-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Wildlavender xin được đóng góp 300.000 đ. cho trường hợp này .
-
Chuyện về một bà lang kỳ lạ Thứ sáu, 8/8/2008, 16:21 GMT+7 Thời gian gần đây, chúng tôi nhận được khá nhiều thông tin về một bà lang ở Lục Ngạn - Bắc Giang rất giỏi trong việc chữa cho những bệnh nhân bị tai nạn gãy xương cốt, hoặc sai khớp chỉ bằng thuốc Đông y gia truyền. Điều đáng ngạc nhiên là bà không những có thể chữa khỏi tất cả những vấn đề về gãy xương tưởng như rất khó xử lý với Tây y như: xương sườn, xương quai xanh hay chấn thương cột sống, mà còn có thể chữa khỏi được cả những căn bệnh quái ác khác về xương mà y học hiện đại vẫn còn nhiều trăn trở như: vôi hóa cột sống, gai đôi cột sống, thoát vị đĩa đệm hay nối lại cả những ngón tay đã từng bị... đứt lìa. Lạ lùng hơn, mặc dù bệnh nhân đông nghìn nghịt, nhưng bà lang này chữa bệnh gần như miễn phí mà chẳng hề đòi hỏi công sá hoặc thù lao. Bà Tý đang chữa cho bệnh nhân Thử làm bệnh nhân Theo những lời chỉ dẫn, chúng tôi chẳng mấy khó khăn để tìm đến nhà bà tại thôn Cầu Chét, xã Phi Điền, huyện Lục Ngạn. Đến nơi đúng đầu giờ chiều, ấn tượng ban đầu là trên khoảng sân rộng đông nghịt người và xe máy. Quan sát biển số xe mới thấy bệnh nhân của bà Tý tới từ đủ các tỉnh: từ Hà Nội, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Phòng cho đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ning, Phú Thọ... Bà lang Tý trạc ngoài 40 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, có phần hơi gày gò nhưng tác phong rất nhanh nhẹn gần như không chú ý đến người khách lạ là tôi - người duy nhất đến nhà bà nhưng không hề kê khai bệnh tật mà chỉ cố len vào để... nhìn. Khi biết tôi có nhã ý viết về bà, bà thủng thẳng nhưng dứt khoát: "Tôi rất bận, không có thời gian tiếp nhà báo, có hỏi gì thì cứ hỏi bệnh nhân, họ là nhân chứng. Còn tôi chữa nốt cho mấy người này lại phải đi dạy học, chiều tối mới về. anh đừng đợi mà mất việc". Thấy bà đang tập trung điều trị cho bệnh nhân, tôi liền đề cập: "Trước tiên tôi đến đây với tư cách người bệnh...". Bà dịu giọng ngay: "Vậy mời anh vào khám". Không để lỡ thời cơ, tôi "khai" một mạch đúng như trong y bạ: "Chân trái tôi bị tai nạn xe máy, đã đi khám và chụp X quang tại bệnh viện Việt Đức. Chẩn đoán lâm sàng cho thấy: Có tổn thương xương, sưng nề cổ chân, bong gân bàn chân. Bác sĩ chỉ định bó bột. Nay đã tháo, nhưng đứng lâu thấy máu dồn xuống chân rất tức, đi lại cảm thấy rất "trối" ở khớp cổ chân". Chỉ tay xuống chiếc gường ở góc nhà bà bảo tôi tháo giày nằm xuống. Đưa tay khám bằng cách vuốt nhẹ dọc ống xương tới ngón chân, nắn nhẹ vào phần bàn chân vẫn gồ lên và hơi tấy bà khẳng định: "Xương mu bàn chân của anh bị trật hai khớp, vì vậy nhìn bên ngoài vẫn hơi gồ lên. Do bị lệch khớp nên một vài mạch máu bị chèn ép chưa thể lưu thông hoàn toàn dẫn đến không thể đứng hoặc ngồi xổm lâu. Ngoài ra đi lại không thể thuận tiện, để lâu sẽ bị ảnh hưởng, có thể bị tật. Mức độ trật khớp vẫn còn rất nhẹ nên chụp X quang sẽ không thể hiện rõ trên phim". Bà bảo tôi thả lỏng tất cả các cơ thật thoải mái, sau đó nhấc phần cổ chân tôi đặt lên đùi, kê cạnh bàn tay vào phần sưng tấy mà tôi kêu đau rồi bất thần xoay ngoắt người ấn thật mạnh. Rốp. Khục. Hai tiếng kêu trong xương nghe rõ mồn một. Tôi rúm người suýt rú lên. Chưa kịp định thần bà cầm cổ chân bẻ ngược trở lại. Tôi ôm mặt. Đau khủng khiếp. Cái đau tựa như bị ai đó đấm rất mạnh vào bắp đùi. Xong rồi. Bà vuốt nhẹ ống xương chân rồi đặt xuống. Tôi ngóc đầu dậy, bàn chân có cảm giác như ai đó bôi dầu gió vào, nóng ran. Cái đau lập tức biến mất, nhanh một cách lạ lùng. Khi tôi định thần ngồi lên thì bà đang loay hoay với bệnh nhân mới. Tất cả diễn ra trong vòng chưa đến hai phút. Dạy học là nghề, chữa bệnh là nghiệp Việc chữa bệnh cho mọi người, bà không muốn quảng bá rộng rãi vì với bà nó chỉ là việc phụ. Việc chính của bà là giáo viên dạy học. Bà sợ đông bệnh nhân tìm đến mà làm không xuể thì có lỗi với người ta. Bà lang Tý, tên thật là Hoàng Thị Tý và người dân quanh vùng mỗi khi tại nạn, gãy xương, sái khớp vẫn thường bảo nhau đến nhờ cô Tý nắn xương bó hộ. Họ bảo, cô Tý có đôi bàn tay kỳ lạ, bó xương nắn khớp nhanh liền và chuẩn xác hơn cả bệnh viện. Thậm chí nhiều người đã từng đi bệnh viện chán chê rồi cuối cùng lại về nhờ cô khám và bó lại. Theo lời tâm sự của bà Tý thì bà là một người bình thường, lai lịch bình thường và bà đến với nghề thuốc cũng hết sức bình thường. Ông cụ thân sinh ra bà nguyên là một cán bộ Công an thời kỳ chống Pháp. Trong quá trình tham gia cách mạng trên rừng núi chiến khu, ông học được một bài thuốc Nam rất quý của đồng bào thiểu số có thể bó lành rất nhanh các vết thương tai nạn gãy xương. Sau này xuất ngũ, ông về quê và chữa bệnh cho bà con quanh vùng. Khi về già ông cụ muốn truyền lại bài thuốc cho các con, nhưng chẳng ai học được. Duy có bà (khi đó còn trẻ) hay theo cha khám bệnh cho mọi người nên tiếp thu được những kiến thức và kinh nghiệm chữa bệnh. Đặc biệt là khả năng chẩn đoán những tổn thương về xương bên trong cơ thể người bệnh nên ông cụ truyền lại cho bài thuốc. Đến năm 1985 khi ông cụ ốm nặng không chữa bệnh cho mọi người được nữa thì bà chính thức ra làm thay cha. Phải thừa nhận rằng đôi bàn tay bà lang Tý có sự mẫn cảm đặc biệt với các chấn thương trên xương. Bà bảo, dù nhắm mắt nhưng chỉ sờ bằng tay bà cũng có thể khẳng định chắc chắn rằng bệnh nhân bị gãy xương ở đoạn nào, gãy làm mấy mảnh, có thể phân biệt được bệnh nhân bị sái khớp, lệch đốt sống hay rạn xương. Chỉ cần sờ nắn vết thương bà cũng có thể biết nạn nhân ngã theo tư thế nào, lực va đập từ đâu tác động đến. Kể đến đây bà cười hiền lành: "Điều đó tôi cảm nhận được cũng phần nhiều vì tôi là giáo viên dạy Sinh, Hóa nên hiểu khá rõ về cấu tạo xương cho dù chưa hề tốt nghiệp một trường lớp y khoa nào". Bà cho biết thêm, lâu nay bà chữa bệnh không phải vì tiền vì bà yêu nghề dạy học hơn (hiện bà là giáo viên dạy giỏi của trường cấp 2 huyện): "Đơn giản là vì nó vận vào mình như cái nghiệp. Mình biết có thể cứu chữa cho người khác mà không làm, như thế là có tội". Chính vì thế người bệnh tìm đến bà không bao giờ được phép hỏi giá tiền công. Chữa xong, ai muốn đưa bao nhiêu thì đưa, tiền cứ để lên mặt tủ, người 5 nghìn, 10 nghìn hay 20 nghìn, cũng có người chỉ dăm quả cam hay cân lê. Mà họ có trả hay quên mà về mất thì bà cũng chẳng biết vì bà chẳng bao giờ ghi sổ sách và cũng chẳng có ai đứng ra làm quản lý để thu tiền hộ bà. Dân quê làm gì có tiền - bà bảo - vả lại bệnh nhân đông như thế chẳng rảnh lấy nửa phút thì hơi đâu mà lo chuyện tiền nong. Cơ chế nào cho bài thuốc của Bà lang Tý? Chúng tôi đã tìm gặp một số nhân chứng khách quan để chứng minh hư thực. Ông Nguyễn Duy Đông - Chủ tịch xã Phi Điền (Lục Ngạn - Bắc Giang) khẳng định chắc như đinh đóng cột: "Bà Tý làm nghề thuốc không hề nhằm mục đích kinh doanh, kiếm tiền. Bà đã chữa khỏi cho hàng ngàn người bệnh ở khắp nơi mà chưa hề xảy ra bất kỳ một sai sót đáng tiếc nào". Ông Đông cho biết thêm, ngay cả con trai ông bị ngã gãy tay, bản thân ông chơi thể thao bị sái khớp cũng đều nhờ bà Tý bó là chữa khỏi mà không hề phải đi bệnh viện. Tại địa phương bà là một Đảng viên gương mẫu luôn được chi bộ bầu là Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Anh Nguyễn Anh Tuấn (SN 1972) ở nhà số 7, tổ 23 phường Nam Sơn, thị xã Tam Điệp, Ninh Bình cho biết: Do tai nạn lao động, anh bị thoái hóa 3 đốt sống N1, N3, N5 và xẹp đĩa đệm đã 9 năm nay. Anh đã điều trị bằng rất nhiều cách với nhiều loại thuốc Đông, Tây y tại hầu hết các bệnh viện từ địa phương đến trung ương nhưng không khỏi. 9 năm lưng anh bị còng như bà lão 80, mất sức lao động, rất bi quan và tuyệt vọng. Nhưng chỉ qua bà lang Tý nắn xương và đắp thuốc được 3 hôm hiện 10 phần đã đỡ 7, có thể đi lại, chạy nhảy dễ dàng. Tin chắc rằng mình sẽ khỏi bệnh, anh nói: "Bệnh của tôi nếu mổ theo Tây y sẽ tốn phí hàng chục triệu và khả năng ngồi xe lăn cả đời là 50%. Nhưng hiện nay tôi tin rằng sẽ khỏi mà không cần mổ". Theo Lục Sơn Nguồn tintuconline
-
Chị laviedt đã sâu sắc khi trao đổi đièu này với Anh Thiên Sứ ! nhưng đôi lúc ta thấy rằng không dễ ai cũng nhận thức được phải thực Thiện Tâm trong hoàn cảnh khó mà hy sinh cho cái khó hơn để được nhận cái Lộc trời cho sắp tới. Vì điều này mà Anh Thiên Sứ đã phải lộ Thiên Cơ để mong người ta NGỘ mà nhận Duyên lành.
-
Giải trí thôi bác ạ ! vấn đề là thực khách chọn thức ăn này muốn thử tìm cảm giác mạnh và có thực sự nuốt nổi và tiêu hóa được với thị giác ban đầu tiếp nhận không .
