-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
2. Từ Phúc là Thủy Hoàng Đế của người Nhật Bản? Người Nhật Bản thường chỉ nói thần tộc Thiên Hoàng vượt biển mà tới đất này nhưng lại không đề cập đến chuyện từ đâu mà tới. Vào năm 1987, tôi từng qua thăm Shinmiya bởi vì tôi rất muốn nhìn tận mắt nơi Từ Phúc lên bờ ở Nhật. Thành Shinmiya nằm ở huyện Wakayama. Tôi cũng từng gặp qua thị trưởng của thành phố Shinmiya. Điều lý thú là ông ta vốn cũng là người rất có hứng thú với nhân vật Từ Phúc. Ông ta mang tôi đến địa điểm Từ Phúc lên bờ. Đây là một bờ biển rất đẹp, có một ngôi đền thờ thần màu hồng, xung quanh rất yên tĩnh. Chúng tôi cũng tìm đến địa điểm mà theo truyền thuyết là nơi Từ Phúc đã phát hiện ra loại thuốc trường sinh bất lão. Vị thị trưởng này giải thích rằng, loại thuốc này có tác dụng bổ thận trị bệnh, người có một quả thận khỏe, tuổi thọ đương nhiên sẽ được kéo dài! Bia mộ của Từ Phúc được lập tại vùng ngoại ô của thành phố Thị trưởng còn dẫn tôi tham quan bia mộ của Từ Phúc được lập tại vùng ngoại ô của thành phố. Tấm bia này dùng Hán ngữ để ghi chép từ việc Từ Phúc làm sao tìm ra thuốc trường sinh bất lão cho đến việc vì sao ông quyết định định cư lâu dài ở Nhật. Bia mộ được lập vào năm 1834, trên bia có ghi 5 chữ “Từ Phúc chi mộ bi” do một vị thư pháp gia có tiếng thủ bút còn lời thơ trên mặt bia là do một vị Hán học người Nhật viết ra. Thị trưởng nơi đây còn cho biết, vào ngày 28 tháng 11 hàng năm, người Wakayama đều tập trung trước mộ Từ Phúc để tổ chức hoạt động kỷ niệm rất trọng thể. Vào năm 1980, lễ kỷ niệm Từ Phúc của người Wakayama đã tròn 2200 năm. Từ năm 19915 trở đi, nhân dân Wakayama thành lập Hội bảo vệ di tích Từ Phúc. Năm 1931, họ còn thành lập Hội bảo vệ di sản văn hóa Từ Phúc, tới năm 1955 cuối cùng họ đã thành lập nên Hiệp hội Từ Phúc. Người thân tín bên cạnh Từ Phúc Bên cạnh mộ của Từ Phúc còn có bảy ngôi mộ khác, tương truyền là bảy người thân tín bên cạnh Từ Phúc. Không có ai nói được rõ ràng về số phận của 3000 đồng nam, đồng nữ mà Từ Phúc mang theo đến Nhật Bản. Có rất nhiều địa phương ở Nhật Bản, đặc biệt là Kyushu cũng có những di tích về Từ Phúc. Lần đầu qua Fukutomi, tôi đã hỏi một vị quan chức cao cấp nơi đây rằng có biết về Từ Phúc hay không. Vị này cũng có một chút lúng túng, bởi vì ông ta từ trước đến nay chưa từng nghe qua cái tên này. Vì thế tôi kể cho ông ta nghe một số chuyện về Từ Phúc. Ngày thứ hai, ông ta đưa cho tôi một cuốn Trung tâm Kyushu tại Trung Quốc. Trong sách có nhiều bài nói về mối quan hệ giữa Trung Quốc, Kyushu và Từ Phúc. Tất cả người Nhật Bản đều kính trọng Từ Phúc. Trong thôn Kinryu ở Saga, Từ Phúc trở thành một vị thần về tri thức và y dược được mọi người sùng bái. Ngoài ra ông còn được mọi người xưng tụng như là thần nước và thần nông nghiệp. Những người dân trong thôn gọi Từ Phúc là “Kinryu tiên sinh”. Ở đó còn có một bức tranh tường cổ miêu tả mối quan hệ giữa Từ Phúc và Kinryu. Đây là tác phẩm của một họa sĩ sống vào thế kỷ XVII, hiện tại đã trở thành bảo vật của chùa Kinryu. Ở Kinryu, mỗi khi gặp hạn hán, người dân lại tới chùa Kinryu mang bức họa Từ Phúc trên kiệu, đi khắp chợ để cầu mưa. Khi đi phía sau của kiệu người ta dùng cỏ và lá trúc kết thành một con rồng lớn nặng 2 tấn, dài 36 mét. Toàn bộ nghi thức này được gọi là “Vũ khất hành sự” (nghi thức cầu mưa) được cử hành vào 8 tháng 8, bốn năm năm một lần. Trong nghi thức trọng thể này, những người tham gia nỗ lực đánh trống để cầu trời cho mưa xuống. Vào năm 1724, tại Chifu, gần Kinryu cũng bị hạn hán nghiêm trọng nhưng sau khi tiến hành nghi thức cầu mưa này thì mưa xuống. Vì vậy, người Nhật Bản tin rằng, khi Từ Phúc tới Chifu tìm thuốc trường sinh bất lão, ông đã giúp đỡ rất nhiều nông dân nơi đây. Thậm chí còn có thuyết nói ông đã yêu một cô gái của vùng đất Chifu này. Tôi cũng đã tham quan vùng ven biển của Shinmiya, tới nơi có bức tường thành đổ nát cao khoảng một mét rưỡi, dài khoảng chừng 32 km. Người Nhật Bản tin rằng Từ Phúc cũng tu sửa một đoạn trường thành. Nó là hình ảnh thu nhỏ của Vạn Lý Trường Thành của nước Tần Trung Quốc. Vào thời kỳ Mạc Phủ Edo (1600 - 1876), còn được tu sửa vượt qua kỷ lục của toàn thành này. Một số học giả cho rằng, Từ Phúc tu sửa đoạn thành này thực tế là để phòng chống quân của Tần Thủy Hoàng vì truy bắt ông ta mà tấn công Nhật Bản. Vào thời kỳ Edo, không có một lực lượng lao động lớn, để xây dựng một tòa thành như vậy là điều không thể tưởng tượng nổi, đây thực là một khoản chi phí lớn. Địa điểm Từ Phúc lên bờ cũng rất phù hợp với địa điểm mà nhân vật Thần Vũ Thiên Hoàng lên bờ. Một học giả Đài Loan tên là Vệ Đỉnh Sinh vào năm 1970 đã viết một cuốn sách tên gọi là Từ Phúc và Nhật Bản, nói rằng vị hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản không phải ai khác chính là Từ Phúc. Ông dựa vào sự trùng hợp rất kỳ lạ về thời gian mà Thiên hoàng và Từ Phúc lên bờ mà đưa ra kết luận khá mới mẻ này. Trong sách còn đề cập đến việc từ sinh hoạt trong những mộ huyệt quan trọng của hoàng tộc Nhật Bản vào thời đại Thiên Chiếu Đại Thần, người ta phát hiện ra một chiếc gương đồng thời Tần và một chiến đao mà người nước Tần thường dùng. Nếu như không phải là Từ Phúc tới đây, thì Nhật Bản làm sao có được những di vật thời cổ đại này? 2000 năm trước khi Từ Phúc tới Nhật Bản, Nhật Bản còn đang trong thời kỳ đồ đá, làm sao có thể chế tạo những thứ như vậy? Cuốn sách này còn nói tiếp, sự thực đã chứng minh Từ Phúc chính là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản. Tác giả còn lo lắng rằng nếu như người Nhật Bản cứ tiếp tục tin chắc vào thần thoại rằng họ là hậu duệ của thần mà không tiếp nhận các luận điểm khoa học thì lịch sử rất có thể sẽ bị lặp lại, bởi nguyên nhân gây ra chiến tranh là vì người Nhật Bản tin rằng mình là chủng tộc ưu tú nhất. Lịch sử của Nhật Bản chìm ngập trong những thần thoại. Đại đa số người Nhật đến nay vẫn tin họ là hậu duệ của những vị thần, như trong hai bộ biên niên sử sớm nhất của Nhật Bản là Cổ sự ký (Truyền thuyết cổ đại) và Nhật Bản thư ký (Nhật Bản biên niên sử) có ghi chép. Căn cứ vào những cuốn sử này, Thần Vũ Thiên Hoàng, hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản lên ngôi vào năm 660 trước CN. Nhưng cho tới đầu thế kỷ thứ VIII, Nhật Bản vẫn chưa có một bộ sử biên niên ghi chép lịch sử nào hoàn toàn đáng tin cậy. Và điều không thể tranh cãi nữa là cả hai bộ sử này đều dùng Hán ngữ cổ đại để viết thành. (Còn nữa) Hy Văn (Vietimes) dịch từ QQ.com
-
Đôi tình nhân nọ yêu nhau say đắm và quyết định tiến đến hôn nhân. Tuy nhiên, trước ngày trọng đại ấy, mỗi người đều giấu trong lòng một bí mật mà họ chưa bao giờ tiết lộ cho ai, kể cả bạn đời của mình. Một hôm, anh chàng đến tâm sự với bố: - Bố ơi, con thực sự lo lắng về sự thành công của cuộc hôn nhân này. - Tại sao? Con có yêu cô ấy không? - Có ạ, rất nhiều! Nhưng vấn đề là chân con bốc mùi rất kinh khủng. Con chỉ e là cô ấy sẽ không chịu đựng được mất thôi! - Không sao đâu con. Thế thì con hãy rửa chân nhiều lần trong ngày và nhớ thường xuyên mang tất, kể cả khi đi ngủ. Trong khi đó, nàng cũng chạy đến thủ thỉ với mẹ: - Mẹ ơi, ngày cưới sắp đến rồi nhưng con khổ tâm lắm! - Sao thế con? Con mong chờ đám cưới này chứ? - Tất nhiên rồi mẹ ạ! Vấn đề là ở chỗ buổi sáng tỉnh dậy, hơi thở con cực kỳ khủng khiếp. Con e sợ anh ấy sẽ không chịu đựng được mất mẹ à! - Không sao đâu con. Vậy thì sáng sáng tỉnh dậy con đừng nói một lời nào cả, chỉ im lặng chuẩn bị bữa điểm tâm rồi trong khi chồng con ngồi vào bàn, con hãy đi đánh răng thật kỹ. Đám cưới diễn ra thật hoành tráng, và những ngày đầu của cuộc sống vợ chồng cũng diễn ra vô cùng suôn sẻ. Cho đến một hôm, người chồng tỉnh dậy trước, và chàng hoảng hốt khi thấy một chiếc tất của mình đã biến mất. Chàng cuống quýt đi tìm. Điều này khiến vợ chàng rất tò mò và bất giác nàng hỏi: - Anh yêu đang làm gì đấy? Chàng lập tức quay lại: - Trời đất! Em đã nuốt chiếc tất của anh mất rồi!
-
Con dấu của Trung Tâm Lý Học Đông Phương ? Chứ con dấu của Thiên sứ là DẤU gì ạ ??? :rolleyes: :rolleyes: !!!!!!!!
-
Những bài thuốc từ vừng Ảnh: Lê HânHạt vừng (còn gọi là mè) có 2 loại: vừng vàng và vừng đen, có tên khoa học là Sésamum indicum D.C. Theo Đông y, vừng có tác dụng ích gan (tăng cường chức năng gan), bổ thận, dưỡng huyết, nâng cao thể lực, nuôi dưỡng não tủy, bền gân cốt, minh mục (làm sáng mắt), kéo dài tuổi thọ, tăng tiết sữa, làm vết thương mau lành, chống táo kết, trị bỏng, chống loãng xương, đặc biệt là làm quên cảm giác đói, rất có lợi đối với người thừa cân (để điều trị béo phì). Một số bài thuốc đơn giản từ hạt vừng: - Làm thuốc bổ dưỡng: dùng dầu vừng từ 10 - 25 ml/ngày, dùng liên tục khoảng 30 - 40 ngày; hoặc dùng viên vừng (thường dùng loại vừng đen): sao chín, giã nhỏ, dùng nước cơm nhào đều, viên thành từng viên nhỏ (bằng hạt đậu xanh), sấy khô, ngày dùng từ 15 - 30 gr (hoặc tán thành bột và cũng dùng như trên). - Lợi sữa: Phụ nữ sau sinh nếu ít sữa dùng vừng (vừng vàng hay đen đều được) sao cho chín, hoặc giã nát (thêm ít muối để dễ ăn), hoặc để nguyên cả hạt, mỗi ngày ăn khoảng 50 gr (nếu để nguyên hạt cần nhai thật nhuyễn). - Bị bỏng hoặc vết thương lâu lành: bôi dầu vừng lên vết thương (sau khi đã làm sạch vết thương), sau 5 - 7 ngày vết thương sẽ lên da non và mau lành, có thể tránh được sẹo lồi. - Trị cao huyết áp, bán thân bất toại (di chứng của tai biến mạch máu não), xơ vữa mạch máu...: Vừng đen đã sao chín, dùng cùng với hà thủ ô, ngưu tất, liều lượng bằng nhau, số lượng không hạn chế, tán mịn, dùng nước cơm trộn đều viên thành từng viên nhỏ, ngày dùng 30 - 40 gr (chia làm 3 lần: sáng, trưa, chiều), chiêu với nước ấm. Trị táo bón: dầu vừng 40 - 60 ml/ngày (uống 1 lần) hoặc ăn vừng 50 gr/ngày. Phong trào ăn gạo lứt muối mè lâu nay cũng xuất phát từ những tác dụng của gạo lứt và vừng như đã trình bày, riêng về tác dụng của gạo lứt, chúng tôi sẽ đề cập trong một dịp khác. Bảo Trân nguồn thanhnienonline
-
Tôn giáo nào cũng có một số luật định đặt ra nhằm vào sự khổ hạnh , qua đó tự thân người được chọn sẽ đi vào khổ hạnh tự tại thong dong , không ràng buộc vào sự hưởng thụ đời thường lại dễ dàng gần với đường đạo . Cũng như chay tịnh phần nào loại bỏ sân si mà nguyên nhân từ nguồn thức ăn gồm động vật .
