lịch sử. Thuyết tiến hóa của Darwin kết hợp với sự chọn lọc tự nhiên chi phối những đổi thay liên tục trong thế giới sinh vật. Ý niệm về “duyên khởi”, cũng là trọng tâm của giáo lý Phật giáo, cộng hưởng với tính toàn thể, bất khả phân của không gian được hàm chứa trong thí nghiệm EPR về các cấp độ nguyên tử và hạ nguyên tử, cùng với thí nghiệm quả lắc Foucault về các tầng vũ trụ. Ý niệm về “tánh không” của Phật giáo, với sự vắng mặt về sự hiện hữu của một thế giới hiện tượng thường hằng và độc lập, tương đương với tính chất lưỡng tánh của ánh sáng và vật chất trong thế giới lượng tử của khoa học. Bởi vì một photon sẽ là sóng khi ta không quan sát chúng và là hạt khi ta đo lường, thế nên ta có thể nói là nó không có một hiện hữu độc lập, tự thân, sự xuất hiện của nó hoàn toàn tùy thuộc vào người quan sát. Chúng tôi cũng đã nêu rõ rằng Phật giáo phản bác cái ý niệm về một sự khởi đầu của vũ trụ cũng như về một vị Thượng Đế hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng hòa điệu những phẩm tánh của mình, từ đó tạo điều kiện cho ý thức xuất hiện. Phật giáo cho rằng ý thức cộng hữu với vật chất nhưng không hề bắt nguồn từ vật chất. Bởi vì cả hai đều tương tác và duyên khởi nên không cần thiết phải điều chỉnh thế giới vật chất để phục vụ cho ý thức trong một thể hòa điệu. Những điểm đồng quy nói trên không có gì là đáng ngạc nhiên bởi vì cả khoa học lẫn Phật giáo đều đã sử dụng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chân xác để vươn đến chân lý. Bởi vì mục tiêu của cả hai là mô tả thực tại, họ phải gặp nhau ở những mẫu số chung mà không hề loại trừ nhau. Trong khoa học, những phương pháp cơ bản để khám phá sự thật là thí nghiệm và lý thuyết hóa dựa vào phân tích; trong Phật giáo, quán tưởng là phương pháp chính. Cả hai đều là những cánh cửa sổ cho phép ta hé nhìn vào thực tại. Cả hai đều vững vàng trong những phạm trù chuyên biệt của mình và bổ túc lẫn nhau. Khoa học khám phá giùm ta những kiến thức “qui ước”. Mục tiêu của nó là hiểu rõ thế giới hiện tượng. Những áp dụng kỹ thuật của nó có thể gây nên những hệ quả xấu hay tốt đối với đời sống thể chất của con người. Thế nhưng quán tưởng, khi giúp ta nhìn rõ bản tánh chân thật của thực tại, có mục đích cải thiện nội giới để ta có thể hành động nhằm cải thiện đời sống của tất cả mọi người. Những nhà khoa học còn sử dụng đến những thiết bị tối tân hơn để khám phá thiên nhiên. Trái lại trong hình thức tiếp cận bằng quán tưởng, thiết bị duy nhất là tâm. Hành giả quan sát những tư tưởng của mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc vào y ra sao. Y khảo sát cái cơ chế vận hành của hạnh phúc và đau khổ để từ đó cố gắng khám phá ra những tiến trình tâm linh nhằm nâng cao sự an bình nội tâm, làm cho cõi lòng mình rộng mở hơn đối với tha nhân để giúp họ cùng phát triển, cũng như từ đó thấy rõ được những tiến trình gây ra những hệ quả độc hại để loại bỏ chúng. Khoa học cung cấp cho ta những dữ kiện, nhưng không mang lại sự tiến bộ tâm linh và chuyển hóa. Trái lại sự tiếp cận tâm linh hay quán tưởng chắc chắn phải đưa ta đến một sự chuyển hóa bản thân sâu sắc trong cách thế mà chúng ta nhận thức về thế giới để dẫn đến hành động. Hành giả Phật giáo một khi nhận thức rằng vật thể không hề có hiện hữu tự thân sẽ giảm thiểu sự dính mắc vào chúng, từ đó giảm bớt khổ đau. Nhà khoa học, với cùng một nhận thức như thế, sẽ xoa tay hài lòng, xem đó như là một tiến bộ tri thức hầu sử dụng vào những công trình nghiên cứu khác, sự khám phá này không hề làm thay đổi thị kiến cơ bản của y đối với thế giới và cách thức mà y hướng dẫn đời sống của mình. TXT (Tia Sáng) Nguồn dongtac.net
  19. Wild post bài SÁM HỒNG TRẦN tặng ACE Diễn Đàn Cuộc hồng trần xoay vần quá ngắn Kiếp phù sanh tụ táng mấy năm hơi Người đời có biết chăng ôi Thân này tuy có , có rồi như không Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng Mơ màng trong một giấc nồng mà chi Làm cho buồn bã thế ni Hôm qua còn đó bữa nay đâu rồi Khi nào đứng đứng ngồi ngồi Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô Khi nào du lịch giang hồ Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài Khi nào lược giắt trâm cài Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang Khi nào trau ngọc chuốt vàng Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh Khi nào mắt đẹp mày thanh Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu Khi nào lên các xuống lầu Bây giờ một nắm cỏ lầu xanh xanh Khi nào liệt liệt oanh oanh Bây giờ một trận tan tành gió mưa Khi nào ngựa lọc xe lừa Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng Khi nào ra trướng vào màn Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa Khi nào mẹ mẹ cha cha Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng Khi nào vợ vợ chồng chồng Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn Khi nào cháu cháu con con Bây giờ hai ngã nước non xa vời Khi nào cốt nhục vẹn mười Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì Khi nào bạn hữu sum vầy Bây giờ chén rượu cuộc cờ vắng thiu Cái thân như tắt bóng chiều Như chùm bọt nước phập phiều ngoài khơi Xưa Ông Bành Tổ sống đời Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu Sang mà đến bậc công hầu Giàu mà đến bậc bấy lâu Thạch Sùng Nghèo mà đói khát lạnh lùng Khổ mà tóc cháy da phòng trần ai Phù Du sớm tối một mai Giàu sang cũng thác , xạc xài cũng vong Thông minh tài trí anh hùng Si mê dại dột cũng chung một giờ Biền trần nhiều nỗi gay go Sự đời nên chán nên chê Tìm nơi giải thoát mà về mới khôn Vong hồn ơi hỡi ! vong hồn Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa Tỉnh rồi một giấc say sưa Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về Hồn về cực lạc nước kia Cho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma Nhờ ơn Đức Phật DI ĐÀ Phóng ra một ngọn chói loà hào quang Trong khi tiếp dẫn rõ ràng Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhơn QUAN ÂM BỒ TÁT vui mừng Tay cầm nhành liễu tay bưng Kim Đài Với cùng THẾ CHÍ các ngài Cũng đều khuyến thỉnh lên ngôi sen vàng Có Bảo Cái , có Tràng Phan Có mùi hương lạ có đàn ngọc xây Có Trời các cõi Truy Tuỳ Có đàn, có trống rước đi một đường Rước về đến cảnh Tây Phương Có Ao Thất Bảo có Hương Ngũ Phần Lưu Ly có đất sáng ngần Ma Ni có nước trong tần chảy quanh Thất Trân có bảy lớp thành Bảy hàng cây Báu , bảy vành lưới Châu Có Ngân Các , có Kim Lâu Có Chim nói pháp diệu mầu dễ nghe Nghe rồi tỏ đạo BỒ ĐỀ Bao nhiêu nghiệp chướng hôn mê dứt liền Đã sanh về chin phẩm sen Mấy tai cũng xảy , mấy duyên cũng tròn Phật như thể Mẹ tìm con Con mà gặp Mẹ lại còn lo chi Lâu vàng đài các thiếu gì Ăn thì cơm ngọc , mặc thì áo châu Không ơn , không oán , không sầu Không già , không chết , có đâu luân hồi Tánh xưa nay đã tỏ rồi Gương xưa nay đã lau rồi trần ô Tu hành phải đợi kiếp mô Nguồn tình biển ái , đã khô bao giờ Lựa là phải ngộ Thiên Cơ Mà đèn Trí Huệ dễ lờ đi đâu Mấy lời hộ niệm trước sau Nguyện cho Thành Phật mau mau nữa mà Phân Thân ra khỏi TA BÀ TỪ BI tiếp độ những là chúng sanh.
  20. bạn đưa bài này lên đi !