-
Thứ Sáu, 08/08/2008 - 6:47 AM Phục ngày “đại cát” để hành sự nhiều người cũng “canh” đến ngày may mắn này để “hành sự” đấy!(Dân trí) - Con số 8 được cho là sẽ mang đến điều tốt đẹp, phát tài, phát lộc. Không chỉ ở Trung Quốc, các bạn trẻ Việt Nam cũng “kết” con số này và quyết tâm “bắt” cho được vận may để “hành sự”. Bát = Đại phát, đại lợi, đại cát Quan niệm chọn ngày đẹp, giờ đẹp để tổ chức các sự kiện quan trọng đã gần như trở thành một thói quen, một nét văn hóa để lại từ cha ông. Theo người Trung Hoa thì con số 8 có phát âm “pa”, cũng có nghĩa là phát tài, phát lộc. Cách viết số 8 có hai nét đều từ trên xuống, nở rộng phần dưới được coi như kinh doanh, làm ăn đều phát đạt. Số 8 còn là biểu tượng của 8 hướng (4 phương, 8 hướng) gồm bát quái, bát âm, bát tiên, bát bửu. 8/8 năm nay lại thêm đặc biệt hơn vì thế vận hội lần thứ 39 được tổ chức tại Trung Quốc - một đất nước sùng bái con số 8. Đồng hồ cũng được căn đúng 8 giờ, 8 phút, 8 giây vô cùng cẩn thận và chính xác cho lễ khai mạc. Điều đặc biệt là thành phố Bắc Kinh đang ngập tràn các đôi nam nữ thanh niên đua nhau đi… đăng ký kết hôn. Nhiều đôi uyên ương còn muốn tổ chức đám cưới nhưng vì ai cũng bận đón… Olympic hơn là quan tâm đến cô dâu, chú rể nên đành lùi lại vào năm sau, nhưng vẫn nhất quyết kết hôn cho bằng được vào ngày “đạt cát”. Cách đây 1 năm, bố mẹ đã đồng ý chuyện tình cảm của M.Liên (19, P.N.T) và T.Hùng (22, Kim Liên, Hà Nội) nhưng đi xem bói thầy bảo “tử vi, mệnh của hai đứa có nhiều khúc mắc nên phải “săn” đúng ngày “đại cát” để làm đám cưới”. Nên mặc dù còn rất trẻ và hai bên gia đình cũng muốn để hai bạn dành thời gian học tập, lập nghiệp nhưng đành phải theo lời thầy cho yên tâm. “Ông thầy này mẹ mình đi xem tận Bắc Ninh, chuẩn lắm, để lỡ ngày này thầy bảo cưới xong làm ăn cái gì cũng hỏng, thua thiệt nhiều”. Thầy phán, bố mẹ ép phải theo là một chuyện, nhưng nhiều bạn không muốn bỏ lỡ vận may có “tam tám” này. Đặng Công P (18 tuổi, L.V.C) vừa đỗ Đại học Công Đoàn đã ngay lập tức “nhắm” ngày 8/8/2008 tuyên bố với bạn bè cậu sẽ “dinh” đủ 3 thứ về nhà: “xe máy, di động và… người yêu. Bố mẹ P đã hứa là mua xe máy nếu cậu thi đỗ đại học, và còn thấy vui vì cậu quý tử biết lo toan, tính ngày chọn tháng. “3 cái này suốt ngày kè kè bên cạnh, cũng phải căn cơ chứ, máy cũng như người mà. Mình có bạn gái gần một năm rồi, chưa dám dẫn về nhà, chọn ngày này cho chắc ăn”. Nhiều bạn đã đi làm và công việc có liên quan đến đến kinh doanh cũng để mắt tới ngày may mắn. Hoàng Khánh, 25 tuổi, biên tập một website cho biết: “Điều đầu tiên mình nghĩ đến sẽ là đi mua 1 tờ vé số có đuôi 88. Ấy là nói vui vậy thôi, vì ai nhắc đến nghĩa “phát” của nó mà. Các cụ cũng bảo “lộc bất tận hưởng”, chẳng may mình có trúng chắc chắn sẽ chia cái hên này cho nhiều người khác”. Vận may không thể hụt! “Không biết mọi người như thế nào, nhắc đến cụm số "8/8/2008" là mình chỉ mong các vận động viên Việt Nam sẽ may mắn đạt thật nhiều huy chương trong Thế vận hội năm nay. Cảm nhận của mình về con số 8 là ít… phức tạp nhất vì lộn đi lộn lại vẫn chính là chính nó” - Một suy nghĩ rất đơn giản từ Q.Huy (20 tuổi, G.V, TPHCM). Bác Phùng Chính T. (48 tuổi, H.G) lại coi ngày này để cả nhà tiêu tiền thả ga vì quan niệm “tiền có xuất, thì khắc có nhập. Tiền ra đồng nào sẽ sinh sôi, nảy nở đồng ấy”. Bác còn hô hào cả vợ, cả K (con trai) bác làm theo. “Bố đưa mình mấy trăm nghìn, dặn đi tới mấy hàng bán xổ số ở gần nhà. Thấy có vé nào có dính đến số 8 là “quét” hết. Không trúng thì cũng coi là mình bỏ đi tiền xui, tiền chết để sau này đổi lấy tiền may” (?!) Niềm tin vào vận may có thể làm con người phấn khích, hưng phấn hơn trong cuộc sống. Nhưng nếu tin quá vào nó, chỉ mong kiếm được tiền nhanh chóng nhờ vào các trò may rủi thì rất dễ sa đà, mất phương hướng. May mắn thường sẽ đến với bạn một cách bất ngờ và ít mong chờ nhất, chứ đừng tự “ép” may mắn sẽ đến với mình. Ly Vũ nguồn dantri.com
-
Di sản dân tộc: Chữ Nôm Thứ tư 6, Tháng Tám 2008 Chữ Nôm là một cách viết biểu ý từ thời cổ đại và trung đại của tiếng Việt dựa trên những thành tố chữ Hán. Rất nhiều tác phẩm của người Việt đã thực hiện bằng chữ Nôm nhưng ngày nay mấy ai có thể đọc được .Lịch sử. Rất có thể trong lịch sử, chữ Nôm đã tạo ra từ những năm đầu khi vó ngựa viễn chinh của phương Bắc đến Việt Nam. Những chữ Nôm đầu tiên được sử dụng để chỉ cách gọi địa danh, hoặc những khái niệm không tồn tại trong Hán văn, mặc dù điều này do những cứ liệu thành văn còn lại hết sức ít ỏi, đã không thể được kiểm chứng một cách chính xác. Phạm Huy Hổ trong "Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào" cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ "bố cái" trong cụm từ "Bố Cái đại vương" do nhân dân Việt Nam xưng gọi Phùng Hưng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ 8. Có ý kiến khác lại dựa vào chữ "cồ" trong quốc danh "Đại Cồ Việt" để đoán định chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng. Trong một số nghiên cứu những năm 90 của thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới khẳng định âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời Đường-Tống thế kỷ 8-9. Nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi hình thành cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự) mà chỉ có thể ra đời sau thế kỷ thứ 10 khi Việt Nam thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938 [1]. Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm 939, chữ Nôm được hoàn chỉnh dần dần và chỉ đến thế kỷ 13-15 mới được dùng nhiều trong văn chương. Hơn 1.000 năm sau đó, từ thế kỷ 10 cho đến đầu thế kỷ 20, khá nhiều tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, tôn giáo được viết bằng chữ Nôm, mặc dù rất hiếm hoi có những giai đoạn chữ Nôm được coi trọng, và chưa từng được được sử dụng một cách có ý thức trong các văn bản hành chính của chính quyền ngoại trừ những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ và nhà Tây Sơn. Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi có xen chữ Nôm khi không thể tìm được một chữ Hán mang nghĩa tương đương chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt bởi quan niệm sai lầm của giới sĩ đại phu các triều đại: "nôm na là cha mách qué". Dưới triều đại Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của chính quyền Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là công cụ còn chưa chứng tỏ được tính hữu hiệu và phổ dụng của nó so với chữ Hán. Sự kết thúc của chữ Nôm và Hán Chữ Nôm ra đời bắt nguồn từ tư tưởng chống Hán hóa, là ý thức phản vệ của dân tộc trước những gì có tính ngoại lai. Vào thời kỳ Bắc thuộc, người phương Bắc tràn vào Việt Nam với dụng ý muốn đồng hóa dân tộc Việt, chữ Nôm ra đời chống lại xu hướng Hán hóa của người phương Bắc, đồng thời khẳng định tinh thần dân tộc, tuy nhiên, điều đó chưa thực sự mạnh mẽ một cách có ý thức. Chữ Nôm thuộc loại hình văn tự khối vuông - nghĩa là toàn bộ chữ được cấu tạo trong một ô vuông, được xây dựng trên cơ sở chất liệu là chữ Hán và được đọc theo âm Việt. Chữ Nôm xuất hiện ở Việt Nam khi chữ Hán đã vào Việt Nam và đã được hình thành một cách có hệ thống âm Hán Việt, nên ban đầu chữ Nôm thuần túy ghi âm Việt. Dần dần có những chữ Hán không ghi được âm Hán Việt cho nên các chữ Nôm sáng tạo được ra đời. Khi ý nguyện sáng tạo ra một dạng chữ riêng của người Việt trở nên mạnh mẽ hơn trong thời Lê, những chữ Nôm được tạo ra một cách có ý thức hơn đã giúp cho sự hình thành thêm nhiều chữ Nôm mới đủ để biểu đạt được tâm tư, nguyện vọng, tâm hồn và khí phách dân tộc trong các tác phẩm văn chương như thơ, phú, chiếu, cáo, biểu v.v. Sự sáng tạo đó đã để lại cho đời sau những di sản thơ Nôm vô giá từ những bài thơ của Nguyễn Hàn Thuyên đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, từ Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông đến Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ Đại Nam quốc sử diễn ca đến Đoạn trường tân thanh; từ những bài thất ngôn bát cú thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đến dạng song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, thơ lục bát với Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Rồi thơ của Nguyễn Khuyến, Tú Xương v.v., và không ít những tác phẩm Nôm khuyết danh như Thạch Sanh, Trê Cóc, Nhị độ mai, Tấm Cám, Lưu Bình Dương Lễ v.v. Chữ Nôm được dùng song song với chữ Hán cho đến thế kỷ 16, khi các nhà truyền đạo phương Tây vào Việt Nam, họ đã dùng kí tự Latinh để phiên âm tiếng Việt, và chữ Quốc ngữ bắt đầu ra đời. Chữ Quốc ngữ bằng kí tự La Tinh dần dần thay thế chữ Hán Nôm do sự đơn giản dễ nhớ dễ học, thêm nữa, chữ Quốc ngữ tỏ ra hữu dụng khi phiên âm được các dấu thanh trong tiếng Việt. Chữ Nôm còn được dùng cho tới cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhưng ngày càng suy yếu trước sự bành trướng của chữ Quốc ngữ. Di sản này hiện nay có nguy cơ tiêu vong. Sau khi chữ Quốc ngữ (dùng mẫu tự Latinh) phổ biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một. Năm 1920, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm dùng chữ Nôm. Khi tiến trình Âu hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ và được sự cổ súy của thủ lĩnh các phong trào duy tân đương thời, chữ Quốc ngữ đã trở nên phổ biến và khẳng định chỗ đứng của nó trong hệ thống văn tự mới của dân tộc theo mô hình phương Tây, thoát khỏi ảnh hưởng của phương Bắc. Đỉnh cao của chữ Quốc ngữ với Thơ mới và Tự lực văn đoàn đã trở thành sự cáo chung đối với văn tự truyền thống. Ngày nay, ở Việt Nam và thế giới rất ít người còn đọc được văn bản chữ Nôm từ nguyên tác. Một phần quan trọng của lịch sử Việt Nam đã nằm ngoài tầm tay của 80 triệu người nói tiếng Việt. Chữ Quốc ngữ ra đời tuy đơn giản, dễ nhớ dễ học nhưng lại có nhược điểm là hệ thống biểu âm khó diễn đạt hết các từ cùng âm khác nghĩa vốn rất nhiều trong tiếng Hán và tiếng Việt. Vì lý do này, có nhiều từ Việt bị dùng sai, nhưng do dùng lâu quen và do đó từ sai trở thành từ đúng (ví dụ: khốn nạn). Và cũng chính vì việc từ khi sử dụng chữ Quốc ngữ không tiếp tục giảng dạy và học chữ Hán Nôm đã làm cho những thế hệ người Việt ngày nay không còn biết đến