wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Khi lướt web VLS Wild gặp được lời cám ơn này , Wild đưa link này để chuyển đến Thiên Sứ . http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=12665
  2. Sầu riêng chữa liệt dương Sầu riêng có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ dưỡng tiêu thực, ôn phế, làm khỏi khát, cầm máu, có tác dụng rất tốt khi dùng làm thuốc bổ dương cho cánh mày râu. Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus Murr thân gỗ to, cao 10 - 20m phân nhiều cành, vỏ nhẵn. Lá đơn mọc so le, phiến lá dày, thuôn dài hình trứng, gốc lá tròn, đầu nhọn mép nguyên, mặt trên hơi xanh có lông thưa, mặt dưới hơi vàng. Hoa mọc thành chùm ở các đốt của cành và thân nụ hoa tròn, cánh hoa màu trắng, nhiều nhị, thụ phấn nhờ côn trùng. Quả to, hình tròn, ngoài vỏ có múi, mùi thơm đặc biệt. Hạt to có lá mầm dày. Cây nở hoa và kết trái vào tháng 4, thu hái quả vào mùa thu đông. Sầu riêng có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ dưỡng tiêu thực, ôn phế, làm khỏi khát, cầm máu, có tác dụng rất tốt khi dùng làm thuốc bổ dương kích thích sinh dục. Lá rễ dùng chữa cảm sốt, viêm gan vàng da, lạnh đau lưng. Thuốc bổ dưỡng chữa liệt dương: Sầu riêng (múi quả) 200g, ba kích 100g, hạt mướp đắng 50g. Tất cả sấy khô tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh với rượu ngon, trước khi ăn. Theo Lương y Vũ Quốc Trung
  3. Vương quốc cổ Chiêm Thành (Zing) - Dọc theo nẻo đất miền Trung khô cằn, sỏi đá quanh năm có rất nhiều di tích tuyệt vời còn sót lại của người Chàm – hiện thân của vương quốc Chiêm Thành. Chiêm Thành hay Champa còn có các tên gọi khác như Hồ Tôn Tinh, Lâm Áp, Hoài Vương theo âm Hán – Việt là một cựu vương quốc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Ðộ Giáo, Phật Giáo và văn hóa Hồi giáo, nằm ở miền Trung Việt Nam, chạy dài từ mũi Hoành Sơn đến biên giới Biên Hòa. Những văn kiện viết trên bia đá, sử liệu lịch sử Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Campuachia và các sách cổ bằng văn tự Chăm, cũng như những bài tường trình của các du khách từ các nước Âu Châu và Á Rập đã chứng minh cụ thể rằng từ những năm đầu công nguyên đến những năm giữa thế kỷ 19 đã có sự hiện diện ở miền trung Việt Nam một vương quốc hùng mạnh được mang tên là: Champa Tổ tiên của người Chăm Pa có nền văn hóa phát triển rực rỡ chính là văn hóa Sa Huỳnh. Thời nước Việt còn gọi là Văn Lang rồi sau đó là Âu Lạc, ở phía nam nước ta có một nước tên là Hồ Tôn Tinh. Đây là một trong các tên gọi của Vương quốc Chăm Pa cổ. Thời hoàng kim của vương quốc Chăm Pa là từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 10. Đây là thời gian mà văn hóa Chăm Pa nở rộ và phong phú nhất. Cách đây khoảng 1.400-1.600 năm. Hệ thống Thành lũy của ChamPa đã được xây dựng khá to lớn và kiên cố. Không chỉ ở kinh đô mà còn ở các địa phương khác. Thành lũy của thành cổ dài 400m, rộng 300m được xây bằng nhiều loại đá ong khác nhau. Tuy không có hào rãnh nhưng kiến trúc rất kiên cố. Khắp 4 mặt thành có núi, sông, biển bao quanh. Ðạo Phật đã phát triển mạnh mẽ ở Champa vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Những di tích, phế tích về đền đài Phật Giáo ở nhiều nơi trong khu vực Ðồng Dương hôm nay đã chứng minh rõ rệt dữ kiện này. Vào khoảng thế kỉ thứ 15, Champa bắt đầu suy vong. Từ thế kỷ thứ 17, một số tín ngưỡng Hồi Giáo vừa mới du nhập vào ở các hải cảng vùng Panduranga và Kauthara. Chăm Pa trở thành trung tâm tuyên truyền Hồi giáo đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á. Năm 1832, Minh Mạng quyết định chiếm đóng Champa. Vua Minh Mạng xóa bỏ Panduranga-Champa trên bản đồ Ðông Dương, chia lại đất đai này thành hai huyện An Phước và Hòa Ða trực thuộc tỉnh Bình Thuận. Thế là, vương quốc Champa hoàn toàn bị diệt vong. Trên chặng đường 16 thế kỷ (từ năm 192 - 1822) vương quốc Chămpa đã sáng tạo nên một nền văn hóa độc đáo, đậm sắc thái riêng không một dân tộc nào có được, mà nay chỉ còn lại những di tích vỡ vụn chấm phá về một bức bích họa xa xưa của một nền văn minh huy hoàng đã suy tàn và mai một. LÊ QUANG THANH TÂM nguồn new.zing.vn
  4. Phật giáo không chủ trương hành xác 17/06/2008 08:57 (GMT + 7) Trong bài viết "Nên đi theo trung đạo” đăng trên chuyên trang điện tử An Ninh Thế Giới cuối tháng của Báo Công An Nhân Dân (9/6/2008), có mấy điểm sau đây mà tôi cho là chưa chuẩn xác." - Ý kiến của độc giả Tuần Việt Nam.Cư sĩ Duy Ma Cật có viết một cuốn kinh mang tên ông? Ở trang 1, có đoạn PGS. Nguyễn Duy Hinh trả lời câu hỏi của nhà báo như sau: “Cư sĩ ở nhà, họ có vợ, có con đàng hoàng; có những cư sĩ rất nổi tiếng như là Duy Ma Cật. Ông này viết hẳn một bộ kinh mang tên mình, gọi là bộ kinh Duy Ma Cật…”. Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới Trong giới Phật giáo, ai cũng biết Duy Ma Cật là một trong những cư sĩ nổi tiếng, nhưng ông này đâu có “viết một bộ kinh mang tên mình, gọi là bộ kinh Duy Ma Cật”! Đúng là có một bộ kinh tên Duy Ma Cật, nhưng kinh này do người đời sau viết lại. Nội dung bộ kinh bàn luận về Phật lý giữa Cư sĩ Duy Ma Cật và các vị đệ tử nổi tiếng của Phật như Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề, Văn Thù Sư Lợi… Phật giáo không chủ trương hành xác Ở trang 3, trong câu hỏi của mình, tác giả đã hiểu sai về Phật học khi nói rằng “Theo cái hiểu của tôi trước đây, muốn ngộ một điều gì đấy thì cần phải có sự ép xác nhất định, cần có sự chịu đựng về da thịt mình nhất định”. Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới Hiểu như vậy chỉ đúng với một số tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại mà thôi, chứ không đúng với Phật giáo, vì Phật giáo luôn chủ trương lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp và lánh xa hai cực đoan: khổ hạnh ép xác và hưởng thụ dục lạc. Các vị vua dưới hai triều đại Lý, Trần tuy ở trong cung vàng điện ngọc mà vẫn tu hành đắc đạo. Vua Trần Nhân Tông chẳng hạn. Vua ở trong cung tu mà ngộ đạo, đâu cần phải “hành xác”! Và ở trong cung, ở trong chốn “dục lạc”, vua đã không hành xác mà cũng không “hưởng thụ dục lạc”, không bị dục lạc chi phối. Phật Phât giáo không chủ trương hành xác. Tuy nhiên đối với vật chất, con người thường dễ không làm chủ được lòng ham muốn của bản thân, bị trói buộc bởi dục lạc, nên đức Phật dạy đối với vật chất cần phải thực hành “thiểu dục, tri túc” (ít muốn, biết đủ). Nghĩa là dù có vật chất hay không có vật chất, thì tâm hồn lúc nào cũng biết đủ. Khi biết đủ thì ở đâu cũng thấy mình tự do, giải thoát. Ít muốn, biết đủ là một công hạnh được người tu hành thiết lập có ý thức rõ ràng, được áp dụng như là điều kiện để phát huy từ bi, trí tuệ và giải thoát, tuyệt nhiên không đồng nghĩa với chủ trương hành xác. Tu sĩ và cư sĩ Ở trang 1, có đoạn PGS Nguyễn Duy Hinh nói: “Trong tôn giáo, cần phải phân biệt hai tầng lớp: tu sĩ và quần chúng tín đồ”. Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới Thật ra theo tôi phải nói lại thế này mới chính xác: “Trong tôn giáo cần phải phân biệt hai tầng lớp: tu sĩ và cư sĩ”. Bởi vì tầng lớp quần chúng tín đồ đã bao gồm hai tầng lớp tu sĩ và cư sĩ. Tôn giáo và pháp quyền Cũng ở trang 2 có đoạn viết: “Bao giờ một tôn giáo muốn tồn tại được đều phải dựa vào pháp quyền, còn những tôn giáo nào chống đối với pháp quyền thì sẽ sinh ra pháp nạn”. Ảnh chụp màn hình bài viết trên báo An ninh Thế giới Vế trước của câu này thì rất đúng, nhưng vế sau chỉ đúng một nửa, bởi vì trong lịch sử có tôn giáo không chống đối pháp quyền nhưng vẫn bị pháp nạn, điển hình là Phật giáo. Xét đến bản chất và cả về lịch sử, thì Phật giáo không bao giờ chống đối pháp quyền, nhưng lịch sử cho thấy Phật giáo vẫn bị nhiều pháp nạn. Bạn đọc: Nghiêm Nam nguồn tuanvietnamnet
  5. Cám ơn Trân Phương về câu chuyện như bài học về tính khai ngộ của Đức phật .
  6. Ô cửa đem tới tài lộc . 5/7/2008, 15:19 GMT+7 Các chuyên gia phong thủy thường ví cửa chính như cái miệng của ngôi nhà, đón nhận những điềm lành. Do đó, cách thiết kế cửa chính rất quan trọng Người xưa vẫn thường gọi cửa chính của ngôi nhà là huyền quan. Từ đây, khí sẽ được luân chuyển khắp nhà. Khi cửa chính được thiết kế hợp với phong thủy, sức khỏe và tài lộc của gia chủ sẽ luôn dồi dào. Chính vì vậy, điều quan trọng đầu tiên bạn cần chú ý là kích thước cửa. Chúng phải có tỉ lệ tương xứng với ngôi nhà. Cửa chính quá lớn, tài lộc trong nhà bạn sẽ rất dễ "đội nón ra đi". Ngược lại ô cửa quá nhỏ hẹp và thấp sẽ ngăn chặn sự sung túc của những người đang cư ngụ. Cửa chính sạch sẽ, thông thoáng sẽ giúp mang tài lộc vào nhà Một số biện pháp hóa giải năng lượng xấu ở cửa ra vàoVì là nơi đón khí và vận may đến, nên cửa chính phải được mở vào một không gian rộng rãi, sạch sẽ và thông thoáng. Từ đây, luồng khí tiếp tục được lưu thông điều hòa khắp nhà, không quá nhanh và cũng không quá chậm. Tuy nhiên, không phải lúc nào cửa trong nhà bạn cũng đáp ứng những yêu cầu trên. Vậy phải hiệu chỉnh cửa chính như thế nào cho đúng với ngũ hành? Trong trường hợp cửa mở vào một không gian hẹp, hãy cố gắng giữ cho khu vực này luôn được thoáng đãng. Nhờ đó bạn sẽ không có cảm giác tù túng. Lối vào hẹp cũng làm hạn chế nguồn thu nhập của gia đình bạn. Để khắc phục, bạn nên gắn thêm đèn trần, treo một tấm gương để tạo ảo giác lối vào rộng hơn. Vừa thiết kế ô cửa lấy sáng, vừa gắn đèn ngay sát cửa Nếu cửa bị kẹt, nứt hoặc kêu cót két, đó chính là những dấu hiệu xấu, đòi hỏi bạn phải sửa chữa ngay. Để quá lâu, cuộc sống của bạn sẽ bị ảnh hưởng, không còn suôn sẻ như trước nữa. Khi phát hiện thấy những vết nứt trên cửa (do thời tiết hoặc chất liệu quá cũ), bạn cần thay ngay cửa mới. Vết nứt đó là dấu hiệu báo cho bạn biết luồng khí xung quanh lối vào nhà đang có vấn đề. Sau khi thay cửa, bạn cũng cần tiếp thêm sinh khí cho khu vực này. Một trong những biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả nhất là gắn đèn chiếu sáng để xua tan năng lượng xấu. Năng lượng xấu ở cửa trước còn được tạo ra khi có sự xung khắc của ngũ hành. Nếu cửa chính nằm ở góc mộc (hướng đông hoặc hướng đông nam), bạn cần tránh sử dụng cửa bằng sắt hoặc cửa sơn trắng (thuộc hành kim). Vì theo ngũ hành tương sinh tương khắc, kim khắc mộc nên sẽ làm cho nguồn năng lượng ở đây trở nên xấu đi. Tốt nhất bạn nên dùng cửa bằng gỗ, sơn xanh, tượng trưng cho hành mộc. Tương tự, khi cửa chính nằm ở góc kim (hướng tây và tây nắc), bạn không nên dùng cửa gỗ sơn đỏ. Chúng sẽ làm cạn kiệt năng lượng, khiến cho vận hội tốt của gia chủ cũng nhanh chóng tiêu tan. Thay vào đó, hãy sử dụng của màu nâu, vàng (thuộc hành thổ). Khắc phục những khuyết điểm, mang lại sự sung túc cho gia đình Sống trong nội thành đất chật người đông, để tránh tình trạng cửa chính hai nhà không đối diện nhau quả thật rất khó. Theo phong thủy, hai cửa chính xung đối sẽ làm khí nhà này xộc thẳng sang nhà kia. Khi đó, chắc chắn sẽ có một nhà bị ảnh hưởng xấu. Để cải thiện, bạn nên dùng cửa lắp kính phản quang. Treo gương ngay cạnh lối vào để tạo cảm giác không gian sảnh rộng hơn Chúng có khả năng phản xạ lại tất cả những luồng năng lượng xấu, không để chúng xâm nhập vào nhà. Bạn cũng có thể dùng biện pháp này để giải quyết trường hợp cửa chính bị góc hay một vật nhọn từ nhà hàng xóm chĩa thẳng vào. Hóa giải những khuyết điểm, năng lượng xấu ở cửa ra vào để tài chính không bị tiêu hao. Nếu nhà được xây trên gò cao, cần tránh thiết kế bậc cấp dẫn lên cửa chính hẹp và dốc. Lối lên dốc đứng sẽ làm tiêu tán hết tiền bạc của bạn. Thay vào đó, hãy xây bậc cấp dạng hơi cong, đổ thoai thoải xuống. Những ngôi nhà có cửa chính hướng thẳng ra hẻm hoặc đường lớn rất dễ bị xung khí xộc thẳng vào nhà. Sống trong ngôi nhà như vậy, gia đình bạn sẽ bị hao tổn cả sức khỏe lẫn tài sản. Để khắc phục, bạn hãy xây tường rào cao ngang tầm với cửa để tránh trực xung này. Tuy nhiên, tường rào quá cao lại tạo cảm giác tù túng, ức chế. Muốn hóa giải điều này, bạn nên thiết kế tường gạch bên dưới, kết hợp với hàng rào sắt và trồng cây dây leo lên trên. Tuyệt đối không thiết kế cửa chính nằm thẳng hàng với các cửa vào phòng hoặc cửa hậu. Vì cửa mở xuyên suốt từ trước ra sau nhà sẽ tạo nên hiện tượng "xuyên đường phong". Khi đó, không chỉ sức khỏe của cả gia đình bạn bị ảnh hưởng mà bao vận may, tài lộc vào nhà theo cửa chính cũng sẽ nhanh chóng trôi tuột đi . Bảo vệ cửa chính Từ xưa, người Trung Quốc đã biết cách sử dụng các biểu thượng bảo vệ, đó là: tượng sư tử, rồng, lân, đại bàng... Ngày nay, biện pháp này vẫn được nhiều người áp dụng. Chỉ cần đặt 2 bức tượng sư tử hoặc lân bằng đồng hoặc đá ở hai bên cửa hoặc cột cổng, tài sản trong nhà bạn sẽ được bảo vệ. Những biểu tượng có khả năng thu hút năng lượng từ vũ trụ, tăng cường cho vùng không gian sống của gia đình bạn. Nếu không chỉnh sửa được hiện tượng "xuyên đường phong", bạn cũng có thể kê bình phong, treo rèm, đặt một vài chậu cây,... để ngăn chặn bớt luồng khí xấu. Hà Thu PHONG CÁCH nguồn tintuconline