-
Việt Nam có văn minh và văn tự cổ hay không ? Trước kia, dựa vào sách sử của Trung quốc, các sử gia đều chép rằng thời "tiền đô hộ", nước ta ở trong tình trạng bán khai. Hậu Hán Thư viết :"Dân Giao-chỉ không biết đạo cha con (cha con cùng tắm một sông), không biết đạo vợ chồng (trai gái tự do kết hôn), không biết lễ giáo (của Trung quốc)". Hán Vũ Ðế thấy thế mới sai các quan Thái thú sang cai trị phải dậy cho dân ta biết lễ nghĩa, nước ta bắt đầu có văn minh từ đấy [1].. Ngô Thì Sĩ cũng viết rằng Tích Quang dậy ta lễ nghĩa, Nhâm Diên dậy luân lý, làm cho nước ta thành một nước văn hiến [2]. Mặt khác, Việt Sử Lược chép về nước Văn-lang thời Hùng Vương có "phong tục thuần lương, chính sự dùng lối thắt gút" [3]. Trong Hậu Hán Thư, "Mã Viện truyện", thì Mã Viện đã tâu với vua nhà Hán rằng "Luật nước An-Nam khác luật Trung quốc hơn mười điều", có thể có nghĩa là khác rất nhiều, không nhất thiết chỉ khác "hơn mười điều" [4]. Như vậy là nước ta trước kia đã có phong tục, luật pháp riêng biệt, tuy có thể là luật chưa ghi chép thành văn. Ngày nay, bằng vào những hiện vật được khai quật như trống đồng, lưỡi cầy, đồ nữ trang v.v. thì rõ ràng ở địa bàn nước Văn-lang xưa đã có một nền văn minh không chịu ảnh hưởng của Trung quốc, gọi là Văn minh sông Hồng, chia làm 4 giai đoạn bắt đầu từ thời đồ đá (văn minh Phùng-nguyên) đến thời đồng thau (văn minh Ðông-sơn), rực rỡ nhất vào cuối thời các vua Hùng (thế kỷ thứ IX tr. TL) với cao điểm là mỹ thuật trống đồng, nhiều và đẹp nhất ở trung tâm vùng sông Hồng. Tuy Trung quốc (Vân-nam, Quảng-tây) cũng tìm thấy loại trống Ðông-sơn nhưng căn cứ vào mật độ tập trung thì ở Bắc Việt có nhiều hơn. Kỹ thuật phát xuất sớm nhất từ Thanh-hóa, sau mới lan ra các nước chung quanh như Trung quốc, Lào, Căm-bốt, Thái-lan, Mã-lai v.v. [5]. VĂN TỰ CỔ</H3>Kỹ thuật luyện kim và những hình khắc trên trống đồng minh chứng một trình độ văn minh khá tiến bộ nhưng vấn đề chữ Việt cổ có hay không thì vẫn còn trong vòng phỏng đoán. Theo Việt Sử Lược thì thời xưa ông cha ta ghi nhớ bằng lối văn tự thắt gút, tức là chưa có văn tự. Nhưng theo một số "chứng tích" khác thì có thể ta đã có chữ viết, dẫu chỉ là thời kỳ mới tìm cách ghi âm. Tiền Hán Thư chép :"Ðời Ðào Ðường có họ Việt Thường ở phương Nam cử sứ bộ đến triều kiến thiên tử Trung quốc, biếu con rùa có lẽ sống tới nghìn năm, trên lưng có khắc chữ như con nòng nọc, ghi việc Trời Ðất mở mang, vua Nghiêu sai chép gọi là Quy Dịch ". Tạp chí Khảo Cổ Học năm 1974 cũng viết :"Trên trống đồng Lũng-củ (Ðồng-văn, Hà-Tuyên) có một số hoa văn có thể là dấu tích của chữ viết" [6]. Năm 1903, Vương Duy Trinh, tổng đốc Thanh-hóa, ghi chép những bài ca dao ở Thanh-hóa trong Thanh-Hóa Quan Phong, đã tìm ra một hệ thống chữ cái và một bài ca viết bằng thứ chữ ấy ở huyện Quan-phong, thuộc Thanh-hóa, nơi nhiều người Mường, người Thái cư ngụ. Có lẽ đây là dấu tích chữ Việt cổ, thông dụng thời Hai Bà Trưng rồi bị chính sách đồng hóa của Trung quốc hủy diệt ? Tuy nhiên, thứ chữ ấy vẫn tồn tại ở vùng cao nguyên vì khi Hai Bà bị thua quân Hán, một số người Việt có tinh thần bất khuất chính sách thống trị của nhà Hán đã ẩn lánh ở miền thượng du, nay là nơi cư ngụ của người Mường, người Thái. Những người này có thể là hậu duệ của tổ tiên ta, đặc biệt là người Mường có một số phong tục giống người Việt cổ : giã gạo như đâm xuống, giống hình khắc trên trống đồng ; chuyện "Chim Ây cái Ưá" [7] của họ tựa như sự tích bà Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng, nở ra một trăm người con của ta ; họ lại có một số từ ngữ giống những từ ngữ cổ của ta như "blời" (trời), "Bua" (vua) vv. cho nên chữ viết của họ rất có thể là chữ Việt cổ. Trích Khoa Cử Việt Nam của Nguyễn Thị Chân Quỳnh nguồn dongtac.net
-
TO : Lạc Tướng ơi ! hiểu sai ý Wild rồi ! Wild hỏng có muốn cưa sừng làm nghé đâu ! Wild thích đúng với thời gian mà mình đi qua để... Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc mộng , được mất bại thành cũng hóa hư không ! TOUT VA BIEN POUR TOI ! Chúc mừng Lạc Tướng tuổi thấp tài cao Đã phong danh hiệu QUYNH đây cũng mừng QUYNH đây cũng muốn trẻ lâu Chẳng ngăn đươc tạo hóa nhưng giữ lòng lạc quan Chẳng màng đố kỵ ghét ghen Chẳng mong danh lợi đua chen Chỉ mong Sư Phụ bảo ban từng ngày Cận người tài giỏi sáng trong QUYNH đây sớm ngộ thứ tha rộng lòng Sư Cô , Sư Phụ tang bồng Hiểu nhau đến tận khúc quanh giữa dòng . Trong thời gian giải lao chờ chung kết ơ rô , bật lên vài ý thơ đáp lễ Lạc Tướng .ACE đừng khen mình duyên quá nhé !
-
Bài này của 67890000 hay ý nhị ? Thấm nhuần chân lý , mà khổ lắm NGỘ được mà HÀNH được còn là bước dài của chân TÂM ĐẠO nữa .
-
Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử? Với tư cách một người đang nghiên cứu về thời kỳ tiền sử và tiền sử muộn của Việt Nam và Đông Nam Á, tôi cũng đã quan tâm khảo cứu về những thời kỳ lịch sử nước nhà có liên quan đến một số nhận xét của thiền sư Lê Mạnh Thát từ cách đây trên 45 năm, mà nhà báo Hoàng Hải Vân vừa khơi lại. Lạc Việt, Tây Âu và nước Nam Việt “Việt” được ghi trong các văn tự nước ngoài là “Yue” bắt đầu được nhắc đến nhiều trong thư tịch Trung Quốc vào khoảng thời Xuân Thu, khi mà quá trình vận động kết tinh của các xã hội thời kỳ hậu bộ lạc của người Hoa Hạ sống ở vùng trung, hạ lưu sông Hoàng Hà đã tương đối ổn định, một khối Hoa Hạ tương đối chặt chẽ về văn hóa, chữ viết, chính trị đã hình thành với mô hình Nhà Chu (thiên tử) và các tiểu quốc chư hầu thần thuộc. Từ đó các xã hội ngoài thế giới Hoa Hạ được tăng cường ghi chép mô tả trong xu hướng mở rộng bang giao với các nước láng giềng. Mối bang giao với Việt Nam hiện có bằng chứng chính thức từ khoảng 3500 năm cách ngày nay với việc khai quật được những chiếc “nha chương” – hiện vật bằng đá, biểu tượng quyền uy thời Thương Chu bên Trung Quốc, tại Xóm Rền, Phùng Nguyên (Phú Thọ). Khi đó, cả một khối cư dân lớn, gồm nhiều tộc người khác nhau, sống ở phía Nam khu vực phân bố những người tộc Hoa Hạ được ghi chép chung chung là Yue mà chúng ta hay dịch là Việt. Tôi xin kể ra đây một câu chuyện nhằm để phân biệt quan niệm khác nhau của Yuê và Việt về thuật từ khoa học. Năm 2002, trong một hội thảo ở Malaysia nhan đề “Văn hóa Đông Sơn và Truyền thống Đông Sơn”, đến phiên tôi tham gia chủ tịch đoàn, diễn ra tranh luận giữa Gs Surin Pokajorn của một trường ĐH Thái Lan với Gs Diệp Đình Hoa, đại biểu Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á Việt Nam. Gs Pokajorn không thống nhất quan điểm dùng chữ “Việt” cho chủ nhân văn hóa Đông Sơn của Gs Diệp. Nhưng khi tôi đưa ra thuật từ Yuê thì mọi người lại nhất trí ngay. Trong quan niệm của vị giáo sư người Thái kia, cũng giống nhiều nhà nghiên cứu khác, trong thuật ngữ Yuê bao hàm cả tổ tiên các nhóm tộc Nam Trung Quốc khác nữa, như Dai (Tày, Thái, Choang, Đồng...), Hmông, Dao và các nhóm Việt khác, mà người Việt hiện nay chỉ là một trong số đó. Vì thế, sau này mới có Bách Việt. Bách không phải là con số tròn 100, mà là một quan niệm chỉ số nhiều, tương tự “Vườn Bách Thảo, vườn Bách Thú” vậy. Và vào thời đại trống đồng Đông Sơn, tổ tiên người Thái Lan hiện nay cũng dùng trống. Việt hiện nay trở thành thuật từ ám chỉ những cộng đồng người hiện đại : Thái (chủ yếu ở Thái Lan), Choang (chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây - Trung Quốc), Việt (chủ yếu ở Việt Nam)... Vào cuối thời Xuân Thu, tại khu vực ngoài Hoa Hạ xuất hiện ba tiểu quốc khác Hoa Hạ là Sở, Ngô và Việt, ở trung và hạ lưu sông Trường Giang hiện nay. Sử sách từ đó bắt đầu xuất hiện những loại từ để phân biệt các nhóm Việt khác với những người Yuê đã lập quốc, ví dụ Đông Âu, Mân Việt ở phía Nam nước Việt (Câu Tiễn), vùng Phúc Kiến hiện nay, Âu Việt chỉ những nhóm Yuê ở quanh vùng Ngũ Lĩnh nói chung (thậm chí cả đảo Hải Nam), Lạc Việt chỉ khối Yuê sống ở Nam, Đông Nam Ngũ Lĩnh, bao gồm Lưỡng Quảng, bắc Việt Nam (Ngũ Lĩnh là dải núi cao hiểm trở ngăn giữa vùng Hồ Nam, Tứ Xuyên với vùng Lưỡng Quảng, có ý nghĩa quan trọng làm thành ranh giới tự nhiên của các tộc người và quốc gia cổ đại Nam Trung Quốc). Tùy vào từng tác giả ở từng địa vực khác nhau mà những khái niệm chỉ tên phụ loài tộc Yuê cũng khác nhau. Ví dụ từ Yang Yue (Dương Việt) hàm chỉ một khối Việt chung rất lớn gồm từ hồ Động Đình tới Ngũ Lĩnh. Sự thâm nhập trực tiếp của người Hoa Hạ vào khu vực Lạc Việt diễn ra rõ rệt nhất vào thời Tần (Thủy Hoàng), cuối thế kỷ III trước Công nguyên. Tuy nhiên cố gắng lớn nhất của Tần Thủy Hoàng chỉ là lập được một tuyến quận huyện Tần từ Trường Sa đến Nam Hải, tức là chinh phục được các nhóm Yuê ở Bắc (một phần Âu Việt) và Nam Ngũ Lĩnh (một phần Lạc Việt) (Hồ Nam, Quế Lâm, Quảng Đông, Quảng Tây), lập thành quận Nam Hải. Các nhóm Yuê ở phía Đông (Đông Âu, Mân Việt) và phía Tây, Tây Nam Ngũ Lĩnh (Tây Âu), chính là chủ nhân của văn hóa lúa nước và trống đồng Văn Sơn (Vân Nam), Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng nước ta, cũng như toàn bộ phần Lạc Việt còn lại ở trung du, đồng bằng miền Bắc Việt Nam vẫn ngoài chế độ quận, huyện của nhà Tần. Trong quá trình nhà Tần suy yếu, Hán Sở tranh hùng, Nhâm Ngao (là chủ soái của Triệu Đà) cùng Triệu Đà âm mưu cát cứ để lập một quốc gia riêng của người Yuê ở vùng Nam Hải. Khi Lưu Bang, Hạng Vũ diệt Tần thì Ngao, Đà trở thành tướng lưu vong. Họ đã cùng người Yuê ở Nam Hải lập một quốc gia Yuê riêng, chứ không phải lập một nhà nước Hoa Hạ. Sử liệu thời này đều phản ánh nhiều quốc luật Nam Việt không giống luật Tây Hán. Một phần vì nhóm tướng lĩnh Tần người Hoa Hạ chỉ mới đến đây được chừng mười năm, phần khác họ có ý thức đối lập với Tây Hán, triều đại đã tiêu diệt nhà Tần của họ. Khi khảo sát về các đơn vị đo lường (dung lượng, trọng lượng) thống kê trên các đồ đồng đào được trong các mộ táng thời Nam Việt chúng tôi nhận thấy sự khác biệt khá rõ về dung lượng Nam Việt với đơn vị chính thống Tây Hán. Như vậy, nếu đọc Sử ký của Tư Mã Thiên, chúng ta bắt gặp rất nhiều yếu tố phi Hán, chống Hán của nhiều thành phần thủ lĩnh nước Nam Việt chứ không chỉ riêng Triệu Đà. Bản thân Triệu Đà là người Hoa Hạ (chứ không phải người Hán. Thuật từ “người Hán” đại diện cho giống Hoa Hạ chỉ có giá trị sau khi triều đại người Hoa Hạ của Lưu Bang tồn tại kéo dài khoảng 400 năm) – một dạng người Hoa Hạ mất nước, lưu vong sống chung và sống nhờ vào người Yuê. Ông đã cùng bộ máy quân sự và hành chính quận huyện mất nước đó để cùng các thủ lĩnh người Yuê trong vùng lập ra một quốc gia hơi có màu sắc Hoa Hạ (kiểu Tần) cho người Yuê. Về mặt khảo cổ học, tôi có thể chỉ ra một tỷ lệ rất cao những hiện vật phát hiện trong mộ táng Nam Việt giống các hiện vật trong mộ táng Đông Sơn đào được ở Việt Nam. Ngay trong mộ Triệu Hồ và các phu nhân chôn ở Quảng Châu và mộ một viên quan cao cấp của nước Nam Việt ở La Bạc Loan, huyện Quý (Quảng Tây) cũng mang theo trống đồng, thạp đồng bảo vật của người Yuê. Khảo sát