chữ Hán Nôm nữa, và không thể đọc được những tư liệu sách vở trong kho di sản Hán Nôm ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Chính vì điều đó mà ít có thế hệ người Việt sau này có thể hiểu rõ và dùng đúng tiếng Việt như nghĩa thật sự của nó (vì khoảng 70% tiếng Việt được hình thành từ tiếng Hán-Việt). Chữ Nôm được đặt ra cũng còn để thỏa mãn nhu cầu quân sự và chính trị. Căn bản là chữ viết nhìn thì giống như chữ Hán nhưng phát âm và ý nghĩa thì hoàn toàn khác. Do đó khi Trung Quốc muốn tìm hiểu Việt Nam để mưu đồ xâm lăng, họ sẽ phải học thuần tiếng Nôm để thông thạo tình hình và đả thông các văn bản. Những cách tạo chữ Nôm Dựa vào chữ Hán, chữ Nôm đã được hình thành bằng nhiều cách khác nhau. Trong đó, có thể tóm tắt thành 5 loại dựa vào ba yếu tố hình-âm-nghĩa như sau: Chữ Hán được vay mượn toàn diện 100% cả hình, âm và nghĩa. Ví dụ: Hán 漢, Việt 越, tỉnh 省, thành 城. Giữ hình và nghĩa của chữ Hán, nhưng đọc theo âm Nôm. Ví dụ: 車 xe (<車 xa); 孤 côi (< 孤 cô); 局 cuộc (< 局 cục); 餅 bánh (< 餅 bính); 家 nhà (< 家 gia); 卷 cuốn (< 卷 quyển); 刀 dao (<刀 đao); 巾 khăn (< 巾 cân); 瓦 ngói (<瓦 ngoã); 心 tim (< 心 tâm). Giữ nguyên hình và âm của chữ Hán, nhưng đổi nghĩa. Ví dụ: 沒 một (chỉ số 1, nghĩa gốc tiếng Hán là "mai một", "mất đi"); 卒 tốt (chỉ tốt >< xấu, nghĩa gốc chữ Hán là "binh lính", "chết"); 戈 qua (nghĩa là đi qua, nghĩa gốc chỉ một loại vũ khí dài); 賒 xa (chỉ xa > < gần; nghĩa gốc là mua trả góp); 昌 xương (chỉ xương động vật, nghĩa gốc là "đẹp", "hưng thịnh"); 泊 bạc (chỉ màu trắng, nghĩa gốc là “bến”, “nơi đậu thuyền”) v.v. Giữ hình của chữ Hán, nhưng đổi hẳn âm và nghĩa. Ví dụ: 帝 đấy (tiếng Hán là "đế", chỉ vua chúa); 固 có, đối lập với "không", (tiếng Hán là "cố", nghĩa là "vững chắc"); 羅 (罗)là (tiếng Hán đọc là "la", nghĩa là "cái võng", "cái lưới", "lụa"); 略 trước, đối lập với "sau" (âm Hán Việt là "lược", nghĩa là "sơ lược", "sơ sài", "tính toán"); 別 biết, [hiểu biết] (âm Hán là "biệt", nghĩa là cách biệt, khác biệt); 及 gặp [gặp gỡ] (âm Hán là "cập", nghĩa là "đến", "kịp tới"); 弄 sống (âm Hán là "lộng", nghĩa là "đùa giỡn"); 滝 sông (âm Hán là "lung", nghĩa là "nước chảy xiết") v.v. Ghép hai chữ Hán với nhau. Loại này hết sức phổ biến và thường ghép một thành tố biểu âm với một thành tố biểu ý (giống như chữ hình-thanh trong Lục thư). Ví dụ: tháng = nguyệt 月 (biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm); mắt = mục 目 (biểu ý) + mạt 末 (biểu âm), trời= thượng 上 (biểu ý) + thiên 天 (biểu âm); năm (con số) = ngũ (五 biểu ý) + nam (南 biểu âm); năm (năm tháng) = niên (年 biểu ý) + nam (南 biểu âm). thường ghép một thành tố biểu âm với một thành tố biểu ý (giống như chữ hội ý trong Lục thư) Thêm nét và thêm chữ Hán. Ví dụ: Bố (đối lập với mẹ) = vương 王 + bố 布 + nét giản lược của 司) Thêm bộ thủ khác. Ví dụ: 渃 nước (thủy 氵+ nhược 若); 扜 vo [vo tròn] (thủ 扌+ vu 于). Các bộ thủ thường được dùng là: 亠, 刂, イ, 厂, 广, 氵, 忄, 辶, 土, 寸, 口, 巾, 山, 犭, 子, 小, 女, 礻, 灬, 木, 艹, 日, 月,牛, 毛, 片, 牙, 疒, 瓦, 石, 衤, 白, 目, 皮 , 田, 米, 耳, 竹, 舟, 羽, 雨, 色, 耒, 糸, 貝, 走, 足, 車, 角,酉, 金, 風, 食, 髟, 馬, 魚, 赤. Thêm các nét nháy bên trên, bên cạnh, để chỉ một chữ có âm đọc khác biệt. Ví dụ 女< nỡ, nợ, nữa (bằng dấu < cộng với chữ 女 nữ); 馬< mỡ, mựa (dấu < cộng với chữ 馬 mã). “朱 cho (dấu “ cộng với 朱 chu); “貝 buổi (dấu “ cộng với 貝 bối) Bớt nét của chữ Hán, đổi luôn âm và nghĩa. Ví dụ: "khệnh khạng" (đều dùng chữ "cộng" 共 bớt nét, trong đó chữ "khệnh" bỏ nét phảy ノ, chữ "khạng" ヽ bỏ nét mác). "khề khà" (đều dùng chữ "kỳ" 其, chữ "khề" bỏ nét phảy ノ, chữ "khà" bỏ nét mác ヽ). Ngoài ra còn một số chữ được viết tắt từ chữ Hán gốc và không đổi cả âm lẫn nghĩa. Những chữ này tương đương với chữ Giản thể của Trung Quốc, nhưng cũng có nhiều chữ không trùng với chữ Giản thể do được viết tắt theo lối Nôm. Ví dụ: 风 phong (viết tắt chữ 風 phong); 万 vạn (viết tắt chữ 萬 vạn); 乙 vũ (viết tắt 雨 vũ, không phải là "ất"); り tiền (viết tắt chữ 錢 tiền). Nhược điểm Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại) nên khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ. Cách đọc cũng có khi không thống nhất hoặc một chữ có thể có nhiều cách đọc, nên có người nói rằng "chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán". Ngoài ra, việc "tam sao thất bản" là khó tránh khỏi, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao (chữ bị nhòe, mất nét). Đó là những hạn chế của ông cha, với một lịch sử không thể thay đổi mà dân tộc ta phải chấp nhận, để lại xúc cảm ngậm ngùi cho mỗi con dân Việt khi nhìn sang tiến trình bản địa hóa một cách có chọn lọc văn tự của Trung Hoa của những quốc gia đồng văn như Nhật Bản, Triều Tiên, những quốc gia đã thành công trong việc giản hóa chữ Hán thành những ký hiệu biểu âm thuận tiện khi sử dụng hơn rất nhiều. Đặc biệt là Triều Tiên với hệ thống 23 ký tự hết sức khoa học và dễ sử dụng do Hoàng đế Sejong sáng tạo đủ sức biểu đạt tư duy ngôn ngữ chắp dính của dân tộc hoàn toàn không cần phải sử dụng các thành tố chữ Hán. Chữ nôm của các dân tộc khác Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc thiểu số khác như Tày, Dao, Ngạn, v.v. cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của họ. [2] "Chữ nôm" của các dân tộc khác Do 喃 nôm = 口 khẩu + 南 nam nên chữ "喃 nôm" trong tên gọi "chữ Nôm" thường được hiểu với ý nghĩa là "ngôn ngữ của người Nam". Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm chữ nôm ra cho tất cả các hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được các dân tộc phương bắc như Nhật Bản, Triều Tiên là "chữ nôm Nhật", "chữ nôm Triều", hay gọi những hệ thống chữ của các dân tộc thuộc Trung Quốc [3] như Tráng, Đồng, v.v. là "chữ nôm Choang", "chữ nôm Đồng", v.v. Kokuji(国字 Quốc tự) trong hệ thống Kanji của người Nhật cũng được tạo thành từ chữ Hán để ghi lại những từ và khái niệm riêng trong tiếng Nhật. Ví dụ: 畑 hatake = 火 hoả + 田 điền, nghĩa là cánh đồng khô, để phân biệt với 田 là ruộng trồng lúa nước; 鮭 sake = 魚 ngư + 圭 khuê, nghĩa là cá hồi Nhật Bản; 瓩 kiloguramu = 瓦 ngoã + 千 thiên, nghĩa là kílô-gam. Trong hệ thống Kanji hiện đại, cũng có nhiều chữ không có trong các tự điển Trung Quốc nhưng không phải là Kokuji vì đó chỉ là cách đơn giản hoá những chữ Hán đã có sẵn theo kiểu của người Nhật. Ví dụ: 円 là giản thể của 圓 viên; 売 là giản thể của 賣 mại. Tương tự như Kokuji của người Nhật, người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán để tạo thành một số chữ biểu ý riêng trong hệ thống Hanja của họ. Ví dụ: 畓 dap = 水 thuỷ + 田 điền, nghĩa là ruộng nước, để phân biệt với 田 là đồng khô; 巭 bu = 功 công + 夫 phu, nghĩa là người lao động. Chữ vuông Choang của dân tộc Tráng ở cực nam Trung Quốc được phát triển dựa trên chữ Hán và thường được so sánh với chữ Nôm của dân tộc Kinh ở Việt Nam do có nhiều điểm tương đồng giữa hai hệ thống chữ viết này. [4] [5] Tuy nhiên, ngoài những cách tạo chữ tương tự với cách tạo chữ Nôm là giả tá, hình-thanh và hội ý, còn có những chữ vuông Choang được tạo ra bởi những cách sơ khai hơn là tượng hình và chỉ sự.(xem Lục thư) Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những "chữ nôm" này với những bộ chữ biểu âm như Kana và Hangul trong tiếng Nhật và tiếng Hàn hiện đại. (Wikipedia) nguồn dongtac.net
-
THẦN THOẠI HÔM NAY Bạn thân mến của tôi, tức Tèo, không hy vọng gì có vợ nữa. Sau bao nhiêu lần yêu và bị yêu chẳng đi đến đâu, hình như anh đã chấp nhận số phận, trở thành một “người độc thân thỉnh thoảng vui vẻ”. Tôi chỉ còn biết an ủi bạn. Nhưng mỗi lần tới thăm Tèo, tôi không khỏi buồn bã khi thấy căn phòng vắng bàn tay phụ nữ của nó đầy nét hoang tàn. Nhiều lúc ti vi để dưới gầm giường, tủ lạnh trong buồng tắm, còn quần áo thì trên trần nhà. Vậy mà không thể tin được, hôm qua Tèo tới gặp tôi, cả khuôn mặt, cả trang phục, cả hàm răng đều sáng bóng như gương. Tèo reo lên lanh lảnh: - Tớ có vợ rồi, bạn ơi. Tôi sững cả người như bị sét đánh: - Ở đâu ra? Tèo cười ngoác cả mang tai: - Ở trong quả táo! Tôi kinh ngạc: - Thế là thế nào? Tèo kể lể: - Một hôm tớ đi làm về, bỗng giật mình thấy nhà cửa gọn gàng, thơm phức, trên bàn có một mâm cơm nóng hổi. Tôi nhăn mặt: - Xạo! Tèo phẩy tay: - Xạo làm gì! Tớ cực vui, nhưng nghĩ: chắc bà dì qua chơi, thấy bề bộn nên thương mình dọn dẹp giúp. Chả là tớ có một bà dì rất tốt bụng và thương người. Bà dì ấy thì tôi biết nên gật đầu. Tèo nói tiếp: - Nhưng hôm sau, đi làm về, tớ cũng thấy y chang. Nghĩa là sàn nhà sạch nhẵn, quần áo giặt xong được ủi và gấp cẩn thận trong ngăn tủ, kể cả quần đùi. Tủ lạnh được lau chùi và mâm cơm lại bốc khói với bốn món chưa kể món tráng miệng. Tớ cảm động quá, hạnh phúc quá bèn phone cho bà dì để cảm ơn. Bà ấy ngạc nhiên vô cùng, nói chưa khi nào làm thế. Bà còn gọi điện thoại cho chồng sau đó, nhờ đến đón tớ đi khám bác sĩ tâm thần. Tớ quá lạ lùng, và quá khó hiểu. Đến mức nghi rằng thủ phạm là... cậu. Tôi giật mình: - Là tôi à? Tèo nheo mắt: - Đúng. Tớ có thoáng nghĩ thế vì ngoài bà dì, xưa nay chỉ còn cậu thương tớ. Nhưng rồi bình tĩnh lại, thấy trong quá khứ, có thương tới đâu thì cậu cũng chỉ rủ tớ đi nhậu rồi về phòng lại bày thêm. Cậu chưa khi nào tự dọn phòng mình cho ra hồn, nói gì dọn phòng tớ. Tuy hơi tự ái, nhưng tôi cũng phải thốt lên: - Đúng vậy. Tèo hăm hở: - Tớ nghĩ mãi không ra. Tớ tin chắc là trò đùa của một bạn hiền nào. Nhưng ngày thứ ba đi về cũng thế. Tức là cũng vẫn nhà cửa tinh tươm. Chẳng còn cách gì khác, tớ bèn rình. Hôm qua, tớ đi làm nhưng về sớm hơn thường lệ đến ba tiếng đồng hồ. Tôi ngắt lời: - Thì hôm nào bọn ta đi làm chả thế? Tèo xua tay: - Biết rồi. Nhưng mọi hôm về sớm ra quán bia ngồi. Còn hôm qua về sớm, tớ rón rén về nhà, rón rén lên cầu thang, rón rén nhìn qua khe cửa. Tóm lại, tớ đối xử với nhà mình như thằng ăn trộm. Tôi sốt ruột: - Rồi sao nữa? Mắt Tèo sáng rực lên: - Rồi tớ thấy, như trong chuyện thần thoại, quả táo mà tớ mua tuần trước, để quên không ăn trên nóc tủ lạnh từ từ tách đôi, một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần chui ra từ quả táo, vừa tung tăng ca hát vừa thu dọn căn phòng. Tôi nghẹt thở: - Rồi sao nữa? Tèo cười sang sảng: - Rồi tớ đâu phải thằng ngốc. Tớ lao vào nhà, vớ lấy quả táo nhai ngấu nghiến. Cô gái kêu thét lên, nhưng cô không còn chỗ chui, thế là cô yêu tớ. Hai đứa tớ sắp kết hôn, hôm nay đến để báo cho cậu biết. Tôi nghe mà lòng tê tái, vừa mừng cho Tèo, vừa tủi cho mình. Đời tôi đã mua không biết bao nhiêu bưởi, xoài, cam, quýt mà không mua táo, mới ra đến nỗi này, chẳng có ai yêu. Tiễn Tèo ra về, tôi lao ngay ra chợ, mua ngay một trái táo to nhất, đắt nhất. Vỏ táo đỏ lự, thân táo bóng bẩy, mùi táo thơm lừng. Đừng nói một, chứ nếu có mười cô thiếu nữ chui ra từ đây thì cũng đủ chỗ. Tôi mang táo về nhà, lau sạch nóc tủ lạnh rồi nhẹ nhàng đặt lên trên. Cả đêm thao thức không ngủ. Đúng rồi, không phải ngẫu nhiên mà Adam và Eva làm quen nhau từ quả táo, có lý do khoa học đàng hoàng. Hôm sau tôi đi làm, được vài tiếng đồng hồ thì bỏ chạy về nhà. Bắt chước Tèo, tôi rón rén lên cầu thang, rón rén nhìn qua lỗ khóa. Kìa, trong căn phòng tối mờ mờ, trái táo động đậy. Tôi nín thở. Táo động đậy mạnh hơn. Rồi từ đó, chui ra một con sâu róm to đùng! LÊ HOÀNG ( nguồn thanhnienonline )