  21. Chủ Nhật, 08/06/2008 - 9:01 AM Nước lọc có thể phòng và trị bệnh thường gặp? (Dân trí) - Qua nhiều năm nghiên cứu thử nghiệm phương pháp uống nước tinh khiết có định lượng 2 lần/ngày trước và ngay sau khi ngủ dậy, kết quả cho thấy hầu hết những người ứng dụng cách này đều cảm thấy khỏe mạnh lên nhiều, đặc biệt hệ thống bài tiết được cải thiện rõ rệt. Qua tham khảo tài liệu từ Trung Quốc và Nhật Bản (Personal communications) đồng thời tiến hành thử nghiệm có kiểm soát chặt chẽ theo phương pháp luận của khoa học hiện đại trong nhiều năm về sinh lý người và vai trò của nước tinh khiết trong các chuỗi phản ứng sinh hóa và quá trình chuyển hóa năng lượng trong cơ thể con người; xác định để so sánh trọng lượng cơ thể, chiều cao của người và số lần và lượng nước uống vào mỗi ngày trong nhiều năm, chúng tôi nhận thấy việc ứng dụng nghiêm túc phương pháp này có thể ngăn ngừa và trị được một số bệnh như sau: 1. Nhức mỏi toàn thân nhưng không rõ nguyên nhân; 2. Các chứng đau đầu và gây mỏi ở hốc mắt; 3. Huyết áp biến động bất thường, chóng mặt thở gấp gáp; 4. Các triệu chứng đau thấp khớp và bệnh đau thấp khớp; 5. Gan nhiễm mỡ; 6. Màng thận nhiễm mỡ và gây ứ nước gây đau lưng và khó tiểu tiện; 7. Sỏi thận và sỏi bàng quang; 8. Viêm màng não thứ cấp; 9. Táo bón; 10. Rối loạn hệ thống tiêu hóa; 11. Viêm túi mật; 12. Rối loạn bài tiết ở gan; 13. Các chứng ho khan, ho có đàm và ho gió; 14. Nặng tai; 15. Mỏi mắt; 16. Nhiễm giun móc và giun kim 17. Rối loạn các chức năng của hệ sinh dục 18. Bệnh đái tháo đường 19. Các bệnh về dạ dày như: viêm, loét; 20. Chứng rụng tóc; 21. Da mặt bị nám hoặc nhiều mụn, có nhiều nếp nhăn 22. Chứng béo phì Chúng tôi xin được giới thiệu và mô tả chi tiết phương pháp kể trên theo các bước và động tác dưới đây để mọi người có thể tham khảo và dùng thử. Phương pháp này thật giản đơn nhưng rất hiệu quả. Mong mọi người để tâm ứng dụng một cách nghiêm túc: I- Trước hết, người tham gia ứng dụng phương pháp này cần phải làm một số việc như sau: 1. Đo trọng lượng cơ thể mình: mục đích để áng chừng lượng nước cần uống mỗi lần. Ví dụ người có trọng lượng cơ thể là 60kg thì mỗi lần uống cần dùng 600ml nước lọc (tinh khiết). Tương tự người có trọng lượng cơ thể là 45 g thì thì mỗi lần uống cần dùng 450ml nước lọc v.v… 2. Mỗi buổi sáng cần thức dậy trước 5 giờ để uống nước (uống trước khi đánh răng, súc miệng). Nếu cảm thấy người không được khỏe hoặc cảm thấy thiếu ngủ thì có thể đi nằm lại. 3. Buổi tối cần xoa nóng hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân trước khi uống nước theo định lượng cơ thể của mình. II- Cách uống nước theo các mốc thời gian được trình bày như sau: 1. Buổi sáng: thức dậy trước 5h mỗi ngày; xoa nóng hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân trước khi uống nước theo định lượng cơ thể của mình. 2. Chỉ nên ăn sáng sớm nhất là sau 30 - 45 phút kể từ lúc uống nước. Sau đó, có thể uống nước với hàm lượng bằng một phần hai lượng nước uống vào buổi sáng sớm, song không nên dùng nước để lạnh hoặc nước có đá lạnh. Nếu có nước ấm hoặc nước trà nóng (trà xanh) thì tốt hơn cả. 3. Buổi trưa: Ngay sau dùng buổi trưa, không nên uống nước ngay trong thời gian 30 phút. Sau đó, có thể uống nước với hàm lượng bằng một phần hai lượng nước uống vào buổi sáng sớm, không nên dùng nước để lạnh hoặc nước có đá lạnh. Nếu có nước ấm hoặc nước trà nóng ( trà xanh) thì tốt hơn cả. 4. Buổi chiều tối: Tương tự như hướng dẫn đã ghi cho buổi trưa. 5. Trước khi đi ngủ: xoa nóng hai lòng bàn tay và hai lòng bàn chân trước khi uống nước theo định lượng cơ thể của mình. Một vài lưu ý 1. Người có bệnh hoặc người cao tuổi có thể cảm thấy khó uống hết lượng nước trong mục lúc thì có thể chia nhỏ ra uống nhưng tổng thời gian uống nước không quá 3 phút. 2. Mỗi lần uống nên uống thành ngụm lớn, súc súc quanh vòm miệng rồi nuốt ực. Nuốt ực càng mạnh càng tốt. 3. Trong hai ngày đầu, người uống nước theo phương pháp này có thể phải hay đi tiểu vặt, thậm chí cơn buồn tiểu đến trong lúc đang ngủ. Hậu quả là có thể gây mất ngủ nửa chừng. Tuy vậy, kể từ ngày thứ 3 trở đi hiện tượng này sẽ không còn nữa. Ngoài ra, giấc ngủ sẽ rất sâu và không mộng mị. Chúc mọi người thành công. Dr. Nguyễn Văn Toàn Trường Đại học Quốc Tế, Đại học Quốc Gia TP. HCM nguồn dantri.com.vn
  22. Có nghiệp thì cứ vui vẻ trả nghiệp đừng oán thán kêu than thì nghiệp nhanh chóng dứt . Vì có vay có trả mà . :lol:
  23. Ngày ấy có ba cô bé cùng đi học một lớp ở cùng trường. Họ là Bích Loan, Hoàng Phượng và Bạch Trĩ, tên của ba loài chim đẹp. Ba con chim véo von, nhí nhảnh trông như sinh ra từ một mẹ cứ thế hồn nhiên sống, hồn nhiên lớn lên. Mới trông thật khó mà phân biệt và tưởng rằng ba đứa cứ bên nhau mãi thế nhưng mà rồi thời gian đã đưa họ đi tới những ngã ba, ngã bẩy của cuộc đời. Sự phát triển của họ là cả tiến trình khẳng định bản thân đến cực điểm. Thế rồi sau đó thì sao? Hoàng Phượng sinh ra ở phố Hàng Khoai sát bên chợ Đồng Xuân. Với địa lợi ấy thì cô rất dễ trở thành bậc kỳ tài về toán học, vì cũng giống như nhiều các bà các cô khác ở đây cô biết tính nhẩm từ rất sớm trước khi đi học. Thật lạ lùng! Những câu đố như kiểu tôi có hai củ khoai ở trong túi quần bên trái và hai củ khoai trong túi quần bên phải hỏi có mấy củ khoai (có đứa đã đếm đi đếm lại mãi mà vẫn ra kết quả là năm) quả là vớ vẩn với cô, vì từ bốn tuổi cô đã biết trông sạp hàng cho mẹ với những phép tính khó kinh khủng. Bác mua một cái chảo 39.000 ạ, ba cuộn chỉ, mầu đỏ 2.000 mầu đen 1.800 màu trắng 1.700, một hộp kim 5.800, một cái lập là…, hai cái nồi… vậy tất cả là… Cô đưa ra số tiền chính xác chỉ trong vòng ba giây khiến khách hàng phục trợn mắt. Tuy nhiên không hiểu sao khi đi học cô lại rất dốt toán. Phải chăng khi các con số vô hồn không gắn liền với giá cả hay giá trị của một vật nào đó thì cô không thể tìm ra một ý nghĩa cụ thể đích thực nào cả. Trong khi đó các ông bạn giỏi toán của cô thì nhiều phần lại không hiểu gì về các giá trị vật chất. Phần lớn họ sinh ra từ những gia đình căn bản, lấy hiếu học làm đầu, trong khi đi học tuyền mặc quần thủng đít. Một ông bạn cùng học lớp một sau này giỏi giang đến mức được đi thi toán quốc tế. Thi xong rồi mặc nhiên được một suất du học ở một trường danh giá nhất thế giới. Thế rồi sau những tháng năm đằng đẵng dùi mài kinh sử thiên tài toán học hạ cánh ở sân bay Nội Bài trong cờ hoa và ôm hôn với tấm bằng tiến sỹ và cả tấn sách quý mang về. Ngay lập tức nhà toán học lý thuyết hiếm hoi được nhận vào làm ở một viện toán hàng đầu với đồng lương đủ nuôi bản thân sống qua ngày. Hiện nay đã quá tuổi lập gia đình từ lâu nhưng vẫn chưa có bạn gái vì cả một đời bố mẹ cứ bắt phải học suốt ngày để lên đỉnh vinh quang chứ có biết giao tiếp với ai đâu. Từ trên đỉnh vinh quang giờ đây mỗi ngày thiên tài lại hạ ngôn chửi rủa bố mẹ ba bữa sáng trưa tối vì đã có công trong việc đào tạo cưỡng chế nên một thiên thần đau khổ không tiền, không bạn, không em. Đáng nhẽ người được đào tạo quy củ như thế ở bbên Tây có thể làm Thủ tướng thì về ta lại chỉ suốt ngày thủ dâm. Hiện