kiểu chữ khắc trên gần một trăm hiện vật đồng khai quật thời Nam Việt, chúng tôi nhận ra một hệ thống chữ Hán khắc kiểu Nam Việt song song tồn tại với kiểu khắc chữ Hán truyền thống. Đa phần chữ Hán khắc kiểu Nam Việt xuất hiện trên các loại hình đồ đồng bản địa. Chữ Hán khắc trên trống Cổ Loa và thạp đồng Đông Sơn trong mộ Triệu Hồ và trên thạp lưu ở Bảo tàng Barbier – Muller (Geneve, Thụy Sĩ) đều thuộc kiểu khắc Nam Việt. Các chuyên gia cổ nhân học của Trường Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) khi nghiên cứu về chủ nhân các mộ táng vùng nước Nam Việt cũ đã nhận ra ưu thế vượt trội của “gen” người Yuê bản địa. Chính Triệu Đà đã lấy vợ người Việt (quê Đồng Xâm, Thái Bình, nay còn đền thờ bà và Nam Việt Vương họ Triệu đó). Điều này giống tình trạng của những người Minh lưu vong do Trương Ngạn Địch, Trần Thường Xuyên đã sang nước ta cùng chúa Nguyễn xây dựng Tổ quốc mới. Đó là lý do tại sao nhiều sử gia Việt Nam sau này đã coi nhà Triệu là một giai đoạn trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đó cũng là nguyên nhân các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu về nước Nam Việt, văn hóa Nam Việt lại đặc biệt quan tâm đến Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng, với những bằng chứng trên, tôi không muốn diễn đạt rằng Việt Nam là một phần của nước Nam Việt, mà trái lại đủ bằng chứng để xác nhận mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa Nam Việt với văn hóa Đông Sơn, một quan hệ văn hóa hòa nhập, không đối kháng. Âu Lạc, Nam Việt, Thành Cổ Loa và An Dương Vương Sử Ký là cuốn sử có độ tin cậy vào loại cao nhất đương thời, trong đó, những thông tin về Triệu Đà, nước Nam Việt được ghi chép nhiều nhất. Tuy nhiên, có hai điểm lưu ý: Thứ nhất, Tư Mã Thiên đi nhiều nhưng chưa từng đặt chân đến Nam Hải. Thứ hai, khoảng thời gian từ thời Triệu Đà đến khi ông hoàn thành cuốn sách cũng xa gần bằng khoảng cách giữa chúng ta với Hoàng Hoa Thám. Điều đó có nghĩa rằng “sử sách” dù thế nào cũng chỉ là tư liệu lịch sử. Thiền sư Lê Mạnh Thát cũng như chúng tôi đều đánh giá rất cao cuốn sử này. Tư Mã Thiên đã nhiều lần nhắc gián tiếp đến Tây Âu, Tây Âu Lạc trong mối quan hệ đến Triệu Đà và nước Nam Việt. Tôi cũng đã dựa vào Tư Mã Thiên để xác định Tây Âu (Vu) như đã viết ở phần trước. Đọc bức thư của Triệu Đà gửi vua Hán, giải thích việc xung đột với Tây Âu ta thấy có một sự việc rõ ràng là có xung đột nhằm thâu tóm Tây Âu và Nam Việt. Dưới sức ép của nhà Tây Hán, thì nước Nam Việt, Tây Âu, Đông Âu, Mân Việt đều là những vùng đất mà nhà Tây Hán chưa đặt được ách thống trị trực tiếp. Vì vậy chúng tôi xem xét quan hệ Nam Việt (thủ lĩnh Triệu Đà) và Tây Âu (thủ lĩnh Thục Phán) là quan hệ giữa các tiểu quốc người Yuê với nhau, chứ không phải là đụng độ trực tiếp của nhà nước Hoa Hạ (Hán) với nhà nước sơ khai Yuê. Trước sức ép của Nam Việt, thủ lĩnh Tây Âu đã sáp nhập với thủ lĩnh Lạc Việt còn lại ở trung du, đồng bằng sông Hồng. Cuộc sáp nhập này chỉ được lưu ảnh trong truyền thuyết. Chứng cứ văn hóa khảo cổ không phát hiện những biến động văn hóa lớn nào tương tự biến động sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng do Mã Viện và nhà Đông Hán mang lại. Tuy nhiên, hiện tượng mộ táng thân cây khoét rỗng với bộ tùy táng Đông Sơn phảng phất nét văn hóa Yuê kiểu Tứ Xuyên, Vân Nam, Nam Việt xuất hiện khá ồ ạt ở đồng bằng thấp sông Hồng trong khoảng thời gian từ thế kỷ IV đến thế kỷ I trước Công nguyên (đồ sơn then, một số đồ đựng đồng...) gợi ý cho sự gia tăng quan hệ nội bộ người Yuê ở sông Hồng với các văn hóa Yuê ở Nam Trung Quốc. Chúng tôi đang có một giả thuyết công tác: Đó là dấu hiệu vật chất của sự liên minh Tây Âu - Lạc Việt (phần còn lại của Lạc Việt chưa bị Hoa Hạ tác động trực tiếp – có thể chính là nước Văn Lang trong thư tịch Việt sau này) để lập ra nhà nước Âu Lạc mà thủ lĩnh Tây Âu nắm quyền thủ lĩnh: An Dương Vương. Tôi tán thành quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khi xác nhận truyền thuyết Tày cổ vùng Cao Bằng gắn với Thục Phán An Dương Vương và tiểu quốc Tây Âu. Nhiều nhà ngôn ngữ cũng tìm thấy sự tương đồng giữa Tây Âu và Tây Vu. Sử sách cũng chép thủ lĩnh Tây Vu là con cháu Thục Phán An Dương Vương. Mối quan hệ của họ Thục với “Tục Pắn” hay với văn hóa Ba Thục Tứ Xuyên đã có vài tia sáng thông qua sự xuất hiện nhiều vũ khí và đồ đựng đồng kiểu “Dạ Lang” trong bộ đồ Đông Sơn thế kỷ I-III trước Công nguyên. Chữ Tây Vu còn tìm được trên đồ gốm tùy táng ở Quảng Châu thời Tây Hán và trên trống đồng Đông Sơn đào được ở Cổ Loa bên trong chứa nhiều vũ khí hình tim kiểu lưỡi cày (cũng thường thấy ở Vân Nam, Trung Quốc). Tương tự, khảo cổ học chưa tìm thấy bằng chứng trực tiếp của cuộc đụng độ quân sự Nam Việt - Âu Lạc, nhưng sự gia tăng vũ khí đồng thường dùng (rìu, giáo, dao găm), những cảnh mô tả chiến binh, tù binh, đầu lâu người... từ thế kỷ IV đến thế kỷ I trước Công nguyên trong văn hóa Đông Sơn phản ánh rõ sự gia tăng khả năng đụng độ quân sự đương thời. Việc phát hiện kho hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh (tên chuyên dùng cho nỏ) và nhất là gần đây, khuôn đúc những mũi tên đó cùng lò nấu đồng được phát hiện trong tầng văn hóa thuộc thế kỷ II-III trước Công nguyên ngay trong phạm vi đền thờ An Dương Vương ở thành nội của Cổ Loa mà ít tìm được ở các địa điểm khảo cổ khác, đã làm tăng thêm dữ kiện kết nối truyền thuyết và lịch sử về nước Âu Lạc và An Dương Vương. Mọi việc cũng chưa có thể khẳng định ngay được, nhưng để loại trừ An Dương Vương khỏi lịch sử chỉ bằng những chứng cứ thư tịch mà thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra thì thật vội vàng quá. Tuy nhiên, khảo cổ học còn những hạn chế của nó, chúng ta thực sự chưa tách bạch được những dấu vết văn hóa của khoảng mấy chục năm từ sau khi nước Âu Lạc thất thủ đến khi Nam Việt mất vào tay nhà Tây Hán. Sự hiện diện của Triệu Đà và nước Nam Việt chỉ đọng lại trong hai ngôi đền thờ ở Văn Giang (Hưng Yên), Đồng Xâm (Thái Bình) và những di vật giống nhau “y hệt” tìm được cả trong mộ Nam Việt ở Lưỡng Quảng lẫn trong mộ Đông Sơn ở đồng bằng sông Hồng. Những bằng chứng khảo cổ học thời Tây Hán thì đã thấy khá nhiều, từ Quảng Nam, Thanh Hóa và rất nhiều ở miền bắc nước ta (gương đồng, đồ đựng rượu và thức ăn, đồ lễ khí, giáo, dao, kiếm đồng, sắt, “can” sắt...). Nhưng ngay tại Cổ Loa, liệu đâu là của những thời thái thú như Nhâm Diên, Tích Quang thì còn là một bài toán khó cho nền khảo cổ học Việt Nam non trẻ. Nhưng trong tình hình hiện nay, con đường tiếp cận khảo cổ học rõ ràng là công cụ để tiến sát đến sự thực lịch sử đáng tin cậy hơn cả. Những tiến bộ trong việc nghiên cứu nhân học hiện đại mở ra triển vọng lần tìm trong các khu mộ táng đương thời những bằng chứng xác nhận chi tiết hơn các vi nhóm loại hình chủng tộc, góp phần giải mã các hiện tượng lịch sử. Thời Hùng Vương: Vấn đề chữ viết Dù yêu nước thế nào chăng nữa, chúng ta cũng cần rất dè dặt khi nói về thời Hùng Vương. Không phải chỉ nước ta, ngay cả Trung Quốc, nơi chữ viết và sử sách ra đời rất sớm, thời nhà Hạ vẫn là một thời chưa thể rõ ràng và càng không thể viết dễ dàng mô tả về nó. Đó là những thời mà chỉ có tư liệu khảo cổ học mới có thể dần làm sáng tỏ. Những phát hiện gần đây nhất về bộ nha chương và bộ đồ gốm lễ nghi ở Xóm Rền (Phú Thọ) đã thu hút được nhiều sự tán đồng của các nhà nghiên cứu, rằng đây có những yếu tố là nơi ở của thủ lĩnh. Bởi vì nha chương thường được sản xuất ở Trung Quốc dưới thời Thương Chu và dùng nó như một lễ vật biểu trưng cho quyền lực “thiên tử” giao cho sứ giả mang đi thần phục đất chư hầu. Người ta đã thấy nó rải rác trên một vùng rất rộng lớn, từ Tây Vực sang Triều Tiên, Nhật Bản xuống tận Việt Nam. Những nha chương đẹp nhất ở Xóm Rền là thuộc loại đó. Niên đại những nha chương này, như đã nói ở phần trên, ở vào khoảng 3500 năm. Bằng chứng này, chỉ giúp chúng ta liên tưởng với sự việc mà sách Việt sử lược (đời Trần) có chép đến sự kiện ra đời nước Văn Lang của các vua Hùng: Đời Chu Trang Vương ở bộ Gia Ninh có người giỏi làm yêu thuật áp phục được các bộ khác, lên làm thủ lĩnh lập nước Văn Lang đóng đô ở Phong Châu... Khả năng lần tìm cái lõi của truyền thuyết Hùng Vương bắt đầu hé mở từ những vật chứng thật trong lòng đất Xóm Rền đó. Chúng ta đã khai quật hàng trăm di tích cùng thời và sau đó kéo đến tận khi nước Âu Lạc ra đời. Địa điểm của thủ lĩnh nhà nước Văn Lang huyền thoại đầu tiên có thể là Xóm Rền, nhưng sau đó, từ 3500 năm về sau, thủ lĩnh Văn Lang đi đâu, chúng ta cần tìm kiếm tiếp. Phải chăng là Đồng Đậu (Minh Tân, Vĩnh Phúc) rồi sau đó quay về Làng Cả (Việt Trì). Hiện tại, tất cả đều còn là giả thiết khoa học. Nhưng sự tồn tại thật của chất lửa trong văn hóa Phùng Nguyên đã biến thành màn khói trong huyền thoại vua Hùng (không có lửa sao có khói) là điều chúng ta đã chứng thực từ 50 năm nay. Tuy nhiên vội vã để vẽ cho thời đại này một bộ “Việt Luật” và hệ thống chữ viết để ghi luật và thơ ca (“Việt Ca”) như thầy LMT thì cũng có thể thông cảm, vì cũng vào những năm thầy LMT viết “Lục độ tập kinh và ...” (1972) thì số nhà nghiên cứu viết những điều tương tự cũng nhiều lắm. Chỉ có điều, sự tiến bộ của khoa học đã dần làm mai một những kết luận thiếu căn cứ đó. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn không ngừng tìm kiếm những bằng chứng có hay không về chữ viết thời xa xưa, nhưng không phải với một mệnh đề có sẵn: Thời Hùng Vương đã có “vua” (vương) ắt phải có nhà nước và bộ máy quan lại “lạc hầu, lạc tướng”... vậy phải có chữ viết. Xin nhấn mạnh ở đây rằng, cho đến tận ngày hôm nay, các nhà nghiên cứu vẫn còn vật lộn một cách nghiêm túc và có trách nhiệm với câu hỏi: Cuộc sống được thể hiện qua các làng xóm, mộ táng, vũ khí, đồ trang sức... như chúng ta đang có từ Phùng Nguyên đến đỉnh cao Đông Sơn thực chất là trạng thái cấu trúc xã hội như thế nào. Câu trả lời chắc chắn và dễ chấp nhận nhất, đó là một chế độ xã hội thủ lĩnh tiền nhà nước, mà trong văn đàn khoa học thế giới hiện nay thường dùng từ pre-state chiefdom. Công trình nghiên cứu mới nhất của chúng tôi dựa trên thu thập các chữ viết giữ lại trên các hiện vật đồng, đá, gốm trong thời Đông Sơn cho phép tạm kết luận, đến khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, chữ Hán bắt đầu ảnh hưởng đến Việt Nam thông qua những minh văn sớm nhất hiện biết trên đồ đồng Đông Sơn. Những loại hình văn tự khác hiện chưa có bằng chứng chắc chắn. Chúng tôi hiện giữ một đoạn thừng chập đôi có 4 nút buộc phát hiện trong ngôi mộ Châu Can 2000-M1, nhưng cũng chưa dám kết luận đó là “văn tự kết nút” hay chỉ là những đoạn dây buộc các túm tua trang trí trên quần áo. Mặc dầu vậy, chúng ta đều hết sức nâng niu, trân trọng mọi phát hiện, từ mọi nguồn thông tin để dần làm sáng tỏ các khoảng trống của lịch sử. TS Nguyễn Việt Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á Xem thêm Nguyễn Việt: Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn động" và Thành Cổ Loa Để có thêm tư liệu tham khảo, độc giả có thể xem thêm các nghiên cứu sau đây: Minh văn chữ Hán sớm nhất (Minh văn trên trống đồng Đông Sơn) của tác giả Nguyễn Việt trên Tạp chí Khảo cổ học tháng 5-2007; Địa điểm xóm Rền (Phú Thọ) của tác giả Hán Văn Khẩn trên Tạp chí Khảo cổ học tháng 3-2007 và một số nghiên cứu của Hà Văn Tấn (năm 1987), Diệp Đình Hoa (2005) và Nguyễn Việt (2006). nguồn dongtac.net