  7. Tần Thủy Hoàng - "Đại Đế tốt đen" trong trò chơi cung đình? Thứ hai, 7/7/2008, 07:00 GMT+7 Tần Thủy Hoàng (259 – 210 trước CN), được xưng tụng là “thiên cổ nhất đế”. Cho đến nay, dẫu đã hơn hai ngàn năm nhưng những tranh cãi về công về tội của Tần Doanh Chính vẫn còn chưa ngớt. Gần đây, giới nghiên cứu lịch sử Trung Quốc đưa ra kiến giải cho rằng Tần Thủy Hoàng không phải chết vì bệnh mà bị chính sủng thần của mình Triệu Cao giết chết. Nếu sự thực chết vì một mưu đồ chính biến, Tần Thủy Hoàng sẽ không chỉ là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc mà cũng là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử bị giết. Tần Thủy Hoàng chết vì bệnh? Lâu nay người ta vẫn cho rằng Tần Thủy Hoàng chết vì bạo bệnh, và điều này được “Sử Ký” ghi chép rất rõ ràng. Như trong Tần Thủy Hoàng bản kỷ, Lý Tư liệt truyện, Mông Điềm liệt truyện…. nguyên nhân cái chết rất rõ ràng, không có gì đáng nghi ngờ cả. Năm 218 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng đi tuần du phía đông bị người hành thích, hai bộ xe đi sau bị thích khách dùng chùy đật nát. Sau đó lại phát hiện trên một tảng đá có khắc chữ là “Thủy Hoàng chết, đất phân chia”, lại thêm lời nói “Năm nay Tổ Long chết” từ một “tiên nhân”. Tần Thủy Hoàng rất mê tín, đối với những hiện tượng này thì cảm thấy rất bất an. Tượng Tần Thủy Hoàng Để trừ tai tránh nạn, tìm thuốc trường sinh bất tử, Tần Thủy Hoàng nghe theo lời của một thầy bói có tiếng, chuẩn bị tuần du lần thứ năm. Nhưng do trên đường đi lao lực, Tần Thủy Hoàng tới bến Bình Nguyên (nay ở gần Bình Nguyên, Sơn Đông) thì ngã bệnh. Triệu Cao phụng mệnh viết di chiếu, truyền mệnh cho Giám quân Hà Thao là Phù Tô (con trai trưởng của Tần Thủy Hoàng)… Thư chưa kịp truyền đi, Tần Thủy Hoàng đã chết tại Hành cung Sa Khâu (Nay nằm ở gần Quảng Tông, Hà Bắc). Theo ghi chép của Sử ký, Tần Thủy Hoàng từ nhỏ đã mắc bệnh, thể chất yếu đuối, lớn lên lại ương ngạnh bảo thủ, việc lớn hay nhỏ đều tự mình quyết định, mỗi ngày phê duyệt văn thư lên tới 60 cân, làm việc cực kỳ mệt nhọc. Thêm nữa việc tuần du lại vào tháng 7 nóng nực. Tất cả các nhân tố bất lợi trên khiến cho Tần Thủy Hoàng mắc bệnh mà chết. Điều khiến nhiều người thắc mắc chính là Tần Thủy Hoàng chết vì bệnh gì. Có người cho rằng Tần Thủy Hoàng mắc bệnh động kinh. Bệnh này thường phát tác vào tháng 4, khi mới phát thì chóng mặt, dạ dày khó chịu sau đó sẽ bị mất đi ý thức, cơ bắp bị co giật, sắc mặt thì tái đi, đồng tử mở rộng, ngừng hô hấp, sau đó cơ bắp toàn thân co rút, sùi bọt mép, ít nhất phải mười phút sau mới có thể tỉnh táo trở lại. Quách Mạt Nhược căn cứ theo Sử Ký - Tần Thủy Hoàng bản kỷ ghi chép “Tần vương mũi gẫy, mắt dài, lưng chim ó, tiếng như sói, ít tạo ơn lại thâm độc”. Phỏng đoán Tần Thủy Hoàng từ nhỏ mắc chứng xương mềm, thường phải chống chọi với việc khó thở, nên khi lớn lên ngực giống với chim ó, tiếng giống như sói. Càng về sau do công việc triều chính nặng nề, làm nảy sinh những bệnh chứng của viêm màng não và động kinh. Khi Tần Thủy Hoàng xuống Hoàng Hà, bệnh động kinh lại phát tác. Sọ não sau lại va vào đồ đựng đá, làm tăng thêm bệnh viêm màng não, người rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh. Ngày thứ hai, khi xe đi tới Sa Khâu thì Triệu Cao và Lý Tư mới phát hiện ra được Tần Thủy Hoàng đã chết được khá lâu rồi. Cái chết của Tần Thủy Hoàng là một cuộc chính biến? Nhưng cũng có một quan điểm khác, dựa trên một số tài liệu sử sách có liên quan tới cái chết của Tần Thủy Hoàng phát hiện ra một số điểm khả nghi. Triệu Cao là một viên hoạn quan, bố mẹ đều là tội nhân của nước Tần. Phụ thân Triệu Cao phải chịu cung hình của nước Tần, mẹ là một nô tì cho một viên quan lại. Anh em Triệu Cao được sinh ra ở trong Tần cung, sinh ra đã làm nô tì. Về sau Tần Thủy Hoàng nghe nói Triệu Cao thân thể cường tráng, lại hiểu “ngục pháp” (điều luật về hình phạt trong ngục) liền đề bạt làm Trung xa phủ lệnh. Những biểu hiện của Triệu Cao khi Tần vương bị bệnh nặng và sau khi chết không thể không khiến người ta hoài nghi rằng cái chết của Tần vương có liên quan tới Triệu Cao. Theo Tần Thủy Hoàng, trong lần xuất du này chủ yếu có Triệu Cao, Lý Tư, Hồ Hợi. Thượng khanh Mông Nghị cũng đi theo đám tùy tòng này. Mông Nghị tức là em trai của Mông Điềm, là thân tín của Phù Tô, nhưng khi Tần Thủy Hoàng bị bệnh nặng trên đường thì Mông Nghị lại bị sai quay trở về biên quan. Từ việc chuyển dời nhân sự đột ngột như thế có thể thấy đây dường như chính là một âm mưu do bọn Triệu Cao cùng sắp đặt. Bởi Mông Điềm dẫn hơn ba mươi vạn binh theo công tử Phù Tô đóng ở Thượng Quận. Đẩy Mông Nghị đi cũng chính là trừ khử tai mắt của Phù Tô. Lại thêm Triệu Cao từng bị Mông Nghị trị tội tử hình nhưng sau đó được Tần Thủy Hoàng miễn tội, Triệu Cao mới được phục hồi quan tước. Triệu Cao hận tới tận xương tủy. Cao từng thề rằng phải tiêu diệt sạch cả họ Mông. Đẩy Mông Nghị đi khi Tần Thủy Hoàng bị bệnh nặng cũng chính là một bước trong kế hoạch trừ khử hòn đá ngáng chân này. Tần Thủy Hoàng chết, Triệu Cao vừa uy hiếp Lý Tư, vừa thuyết phục Hồ Hợi. Sau khi ba người cùng bàn tính kế hoạch. Giả tạo di chiếu của Tần Thủy Hoàng để ban bố, giao ngôi vua lại cho Hồ Hợi. Đồng thời mượn danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng chỉ trích Phù Tô làm con mà bất hiếu, Mông Điềm làm thần tử mà bất trung, bắt hai người phải tự sát mà không được kháng lệnh. Khi nắm được tin tức chính xác là Phù Tô đã tự sát, Hồ Hợi, Triệu Cao, Lý Tư mới lệnh cho đội xa giá ngày đêm trở về thành Hàm Dương. Để tiếp tục lừa đám thần dân, đội xe không dám đi đường tắt để về Lạc Dương mà vẫn như đang tiếp tục tuần du, đi đường vòng về Lạc Dương. Thời tiết nóng nực, thi thể của Tần Thủy Hoàng đã bị rữa và bốc mùi hôi thối. Để tránh tai mắt, Hồ Hợi sai người mua thật nhiều cá để chất lên xe. Về tới Hàm Dương, Hồ Hợi kế vị, xưng là Tần Nhị Thế, Triệu Cao giữ chức Lang trung lệnh, Lý Tư vẫn giữ chức Thừa tướng như cũ, nhưng thực tế quyền bính ở trong triều đều đã nằm trong tay của Triệu Cao cả. Triệu Cao sau khi thực hiện được âm mưu, bắt đầu hạ độc thủ với những người thân tín bên mình. Hắn bày ra cạm bẫy, từng bước một đưa Lý Tư lên đoạn đầu đài. Lý Tư khi phát giác được âm mưu của Triệu Cao liền viết thư cáo giác. Tần Nhị Thế không những thiên vị Triệu Cao lại còn trị tội Lý Tư, cuối cùng Lý Tư bị xử trảm ngang lưng tại Hàm Dương. Triệu Cao lên nhậm chức thừa tướng, do là hoạn quan, nên có thể ra vào cung cấm, thường xưng là Trung thừa tướng. Nhưng mục đích của Triệu Cao không chỉ ở đó mà còn muốn làm hoàng đế. Triệu Cao không thể chi phối được Tần Thủy Hoàng khi còn sống. Trong lần thứ năm đi tuần du này, việc Tần Thủy Hoàng lâm trọng bệnh đúng là một cơ hội trời cho. Chỉ khi Tần Thủy Hoàng chết thì Triệu Cao mới có khả năng giả truyền di chiếu, từng bước, từng bước thực thi kế hoạch của mình. Tần Thủy Hoàng bị bệnh chết hay là bị hại? Cho tới bây giờ cũng không hề có một kết luận nhất chính xác. Nếu như bị hại, Triệu Cao làm thế nào để giết Tần Thủy Hoàng đây? Triệu Cao Quách Mạt Nhược từng viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử Cái chết của Tần Thủy Hoàng, mô tả bệnh trạng của Tần Thủy Hoàng trước lúc chết như sau: “Tai phải chảy máu đen, trong tai trái có một cây đinh sắt”. Quách Mạt Nhược cho rằng Hồ Hợi sợ đêm dài lắm mộng, lo lắng Triệu Cao, Lý Tư thay đổi ý định mưu sát Tần Thủy Hoàng nên phải hạ độc thủ trước. Việc này Lý Tư và Triệu Cao cũng không rõ. Thực tế thì khả năng Triệu Cao tiến hành mưu hại Tần Thủy Hoàng lớn hơn Hồ Hợi rất nhiều. Bởi vì ngọc tỉ, chiếu thư đều nằm trong tay Triệu Cao, việc quyết định kế vị vương quyền cũng nằm trong tay của Triệu và Lý. Cho dù Hồ Hợi có giết được cha mình đi chăng nữa, nếu như không có sự phối hợp của Triệu Cao và Lý Tư thì cũng hoàn toàn không thể nắm giữ được vương vị mà ngược lại còn mang họa vào thân. Lại thêm một điều là Triệu Cao thường ở bên hoàng đế, tùy lúc có thể hành sự mà khó có thể bị lộ. Điều này tiện hơn Hồ Hợi rất nhiều. Triệu Cao mưu sát Tần Thủy Hoàng vì đâu? Vấn đề là ở chỗ, Triệu Cao vì sao lại muốn mưu hại Tần Thủy Hoàng? Nguyên nhân chủ yếu nằm ở việc Triệu Cao sợ Phù Tô kế thừa vương vị. Triệu Cao từng nói với Lý Tư rằng “Trưởng tử (tức Phù Tô) tính tình cương nghị lại có vũ dũng, được người tin tưởng lại có thêm dũng sĩ, ắt sẽ dùng Mông Điềm làm thừa tướng”. Như những lời nói ở trên, do Triệu Cao căm thù Mông Quát, Mông Điềm tới tận xương tủy, chắc chắn không hề muốn cho họ Mông được đắc sủng, nên không đời nào lại muốn cho Phù Tô kế vị. Nhưng Tần Thủy Hoàng lại sủng ái con trai trưởng của mình là Phù Tô nên chỉ còn cách thừa cơ giết Tần Thủy Hoàng mới có thể đưa Hồ Hợi lên được. Tần Thủy Hoàng bình thường thân ở chốn thâm cung, lại thêm phòng bị rất nghiêm ngặt, Triệu Cao thực sự không hề có cách gì để hạ thủ. Bây giờ Tần Thủy Hoàng bị bệnh trên đường quả đúng là cơ hội ngàn năm có một. Chính như khi Triệu Cao khuyên Hồ Hợi thì nói “Hồ nghi do dự, sau ắt phải hối hận. Quyết đoán mà làm quỷ thần không biết, ắt hẳn thành công”, cho nên sẽ tìm cách hạ độc thủ với Tần Thủy Hoàng. Kết thúc sớm cuộc sống của Tần là hoàn toàn có khả năng. Triệu Cao có thực sự dám dùng thủ đoạn đầy nguy hiểm để mang trên mình cái tội danh giết vua hay không? Chính lời nói của Triệu Cao cũng là lời giải thích rõ ràng nhất cho việc này. Triệu Cao nói với Hồ Hợi: “Thần nghe Thang Vũ giết chủ, thiên hạ xưng là nghĩa, không phải là không trung vậy. Vệ Quân giết cha mà vận nước Vệ kéo dài, Khổng Tử làm sách, không cho đó là bất hiếu vậy”. Triệu Cao không những có cả nghị luận với việc giết vua, mà sau này còn công khai hành động. Khi Tần Nhị Thế phong cho Triệu Cao làm Trung thừa tướng không lâu thì Trần Thắng, Ngô Quảng ở Đại Trạch cùng dựng cờ khởi nghĩa, nhóm lên ngọn đuốc đấu tranh của nông dân. Triệu Cao cũng biết thiên hạ đã đại loạn, chuẩn bị thoán vị xưng đế, nhưng các đại thần ở trong triều liệu có bao nhiêu người nghe theo sự sắp đặt của mình, bao nhiêu người sẽ phản đối? Trong lòng của Triệu Cao cũng còn có́ chỗ hồ nghi. Đây là nguyên cớ cho “vở diễn” Chỉ hươu làm ngựa nổi tiếng. Một hôm sau khi lên triều, Triệu Cao bèn sai người mang tới một con hươu vào cung Hàm Dương, đem dâng cho Tần Nhị Thế, nói với Tần Nhị Thế: “Bệ hạ, thần xin dâng người một con ngựa tốt”. Tần Nhị Thế nhìn thấy nghĩ: “Đây nào phải ngựa, rõ ràng đây chỉ là một con hươu mà thôi!”, bèn cười mà nói với Triệu Cao: “Thừa tướng ngươi nhầm rồi, làm sao lại có thể nói con hươu biến thành con ngựa được?”. Triệu Cao mặt không hề biến sắc nói tiếp: “Bệ hạ người xem kỹ xem, đây thực là một con thiên lý mã”. Tần Nhị Thế lại nhìn con hươu, bán tín bán nghi mà nói: “Đầu ngựa sao lại mọc ra được sừng?”. Triệu Cao bèn xoay người dùng tay chỉ xuống các đại thần, nói lớn: “ Nếu bệ hạ không tin lời của thần thì có thể hỏi các vị đại thần”. Các đại thần đều bị lời nói của Triệu Cao mà không biết đâu là thực hư, khi nhìn lên mặt của Triệu Cao thì thấy trên khuôn mặt đó một nụ cười nham hiểm, các vị đại thần chợt hiểu ra dụng ý của Triệu. Trong số họ, có người sợ đắc tội với Triệu Cao mà không dám nói thật, chỉ có thể yên lặng không nói gì, có kẻ thì muốn lấy lòng Triệu Cao liền nói theo rằng đó là ngựa, có người tôn trọng sự thực thì nói thẳng đó chỉ là hươu. Đối với những kẻ không nói gì, đặc biệt là những kẻ có lòng nói lời nịnh bợ mình thì lập tức trở thành đối tượng dưới trướng của Triệu Cao. Nắm rõ được tình hình, không lâu sau Triệu Cao bèn sai con rể của mình là Hàm Dương lệnh Diêm Lạc đem binh mã hơn nghìn người, giả làm đạo tặc, xông vào Vọng Di cung, bức Hồ Hợi tự sát. Hồ Hợi đã cố gắng khẩn cầu nhưng Diêm Lạc trả lời: “Thần nhận mệnh của thừa tướng, vì thiên hạ mà giết người”. Hồ Hợi không còn cách nào chỉ có thể tự sát. Sau đó Triệu Cao đem ngọc tỉ đeo trên thân mình, muốn tự lập làm hoàng đế nhưng quần thần đều nhất loạt phản đối. Triệu Cao cũng không có cách nào hết, chỉ có thể đưa cháu của Hồ Hợi là Tử Anh làm vua. Từ những việc làm của Triệu Cao có thể thấy Triệu Cao là người lòng lang dạ sói, việc giết vua cũng không có gì là lạ. Quan điểm này trên thực tế cho rằng cái chết của Tần Thủy Hoàng là một cuộc chính biến trong triều đình, mà đạo diễn chính cho vở kịch này chính là Triệu Cao, còn Phù Tô, Mông Điềm, Mông Nghị, Lý Tư, Hồ Hợi… đều là những vật hy sinh cho vở diễn này. Việc Tần Thủy Hoàng thực chất đã bị Triệu Cao giết như thế nào, đây cũng vẫn còn là một trang thiếu của lịch sử song có rất nhiều khả năng rằng Tần Thủy Hoàng không những là hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc mà cũng là vị hoàng đế đầu tiên bị giết. Tiếu Chi (Vietimes) dịch từ Mật mã lịch sử của tác giả Hà Ức, Nhà xuất bản Công nhân Trung Quốc, 2007.