-
Thứ Bẩy, 02/08/2008 - 2:02 AM Bí kíp làm đẹp phương Đông (Dân trí) - Phụ nữ Phương Đông từ nhiều thế kỷ nay đã biết dùng những sản phẩm được làm từ thiên nhiên để chăm sóc sắc đẹp. 1. Cây lá móng Công dụng: cây lá móng giúp chăm sóc, làm đẹp tóc và giúp tóc chắc khoẻ. Đặc biệt cây lá móng giúp ngăn ngừa gầu, giúp mọc tóc, mang lại sức sống cho mái tóc mỏng manh và dễ gẫy và tạo mầu cho tóc. Đặc biệt với tóc nhờn, cây lá móng còn giúp loại bỏ các loại bã nhờn, giúp tóc sạch và khô. Các sản phẩm chăm sóc tóc được làm từ cây lá móng được bán trên thị trường sẽ mang lại độ dẻo dai và bóng mượt cho mái tóc của bạn. Cách thực hiện: Pha loãng bột cây lá móng với nước ấm. Cho bột vào nước và khuấy đều cho đến khi có được một bát bột sền sệt. Cho thêm một chút dầu ô lưu và vài giọt chanh. Đeo găng tay trước khi cho hỗn hợp trên lên tóc của bạn. Ngoài ra bạn cần đặt một chiếc khăn lên cổ và vai để tránh bột cây lá móng rơi xuống những phần này. Bạn có thể để từ 20 phút cho tới 2 giờ đồng hồ tuỳ vào sở thích của bạn là mầu đầm hay nhạt. Sau đó gội sạch đầu với dầu gội đầu thường. Để có mầu vừa phải, thời gian tốt nhất là 1 tiếng. Bạn có thể tìm thấy bột lá móng ở các cửa hàng mỹ phẩm Lưu ý: Bạn không nên sử dụng bột lá móng để chăm sóc tóc nếu tóc bạn là tóc nhuộm hoặc được làm xoăn. Tốt nhất là bạn nên chọn loại bột lá móng trung tính có nghĩa là không có mầu. 2. Quả bơ Hạt quả bơ phơi khô có thể tán nhỏ hoặc làm thành làm kem dưỡng da. Loại kem này có tác dụng dưỡng ẩm, nuôi dưỡng các tế bào, tái tạo tế bào và bảo vệ da. Cách sử dụng: Quả bơ có thể được dùng để chăm sóc da cho toàn bộ cơ thể, tay, môi và tóc. Cách thực hiện: - Chăm sóc da với trái bơ: trái bơ tươi giúp cung cấp độ ẩm cho da, điều trị những vùng da bị tróc vẩy hoặc bị rát do ánh nắng mặt trời. Ngoài ra, nó còn rất hữu hiệu đối với vùng da bạn vừa cạo râu hoặc tẩy lông. Lấy hạt của một quả bơ, sau đó dùng hai tay xoa hạt bơ cho nóng lên. Dùng hạt bơ vừa xoa nóng, mát xa khuôn mặt theo hình vòng tròn, dưới 2 cánh mũi và môi. - Chăm sóc tóc với trái bơ: trái bơ giúp nuôi dưỡng mái tóc khô và làm mềm chúng, giữ cân bằng và giúp mái tóc khoẻ hơn. Dùng quả bơ đã được xay nhuyễn để làm mặt nạ cho tóc. Sau đó dùng một chiếc khăn ấm để ủ lên tóc. Để như vậy trong vòng 1 giờ đồng hồ sau đó gội sạch với dầu gội đầu. Thực hiện 1 lần/tuần. 3. Xà phòng đen Xà phòng đen được triết xuất 100% từ thiên nhiên (ô lưu đen) có tác dụng làm sạch da và lấy đi các tế bào chết. Do được làm từ ô lưu tự nhiên, loại xà phòng này có thể dùng cả cho cơ thể và khuôn mặt. Xà phòng đen giúp da bạn trở nên mềm mại và mịn màng. Cách thực hiện: Xoa xà phòng đen lên khắp cơ thể, đặc biệt là những vùng da nhạy cảm. Để 5 phút sau đó tắm sạch. Kết hợp mát xa cơ thể khi tắm sạch xà phòng (có thể cho vài giọt nước hoa hồng vào nước tắm). Sau khi tắm xong, dùng dầu mát xa hoặc kem dưỡng mát xa đều khắp cơ thể. 4. Muối Biển Chết Loại muối này được làm từ nước Biển Chết có tác dụng trong điều trị y học. Rất giàu các chất như natri, canxi, mage, iot, sắt, kali, muối biển chết là một loại thuốc cực kỳ hiệu quả trong điều trị bệnh stress. Ngoài ra, loại muối này được đánh giá rất cao trong điều trị bệnh viêm da. Cách thực hiện: Bạn có thể dùng muối biển chết để tắm. Cho vào trong bồn tắm của bạn một nắm muối và hoà tan. Ngâm mình vào trong nước khoảng 20 phút. Nước muối biển sẽ giúp làm sạch da bạn. Vị mặn của muối giúp bạn thư giãn khi rửa mặt và dễ ngủ hơn vào buổi tối. Muối biển chết còn có thể dùng để tẩy da chết cho cơ thể. Trộn một nắm muối với một chút dầu hạnh đào. Sau đó dùng muối xoa lên da (bạn có thể dùng khăn hoặc một miếng vải lụa để mát xa). Sau khi mát xa khoảng 30 phút, tắm sạch muối với nước ấm. 5. Tẩy lông với đường Tẩy lông chân, tay… với đường là một phương pháp được phụ nữ Trung Đông sử dụng từ nhiều thế kỷ nay. Phương pháp này giúp da chị em vẫn giữ được sự mềm mại sau khi tẩy lông. Tuy nhiên việc tẩy lông không phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả cao nhất ngay từ lần thực hiện đầu tiên. Cách thực hiện: Cho 2 thìa đường vào 1 thìa nước. Thêm vài giọt chanh và một chút mật ong. Cho hỗn hợp trên lên bếp và đun cho tới khi được một dung dịch đặc có mầu vàng sẫm. Đổ dung dịch thành những hình tròn và đợi trong vài phút. Để những hình tròn này lên những vùng da bạn cần tẩy lông. Giật thật nhanh và mạnh hình tròn này, theo đó lông sẽ được bật ra khỏi da của bạn. Bạn nên lưu ý, đối với làn da nhạy cảm, phương pháp này có thể gây nên sự viêm nhiễm. Sau khi tẩy lông, nếu bạn thấy có những vết đỏ trên da, hãy lập tức rửa bằng nước lạnh. Dung Nhi Theo Embelly nguồn dantri.com.vn
-
Bóng người qua in bóng đời ta Thứ hai, 4/8/2008, 07:00 GMT+7 Trong cơ thể ta có cơ quan nào kỳ diệu nhất? Chắc hẳn là bộ não, nó hình thành ngay giây phút đầu tiên cùng tim thai hoạt động, và có hàng trăm nghìn tỉ tế bào. Bộ não chứa trí tuệ. Trí tuệ đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ đó lại là hình ảnh. Chẳng hạn từ "dòng sông" nổi lên trong suy nghĩ, lập tức hình ảnh của dòng sông hiện lên trong não. Và những tế bào não chẳng chứa gì hơn ngoài hình ảnh. Chắc hẳn, theo môn Phân tâm học, hình ảnh của tình nhân sẽ chứa đầy – mênh mông – dào dạt – sục sôi ào ạt trong não người ta. Thậm chí khi quá tải, nó còn đổ ào xuống bắt con tim phải gánh vác hộ, rồi trái tim cũng vác không xuể, nó ào ào chuyển đổi những hình ảnh đó thành nguồn hoóc-môn khát khao tung đi khắp cơ thể, làm cho quần áo muốn cựa mình, và ngay đôi giầy dưới chân cũng muốn xổ tung đi... Hình ảnh của tình nhân chồng chồng lớp lớp đan xen dày đặc, đến mức nhà phân tâm học lừng danh Freud còn gọi những vỉa quặng đó là tiềm thức, là vô tận như miền vô thức của tình yêu... chính cái nỗi khao khát mênh mông của tình yêu này ở bất cứ hướng nào đều có thể nổi lên, có khi là một làn gió hây hẩy, có khi là một trận cuồng phong thời tung cánh buồm của mời gọi – truy đuổi - đam mê. Nhưng mà ai sẽ sản xuất nhiều hình ảnh nhất ở trong óc ta? Người đã lướt qua như gió thoảng hay người ở lại đang thả đêm đêm trên chiếc giường cưới một mỏ neo có giấy giá thú làm đảm bảo? Có một văn hào nói: "Bạn đừng coi người vợ của mình là tình nhân, mà chỉ là người đồng hành đi suốt cuộc đời". Đúng thế, nếu ta coi vợ ta, chồng ta lúc nào cũng thắm thiết như vai trò của các tình nhân, người có thể lên men mọi thứ thành khao khát, một lời hẹn bên hàng rào, chao ôi thời gian như ngừng lại dù mặt trời chói chang, bão lốc hay đêm đen chỉ còn là yên ngủ văng vẳng tích tắc của kim đồng hồ đang chạy, và những chiếc kim lười biếng vụng về đó lại đang cố tình hóa những kim đan, chúng đan thành đôi guốc cao gót của nàng, đi như không biết đường ra chỗ hẹn, đường từ cửa nhà nàng ra ngõ quen thuộc thế nhưng đó là con đường đầu tiên chỉ lối đến thiên thai, nàng cứ nấn ná mãi trong nhà để nhớ ra đường đi, và sự nấn ná đó luôn luôn là một cố gắng rất dài của con tim để vượt qua một quãng đường rất ngắn, rồi những sợi tóc nàng tung theo gió... Dường như đó là những nhạc công diệu kỳ đang tấu lên cổ ta khúc thì thào mơn man tinh tế nhất của đam mê... Trời ơi, sao gió trời keo kiệt thế, sao các người không thổi tung cả mái tóc của nàng đổ bộ xuống cổ ta, rồi khi đôi tay nàng nắm lấy tay ta có lẽ không thứ xúc giác nào mơ hồ đến vậy, ta là nhà khoa học, ta vẫn biết khi cần thực chứng thì phải "nắm tận tay", hẳn là tay nàng đã nắm lấy tay ta, vậy mà nó bồng bềnh trôi như ở dưới chân cầu vồng, ánh sáng trắng đã hoá bảy mầu, lúc thì chúng làm cho các ngón tay nàng hoá vạn bàn tay, lúc thì nhập nhoà như thể chưa có đủ một bàn tay nàng đáp xuống tay ta; Rồi đôi môi mới đó còn luyên thuyên như một nhà ngôn ngữ đánh trống lảng vì dại giờ đã im bặt để đẩy không gian vào thế giới lặng thinh, thinh lặng như các nhà du hành đổ bộ xuống mặt trăng vậy, không phải tai ta, mà ngực ta nghe tiếng đập thình thịch của trái tim nàng to như tiếng con tàu vũ trụ đang xả lửa xuống hành tinh chết lịm... Đấy, đấy là tình nhân. Tình nhân có sức sống mạnh mẽ đến mức, một văn hào đã chắc chắn nói rằng: Ở đâu có người yêu ta ở thì ở đó là nơi đẹp nhất. Giả sử, hơn cả giả sử, nó luôn luôn diễn ra nơi hiện thực, một người thất tình kia, có trái tim tan nát đang ở một thành phố diễm lệ nhất thế giới, xung quanh nhạc tấu vang lừng, rượu đổ như suối... nhưng anh ta đâu có thiết gì, anh ta còn thấy mọi vẻ đẹp kia sao mà vô nghĩa, vô vị thế, có thể anh ta còn lần vào trong bếp tìm cái khoá bình ga hay mấy viên thuốc ngủ để chấm dứt cái thế giới vô vị không có được mái tóc nàng, bàn tay nàng làm lý do cho tất cả có quyền tồn tại. Rồi, có thể, chính chàng trai đó nhận được lá thư của nàng. Nàng gọi anh đến với nàng. Trời ơi, anh ta cuốc bộ vào nơi rừng sâu núi thẳm không có đường đi, mỗi bước chân toé máu, nhưng đó là sự trích máu dễ chịu nhất, bởi vì, dường như chúng đang trôi chảy để chứng minh rằng dòng sông tình yêu đang chảy, không bị ách cứng lại nơi cầm tù của một thế giới không có nàng làm tia hy vọng... Và một cao nguyên toàn đá lởm chởm hiện ra, xa xa dường như chiếc khăn tím đan xen mái tóc nàng đang phấp phới vùi trong gió... Tất cả núi đá không còn