-
Đọc phần giải thưởng của Thiên Sứ thấy XÈM quá ! Muốn bấm 1 quẻ luận đoán 1 trận để ẳm giải mà xem kỹ phần thời hạn trao và nhận giải từ 6 đến 9 tháng ....... Chắc Thiên Sứ muốn tặng ACE vào thời gian này để kịp ngâm kíu Word Cup 2010 ?????? :rolleyes: hi hi hi ....Bác THIÊN SỨ này đúng là lắm CHIÊU nhiều TÀI wá ???????? :rolleyes:
-
Đây là đường link : http://dongtac.net/spip.php?article1862
-
Lại chuyện mũ bảo hiểm ! Trong dòng xe cộ đang lưu thông trên đường . Bỗng tuýt.........1 hồi còi dài kèm 1 cây gậy có 2 màu đen trắng đưa ra. Mọi người căng mắt ra nhìn xem cái gậy trắng đen ấy chỉ vào ai ....Ôi lúc ấy như trò may rủi chỉ mong sao không chĩa thẳng vào mình. -Thoát rồi ! hú vía ! Người được chăm sóc thật nổi bật với màu vàng cà sa từ từ tấp vào lề phải theo hướng của cây gậy . Một động tác đưa tay lên ngang phần trán CHÀO ( đúng phép C.A.G.T ) - Xin cho xem giấy phép lái xe Nguyễn V. T.... S. pháp danh Thượng Tọa Thích Sư Thiến - Tốt ! xin cho xem giấy "Đăng ký xe" ! - ................. - Xin thông báo lỗi vi phạm: Không đội mũ bảo hiểm theo quy định khi tham gia lưu thông. - Vị thượng tọa khả kính gỡ nón từ tồn trình bày : -Có đây ạ ! chúng tôi cũng quý mạng sống của mình và chấp hành quy định . Chúng tôi đã thử nghiệm tại nhà chùa từ tầng cuối cùng của tòa Bảo Tháp có độ cao 15m, bằng cách ném cả hai cái mũ Bảo Hiểm và mũ len này đây! Kết quả Mũ bảo hiểm vỡ rạn ra, còn mũ này nguyên vẹn lại thấm nước tốt nữa ạ ! - ! ! ! ! ! ! ! ! :)
-
Người Nga và những "kiêng cữ" vì EURO 2008 15:34' 24/06/2008 (GMT+7) (VietNamNet) - Năm 2008 của nước Nga hứa hẹn sẽ là một mùa đại thu hoạch những thành công và giải thưởng. Thắng lợi mới nhất là trên sân cỏ của giải vô địch bóng đá châu Âu EURO-2008. Những chàng trai cầu thủ của xứ sở bạch dương đã làm nên chuyện thần kỳ: Đội tuyển Nga hạ gục đội Hà Lan, và điều không thể đã thành có thể, theo một cách thật đẹp, thật hùng tráng. Ở đây, mới thấy hóa ra người Nga và các chàng Gấu dũng mãnh trên sân đấu vẫn có những góc riêng… mê tín. Truyền trên kênh nào sẽ may mắn hơn ? Andrei Arshavin trong ngày thi đấu không nói chuyện với bất kỳ ai, kể cả gọi điện cho vợ con cũng tuyệt không Trước trận Nga gặp Hà Lan, báo Nga đăng tải lá thư của những người dân hâm mộ bóng đá đồng thời cũng là thành viên nhiệt tình của cộng đồng blog tiếng Nga. Thư đề gửi Tổng thống Dmitry Medvedev, Thủ tướng Vladimir Putin, ông Konstantin Ernst - Tổng giám đốc kênh truyền hình I, và ông Oleg Dobrodeev - Chủ tịch Tập đoàn phát thanh truyền hình quốc gia Nga. Số là, ở Nga chỉ hai kênh được quyền truyền trực tiếp các trận đấu của EURO-2008, kênh "I" và kênh "Russia" luân phiên nhau. Có lẽ do kết quả "bốc thăm", trận xuất quân đội Nga gặp đội Tây Ban Nha, thì kênh "I" truyền, tiếp theo, đến lượt kênh "Russia" truyền trận Nga-Hà Lan và Nga-Thụy Điển. Nga đã thua choáng váng ở trận đầu, nhưng những trận truyền kênh "Russia" cho thấy các dũng sĩ trẻ này đã kịp gượng dậy, khởi sắc và thắng lợi, tiễn các cầu thủ Hy Lạp và Thụy Điển về nước. Sang vòng tứ kết, việc phát sóng trực tiếp trận đội Gấu Nga gặp "cơn lốc màu da cam" Hà Lan là quyền của kênh "I". Vì thế mới có lá thư trên. Nguyện vọng khẩn thiết của các "blog-nhân" ở Nga là chuyển giao quyền truyền trận đấu cam go với Hà Lan cho kênh "Russia", vì không những tên gọi có tính biểu tượng hơn, mà kênh truyền hình này còn có "vía" may. Để thêm phần thuyết phục các vị lãnh đạo quốc gia, chính phủ và ngành truyền hình, những người viết thư đã viện dẫn chứng cớ: "Không khó khăn gì, có thể nhận thấy rằng trong thời gian gần đây, tất cả những thành công của đại diện Nga trên các sàn đấu quốc tế đều được truyền trên kênh "Russia". Chẳng hạn, trận chung kết Cup UEFA (đội "Zenit" Nga giành chức vô địch), chung kết cuộc thi Tiếng hát truyền hình châu Âu EUROVISION (ngôi đầu thuộc về ca sĩ Nga Dima Bilan), và nhiều sự kiện vẻ vang khác nữa. Đến giải bóng đá EURO-2008 cũng lại là biểu hiện rõ rệt, trận Nga thua 1-4 trước Tây Ban Nha là trên kênh "I", còn 2 trận sau truyền trên "Russia" đều thắng. Từ đó có thể thấy : thành công thi đấu của đất nước ta gắn liền với kênh truyền hình "Russia"…Bởi lý do trên, đề nghị các quí vị hãy làm tất cả để chuyển buổi truyền hình trận tứ kết Nga-Hà Lan tối 21/6 từ kênh "I" sang kênh "Russia". Dù thế nào chăng nữa, chúng tôi không chút nghi ngờ về tính chuyên nghiệp và trình độ làm việc của Kênh "I" và nhất trí rằng kênh này xứng đáng có quyền truyền tất cả các trận đấu còn lại của giải EURO-2008, ngoại trừ các trận có đội Nga…". Những người hâm mộ bóng đá Nga bây giờ lại có một nguyện vọng chung mang tính mê tín: trận gặp lại Tây Ban Nha sắp tới ở lượt bán kết, đội Nga nên mặc màu áo đỏ, màu cờ chiến thắng đã mang đến vận may để họ loại đội Thụy Điển, sau đó có thể mặc áo trắng như trong trận tiếp theo mà vẫn thành công, "bão tuyết Nga" thổi bạt "cơn lốc màu da cam" Hà Lan! Các cầu thủ HLV Hiddink không chịu mặc complet sau trận thua Tây Ban Nha? Sau trận thắng Hà Lan, có nhà báo đã hỏi Dmitry Sychev râu ria lởm chởm: "Đima, sao cậu không cạo râu ? Kiêng à?". Cầu thủ Sychev cười phủ nhận: "Không, chẳng qua là dao cạo của tớ bị hỏng" (?!). Thực ra bất cứ cầu thủ nào cũng có những kiêng kỵ và bùa phép riêng của mình. Và Sychev đơn giản là né tránh câu trả lời thật. Chắc là chàng trai này, cùng giống nhiều cầu thủ khác, không động đến bộ đồ cạo râu trong suốt giải đấu, để khỏi làm kinh động đến tính đỏng đảnh của vị Thần May Mắn. Trong đội Nga, ngoài Sychev, dễ nhận thấy là còn có đội trưởng Sergei Semak cũng không cạo râu. Đội Nga có có những bùa phép cầu may khác nữa. Konstantin Zyryanov bắt đầu việc xỏ giày chỉ với chân trái. Igor Semshov bao giờ cũng bước vào sân bằng chân trái. Roman Pavlyuchenko, trước khi đặt chân xuống thảm cỏ, luôn cúi xuống chạm tay xuống cỏ và làm dấu thánh rất nhanh. Còn sau mỗi quả đá vào lưới, chàng trai dong dỏng cao này lần nào cũng nhất định hôn lên ngón tay đeo nhẫn cưới rồi sau giơ cao tay trỏ về phía trước (nhiều thanh niên Nga bây giờ làm như vậy khi hò reo cổ vũ "Nước Nga tiến lên"). Diniyar Bilyaletdinov luôn luôn ngồi ở một vị trí nhất định trên xe ô tô buýt của đội bóng. Còn Andrei Arshavin, chàng trai vàng của nước Nga, thì đã có luật bất thành văn bất di bất dịch: trong ngày thi đấu, không nói chuyện với bất kỳ ai, kể cả gọi điện cho vợ con cũng tuyệt không. Sau mỗi quả phá thủng lưới đối phương, Arshavin băng về phía đồng đội nhưng luôn với một ngón trỏ đặt trên môi, như ý nhắc nhở chính mình và bạn bè : "Đừng om sòm quá sớm, hãy bình tĩnh !". Khi cánh phóng viên gọi anh là "Chuyện cổ tích đêm trắng", "Sa hoàng nhỏ", rồi "Maradona Nga", "Beckham Nga", "Pele trắng", chàng trai này chỉ đáp gọn lỏn : "Tôi - Andrei Arshavin". Có một cử chỉ thân thiện được cho là sẽ mang lại điềm lành cho Arshavin: sau trận đấu với Hà Lan, riêng anh lột áo đổi cho đối thủ của mình, và chàng trai Nga này mình trần trước cả rừng ống kính… HLV của họ, "thầy phù thủy" Guus Hiddink, cũng không phải là không tin vào những điềm may rủi. Để ý sẽ thấy sau mỗi trận đấu, cùng với việc kiểm điểm và phân tích về chiến lược sách lược của toàn đội cũng như kỹ thuật đá của mỗi cầu thủ, chính ông dường như cũng đã kiểm điểm và phân tích những tiểu tiết cho riêng mình: khi chọn bộ quần áo để mặc, ông cũng đã có sự cầu may. Trước trận đầu Nga gặp Tây Ban Nha, cánh báo chí phỏng vấn HLV đội Nga vẫn thấy ông mặc comple trịnh trọng. Hẳn là kết quả thua của đội Nga đã khiến bộ comple ấy bị ông hắt hủi. Sau đó người ta thấy trước trận gặp Hy Lạp ông gặp cánh báo chí trong bộ đồ thể thao. Dường như trong chiến thắng của đội Nga cũng có chút nào do đã loại trừ được một quẻ ám rủi là bộ comple vô tri kia… ?! Lại nữa, bây giờ trong người Nga bắt đầu có mốt lấy tên ông Guus Hiddink để đặt cho con mình, cầu may cho cuộc đời đứa trẻ. Đan Thi (Moscow) - tổng hợp từ báo Nga nguồn thethaovietnamnet.vn
-
An Dương Vương và giấc mơ dân gian hiển thánh Thứ ba, 10/6/2008, 07:00 GMT+7 Nhân dân ta quan niệm, đã có sự hóa thân thần thánh thì ắt sẽ có sự hiện thân thần thánh. Nghĩa là, hóa thân và hiện thân luôn luôn là hai quá trình tiếp nối của các vị thánh thần. Quan niệm ấy đã ăn sâu vào tâm thức dân gian và như một mạch ngầm, nó vẫn chảy xuyên suốt mọi thời đại, ngay cả trong thời hiện tại - hiện đại vốn duy lý một cách nghiệt ngã này. Kiểu tư duy dân gian vốn chất phác cùng những mường tượng về mối dây liên hệ giữa thế giới đang tồn hiện với một thế giới khác (thế giới siêu thực và bí ẩn) cho phép dân gian có những liên tưởng đặc biệt, nhiều khi hơi hoang đường về những chuyện ngẫu nhiên nào đó xảy ra trong chốn miếu mạo, đền đài. Nhiều khi, người ta coi, đó là sự hiện thân nhiệm màu của những vị thánh thần đang ngự trị đâu đó bên ngoài thế giới hiện thực này, là sự tái sinh trở lại của những con người có thật trong lịch sử xưa xa. Những chuyện kỳ lạ trong môi trường thiêng liêng ấy luôn luôn xảy ra trong trạng thái đường đột, cho nên càng gia tăng tính phi thường của nó. Chính từ những sự kiện phi thường ấy, nhân dân càng tin tưởng sâu sắc về những hiển linh kỳ diệu của nhân vật truyền thuyết, của các vị thánh thần, dân gian càng có "đất" để khám phá và truyền tụng những luồng truyền thuyết mới nảy nở từ truyền thuyết gốc. Như vậy, quá trình thờ phụng - hiển linh cũng chính là một quá trình giúp truyền thuyết vươn cành, bắt nhánh, phát triển xum xuê trong tâm thức dân gian, trong linh hồn dân tộc. Quá trình này luôn luôn là một quá trình "bội thu" với sự quay vòng: thờ phụng - hiển linh - truyền tụng - thờ phụng (với niềm tin mạnh mẽ hơn) một khi sự hiển linh xuất hiện đột xuất và không quá hiếm hoi. Truyền thuyết An Dương Vương ngày càng ghi đậm dấu ấn, ngày càng tỏa lan cái không khí huyền hoặc của nó trong lòng nhân dân xứ Nghệ cũng một phần nhờ sự hiển linh kỳ diệu của An Dương Vương qua những chuyện kỳ lạ xảy ra trong đền Cuông hay trong dịp lễ hội đền Cuông. Nếu có dịp về lễ hội đền Cuông vào các ngày 13, 14, 15 tháng 2 âm lịch được tổ chức hằng năm, bạn sẽ được nghe nhân dân khắp nơi về đây, nhắc lại những chuyện lạ đã từng xảy ra hay tiếp tục kể thêm những câu chuyện mới về sự linh thiêng của ngôi đền, bạn sẽ được tận mắt chứng kiến lòng thành kính của nhân dân với vị vua từ buổi sơ khai của lịch sử nước nhà. Đến với đền Cuông, chắc chắn, câu chuyện mà bạn được nghe đầu tiên