  8. Nhờ những hình minh họa Ô cửa đem tới tài lộc , Thầy đã nhắc nhở chúng em thêm 1 kinh nghiệm về sự đối xứng trong phong thủy lạc việt . Cám ơn Thầy .
  9. SỨC KHỎE Cua đồng chữa bệnh 16:15:43, 05/07/2008 Cua đồng - Ảnh: T.L Cua đồng thì ai cũng biết, nhưng hiểu rõ về công dụng chữa bệnh của các món chế biến từ cua đồng thì không phải ai cũng rành. Thực phẩm dinh dưỡng cao Cua đồng là cua nước ngọt, phổ biến ở khắp nước ta. Cua sống và đào hang ven các thủy vực (ao, hồ, đầm, ruộng nước...). Cua là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao: toàn thân con cua đều dùng được. Cua có hàm lượng protein cao, giàu vitamin và đặc biệt là các nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể con người. Cách sơ chế cua đồng thật giản đơn. Thời vụ cua béo chắc thường là vào mùa hè. Chọn cua càng to, lưng gù là cua chắc, có nhiều thịt. Bỏ cua vào nồi đổ nhiều nước, dùng que (hoặc đũa) khoắng và thay nước nhiều lần để làm sạch bùn đất bám ngoài thân cua. Theo Đông y, cua đồng có vị mặn, tính hàn, có tác dụng hoạt huyết, chữa tổn thương gân, xương, sản phụ máu không ra hết sinh đau bụng, trong lòng bồn chồn phiền muộn, trẻ em hở thóp, chữa bệnh cảm phong tà phát sốt, giải các thứ độc, hút được độc ra ngoài cơ thể, chữa mụn nhọt, giúp cứng xương, nuôi gân. Trong trước tác của Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông đều có nói tới tác dụng chữa bệnh của cua đồng. Theo các tài liệu của Trung Quốc, cua đồng có tác dụng điều trị các triệu chứng ung thư rất tốt. Bệnh nhân ung thư vòm họng thường bị nổi hạch ở cổ, cua đồng có tác dụng "tiêu hạch, tán kết" nên ăn cua đồng là rất tốt. Đối với bệnh nhân ung thư tuyến vú cho ăn cua đồng và lấy mai cua, càng cua rửa sạch, phơi khô, nghiền thành bột mịn pha với nước uống rất thích hợp. Những bài thuốc từ các món cua đồng Chữa bị thương sưng đau - cua đồng 10 con, rửa sạch, bỏ mai, yếm giã nhỏ cho nước vào lọc lấy 100 ml nước cua đặc, cho 20 ml rượu trắng vào quấy đều, chia làm 2 lần dùng trong ngày và dùng liền 2 - 3 ngày; Chữa mất ngủ, trong người bồn chồn - nấu canh rau rút, khoai sọ với cua đồng cho ăn vào buổi chiều, ăn liền 5 ngày; Chữa trẻ em hở thóp - cua đồng 1 con rửa sạch giã nhỏ cùng 10g bạch cập đắp vào thóp trẻ, dùng băng buộc lại 10 tiếng đồng hồ rồi bỏ đi. Hai ngày sau lại làm lại. Làm 5 lần liền; Chữa viêm vú cấp - lấy 10 cái mai cua rang chín vàng sẫm, tán bột mịn ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g với nước pha 50% rượu trắng; Chữa sốt sau sanh - mai cua 100g, cho vào nồi đất đậy kín, đốt lửa xung quanh sau 1 giờ lấy mai cua tán bột mịn cho uống ngày 3 lần, mỗi lần với nước sôi để nguội pha 50% rượu trắng; Thúc đẻ, xuống thai - càng cua 60g với một lượng hoàng tửu (rượu vàng) vừa phải sắc với nước rồi uống. Sau sanh máu không thông - 3 con cua đồng hấp chín với rượu vàng (hoàng tửu) ngày uống 1 lần, khi thông huyết thì thôi. Chữa ong đốt - lấy cua đồng sống đem đốt tồn tính (đốt kín không có oxy), nghiền thành bột, trộn với mật ong bôi vào chỗ ong đốt ngày 2 lần; chữa sai trẹo khớp lưng - 3 con cua đồng rửa sạch, giã nhỏ trộn với 50g đường trắng đắp chỗ đau. Ngày thay 1 lần, đắp liền 3 - 5 ngày. Lương y Vũ Quốc Trung Lưu ý, do cua có tính hàn nên người có biểu hiện tỳ vị hư hàn (lạnh) cần hạn chế. Nếu người có cảm giác sợ lạnh, bị tiêu chảy không nên ăn cua. Gạch cua có nhiều cholesterol, nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch hạn chế dùng. Khi ăn cua, nên ăn cùng lá tía tô, gừng để làm giảm bớt tính hàn của cua. Con cua thường có 2 càng to và 8 cẳng (chân). Có loại cua đồng chỉ có 6 hoặc 4 cẳng (chân) hoặc có 1 mắt đỏ, dưới bụng có lông, trong bụng có xương, đầu, lưng có chấm sao, chân có khoang thì chớ ăn mà hại đến người. nguồn thanhnienonline
  10. Chiều cao và chiều ngang đều phải có thông số , Phoenix hỏi 1m45 , Wild chưa có bản thông số ở đây . wild sẽ tìm và post lên sau . tuy nhiên có trường hợp bị phạm cung xấu vẫn có cách khắc phục , đợi nhé ! không lâu đâu !
  11. Chất liệu cửa : Sắt , gỗ , Thép , inox , kiếng . Loại : cuốn , kéo , lùa , đóng mở đều không ảnh hưởng nếu lọt lòng khuôn cửa được đo chuẩn vào các cung tốt theo thước lỗ ban ( mà ở đây lại là thước của Thầy nào cho chính xác lại thêm 1 vấn đề được đặt ra ). Điều lưu ý : Tuyệt đối cánh cửa không được mở ra phía ngoài . vài kiến thức nhỏ bé được đóng góp .
  12. BÍ MẬT KIẾN TRÚC CỦA KINH ĐÔ BẮC KINH Phật Hương các trên Vạn Thọ Sơn, phía dưới là hồ Côn Minh. Bắc Kinh là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Căn cứ các số liệu mới được công bố gần đây thì diện tích tự nhiên của Bắc Kinh là 16.808 km2, trong đó khu nội đô là 2.738 km2. Số dân của Bắc Kinh là 10.819.000 người gồm đủ 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 96%. Nằm trên đỉnh phía bắc của bình nguyên Hoa Bắc, lưng dựa vào dãy núi Yên Sơn và cao nguyên Nội Mông hùng vĩ, phía tây là dãy Thái Hoàng Sơn, phía đông là vịnh Bột Hải, phía nam là vùng đồng bằng rộng lớn, Bắc Kinh là 1 trong 6 kinh đô của các triều đại Trung Quốc (TQ) với bề dày hơn 3.000 năm lịch sử. UNESCO đã đánh giá Bắc Kinh là một trong những kinh đô còn giữ được những kiến trúc cổ từ hàng mấy ngàn năm trước và rất nhiều trong số đó được bảo tồn hầu như nguyên vẹn cho tới ngày nay. Bắc Kinh cũng được đánh giá là một trong những thủ đô có phong cách kiến trúc hiện đại, nhưng cũng là thủ đô mang đậm “tính phương Đông điển hình”. Theo các nhà địa lý và phong thủy học thì một trong những nguyên nhân để Bắc Kinh có được những đặc điểm đó vì Bắc Kinh ở vào vị trí đặc biệt, là nơi “hội tụ Trung Hoa linh khí chi địa” (nơi hội tụ của khí thiêng Trung Hoa). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều thế hệ các nhà khoa học TQ và thế giới bỏ ra nhiều công sức để nghiên cứu Bắc Kinh. Bằng nhiều con đường nghiên cứu khác nhau, trong đó có việc tiếp cận vấn đề theo phương pháp truyền thống dân gian (mà người TQ gọi là phong thủy học) kết hợp với việc sử dụng những phương tiện nghiên cứu hiện đại (như sử dụng ảnh vệ tinh đa chiều, chụp ảnh bằng hồng ngoại, viễn thám, địa chất, địa đồ, kiến trúc...) các nhà khoa học TQ và thế giới đã phát hiện ra những đặc điểm “rất lạ lùng” trong kiến trúc xây dựng thành cổ Bắc Kinh của người xưa. Một trong những “đặc điểm lạ lùng” đó là bố cục hình tượng “song long” (hai con rồng) trong bố cục toàn cảnh kiến trúc của Bắc Kinh. Con rồng thứ nhất được gọi là “thủy long” (rồng nước), còn con thứ hai là “lục long” (rồng cạn) vô cùng kỳ thú. Quả thực nếu quan sát từ trên máy bay hoặc căn cứ vào bản đồ thực địa, người ta dễ dàng nhận ra ngay hình tượng của hai con rồng đó. Toàn bộ hệ thống các hồ đầm của Bắc Kinh đã tạo ra một "thủy long" hướng theo hướng tây bắc cực kỳ sinh động. Thủy long có đầu là Nam Hải, mắt là đảo Hồ Tâm, thân được tạo bởi Trung Nam Hải và Bắc Hải, còn Thập Sa hải chính là phần đuôi. Lục long thì lại được tạo nên bởi hệ thống trục đường giao thông chính của Bắc Kinh. Thiên An Môn chính là cái mõm, Kim Thủy kiều là cái sừng, hai đường đông và tây Tràng An chính là hai cái râu, cả một dải từ Thiên An môn đến Ngọ môn chính là cái mũi. Thái Miếu và di chỉ của đền Xã Tắc chính là hai cái mắt, Cố Cung là phần thân và phần xương đuôi, 4 ngôi lầu ở 4 góc hợp thành 4 cái móng. Đường Cảnh Sơn, đường Địa An môn và Chung Cổ lầu tạo thành dải đuôi. Còn Chính Dương môn như một hạt bảo ngọc mà rồng đang vươn tới, tạo thành một lục long với thế rất phi phàm khiến người ta phải kinh ngạc. Có thể bố cục “song long” của Bắc Kinh được hoạch định ngay từ khi được khởi công xây dựng vào triều Minh (1368-1644), bởi hình tượng “rồng” phản ánh tư tưởng “quân, thần” (vua, tôi) rất được đề cao trong giai đoạn lịch sử này. Nhìn từ một góc độ nào đó thì người xưa đã quan niệm Bắc Kinh là “hưng long chi địa” (mảnh đất của rồng), còn các bậc đế vương là “thiên hạ long chủng” (vua là rồng từ trên trời xuống). Đây được đánh giá là nét đặc sắc nhất trong việc áp dụng những tri thức về mặt phong thủy học phương Đông vào trong quy hoạch tổng thể cũng như trong từng khu riêng biệt của những kiến trúc sư khi tạo dựng nên kinh đô Bắc Kinh. Và đây cũng có thể là một đặc điểm hiếm thấy ở bất kỳ một thành phố nào khác trên thế giới. Không chỉ có sự kỳ lạ trong bố cục toàn cảnh, mà khi đi sâu tìm hiểu kiến trúc của các khu vực riêng biệt, thì hình như mỗi khu của Bắc Kinh cũng có những đặc điểm kỳ lạ. Thí dụ như việc phát hiện ra “tọa nhân tượng” (tượng người ngồi) tại khu công viên Cảnh Sơn. Cảnh Sơn là khu công viên nằm đối diện với cửa Thần Vũ thuộc cửa Bắc của Tử Cấm Thành. Thời Nguyên thì đây là một gò đất nằm trong khu nội đô có tên là Thanh Sơn. Đến năm Vĩnh Lạc thứ 10 (1416) thuộc triều Minh, khi tiến hành xây dựng các cung điện, người ta đã mang các phế thải khi phá bỏ các thành lũy cũ của triều Nguyên cũng như các đất cát từ việc nạo vét các con sông bảo vệ Tử Cấm Thành, đổ vào đây, tạo thành một trái núi được gọi là Vạn Tuế sơn. Với hàm ý dùng để trấn áp “vương khí” của triều Nguyên, nên núi này còn được gọi là Trấn Sơn. Theo truyền thuyết về hoàng cung, thì tại đây có tích chứa rất nhiều than, nên còn được gọi là Môi Sơn (núi than). Đến năm Thuận Trị thứ 12 triều Thanh (1655) Môi Sơn được đổi tên thành Cảnh Sơn. Tại cuộc triển lãm trưng bày các thành tựu nghiên cứu diện mạo Bắc Kinh bằng viễn thám vào tháng 3/1987, Quỳ Trung Vũ, một chuyên gia về ảnh hồng ngoại viễn thám có gửi tới một tấm ảnh làm chấn động dư luận lúc bấy giờ: trên bức ảnh chụp từ vệ tinh bằng kỹ thuật tia hồng ngoại mặt bằng của khu công viên Cảnh Sơn (bao gồm quần thể kiến trúc đoạn từ phía bắc của Tử Cấm Thành trên trục đường Bắc Kinh và công viên Cảnh Sơn), hiện lên rõ ràng bức tượng một người đang ngồi xếp bằng tròn với đôi mắt khép hờ. Bức tượng đặc biệt này được gọi là “Cảnh Sơn tọa tượng” hay còn gọi ngắn gọn là “nhân tượng”. Phần đầu của “nhân tượng” được tạo bởi quần thể kiến trúc Thọ Hoàng điện của công viên Cảnh Sơn, trong đó Đại Điện và Cung Môn tạo thành mắt, mũi và miệng. Khuôn mặt “nhân tượng” đang phảng phất mỉm cười. Phần lông mi được tạo bởi tổ hợp các hàng cây. Riêng bộ râu được tạo bởi rừng cây có hình tam giác cực kỳ đối xứng, mặc dù nó đã bị tường bao phía ngoài của Thọ Hoàng điện làm gián đoạn. Qua việc phân tích rất cẩn thận và công phu, người ta còn nhận thấy những bức tường vây quanh 4 phía của Công viên Cảnh Sơn tạo thành khung của bức tượng tuân theo đúng “tỉ lệ vàng” 0.32 trong xây dựng. Nếu quả thật đây đúng là bức tượng người được tạo