cứng, không còn sù sì, không còn thô ráp nữa, dường như chúng dâng lên ào ạt như những làn sóng bằng đá đập dồn dập vào trái tim chàng một cảnh tượng hùng vĩ đẹp đến mức, tất cả mọi vẻ đẹp trên thế giới chỉ còn là vô nghĩa, chúng ập vào não chàng những suối âm thanh mạnh mẽ dồn dập, khiến chàng có thể thốt lên: Đây mới đúng là một bản giao hưởng âm thanh đá hào hùng kỳ vĩ nhất, cho dù nó có thể không đủ mềm mại để lọt vào tai ai cả, nhưng với chàng, bản giao hưởng này tuyệt vời nhất. Và vị nhạc trưởng với mái tóc mềm xoã bay trong gió đang đứng ở đằng kia đang tung ra những suối âm thanh chữa lành con tim mòn mỏi và con đường vạn dặm của chàng... Đó, chúng ta cần ôn lại, đấy là tình nhân, người có phép lạ trên đôi cánh khát khao vô tận của tình yêu. Nhưng người phương Tây có một danh ngôn rằng: "Niềm vui đám cưới dồn một ngày nhưng nỗi lo hôn nhân dài suốt một đời". Cưới nhau rồi làm sao chúng ta có thể cứ hy vọng hão rằng: Mấy lời thì thào của bạn đời có thể làm chảy tan cả bóng đêm dày đặc nỗi trăn trở cho ngày mai chưa có tiền đong gạo, dọi lại nhà hay mua xe đời mới... Bạn đời đâu còn là tình nhân chỉ có mỗi một chức năng đi đến chỗ hẹn hò cùng ta để thoả sức làm phai nhung nhớ, mà bạn đời đã trở thành người song hành cùng ta ì ạch vác những nỗi lo kiến thiết gia đình, chẳng khác gì những con kiến rủ nhau tha mồi về tổ để dự phòng suốt cả mùa mưa bão lẫn mùa đông rét mướt... Đó là nghịch lý của cuộc đời, tình không thành là tình bất diệt, và chính sự khắc khoải không thành đó đã trở thành một tổ hợp sản xuất không biết mệt những hình ảnh của nàng hay chàng nào đấy. Thấy một áng mây bay nó cũng dệt, một vệt khói lên trời nó cũng tận thu không hề bỏ sót dệt lên cả cõi nhớ nhung bàng bạc nuối tiếc giăng giăng chạy đến tận chân trời; Rồi một giọt nước mái gianh nó cũng hứng để nhớ về hoài ức: "Ngày hẹn hò mưa kín công viên", một chiếc lá rụng nó cũng nhặt lên để ép vào trong cuốn sổ mùa thu nào đó, và khắp nơi đâu đâu dường như cũng đang rền vang âm âm một khúc khải hoàn ca của một đội ngũ trùng điệp toàn nàng là nàng sau bao cuộc "trưng binh" nhân cổ của tâm hồn: Tiếng gió rì rào, ôi trong tiếng thì thào Giữa ngàn cây cỏ rung rinh Liệu có đem về, dù một hơi thở của em Trên con đường xa tít. Người đã đi qua những hình ảnh lúc nào cũng vón cục cả khối như trái núi choán lấy tâm hồn. Còn bạn đời lúc nào cũng sống bè bè thì hình ảnh lại quen như thể không hề có mặt, như thi sĩ Việt Phương viết: "Cây bên đường quen đến mất màu xanh". Đó là nghịch lý của cuộc đời. Dẫu vậy, người Trung Quốc nói: "Đừng thả nắm thóc trong tay để bắt con chim trên trời". Hình ảnh nuôi dưỡng cho trí tuệ trong não thế nào, thì có thể nó cũng làm cho trái tim có được môi trường quyến luyến mênh mông như vậy. Nhưng chúng ta đừng thả hiện thực bạn đời khỏi tay để đuổi theo hình bóng mơ hồ nào đó!? Nguyễn Hoàng Đức nguồn vietimes
-
Cám ơn Phap Van đã đưa bài viết trên cho mọi người cùng Hành và cùng Ngộ .
-
Để trả lời câu hỏi này quá dễ theo mình thì ..bao nhiêu người yêu mình điều đó không quan tâm , quan tâm là mình yêu ai thì ..mình chọn , cảm xúc của trái tim mà trái tim vốn hình dáng của nó không tròn trịa nên con người ta cũng dễ nhầm lẫn . vài lời quân sư ! xin chào Nai vàng ngơ ngác , giẫm nát khu rừng già :lol: !
-
Người 3 lần “gặp rồng” trên đỉnh đền Đô 03/07/2008 07:18 (GMT + 7) Những việc “phi thường” mà "ông già đền Đô" Nguyễn Đức Thìn làm được khiến người ta còn gọi ông là "ông già N trong 1” hay "đối nhân" của Hàn Mặc Tử"... Nói chuyện với tôi, đôi bàn tay méo mó, không lành lặn - di chứng của căn bệnh phong mà mấy chục năm trước ông mắc phải - của ông thỉnh thoảng lại huơ huơ trong không khí. Cũng từ đôi bàn tay không bình thường ấy, ông Thìn đã làm được những công việc phi thường: miệt mài chép sử làng gần 20 năm ròng để cho ra đời ấn phẩm “Di tích lịch sử văn hóa đền Đô” dày hơn 300 trang; nhanh tay chụp được những bức ảnh hiếm hoi về những đám mây lạ vần vũ trên đỉnh đền Đô trong ngày giỗ tổ; người đầu tiên khởi xưởng phong trào “Nghìn việc tốt”; là đội viên của đội du kích thiếu niên Đình Bảng nổi tiếng một thời… Ông Nguyễn Đức Thìn (Ảnh: Thái Bình) Có lẽ, ông là người may mắn nhất khi được chứng kiến hai lần cảnh “hoàng long vân giáng” trên đỉnh Đền Đô. Càng thú vị hơn, khi tất thảy mọi người còn đang sững sờ trước cảnh diệu kỳ của trời đất: 8 đám mây trắng xốp hình rồng treo lửng lơ trên nóc đền cổ vào đúng ngày cả làng mở hội giỗ vua Lý Anh Tông… thì ông đã nhanh tay “chộp” được hình ảnh mây trắng vần vũ trên mảnh đất thiêng thờ 8 vị vua nhà Lý bằng chiếc máy ảnh cũ kỹ từ thời Pháp. Ông Nguyễn Đức Thìn - thành viên của đội “hướng dẫn viên du lịch tình nguyện” cho khách tới thăm Đền Lý Bát Đế (Từ Sơn-Bắc Ninh) ngót nghét 2 chục năm - còn được biết đến là "đối nhân” của thi sỹ thơ mới Hàn Mặc Tử… Lần gặp rồng thứ nhất Khi cuốn sách giới thiệu về lịch sử đền Đô dày hơn 300 trang được ông chủ biên, soạn thảo bắt đầu định hình, người dân Đình Bảng mới vỡ lẽ con đường ông hoài công sưu tầm, cất giữ những sự kiện lịch sử của quê hương đã ngót nghét 18 năm trời. 18 năm ông cặm cụi ghi ghi, chép chép những sự kiện, những ngày tháng, những con số, những tư liệu liên quan tới đền Đô từ trong chiến tranh để có được một cuộc triển lãm hoành tráng về Đình Bảng tại hội trường UBND xã ngay từ năm 1989. Bức ảnh 8 đám mây hình rồng trên đỉnh đền Đô do ông Thìn chụp Là người con của mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, tình yêu quê hương của ông luôn được thể hiện bằng hành động. Ngay từ những năm tháng tuổi thơ, đội du kích thiếu niên Đình Bảng mà ông tham gia đã nức tiếng vang trong và ngoài nước, làm kẻ thù bao phen kinh hồn bạt vía. Hết chiến tranh, ông trở thành thầy giáo làng truyền tình yêu quê hương cho thế hệ trẻ quê mình. 35 năm đứng lớp, phụ trách môn Văn-Sử, bao thế hệ đã đi qua cũng là bằng ấy thời gian ông “tranh thủ” sưu tầm tích lũy. Cái việc làm âm thầm, bền bỉ ấy chính ông cũng không ngờ lại có ý nghĩa lớn lao đến như thế. Đề tài “Xây dựng phòng giáo dục-tuyên truyền” của anh giáo làng tên Thìn khi ấy đã góp phần to lớn để giáo dục ý thức trách nhiệm lưu giữ lịch sử của quê hương, giáo dục các em tinh thần trách nhiệm với quá khứ, với cha ông và niềm tự hào sâu sắc về mảnh đất đã sinh ra mình. Sau này, khi ý tưởng khôi phục đền Đô được thai nghén từ cuộc triển lãm vào tháng 4/1989, ông lại là người đi tiên phong đến từng nhà vận động quyên góp. Khi bản danh sách các hộ gia đình ủng hộ trùng tu đền Đô đã chật kín cuốn vở ô ly của ông thì thành quả, công sức miệt mài của những ngày “vác tù và hàng tổng” đã được ghi dấu ở ngôi đền Lý Bát Đế khang trang và hoành tráng. Hình ảnh thủy đình của quê hương ông đã từng được in trên tờ giấy bạc 5 đồng vàng Đông Dương vụt trở thành xương, thành thịt… Bây giờ, khi đã bước sang tuổi “ăn yến lão”, ông lại phăm phăm “đầu quân” cho đội hướng dẫn viên du lịch tình nguyện thuyết trình cho khách những gốc tích, nguồn cội của những dấu tích xưa mà theo ông là “thiêng liêng lắm”! Từ đôi bàn tay không bình thường, ông Thìn đã làm được những việc phi thường Ông Thìn dẫn tôi miên man tìm về những ngày tháng của đền Đô. Khi đến sự kiện “rồng giáng” trên quê hương 8 vị vua Lý, ông cười, nụ cười sảng khoái không giấu niềm tự hào và hạnh phúc. “Cái diễm phúc ấy trong đời hiếm có lắm. “Tớ” may mắn được sinh ra trong cõi đời này, hai lần gặp rồng thiêng cũng mãn nguyện lắm rồi!”. Ông Thìn kể: Đúng 8 giờ sáng ngày 26/8/1998 (ngày 05/7 âm lịch) là ngày giỗ vua Lý Anh Tông – Vị vua thứ 6 của vương triều nhà Lý. Giữa lúc trống giong, cờ mở và lễ hội rực rỡ sắc màu, khi các bô lão đang tiến hành lễ tế thì trên trời bỗng đâu xuất hiện 11 vầng mây trắng. 11 vầng mây này đậu lại trên đỉnh “Thọ lăng Thiên đức” – nơi đặt 11 lăng của các đức trị nhà Lý. Qua hồ bán nguyệt, 3 đám tự nhiên rã ra và 8 vầng mây tụ lại trên trời xanh thăm thẳm, ứng với 8 đời vua nhà Lý. Sự kỳ diệu của tạo hóa chẳng biết có phải là ngẫu nhiên hay không, song nó đã làm nức lòng bao người có mặt. Không khí lễ hội trở nên trang trọng lạ thường. Trong niềm cảm phục và tôn nghiêm, ông Thìn sực tỉnh: cơ hội ngàn năm có một, phải ghi lại bằng hình ảnh. Và thế là, chiếc máy ảnh du lịch hiệu Kodak của ông có dịp sử dụng. 36 kiểu phim, ông gom được 10 tấm hình có vầng mây trắng. Ông cũng không tính trước được việc làm mang tính “ngẫu hứng” ấy đã ghi dấu một khoảnh khắc diệu kỳ của tạo hóa: 8 vầng mây hình rồng nằm song song giữa nền xanh thiên thanh, phủ phục trên đỉnh đền cổ kính 45 phút cho tới khi buổi tế kết thúc. Bức ảnh ấy, ông Thìn đặt tên là “Cổ Pháp tường vân”, nghĩa là dải mây tốt lành trên đình Cổ Pháp. Đến bây giờ, du khách đến Đền Đô được ngắm nhìn bức ảnh “Vân long” treo trên chính điện đặt trang trọng trong khung kính. Còn cuộn phim, ông Thìn lưu giữ như đồ gia bảo, còn nói như cách nói của ông, thì: “Tớ phải giữ để mọi người biết rằng đó là “ảnh xịn”, không phải là “ảnh kỹ thuật số”. Trước khi “chộp” được cảnh “Vân long giáng thế”, ngày 8/3 năm 1997, ông đã ghi được quả dứa lạ tại chùa ứng Tâm: quả dứa trổ hoa đúng ngày giỗ của Lý Thánh Mẫu. Duyên may hay là sự sắp đặt thế nào, ông luôn may mắn được gặp những kỳ tích của tạo hóa, nhất là khi chiếc máy ảnh mini của ông hàng ngày vẫn “giở chứng”, những giờ phút “trọng đại” ấy lại rất… ngon lành! “Ông nghìn việc tốt” và 2 lần gặp rồng tiếp theo ! Ông Thìn hì hụi tìm kiếm, lục lọi rồi lôi được cuốn an bum cất mãi dưới đáy tủ để đưa ra những “chứng cớ” cho lần “gặp rồng” lần hai của mình. Đó là ngày 1/9/1998, khi các cụ bô lão của Đền Đô chuẩn bị một đám rước bát hương về Thủ đô để cùng cả nước tổ chức chào mừng ngày Sài Gòn 300 tuổi. 4h45 phút sáng. Nền trời nhá nhem bỗng bừng sáng. Một đám mây vàng từ Thủ đô bay về. Nhìn đồng hồ, đúng giờ Dần. Ông nhẩm tính: giờ Dần, rồng bay về, thế là “long hổ tương phùng”, đó là điềm tốt! Giây phút bàng hoàng, ông choàng tỉnh. Và bức ảnh “hoàng long vân giáng” đã được đặt tên. Hoàng hôn trên thủy đình Đền Đô Ông cười hóm hỉnh: “Chẳng biết tại sao mà “tớ” hay gặp “rồng giáng” thế. Tiết lộ nhé, lúc bấm chiếc máy ảnh điện tử “tách” một cái, quay sang ông bạn bên cạnh - ông Trần Văn Dần, trước kia là Bí thư Đảng uỷ Đài Phát thanh - Truyền hình, “tớ” mới hỏi giờ. Tớ tên Thìn - “thìn” là rồng, cũng nhằm giờ Dần chào đời. Ông bạn bên cạnh tên Dần; ảnh rồng chụp giờ Dần, do “Thìn” đững cạnh “Dần” chụp! Thế có thiêng không cơ chứ!”