nhà toán học đang say sưa đi sâu vào các lý thuyết “tập mờ” và “xác suất” để tính xem bao giờ mình chết, và xem nếu kết hợp với thuốc chuột thì quỹ thời gian còn lại là bao nhiêu ngày. Vì theo xác suất thống kê thì tỉ lệ thuốc thật trên thuốc rởm chỉ có 1/10000. Hoàng Phượng có thể là một chuyên gia kinh tế giỏi cho bất kỳ tập đoàn lớn nào. Tôi thách các chuyên gia đã từng tu nghiệp ở Lomonosov, Harvard hay LBS dám ngồi tranh luận với cô về các biện pháp giảm phát, kích cầu, dương cung hay tung tin đồn nhảm. Cô mới là siêu hạng vì cô đi từ lỗ nẻ của nền kinh tế “tam nông” này đi lên. Từ bé cô đã không nguôi nghĩ đến tiền và học hỏi chuyện làm ăn. Bất cứ việc gì ra tiền cô đều quan tâm. Đánh dép nhựa từ Sài Gòn ra. Đánh niken ở Nga về. Đánh đồ lót, rau thơm và mắm tôm sang Đông Âu. Đánh người sang Trung Quốc, Đài Loan. Đánh núi đồi cho bọn giầu mới ở Hà Nội lên làm trang trại, dựng nhà sàn. Đánh villa Hà Nội cho bọn buôn ma túy ở miền núi về ở. Đánh nhầu. Tấn công phòng thủ không sơ hở, đại tướng anh hùng mới xứng danh. Không hiểu sao Hoàng Phượng thích thơ. Bé thì Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính. Lớn thì Xuân Diệu, Xuân Quỳnh. Phải chăng những cái sọ quá cụ thể lại cứ hay bị hút vào những gì trừu tượng, mông lung. Mới tuổi trăng tròn cô đã thích một anh chàng hay thơ. Sau nhờ tài thơ mà anh này được làm tuyên huấn phường. Sự nghiệp tuyên truyền huấn luyện của anh đã để lại những thành tựu bất ngờ. Cô thích nhất là một câu thơ anh làm về phong trào sinh đẻ có kế hoạch và phong trào đền ơn đáp nghĩa các thương binh liệt sỹ. Cái tài tình của anh là đã kết hợp được việc tuyên truyền cho cả hai phong trào lớn có tính chủ đạo trong vẻn vẹn mỗi một câu lục bát thần sầu: Chị em nô nức đặt vòng / Đến mồ liệt sỹ tỏ lòng biết ơn Hiệu quả của bài thơ là cô phải đi phá thai tại một địa chỉ nổi tiếng thủ đô – cây đa Nhà Bò, và cứ rằm tháng Bẩy nào cô cũng đến thắp hương bên gốc đa trăm tuổi. Tuy nhiên về sau thấy nhà thơ tuyên huấn thường xuyên xài tiền của mình suốt mà lại cứ mở miệng ra là coi thường dân buôn bán nên cô đã tỉnh trí. Hắn không hề thích cô. Sao vậy nhỉ? Cô hoành tráng như thế cơ mà. Cô đã bỏ hắn không thương tiếc, để cho hắn biết con buôn lật mặt như trở bàn tay là như thế nào, đừng có nghĩ đã ngủ được với ta mà hôm sau gặp lại ta không coi ngươi là người xa lạ. Cô tập trung tư tưởng hết mình cho những tính toán kinh doanh. Nhưng cô vẫn không bỏ thơ, những vần điệu du dương như có ma lực, cao siêu và thanh thoát. Chỉ có thuyền mới hiểu biển mênh mông nhường nào… Có một lần cô đi uống bia với khách hàng thấy bàn bên có một lũ đang nói chuyện về thơ. Dù bận đưa đẩy với khách nhưng cô vẫn không bỏ qua cơ hội được nghe lỏm những bọn dặt dẹo bàn về thơ. Thế mới thấy phụ nữ tài, lúc nào cũng có thể một công dăm ba việc. Vừa đọc văn bản, vừa đánh máy, vừa buôn chuyện, vừa trông nồi chè. Bọn chúng đang nói gì đó về thơ hiện đại hay hậu hiện đại gì đấy. Có một gã trông dị hợm phán: hậu hiện đại có thể là một sự xáo trộn thể loại, khiến cho văn xuôi thì mang tính thơ và thơ thì mang tính văn xuôi, hoàn toàn không bị gò bó trong khuôn phép cổ điển mà còn phá tung cả những sự cởi trói khỏi nó. Rách việc. Thơ thì phải có vần chứ. Thôi được, miễn là đọc phải hay. Gã dị hợm đọc một bài không hiểu là thơ hay văn của ai đấy: …Ai cũng biết Thơ là Ngôi Lời, nhưng ôm nàng chỉ thấy đời toàn lỗ. Vì Thơ ơi người thơ toàn một lũ dở hơi không biết bơi, giữa bể khổ anh chỉ còn mình em làm phao cứu hộ. Chính nghịch cảnh đã làm anh đốn ngộ, rằng cuộc đời rặt một lũ bất nhân, kể cả những người thân. Yêu cái đẹp nên phải đi cải tạo, thích nhân văn mà gặp đời tàn bạo, nên em ơi muốn làm người thì hãy yêu cái xấu. Thậm chí em còn phải giao cấu với bọn xấu nếu em muốn ngày mai em vẫn có khẩu phần…Thương lắm áo dài ơi. Anh vẫn biết em thích mặc áo dài, bởi vì em là hoa thài lài... Rõ là một lũ cuồng. Hay bọn chúng vừa chơi ma túy? Cô cũng đã từng “lắc” nhưng chưa thấy mình cuồng khi nào cả. Lúc nào cũng tỉnh như sáo. Hay vì Thần Tài đã làm người ta ra như vậy? Bạch Trĩ sinh ra là con nhà tử tế, tức là nhà cán bộ. Cha mẹ của chị là những tấm gương sáng về đạo đức, lối sống và sự cống hiến chí công vô tư cho xã hội. Cha chị là một Vụ trưởng, mẹ là Giám đốc một sở lớn. Ngồi ăn cơm với ông bà lúc nào cũng thấy chuyện nghị quyết, thông tư, nghị định, dự thảo luật. Nghe riết thấy phê. Hôm nào không được nghe những chuyện đó là chị cứ thấy buồn buồn. Lúc nào xem ti-vi thấy các bậc lãnh đạo và các đại biểu nói chị thấy sướng lâng lâng như thể chính chị là người đang phát biểu vậy. Chị nuôi mơ ước sau này sẽ học hành quy củ để tham gia vào việc soạn thảo những văn bản ích nước lợi dân đó. Chị luôn là một học sinh xuất sắc, có mặt trong cả hai đội tuyển văn và toán của trường. Có ai hỏi sao chị có thể học giỏi được cả hai thứ như vậy thì chị đáp chị muốn đi bằng cả hai chân vào cuộc đời này. Ngoài việc học hành giỏi giang chị còn là một cán bộ đoàn năng nổ, tích cực. Chị luôn luôn nổi bật. Bố mẹ chị rất động viên và tạo điều kiện cho chị tham gia công tác xã hội. Ông bà thường nói rất nhiều cán bộ cao cấp đã đi lên từ các phong trào đoàn thanh niên. Đó là nơi trui rèn lý tưởng nhất cho mọi phẩm chất vượt trội. Vào đại học chị luôn được nhận học bổng. Năm thứ hai chị đã được đứng trong hàng ngũ của đảng. Cuộc đời thật đẹp phải không các bạn. Ngày chiến tranh đối với thanh niên thì cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù. Thế hệ cha ông chúng ta đã rửa được nỗi nhục mất nước, ngày nay thế hệ con cháu chúng ta phải cố gắng làm sao rửa được nỗi nhục to lớn là nghèo nàn lạc hậu. Vinh dự của tôi ngày hôm nay chính là vinh dự của một người lính đứng trên tuyến đầu của mặt trận công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Và hủ hóa. Có tiếng một tên dị hợm ở dưới hội trường. Đồ khùng. Các bạn yêu quý. Trong thanh niên chúng ta còn có không ít người đang khủng hoảng về tư tưởng, không nghĩ tới tương lai, không nghĩ gì tới ngày mai. Vì vậy mà các tệ nạn và tội lỗi ngày càng không giảm. Tại sao chúng ta không noi gương các anh hùng liệt sỹ hy sinh hết mình với niềm tin trong sáng. Sự hy sinh của họ chính là nền móng cho hạnh phúc mà chúng ta đang được hưởng. Vậy tại sao các bạn không nghĩ được rằng những gì chúng ta đang làm chính là để cho các thế hệ mai sau. Những tràng vỗ tay không dứt cùng với vòng tay ôm hôn nồng ấm của đồng chí Phó bí thư Thành ủy hôm ấy cũng đến dự. Chỉ có một điều… Đã qua tuổi thập tam rồi trăng tròn từ lâu mà Bạch Trĩ vẫn chưa thấy kinh. Mẹ chị đã hướng dẫn cho chị mọi điều về chăm sóc sức khoẻ từ khi chị mới mười một tuổi. Bà vốn là một bác sỹ sản khoa. Thế mà cứ chờ đợi mà tuyệt nhiên không. Đối diện nhà chị là một dãy phố lao động đã có từ ngày xưa. Trong dãy phố ấy có một cụ đạp xích lô đã trăm tuổi mà vẫn cường tráng sung mãn. Con cái cụ không thiếu tiền và không cho cụ đạp xe nhưng cụ bảo tao đã làm cái nghề này tám mươi năm rồi nên hôm nào không ra đường thấy chịu không nổi. Gương mặt cụ sáng tươi, râu tóc bạc như