luôn luôn là câu chuyện về sự hiển linh của An Dương Vương trong những năm gần đây. Với nhân dân, đó vẫn là những sự kiện nóng hổi, có sức lan truyền mạnh mẽ. Người già hay em bé, đều tưởng như mình đang đắm chìm trong thế giới huyền thoại khi kể đi kể lại không biết mệt về những câu chuyện kỳ diệu ấy. Chuyện kể rằng, vào dịp lễ hội đền Cuông mùa xuân năm Ất Hợi (1995), khi tiếng trống tế thần vừa dứt, khi hàng nghìn người đang hội tụ về đền Cuông để tỏ lòng cung kính với vua Thục cùng những nhân vật truyền thuyết khác: Mị Châu, Cao Lỗ..., bỗng nhiên, một con chim hạc từ đâu bay đến đậu trên vai một người họ Cao - quê ở xã Diễn An (xã địa phương - nơi tổ chức lễ hội) đang đứng dưới chân núi xem hội. Con chim hạc cổ trắng, cánh đen, có chỏm lông đen trên đầu với sải cánh khá rộng bất ngờ xuất hiện làm xôn xao lễ hội. Người dân tin rằng, đó là hiện thân của An Dương Vương, là điềm báo cho sự thông thấu về những lời cầu nguyện của nhân dân nơi cửa đền. Con chim hạc hiện vẫn còn được lưu giữ lại tại đền như một chứng tích cho một lần hiển linh của thần thánh. Năm Đinh Sửu (1997), cũng vào chính dịp lễ hội đền Cuông (ngày 13 tháng 2 - ngày bắt đầu mở hội), ở bãi biển Diễn Trung, cách đền Cuông 1 cây số, có một con cá ông voi lớn dạt vào bờ, đầu hướng về đền. Khách trẩy hội lại được thêm một dịp chứng kiến chuyện lạ trong lễ hội đền Cuông. Năm đó, nhân dân kéo từ đền Cuông xuống kín bãi biển Diễn Trung để xem sự hiện thân của thánh. Sau này, mồ cá được xây thành lăng, dân chài vùng biển ấy thường xuyên hương khói, coi như một nơi linh thiêng. Vậy, sự kiện kỳ lạ xảy ra trong lễ hội đền Cuông không chỉ làm giàu có thêm kho truyền thuyết về các nhân vật được thờ phụng mà còn phát sinh thêm những địa điểm thiêng liêng khác. Cùng với những sự kiện ấy, nhân dân khắp vùng Diễn Châu còn kể cho nhau nghe biết bao điều linh ứng kỳ diệu khác xung quanh ngôi đền. Trong dịp đến thăm đền Cuông mùa lễ hội năm 2006, có một cụ già kể lại cho tôi về sự xuất hiện của Ngài trong lốt một con rùa dưới giếng Ngọc - nằm phía dưới hương án ở bái đường. Tương truyền, ngày xưa đây là một giếng nước ngọt tự nhiên, thông ra mãi tận biển. Về sau, khi dựng bái đường, người ta khấn âm dương xin lấp nhưng vẫn giữ lại vết tích cũ. Không rõ, Ngài trong lời kể đầy kính mộ của cụ già ấy là ai, phải chăng đó là hiện thân của thần Kim Quy trong trí nghĩ dân gian? Đền Cuông nhìn từ phía - Ảnh: Thanh Lưu Phải tai nghe, mắt thấy những điều ấy, ta thấm thía thế nào là sức mạnh của tinh thần dân gian. Điều đó cũng lý giải cho việc đến tận bây giờ, đến tận thời đại của công nghệ, của những tri thức khoa học tiên tiến, người ta vẫn đặt niềm tin sâu sắc vào những chuyện tưởng chừng như quá hoang đường ấy! Lễ tế thần và nỗi mong mỏi các vị Thánh hiển linh... Sau mỗi lần đột hiện một sự kiện kỳ lạ trong lễ hội đền Cuông, một điều chắc chắn là mỗi một người dân đến dự hội năm sau đều mang tâm trạng hồi hộp chờ đợi một điều kỳ diệu tương tự sẽ xảy ra. Và lễ hội không chỉ còn là nơi cúng tế, nơi vui chơi, nơi gặp gỡ; đó còn là nơi người ta ủ ấp sẵn một niềm mong mỏi về một sự hiển linh rõ ràng mà thần thánh. Cũng vì lẽ đó mà đối với nhân dân Diễn Châu, mỗi kỳ lễ hội đền Cuông là một dịp để tỏ bày sự tôn kính với thánh thần, cho nên, việc phụng sự, tổ chức lễ tế được diễn ra hết sức long trọng. Đền Cuông là đền quốc tế nhưng việc tổ chức lễ tế do tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu đảm trách. Đền còn là đền Thành hoàng của bốn làng ở quanh đền: Tập Phúc (nay thuộc xã Diễn An), Cao Quan, Cao Ái, Yên Phụ (nay thuộc xã Diễn Trung) - gọi là Tứ thôn. Người thực hiện các nghi thức tế lễ ở đền Cuông từ xưa thường là những vị quan đã về hưu và đương chức mặc triều phục. Trong các kỳ lễ tế, ban đêm đều có hát tuồng, hát chèo, đốt đèn bông, đèn hoa rực rỡ. Ngày nay, nhân dân Diễn Châu vẫn duy trì một đội hát chầu văn, chuyên hát vào ngày tế lễ tại đền Cuông. Đội hát này gồm những người dân trong thôn, trong xã có tham gia vào việc tổ chức lễ hội. Hát chầu văn trong lễ hội đền Cuông không đơn thuần là một cuộc biểu diễn văn nghệ cho quần chúng nhân dân đến chơi hội thưởng thức, mà còn là một hoạt động gắn liền với việc tế lễ. Khi hát, người ta cũng cầm hương khấn vái rất kính cẩn. Trước ngày tế lễ, người ta rước kiệu ra đình làng, cử trai tráng, thanh niên mấy làng cùng trông coi suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, nhân dân cùng các vị chủ tế ra đình rước kiệu về đền. Lễ rước rất linh đình, thường thu hút rất đông đảo bà con trong và ngoài vùng đi theo. Ngoài lễ hội chính vào mùa xuân, đền Cuông còn là nơi tổ chức các lễ tế khác của Tứ thôn, đặc biệt nhất là lễ cầu đảo cho cả tổng, cả huyện. Những năm hạn hán to, nhân dân phải tập trung lại ở đền Cuông để cầu mưa. Đầu tiên, dân làng Tứ thôn (Cao Ái, Cao Quan, Yên Phụ, Tập Phúc) phải làm lễ cầu đảo trước, nếu không được thì cả tổng Cao Xá hoặc cả huyện mới cùng làm lễ cầu đảo. Lễ cầu đảo diễn ra vô cùng uy nghiêm. Trước đền dựng đàn tế cao, khói hương ngút trời. Cửa đền rộng mở đón thánh thần về ngự. Trong tiếng trống rền vang từng hồi, chủ tế đọc sớ tâu lên trời xin mưa rồi lần lượt đại biểu của các làng ra vái lạy. Các làng, các xã đều có kiệu rước từ đình ra sắp thành hàng, nhờ thánh thần xin Trời làm mưa. Lễ cầu đảo kéo dài ít nhất một hai ngày, có khi hàng tuần. Cũng có những năm, lúc đang làm lễ thì trời đổ mưa. Nhân dân vui mừng vái lạy thánh thần rồi rước hữu thần của làng mình về. Dù là lễ cầu đảo hay là lễ hội chính của đền Cuông, mọi công việc chuẩn bị tế lễ đều phục vụ cho một nguyện vọng, mong mỏi duy nhất của nhân dân là sự linh ứng của thánh thần trong từng tâm nguyện. Những tâm nguyện cháy bỏng của nhân dân cũng là một nguyên do khiến cho họ trở nên đặc biệt nhạy cảm với những sự kiện kỳ lạ xảy ra trong không gian thiêng của họ. Chuyện ngẫu nhiên càng trở nên dễ dàng biến thành huyền thoại, càng được thêu dệt và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, càng xây đắp vững chãi niềm tin bất diệt của dân gian về những truyền thuyết từ thuở xa xưa nào... Nguyễn Thanh Lưu nguồn vietimes
-
Sự huyền diệu của bóng đá và nhà tiên tri tỉ số Thứ hai, 23/6/2008, 07:05 GMT+7 Có lẽ ít kỳ EURO nào lại có nhiều bất ngờ xảy ra như lần này. Các đội bóng được đánh giá thấp hơn, thi đấu chật vật ở vòng bảng lại giành chiến thắng một cách ngoại mục ở vòng “nốc-ao”. Những thế lực lớn của bóng đá thế giới: Hà Lan, Bồ Đào Nha, Croatia… đã lần lượt ngã gục trước những đội bóng đàn em. Họ thua một cách tâm phục khẩu phục trước lối đá quyết liệt của đối phương. Những thất bại và chiến thắng đó chỉ ra một điều hết sức đơn giản, tất cả những toan tính về đấu pháp, dù lão luyện và tinh ranh đến đâu, đều vô nghĩa nếu thiếu đi niềm khát khao chiến thắng. Và có một nhà thơ được mệnh danh là nhà tiên tri tỉ số. Ông ta không phải thánh thần, cũng chẳng có một khả năng đặc biệt nào, nhưng những gì ông ta tiên đoán đều chính xác đến bất ngờ… 1. Sự huyền diệu của bóng đá Nếu nhìn đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu, chúng ta sẽ thấy rõ sự khát khao chiến thắng đến lỳ lợm của đội bóng này. Có những lúc, người xem đã tự kết thúc trận đấu trước các cầu thủ vì những tưởng họ sẽ thất bại. Thế nhưng, dù bị dẫn trước đến hai bàn trong lần gặp CH Séc, họ vẫn rừng rực lửa thi đấu. Cuối cùng chỉ trong vòng 13 phút họ ghi đến 3 bàn - một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục có lẽ vào bậc nhất trong lịch sử các kỳ EURO. Niềm vui chiến thắng của các cầu thủ Thổ Nhĩ Kỳ - Ảnh: euro2008.uefa.com Và khi gặp đội tuyển Croatia trong vòng “nốc-ao”, họ vẫn giữ được sức lửa trong phong thái thi đấu của mình. Họ đã làm cho đội bóng từng đứng thứ ba thế giới chao đảo và bở hơi tai. Rồi khi trận đấu (hiệp phụ) chỉ còn được tính bằng giây, họ bị thủng lưới. Lần này tất cả mọi người, kể cả những cổ động viên lạc quan hay giàu trí tưởng tượng nhất cũng phải nghĩ đến một thất bại. Nhưng lại một lần nữa, kịch tính hơn, khát khao hơn, và “lửa” hơn – người Thổ Nhĩ Kỳ đã chứng minh rằng, nếu còn lòng tin, sẽ có chiến thắng. Họ lại ghi bàn vào lưới đối phương, khi trọng tài bắt đầu lấy hơn để thổi hồi còi kết thúc trận đấu dài dằng dặc kia. Đến đây không có gì có thể ngăn cản được niềm tin của họ, và những cú sút luân lưu 11m của họ đã không chệch hướng – đánh gục người Séc! Tôi đồ rằng, trên thế giới chẳng có biên kịch gia nào có thể tưởng tượng được một kịch bản gay cấn và hay đến thế, nếu như ông ta muốn làm một bộ phim về bóng đá. Nó cũng khẳng định một điều: sức tưởng tượng của con người, dù bay bổng đến đâu cũng không ra khỏi thực tế. Chỉ có thực tế mới dạy được con người nhiều bài học bổ ích và bóng đá là một trong số đó. Cũng như người Thổ Nhĩ Kỳ, người Nga đã làm nên những điều kỳ diệu với một sức trẻ đầy khát khao chiến thắng. Họ lần lượt vượt qua Hy Lạp, Thụy Điển… và một đối thủ rất mạnh: Hà Lan. Trước trận đấu này, cũng chẳng một người yêu bóng đá nào giàu trí tưởng tượng đến nỗi bảo Nga sẽ thắng với tỉ số 3 -1. Duy nhất chỉ nhà thơ Lương Tử Đức (Đài truyền hình Việt Nam) nhắn tin cho tôi: người Nga sẽ thắng và thắng chính xác với tỷ số 3-1. Đó là một nhà thơ, có thể ông ta mơ mộng, hoặc quá yêu người Nga. Còn với riêng tôi, không bao giờ nghĩ vậy dù trong thâm tâm vẫn mong Nga chiến thắng. Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra và sự lãng mạn của nhà thơ kia đã đúng! Tất nhiên, trong bóng đá, vai trò của huấn luyện viên vô cùng quan trọng. Họ có kiến thức, kinh nghiệm để dẫn dắt các cầu thủ của họ. Và họ biết cách làm thế nào để các cầu thủ của mình thi đấu có lợi nhất và giành chiến thắng. Nhưng xét cho cùng, họ vẫn chỉ là những người “vạch đường chỉ lối”, còn thực hiện vẫn là cầu thủ. Khi đó chỉ có cầu thủ mới biết chính xác mình cần làm những gì để chiến thắng. Ở một cầu thủ cần: đẳng cấp, thể lực, kinh nghiệm, kỹ thuật… nhưng một yếu tố vô cùng quan trọng – niềm tin chiến thắng – sự khát khao vô tận của chiến thắng! Chỉ điều này mới đem lại sự kỳ diệu trong thi đấu và nó cũng làm chiến thắng trở nên ý nghĩa hơn. HLV Guss Hiddink chia sẻ niềm vui với người Nga - Ảnh: euro2008.uefa.com Nhìn các cầu thủ nước Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu, người xem bỗng dâng lên một cảm xúc đến lạ lùng. Tại sao họ có thể lạc quan đến thế!? Trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, chỉ một cái ngáp vặt cũng hết nhưng họ vẫn kiên cường chiến đấu. Có thể lúc ấy, trong thâm tâm những cầu thủ cũng đã nghĩ đến một thất bại. Nhưng họ không buông xuôi, điều này vô vùng quan trọng. Vì rằng, nhiệm vụ của anh lúc này là thi đấu – ghi bàn vào lưới đối phương chứ không được phép thất vọng. Đằng sau các anh là cả sự kỳ vọng của một dân tộc, và hơn hết nó chứng tỏ được sự kiêu hãnh của cá nhân anh! Khi bước vào sân nghĩa là thi đấu – thi đấu hết mình – không được nghĩ gì khác! Có lẽ họ đã nghĩ như vậy và hành động như vậy. Trên những gương mặt đẫm mồ hôi của họ, tôi không hề thấy sự hoảng hốt hay thất vọng khi đối phương ghi bàn vào những giây cuối cùng của hiệp phụ thứ hai. Nếu khi đó trong những cái đầu khát khao kia chỉ cần lóe lên một ý nghĩ chán chường, họ sẽ thất bại. Nhưng sự khát khao vô cùng trong sáng của họ đã lấn át mọi sợ hãi. Chính sự khát khao ấy đã đem lại sức mạnh cả tinh thần lẫn thể xác để họ ghi bàn ở những tích tắc cuối cùng kia. Trong trận đấu này, không ai có thể biện hộ rằng thần may mắn đã ủng hộ họ. Không! Thần may mắn chỉ xuất hiện khi chính những cầu thủ nhận ra và giành lấy. Trong một trận đấu, thần may mắn hiện diện khắp mọi nơi, ông ta đối xử công bằng với tất cả các cầu thủ đang chạy trên sân. Chỉ có điều, ông ta không xuất hiện với một ánh hào quang rực rỡ và một cái phẩy tay đầy ban phát. Ông ta hiện diện ngay trong trái tim từng cầu thủ, chỉ những ai có đủ niềm tin – sự khát khao chiến thắng, mới nhìn thấy vị thần kỳ diệu này và được ban phước! Các cầu thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã được ban phước! Chúng ta lại tiếc nuối cho những cầu thủ Hà Lan. Cơn lốc màu da cam xuất hiện lần này với một khí thế ào ạt. Họ đánh bại đương kim vô địch và á quân vô địch thế giới (Italia, Pháp) với thế thượng phong, ngay cả trước Bulgari, người Hà Lan chỉ dùng đội hình phụ cũng chiến thắng. Nhưng ngay sau đó, tôi thấy các phương tiện thông tin đại chúng bắt đầu đưa tin về tiền thưởng, bình luận về tài năng, những lời phát biểu của vị huấn luyện viên trẻ tuổi của họ. Và nhiều người bắt đầu e ngại về vị thần ngạo mạn hay vị thần tiền bạc sẽ làm hư hỏng họ. Nhưng không! Khi nhìn các cầu thủ Hà Lan thi đấu, những e ngại đó đều không xuất hiện. Họ thi đấu với một quyết tâm cao độ, cùng cái đầu đầy tỉnh táo. Chỉ có điều, sự quyết tâm đó và sự tỉnh táo đó của họ không bằng người Nga. Nếu chỉ số khát khao của họ là 10 thì chỉ số của người Nga là 100. Vì thế họ thất bại! Còn với các cầu thủ Séc, khi đã ghi hai bàn vào lưới Thổ Nhĩ Kỳ, họ bắt đầu nghĩ đến chiến thắng. Vị thần chủ quan bắt đầu xuất hiện và phẩy tay ban phát cho các cầu thủ Séc. Họ bắt đầu nhìn đồng hồ, liếc khán giả, mỉm cười trong mãn nguyện, thậm chí nghĩ đến những món tiền thưởng… Và bắt đầu họ chùng xuống. Bên cạnh đó, sự khát khao bất tận của Thổ Nhĩ Kỳ không hề suy giảm, nếu không muốn nói còn bùng lên mãnh liệt. Và họ chiến thắng! Những thất bại và chiến thắng đó chỉ ra một điều hết sức đơn giản rằng, tất cả những toan tính, chiến thuật, đấu pháp, dù lão luyện và tinh ranh đến đâu, đều vô nghĩa nếu thiếu đi khát khao chiến thắng. Trong trận đấu giữa Nga và Hà Lan, người ta nhắc nhiều đến vị huấn luyện viên mang quốc tịch Hà Lan được mệnh danh là phù thủy. Họ chủ quan cho rằng, các cầu thủ Nga thi đấu, tiến bộ qua từng trận đều mang đậm dấu ấn của vị huấn luyện viên tài ba kia. Điều này có lý, nhưng rất sai nếu bảo chỉ dựa vào đấu pháp của huấn luyện viên mà các cầu thủ Nga làm nên điều kỳ diệu. Một cái cây trở nên mạnh khỏe, tươi tốt không chỉ dựa vào những chất dinh dưỡng người ta bỏ xuống, nó phải từ chính bộ rễ kia biết cách hấp thụ. Tôi tin nội lực bền bỉ là ở trong chính tâm hồn của từng cầu thủ, có chăng vị huấn luyện viên kia chỉ là người biết khơi gợi. Nhưng trên tất cả những bước chạy đó, chúng ta có thể thấy rõ sự khát khao chiến thắng của những cầu thủ đáng yêu kia. Ngay khi tiếng còi khai cuộc cất lên, các cầu thủ ấy đã lăn xả, quấn lấy những chiếc áo màu da cam, trói chân họ lại: 10 phút, 30 phút, 90 phút, rồi 120 phút cứ thế họ không cho cơn lốc màu da cam có cơ hội tăng tốc. Cơn bão tuyết của nước Nga đã phá tan sức mạnh của cơn lốc màu da cam! Sự thật là chẳng chiến thắng nào chỉ nhờ có vị huấn luyện viên lại tài ba đến mức có thể “điều chế” được một liều thuốc tinh thần đủ mạnh cho các cầu thủ “uống”, mà phải xuất phát từ chính sự tỏa sáng trong tâm hồn họ. Rồi chúng ta lại nhớ đến cái khẩu hiệu: “Phong độ chỉ là tạm thời, đẳng cấp mới là vĩnh viễn”. Điều này xem ra có vẻ đúng và trở thành triết lý. Tuy nhiên, chẳng có gì được trở thành vĩnh viễn. Sẽ rất sai lầm khi nghĩ rằng mình đã ở một đẳng cấp và chẳng bao giờ bị tụt xuống. Chính cái được gọi là phong độ, nó thể hiện đẳng cấp và nếu phong độ đó được thể hiện bằng một tinh thần đầy khát khao như những gì chúng ta đã chứng kiến thì đẳng cấp có thể bị đảo lộn bất cứ lúc nào. Và sự khát khao mãnh liệt nó chỉ xuất hiện trong một tinh thần thật trong sáng, thuần khiết! 2. Chân dung "nhà tiên tri tỉ số" và nỗi buồn của bóng đá nước nhà "Nhà tiên tri" Lương Tử Đức - Ảnh: Nguyễn Quang Thiều Nhà thơ Lương Tử Đức, như đã nhắc ở trên, được bạn bè đặt cho danh hiệu: "nhà tiên tri tỉ số". Bắt đầu từ ngày trái bóng EURO lăn đến bây giờ, những tiên đoán về tỉ số của ông ta chính xác đến 80%. Ông ta bảo, để tiên đoán được tỉ số những trận đấu ấy, thật ra không bí ẩn gì. Con người có rất nhiều khả năng kỳ diệu, chỉ có điều những khả năng đó bị chính những tham vọng đóng lại. Nói cách khác, khả năng tiên tri những điều trong bóng đá có thể được thực hiện khi anh ta ở một trạng thái trong sáng nhất, vô ưu nhất, hoàn toàn trả tinh thần, thể xác về với tự nhiên. Khi đó chỉ cần nhắm mắt, đặt tay vào huyệt ấn đường và tập trung nghĩ tới trận đấu sắp tới, khi đó điều kỳ diệu sẽ hiện ra. Phương pháp này ông ta gọi là phép “minh định”. Thế nhưng, việc nhìn được trước tương lai ấy không thể dùng vào bất cứ một cuộc cá độ hay trục lợi nào khác. Nếu chỉ cần có tà ý ngay lập tức phép minh định kia biến mất, hay được hiểu các “cửa sổ” thần diệu kia sẽ đóng lại, trả con người về với thế giới trần tục đầy sự tham lam.Nghe Lương Tử Đức “thuyết giảng” tôi cứ ngờ ngợ. Nhưng bất trước bất cứ trận đấu nào ông ta cũng nhắn tin cho tôi và đưa ra tiên đoán rất chính xác. Chẳng hạn, trận Thổ Nhĩ Kỳ giặp Croatia ông ấy bảo, người Thổ sẽ thắng, nhưng chỉ thắng ở chấm phạt đền. Rồi đến trận Đức gặp Bồ Đào Nha ông ấy nói tỉnh bơ: người Đức thắng áp đảo, mọi sự cố gắng của Bồ Đào Nha đều vô ích, và ông ta lại đúng. Kỳ thực tôi vẫn chưa tin, chỉ cho đó là sự ngẫu nhiên đầy thú vị. Nhưng đến trước trận đấu giữa Hà Lan và Nga, ông ta nhắn tin cho tôi và nói chính xác về tỉ số thì tôi bắt đầu bị thuyết phục. Cũng vài lần ngồi uống cà phê với ông tôi đã hỏi về trận đấu sẽ diễn ra. Ông ta cười rồi nói đại ý: bóng đá trở nên huyền diệu và hấp dẫn con người ở chính sự bất ngờ của nó. Bóng đá đưa người xem từ cung bậc cảm xúc này, đến cung bậc cảm xúc khác, rồi cũng đầy tính bí ẩn nó y như cuộc sống, không biết điều gì sẽ xảy ra. Vì thế, việc tiên đoán cũng không thể ổn định và rõ ràng được. Nếu tất cả cứ rõ như ban ngày sẽ mất đi sự hấp dẫn vốn có của nó. Thế rồi ông ta cười cười, vỗ vỗ vào vai tôi nói: “Cứ về đi, bao giờ tớ nhắn tin cho thì biết…Ngày mai ai biết cuộc đời mình sẽ ra sao…”. Ông ta lại cười cười, đôi mắt đầy bí ẩn cùng bộ ria mép rung rinh khiêu khích. Trông bộ dạng nửa thực nửa hư của nhà thơ kỳ lạ Lương Tử Đức, tôi cũng bắt đầu lờ mờ nhận ra những gì ông ta muốn nói. Rất có thể việc tiên tri, cũng y như sự hồi hộp trước một trận đầy kịch tính, kết quả cũng đảo lộn bất cứ lúc nào. Vì thế, con người rất tò mò về những điều bí ẩn. Chỉ có sự bí ẩn, đầy bất ngờ mới làm cuộc sống này trở nên phong phú và đáng để khám phá. Ông ta đã đúng, không thể rõ ràng như ban ngày, nếu thế cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán biết bao. Khi đó, bóng đá và những lời tiên tri của ông ta cũng trở nên vô vị, nhạt nhẽo như uống một ngụm nước lã mà thôi. Cứ để mọi điều bí ẩn hấp dẫn con người, như thế mới gọi là tiên tri và như thế mới sinh ra Lương Tử Đức có bộ ria mép rung rinh khiêu khích. Xem bóng đá thế giới, chúng ta lại nghĩ đến bóng đá đằng mình. Tôi tin bất cứ người Việt yêu bóng đá nào cũng chạnh lòng khi nhìn các cầu thủ nhà mình thi đấu. Ở đó những cầu thủ của chúng ta thiếu đi một thứ quan trọng: trong sáng, thuần khiết! Họ thi đấu với những toan tính non nớt và thiếu sự chuyên nghiệp đến tức cười. Họ có thể “dỗi” bỏ ra khỏi sân nếu như cảm thấy trọng tài không công bằng. Họ có thể bán độ ngay khi khoác lên mình màu cờ sắc áo để thi đấu với bên ngoài v.v... Đương nhiên, không phải tất cả những cầu thủ Việt Nam đều như thế. Nhưng sự trong sáng đã đa phần mất đi ở những cầu thủ trẻ tuổi của chúng ta. Điều này đã kéo chúng ta tụt xuống và loay hoay ở vùng trũng bóng đã trong rất nhiều năm. Và nếu cứ như vậy, sẽ chẳng bao giờ chúng ta có được một đẳng cấp như mong muốn. Chỉ khi nào sự trong sáng, thuần khiết được trả lại thì niềm tin chiến thắng – khát khao chiến thắng mới lung linh tỏa sáng trong từng cầu thủ. Lúc ấy, chúng ta chẳng run sợ trước bất cứ đội bóng mà đẳng cấp của họ ở trên chúng ta. A sáng ( nguồn vietimes )
-
Cám ơn ! La Vi e đề xuất hợp tình , Oải Hương đây cũng chẳng chối từ danh xưng Chỉ thương SƯ TỔ THIẾN SỪ Lo toan đệ tử hai miền Bắc Nam Đa đoan LÝ HỌC VẸN TOÀN Nay thêm Bóng Đá đường hoàng tuổi tên Anh em kẻ dưới người trên Chung lưng góp sức VĂN MINH HÀ ĐỒ 1 chút loãng moạn Bút troe cho Diễn đàn luôn tươi trẻ hi hi hi .... :)
-
Đây là bức họa người tình của tác giả bài hát "Gloomy Sunday" - Bài hát tử thần. Có thể nào một bài hát làm cho người nghe nó phải chết không? Nghe có vẻ phi lý, nhưng đó là sự thật đối với một bài hát mang tên Gloomy Sundaỵ "Gloomy Sunday" là tên của một bài hát kể về 1 tình yêu đã mất. Thật đúng như tựa đề của nó, bài hát được viết vào một ngày Chúa Nhật thật ảm đạm của tháng 12 năm 1932 bởi 1 nhà soạn nhạc tên là Reszo Seress. Reszo thường nằm nguyên ngày trong căn phòng của mình ở thủ đô Paris. Người phụ nữ anh yêu vừa cự tuyệt tình yêu cao thượng của anh. Reszo luôn luôn tôn thờ tình yêu của mình, nên vì vậy anh đã phải đau khổ thật nhiều khi tình yêu của anh bị từ chốị Trong nỗi thất vọng, anh đã sáng tác ra bài hát sầu thảm nhất trong đờị Khi bài nhạc được hoàn thành, Reszo cảm thấy nhẹ nhàng hơn đôi chút trong lòng. Tuy nó không bù vào nỗi mất mát tình yêu to lớn kia, nhưng bài hát của anh ta thật hay - đủ hay để được đưa vào dĩa nhạc thời bấy giờ. Khi Reszo cố gắng bán "Gloomy Sunday", thoạt đầu anh đã gặp nhiều khó khăn khi tìm người tiêu thụ. Các nhà sản xuất dĩa nhạc cho rằng bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành 1 dĩa nhạc có giá trị. Một nhà sản xuất đã viết rằng: "Có cả một mối tuyệt vọng bị cưỡng ép thật kinh khủng trong bài hát ấy. Tôi không nghĩ rằng nó sẽ đem lại điều gì hay ho cho người nào nghe bài hát ấy." Nhưng không vì thế mà Reszo ngừng cố gắng để tìm mối tiêu thụ. Cuối cùng, anh ta đã tìm được một nhà sản xuất chịu phát hành nhạc của anh. Khi bài hát được tung ra thị trường cũng là lúc nhiều sự việc lạ lùng bắt đầu xảy ra. Một người đàn ông đang ngồi trong 1 quán café đông đúc tại Budapest đòi ban nhạc chơi bản "Gloomy Sunday." Người đàn ông ngồi tại bàn ông ta vừa nhấp