ra theo ý định trước, thì nó là bức tượng người được tạo ra lớn nhất thế giới. Sau này đã có rất nhiều tấm ảnh chụp từ vệ tinh bằng những phương pháp khác nhau về diện mạo của khu vực. Và trên tất cả các tấm ảnh đó người ta đều thấy “nhân tượng” hiện ra rất rõ ràng. Vậy thì bức tượng người ngồi Cảnh Sơn là tượng của ai? Qua quá trình nghiên cứu, Quỳ Trung Vũ phát hiện ra một điều bí mật. Ở đầu cực bắc trên tuyến đường trục của Cố Cung có ngôi điện Khâm An được xây dựng vào thời Vĩnh Lạc (triều Minh). Trong điện có thờ một bức tượng được gọi là tượng thủy thần Huyền Vũ đế. "Huyền" có nghĩa là "màu đen", “Vũ” được người xưa giải thích là “ô quy xác” (vỏ của con rùa đen). Theo phong thủy thì “huyền vũ tại ngũ phương” là biểu thị của "bắc phương" (phương bắc), “tại ngũ hành trung” biểu thị cho “thủy” (nước). Vì ngôi điện này hầu như không bao giờ được mở cửa nên bức tượng và những đồ vật có từ thời Minh hầu như vẫn còn được bảo quản nguyên vẹn. Khi đối chiếu bức tượng Huyền Vũ đế trong Khâm An điện với “nhân tượng” thì rõ ràng hai bức tượng là rất giống nhau, chúng chỉ khác nhau về kích cỡ mà thôi. Vậy liệu tượng Huyền Vũ đế và tượng Cảnh Sơn có mối liên quan gì không? Phải chăng tượng Huyền Vũ đế là “bản mẫu thu nhỏ” để người ta tạo ra “nhân tượng khổng lồ”? Và tại sao “nhân tượng” lại xuất hiện tại Công viên Cảnh Sơn, nằm trên trục đường chính của Bắc Kinh? Để giải đáp mối thắc mắc đó, Quỳ Trung Vũ đã tự mình bỏ công nghiên cứu và nhờ rất nhiều học giả có uy tín trong đó có Phổ Kiệt tiên sinh, một chuyên gia về thư tịch cổ, xin tư vấn để làm rõ về sự liên quan đó cũng như cho câu hỏi liệu rằng bức “nhân tượng” được tạo ra một cách có ý đồ kiến trúc hay là được hình thành do ngẫu nhiên? Nếu như “nhân tượng” được tạo ra là có ý đồ, thì chắc phải có tài liệu (bản vẽ, tranh vẽ hoặc văn bản...) nói về điều này. Nhưng đáng tiếc là cho tới nay người ta vẫn chưa tìm được bất kỳ tài liệu nào minh chứng cho điều này. Một địa điểm xây dựng nữa của Bắc Kinh cũng mang tính kỳ bí không kém, đó là Di Hòa viên. Di Hòa viên là một công viên nằm ở phía tây Bắc Kinh, diện tích khoảng 290 hécta, trong đó 3/4 là diện tích mặt nước. Đây là khu vui chơi giải trí nổi tiếng dành riêng cho hoàng gia của các triều đại Trung Hoa. Lịch sử đã ghi nhận, khu công viên này được hình thành từ triều Kim (1115 - 1234). Tại đây các vị hoàng đế nhà Kim đã dựng lên vô số những hành cung nguy nga và những khu giải trí cực kỳ xa xỉ. Từ đó các triều đại tiếp nối nhau xây thêm nhiều công trình hoành tráng khác. Đến đời Vua Càn Long (1736-1796) nhà Thanh, quy mô khu công viên không những đã mở rộng một cách đáng kể, mà còn được xây thêm nhiều công trình mới, và đổi tên là Thanh Ý viên. Năm 1860 liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh đã tràn vào đây cướp bóc, đốt phá khiến Thanh Ý viên tan hoang. Năm 1888, Từ Hy Thái Hậu đã lấy 500 vạn lạng bạc vốn dĩ dùng để xây dựng hải quân, trùng tu lại Thanh Ý viên thành một công viên tráng lệ, và đổi tên thành Di Hòa viên (khu vườn di dưỡng tinh thần). Di Hòa viên mà ta thấy ngày nay chính là những gì được tạo ra từ lần trùng tu này. Nổi bật ở chính khu trung tâm là Phật Hương các, một ngôi chùa nhiều tầng nguy nga lộng lẫy nằm trong khu Vạn Thọ sơn, nơi để Từ Hy niệm Phật. Dưới chân Vạn Thọ sơn là hồ Côn Minh bao la gợn sóng. Một bến thuyền có hình dáng là một chiếc thuyền làm bằng đá nhô ra mặt hồ, ngay dưới Phật Hương các là nơi đón du khách lên thuyền dạo trên hồ. Men theo bờ hồ là một dãy hành lang dài 728 mét gồm nhiều gian, mỗi gian được kiến trúc khác nhau với những hình vẽ vô cùng tinh xảo mang đậm tính nghệ thuật Trung Hoa... Giữa hồ Côn Minh là hòn đảo nhỏ được nối với bờ bằng một chiếc cầu vồng làm bằng đá gồm 77 nhịp có tên là Thập Thất Khổng kiều. Cho tới ngày nay, Di Hòa viên vẫn được coi là một trong những công viên đẹp nhất thế giới. Di Hòa viên không những chỉ là một công viên đẹp, được coi là một kiệt tác về kiến trúc, mà người ta còn đồn rằng toàn bộ khuôn viên của Di Hòa viên đã được xây dựng theo bố cục rất chặt chẽ về mặt phong thủy thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ, theo một mật chỉ của Từ Hy Thái Hậu. Đã có nhiều người bỏ công nghiên cứu để tìm hiểu bí mật ẩn chứa trong Di Hòa viên, nhất là tìm hiểu xem có thật Di Hòa viên có bố cục thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ hay không, và nếu có thì nó đã được thể hiện như thế nào. Bước đột phá có tính chất quyết định để trả lời cho câu hỏi này là từ khi các nhà nghiên cứu có trong tay những bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hòa viên từ vệ tinh bằng kỹ thuật có độ phân giải siêu cao và kỹ thuật chụp hồng ngoại. Khi những tấm ảnh này được công bố, các nhà nghiên cứu đã vô cùng kinh ngạc về bố cục kỳ lạ của Di Hòa viên. Nhìn vào những tấm ảnh ta thấy ngay hồ Côn Minh có hình dáng là một quả đào lớn mà cuống của nó là con sông dẫn nước vào hồ qua cửa Tây Môn quan nằm ở góc phía bắc của Di Hòa viên. Con đê hẹp mà dài ở phía chếch mặt hồ tạo ra vết rãnh trên quả đào rất hoàn chỉnh. Dãy hành lang dùng làm đường đi lại men theo hồ Côn Minh ngay sát chân Vạn Thọ sơn thì giống như đôi xương cánh của một con dơi đang dang ra. Đường hành lang ở bờ bắc hồ Côn Minh thì rõ ràng là hình một cánh cung mà phần thâm nhập vào lòng hồ hình thành phần đầu của con dơi, phần nhô ra một cách đơn độc được dùng làm bến thuyền cho khách du ngoạn hồ Côn Minh chính là mõm của con dơi đó. Đường hành lang vươn dài sang hai phía tả hữu chính là đôi cánh dơi đang vươn ra. Đoạn hành lang ở phía đông và mái hiên nhà Ngư Tảo thâm nhập vào mặt nước và bởi đoạn hành lang ở phía tây tạo thành đôi móng chân trước của con dơi, còn núi Vạn Thọ sơn và cái hồ phía sau núi tạo thành thân của con dơi. Thập Thất Khổng kiều ở phía đối diện Vạn Thọ sơn thì đúng là chiếc cổ của một con rùa đang vươn dài, mà đầu của nó chính là hòn đảo nhỏ giữa hồ Côn Minh. Vì trước đây không có được bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hòa viên nên kiến trúc độc đáo của nó ít người nhận ra. Ngay cả Từ Hy Thái Hậu mặc dù đã lên tầng cao nhất của Phật Hương các trên đỉnh Vạn Thọ sơn thì cũng chỉ nhìn thấy một cách đại khái hình trái đào, cái đầu và cái cổ con rùa cũng như cái đầu và đôi móng con dơi. Những phần còn lại thì không thể nhìn thấy, nhất là phần thân con dơi do bị những kiến trúc khác che lấp. Theo thuật phong thủy truyền thống Trung Hoa thì quả đào tượng trưng cho Lộc, con dơi tượng trưng cho Phúc, còn rùa tượng trưng cho Thọ. Như vậy cấu trúc tổng thể của Di Hòa viên ẩn trong nó cả 3 điều mà Từ Hy mong muốn là Phúc Lộc Thọ đã được thể hiện bằng những hình tượng tuyệt vời. Phải chăng chính cấu trúc này là điểm khác biệt cực kỳ đặc sắc mà không có ở bất cứ một công viên nào khác tại TQ cũng như trên thế giới. Và tất cả những điều trên đã tạo nên một Bắc Kinh hiện đại, kỳ bí, thành phố kinh đô chủ nhà của Thế vận hội Olimpic lần thứ 29 Theo ANTG (nguồn vietbao)
  13. Trong vụ khủng bố năm 2001, ngoài hai tòa tháp đôi WTC nổi tiếng còn có một ngọn tháp thứ ba cũng bị sập hoàn toàn. Đây là một trong những bí ẩn gây nhiều tranh cãi nhất suốt 7 năm qua của sự kiện bi thảm này. > Bí ẩn cuối cùng của vụ 11/9 được giải mã Tháp 7 (Còn gọi là WTC 7) nhìn từ khu quảng trường Trung tâm thương mại thế giới ở New York. Công trình có mặt tiền bằng đá granit đỏ này cao 186 mét và gồm 47 tầng. Ảnh: 911 Research. Tháp 7 nằm nép mình bên trái hai toà tháp đôi WTC sừng sững, nhưng vẫn nổi bật trong khu tổ hợp cao ốc ở trung tâm New York với màu đỏ đặc trưng. Ảnh: Wikipedia. Vào ngày định mệnh 11/9, hai chiếc máy bay bị bọn khủng bố khống chế đã lần lượt lao vào toà tháp đôi WTC khiến chúng sụp xuống trong ít giờ, cướp đi sinh mạng hàng nghìn người. Đây là vụ khủng bố đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Ảnh: AP . Khói bay mù mù mịt tại New York sau khi tòa tháp đôi WTC đổ sụp, trong khi Tháp 7 (tòa nhà cao nhất trong ảnh) vẫn đứng vững vì không bị máy bay đâm. Ảnh: Debungking911. Tòa tháp đầu tiên trong tổ hợp tháp đôi WTC sập xuống hầu như không tác động lớn đến Tháp 7 (màu đỏ). Nhưng khi tòa tháp thứ hai ở phía bắc bị đổ đã văng nhiều mảnh vỡ về phía Tháp 7 vì chỉ cách nhau 106 mét và gây ra hư hại đáng kể cho nó. Ảnh: Debunking911. Một góc nhìn khác về Tháp 7, vài giờ sau khi hai tòa tháp đôi WTC đã sập với bụi trắng phủ khắp nơi. Lửa đang âm ỉ cháy ở một vài tầng trong Tháp 7. Ảnh: Martinfrost. Viện quốc gia về tiêu chuẩn và công nghệ Mỹ sắp công bố nguyên nhân chính thức giải thích việc Tháp 7 sập là do bị cháy. Nhưng với quy mô của đám cháy như nhìn thấy trong ảnh khiến nhiều chuyên gia cho rằng, đây không phải là lời giải thích thuyết phục. Họ vẫn nghiêng về giả thuyết Tháp 7 đã bị gài mìn giật sập một cách có chủ đích. Ảnh: 911research. Hình ảnh Tháp 7 đang từ từ sụp xuống trong sự bàng hoàng của mọi người, đúng 7 tiếng sau khi tòa tháp đôi WTC đã thành đống đổ nát. Ảnh: 911research. Đống đổ nát được cho là rất gọn gàng của Tháp 7. Các chuyên gia và kiến trúc sư cho rằng, việc công trình này sập xuống với tốc độ rơi tự do, cân xứng và rất trơn tru cho thấy đây không phải là một quá trình có nguyên nhân tự nhiên. Họ khẳng định đây là ví dụ rõ ràng của việc sử dụng thuốc nổ để phá hủy một tòa nhà trong sự kiểm soát. Ảnh: Debunking911. Hình ảnh chụp đống đổ nát của Tháp 7 ngày 23/9, tức là 12 ngày sau vụ khủng bố, cho thấy phần lớn khối bê tông và sắt thép đã được dọn đi một cách nhanh chóng. Việc hàng nghìn tấn thép của tòa nhà được chuyển đi nấu chảy một cách chóng vánh khi các nhà điều tra chưa kịp nghiên cứu kỹ để tìm nguyên nhân sập đã khiến gia tăng nghi ngờ kéo dài về số phận của Tháp 7. Ảnh: 911research. Các nhà nghiên cứu đặt câu hỏi tại sao phải vội vã di chuyển đống đổ nát khi cuộc điều tra còn chưa tiến hành tại Tháp 7. Đây vốn là nơi đóng văn phòng của một số cơ quan an ninh quan trọng của Mỹ nên càng làm những người theo thuyết âm mưu nghi ngờ. Họ một mực khẳng định Tháp 7 đã cố tình bị giật sập bằng mìn chứ không phải do cháy như nhà chức trách giải thích. Ảnh: 911research. Đây là tòa Tháp 7 mới được xây lên từ nền móng của tòa nhà cũ. Nó có kết cấu mặt tiền bằng kính thép hiện đại hơn so với mặt tiền bằng đá granit đỏ của tòa nhà cũ. Tháp7 mới có chiều cao 226 mét và gồm 52 tầng (tháp cũ cao 186 mét và gồm 47 tầng). Tòa nhà mới đã hoàn thành và đưa vào sử dụng nhưng tranh cãi về "tiền thân" của nó sẽ còn kéo dài vì những câu hỏi gây nghi ngờ vẫn còn lơ lửng. Ảnh: Wikipedia.