tiên, da hồng hào, lưng thẳng. Chả bù cho bố mẹ chị người thì huyết áp, người thì mỡ máu. Vừa đạp xích lô cụ vẫn thường ngâm nga những câu thiên cổ. Hồng Hồng Tuyết Tuyết mới ngày nào còn chưa biết cái chi chi. Chắc ngày xưa cụ cũng là một tay chơi Khâm Thiên lão luyện. Cứ đọc Làm đĩ của Phụng thì mới thấy cái công nghiệp giải trí của các cụ thật là ghê gớm, dễ mà bán cửa bán nhà. Đừng lo thấy muộn mà buồn, đến năm hai mốt thì… mọc lông. Đúng là xích lô. Trong cụ là cả trăm năm văn hiến hè phố. Nhiều khi không hiểu sao trong vô thức chị thấy mình muốn được như cụ. Người như cụ xứng đáng được dựng tượng đồng giữa trung tâm Kẻ Chợ này, thế chỗ tượng “Đầm xòe” ngày trước. Tại sao không? Bạch Trĩ đã tròn hai mốt tuổi, sinh viên năm thứ ba rồi. Tuổi hai mươi sức như Phù Đổng. Năm thứ nhất thì kiêu, năm thứ hai thì xiêu, năm thứ ba thì yêu, năm thứ tư thì liều. Đó là câu nói tổng kết về đời sống tình cảm của các nữ sinh viên. Thế mà Bạch Trĩ cứ thấy nó chả liên quan gì tới mình cả. Chị thấy bọn con trai đứa thì đụt, đứa thì bệnh hoạn, đứa thì thô bỉ, đứa thì đểu cáng. Không mê được. Bích Loan sinh ra với một vóc người thon thả, dịu êm, nhẹ nhàng lắm. Nhẹ khôn kham. Nàng ra đời trong một gia đình trâm anh thế phiệt. Tuổi thơ xao xuyến của nàng gắn liền với hoa hồng, thơ ca, tiểu thuyết, chocolate, nhà hát, trường Nữ công Tinh hoa, đàn piano, gia sư, “Trưng Vương khung cửa mùa thu” và nước hoa Pháp. Đặc biệt nhất là cái phòng khách của nhà nàng. Ngày nào nó cũng được đón tiếp biết bao hiền nhân mặc khách. Họ đến nhà nàng để bàn mọi chuyện về chính trị, văn hóa, khoa học, triết học, nghệ thuật và uống rượu ngoại. Ngày tháng trôi đi, cái phòng khách ấy bỗng được mang tên cô con gái xinh ngoan sáng láng có làn da châu Âu của ông bà chủ – “Salon Loan”. Đến với Salon Loan người ta sẽ được nghe những câu chuyện đầy ý vị và cao nhã. Các vị có biết tại sao con người ta cứ phải nói mãi mà không dừng lại được không? Câu hỏi như một chủ đề thảo luận một hôm bất ngờ được một giáo sư ngôn ngữ trường phái Tây Âu bẩy đời đại trí thức, trong hai bên nội ngoại lại còn kết tinh ra cả một đại thi hào, đưa ra. Nghe nói cụ giáo sư thân sinh của ông đã đắc đạo đến mức phu nhân của mình đưa tình nhân về nhà ngủ mà cụ vẫn thản nhiên như không nhìn thấy, hồn nhiên ngồi nghiên cứu những triết luận cao viễn, sau quả nhiên đã để lại cho đời những trước tác “thiên kim bất dịch”, làm nền tảng cho cả nền khoa học xã hội quốc gia. Cái lý của nó kỳ lắm. Kỳ thực là cả tư duy và ngôn ngữ của chúng ta đều bị mắc bẫy ở trong Nhị nguyên. Cứ nghĩ hay nói là chúng ta đã phải phân định đúng sai, hay dở, trong ngoài một cách rõ ràng. Kỳ thực trong vũ trụ làm gì có cái gì thật rõ ràng đâu. Vạn vật có cái gì lại không cõng âm và bồng dương. Vậy thì muốn nói trúng được phải có một thứ ngôn ngữ đa chiều (nhiều hơn ba) thì mới truyền tải được. Tiếc thay, suốt hàng vạn năm tiến hóa nhân loại vẫn chưa có được cái huyền ngôn đó. Ví dụ như moa đây này. Người thì bảo là một bác học uyên bác và đức độ, kẻ thì quy tội kênh kiệu làm dáng trí thức quan trọng hóa vấn đề. Vậy thì ai đúng? Chẳng ai đúng cả vì chưa có ai có thể nói một tiếng mà đọc ra cả con người moa. Ngôn ngữ càng phát triển càng bế tắc là vậy. Vì thế minh triết phương Đông là vô ngôn vô lời. Xưa kia Đức Vạn Thế Sư đã từng than “Trời có nói gì bao giờ đâu!” Chúng ta nói là chẳng đành câm đó mà. Một giáo sư cổ ngữ khác lập tức đáp lời: ô ông hôm nay rõ là thông minh hơn trước, chẳng lẽ nhi nhĩ thuận rồi ông mới nghĩ ra điều đó sao? Tôi thấy không ai dã tràng hơn mấy nhà ngữ pháp. Ngôn ngữ là tự nhiên, văn phạm là nhân tạo, là những quy tắc con người đẻ ra để đong đo cái tự nhiên ấy mà. Các cụ gọi lấy gầu đong biển là vậy đó. Cái tự nhiên nó có cả phần sáng phần tối, sinh trưởng như cỏ cây thì biết nó là cái hình dạng gì. Cái sáng thì đo được, cái tối mập mờ thì làm sao đo. Trong khi các lí thuyết thì hoặc đề xướng “chủ nghĩa vuông” hoặc “chủ nghĩa tròn” nên đo được cái này thì khuyết cái khác, thế nên mới rơi vào cái cảnh mù rờ voi. Tự Nhiên như trời, người sao theo kịp. Mọi nỗ lực của các nhà cũng đâu có làm chúng ta hơn gì được những ngu phu ngu phụ. Những câu chuyện cao xa ấy chỉ tan ra khi chủ nhà mở tủ lau nhẹ rồi nâng lên một chai Napoleon. Ngày qua ngày những vong hồn chữ nghĩa và ý tưởng cứ mãi tan và tụ theo nhịp mở nút chai đầy uy lực như tiếng pháo của Đại đế. Lòng thư thái bởi những giọt cồn Pháp các cao nhân bỗng thấy khoan dung, vạn vật đồng nhất thể, tứ hải giai huynh đệ trong cơn khát tự do, bình đẳng, bác ái. Liền theo đó là nắp đàn piano bật mở và từng ngón tay trinh của người mà Salon mang tên nhẹ lướt. Beethoven. Chỉ có Beethoven mới làm thỏa mãn được những cái đầu đầy trí năng. Trời ơi! Giá như dân tộc này có được một Beethoven. Để làm gì? Thì chúng ta sẽ không bao giờ có những cái đầu tủn mủn. Thì hồn dân tộc mới hùng tráng. Thì hách mới lẫm liệt. Ồ nhưng nghe nói ông này điếc mà… Bích Loan có một vầng trán cao rộng. Tưởng như mọi chòm sao trên trời đều in dấu nơi đây. Một bầu trời di động trên tấm thân dây dây. Chưa vào đại học đã có nhiều gia tộc muốn đón. Nhưng nàng nghĩ nàng còn phải học. Học, học nữa, học mãi. Nhân ngày đầu xuân, nhiều thanh nam tú nữ hay đi xin chữ các cụ đồ nho hay các nhà thư pháp hiếm hoi còn sót lại. Lập Xuân năm ấy trong khi phần lớn mọi người đều xin “nhẫn” hoặc “tâm”, Hoàng Phượng cũng làm một cái “nhẫn” còn Bạch Trĩ thì chọn “tâm”, Bích Loan đã xin hai chữ “trí tuệ”. Khi viết xong cho nàng, nhà thư pháp bỗng nói lớn: Thôi oải lắm rồi, không nhẫn tâm trí trá gì nữa đâu nhé! Ai có thơ hay câu đối thì ra đây nào. Bỗng thấy một gã trông dị hợm từ đầu đến giờ vẫn im lặng đến bên xin chữ và đọc: Dòng đời phù vinh hạ phẩm / Bến tâm trầm mặc thượng thừa Nhà thư pháp biến sắc. Các đại nhân vật đang say sưa bình vấn bỗng lặng im. Đám thanh niên xuýt xoa. Nhà thư pháp như đang làm những động tác yoga hay thụ khí rồi chấm mực vung bút. Thật là một bức tuyệt họa. Ai cũng xuýt xoa trầm trồ nhưng không biết nó đẹp bởi cái gì. Xong việc gã dị hợm rẽ đám đông đi về nơi xa khuất như thể hắn chui xuống đất vậy. Không ai biết gã đi đâu cũng như là từ đâu vác mặt đến. Bạch Trĩ bảo hắn cuồng. Hoàng Phượng đoán hắn là thi sỹ. Bích Loan nói hắn là giáo sư. Có kẻ lại phán hắn là bậc chân truyền của một giáo phái siêu đẳng nào đó. Nhưng ai cũng thấy hắn có gì đó bí hiểm, hấp dẫn. Hay là gã buôn ma túy? Loan mang “trí tuệ” về treo giữa phòng trang trọng và nghiêm cẩn như các con chiên ngoan đạo vẫn thường treo ảnh Chúa hay thập tự giá. Nhiều đêm mơ nàng đã thấy mình ôm hôn hai chữ ấy. Những cánh chữ cứ nâng nàng lên như đại bàng nâng công chúa. Nàng thấy mình bay qua châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Lướt trên những thành phố sạch như lau, sáng choang như cung Hằng. Những sa mạc ngút trời. Những đỉnh cao băng tuyết. Những cánh đồng mây trắng vĩnh hằng. Thậm chí nàng còn thấy đôi cánh chữ đưa nàng bay tới thiên đường với những thiên thần bay lượn phất phơ. Thấm thoắt thoi đưa, thời gian lôi người ta đi vùn