. Chẳng biết có phải do ông luận kỹ quá hay không, song bức “hoàng long vân giáng” ấy cũng đượm vẻ tôn nghiêm, cổ kính và đầy chất “ngẫu hứng” của một “ông già may mắn”! Ngồi tiếp chuyện, hai bàn tay ông co quắp, những ngón tay không lành lặn khó khăn quắp ấm trà và cẩn trọng rót ra chén mời khách. Khi tôi dè dặt hỏi về những ngón tay không lành lặn ấy, ông cười giòn: đây là di chứng của căn bệnh phong, cái bệnh “tứ chứng nan y” này hồi đó là sự lo lắng của bất cứ ai, thế nhưng dường như nó “sợ” ông thì phải. Cùng thời gian ông mắc bệnh cũng là đợt thi sỹ nổi tiếng của phong trào thơ mới Hàn Mặc Tử nằm điều trị ở nhà thương Tuy Hòa. Không có duyên phận với thơ nhưng ông có duyên với đời, nhất là với những công tác xã hội. Có lẽ vì thế mà ông tự lấy bút danh “Nhiệt cảm tâm” để xua đi cái lạnh lẽo của sự trơ trọi - thứ mà ông sợ hơn bất cứ cái gì. Bức ảnh "Ứng tâm mẫu tử" (cây dừa mẹ con) do ông Thìn chụp Thời trai trẻ, ông là đội viên của đội du kích thiếu niên Đình Bảng lừng danh. Say mê với chụp ảnh, ông cầm máy từ năm lên 10. Lúc đó nhiệm vụ của ông là chụp những bức ảnh để tố cáo tội ác của giặc Pháp, cái máy ảnh ROC nhỏ bằng hai bao diêm, không chỉnh được cự ly, mỗi lần chụp phải gí sát ống ngắm và ông phải bò lom khom để chụp hình. Một lần, Mỹ ném bom vào trường Tam Sơn đánh sập phòng truyền thống, trong đó có cái máy ảnh Fetdo của Liên Xô - “vật bất ly thân”, ông “tiếc của” quay ngược trở lại lấy nhưng không kịp. Ngay sáng hôm sau, ông lò mò sang thôn bên cạnh để mượn máy ảnh của đội viên đội bạn. Thế mới biết, niềm đam mê cầm máy đã day dứt ông như duyên nghiệp. Hòa bình, ông trở thành thầy giáo làng dạy môn sử, đứng lớp 35 năm trời cũng là ngần ấy năm ông gắn bó với việc chép sử làng. Trong thời gian công tác, ông đề ra phong trào “nghìn việc tốt” cho các em học sinh của trường cấp II Đình Bảng. Không ngờ, hiệu quả của phong trào thiết thực quá, sáng kiến của ông trở thành sáng kiến chung cho cả nước. Phong trào “thiếu nhi ngàn việc tốt” được nhân rộng và lớn mạnh và duy trì đến tận bây giờ. Có lần, ông dẫn đầu đoàn đại biểu thiếu nhi Việt Nam đi dự Hội nghị thiếu nhi quốc tế tại Beclin, hứng chí, ông đã vận động mở một ngay cuộc triển lãm về Việt Nam tại Đức. Ông cười, nụ cười của người đã đi qua bao sự kiện, gian khổ có, ngọt bùi cũng có: “Ông Hàn Mạc Tử có cái tài thơ. Tôi chỉ là một anh giáo làng. Nhưng tôi là người may mắn hơn Hàn Mạc Tử”. Năm 1989, ông được nhà nước tặng Huân chương Anh hùng Lao động. Bây giờ, khi đã sang cái tuổi cổ lai, ông lại góp mặt vào trong Tiểu ban tuyên truyền của Ban quản lý Di tích Đền Đô, trở thành “hướng dẫn viên du lịch tình nguyện” của làng. Ông giới thiệu cho chúng tôi nhiều chức danh, nhiều công việc mà hiện ông đang kiêm nhiệm, nhưng có lẽ, cái chức danh mà tôi nhớ nhất, đấy là danh hiệu “ông nghìn việc tốt” cùng với những bức ảnh mà ông may mắn ghi lại được trong hai lần “hoàng long vân giáng” trên quê hương của các vị vua triều Lý. Bài và ảnh: Thái Bìnhnguồn tuanvietnamnet
-
Những bi kịch của ả đào xưa Thứ tư, 19/3/2008, 07:00 GMT+7 Mặt tròn thu nguyệt. Mắt sắc dao cau. Vào - duyên khuê các. Ra - vẻ hồng lâu. Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban -Tạ. Dịu như mai - Trong như tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều. Có văn nhân xưa đã viết về vẻ đẹp và phẩm cách của các đào nương như vậy. Cô đào là người hát, còn kép là người đàn. Đào kép được tổ chức thành giáo phường rất quy củ. Mỗi giáo phường tự chọn lấy một chữ làm “họ” của mình. Các văn bia Hán Nôm còn lưu trữ cho biết có các họ Xuân, Đông, Thịnh, Từ, Hoàng, Việt, Kiều, Khổng. Đứng đầu họ là một ông trùm họ. Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng và lưu truyền trong giáo phường với nhau. Đây có thể coi là những “nghệ danh” sớm nhất trong lịch sử ca nhạc nước ta. Học hát ca trù là cả một công phu. Người nào thông minh cũng phải ba bốn năm ròng mới cầm được lá phách ra hát, còn thì nếu chỉ chuyên cần học tập cũng mất khoảng 5 năm. Khi việc học đã thành thục, để được đi hát, đào nương phải có trầu cau trình với Quản giáp. Vị Quản giáp sai chia cho khắp phường để báo cho biết đào nương này đã thành nghề và ra hát. Bấy giờ giáo phường sẽ họp nhau một buổi để sát hạch, công nhận về kết quả học tập và trình độ. Các cô đào sẽ chọn ngày lành làm lễ báo cáo với tổ nghề, mời một “quan viên” có danh vọng và sành sỏi thưởng thức trong vùng, nổi tiếng phong lưu hào phóng đến nghe và cầm chầu cho buổi hát đầu tiên. Đó là một ngày tiệc vui vẻ và linh đình để đãi giáo phường. Từ đó, cô đào mới chính thức bước vào nghề hát, coi như được cấp “giấy phép hành nghề”, để đi vào con đường nghệ thuật. Đào nương Nguyễn Thị Huệ Đào nương xưa phải tuân thủ hàng trăm thứ kiêng kỵ, cốt sao cho giữ được tiếng hát đẹp màu âm sắc và giữ được tiếng thơm của con nhà nền nếp. Để giữ gìn tiếng hát, các cô không uống rượu, kiêng ăn các đồ ăn cay, các chất mỡ. Có cô cầu kỳ còn dùng cơm nếp giã nhuyễn, nắm lại rồi cắt lát thành từng miếng mỏng, phơi khô để ăn dần, làm vậy là để khi ăn, miếng cơm sẽ quyện trôi đờm, tiếng hát sẽ trở nên thuần khiết trong trẻo. Lại có câu chuyện rằng các cô nghe đồn nước ở cái giếng đền ca công làng Ngọc Trung xứ Thanh rất lành mà lại thiêng, đào nương nào tắm được bằng nước giếng này sẽ trở nên xinh xắn và có giọng hát thật đẹp. Các cô tìm vào cho bằng được, cố ăn uống, tắm giặt lấy vài ngày để lấy khước. Ngoài chuyện kiêng ăn kiêng uống, các cô đào còn phải kiêng tên các vị tổ nghề. Khi hát đến các chữ Bạch, Hoa, Lễ, Thanh... thì các cô phải hát trệch đi. Đến mỗi làng để hát thờ, các cô phải biết và nhớ tên các vị thần làng, có khi là đến cả chục cái tên, để mỗi khi hát đến những chữ đó cũng phải hát trệch đi, chứ nếu không nhớ ra mà cứ hát cả tên huý của các ngài thì cụ tiên chỉ cầm chầu sẽ gióng mấy tiếng trống mà dừng ngay cuộc hát lại.Ngày xưa đào và kép thường là vợ chồng, anh em của nhau. Họ đều được học nghề từ một ông thầy, cũng một thời gian, lại hiểu biết các ngón nghề của nhau nên dùng tiếng đàn và tiếng hát nâng đỡ cho nhau rất nhiều. Vì thế ngày xưa đi thi hát ở đình người ta không cho đào và kép là vợ chồng, anh em với nhau vào thi cùng một lúc. Trong cuộc sống và trong nghề nghiệp, đào và kép ngày xưa rất trân trọng nhau, giữ gìn từng lời ăn tiếng nói và cùng nhau nâng cao nghề nghiệp cho nhau. Đào kép khi nhận được một lời mời đi hát ở chốn đền miếu, nhất định phải kiêng chuyện gối chăn, giữ mình thanh tịnh để hát trước cửa đình. Nghệ nhân đàn đáy lão luyện của Việt Nam hiện nay là cụ Nguyễn Phú Đẹ ở Hưng Yên kể rằng mẹ ông là một đào hát, được vua nhà Nguyễn vời vào kinh đô Huế để hát. Đào nương và kép được vời vào cung gọi là đào ngự, kép ngự. Đó là một vinh dự lớn mà đào kép nào cũng mong đạt được. Sau khi lặn lội đường xa, vào kinh hát trước sập rồng, đến khi trở về, đang độ xuân thì, vậy mà không ai dám lấy bà vì cho rằng bà đã thuộc về đức vua. Bà những tưởng đã lỡ dở đường tình duyên. May sao, có người kép đàn thương bà lấy làm vợ. Hai cụ là sinh được mấy người con, trong đó có hai anh Nguyễn Phú Đọ, Nguyễn Phú Đẹ. Ngày nay, cụ Nguyễn Phú Đẹ đã 85 tuổi, là một tay đàn lão luyện với tiếng đàn vô song. Giáo phường ca trù xưa còn tôn vinh tri ân người có công truyền nghề. Trong văn bia Bản huyện giáo phường lập bi, tạo năm Vĩnh Trị 5 (1681), đặt tại đình xã Trung Việt, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang cho biết các vị trong Ty giáo phường xã Đông Lâm, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc, vì có ngoại tổ họ Hà là Phúc Đạo, ở xã Trung Trật trước có mở nghiệp giáo phường, sinh con gái Hà Thị Khánh lấy chồng họ Nguyễn ở Đông Lâm và tạo nên giáo phường ở đây. Nay các vị trong giáo phường xã Đông Lâm nhớ đến ân nghĩa sinh thành của ngoại tổ, tỏ lòng báo đáp, đặt ra lệ, hễ đình Trung Trật có mở tiệc thì các khoản tiền tiệc, tiền khao và tiền lễ xông đình, các khoản tiền làm cỗ, thảy đều do giáo phường Đông Lâm trang trải. Bia còn ghi tên các vị ngoại tổ họ Hà do dân xã Trung Trật cúng giỗ. Đây cũng là một nét đẹp nhân văn của một giáo phường ca trù, vừa tôn vinh nghề tổ, vừa thành kính tri ân người có công gây dựng nghề cho giáo phường. Có một thời gian rất dài ca trù không được quan tâm. Có lẽ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với những tàn dư xấu xa của chế độ phong kiến, sinh hoạt cô đầu, hay hát ả đào, vốn đã có tiếng rất xấu từ đầu thế kỷ, cũng đã bị quét đi, không thương tiếc. Các cô đào, dù hát còn hay, dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà nhà, giấu đi cái hành trạng một thời làm nghề hát xướng của mình để nhập vào cuộc sống mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám nhận mình là cô đầu nữa. Con cái các đào kép một thời lừng lẫy bỗng đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu sinh hoạt ả đào trùm lên cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào, người ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại cho phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách - khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu - nhà giàu hết của”. Các ca nữ thuở trước đều tìm một nghề khác kiếm sống, giấu biệt cái nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước chè độ nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công việc để độ nhật. Có đào nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, có bà không dám nói hay nhận mình là cô đầu... Trong hoàn cảnh ấy, chỉ có một người phụ nữ dám nhận mình là một ả đào, như bà đã từng nói là bà dám đeo cái biển trước ngực “Tôi là ả đào”. Chỉ có bà mới tỏ một thái độ thuỷ chung với nghề tổ đến như vậy. Bà đã dám sống cho nghề tổ, chịu vinh, chịu nhục vì nghề. Khi bà ba mươi tuổi, đang vào độ chín của nghề, thi sĩ Trần Huyền Trân đã tặng bà bài thơ Sầu chung, từng chữ, từng lời như đi vào gan ruột: “Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/ Mênh mông trời đất vẫn không nhà/Người ơi mưa đấy? Hay sênh phách/ Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa.../Thôi khóc chi ai kiếp đọa đầy/ Tỳ bà tâm sự rót nhau say/ Thơ ta gửi tặng người ngâm nhé/ Cho vút giọng sầu tan bóng mây”. Đó là bà Quách Thị Hồ - nghệ sĩ lớn nhất của ngành ca trù trong thế kỷ XX, người đầu tiên và duy nhất được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ngành ca trù. Có người ví tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Lần theo những dòng thư tịch cổ tìm hiểu về cuộc sống của các đào nương xưa, thêm hiểu thêm thương những người nghệ sĩ dân gian, nhiều khi không để lại tuổi tên nhưng đã cùng chung lòng xây dựng tòa lâu đài âm nhạc suốt mấy trăm năm nguy nga lộng lẫy. Lâm Khang nguồn vietimes