  14. Thắc mắc của bạn ở đường Link này http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...p?showtopic=524 .
  15. Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn động" Về những quan điểm nêu trong loạt bài "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động" đăng 7 kỳ trên báo Thanh Niên từ ngày 26/2 đến ngày 6/3/2008, chúng tôi đăng tải ý kiến của TS Nguyễn Việt, GĐ Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á (Viết theo đề nghị của TTXVN). Vì khuôn khổ có hạn, xin được lược đăng bài viết gần 5.000 từ này của TS Nguyễn Việt. 1. Có thể thiền sư Lê Mạnh Thát (LMT) đã có những phát hiện có giá trị cao về tư liệu lịch sử a. Thiền sư LMT có thể là một nhà nghiên cứu Phật giáo uyên bác. Ông đã có điều kiện và đã dành rất nhiều công sức để khai thác từ những tàng thư kinh Phật và sách sử liên quan đến kinh Phật. Quả thực, đây là một loại hình tư liệu có liên quan đến lịch sử văn hóa dân tộc nhưng không dễ khai thác đối với các nhà khoa học ngoại đạo. Chúng ta đều biết rằng nhà chùa và nhà thờ trong một thời gian dài dưới thời trung cổ luôn là những trung tâm văn hóa, giáo dục kiến thức khoa học. Rất nhiều nơi trên thế giới, các trường đại học đầu tiên ra đời từ các trung tâm tôn giáo như vậy. Trong hệ thống này, từ rất sớm đã có những kho lưu trữ, tàng thư, thư viện và những nhà tri thức uyên bác. Vì vậy, tôi trân trọng và đánh giá cao một số phát hiện của thiền sư LMT, ví dụ cuốn Lục độ tập kinh, sáu lá thư hồi đầu công nguyên, một số văn cảo, thơ ca do các nhà sư Việt Nam trước tác... Chắc chắn tới đây tôi và nhiều đồng nghiệp khác sẽ mong muốn được tiếp cận tìm hiểu những tư liệu mới này. b. Có nên chăng vì những phát hiện cá nhân về sử liệu mà xúc phạm các bậc tiền nhân? Không hiểu những hành vi của thiền sư được nhà báo viết trong bài có đúng sự thật không, như việc bức xúc nổi xung trước nhà sử học Ngô Sĩ Liên, chê cười một cách quá dễ dãi đối với nhà bác học Lê Quý Đôn hoặc trở nên thái quá với Triệu Đà, An Dương Vương. Thật vội vàng và khó tiếp thu quá. Đó là chưa kể, khi đi vào thảo luận học thuật, chưa chắc thiền sư LMT đã hiểu đúng bản ý của sử gia Ngô Sĩ Liên. Những lầm lẫn của nhà bác học Lê Quý Đôn khi dẫn chép lại các sách sử xưa cũng đã được phát hiện không phải là ít, chính vì vậy mới có công tác hiệu đính, bổ sung văn bản. Những nhầm lẫn như vậy trong khoa học cũng như trong sách sử kể ra thì nhiều lắm. Nhưng ngay cả những nhà hiệu đính văn bản cổ vào hạng bậc thầy như các giáo sư Đào Duy Anh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng... khi phát hiện những sai sót cũng chưa bao giờ dám dùng đến từ “khốn nạn” trên mặt báo để trách cứ, phê phán tiền nhân. c. Phải thừa nhận rằng bằng trí tuệ thông thái và lòng ham mê tra cứu, thiền sử LMT sẽ còn mang lại nhiều phát hiện mới về sử liệu và văn học có giá trị cho Phật học và Khoa học nhân văn Việt Nam nói chung. Rõ ràng, trong phạm vi Phật học, chắc chắn thiền sư là một chuyên gia rất đáng kính nể. Tuy nhiên, không mấy khó khăn để nhận ra ông không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp. Ông suy diễn chữ “Việt luật” trong tờ tấu của Mã Viện là bộ luật “thành văn” để chứng minh sự tồn tại một bộ máy nhà nước của người Việt đã có những văn bản pháp luật viết bằng chữ Việt cổ (TN 28/2/2008). Theo tôi, “Việt” là một phạm trù tộc danh rất rộng chỉ chung những nhóm tộc người khác Hoa Hạ ở phía Nam sông Giang Thủy (Trường Giang). Bản thân chữ Việt không bao hàm nghĩa quốc gia, nhà nước. Và khi người Hán (tên gọi người Hoa Hạ dưới thời nhà Hán) chinh phục miền đất phía Nam của người Việt nhận thấy phong tục của người Việt khác phong tục của người Hán khó cho việc cai trị nên mới xuất hiện bản tấu của Mã Viện. “Luật” ở đây nên hiểu là “luật tục” như từ ngữ mà chúng ta hiện dùng cho các quy ước xã hội trong các vùng dân tộc thiểu số nước ta. Nhiều nhà khoa học nước ta cũng như các học giả trên thế giới rất muốn chứng minh tính chất nhà nước của xã hội Hùng Vương, nhưng chưa ai dám dùng “Việt luật” trong bản tấu của Mã Viện để làm bằng chứng như thiền sư cả. Bởi không ai chứng minh được “Việt luật” trong tấu chương đó là một quyển sách có chữ viết thể hiện cho cuốn luật của một nhà nước. Khi minh chứng nước ta không bị nhà Tây Hán đô hộ sau khi họ chinh phục được nước Nam Việt của Triệu Đà, ông đã sử dụng phương pháp loại trừ “Phiên Ngung” không thể coi như “nơi đô hội” bằng cách chia bình quân số nhân khẩu của quận Nam Hải ra cho 6 huyện để tự áp cho Phiên Ngung - từng là thủ phủ của nước Nam Việt, một con số trung bình (15 ngàn người) để so với các huyện của Giao Chỉ trung bình lên đến 75 ngàn người. Từ đó suy ra Giao Chỉ không thuộc Tây Hán (TN 3/3/2008). Hình như ông đã không tham khảo các công trình nghiên cứu về Lịch sử nhân khẩu học và Lịch sử địa lý Trung Quốc và cũng cố tình không để ý đến ngụ ý Phiên Ngung thành trấn (“đô hội”) chứ không phải cả một vùng Phiên Ngung huyện. Nếu biết rằng trong toàn quận Nam Hải lúc đó có 94.253 khẩu nhưng mật độ dân số trung bình chỉ đạt dưới 1 người trên 1km2, thì con số tập trung ở Phiên Ngung thành trấn phải lên tới hàng chục ngàn người cư trú quanh một thành trì tương tự như quy mô thành Lũng Khê (Bắc Ninh) mỗi bề chừng 2km mà khảo cổ học đã khai quật nhiều lần. Người ta cũng đã khai quật được hàng ngàn mộ Hán tập trung tại thành Phiên Ngung này. Trong tương quan dân số đương thời, đó thực sự là một “nơi đô hội”. Khi gắng tìm về chữ viết của người Việt thời Hùng Vương, thiền sư dẫn ra một ngôi mộ gạch người Pháp đào được ở Bắc Ninh hồi đầu thế kỷ trước có chữ kiểu Hán ghi trên gốm mà người Hán không đọc được. Theo tôi, không phải chữ Hán nào người Hán cũng đọc được - vì thế mới có ngành giáp cốt, minh văn học. Suy luận rằng chữ mà người Hán không đọc được là chữ Việt thì cũng là hơi vội vàng. Dạng chữ giống chữ Phạn cổ thường được in trên gạch mộ Hán đương thời nhiều khi người Hán không đọc được đã đành, thậm chí những chuyên gia chữ Phạn cũng chỉ đoán mà thôi, bởi người thợ làm gạch không biết chữ đôi khi đã vẽ lên theo kiểu làm dáng. Hiện tại tôi đang giữ một viên gạch như vậy khai quật trong một mộ Hán ở Sông Khoai (Yên Hưng, Quảng Ninh). Đến tận đời nhà Minh, Thanh, khi vẽ chữ lên gốm, nhiều người thợ Trung Hoa ít chữ vẫn chỉ vẽ “tạo dáng” chữ Hán khiến chúng ta chỉ có thể đoán định dựa vào mẫu những chữ đã biết. Khảo sát những chữ Hán 100% được khắc trên các đồ đồng Đông Sơn vừa qua, trên một số trống đồng, thạp đồng, trong số gần 50 chữ, có vài ba chữ các chuyên gia cũng chưa đọc được, không thể đoán những chữ đó là chữ Việt được. Thứ hai, mộ gạch Hán chỉ xuất hiện ở Việt Nam lác đác vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Những mộ gạch đào được ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hải Dương đa phần thuộc thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, chịu ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa thời Đông Hán. Chữ trên gạch và gốm tùy táng đều là chữ Hán và có thể đọc được. Chúng tôi đang có trong tay hàng trăm chữ dạng như vậy. Hiện tượng “Việt ca” được Lưu Hướng chép lại trong Thuyết Uyển thời Tây Hán muộn (thế kỷ 1 trước Công nguyên) quả là một tư liệu rất quý, nó đã được rất nhiều người nghiên cứu tiếp sau Quách Mạt Nhược. Lưu Hướng đã kể lại câu chuyện một viên quan người Hồ Bắc (nước Sở) đi chơi thuyền với một hoàng tử con thứ ba của vua Sở Công Vương (590 - 560 trước Công nguyên) đã ghi lại lời ca của người chèo thuyền tộc người Bangxie vốn là một nhánh của người Việt cổ ở vùng này. Đó là trường hợp hiếm có còn lưu lại ngữ âm Việt cổ được chép lại bằng chữ Hán. Có thể ban đầu nó đã được ghi lại bằng chữ Sở (?) hoặc được truyền khẩu rồi mới được dịch ra chữ Hán vào thời Lưu Hướng. Tôi tin rằng với tầm học rộng, uyên thâm của mình, thiền sư LMT sẽ có những phát hiện thú vị khi ông đã dày công nghiên cứu Việt ca. Gần đây, Wei Qingwen đã khảo cứu kỹ Việt ca trong công trình: Bàn về ngôn ngữ của người Bách Việt, trong đó ông đã phát hiện sự gần gũi của ngữ âm trong Việt ca với ngữ âm của người Việt vùng Giang Hán và đi đến kết luận đó là bài ca của người Việt vùng Giang Hán, tổ tiên của người Choang và Thái hiện nay. Bài Việt ca này cũng đã được dịch. Việt ca sẽ giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu tộc Việt chung mà Lạc Việt chỉ là một bộ phận ở về phía Đông Nam của khối lớn đó, nhưng nó hoàn toàn không liên quan trực tiếp với nhà nước Hùng Vương, không là một cơ sở quan trọng để minh chứng cho nền văn hiến Hùng Vương: “Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!” (TN 3/3/2008). Không biết thiền sư có được đọc những dòng này trước khi đăng báo hay không? 2. Tư liệu lịch sử và sự thực lịch sử Đã là nhà sử học thật sự ai cũng biết giữa tư liệu lịch sử và sự thật lịch sử bao giờ cũng có một khoảng cách. Vì vậy, mới cần có “nghiên cứu lịch sử”. Chính thiền sư LMT cũng cảm nhận như vậy khi ông mổ xẻ phê phán sử liệu Ngô Sĩ Liên, thậm chí cả Hậu Hán Thư... Ông cũng đã phát hiện ra các khoảng trống trong tư liệu lịch sử thành văn về hiện tượng Âu Lạc và An Dương Vương đồng thời giả thuyết hiện tượng Phật thoại hóa quan hệ Hùng Thục qua hình tượng các vị thần trong thần thoại Ấn Độ từ tư liệu trong Lục Độ tập kinh xuất hiện vào thế kỷ 2 sau Công nguyên. Tuy nhiên, theo kể lể của nhà báo, thì thấy ông đã bám rất sát và gần như không dám phê phán nguồn tư liệu của bộ kinh Phật này. Thực tế, mọi cuốn sử cổ đều có một tỷ lệ rất cao là ghi chép lại những sự kiện được lưu truyền lại trong dân gian. Ngay cả Sử ký của Tư Mã Thiên cũng vậy. Sự gần gũi của những ghi chép đó với sự thực là bao nhiêu tùy thuộc vào hiểu biết và phân tích của nhà chép sử lúc đó. Vì vậy, sách sử ghi chép về những thời xa xưa chỉ phản ánh một lịch sử truyền miệng dưới dạng sử thi, mo, then... chúng chỉ có giá trị tham khảo. Tư liệu khảo cổ học đương đại đối với những thời xa xưa như vậy mang ý nghĩa quyết định hơn nhiều. Chúng ta có thể thừa nhận, Lục độ tập kinh là một văn bản cổ rất có giá trị. Nhưng nó không đại diện và thay thế được lịch sử. Những nhà truyền đạo đương thời đã ghi chép lại những sự tích xảy ra từ vài trăm năm trước, thậm chí cả truyền thuyết hoang đường (truyện trăm trứng có ở nhiều dân tộc Đông Nam Á) dưới dạng huyền thoại. Chẳng lẽ chỉ dựa vào đó và sự không ghi chép trong một số sách sử như Sử ký, Hậu Hán thư để hô hào : “Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi nước ta” (TN 28/2/2008). Chúng ta nghĩ sao về kết quả các cuộc khai quật và các hội thảo khoa học gần đây nhất tại Cổ Loa? Nghĩ sao về phát hiện trống đồng Đông Sơn ở Cổ Loa và cả đồ đồng, đồ gốm đào được ở Quảng Châu thời Hán đều có khắc tên huyện Tây Vu mà thủ lĩnh là con cháu Thục Phán An Dương Vương? Tại sao lại có đền An Dương Vương ở Cổ Loa (Hà Nội), Sầm Sơn (Thanh Hóa)..., đền Triệu Đà ở Văn Giang (Hưng Yên), Đồng Xâm (Thái Bình)? Việc khẳng định và làm rõ những điều đó cũng không phải là dễ, nhưng sao lại dễ dàng đến như vậy, khi chỉ bằng chừng ấy chứng cớ để “dứt khoát loại bỏ” An Dương Vương và Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta? Thực ra, nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới cũng như ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều nhận ra rằng vào thời kỳ trước Công nguyên, ý thức dân tộc chủ nghĩa còn rất mờ nhạt. Mọi cuộc tranh chấp diễn ra lúc đó bị chi phối nặng hơn bởi những vấn đề kinh tế. Triệu Đà tuy là người Hoa Hạ, lại là quan nhà Tần, nhưng khi xuống làm huyện úy ở Nam Hải đã hòa nhập với người Việt và chủ trương cùng Nhâm Ngao cát cứ không chịu nhập vào nhà Hán ở phía Bắc. Đền thờ Triệu Đà ở Đồng Xâm (Thái Bình) ghi nhận quê hương của vợ Nam Việt Vương Triệu Đà là người Việt ở đó. Rất nhiều thương nhân, thợ thủ công họ Lý, họ Hoàng, họ Trần... vốn đã khắc tên mình trên các vật phẩm đương thời (đồ gốm, đồ đồng) mà khảo cổ học đã tìm được phân bố ở cả Nam Hải và Giao Chỉ, Cửu Chân, đã tự biến mình thành người Giao, người Việt (Lý Ông Trọng và sau này Lý Bôn, Trần Lãm...). Họ đã cùng người Việt tạo dựng một tổ quốc mới, một tổ quốc chung đa tộc như hiện nay chúng ta đang có. Những đụng độ nếu có giữa Thục Phán (Tục Pắn tiếng Tày cổ là “người tài giỏi”) với Pò Khun “Hùng” (tiếng Tày cổ và Việt Mường cổ là “cha lớn”, “thủ lĩnh”) là những đụng độ để đi đến sáp nhập Tây Âu với Lạc Việt trước sức ép của Nam Việt - đó là những vấn đề trong nội bộ những người Việt ở Nam Ngũ Lĩnh. Mộ của chủ nhân Đông Sơn đào ở Kiệt Thượng (Hải Dương) và Việt Khê (Hải Phòng) có rất nhiều đồ giống trong mộ La Bạc Loan (huyện Quý, Quảng Tây, Trung Quốc) trong phạm vi nước Nam Việt. Trái lại vua Nam Việt (cháu Triệu Đà) và quan huyện Quý ở La Bạc Loan chết vẫn mang theo trống đồng và thạp đồng, bảo vật của người Việt thời Đông Sơn. Những điều này, tuy không chép rõ trong Sử ký của Tư Mã Thiên nhưng không phải là không thể thấy trong Sử ký . Tôi viết bài này chỉ nhằm bình luận một sự kiện có liên quan đến chút hiểu biết của mình. Tôi tán thành một cách làm nghiêm túc và khoa học hơn: Được nghe chính thiền sư trình bày tư liệu và luận điểm học thuật của mình để rồi cùng trao đổi thẳng thắn, chân thành, mạch lạc về từng vấn đề học thuật. Chúng ta sẽ rất mừng mỗi khi lịch sử dân tộc được làm sáng tỏ và chính xác hơn một cách thực sự khoa học - vì rõ ràng, do nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa thể thoả mãn với những nhận thức còn chưa đầy đủ hiện nay về nhiều lĩnh vực trong tiến trình lịch sử dân tộc. Nguyễn Việt nguồn dongtac.net