vụt. Nhớ lại quá khứ thấy như đến một ngã ba đèn xanh đèn đỏ thoắt một cái ba cô bạn con chấy cắn ba bỗng không trông thấy nhau đâu nữa, như thể mỗi người đã rẽ theo một đường mà chả ai báo với ai, không một lời hẹn gặp lại. Hoàng Phượng làm ăn ngày càng thành công rực rỡ. Dù văn hóa hơi bị khiêm tốn nhưng những kiến thức của đời thực trên thương trường đã đưa cô lên hàng đại tướng… Cô đã trải qua vài vòng tay đàn ông nhưng vẫn chưa tìm cho mình được một mối tình. Thực ra là không hiểu sao mà vẫn chưa có ai để ý đến cô, trừ mấy thằng làm trong ngành mỏ - địa chất, là một ngành cực kỳ phát đạt đến đỉnh cao trong suốt thập niên qua của cả đất nước. Dân gian đã có câu ca: số anh là số đào hoa, em thì đào mỏ hai ta cùng đào. Thế nhưng bất hạnh thay cô đâu có được đào hoa mà chỉ gặp toàn bọn chuyên gia khoan cọc nhồi thế này. Bọn chúng thì không thiếu nhưng cô cũng chẳng háo hức gì cái giống vô tình. Hay cô chính là đảng trưởng đảng vô tình? Cô ghét nhất cái phận đàn bà là những kỳ thấy tháng. Cô thường xuyên ăn rau răm và các loại thuốc để dẹp đi cái di chứng đáng nguyền rủa cản trở cuộc sống bình thường của cô từ năm cô mới mười tuổi. Chính nó là thủ phạm cướp đi tuổi thơ của cô, cướp đi những thời gian ung dung tự tại, cản trở cô trở thành người hùng hay thần thánh. Cô giành nhiều thời gian và tiền bạc cho các chùa chiền. Tên cô luôn nằm trong những tấm bia đá ghi danh những tấm lòng từ thiện. Cô còn sắm cả xe hơi cho bậc hòa thượng khả kính nhất đất nước. Chỉ mong đổi lấy… Dẫu bao đêm hờn giận số phận trong cay đắng nhưng cô vẫn thường tự an ủi rằng tại mình hồng nhan nên ra bạc phận. Cô có một đôi má lúc nào cũng ánh mầu hồng hoàng vượng khí, ánh mắt lạnh lùng nhưng là để che dấu những khát vọng phong nguyệt vô biên… Nhưng đàn ông xứ này chuối lắm. Bạch Trĩ đã thấy kinh lần đầu ngay trước lễ tốt nghiệp đại học rực màu cờ đỏ và các loại cờ đèn kèn trống. Nhìn ánh mắt chị long lanh ánh thủy đến mức khác thường ai cũng chỉ đồ rằng đó là niềm vui của cô bé thủ khoa. Có ai biết được cái làn thủy quang rực ánh cầu vồng đó là kết quả của bao nỗ lực tự thân vận động cùng biết bao thầy thợ bốn phương. Chắc tiếng khóc của những tân nương về nhà chồng hay tiếng cười của những sỹ tử thi trượt cũng không thể sánh được với cảm xúc ngút trời đó của chị. Hóa ra chị cũng là đàn bà, không hề lệch lạc giới tính hay xăng pha nhớt. Ôi những năm tháng xót xa âm thầm khao khát. Giờ đây hồng phúc đã đến. Chị lại mơ được sánh vai một trượng phu đáng mặt anh hào. Nhưng mà sao cửa phòng khách nhà chị dù có một cái thảm chùi chân WELCOME [1] to tướng mà vẫn luôn tạnh vắng những đôi giầy đàn ông. Chỉ toàn guốc là guốc. Những tiếng guốc khô khốc như tiếng mõ tụng kinh chùa Quán Sứ… sao mà cảnh vắng teo… Nhiều đứa bạn chị cũng yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội mà sao cũng không tìm nổi một người hùng dân tộc, phải tìm kế cõng rắn cắn gà nhà. Lấy chồng Tây. Nhưng mà nhiều ca cũng thảm. Có một chị hàng xóm sát tường đã có đến ba đời chồng Tây: một Thụy Điển, một Ma-rốc, một Đài Loan. Chị đã sinh nở hai lần. Hai thằng con trai. Nhưng cả hai lần đều bị những thằng chồng sắt đá cướp mất đem về nước. Ra trường Bạch Trĩ về công tác ở cơ quan của mẹ hiền kính yêu. Chỉ sáu tháng sau chị đã lên Phó phòng. Chị đi nước ngoài như đi chợ. Có lẽ đã được 29 nước rồi. Thế mà cũng chẳng thấy thằng Tây nào nó để ý đến mình cả. Toàn những xã giao lịch sự không chịu nổi. Một lần được mời đến ăn cơm ở nhà bố mẹ một đối tác người Mỹ lúc ra về thấy bố con nó bắt tay nhau rối rít thật là long trọng. Chưa hết, gã còn Thank you so much for inviting me and what you’ve done to me today. I really appreciate that. Mum and dad, I love you. [2] Suýt nữa thì ngộ độc. Chị đã lên Trưởng phòng sau một năm, đã quen với cả một nền văn minh phong bì, quà cáp trên mức tình cảm, chia chác chiến lợi phẩm sau lưng chiến sỹ và miếng võ nịnh trên nạt dưới đầy hữu hiệu đối với những con dân của xứ sở đầy thiên tài và thiên tai. Và chị đang vào tầm ngắm để trở thành Phó giám đốc sở trẻ nhất trong lịch sử của ngành… Loan, Phượng ơi, lấy chồng chưa? Chắc các bạn sẽ dễ dàng hơn trong cái chuyện ấy. Chúng ta đã như Cesar, đã đi, đã đến và đã chinh phục. Vậy ai sẽ chinh phục chúng ta? Tốt nghiệp phổ thông, Bích Loan được người bạn của cha đã bảo lãnh sang Paris du học. Kinh đô ánh sáng không có một mẩu thời gian nào cho phép người ta nghĩ về một cái gì đó tầm thường tăm tối. Một đời tắm mình trong hào quang trí tuệ nàng thấy người đời thật tầm thường. Thấy nàng sáng láng cũng có mấy anh bạn Pháp bắt quen. Nàng để ý đến một công tử đại gia. Thôi thì gallant, [3] thôi thì tràn ngập joie de vivre [4] trong những dịp lễ tân đầy những je ne sais quoi. [5] Nàng cũng thích cái cuộc sông bourgeois [6] ấy, nó bổ khuyết nhiều cho những bậc trí thức như nàng, linh hồn của Salon Loan. Thế nhưng có một lần anh chàng Parisien [7] bảo rằng nàng còn Parisienne hơn cả Parisienne. Cái bản tính đa nghi của dân trí thức làm nàng phân vân không biết là anh ta khen hay chê mình đây, nhất lại là lời khen của một gã Gauloise. [8] Chỉ có điều chính nàng cũng dần thấy không mê nổi cái dân keo kiệt xăm soi nhất quả đất này. Và Bích Loan hiểu rằng không có một hấp lực nào giữa hai người cả. Nàng thui chột mọi cảm xúc từ con tim, lao vào cuộc đại thám hiểm trong các thư viện và bảo tàng để ít năm sau thì trên Le Monde và L’Humanité có mẩu tin: một nghiên cứu sinh Việt Nam đã bảo vệ xuất sắc luận văn Tiến sỹ IV tại ĐH Paris IV về ngôn ngữ giao thoa, hứa hẹn... Giờ là lúc vinh quy bái tổ, ra mắt bạn bè. Phượng ơi, Trĩ ơi, Loan đã về! Các ấy ở đâu bây giờ? Đã lấy chồng chưa? Có gặp được thằng tử tế không? Họ đã gặp nhau bên Bờ Hồ sương khói trong một ngày u ám khi cơn gió bấc đầu tiên của mùa đông đổ về. Dẫu đã trải giông gió bốn phương nhưng cái lạnh miền Bắc vẫn như một con quái vật không thể nào quen nổi. Lần nào gặp nó cũng thấy nó bất kham và thâm hiểm đáng sợ. Mưa phùn gió bấc là điều khó chịu nhất mà Trung Hoa lục địa mang đến xứ này. Nhưng không ai ở đây có thể bỏ qua hay quên được chúng. Những bài học làm người cũng vẫn được các bậc cha mẹ truyền dậy cho con cái trong những ngày như thế. Và cũng nhờ những ngày như thế mà người ta mới biết yêu một bếp lửa hồng. Câu chuyện của họ như rơi vào mênh mông, nhưng vẫn ẩn hiện nhân vật cổ quái mà quen quen… Ôi nhà thơ! Xin lỗi, cô nhầm. Tôi không làm thơ. Em đã từng nghe anh đọc thơ mà. Tuy khó nghe nhưng không hiểu tại sao em rất thích. Thích mê đi ấy. Rất ám ảnh. Thế thì cô bệnh hoạn quá rồi. Tôi đi đâu cũng khuyến cáo mọi người làm cách nào để chế ra thuốc cai thơ. Nghiện thơ cũng chẳng khắc nào nghiện rượu và nghiện ma túy. Trước đây dân tộc này suýt mất nước vì bị rượu và thuốc phiện hủy hoại. Giờ đây chứng nghiện thơ còn hơn cả một quốc nạn. Người người in thơ, nhà nhà làm thơ. Lạm phát thơ. Sốc thơ. Phải lập những trại cai thơ. Chia tỷ lệ phần trăm mỗi nhà phải đưa bao nhiêu người đến trại. Ai không thực hiện, trảm hết. Nếu không, tất cả đang bên bờ vực của đại hồng thủy. Thơ đích thực