-
CỎ BỢ MÀ NẤU CANH CUA Cỏ bợ còn gọi là cỏ tần, tứ diệp thảo (vì mỗi lá có 4 lá chét), điền tự thảo (cây tự mọc ở ruộng đồng), dạ hợp thảo... là một loại cỏ mọc hoang ở khắp mọi miền của nước ta: bờ mương, bờ ao, bờ ruộng nhất là ở những ruộng mạ (sau khi đã nhổ mạ). Cỏ bợ trông giống như cây me đất (chỉ khác nhau cây me đất mỗi lá có ba lá chét, còn mỗi lá của cỏ bợ có 4 lá chét). Theo bác sĩ Trần Danh Tài - Chủ tịch Hội Đông y Lâm Đồng, nhân dân ta thường dùng cỏ bợ tươi để điều trị các chứng bệnh: bí tiểu tiện, đái dắt, đái buốt, đái ra máu, khí hư bạch đới và chứng mất ngủ... Cách dùng: Dùng cỏ bợ tươi khoảng 1 nẹm tay, rửa sạch, đun sôi (với 200 ml), chừng 20 phút, gạn lấy nước uống (có thể ăn cả bã). Mỗi ngày 1 -2 lần, trong vòng 3 - 5 ngày sẽ thấy có hiệu quả. Hoặc phơi khô, sao vàng, mỗi lần dùng 30- 40 gr, sắc với 200 ml, còn 100 ml chia làm 2 - 3 lần uống trong ngày. Đặc biệt cỏ bợ là một loại rau dùng để nấu với cua đồng ăn rất ngon (sau khi ăn vẫn để lại dư vị trong miệng), có tác dụng giải nhiệt, an thần. Đây là món ăn dân dã "đặc sản" mà người miền quê hay dùng. Vì vị ngon của canh cỏ bợ mà nhân dân ta có câu rằng: "Cỏ bợ mà nấu canh cua/Người chết nửa mùa sống lại mà ăn". Bảo trân (tinvietonline)
-
Chẩn đoán bệnh qua những... giấc mơ Nếu hay mơ thấy mình bị trói, có thể bạn sẽ bị bệnh xương khớp. Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống.“Hôm qua và hôm kia, ông (bà) có những giấc mơ như thế nào? Thời gian gần đây ông (bà) đã thấy gì trong mơ?”... Trong tương lai không xa, có thể bạn sẽ nghe bác sĩ hỏi như vậy khi đi khám bệnh. Suốt hơn 1 năm, một người đàn ông khỏe mạnh ở thành phố Leningrad (Nga) thường xuyên mơ thấy mình bị một con rắn to quấn quanh cổ cho tới thắt lưng. Khi tỉnh dậy, trong hoảng sợ, ông ta có cảm giác đau nhẹ ở cổ và ngực. Giấc mơ ấy cứ trở đi trở lại cùng với những cơn đau tăng dần đã khiến ông quyết định đi khám tại bệnh viện thần kinh. Bác sĩ chẩn đoán ông bị viêm tủy sống. Theo các bác sĩ của bệnh viện này, nếu ông tới sớm hơn, ngay khi các giấc mơ đầu tiên cùng với những cơn đau xuất hiện thì kết quả điều trị chắc chắn sẽ khả quan hơn. Nhưng vì không để ý đến những dấu hiệu của bệnh tật được báo trước trong mộng nên ông đã phải trả giá. Căn bệnh đã khiến ông phải gắn mình vào chiếc xe lăn trong suốt phần đời còn lại. Một lần, Kaxaskin, một chuyên gia nghiên cứu về giấc ngủ người Nga, nghe người phụ nữ đứng tuổi kể chuyện bà bị một giấc mơ ám ảnh đã hơn tháng nay: Chính bà ta hoặc ai đó trong số những người quen của bà ta ăn cá sống hoặc cá ươn. Kaxaskin liền khuyên bà đi xét nghiệm hệ tiêu hóa và ông đã không nhầm khi bác sĩ kết luận người phụ nữ kia bị viêm dạ dày cấp tính. Trên đây chỉ là một vài trường hợp mà lịch sử y học thế giới ghi nhận được về mối quan hệ giữa giấc mơ và bệnh lý. Một số người mắc bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa hay mơ thấy mình ăn thức ăn ôi thiu hay nhìn chằm chằm vào con cá ươn, thịt hoặc trái cây đã thối hỏng. Nếu hệ hô hấp có vấn đề, người ta thường mơ thấy những vụ hỏa hoạn hoặc bị một vật gì đó đè nặng lên ngực. Những giấc mơ thấy mình bị xích tay, mang giày chật hay đứng không nổi là dấu hiệu của chứng đau xương và khớp... Các thầy thuốc từ cổ chí kim đều công nhận rằng, trong một số trường hợp, giấc mơ phản ánh khá rõ nét tình trạng sức khỏe của con người. Nó là dấu hiệu báo trước những căn bệnh tiềm ẩn, cũng như những biến động về mặt tâm lý có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh tật. Từ thời xa xưa, các nhà nghiên cứu y học Hy Lạp cổ đại như Hippocrates và Galen đã tin rằng giấc mơ ẩn chứa những thông tin có thể giúp cho thầy thuốc chẩn đoán bệnh tật. Quan điểm này sau đó tiếp tục được nhiều chuyên gia nổi tiếng, trong đó có nhà tâm lý học Sigmund Freud ủng hộ. Theo Freud, bệnh tật có thể gây ra một số loại giấc mơ với chủ đề nào đó. Và việc phân tích các giấc mơ giúp bác sĩ không chỉ trong chẩn đoán mà còn cả trong việc chữa bệnh. Theo sự thay đổi các giấc mơ, có thể phán đoán về sự phát triển của bệnh, về việc thuốc do bác sĩ chỉ định có cải thiện tình hình hay không. Bác sĩ tâm thần người Nga P.B.Ganuskin dựa trên kinh nghiệm chữa bệnh của mình và báo cáo của nhiều đồng nghiệp đã giải thích những giấc mơ báo trước bệnh tật trên cơ sở sinh lý học thần kinh. Trong thời gian ngủ, nhất là giai đoạn ngủ không sâu, các tín hiệu nhẹ về bệnh lý như tăng giảm nhiệt độ, mạch, huyết áp, lượng adrenaline, tiết axít dạ dày... đi vào não dễ dàng do không bị các luồng thông tin khác cạnh tranh. Các tín hiệu bệnh lý đó được chuyển thành hình ảnh của giấc mơ. Đối với những người mới bị nhiễm bệnh, sức đề kháng giúp hàn gắn những tổn thương ban đầu của lớp mô bộ não, nên giấc mơ nhanh chóng bị quên đi. Khi bệnh lý tiến triển, lớp mô của não bị tổn thương nghiêm trọng hơn và giấc mộng “tiên tri” khi ấy sẽ được lặp đi lặp lại với một biên độ dày hơn. Sau khi phân tích hơn 4.000 giấc mộng của người khỏe và người ốm, ở người mù và người câm điếc, Kaxaskin đã xuất bản cuốn Lý thuyết về các giấc mộng. Theo ông, những “mộng báo” xảy ra chừng 2 - 3 tháng trước khi bệnh cao huyết áp xuất hiện, một tháng trước khi có bệnh viêm dạ dày, hai tháng trước những triệu chứng rõ rệt đầu tiên của bệnh lao. Một số bệnh ở não thậm chí còn bộc lộ qua các giấc mơ một năm trước khi phát. Kaxaskin nhấn mạnh: Không có chút gì là huyền bí trong việc giấc mơ có thể phản ánh sự bắt đầu của bệnh tật khá lâu trước khi bác sĩ chữa bệnh thừa nhận có bệnh đó. Điều này được chứng thực bởi một thực tế là thời hạn tiên đoán của “giấc mộng chẩn bệnh” hầu như trùng hoàn toàn với thời gian của giai đoạn ủ bệnh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng, cho đến nay, người ta chưa tìm ra bất cứ mối liên hệ đáng tin cậy nào giữa một loại giấc mơ với một căn bệnh nhất định. Nói một cách đơn giản hơn thì không phải cứ nằm mơ thấy bị siết cổ thì có nghĩa là sẽ bị bệnh tim, hay mơ thấy bị trói là bị khớp. Vì vậy, cũng không nên quá lo lắng chỉ vì một giấc mơ. Chỉ trong trường hợp một giấc mơ diễn đi diễn lại nhiều lần kèm theo các dấu hiệu khác thì mới cần đi khám. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
-
Trắc nghiệm tìm thế mạnh của bạn Chọn hình về một loại đá quý gây ấn tượng đầu tiên, mạnh mẽ nhất với bạn dưới đây và xem nó sẽ tiết lộ những ưu điểm nào trong tính cách của bạn nhé. Hình 1Hình 5Hình 2Hình6Hình 3Hình 7Hình 4Hình 8 Hình 1: Bạn là người tự tin, kiêu hãnh với lòng tự trọng cao. Bạn thích thực hiện mọi thứ thật hoàn hảo và không bao giờ làm điều gì có hại cho cơ thể mình. Bạn không hay giữ sự thù hận hay những ý nghĩ tiêu cực trong lòng. Bạn sống rất tình cảm và luôn có đủ lòng tốt để dành cho mọi người xung quanh mình. - Hình 2: Bạn là một người sống rất đạo đức và trọng nguyên tắc. Bạn rất trung thành, rộng lượng và dễ tin cậy ở người khác. Hầu hết ai cũng cảm kích trước bạn. - Hình 3: Bạn sống rất thảnh thơi và chẳng mấy bận tâm về vị trí của mình trong thế giới. Bạn không tham lam hay quá coi trọng vật chất. Nói chung, bạn hoàn toàn không bị trói buộc khỏi những ham muốn. Bạn mang lại sự thanh bình cho nơi bạn sống. Ngoài ra, bạn còn là một người hòa giải rất tốt. Mọi người luôn coi bạn là một niềm may mắn. - Hình 4: Ở bạn toát ra sự giàu có và cao sang (kể cả khi bạn không phải là người nhiều tiền). Bạn biết tự chăm sóc bản thân mình rất tốt nên bạn có vẻ ngoài hoàn hảo. Bạn dường như không bao giờ liều lĩnh hay sống bê tha. Bạn tự say mê phong cách của mình và đối xử với người khác cũng khá tốt. Thực tế, nhiều người khao khát được giống như bạn. - Hình 5: Bạn vui với những điều rất giản dị. Bạn thấy dễ để có sự bình yên trong tâm hồn. Bạn có khuynh hướng suy nghĩ tích cực. Bạn rất dễ điều khiển được ý nghĩ của mình. Bạn có một sức mạnh tinh thần và luôn biết tự chủ. Bạn có có khả năng thực hiện những giấc mơ lớn lao bởi bạn hoàn toàn không sợ thất bại. - Hình 6: Bạn là một người có khả năng cân bằng, tập trung và khá thực tế. Bạn thường có những quyết định đúng đắn và ít khi phải hối tiếc trong cuộc đời. Bạn tự nhắc nhở mình là một người may mắn và bạn thấy rất dễ để bản thân mình hạnh phúc. Bạn luôn tránh những điều tiêu cực và có thể lái chúng sang hướng khác. - Hình 7: Bạn là một nhà ngoại giao cừ khôi. Bạn thường biết cách bày tỏ ý kiến của mình rất rõ ràng. Bạn rất dễ làm thân với người khác và rất biết lắng nghe. Bạn bè luôn nhờ cậy đến bạn để vượt qua khó khăn và trở nên sáng suốt hơn. Bạn nhận ra rằng mọi thứ trong cuộc sống đều có mối liên hệ với nhau và bạn muốn giúp đỡ được càng nhiều người càng tốt. - Hình 8: Bạn rất kiên định, mạnh mẽ và sống chí tình chí lý. Bạn là một người có khả năng truyền cảm hứng tới cho người khác. Mọi người thường hướng đến bạn đầu tiên cho vị trí lãnh đạo và những lời khuyên. Không bao giờ sợ vị trí tiên phong, bạn không bao giờ vô tâm hay hách dịch. Minh Thùy (theo blog Thing) nguồn vnexpress
-
Những quái vật của biển cả Với những hình thù kỳ quái và màu sắc lạ thường, nhiều loài sinh vật dưới đại dương trông không khác gì những vị khách đến từ ngoài hành tinh. > Những quái vật quanh ta Theo Pravda ( nguồn vnexpress )
-
Wild đã đăng ký qua email Diễn đàn ngày hôm nay , ( hy vọng mail không lơ lững ) đến hộp thư của lơp học . Wild sẽ có mặt đủ các tiết học , không bỏ phí cơ hội này đâu ạ !