  16. 30% người Nhật có huyết thống Trung Hoa? Hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản là người Trung Quốc? (Phần I) Thứ ba, 1/7/2008, 07:00 GMT+7 Từ Phúc là đồ đệ của nhân vật nổi tiếng thuộc phái Binh gia Quỷ Cốc Tử. Quỷ Cốc Tử từng làm tể tướng nước Sở, sau đó về ở ẩn ở nước Vệ, thu nhận đồ đệ tại tỉnh Hà Nam, huyện Kỳ, núi Vân Mộng. Bởi vì Quỷ Cốc Tử thu nhận đồ đệ tại đây mà địa danh này trở nên nổi tiếng. Năm 1987, tôi được biết Ueno, một học giả Nhật Bản hiện đang làm việc tại trường đại học Waseda, nghiên cứu rất sâu về Từ Phúc. Vị học giả này nói rằng, chính Từ Phúc và những người đi theo ông ta đã sinh sôi thành ngàn vạn đời con cháu trên đất nước Nhật Bản. Chỉ cần nhìn nhãn cầu có màu vàng nâu của người Nhật Bản có thể khẳng định họ là hậu duệ của bộ lạc Tề (nước Tề, quê hương Từ Phúc). Ở Nhật Bản có rất nhiều người mang họ Saito, trong Hán ngữ có nghĩa là Tề. Có thể nói, chí ít cũng có 30% người Nhật có huyết thống Trung Hoa và họ đều là hậu duệ của những tùy tòng của Từ Phúc. 1. Lai lịch Từ Phúc Từ Phúc là đồ đệ của nhân vật nổi tiếng thuộc phái Binh gia Quỷ Cốc Tử. Quỷ Cốc Tử từng làm tể tướng nước Sở, sau đó về ở ẩn ở nước Vệ, thu nhận đồ đệ tại tỉnh Hà Nam, huyện Kỳ, núi Vân Mộng. Bởi vì Quỷ Cốc Tử thu nhận đồ đệ tại đây mà địa danh này trở nên nổi tiếng. Quỷ Cốc Tử tên là Vương Thần, còn gọi là Vương Hử, người nước Vệ, thời Chiến Quốc. Lớn lên theo thuật Tung Hoành, tinh thông binh pháp, võ thuật, kỳ môn độn giáp. Ông nổi tiếng có cuốn sách Quỷ Cốc Tử binh pháp còn lưu truyền đến nay. Quỷ Cốc Tử thường ngày ẩn cư trong núi Vân Mộng dạy đệ tử. Trong những đồ đệ của Quỷ Cốc Tử thì Từ Phúc là đồ đệ thuộc hàng sau Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi, Mao Toại, những nhân vật nổi tiếng thời Chiến Quốc. Trong số những đồ đệ của Quỷ Cốc Tử, Tôn Tẫn, Bàng Quyên chú trọng ở binh pháp, thông hiểu cả kỳ môn bát quái. Thời đại của họ ước chừng vào khoảng thời đại của Tần Hiếu Công. Trương Nghi, Tô Tần chủ ở thuật Tung Hoành (du thuyết, ngoại giao). Khi họ xuất núi là thời kỳ của Tần Huệ Vương và Tần Chiêu Vương còn Hiếu Văn Vương, ông của Tần Thủy Hoàng chỉ lên ngôi được 1 năm thì chết. Còn Mao Toại, Từ Phúc là những đồ đệ cuối đời của Quỷ Cốc Tử. Thời đại của Mao Toại ước vào thời cha của Tần Thủy Hoàng, Khánh Tương Vương (thời kỳ Lã Bất Vi nắm quyền). Từ Phúc là đệ tử nổi danh cuối cùng của Quỷ Cốc Tử, học khí công, tu tiên và võ thuật. Thời điểm ông ta xuất núi chính vào khoảng thời gian Tần Thủy Hoàng đăng cơ, cùng thời với tể tướng Lý Tư. Thời gian vị đệ tử cuối cùng này của Quỷ Cốc Tử xuống núi ước vào khoảng từ năm 280 đến năm 230 trước CN, trước sau khoảng bốn đến năm mươi năm. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, Từ Phúc hiến kế cho Tần Thủy Hoàng rằng dùng 500 đồng nam, 500 đồng nữ, đi thuyền lớn tới đảo Bồng Lai để hỏi thần tiên xin thuốc trường sinh bất lão. Kết quả là vào năm 219 trước CN đi lần thứ nhất không có kết quả gì. Lần thứ hai vào năm 209 thì một đi không trở lại. Tần Thủy Hoàng đợi một năm không thấy Từ Phúc trở lại, thân mình đã chết trước, không biết rằng, Từ Phúc đã đến Doanh Châu ở biển Đông (tức Nhật Bản). Sách sử còn ghi chép lại rằng, Từ Phúc tức Từ Thị, tên chữ là Quân Phòng, người Lang Nha, đất Tề (nay là Cán Du, Giang Tô, Trung Quốc), phương sĩ nổi tiếng thời Tần. Ông học rộng, tài cao, thông hiểu y học, thiên văn, hàng hải,… đồng tình với trăm họ, vui thú với việc giúp đỡ người khác cho nên có danh vọng rất cao trong lòng người dân ven biển. Tần Thủy Hoàng đi tuần phía Đông Năm 28 Thủy Hoàng (tức năm 219 trước CN), lần thứ nhất Tần Thủy Hoàng đi tuần phía Đông, lên núi Thái Sơn khắc vào đá ca ngợi công đức. Sau đó qua huyện Hoàng, núi Phàn Thành, lên núi Chi Phù (nay là Yên Đài), xuống Lang Nha ở phía Nam, lưu tại đó ba tháng. Trong thời gian đó, Tần Thủy Hoàng nhìn thấy ở ven bờ biển xuất hiện một người con trai, cho rằng đó là tiên nhân xuất hiện bèn phái Từ Phúc dẫn đồng nam, đồng nữ đáp một số thuyền tiến ra biển đi tìm thuốc trường sinh bất lão. Từ Phúc ra biển tìm thuốc nhiều năm mà không có kết quả gì.9 năm sau (tức năm 210 trước CN), Tần Thủy Hoàng tuần thú phía Đông lần thứ hai, Từ Phúc sợ Tần Thủy Hoàng trách móc mình, bèn dối trá rằng, ở ngoài biển có một con cá mập rất đáng sợ, do đó thuyền rất khó đến gần được núi tiên để cầu thuốc, nên phái những thiện xạ cùng đi để họ giết con cá nguy hiểm này mới có khả năng lên bờ cầu xin thuốc tiên được. Tần Thủy Hoàng lại một lần nữa phái Từ Phúc mang đồng nam, đồng nữ và thợ khéo tay, võ sĩ, xạ thủ tổng cộng hơn 500 người, mang theo ngũ cốc, lương thực, đồ dùng, nước ngọt ra biển cầu xin thuốc tiên. Từ Phúc ra biển Đông không cầu được “thuốc bất lão”, sau khi lên bờ tại Kumanoura, Nhật Bản, phát hiện ra một “bình nguyên rất rộng” (tức là đảo Kyushu, Nhật Bản). Thuốc trường sinh bất lão không tìm được nếu trở về sẽ gặp họa sát thân, Từ Phúc bèn tính kế lâu dài, định cư nơi đây, không quay trở về nữa. Từ Phúc và những người đi cùng đã dạy cho những người ở đảo Kyushu những văn minh tiên tiến của triều Tần như kỹ thuật canh tác nông nghiệp và đánh bắt cá, luyện kim, làm muối,… và cả kỹ thuật điều trị bệnh trong y học, thúc đẩy xã hội nơi đây phát triển, nhờ vậy rất được nhân dân nơi đây kính trọng. Người Nhật Bản tôn Từ Phúc làm “thần cai quản việc nông canh” và “thần y dược”. Ở Wakayama, Saga, Hiroshima, Aichi, Akita,… đều có dấu tích của những hoạt động của Từ Phúc. Ở Saga, Shinmiya trong các đền thờ đều lấy Từ Phúc làm thần để thờ phụng, mỗi năm đều tổ chức hoạt động tế lễ rất rầm rộ. Để phát huy mạnh mẽ tinh thần của Từ Phúc, Trung Quốc và Nhật Bản đã phối hợp lập nên Hội Từ Phúc, mấy năm gần đây những tác phẩm học thuật và văn nghệ liên quan đến Từ Phúc không ngừng xuất bản, những vở kịch liên quan đến Từ Phúc cũng không ngừng được lên sân khấu. ( còn nữa ) Hy Văn (vietimes)
  17. Thứ Sáu, 04/07/2008, 08:35 (GMT+7) Tìm thấy trống đồng có niên đại 2.000 năm TT(Lâm Đồng) - Trống đồng có bề mặt rộng 55cm, phần thân trống còn lại cao 35cm được ông Nguyễn Văn Vinh tìm thấy trong vườn nhà mình ở thôn 8, xã Hà Lâm, Đạ Huoai (Lâm Đồng) vừa được trưng bày tại Bảo tàng Lâm Đồng ngày 3-7 (ảnh). Trên bề mặt trống còn nguyên vẹn họa tiết hình ngôi sao 12 cánh, các vòng tròn đồng tâm. Đàn chim hạc bay ngược chiều vòng ngoài còn vòng trong thì đứng yên được coi là sự khác biệt với các trống đồng khác. Theo Bảo tàng Lâm Đồng, đơn vị đã mời TS Bùi Chí Hoàng - Viện Khảo cổ học TP.HCM - giám định và xác nhận ban đầu cho thấy trống đồng có niên đại cách đây 2.000 năm và thuộc loại trống đồng Héger. Cũng trong ngày 3-7, Bảo tàng Lâm Đồng còn mang về bộ đàn đá lớn nhất từ trước tới nay được tìm thấy trên vùng cao nguyên Di Linh, xã Hòa Ninh, Di Linh với 30 thanh đàn, trong đó 18 thanh còn nguyên vẹn. HỒ KHẢI NHIÊN nguồn tuoitreonline
  18. Gửi các nhà “ngoại cảm” giả danh! Thứ ba, 2/10/2007, 07:00 GMT+7... "Nếu các vị có khả năng thì hãy làm những việc giúp dân giúp nước đi. Nếu không, phải biết sợ vì không có gì che mắt được nhân gian cả. Nhân gian ngàn mắt ngàn tai lại không nhìn ra chân tướng các vị ư?" Trong mấy ngày vừa qua, VieTimes nhận được rất nhiều thư phản hồi của bạn đọc ở trong nước cũng như ở nước ngoài về những vấn đề mà VieTimes đã đề cập. Đặc biệt là chuyên đề về ngoại cảm. Chúng tôi xin giới thiệu hai thư phản hồi của bạn đọc về vấn đề trên 1. “Ngoại cảm” sao không “giúp” nước, “giúp” dân ? Kính thưa Ban biên tập, đọc những bài viết của VieTimes về chuyện các nhà “ngoại cảm”, tôi cảm thấy vô cùng thích thú và khâm phục. Các bài viết đã lên tiếng một cách mạnh mẽ và thuyết phục đấu tranh chống nạn mê tín dị đoan kiểu mới. Ý tưởng của các bài viết rất trùng hợp với suy nghĩ của tôi cũng như những người có tư duy lành mạnh khác, nhưng vì không có điều kiện nên chưa phản bác được. Xin cám ơn chuyên trang rất nhiều và chúng tôi mong muốn những bài viết này sẽ được đông đảo người dân biết đến. Trong mấy năm gần đây dư luận rộ lên những chuyện như “nói chuyện với người âm”, tìm mộ… với tài năng “xuất quỷ nhập thần” của một số “nhà ngoại cảm”… Những câu chuyện của các vị ấy đã mặc nhiên xác nhận có một thế giới “người âm” đang tồn tại bên cạnh chúng ta mà chỉ có một số người có khả năng đặc biệt mới giao tiếp được. Vấn đề khoa học thần bí, ngoại cảm… còn đang được tiếp tục nghiên cứu, song những câu chuyện ấy đã gây nên những tác hại tiêu cực, góp phần làm sống lại tệ nạn mê tín dị đoan vốn đang rất nặng nề trong xã hội chúng ta. Nếu như các “nhà ngoại cảm” có những khả năng ấy thực và đem phục vụ cuộc sống thì hay biết mấy. Thưa các nhà “gọi là” ngoại cảm! - Chúng tôi là giáo viên phổ thông, hiện nay đang đau đầu vì việc Sách giáo khoa cứ thay đổi xoành xoạch, tác phẩm của các nhà văn đã khuất hôm nay in thế này, ngày mai lại in thế khác và ai cũng bảo rằng bản in của mình là gần với nguyên tác hơn cả. Ví dụ có bản ghi một câu Kiều là “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”, có bản lại chép “Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm” và họ cãi cọ nhau rất dữ dội. Những chuyện tương tự như thế đang xảy ra như cơm bữa và sẽ được chấm dứt ngay nếu như các vị mời được linh hồn của các nhà văn ấy về và phán quyết một lời! Ai dám cãi lại tác giả! Nếu được như thế, sẽ giảm thiểu được rất nhiều sự lãng phí về thì giờ (của các học giả) và tiền bạc (của các nhà xuất bản). Nhân loại vô cùng nuối tiếc trước cái chết của các vĩ nhân, các nhà khoa học lỗi lạc, các nghệ sĩ nổi tiếng… bởi vì cả kho tàng kiến thức đồ sộ và quý giá trong bộ óc của họ sẽ bị chôn vùi trong ba thước đất. Nay thì sự nuối tiếc ấy sẽ trở nên thừa nếu như các vị bắt liên lạc được với họ. Tôi nghĩ rằng trong tương lai, đối tượng sẽ làm các nhà xuất bản quá tải và danh mục những cuốn sách bán chạy nhất thế giới sẽ là “tác phẩm mới viết của những người đã khuất”. - Các anh bên công an hình sự cũng có lời nhắn rằng hiện nay có rất nhiều vụ giết người xong rồi hung thủ trốn mất tăm, bỏ bao công sức điều tra vẫn không có manh mối gì, đó là chưa nói đến biết bao kỳ án trong lịch sử mà nhân loại đang đặt những dấu hỏi to tướng. Kính mong các nhà ngoại cảm bỏ chút công sức gặp các vong hồn nạn nhân, mọi việc sẽ trở nên sáng tỏ, bởi vì “người âm” sẽ có những bằng chứng khiến bất cứ hung thủ nào dù lì lợm nhất cũng phải tâm phục khẩu phục. Rồi nhiều nạn nhân mất tích, nhiều cái xác không rõ danh tính… đang rất cần có một lời của các “nhà ngoại cảm”. Nay mai, bên Viện Kiểm sát sẽ bổ sung danh mục nhân chứng thêm một đối tượng quan trọng (nếu không nói là quan trọng nhất): “Người âm”! Những “nhân chứng” này sẽ vô cùng trung thực, thẳng thắn - Các đồng chí bên địa chất, khí tượng thủy văn cũng gửi lời nhờ giúp đỡ: những “người âm” chắc hẳn sẽ biết được chính xác những nguồn khoáng sản quý giá đang vô cùng thiếu thốn và cần thiết cho người trần cũng như những nguy cơ về