là một thứ nguy hiểm vì nó kết nối giữa trời với người, vì thế không phải ai cũng dùng nó được. Trong mười triệu người có một nhà thơ là quá đủ. Tôi phải có trách nhiệm cai thơ cho em. Người như em là phải dĩ độc trị độc, dùng thơ để giải thơ. Em phải cần gấp một bài thơ đời. Một bài thơ đời. Thơ đời. Thơ đời… Thơ đời… Anh đến đây có việc gì? Tôi đến để cứu chị, bà Trưởng phòng ạ. Tôi nhận ra anh rồi, dị hợm như anh thì chỉ có phá đời chứ cứu ngải gì. Chị là ca bệnh trầm trọng nhất hiện nay, là cái gốc của mọi tệ đoan trong xã hội này, thưa lãnh đạo. Không có việc gì thì xin mời anh ra cho. Tôi không có thì giờ nhảm nhí. Đấy, căn bệnh của chị là ở chỗ ấy đấy. Không có thời gian. Đời người trăm năm sao lại kêu không có thời gian. Thời giờ nhảm nhi? Thế nào là nhảm nhí? Nếu nhìn đời bằng con mắt nhảm nhí thì thấy cái gì chẳng nhảm nhí. Không có một đời sống hòa hợp lành mạnh làm sao làm tốt cho người khác được. Bệnh hoạn. Em thật đáng thương. Em đã là nạn nhân. Rồi em sẽ lại biến những người khác thành nạn nhân. Em cố tình huyễn hoặc về mình rồi lại quay ra tin vào cái điều huyễn hoặc đó. Anh phải cứu em. Cứu em. Cứu em… Cứu em… Tôi là Bích Loan, rất hân hạnh được gặp anh. Trông anh rất quen. Chắc chắn là tôi đã gặp anh ở đâu rồi. Chào bà Tiến sỹ, tôi là Hồng Hộc. Tên hay biệt hiệu gì mà lạ vậy anh. Chắc là anh làm gì cũng hồng hộc lên chứ gì. Không, tôi họ Hồng tên Hộc. Nhưng đây cũng là tên hai loài chim quý hiếm biểu tượng cho sự thanh cao sống trong cõi tục mà vượt thoát cõi tục, khi bay lên đỉnh trời rồi những âm thanh của nó còn làm sáng cả cõi nhân gian. À em nhớ ra rồi, đúng rồi! Trong ký ức em anh là một kẻ dị hợm. Thế mà có cái tên ý nghĩa quá. Chắc anh sinh ra trong một nhà Nho học, và… bất đắc chí. Cũng không hẳn thế. Cha tôi tên Đạo, mẹ tên Đức. Vô Đạo và Thất Đức chứ gì. Không, cha tôi là Hồng Đạo, mẹ tôi là Hằng Đức, nhưng cái ý nghĩa thì cũng không sai lời em nói là mấy. Ồ em đùa đấy. Anh rất bí ẩn, và em rất đam mê sự bí ẩn. Nhưng tôi không thích tuýp người như em. Vì anh là Lùi sỹ, và đang càng ngày càng tiến tới vô học. Trong khi em… Ấy chết em có gì đâu. Chẳng có gì cả. Em là một khối u đáng thương. Cần phải được đại phẫu càng sớm càng tốt. Em tăm tối chỉ vì em sáng quá, em ngu dại chỉ vì em thông minh quá. Trí năng quá phát triển sẽ làm người ta dure [9] khủng khiếp, không thể bước chân vào cửa ngõ của huyền diệu được. Đằng sau cái vầng trán sáng láng kia là cả một khu chế xuất đậu tương. Thôi tôi phải đi đây. Đừng vội đi anh. Tôi xin phép. Nhưng mà… tôi thấy em cần phải được giải phóng. Em mất quân bình khủng khiếp. Khủng khiếp. Khủng khiếp. Khủng khiếp quá. Đừng anh. Đừng anh. Đừng đừng anh… Nghe đồn sau biến cố ấy Hoàng Phượng đã sớm gặp được tình yêu của mình trên đường đi làm ăn bên Trung Quốc. Đó là người đàn ông vẫn thường kinh doanh cùng mặt hàng với cô. Trước đây vì là đối thủ cạnh tranh nên cô rất kình địch. Tưởng là quân nó hóa ra quân mình. Còn Bạch Trĩ thì sao? Chị đã chủ động ngỏ lời yêu con giai út cụ xích lô. Anh là người khỏe mạnh nên chắc những đứa con của họ sẽ có một đời sống lành mạnh. Bích Loan thì đã từng có một cái đơn tống đạt lên tòa án để kiện một tên phạm tội cưỡng dâm. Sau rồi hồi tâm thấy ấm ấm cái bụng, nàng rút lại. Từ khoảnh khắc rút lại lá đơn, nàng bỗng thấy mình đốn ngộ. Sự đốn ngộ của trí thức bao giờ cũng lòng vòng mất thời giờ. Nhưng, kết thúc như thế người ta gọi là có hậu. Hà Nội - 20.11.05 Nguồn: Báo Văn nghệ sông Cửu Long (www.vannghesongcuulong.org)
  24. QUÁCH ĐÀM LÀ AI ? Trích Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển, tr.286-291, nxb Tp HCM năm 1991:Nhưng nhơn vật điển hình nhứt thời lối 1920, có lẽ là Quách Đàm. Xuất thân mua bán ve chai. Sau kèm thêm mua da trâu, vi cá, và bong bóng cá. Ngày ngày thả rong làng xóm, hai giỏ tre trên vai, quản bao mưa gió. Buổi trưa Đàm thường nằm nghỉ lưng hàng ba phố trống, ghe phen bị một phu vác lúa làm khổ, móc túi Đàm lấy giấu giấy thuế thân để chẹt Đàm chuộc năm xu, một hào, mỗi bữa có đủ tiền uống trà giấc trưa. Như vậy mà Đàm không thù hiềm, khi đắc thời Đàm tìm cho được anh phu, ân cần mời về cho làm cặp rằng xếp bọn vác lúa, không khác chuyện Hàn Tín đối đãi với tên ác thủ đời Tây Hán. Đàm nhờ lanh trí, nhập giới thương mãi thấy việc mau lẹ hơn ai, nên làm giàu cấp tốc. Đàm hút nha phiến đêm ngày, đèn không tắt, giao thiệp lựa toàn quan to, thậm chí Thống Đốc Nam Kỳ Cognacq, làm cao không ai có, thế mà cũng hạ mình cầu thân với Đàm. Đàm mua đất vùng Bình Tây nguyên là đất ruộng, mua xong Đàm nghĩ ra một kế để biến đất ruộng trở nên đất thổ trạch châu thành. Đàm hy sinh một số vốn to tát, tự mình xuất tiền đúc một chợ ciment cốt sắt vĩ đại, nay vẫn còn đồ sộ và khéo léo, quen gọi Chợ Quách Đàm (Chợ Bình Tây)(1&2). Đổi lại ơn kia, Đàm xin chánh phủ đặt tượng đồng của Đàm nơi cửa chánh môn. Tượng do Đàm xuất tiền đúc nắn, ăn vận triều phục Mãn Thanh, nón nhỏ, áo ngắn phủ trên một chiếc áo thụng, đầu để bín, tay cầm một bản đồ(3), dưới bệ đá trắng có mấy con giao long bằng đồng phun vòi nước bạc. Chợ xây rồi, chung quanh đó, Đàm dựng nhà lầu kiểu phố buôn bán và toa rập với chánh phủ Pháp định dời Chợ Lớn về đây, trước dẹp chợ cũ xấu xí, sau mở mang thành phố cho thêm tráng lệ. Không ngờ địa lợi chưa thuận, thêm dân cư thưở ấy không được đông đúc như bây giờ, vả lại các thương gia Huê Kiều đã yên nơi yên chỗ cũng không muốn dời phố mới xa xuôi thêm hao tốn: Đàm thất bại một phần nhưng không lấy đó làm mối lo. Để thấy mánh lới, gan dạ của Đàm, kể ra đây một tỷ dụ: Một năm nọ, Đàm sai mua lúa khắp Lục Tỉnh trở về trữ ngập kho ngập chành trong Chợ Lớn, chờ ngày chuyển sang thị trường Tân Gia Ba. Xảy đâu tin dữ bên Singapore gởi qua cho hay lúa ối và sụt giá! Cứ đà này, lúa của Đàm dự trữ đã mất lời mà còn phải chịu lỗ lã, số tiền hao hụt không thể tưởng tượng. Đàm vẫn bình tĩnh như thường, lại ra mật lịnh cho bọn tay sai Lục Tỉnh cứ tiếp tục mua lúa thêm mãi, giá y cựu lệ, như không có việc gì xảy đến. Chẳng những vậy, Đàm còn hô hào dạy cứ mua giá có thể cao hơn trước mỗi tạ một vài đồng xu để người bán ham lời không bán cho người khác. Một mặt, Đàm gởi mật thơ cho đại diện bên Tân Gia Ba căn dặn tống sang đây một điện tín khẩn cấp đồn đãi rằng lúa sắp vọt giá lên cao hơn nữa... Quả nhiên, các nhà buôn lúa cạnh tranh với Đàm, tuy kinh nghiệm có thừa, nhưng không thóat được quỷ kế của Đàm. Các chành ùn ùn xúm nhau kiếm mua lúa với giá cao để có đủ số ăn thua cùng Đàm. Đàng này, tuy nằm hút á phiện, nhưng Đàm vẫn lén sai bộ hạ bán đổ bán tháo lúa dự trữ bấy lâu ra gần sạch kho. Lúa Đàm bán xong, các nhà buôn kia cũng vừa ngưng mua, thầm biết mắc mưu độc. Các nhà buôn đã chia nhau mua lúa của Đàm, chia nhau gánh lấy sự lỗ lã của Đàm, và phen này hú hồn. Đàm nằm hút cười thầm "kế mượn tên" của Gia Cát Khổng Minh lẩm rẩm mà thâm thúy vô cùng, và ngày nay vẫn còn hiệu nghiệm. Kể ra Đàm rất nhiều cơ mưu, và trong thương giới quả Đàm là một tay lợi hại. Đàm tuy là một khách trú không mấy ai biết nhiều, nhưng ai biết được Đàm cũng đều cầu thân để