rượu champagne vừa lắng nghe bài nhạc. Khi bản nhạc chấm dứt, người đàn ông trả tiền, rời khỏi quán, và vẫy 1 chiếc xe taxị Vừa ngồi vào trong xe, ông ta liền lôi ra 1 khẩu súng và tự kết liễu đời mình. Vài ngày sau đó, một cô gái bán hàng thật trẻ đã tự treo cổ tại Berlin. Nằm phía dưới chân của cô gái là tờ nhạc của bài "Gloomy Sunday". Một cô thư ký xinh đẹp tại New York tự tử trong căn apartment bằng hơi ga đã để lại một mẩu giấy nhỏ xin yêu cầu bản nhạc "Gloomy Sunday" được chơi vào buổi lễ an táng cô. Khắp thế giới, có nhiều bài tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấỵ Ca sĩ chết trong lúc hát. Người ta chết trong lúc nghẹ Cuối cùng thì công ty truyền thông Anh Quốc phải cấm hẳn bài "Gloomy Sunday" vào những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng. Công ty này không thể làm ngơ trước những lời phiền hà đến từ bài hát ấy. Nhiều hệ thống viễn thông Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm giống vậy. Mười lăm quốc gia khác đã đâm đơn kiện bài hát. Các luật sư quanh thế giới đã tranh luận rằng người soạn nhạc của bài hát có nên chịu trách nhiệm cho hàng loạt cái chết là hậu quả của sự sáng tạo của anh ta hay không. Nhưng khi các đài radio cố gắng hủy bỏ bài hát thì nó càng trở nên phổ biến hơn. Người ta còn cản thấy hào hứng hơn khi nghe bài hát "tự tử" này (suicide song). Bài hát dường như ảnh hưởng mọi người không phân biệt gì đến tuổi tác hay tầng lớp. Một người đàn ông 80 tuổi tự hủy diệt đời mình bằng cách nhảy từ cánh cửa sổ lầu bảy xuống trong khi bài nhạc đang hát. Một cô gái 14 tuổi chết đuối khi trong tay còn cầm một bản copy của bài "Gloomy Sunday". Một nạn nhân trẻ tuổi khác, một cậu bé sai vặt người Ý, đang đi ngang một người ăn xin trên lề đường đang hát bản nhạc "Gloomy Sunday" đột nhiên dừng lại, để chiếc xe đạp của cậu sang một bên, tiến dần đến chỗ người ăn xin và cho ông ta hết số tiền mà cậu đang có. Sau đó chẳng một lời nào, cậu bé đi đến một cây cầu gần đấy và tự nhảy xuống tìm lấy cái chết. Báo chí lượm lặt hết tất cả những câu chuyện và gửi phóng viên đến phỏng vấn Reszo và hỏi anh ta nghĩ gì về điều ấy. Nhưng Reszo cũng bàng hoàng như bao người khác. Anh ta cũng chẳng hiểu vì sao bài hát của mình đã gây ra nhiều điều bất thường đến vậy. Từ đó, người soạn nhạc dường như bị truyền nhiễm những điều bất lành theo sau bài nhạc bất cứ khi nào và nơi đâu khi bản nhạc được chơi lên. Khi bài "Gloomy Sunday" trở thành một "top hit" trong tuần, Reszo đã viết một lá thư gửi cho người yêu cũ của chàng và xin thêm một cơ hội nữa để nối lại mối duyên xưạ Ngày hôm sau, người ta tìm thấy thi hài của cô gái trẻ đã chết vì uống thuốc quá liều lượng. Bên cạnh cô ta là một tờ giấy với nét chữ nghệch ngoạc trên ấy nhưng còn có thể đọc được. Đó là tên của bài nhạc "Gloomy Sunday". Đến lúc này thì Reszo chẳng còn nghi ngờ gì về bài hát mang đầy tính nguyền rủa của chính mình. Lần đầu tiên trong đời, Reszo cố gắng thu hồi lại bài nhạc để nó khỏi bị lan ra nhiều thêm. Nhưng tất cả mọi nổ lực của anh đều không thành. Bài hát càng bị cấm, nó lại càng trở nên phổ biến hơn. Những bản copy lậu được bày bán trên đường phố như một loại trái cấm. Trong mỗi quốc gia, số người chết lại càng gia tăng. Bài hát đã đem lại nhiều lời đồn đãi chết người đến nỗi các nhạc sĩ không dám chơi bài ấy hay thậm chí các ca sĩ cũng sợ không dám hát. Thời gian trôi quạ Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và người ta cũng bắt đầu quên đi bài hát ấỵ Dần dần, cơn sốt bài hát được lắng dịu xuống. Vào thời điểm này Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc quyết định nới lỏng lệnh cấm bài hát. Đài BBC cho phát thanh "Gloomy Sunday" trên làn sóng điện, nhưng bấy giờ bài nhạc chỉ còn là một hợp tấu khúc (orchestral piece). Từ ấy bài hát được sửa lại theo lối hoà âm hợp khúc nàỵ Cũng bài nhạc được sửa lại theo kiểu version mới này được phát ra và cứ lập đi lập lại hàng giờ trong một căn apartment nhỏ. Người cảnh sát đi tuần gần đấy cứ phải nghe mãi một bài hát và lấy làm lạ. Tiếng âm nhạc phát ra từ cánh cửa sổ của một hộ apartment trên con phố mà người cảnh sát tuần tiểụ Cảm thấy lạ vì người nào có thể nghe mãi một bài hát cứ hát đi hát lại mãi thật nhiều lần mà không ngừng nghỉ, người cảnh sát cuối cùng quyết định điều trạ Khi viên cảnh sát bước vào căn nhà, "Gloomy Sunday" đang được hát trên dàn máy hát xoay tròn tự động. Thân thể của một thiếu phụ đang nằm cạnh chiếc bàn nơi để chiếc máy hát đang chạỵ Người thiếu phụ đã chết với một liều thuốc ngủ cực mạnh. Đây mới chỉ là một bắt đầu của hàng loạt cuộc tự tử khác nối tiếp. Một lần nữa, Cơ Quan Truyền Thông Anh Quốc phải ra cấm lệnh đối với bài hát. Giờ đây thì Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh bởi những cái chết do bài hát của anh ta gây nên. Có hơn 100 người chết sau khi nghe bài hát "Gloomy Sunday". Bài hát vẫn có thể được nghe từ thời này sang thời khác. Gần đây, số tường trình về những cái chết liên quan đến bài hát ấy không còn nữạ Có lẽ lời nguyền năm xưa đã hết linh nghiệm chăng? Có thể là vậỵ Nhưng nếu bạn đang ở trong một quán bar nào đó và khi nghe người disc jockey bảo rằng bài nhạc cũ kỳ lạ "Gloomy Sunday" sắp được chơi, tôi thành thật khuyên bạn nên bước ra ngoài và tham gia những trò chơi khác thì tốt. Chính người nhạc sĩ huyền thoại này đã tự hoạ bức hình người yêu đã chết, mà các bạn sẽ xem dưới đây ; Bức ảnh kinh dị Nếu có thể nhìn sâu và lâu , các bạn hãy cảm nhận ! Nếu cảm thấy sợ hãi và chi phối bạn thì ........ Nếu nhìn hình trên có cảm giác sợ hải thì nhìn hình nầy sẻ tan biến cảm giác đó . Wildlavender sưu tầm và biên tập lại từ trang web thegioivohinh.com
-
Tổng và kêt chỉ có Vinh Vinh và lac tuong là có giải thôi ! Khâm phục LacTuong lắm dó nha ! Chị Lvdt lần này có duyên với bóng đá rùi . BBW và ĐCCTII bị ảnh hưởng sự thay đổi màu áo nên ra quẻ mới thôi chứ phải không? mình thì chẳng muốn ai sai luận sai cả để LVDT của mình phát triển , bốn bể năm châu còn nhìn vào .
-
Hãy nhẹ nhàng mang lấy buồn vui TK nhé !
-
Khỉ nghe kinh , mà được như vậy là đáng tưởng thưởng lắm rồi Thiên Sứ ơi ! Mấy con khỉ này mà tập trung vào học lớp thì vinh danh lạc việt . Cứ ngẫm thấy văn hóa của ta : Cách hơn nữa vòng trái đất , phương TÂY đá bóng , phương ĐÔNG áp dụng Quẻ Lạc Viêt mà đưa ra thắng bại , nghiệm dẫn môi trường , màu áo của 2 đội phân tích bằng đồ hình hẵn hoi , đã là CHUYỆN KHÓ TIN RỒI ! VẬY MÀ CÓ THẬT ở cái Trung tâm Nghiên cứu Lý Học Đông Phương , tụi Tây mà biết được có một cụm cư dân đang hàng ngày đoán như vậy chỉ có bái phục. Có 1 ngày Việt Nam ta khách du lịch lại toàn SIÊU sao bóng đá qua đây tìm hiểu LHDP thì tha hồ mà trả lời phỏng vấn nhé !
-
1 lần nữa Vo danh Khach lại đúng tuyệt đối kể cả tỷ số ! Minh Châu cũng không kém phần sắc sảo . Hoan hô các nhân tài tương lai của Lạc Việt Độn toán .
-
Phoenix viết: Nội dung trích dẫn : Nếu nhà có 10 người thì làm sao để hợp hướng hết nhỉ???? Cũng có trường hợp xem hướng rồi mới xây , sau đó lại đón bố hoặc mẹ về ở thế là ........ Yếu tố người cao tuổi nhất như bóng mát của cây Đại thụ tỏa mát cho các thành viên còn lại .
-
Địa chỉ này gần nghĩa trang Triều Châu , không xa lắm Thiên Sứ ạ !
-
Tiểu Khiết thân mến ! Đúng đấy vấn đề nào rồi cũng tháo gỡ được nhưng khi còn nóng hổi mình cứ tưởng rằng bế tắc nhưng hãy tin rằng THIÊN VÔ TUYỆT NHÂN SINH ĐỊA , Ông trời chẳng Triệt đường sống của ai bao giờ cả ! PHÚC ĐỨC tại TÂM nữa TK ạ ! Đến chùa cũng tìm đươc chúc bình an sáng ý. vài dòng chia sẽ chúc TK sớm vượt qua nhẹ nhàng những gian nan đời thường .
-
“Giá trị ngạo mạn” – mải mê đi tìm – lặng lẽ thất bại! Thứ năm, 19/6/2008, 07:00 GMT+7 …Viết ra những dòng này tôi không có ý coi thường bạn mình, hay mỉm cười với sự thất bại của cậu ấy. Tôi chỉ muốn nói những điều mình nhìn thấy và suy ngẫm về nó. Còn giờ đây bạn tôi vẫn say rượu và ngạo mạn như ngày nào. Đã đôi lần tôi nói thật với cậu ta. Nhưng chỉ nhận được cái trừng mắt mà rằng: đừng khuyên bảo, đừng dạy dỗ tôi… chỉ là giai đoạn “mo” tạm thời thôi… các ông sẽ thấy tôi lại huy hoàng như ngày nào! Cậu ta vẫn thế! Cái giá trị ngạo mạn kia thật sự không muốn rời bỏ cậu ta... Câu chuyện thứ nhất Cách đây khoảng 5 năm, tôi có cậu bạn là họa sỹ bán tranh rất chạy. Chỉ trong vòng hai năm cậu ấy tậu được nhà cửa, sắm hẳn xe hơi và nhiều đồ đạc đắt tiền khác. Với một họa sỹ, việc bán được tranh thật đáng mừng, ngoài việc được vẽ, còn đem lại tiền bạc. Nói một cách khác, chẳng ai đi theo nghệ thuật lại không muốn được sống và sống sung túc bằng chính cái nghề của mình. Hơn nữa, việc bán được tranh phần nào cũng khẳng định được giá trị của bản thân người họa sỹ đó. Anh bạn tôi cũng thế. Kể từ cái ngày anh ta bán được tranh, mọi con mắt nhìn về phía anh ta đều có vẻ khác. Này nhé, anh ta có nhà lầu, có xe hơi… xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông, thậm chí còn đưa ra những quan điểm mới mẻ trong hội họa. Chỉ có điều, mỗi lần gặp bạn bè, thay vì trò chuyện về nghề nghiệp, hoặc hỏi thăm về nhau, cậu bạn ấy chủ yếu thể hiện sự “hiểu biết” của mình thông qua những việc đại loại như: xe hơi phải có nội thất như thế nào mới là đẳng cấp quý tộc, nhà cửa cần có những loại nội thất ra làm sao mới là quý tộc, rồi thì phải ăn mặc những loại quần áo thế nào mới là quý tộc đẳng cấp v.v và v.v. Cuối cùng cậu ấy chỉ xuống đôi giày Tây ở chân mình rồi hỏi: “Đố các ông đoán được đôi giày này bao nhiêu đô?”