thiên tai đang đe dọa bọn con cháu khốn khổ. Nếu các vị có khả năng thì hãy làm những việc giúp dân giúp nước đó đi! Nếu không, phải biết sợ vì không có gì che mắt được nhân gian cả. Nhân gian ngàn mắt ngàn tai lại không nhìn ra chân tướng các vị ư? Trần Quang Đại (Giáo viên trường Trung học Phổ thông Trần Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) Lý thuyết ngoại cảm: con gì đây? - Tranh: Sally Smart 2. Thưa các nhà ngoại cảm: tại sao...???Tôi đọc rất kỹ những bài viết về ngoại cảm trên VieTimes. Tôi cũng đã nghe ít nhiều những tranh luận về vấn đề này. Là một người đang theo học về nghề kinh doanh nên tôi không dám luận bàn về những vấn đề chuyên môn mình không nghiên cứu. Theo các nhà ngoại cảm nói thì họ có thể gọi được các linh hồn để trò chuyện. Nhiều nhà ngoại cảm đã cho hồn người mất nhập vào mình và trả lời vanh vách các câu hỏi của người sống. Nghĩa là họ có khả năng tiếp xúc với linh hồn và nhận thông tin từ linh hồn. Chính vì thế, tôi xin được đặt một số câu hỏi cho các nhà ngoại cảm như sau: Tại sao các nhà ngoại cảm không giúp các cơ quan chức năng hỏi chuyện những nạn nhân bị sát hại mà để cho cơ quan chức năng phải tốn công tốn của và tốn thời gian truy tìm thủ phạm? Trong khi đó, có những vụ giết người man rợ mà cơ quan điều tra không thể nào tìm ra thủ phạm? Tại sao các nhà ngoại cảm không hỏi các linh hồn về một số sự kiện đã xảy ra trong quá khứ mà cho đến ngày nay các nhà sử học và các nhà khảo cổ học vẫn không thể nào tìm ra lời giải đáp? Tại sao nước Mỹ không dùng các nhà ngoại cảm để nói chuyện với những nạn nhân trên các chuyến bay về bọn khủng bố đã cướp máy bay đâm vào tòa tháp đôi mà phải huy động lực lượng an ninh trong nhiều năm nay làm việc này mà vẫn chưa có một kết quả thỏa đáng? Tại sao các nhà ngoại cảm không giúp các cơ quan chức năng nói chuyện với linh hồn các phi công trên những chuyến bay bị tai nạn để xem nguyên nhân dẫn đến tai nạn mà cứ phải đi tìm hộp đen? Tại sao các nhà ngoại cảm không nói chuyện với linh hồn của một số nhà khoa học lỗi lạc bị mất khi đang nghiên cứu dở dang công trình khoa học của họ mà nếu những công trình nghiên cứu đó được tiếp tục thì sẽ góp phần phát triển thế giới nhanh nhất? Tại sao các nhà ngoại cảm không hỏi linh hồn thần y Hoa Đà về những bài thuốc tiên của ông đã bị thất lạc sau khi ông mất để cứu chữa con người? Tại sao các nhà ngoại cảm không giúp các nhà khảo cổ học và sử học nói chuyện với các Pharaon và các cận thần của họ để cho thế giới biết họ đã xây dựng Kim Tự Tháp như thế nào? Trên đây là một số câu hỏi trong hàng chục câu hỏi mà tôi muốn hỏi. Thực ra, chúng ta quá mù mờ về quá khứ của nhân loại. Nếu chúng ta giải đáp được thì thế giới đã có rất nhiều đổi thay có ích cho con người. Nếu các vị có khả năng thực sự thì hãy làm những chuyện đó đi. Tôi tin rằng công lao của các vị sẽ được đền đáp còn nhiều hơn các vị mong muốn. Còn nếu không có khả năng thực mà chỉ đi bịt mắt dân để lấy tiền thì nên dừng lại ngay. Nhân quả sẽ “báo” ngay trong cuộc sống này, các vị không biết sợ ư? Phạm Hữu Hạnh (Nghiên cứu sinh Đại học Suffolk, Hoa Kỳ) nguồn vietimes
  19. Hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản là người Trung Quốc? (Phần II) Thứ năm, 3/7/2008, 07:00 GMT+7 Nghiên cứu của Ueno còn đề xuất rất nhiều những kết luận khác. Ông cho rằng, Từ Phúc và những người tùy tòng của ông đã sinh sôi thành ngàn vạn đời con cháu trên đất nước Nhật Bản. Chỉ cần xem màu mắt vàng của người Nhật Bản thì có thể khẳng định họ là hậu duệ bộ lạc Tề (tức bộ lạc quê hương của Từ Phúc). Những người Nhật bản này có rất nhiều người mang họ Trai Đằng, trong Hán Ngữ có nghĩa là Tề. 3. Từ Phúc là người sáng lập Thần Đạo giáo Nhật Bản? Người Nhật Bản không thích khảo cổ, bởi vì đã khảo thì nguyên hình tất lộ. Thần Đạo giáo của Nhật Bản vốn đến từ Trung Quốc. Vào năm 1987, tôi có quen Ueno, một học giả Nhật nghiên cứu rất sâu về Từ Phúc, hiện đang công tác tại đại học Waseda. Sau thế chiến thứ hai, Nhật Bản bị liên minh đánh bại, ông di dân sang sống ở Mỹ và một số nước Mỹ Latin. Ông nói với tôi rằng, sau khi ông rời Nhật Bản mới phát hiện tại sao ở Châu Á, phát xít Nhật Bản lại phạm phải nhiều tội ác như vậy, tại sao Nhật Bản lại muốn chinh phục thế giới. Vị học giả này rời Nhật Bản đã 25 năm, và 10 năm trước đây mới quay trở lại Nhật Bản. Ueno cho rằng, vào triều Tần, Tần Phúc nhất định là một thủ lĩnh người nước Tề nhờ nghiên cứu cách chế tạo thuốc trường sinh mà nổi danh. Tần Thủy Hoàng muốn trừ khử Từ Phúc vì Từ Phúc chắc chắn sẽ là mối đe dọa với ông ta. Ông ta phái Từ Phúc đi tìm thuốc trường sinh mà ông ta biết là nhiệm vụ không thể hoàn thành. Từ Phúc biết rằng, nếu mình tay không trở về Trung Quốc nhất định sẽ bị Tần Thủy Hoàng xử tử. Đó là nguyên nhân Từ Phúc không trở về Trung Quốc. Ueno nói, Từ Phúc mang theo những đại thành của nền trí tuệ và tri thức của người Trung Quốc, trong đó bao gồm Đạo giáo. Ông cho rằng, Từ Phúc mới chính là người sáng lập chân chính của Thần Đạo giáo ở Nhật Bản. Thời Chiến Quốc, nước Tề là nước tuân thủ tôn giáo một cách nghiêm ngặt, mỗi người đến đạo quán đều phải trai giới, ở đó có phòng dành riêng cho mọi người thực hiện việc trai giới, làm sạch tâm hồn. Cho đến nay trong mỗi đền thờ thần xã đều còn giữ lại kiểu phòng như vậy dành cho những người tham bái thực hiện việc trai giới, loại phòng này được gọi là “Tề thất”, hoặc “Tề”, tức là quê hương nước Tề của Từ Phúc. Tôi cũng có đôi điểm nghi ngờ trong cách lý giải của Ueno, vì thế khi tôi tới mỗi huyện tham quan đều tìm hiểu qua các đền thờ thần xã, xem có giống như lời của Ueno nói hay không. Khi tôi đến tham quan các thần xã, đều đặt một câu hỏi: “Ở đây có Tề thất, dành cho người đến cúng bái hay không?”. Người hầu trong thần xã rất kinh ngạc nhìn tôi, đại khái nói rằng chưa từng có ai hỏi đến vấn đề này. Họ đều trả lời rằng: “Đương nhiên là có loại tề thất như vậy, mỗi người đến cúng bái ở đền thần xã trước hết đều phải trai giới ở phòng này”. Tôi cũng hỏi họ là có biết nguồn gốc của loại “Tề thất” này không thì họ không biết. Nhưng rõ ràng những lý giải của Ueno không phải là không có lý.Nghiên cứu của Ueno còn đề xuất rất nhiều những kết luận khác. Ông cho rằng, Từ Phúc và những người tùy tòng của ông đã sinh sôi thành ngàn vạn đời con cháu trên đất nước Nhật Bản. Chỉ cần xem màu mắt vàng của người Nhật Bản thì có thể khẳng định họ là hậu duệ bộ lạc Tề (tức bộ lạc quê hương của Từ Phúc). Những người Nhật bản này có rất nhiều người mang họ Trai Đằng, trong Hán Ngữ có nghĩa là Tề. Ông còn nói Khổng Tử và Lão Tử đều có nguồn gốc sâu xa từ nước Tề. Những người tùy tòng của Từ Phúc cũng có nhiều họ khác nhau, trong số đó cũng có rất nhiều người họ Tần, là quốc danh dưới vương triều Tần. Tại quận Sơn Khẩu, 1300 năm trước đã từng xây dựng nên một vương quốc Tần. Từ phong tục tập quán đều như là xuất phát từ Trung Quốc, họ đều là hậu duệ của “đặc phái viên” của triều đại nhà Tần, Từ Phúc. Căn cứ theo thống kê của Ueno, chí ít cũng có 30% người Nhật có huyết thống Trung Hoa và họ đều là hậu duệ của những tùy tòng của Từ Phúc. Ueno nói: “Nếu như người Nhật Bản biết rằng mình với người Trung Quốc là như đồng bào, có cùng huyết thống thì trong chiến tranh thế giới thứ hai họ đã không phạm phải những hành động tàn ác như vậy đối với người Trung Quốc. Chúng ta rất có thể cũng sẽ không tiến hành xâm lược người Trung Quốc”. Ông còn nói: “Trước khi tôi sang Trung Quốc, bởi vì những tội ác chúng ta gây ra với Trung Quốc trong chiến tranh thế giới thứ hai mà tôi luôn cảm thấy day dứt. Nên trước khi sang Trung Quốc tôi phải cố gắng khắc phục cảm giác này”. Tượng Từ Phúc ở Nhật Bản Ueno nói rằng cách nói rằng mình con cháu của thần của người Nhật Bản hiện nay là rất nguy hiểm. Nếu như người Nhật tiếp tục tin vào những thần thoại này, lịch sử sẽ lại tiếp diễn. Vì thế, ông đã tính tới việc viết một cuốn sách để người Nhật Bản triệt để nhìn rõ nguồn gốc khởi nguyên của họ.Ở Nhật Bản, điều được giữ tuyệt đối bí mật là phần mộ của tổ tiên. Nếu chưa được hoàng tộc cho phép không có ai được đụng chạm đến những phần mộ này chứ đừng nói đến vì mục đích nghiên cứu mà khai quật các phần mộ này. Nếu như người Nhật Bản cho phép khai quật các phần một tổ tiên để nghiên cứu, thì chắc chắn lịch sử của Nhật Bản sẽ phải được viết lại. Nếu như họ phát hiện ra rằng tổ tiên của mình là người Trung Quốc hay người Cao Ly, họ sẽ giải thích ra sao? Tôi nghĩ so với việc không quan tâm đến sự thực mà chỉ chìm đắm trong tưởng tượng và thần thoại thì tốt hơn nhiều. 4. Hata Tsutomu, thủ tướng của Nhật Bản đã công khai thừa nhận mình là hậu duệ của Tần Thủy Hoàng Trên thực tế thì có rất nhiều người Nhật Bản mang họ Trung Quốc, ở Hàn Quốc cũng như vậy. Vào năm 1994, ứng cử viên thủ tướng Hata Tsutomu trước khi nhận chức đã công khai thừa nhận mình là hậu duệ của hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc Tần Thủy Hoàng. Điều này khiến cho nhiều người Nhật Bản ngỡ ngàng. Ông nói rằng tổ tiên của mình họ Tần, mãi đến 200 năm trước đây mới đổi thành họ Vũ Điền, bởi trong tiếng Nhật, chữ Tần và chữ Vũ Điền phát âm gần giống nhau. Ông tự cho mình là người đời sau của tùy tòng gồm 3000 đồng nam đồng nữ do Từ Phúc dẫn đầu tới Nhật Bản. Nói cách khác, vị thủ tướng này đã thừa nhận trong mình có dòng máu Trung Quốc. “Mộ của con cháu Từ Phúc được đặt trong chùa Miếu Thiện của huyện Thần Nãi, khi tôi phát hiện ra, tôi đã tin rằng 2200 năm trước, Từ Phúc đã vượt biến đến Nhật Bản”, nữ sĩ Tajima Yuuko, thuộc Hiệp hội hữu nghị Nhật Trung huyện Kanagawa, hiệp hội hữu nghị Từ Phúc của Kanagawa đã nói như vậy khi bà ở cảng Liên Vân, Giang Tô. Có rất nhiều người người thuộc hiệp hội hữu nghị Nhật Trung huyện Kanagawa, hiệp hội hữu nghị Từ Phúc của Kanagawa đã đến cảng Liên Vân để thống báo những phát hiện mới nhất về mộ phần con cháu của Từ Phúc, nằm trong chùa Miếu Thiện ở Kanagawa, bên trái mộ của họ Fukutomi. Đại ý những ghi chép trong mộ được các chuyên gia khảo chứng, nói rằng tổ tiên của họ là Từ Phúc của triều Tần, sở dĩ họ lấy họ Fukutomi là vì lấy chữ Phúc trong tên Từ Phúc để con cháu không quên nguồn gốc tổ tiên. Trong truyền thuyết, Từ Phúc sinh ra ở thị xã cảng Liên Vân, huyện Cán Du, trấn Kim Sơn được sử sách ghi chép là người đầu tiên của Trung Quốc vượt biển đến đất Phù Tang (Nhật Bản). Tại hơn 2200 năm trước, Từ Phúc phụng mệnh Tần Thủy Hoàng, dẫn đầu 3000 đồng nam đồng nữ vượt biển. Mọi người đều cho rằng: Từ Phúc đã đem văn minh thời Tiên Tần như kỹ thuật canh tác, luyện kim, dệt vải, văn tự,… truyền bá ở đảo quốc Nhật Bản. Nguyên thủ tướng của Nhật Hata Tsutomu vào năm 2000 đã về vùng quê của Từ Phúc ở Cán Du. Ông từng nhiều lần phát biểu rằng, gốc gác của dòng họ Vũ Điền là ở Trung Quốc, tổ tiên của ông chính là Từ Phúc. Hy Văn (Vietimes) dịch từ QQ.com
  20. Trong chuyến du hành Vũ Trụ gồm có 2 cường quốc NGA , MỸ và tiểu quốc VIỆT NAM, Trung tâm Nghiên cứu Lý Hoc Đông phương được 1 suất tham gia chuyến bay đại diện cho vn, Thiên sứ sau nhiều đêm cân nhắc để chọn người , cuối cùng chỉ có Tầm nhìn Mới là phù hợp với vinh dự này . Chuyến đi tốt đẹp . TNM thường xuyên mail bài về Diễn Đàn tường thuật và nhân dịp này cũng ứng dụng vài chiêu phong thủy Lạc Việt ngoài trái đất xem tương tác khí thế nào ? Cho đến ngày về Tàu gặp trục trặc ....Nga bước vào , sau 2 giờ tàu khởi động , sau 10 phút Máy SHUTDOWN . Mỹ bước vào sau 3 giờ tàu khởi động , sau 10 phút màn hình đen ngòm . Trở ra ngoài cả 2 đưa mắt nhìn VN , tuyệt vọng ! VN ra dấu để tôi ! Chỉ sau 10 phút máy hoạt động bình thường và chuyến bay trở về an toàn . Khỏi phải nói cả 2 Nga Mỹ thực tâm khâm phục nhưng để tâm tìm hiểu > KGB và FBI cũng vào cuộc với suy nghĩ thằng vn này lù đù mà công nghệ IT siêu đẳng cấp . Đúng là VIỆT SOLUTION . Tìm mãi chỉ thấy trong mailbox có reply của giám đốc T.T câu : Cậu LUỘC cái gì mau lắp trả lại :
  21. AH ! thì ra Tầm nhìn Mới không phải là người đươc TT chọn bay vào Vũ trụ à ? Mà cũng đúng thôi Bác quê mùa chân đất thế kia làm sao mà bay được nhỉ ? SOR RY !
  22. Thiên Sứ và anh em cám ơn sự hợp tác và lòng tin của Thầy trụ trì trong việc cải tạo Phong thủy , ACE sẽ cố gắng để Nhà Chùa được hoàn chỉnh sớm .