cậy nhờ nhiều việc. Một hội viên hội đồng quản hạt chở mía cây đến bán cho Đàm, ngồi chờ Đàm hút, dạ thưa kính nể còn hơn vào chầu Thống Đốc, để chi? Để Đàm vui dạ, khứng mua cao lên vài xu và mua gấp để mía khỏi "rượu" và "mất cân" được đồng nào hay đồng nấy. Về sau, Đàm giàu quá, xoay qua đứng bảo lãnh (avaliser) cho con nợ nhà băng "Đông Dương Ngân Hàng". Mỗi lần xin chữ ký bảo chứng, phải chịu cho Đàm một huê hồng đã quy định trước. Dè đâu gặp năm kinh tế khủng hoảng, các nhà buôn vỡ nợ không đủ sức trả bạc vay, nhà băng phát mãi sự sản, lôi kép nhà họ Quách sụp đổ theo luôn. Nhà buôn Quách Đàm lấy hiệu "Thông Hiệp", trụ sở ở Quai de Gaudot, nay là đại lộ Khổng Tử, nhưng thời ấy còn là một con kinh chưa lấp. Tương truyền khi sắp phát tích, Đàm đến nhờ một thầy Tàu cho chữ hiệu. Ông thầy Tàu ngồi thềm đường viết liễn Tết thung dung hỏi Đàm làm nghề gì? Đàm thưa: "mua bán da trâu và vi cá chở đi xứ ngoài." Thầy Tàu suy nghĩ giây phút rồi viết cho hai chữ: "THÔNG HIỆP" vừa mạnh vừa tốt, lại kiêm theo hai câu liễn: "THÔNG THƯƠNG SƠN HẢI ( trâu: sơn, cá: hải) "HIỆP CÁN QUÀN KHÔN " Thiệt là tuyệt diệu ! Đàm mừng khấp khởi, khắc bảng phết son thếp vàng. Quả thật từ đấy việc làm ăn của Đàm ngày một phấn chấn, thịnh vượng, bành trướng khắp biển Đông núi Việt. Số tiền lời không xiết kể. Khỏi nói, từ đó năm nào Đàm cũng không quên công ông thầy Tàu cho chữ. Đến chừng bị nạn kinh tế, gia tài sụp đổ, Đàm không trách nhà buôn do mình bảo lãnh sai lời, để mình "chết theo một bè". Đàm chỉ căm thù ai kia đã lấp con kinh trước nhà, làm "hư phong thủy". Đàm đinh ninh tin tưởng vào lời thầy địa lý năm xưa, dạy rằng chỗ Đàm đóng đô là "đầu một con rồng", khúc đuôi nằm tại biển cả! Dặn coi chừng đừng cho lấp kinh, tức lấp "mạch rồng", và nếu một mai mạch rồng khô cạn, nguy cho cơ nghiệp họ Quách. Phố lầu chỗ Quách Đàm buôn bán thưở ấy, Đàm mướn mỗi tháng đến ba trăm đồng bạc. Đàm nài mua lên nhưng chủ không ưng bán. Đàm dư tiền nếu muốn xây cất bao nhiêu nhà to đẹp lại không được, nhưng Đàm vẫn tin "cuộc đất làm ăn khá", mắc bao nhiêu cũng không nệ, và chẳng khứng bỏ cuộc thế ấy để đi chỗ khác: lấp con kinh "sinh mạng", Đàm giận cũng phải ! Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. Bàn đưa không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên... Khách đi đường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy "ngẫu" (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón. Một phú gia giàu sang bực ấy, mà nay còn gì? Gần chùa Giác Lâm trong Chợ Lớn thuộc ranh tỉnh Gia Định, một ngày mới đây, tôi thấy một bầy bò sữa đứng ăn cỏ trên một ngôi mộ có vẻ hùng tráng nhưng trơ trọi điêu tàn. Cạnh bên là một đám ruộng khô chứa một đống rác to bằng đống lúa chưa vô bồ, ruồi muỗi lằn xanh bay vù vù như một đám nhạc hỗn độn. Địa thế "hữu bạch hổ" không còn; "tả thanh long" và ruộng nọ đang lấp, còn chăng là bầy bò nhơi cỏ gần đống rác và mớ ruồi lằn, ấy là hiện trạng . II. Tư liệu liên quan 1.Về Chợ Bình Tây, tài liệu cũng trong sách trên: ngày 12-4-1961, ông Bác sĩ Diên Hương, về ẩn trên Đà Lạt (nay đã từ trần), có viết cho tác giả ( Vương Hồng Sển) một bức thơ, nay xin đăng nguyên văn để công lãm: " ... Lúc đó Chánh Tham Biện Chợ Lớn thấy Chợ Cũ (ở chỗ nền nhà Bưu Điện Chợ Lớn hiện thời) nhỏ hẹp, không đủ cho bạn hàng nhóm chợ, và cũng muốn mở mang châu thành, mới kiếm đất xa Chợ Cũ cất một cái chợ mới cho rộng cho lớn. Ông biết có một ông điền chủ ở châu thành, người Việt Nam dân Pháp, có đất rộng lớn, mới mời đến hỏi mua. Ông điền chủ nầy không thấy rộng nghe xa, tưởng là gặp cơ hội, liền ưng thuận mà với một giá mắc quá tưởng tượng. Ông Quách Đàm nghe chuyện đó, liền cho người đến dâng một miếng đất rộng hơn (chỗ chợ ngày nay) không đòi tiền, chỉ đòi được phép cất phố và sập chung quanh chợ, để sau này cho mướn... ông Chánh lẽ tất nhiên chịu liền..." (Diên Hương). (2)Chợ Bình Tây , tài liệu góp nhặt trên net : Nằm ở mặt tiền đường Tháp Mười thuộc địa bàn P2Q6, chợ Bình Tây (hay còn gọi là chợ Lớn mới) là ngôi chợ lớn nhất ở TP.HCM và là ngôi chợ duy nhất có... một vườn hoa giữa chợ.Với những mặt hàng chủ yếu là hàng bách hóa như vải sợi, nhôm nhựa, giỏ xách, đồ lưu niệm, thực phẩm khô..., chợ Bình Tây đã cung cấp theo dạng bán sỉ cho hầu hết các tỉnh thành phía Nam và cả một số nước trong khu vực như Campuchia, Lào và cả Thái Lan... Chợ Bình Tây được khởi công từ năm 1928 và hoàn thành năm 1930, do ông Quách Đàm - quê quán ở Triều Châu, Trung Quốc - bỏ tiền xây dựng. Chợ được xây cất bằng xi-măng cốt thép theo kỹ thuật phương Tây nhưng lại mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc. Tháp giữa vươn cao có 4 mặt đồng hồ, có “lưỡng long chầu châu”, 4 góc có 4 chòi nhỏ, toàn bộ mái chợ lợp bằng ngói âm dương theo kiểu chồng lớp để tạo sự thông thoáng. Riêng mái ở các góc có nét uốn lượn theo kiểu chùa chiền phương Đông. Chính giữa chợ có khoảng sân trời rộng rãi, thoáng mát. Tại đây ông Quách Đàm cho đặt một bệ đá ghi ngày xây chợ cùng bức tượng đồng đen của mình. Bốn xung quanh bệ đá có 4 con sư tử ngậm châu và 4 con rồng (đều bằng đồng) đang phun nước, hai phía có hồ nước nuôi cá, thả sen… Lúc sinh thời ông là một doanh nhân làm ăn phát đạt. Ông đã từng được chính phủ Pháp tặng Bắc đẩu bội tinh vì đã mua đứt một nhà máy đường của Pháp đang làm ăn thua lỗ. Chợ hoạt động suốt từ 2 - 3 giờ sáng đến 9-10 giờ đêm... Du khách nước ngoài rất thích đến chợ Bình Tây để tham quan, mua sắm. Nhiều công ty du lịch đã đưa chợ vào danh mục tham quan trong tour của mình. (3)Tượng Quách Đàm :Đó là bức tượng toàn thân của một người đàn ông trung niên với tư thế đứng hơi rướn người về phía trước, tay trái ôm những cuộn giấy (có lẽ là những sắc phong), tay phải cầm cuộn giấy đã mở hé một phần, trang phục theo kiểu truyền thống người Hoa được chạm khắc tỉ mỉ đến từng chi tiết: những nếp gấp ở tay áo, gấu áo thật mềm mại, sinh động - đẹp nhất là những hoa văn li ti phủ khắp mặt áo và cả những tấm huy chương Long bội tinh, Bắc đẩu bội tinh chạm khắc trên ngực áo... Một bức tượng thật đẹp, khiến du khách ai cũng phải dừng chân tò mò: tượng ai đây? Cúi sát mặt xuống bệ tượng mới thấy một mảnh giấy nhỏ hình chữ nhật ghi vỏn vẹn 3 chữ: Tượng Quách Đàm! Tượng Quách Đàm đã định vị tại đây cho đến năm 1975 thì được đưa vào... cất trong Phòng Văn hóa - Thông tin quận 6 và đến năm 2003 thì được dời về trong khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM. Tại chiếc bệ đá nơi từng đặt tượng ở chợ Bình Tây, nay đặt một lư hương để bà con tiểu thương ngày 2 lần đến thắp nhang khấn vái ông Quách Đàm, xem như một vị “thần tài” của họ. Bùi Thụy Đào Nguyên, tổng hợp tư liệu