. Và thỉnh thoảng điện thoại di động (hồi đó điện thoại đi động rất đắt) của cậu ta lại reo vang, cậu ấy nghe một hồi rồi nhăn mặt phàn nàn: lại mấy ông nhà báo muốn phỏng vấn, ngại thật! Nói chung, từ ngày có nhiều tiền anh bạn tôi luôn muốn chứng tỏ với bạn bè bằng nhiều cách: mời đi ăn ở những nơi sang trọng, tặng những món quà đắt tiền. Hồi ấy, một số bạn bè của cậu ấy cho rằng, thằng này sĩ diện, coi thường đồng nghiệp, hoặc chỉ là họa sỹ gặp may có tí tiền sinh ra ngạo mạn… Riêng tôi lại nghĩ khác. Anh bạn tôi hành động như vậy chưa hẳn ngạo mạn, cũng không phải ban phát, hoặc thương hại những người cùng nghề nghèo túng như chúng tôi. Và anh bạn ấy cũng không phải là một người xấu, vì chúng tôi chơi với nhau từ hồi sinh viên nên hiểu rõ. Chỉ có một cái gì đó rất khác từ ngày những bức tranh của anh ta sinh ra tiền. Cuối cùng, chỉ một số ít chúng tôi thừa nhận rằng, tất cả những hành động của bạn mình mà bề ngoài có phần thô lỗ ấy chẳng có gì khác: muốn khẳng định mình có giá trị, hoặc cái tôi quan trọng của bản thân anh ta mà thôi. Ngoài ra anh bạn ấy chẳng có hàm ý thiếu văn hóa nào cả. Nếu câu chuyện của bạn tôi chỉ có thế sẽ không có gì phải kể. Nhưng gần đây cậu bạn tôi bắt đầu thất bại. Sự thất bại của cậu ấy bắt đầu từ cái gia đình bé nhỏ những tưởng sẽ hạnh phúc hơn khi có nhiều tiền. Hai vợ chồng cậu ấy đã li dị vì nhiều lý do, rồi tranh của cậu ấy cũng không bán được nữa, tiền bạc cũng thưa dần nếu không muốn nói đã hết. Nghe đâu còn nợ nần khá nhiều vì có đầu tư làm ăn với ai đó. Và điều quan trọng hơn, cậu bạn họa sỹ của tôi vài năm gần đây đã không vẽ tranh nữa. Anh ta thường say rượu, lang thang ngoài quán xá, gặp bạn bè lúc nào cũng sặc mùi cồn và nói năng những điều rất thô lỗ. Và bây giờ tôi mới phát hiện ra sự thất bại (hy vọng chỉ mang tính tạm thời) của bạn tôi. Nhưng sẽ rất tồi tệ nếu như cậu ấy không vượt qua được chính những hào quang bé nhỏ một thời để tiếp tục xác lập cái tôi đúng nghĩa của mình. Thực ra, hồi “hoàng kim” bán tranh của cậu bạn tôi mà cái bí quyết chỉ nằm ở những bức tranh lụa khổ nhỏ. Sở trường của cậu ấy là tranh lụa, với một lối vẽ khá hiện đại và đậm nét Việt Nam. Cậu ấy vẽ những gì rất thật với chính con người cậu ấy: một cái cây, một con bò, một mục đồng; hoặc, một cánh đồng, một con đường làng, vài thôn nữ đội nón trắng … Ở đó cậu ta tái hiện và tạo hình những đối tượng nằm trong tâm hồn mình và rung cảm với nó. Vì thế tranh cậu ta tình cảm, dễ xem, dễ đẹp và cũng dễ mua vì giá cả cũng vừa phải. Thế là các phòng tranh đặt cậu ấy vẽ - họ đặt rất nhiều – tiền bạc cũng đến từ đó. Đáng ra nếu cậu ấy biết nâng niu, trân trọng những thứ tưởng chừng như giản dị, bé nhỏ ấy và tìm cách phát triển nó lên, rung động bền bỉ với nó, sẽ tiến bộ rất xa. Nhưng chính vật chất và một chút danh hão đã đánh gục bạn tôi. Vâng, tiền bạc, giàu sang, địa vị, danh vọng… tất cả những thứ đó làm bạn tôi tưởng rằng mình đã lớn lao thật sự. Còn nhớ có lần cậu ta tuyên bố rằng, những bức tranh lụa khổ nhỏ tầm thường ấy chỉ để kiếm cơm. Sẵn có tiền, cậu ấy bắt đầu vẽ những bức sơn dầu khổ lớn với một phong cách hoàn toàn khác – trừu tượng! Cậu ấy bảo, họa sỹ lớn cần phải biết tư duy trừu tượng – hội họa cần làm người xem phải suy ngẫm – phải đau đớn – phải chứa đựng những thông điệp thật lớn lao… Khi ấy, nghe cậu bạn đang say sưa với sự tưởng tượng thái quá của mình, tôi đã im lặng. Tôi không thể đưa ra lời khuyên thực lòng của mình vì bạn tôi đang chiến thắng. Cậu ấy quá hoan hỉ trong một chút thành công tạm thời, vì thế nếu tôi nói thật lòng mình sẽ chẳng đời nào cậu ấy nghe, nếu không muốn nói tôi đối kị với thành công của bạn bè. Thực ra tôi rất muốn nói với bạn tôi rằng, hãy tiếp tục vẽ tranh lụa, hãy tiếp tục tư duy về cái cây, con bò, mục đồng, con đường làng, những cô thôn nữ đội nón trắng… hãy đẩy nó lên một tầm mới. Đừng bao giờ đánh mất nó vì nó là chính cậu. Còn sơn dầu ư? Trừu tượng ư? Đó không phải là cậu! Từ duy của cậu không phải thế! Cậu sẽ khó tìm thấy chính mình ở phong cách đó, chất liệu đó. Nhưng tôi đã không dám nói, hèn nhát chấp nhận sự thật dù tôi rất quý mến bạn mình. Đôi khi sự ý nhị, mang tính hình thức ấy đã làm tôi trở thành kẻ không chân thành. Tôi không sai, nhưng hối hận vì đã không thật với bạn. Và giờ đây, những bức sơn dầu khổ lớn, có nội dung trừu tượng của bạn tôi không bán được, cũng chẳng ai để ý đến bạn tôi nữa, dù cậu ấy cố gắng vớt vát bằng dăm ba triển lãm nhưng tất cả đều im lặng! Rồi, thói ngạo mạn đáng ghét cũng không chịu rời bỏ bạn tôi – cái giá trị ngạo mạn ấy như một lớp sơn khó hỏng bao bọc lấy con người cậu ấy – cũng là nơi mà cậu ấy bám víu với những thất bại của trừu tượng sơn dầu. Vì thế bạn tôi đang giả với chính bộ não, rất khó soi mình trước gương để tìm lại cái tinh khôi ngày nào. Và cậu ấy say rượu, bỏ vợ, bán nhà, bán xe, nợ nần… điều nguy hại nhất: có thể bỏ cả vẽ vì đã lâu nó không đem lại tiền bạc cho bạn tôi. Viết ra những dòng này tôi không có ý coi thường bạn mình, hay mỉm cười với sự thất bại của cậu ấy. Tôi chỉ muốn nói những điều mình nhìn thấy và suy ngẫm về nó. Còn giờ đây bạn tôi vẫn say rượu và ngạo mạn như ngày nào. Đã đôi lần tôi nói thật với cậu ta. Nhưng chỉ nhận được cái trừng mắt mà rằng: đừng khuyên bảo, đừng dạy dỗ tôi… chỉ là giai đoạn “mo” tạm thời thôi… các ông sẽ thấy tôi lại huy hoàng như ngày nào! Cậu ta vẫn thế! Cái giá trị ngạo mạn kia thật sự không muốn rời bỏ cậu ta. Quả đúng, rất khó khăn khi chấp nhận sự thật mà một thời người ta đã thành công. Sự chấp nhận này vừa khó, cũng rất dễ nếu như trong con người không có sự ngạo mạn đáng ghét! Đôi khi nó làm chúng ta thật tự tin, cùng lúc đó nó sẵn sàng đẩy ta xuống vực bất cứ lúc nào. Đơn giản rằng, chúng ta là con người, sống ở một thế giới với tham vọng đa phức đến mệt mỏi. Bạn tôi – họa sỹ có sở trường với tranh lụa mang đề tài giản dị - lại mê mải đi tìm cái gì đó ở chất liệu sơn dầu cùng một mớ hỗn độn những cái được gọi là trừu tượng. Cậu ta đứng trên bờ đê rồi dang tay ra với sự xúi bẩy của thói ngao mạn đó là đôi cánh. Thế là cậu ta “bay” và… rụng xuống! Đôi bàn tay bé nhỏ dù khéo léo đến đâu cũng không đủ sức đưa cơ thể bay vút lên bầu trời để kiếm tìm những thứ không bao giờ thuộc về cậu ấy. Chỉ hy vọng, bạn tôi sẽ đứng dậy, đặt bàn chân của mình xuống bờ đê, bước những bước chân chắc chắn, cảm nhận được hơi thở ấm áp của đất mẹ và đi đến nơi thuộc về chính mình. Còn bây giờ, mọi lời lẽ dù chân thành, cũng không bao giờ tiêu diệt được cái thói ngạo mạn đáng ghét kia. Và lại hy vọng rằng, sự thất bại của bạn tôi chỉ là tạm thời mà thôi! Câu chuyện thứ hai Tôi vẫn kể về một người bạn, cậu bạn này không phải một nghệ sỹ. Cậu ta là nông dân chính hiệu sống ở vùng rừng núi quê tôi. Câu chuyện của sự thất bại chỉ bắt đầu khi cậu ấy trở thành một doanh nhân. Thời cụ kị của bạn tôi đã để lại cho gia đình một tài sản lớn. Đó là khu rừng hồi cổ thụ. Những cây hoa hồi ấy đã nuôi sống gia đình cậu ta rất nhiều năm. Và chỉ đến năm 2003, gia đình cậu ấy mới nhận ra giá trị kinh tế của loại cây có mùi thơm đặc biệt này nhờ vào thông tin và những tiến bộ về khoa học. Liên tiếp nhiều năm cậu ta không bán hoa hồi ở dạng thô mà tự phơi sấy, đóng gói, chờ trái mùa mới xuất sang Trung Quốc. Nhờ cách làm đó, giá trị của hoa hồi mà tổ tiên để lại đã tăng vọt một cách ngoại mục. Cậu ta xây nhà, mua xe, có tiền gửi tiết kiệm và bắt đầu từ đó, cái đầu vốn dĩ thật thà, giản đơn kia xuất hiện nhiều điều lạ lùng. Một lần cậu ta xuống Hà Nội tìm tôi và tuyên bố đã thành lập doanh nghiệp. Tôi vừa mừng vừa lo cho bạn. Tôi vẫn tưởng cậu ta thành lập doanh nghiệp để tiện thu mua hoa hồi, hay muốn “thôn tính” toàn bộ hoa hồi ở quê tôi? Nhưng cậu ta đã mỉm cười mà rằng: đời cứ luẩn quẩn dưới gốc mấy cây hồi ấy thì làm sao ngóc đầu lên với thiên hạ được. Cái câu: “Ngóc đầu lên với thiên hạ” thật xa lạ với cậu bạn ngày nào của tôi. Thế rồi cậu ấy mải mê nói về chiến lược kinh doanh của mình. Thì ra cậu ta thành lập doanh nghiệp để đấu thầu những công trình xây dựng. Kỳ lạ thật! Một bạn trẻ, chưa tốt nghiệp phổ thông, ngần ấy năm chỉ biết buồn vui với rừng hồi, nay lại đi làm doanh nghiệp xây dựng mới liều lĩnh làm sao! Thấy tôi có vẻ thắc mắc, cậu ra rỉ tai nói rằng, đã có ê-kíp cả rồi, mấy vị lãnh đạo cũng hùn vốn, sẽ “chỉ thầu” cho những công trình xây dựng dân sinh của nhà nước, cứ thế mà làm. Lãi lắm ông ạ! Chỉ cần vài công trình thì có mà sấy hồi cả đời cũng không bằng, hơn nữa sẽ không bao giờ người ta dám gọi tao là nông dân – tao phải là một doanh nhân! Cứ thế cậu ta mê mải nói – mê mải tưởng tượng! Cuối cùng cậu ta đề nghị tôi dẫn đi chỗ nào được gọi là ăn chơi nhất Hà Nội để thưởng thức một bữa gọi là khao thằng bạn nối khố là tôi. Đêm đó bạn tôi – cái thằng bạn giỏi sấy hồi ấy đã ăn chơi ở Hà Nội. Nó cuồng loạn trong tiếng nhạc, trong ánh đèn xanh đỏ của thành phố. Nó bảo tôi thật lạc hậu, sống ở phố phường mà chẳng biết chỗ nào để ăn chơi. Nó rút từ trong túi ra từng xấp tiền, tiêu với một phong thái tự tin kiểu trọc phú. Nó nói về kinh doanh, về những chiêu thức kiếm tiền thời đại này với những hiểu biết nhặt nhạnh và thời thượng. Tôi cũng đã im lặng. Tôi không đủ bản lĩnh để trò chuyện nghiêm túc với bạn mình. Cũng vì bạn tôi đang trong cơn say tiền bạc và bị thói ngạo mạn đáng nguyền rủa kia xâm lấn. Và bạn tôi – cái thằng giỏi sấy hồi ấy cũng đang muốn thể hiện giá trị của mình với tất cả mọi người xung quanh rằng, từ nay nó sẽ rời bỏ rừng hồi của tổ tiên để tìm đến một giá trị lớn lao hơn: doanh nhân xây dựng! Nó phải ký những hợp đồng lớn với những công trình lớn. Nó không bao giờ chịu lem luốc với những cái lò sấy hoa hồi mà theo nó thật “nông dân” và đáng rời xa. Năm ngoái tôi về quê ăn tết. Tôi cũng đã nhìn thấy cái trụ sở của nó, thấy nó đi xe hơi, thấy nó chỉ những công trình đang thực hiện. Rồi cũng thấy nó xách quà cáp, đi lại với nhiều giới có trách nhiệm. Cũng thấy miệng lưỡi nó dẻo quẹo với những từ ngữ gần giống với doanh nhân thời nay. Có thể nói, nó đang trên đà phát triển và hình như thành công thật. Nhưng cứ mỗi lần gặp nó cho dù bề ngoài có hào nhoáng đến đâu, đi ăn chơi ở nơi nào nhất Hà Nội đi nữa, trong tôi vẫn dâng lên một nỗi sợ mơ hồ. Tôi có cảm giác nó đang vác trên vai tảng đá quá nặng và quỵ xuống bất cứ lúc nào. Nhưng tôi cũng không dám nói ra vì nó đang chiến thắng! Và tôi lại trở thành người bạn không chân thành. Tôi lại không sai, nhưng rất hối hận. Cũng đôi lần tôi nghĩ mình đã sai. Tuổi trẻ cần khát khao, cần mạo hiểm và phiêu lưu. Nếu tất cả cứ ru rú với những gì đang có, yên bình với cái đang có sẽ nhàm chán biết bao. Cả một cuộc đời trở nên thừa thãi, hèn yếu, nhu nhược chẳng đáng một xu… Và đôi lúc tôi giật mình thấy sự kém cỏi của chính mình khi trò chuyện với cậu bạn giỏi sấy hồi của tôi. Nó hơn tôi rất nhiều: khát khao tìm kiếm giá trị của chính nó và có một niềm tin vào chính nó. Điều này chẳng đáng học tập sao!? Chỉ có điều, tôi thấy rõ cái thói ngạo mạn đáng ghét đang ngự trị trong cách sống của nó. Rừng hồi ư? Sấy hồi ư? Cái đó thật đáng coi thường, tao không phải làm việc ấy – việc ấy nông dân lắm – cả đời không ngóc đầu lên với thiên hạ được! Cứ thế nó “xác lập” giá trị ngạo mạn bản thân mình và phủ nhận những gì thật thiêng liêng của tổ tiên để lại. Đầu năm nay… tôi đọc báo. Doanh nghiệp nó, công trình của nó đang gặp nạn. Nó đang phá sản với chồng chất nợ nần cùng những dấu hiệu vi phạm pháp luật. Rất có thể nó phải hầu tòa vì những sai phạm trong xây dựng. Tôi buồn bã nghĩ đến rừng hồi với mùi thơm ngan ngát. Nhớ đến hình ảnh lem luốc với đôi mắt trong veo mỗi lần nó đứng nhìn lửa cháy rừng rực trong lò sấy. Rồi lại nhớ tới những xấp tiền mà nó tuôn ra mỗi lần xuống Hà Nội để giải ngố (nó vẫn hay nói thế). Và một lần nữa nó lại đứng trên đỉnh núi dang đôi tay sần sùi gân guốc của mình ra bảo rằng đó là đôi cánh. Hãy bay lên bầu trời kia tìm đến nơi không bao giờ thuộc về nó – chính cái thói ngạo mạn kia xúi bẩy nó thế. Rồi nó rơi xuống! Tất nhiên, nó còn rất trẻ, nhiều cơ hội đang chờ. Chỉ có điều, tôi không chắc chắn lắm, cái thói ngạo mạn xuất hiện bất cứ lúc nào ngay cả với chính bản thân tôi. Và đôi lúc tôi cũng muốn chứng tỏ với mọi người cái giá trị mà không bao giờ nó thuộc về chính tôi. Thế đấy! A Sáng (Vietimes) nguồn vietimes