  23. Bóng đá đã dạy chúng ta điều gì? Các chuyên gia bóng đá đã thất bại khi họ dự báo về trận đấu giữa đội tuyển Đức và Croatia. Và rất nhiều người hâm mộ bóng đá chúng ta cũng thất bại trong dự báo của mình. Không phải họ không hiểu được cái mạnh, cái yếu của hai đội tuyển kia là gì. Nhưng họ đã không để ý đến một điều vô cùng quan trọng. Đó là: cuộc sống luôn luôn chứa đựng những bất ngờ. Việc đội tuyển Hà Lan thắng đội đương kim vô địch thế giới Italia cũng là một bất ngờ. Và bất ngờ đến lộng lẫy trong EURO bốn năm về trước là sự thăng hoa của một đội bóng không nằm trong ý nghĩ của chúng ta - đội tuyển Hy Lạp. Các chuyên gia bóng đá đã thất bại khi họ dự báo về trận đấu giữa đội tuyển Đức và Croatia... - Ảnh: euro2008.uefa.com Vậy bóng đá có dạy cho chúng ta những gì về cuộc sống này không? Xin thưa, bóng đá không dạy cho chúng ta kỹ thuật bóng đá mà dạy cho chúng ta nhiều điều về cuộc sống này. Chính vì thế mà môn thể thao này đã quyến rũ loài người ngay từ thuở nó ra đời. Điều thứ nhất: Đó là sự bất ngờ của đời sống. Trước mọi trận đấu, chúng ta đều phân tích vô cùng kỹ lưỡng và đưa ra rất nhiều khả năng trận đấu có thể diễn ra. Nhưng mọi phân tích và dự báo của chúng ta cũng chỉ là một thứ công việc nhiều lúc lẩm cẩm và đầy thô thiển. Chính vì thế mà khi trái bóng bắt đầu lăn thì chẳng còn ai nhớ những phân tích đầy lý luận này nọ nữa. Trái bóng cuốn đi như như chính cuộc sống này. Nó cuốn chúng ta vào dòng chảy của nó. Và chúng ta không bao giờ biết trước điều gì sẽ hiện ra hay xảy ra sau từng vòng lăn của trái bóng. Chính vì trong mỗi vòng lăn của trái bóng đều chứa đựng những bất ngờ thì môn thể thao này mới còn tồn tại và quyến rũ chúng ta đến tận bây giờ. Cũng như vòng lăn của mặt trời mỗi ngày luôn luôn hé lộ cho con người những vẻ đẹp và bí ẩn của đời sống. Nếu mỗi ngày mới không mang lại cho chúng ta những bất ngờ kỳ diệu trong mong ước của chúng ta thì chúng ta không đủ kiên nhẫn để sống bảy tám chục năm dằng dặc với công việc như một người tù khổ sai để mà làm gì. Điều thứ hai: Đó là khát vọng vươn tới cái đẹp và giấc mơ của con người. Nếu tất cả những đội bóng đều bước vào trận đấu với ý thức đầy tính nô lệ và ngớ ngẩn về sự phân định đẳng cấp của mình thì tất cả các trận đấu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nếu Hà Lan và Croatia nghĩ rằng mình đá thì cứ đá thôi chứ Đức và Italia là đẳng cấp trên mình thì chúng ta đâu có được những cảm xúc tuyệt vời khi chứng kiến họ thi đấu. Bất cứ đội nào bước vào sân cỏ cũng mang theo họ một giấc mơ và sự dâng hiến. Cuộc đời cũng vậy, thưa các bạn. Nếu những người nghèo khổ và đứng ở vị trí thấp nhất trong xã hội lại nghĩ rằng nghèo hèn như mình thì mơ ước để làm gì thì họ sẽ sống ra sao? Vươn đến cái đẹp và giấc mơ không bao giờ là độc quyền của những người có quyền thế và giàu có. Trong mười mấy năm nay, tôi theo dõi đầy hứng thú bóng đá khu vực Đông Nam Á. Có một đội bóng mà tôi luôn luôn theo dõi với một sự xúc động lạ thường. Đó là đội tuyển Lào. Có những lúc, tôi nghĩ Lào sẽ bỏ không tham dự bóng đá khu vực vì họ luôn luôn thua với một tỷ số choáng váng. Nhưng lúc nào họ cũng bước vào trận với một tinh thần trong sáng và khát khao mãnh liệt. Đội tuyển Việt Nam đã nhiều lần thắng họ đến 9, 10 bàn. Những lúc đó, tôi lo sợ họ sẽ sụp đổ tinh thần. Nhưng không. Họ luôn luôn hiện ra thật xúc động và thật đẹp. Còn đội tuyển chúng ta khi thua thì suy sụp như những kẻ vô hồn và quá tội nghiệp. Bởi một trong những lý do là đội tuyển chúng ta thi đấu đã thực sự không vì cái đẹp và sự dâng hiến. Họ thi đấu vì “lòng tham”. Chủ nghĩa thành tích chính là một lòng tham. Điều thứ ba: Sự thất bại của thói ngạo mạn. Thói ngạo mạn dù sớm hay muộn cũng đưa con người đến thất bại. Tại sao nhiều đội mạnh lại rơi vào thất bại thảm hại trước các đội yếu hơn? Nguyên nhân là thói ngạo mạn. Lịch sử nhân loại đã chứng minh thói ngạo mạn đã từng giết chết các đội quân xâm lược hùng mạnh. Thói ngạo mạn làm cho kẻ mạnh nhiều lúc trở nên mù loà. Thói ngạo mạn thường dẫn chúng ta đến chủ quan. Lúc này tôi lại nhớ đến câu chuyện về thói ngạo mạn của một võ lâm. Sau nhiều năm theo thầy học võ trên núi, gã ngỡ rằng đã giỏi hơn thầy. Thế là dục vọng trở thành đệ nhất kiếm trong thiên hạ đã đẩy gã đến hành động giết thầy để chiếm ngôi vị. Hôm đó, người thầy chống một cây gậy trúc xuống núi. Gã đệ tử chặn đường thầy mình và đòi giết khi thầy không có một tấc vũ khí trong tay. Người thầy già nói với gã học trò bất nghĩa kia rằng nếu gã chém đứt được cây gậy trúc trong tay ông thì ông sẽ tự sát chứ không cần gã phải ra tay. Kẻ ngạo mạn kia cười khẩy và rút kiếm chém đứt cây gậy trúc. Nhưng gã biết đâu rằng nhát kiếm của gã đã vạt nhọn cây gậy trúc và biến nó thành một vũ khí lợi hại của người thầy. Khi gã chưa kịp thu lại đưòng kiếm thì cây gậy trúc kia đã xuyên thủng họng gã. Thói ngạo mạn, vô ơn và sự phản bội của gã đã biến gã trở thành một kẻ mù loà. Và thói ngạo mạn của gã đã phải trả giá bằng cái chết. ...trong mỗi vòng lăn của trái bóng đều chứa đựng những bất ngờ - Ảnh: euro2008.uefa.com Cho đến lúc này, chẳng có chuyên gia nào, chẳng có sự phân tích nào cho chúng ta biết đường đi của trái bóng trong mỗi trận đấu sắp tới. Bóng đá đâu chỉ là bóng đá. Môn thể thao này chứa đựng những điều kỳ diệu của cuộc sống. Và tôi lại nhớ đến một bài đồng dao mà chúng ta hát mãi mấy trăm năm nay rồi - bài đồng dao về con voi:Con vỏi con voi Cái vòi đi trước Hai chân trước đi trước Hai chân sau đi sau Còn cái đuôi đi sau rốt Tôi xin kể nốt Cái chuyện con voi Nghe bài đồng dao này nghe có vẻ buồn cười. Đương nhiên vòi phải đi trước, đương nhiên chân trước phải đi trước, đương nhiên chân sau phải đi sau và đuôi thì phải ở cuối cùng… nói thế thì nói làm gì. Khác nào bảo mắt để nhìn, mũi để thở, miệng để nói, cơm để ăn, áo để mặc, nhà để ở… Vậy thì tại sao ông cha lại sáng tạo ra bài đồng dao này và vì sao người ta vẫn hát mãi mà không thấy buồn cười? Theo tôi, vì người sáng tác ra nó muốn gửi đi một thông điệp rằng: mọi điều trong cuộc đời này chỉ tồn tại khi nó vận hành đúng quy luật của nó. Con voi có thể coi như một xã hội hay chính là cuộc đời rộng lớn. Dù cho lớn đến đâu và không vận hành đúng quy luật, mà phá vỡ quy luật thì sẽ sụp đổ. Con voi mạnh mẽ nhường kia, nhưng nếu chân trước của nó đi sau và chân sau lại đòi đi trước thì chuyện gì sẽ xảy ra? Thì nó sẽ ngã kềnh ra chứ chẳng còn gì khác. Bài đồng dao khẳng định chân lý đó. EURO 2008 cũng mới chỉ bắt đầu. Sẽ còn rất nhiều điều thú vị và bất ngờ hiện ra. Nó mang lại cho chúng ta những cảm xúc lạ kỳ. Và sau cảm xúc đó, chúng ta ngồi xuống với một ly cà phê buổi sớm và suy ngẫm. Chúng ta sẽ nhận ra quá nhiều điều không nhỏ. Vương Thảo (Vietimes)
  24. Một bài thật giá trị , cám ơn bạn về bài viết hữu ích !
  25. Chuyện "ma gà" và những giấc mơ đầy trứng Thứ tư, 18/6/2008, 07:00 GMT+7 Cho tới tận bây giờ tôi cũng chưa biết ma gà là gì, nó như thế nào và tại sao nó hành người ta lâu dài đến thế? Không những người làng tôi, mà cả vùng Tày Nùng đều đồn đại xung quanh chuyện con ma gà. Nó thổi từ tai nọ sang tai kia, từ miệng người này sang miệng người khác. Tin đồn như lửa cháy trôn chảo. Thực hư chả biết. Nhiều người ghê khiếp nó. Nhưng tôi chưa hoàn toàn tin. Mặc dù cũng đôi lần hơi sởn gai ốc. Họ thường đồn “Nhà kia có cô con gái xinh đẹp nết na, thế nào cũng có ma gà. Nhà ấy làm ăn phát đạt nhanh đến thế, chắc có con ma gà giúp v.v...” Nói tóm lại, những ai "sủi tăm" hơn người một chút là bị gán cho là người có ma gà. Khi không ưa loại người nào đấy, thiên hạ cũng quàng lên cổ người ta hai chữ ma gà. Ma gà như vòng kim cô ở nơi nhạt muối của những người thiếu lòng thiện chí. Cái sự ác tâm đã làm thành lời đồn đại. Tôi nghĩ thế. Không biết có đúng không.Lời đồn đại ấy vô tình làm cho nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn đốn. Ra đường không dám mở miệng chào ai. Vào làng không dám nhìn trâu bò lợn gà. Không dám khen trẻ nhỏ. Không dám hỏi thăm người già. Khi đi làm đồng hay lên rừng kiếm củi, thường chỉ lẽo đẽo một mình. Không có ai đi cùng. Giữa đường gặp mưa to gió lớn, người có ma gà không dám đứng trú chân. Chỉ sợ người nào nhìn thấy. Người ấy liền réo tên vạch mặt lên cho ông trời nghe. Ông trời lập tức sai thần sét đánh chết. Người có ma gà nhìn vào đâu cũng làm cho muôn vật bị lây nhiễm. Lời nói của họ như phun thuốc độc. Nó sẽ làm héo úa hoa màu cây cối. Làm tiêu tan máu chảy trong người. Trẻ thì biếng ăn. Già thì đau xương mất ngủ. Trâu bò lợn gà bỗng dưng lăn đùng ra chết. Muôn lời đồn thổi cay độc như thế sống sao được nữa. Người có ma gà đành bỏ quê mà đi. Đi tới nơi nào không còn có ai biết tên nhớ mặt. Nhưng đi đâu được? Lời nói gió bay. Gió mang lời đồn thổi chết người ấy đi theo cả ngàn vạn dặm. Người có ma gà buộc lòng ở lại quê nhà. Họ đành chịu đựng âm thầm suốt đời như cái bóng. Cách đây không lâu. Tôi có người bạn thân, kể một câu chuyện. Theo bạn, đấy là chuyện có thật một trăm phần trăm. Vì chính mắt bạn tôi nhìn thấy. Chuyện thế này: Ngay gần hàng phố Co Xàu, nơi gia đình bạn nhiều năm buôn bán và sinh sống. Có một cháu bé mới lên năm tuổi . Bố mẹ cháu đều là người Kinh, mới từ dưới xuôi lên làm ăn. Cháu không hề biết tiếng Nùng Giang. Tự dưng có một hôm, cháu buột miệng nói tiếng Nùng Giang, nói một cách rõ ràng mạch lạc. Không sai một âm tiết. Ai đứng gần đấy đều trố mắt ngạc nhiên. Nói xong nó chạy. Vừa chạy cháu vừa bảo: “Tôi phải về nhà ngay với bố mẹ. Bố mẹ chờ tôi đã năm năm rồi”. Người bố vội vàng chạy theo để giữ con mình lại. Chạy vòng vèo từ nhà đến Kéo Lồm. Từ Kéo Lồm lại về Phja Phủ. Hai bố con chạy đuổi nhau gần hết cả buổi sáng mà không tài nào bắt kịp. Bạn có tin không? Một người đàn ông hoàn toàn khỏe mạnh, thế mà chạy không nhanh bằng một đứa bé năm tuổi. Con bé chạy như chân không bén đất. Nó thoắt ẩn thoắt hiện. Lúc thấy lúc không. Người bố thở không ra hơi. Nói không thành lời. Nhưng nỗi sợ mất con làm ông gắng sức hết sức mình chạy đuổi theo, thế rồi đành bất lực đứng nhìn con gái. Con bé chạy hầu như không thở. Chỉ thấy bóng lướt qua cái bóng. Một lúc sau, bỗng thấy nó đổ gục ngay trước cửa nhà mình. Cháu hộc lên một tiếng. Máu tràn ra đằng miệng. Một vũng máu đỏ lòm to bằng miệng nón. Mọi người hàng phố cùng ào xông đến, bế người cháu lên. Thì trời ơi! Cháu đã… Nhà của người Nùng (Cao Bằng) - Ảnh: Blog NCB Mỗi khi được nghỉ, tôi hay về thăm quê. Cũng câu chuyện này, tôi đã được nghe mọi người kể lại. Nhưng tôi để ngoài tai. Bởi đã có nhiều chuyện mà người dân quê tôi hay thêu dệt, khi đi làm đồng hay những lúc nhàn rỗi. Mục đích chính chỉ làm tiêu tan mọi cơn mỏi mệt. Hoặc góp vui cho nhiều người cùng cười. Cười lên cho sướng tai mát bụng. Đơn giản vậy thôi. Có nhiều chuyện mà hồi xưa bố tôi kể còn ly kỳ rùng rợn hơn nhiều. Tôi đã quá quen với môi trường sống pac lep (nói phét) này rồi. Nhưng đến lượt bạn tôi - một người mà ngay từ nhỏ đã có thói quen sống cực kỳ nghiêm túc và mực thước - thì tôi mới thực sự giật mình. Chuyện này khiến ruột gan tôi bỗng như có kiến cắn. Hồi còn là học sinh trung học, tôi có một người bạn trai, nhà ở tận Lũng Đính thuộc xã Đình Phong. Bạn ấy học giỏi nức tiếng. Trong một cơn mơ, bạn đã giải trình xong bài toán vì sao pi bằng ba phảy mười bốn. Nhưng sau đó thì nghe đồn là nhà bạn ấy có chuyện như vậy. Mãi về sau này, và ngay cả bây giờ, tôi thấy đời sống của bạn tôi bình thường như mọi người khác. Mọi chuyện đồn đại hình như đã lắng xuống. Khi mà gia đình bạn ấm êm hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, con cái trưởng thành, có nhà riêng năm tầng mặt phố chính. Nghe đâu bạn tôi sắp được điều ra tỉnh để phụ trách một ngành lớn và quan trọng. Tôi thực sự mừng cho bạn. Cổ nhân nói: “Nhân cường (thì) mà nhược”. Tôi tin điều này hơn câu chuyện mà bạn tôi vừa kể. Một cơ thể sống khỏe mạnh. Khỏe mạnh về mọi phương diện thì không thể nào người ấy có ma gà. Một gia đình hạnh phúc, con cái đề huề giỏi giang, làm ăn năm sau phát đạt hơn năm trước, dứt khoát gia đình ấy không thể có ma gà. Người đời vì ghen ăn tức ở, có muốn đồn thổi mặc sức mà đồn thổi. Có như thế mới gọi là thói đời. Chu Văn Păn nguồn vietimes