  25. PHỤC HIỆN 1 ĐIỆU MÚA CỔ GẦN 700 NĂM TUỔI Tương truyền điệu múa này có từ đời Trần nhưng trong chính sử thì chưa thấy có sách nào ghi chép lại cụ thể. Múa Bài Bông do bác sĩ người Pháp Charles-Edouard Hocquard chụp vào đầu thế kỷ XX. Múa Bài Bông trong dân gian còn có một tên gọi khác là Bắt Bài Bông, là một điệu múa nằm trong hệ thống các bản múa của nghệ thuật Ca trù (Gồm múa Bỏ bộ, múa Tứ Linh, múa Bài Bông). Điệu múa này thường được sử dụng trong các dịp đại lễ của chốn giáo phường, trong không gian uy nghi ở nơi cửa đình khi hát thờ một năm thường được sử dụng hai lần và ngày giỗ tổ Ca trù và tháng 3 và tháng 11 âm lịch. Bên cạnh đó trong không gian Cửa quyền tức là hát tại các dinh quan, đám khao vọng chúc thọ lớn, điệu múa này cũng được sử dụng, những nghệ nhân Ca trù vẫn coi điệu múa Bài Bông như một dùng để múa chầu, múa ngự. Tư liệu còn để lại cho thấy vào dịp Tứ tuần đại khánh (Mừng thọ 40 tuổi) của vua Khải Định (năm 1924) thì đoàn ca công ở Thanh Hóa đã đưa điệu múa này vào trong Huế để biểu diễn chúc thọ vua. Tương truyền điệu múa này có từ đời Trần nhưng trong chính sử thì chưa thấy có sách nào ghi chép lại cụ thể. Sách Việt Nam Ca trù biên khảo có ghi chép lại là điệu múa Bài Bông là do Trần Quang Khải dựng ra để ca múa trong ngày lễ Thái Bình diên yến do vua Trần Nhân Tông tổ chức sau khi đánh thắng quân Nguyên – Mông lần thứ 3. Cũng trong cuốn sách này có viết: “Múa Bài Bông là nhã nhạc của đế vương thịnh điển nhất trong nhạc giới”. Đoàn ca công Thanh Hóa trong dịp tứ tuần đại khánh của vua Khải Định. Múa Bài Bông do bác sĩ người Pháp Charles-Edouard Hocquard chụp vào đầu thế kỷ XX. Trong sách Tuyển tập thơ Ca trù, nhà thơ Ngô Linh Ngọc lại viết rằng: Múa Bài Bông do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Về lai lịch tác giả của điệu múa Bài Bông có thể chưa chắc chắn nhưng có nhiều dấu vết có thể coi đó là một điệu múa của thời nhà Trần: Thứ nhất: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ 2, nhà Trần có bắt được con hát Tuồng tên là Lý Nguyên Cát trong đám loạn quân của Toa Đô, sau đó Lý Nguyên Cát tự nguyện xin ở lại và dạy hát Tuồng, trong đó có vở Vương mẫu hiến đào được các con em vương hầu lúc bấy giờ tranh nhau học. Điệu múa Bài Bông còn lại cho đến ngày nay thì về phần giai điệu ảnh hưởng khá nhiều chất nhạc của Tuồng trong đó, mang ý chúc thọ với các động tác thể hiện hình ảnh hiến đào, dâng tửu rất sang trọng và tao nhã. Thứ hai: Điệu múa bài Bông có tất cả 9 màn; trong đó có một màn được gọi là hay nhất, động tác và ca từ hay nhất thì lại trệch ra khỏi ý nghĩa chung của nội dung điệu múa. Đó chính là bài Thời Hồ (hay còn gọi là Đào viên kết nghĩa lấy tích trong Tam quốc khi Lưu Bị - Trương Phi – Quan Công kết nghĩa vườn đào khuông phù Hán thất). Tại sao giữa một điệu múa tưởng chừng để chúc thọ cầu phúc cho muôn dân lại trệch ra một bài như vậy? Còn nhớ câu nói tổng kết của thành công chiến thắng 3 lần chống quân Nguyên – Mông xâm lược Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có nói do: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức” nên mới có được chiến thắng vang dội tạo nên hào khí Đông – A của vương triều nhà Trần. Phải chăng lấy tích “Đào viên kết nghĩa” ở đây chính là minh họa cho chính câu “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận” mà Trần Quốc Tuấn đã nói. Điệu múa Bài Bông được coi là báu vật của mỗi giáo phường. Thông thường chỉ có giáo phường nào lớn mạnh hay được đi hát thờ ở mỗi dịp tế lễ ở đình, ở dinh quan, hay vào kinh Chúc Hỗ hát chầu ngự vua mới có được một đội múa Bài Bông, vì chi phí để thành lập một đội như vậy rất tốn kém. Đội múa ít nhất là 4 người theo mức độ quan trọng của không gian diễn xướng mà tăng số lượng người lên gấp đôi: hoặc 8 hoặc 16, những dịp đại lễ thì phải 32 người múa. Về trang phục các cô khi múa thì mặc áo mã tiền thêu kim tuyến, chân áo đính chân chỉ hạt bột, trên mũ gắn một quả bông, hai vai bên vai đeo đèn hình hoa sen, tay cầm quạt tầu, lúc thì xếp quạt, lúa xòe quạt linh hoạt và trông rất vui mắt. Các cô đầu vừa múa và vừa hát, động tác múa ứng hợp với lời hát đã được cách điệu đi nhiều, động tác múa lạ không giống với bất cứ lối múa của các ngành nghệ thuật nào. Đi kèm với đội múa là một đội nhạc: có Quản giáp cầm trống cái giữ nhịp, một người đánh đàn đáy, một đàn nguyệt bốn dây (vẫn gọi là đàn tứ đoản); một đàn tam; một trống mảnh, chiêng và trống cơm, lúc tấu nhạc khoan thai, vui tươi gợi nên cảnh thái bình. Múa Bài Bông gồm 9 màn nhưng trên thực tế chỉ diễn 6 màn theo thứ tự: Một bài hát Kéo ra (Tựa như màn giáo đầu) – Bài hát Xuân (Ca ngợi cảnh sắc tươi vui đất nước trong vào mùa Xuân, tương tự như vậy có các bài Hạ - Thu – Đông, khi diễn xướng mà linh hoạt tùy theo tiết mùa mà đổi bài hát) – Sau bài hát Xuân đến bài hát Khách – Tiếp vào bài Thời Hồ (Tức là Đào viên kết nghĩa) – Tiếp tục là một bài hát Khách và kết thúc là bài Kéo vào. Múa đủ 6 màn hết gần một tiếng. Từ trước đến nay hiếm có một điệu múa nào kéo dài được như thế. Trong chốn giáo phường vẫn coi điệu Bài Bông là một điệu múa chúc thọ, nhưng trên thực tế khi tìm hiểu và phân tích ý nghĩa thông qua sự sắp xếp các màn múa, mức độ quan trọng, những dấu hiệu đặc biệt khi phân tích bài Thời Hồ thì thấy có thể đây không phải đơn thuần là một bài múa mang tính chất chúc thọ mà chính là điệu múa xưng tụng cảnh đất nước thanh bình cũng như ý nghĩa thành công của việc 3 lần chiến thắng quân Nguyên – Mông xâm lược tạo nên hào khí Đông – A của vương triều nhà Trần. Tất nhiên phân tích cặn kẽ ý nghĩa điệu múa này đòi hỏi một cứ liệu khoa học chắc chắn, điều chúng tôi nói ra cũng chỉ là một tham khảo bước đầu đối với điệu múa đặc biệt này. Hiện còn một số tư liệu liên quan đến điệu múa Bài Bông: Đầu tiên phải kể đến bức ảnh của đòan ca công Thanh Hóa chụp tại Huế trong dịp Tứ tuần đại Khánh của vua Khải Định, trong bức ảnh thấy rõ một đội múa Bài Bông với quần áo đặc biệt và tay cầm quạt tầu. Thứ hai là hai tấm ảnh của bác sĩ Charles-Edouard Hocquard, một vị bác sĩ quân y đã theo đoàn viễn chinh Pháp sang Việt Nam đầu thế kỷ 20, ba tấm ảnh trên được lấy tại trang web của ông về hình ảnh một đội múa Bài Bông đầu thế kỷ. Năm 1945, giới nghệ sĩ Hà Nội đã tổ chức một buổi diễn tại nhà hát lớn nhằm quyên góp ủng hộ chính phủ trong tuần lễ vàng và lấy tiền cứu đói. Trong đó những nghệ sĩ như Quách Thị Hồ, Chu Thị Năm… diễn vở Lưu Bình - Dương Lễ; cụ Quản ca giáo phường Khâm Thiên lúc bấy giờ là cụ Phó Đình Ổn thì dựng múa Bài Bông, họa sĩ dựng sân khấu bấy giờ là ông Lưu Văn Sìn. Từ đó cho đến bây giờ thì múa Bài Bông chưa được diễn lại một lần nào. Năm 1980, đoàn làm phim Hát cửa đình Lỗ Khê của Trung tâm nghe nhìn Hà Nội định dựng lại điệu múa Bài Bông, nhưng đáng tiếc do thiếu kinh phí nên không thể dựng được. Tuy vậy cũng có thu được một phần nhạc của điệu múa Bài Bông do nghệ sĩ Kim Đức dựng lại. Nghệ sĩ Kim Đức là con gái của Quản ca Phó Đình Ổn cho đến giờ là người duy nhất còn lại, giữ được điệu múa Bài Bông, bà chính là một trong những vũ công năm xưa trình diễn tại nhà hát lớn điệu múa sang trọng vào bực nhất của Ca trù này. Hiện giờ bà đang cùng một nhóm nghệ sĩ dựng lại điệu múa Bài Bông để biểu diễn tại lễ hội Yên Tử rất có thể tại lễ hội Yên Tử năm 2008 này, một điệu múa cổ có được gần 700 năm tuổi lại xuất hiện tại khu danh thắng ghi những dấu ấn văn hóa, tâm linh quan trọng nhất của triều đại nhà Trần. Trần Ngọc Linh ( việt báo theo vietnamnet )