-
Tin tuc Online - Hồ Sơ-Vụ lừa đảo khảo cổ ngoạn mục nhất thế giới . Thứ ba, 29/7/2008, 15:25 GMT+7 Tìm được những bộ tộc sống từ thời xa xôi nhất trong lịch sử nhân loại là một mơ ước nóng bỏng của các nhà khoa học và cộng đồng quốc tế. Cảnh sinh sống của "Bộ tộc cổ" Tasaday Vào tháng 8/1971, Manuel Elizalde, một nhà nhân chủng học người Philippines thông báo rằng đã phát hiện trên một đảo nhỏ ở vùng Mindanao một bộ tộc cổ sống từ thời kỳ đồ đá, chưa từng biết đến văn minh hiện đại là gì. Theo mô tả được dẫn chứng bằng ảnh chụp và cả phim tài liệu ngắn thì bộ tộc cổ này có tên gọi Tasaday, mặc những chiếc khố làm bằng lá, để tóc dài, sống trong hang động và ăn uống bằng động thực vật săn bắn và hái lượm được trong rừng. Elizalde còn cho biết thêm là đã phát hiện ra bộ tộc cổ Tasaday khi đến vùng Mindanao để nghiên cứu khảo cổ tại đây. Trong khi Liên Hiệp Quốc đánh giá cao về phát hiện này thì các nhà khoa học, nhà báo đổ xô đến Philippines để thu thập thông tin và đưa tin. Tuy nhiên, tất cả họ đều không được phép vì cả Elizalde và Chính phủ Philippines đều nêu lý do phải bảo vệ cuộc sống của họ trước sự quấy rối của các nhà báo, nhà khoa học và khách du lịch. Về nhân thân, Manuel Elizalde sinh năm 1940 tại thủ đô Manila của Philippines trong một gia đình giàu có. Đam mê khảo cổ từ nhỏ, sau khi tốt nghiệp trung học, Elizalde theo học ngành nhân chủng học tại Đại học Harvard, Mỹ và sau khi tốt nghiệp quay về lại quê nhà làm việc tại Bộ Văn hóa Philippines cho đến khi tuyên bố đã phát hiện bộ tộc cổ Tasaday. Vào tháng 4/1972, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos ra quyết định thành lập Cơ quan Bảo tồn các bộ tộc thiểu số (PANAMIN) và giao cho Elizalde phụ trách. Và để phòng tránh việc bộ tộc cổ Tasaday bị quấy rầy bởi sự tò mò của người dân Philippines, du khách, các nhà khoa học và nhà báo nước ngoài, Tổng thống Marcos còn ký quyết định thành lập Khu Bảo tồn Tasaday với diện tích 182km2, có binh lính ngày đêm tuần tra canh gác để tránh sự xâm nhập của người lạ. Bất cứ ai muốn vào khu bảo tồn đều phải được PANAMIN cấp giấy phép. Chỉ có 4 trường hợp các nhân vật nổi tiếng, các phương tiện truyền thông được trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc rất giới hạn với bộ tộc cổ Tasaday dưới sự giám sát chặt chẽ của các nhân viên PANAMIN. Đó là việc vào tháng 6/1972, một phóng viên của Hãng thông tấn Mỹ AP và nhà báo Kenneth MacLeish của tạp chí National Geographic được đích thân Elizalde hướng dẫn tiếp xúc với một nhóm nhỏ người thiểu số của bộ tộc Tasaday. Vào tháng 8/1972, đến lượt phi công huyền thoại người Mỹ Charles Lindberg và nữ diễn viên điện ảnh người Italia Gina Lollobrigida cũng được đích thân Elizalde hướng dẫn tiếp xúc với một nhóm người của bộ tộc cổ Tasaday. Mục đích của các chuyến viếng thăm và làm phóng sự này là nhằm kêu gọi sự tài trợ, ủng hộ tài chính của cộng đồng quốc tế dành cho Chính phủ Philippines mà trực tiếp là PANAMIN để bảo tồn bộc tộc cổ Tasaday. Và thế là chẳng bao lâu sau tiền bạc từ các tổ chức bảo tồn quốc tế, các tổ chức của Liên Hiệp Quốc, từ chính phủ nhiều quốc gia, từ các nhân vật giàu có và nổi tiếng... liên tục rót vào quỹ bảo tồn bộ tộc cổ Tasadya do PANAMIN quản lý. Kèm theo đó, Elizalde bỗng trở nên nổi tiếng khắp thế giới, được nhiều tổ chức bảo tồn quốc tế vinh danh vì sự phát hiện của Elizalde quả rất xứng đáng mang tầm vóc thế kỷ. Manuel Elizalde và một người Tasaday Đến năm 1983, Elizalde bỗng nhiên biến mất khỏi Philippines. Tổng thống Marcos một mặt ra lệnh truy tìm Elizalde cho bằng được, mặt khác bưng bít việc Elizalde đã bỏ trốn mà không quên ẵm theo một số tiền lớn lấy từ ngân quỹ của PANAMIN (đây là số tiền mà cộng đồng quốc tế và người dân Philippines quyên góp cho việc bảo tồn bộ tộc cổ Tasaday).Vào năm 1986, sau khi Tổng thống Marcos bị lật đổ, nhà nhân chủng học kiêm nhà báo người Thụy Sĩ Oswald Iten cùng một nhà báo người Philippines tên Joey Lozano đã lặn lội đến Mindanao để thu thập thông tin về bộ tộc cổ Tasaday và bất ngờ khi phát hiện rằng, những gì mà người dân Philippines và cộng đồng quốc tế biết về sự tồn tại của bộ tộc cổ Tasaday mà Elizalde và Chính phủ Philippines loan tin đều là sự lường gạt. Người Tasaday cổ thực ra là người thiểu số T’Boli, cách đây hàng trăm ngàn năm quả thật chỉ ở trong hang động, mặc khố làm từ lá cây, để tóc dài chấm vai... giống như những gì mà Elizalde mô tả với mọi người, nhưng đến thập niên 70 của thế kỷ XX họ đã biết sống trong nhà có điện và đồ dùng gia dụng, nghe đài, đi xe máy, mặc quần jean và áo thun... Khi được Iten và Lozano phỏng vấn, người dân Tasaday khai nhận rằng vào năm 1971, Elizalde đã dùng tiền bạc và cả đe dọa để buộc họ giả làm người tiền sử sinh sống trong hang động, mặc khố bằng lá cây, mang tóc dài giả rồi chụp ảnh, quay phim. Sự thật về cái gọi là bộ tộc cổ Tasaday lập tức lan truyền khắp thế giới và khiến mọi người phẫn nộ. Tổng thống Corazon Aquino cho mở một cuộc điều tra để truy tìm Elizalde, thủ phạm của vụ lừa đảo và phát hiện nhân vật độc đáo này bỏ trốn đến quốc gia Trung Mỹ Costa Rica cùng với số tiền 20 triệu USD lấy từ ngân quỹ của PANAMIN. Tại Costa Rica, Elizalde mua một đồn điền rộng lớn để trồng chuối và cà phê xuất khẩu. Năm 1987, trước đề nghị của Chính phủ Philippines, Costa Rica tiến hành trục xuất mà không bắt giữ Elizalde. Sau một thời gian tạm trú tại Mexico và Mỹ, cuối cùng Elizalde phải quay về lại Philippines để đầu thú. Khai báo với nhà chức trách, Elizalde thú nhận đã chia chác số tiền lớn lấy từ ngân quỹ của PANAMIN cho bà Imelda Marcos, vợ của Tổng thống Ferdinand Marcos khi ông này còn đương chức. Năm 1983, do việc chia chác số tiền lấy từ ngân quỹ PANAMIN không theo như ý muốn của bà Imelda Marcos, Elizalde do bị đe dọa bắt giữ và thủ tiêu nên đã bỏ trốn đến Costa Rica. Bị một tòa án ở thủ đô Manila tuyên phạt 10 năm tù giam vào tháng 10/1988 nhưng không hiểu vì sao chỉ thụ án được 9 tháng, Elizalde đã được trả tự do. Vào ngày 18/5/2000, Manuel Elizalde, thủ phạm của vụ lừa đảo khảo cổ được đánh giá là ngoạn mục nhất thế kỷ XX qua đời tại ngôi nhà của mình ở Mikata, khu dành cho người giàu có sinh sống của thủ đô Manila. Theo Văn Hòa
-
Thứ Tư, 23/07/2008 - 12:28 PM Trung Quốc trình làng biểu tượng của Bắc Kinh Trụ sở mới của CCTV tại Bắc Kinh ngày 17/7 (Dân trí) - London có tháp đồng hồ Big Ben, Paris có Tháp Eiffel, San Francisco có Cầu cổng Vàng (Golden Gate Bridge) và giờ đến lượt Bắc Kinh có công trình kiến trúc biểu tượng của riêng mình. Đó là công trình kiến trúc bắt mắt, một tảng đá nguyên khối, giống như những gã say rượu tựa lưng vào nhau và nắm vai nhau, trụ sở Đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV. Và có lẽ đây là công trình kiến trúc ấn tượng nhất, táo bạo nhất trong hàng loạt công trình kiến trúc làm nên bộ mặt mới của Bắc Kinh nhân dịp đón chào Thế vận hội mùa hè sắp tới. Cùng với đặc điểm nổi bật của từng tòa tháp mới này, chúng ta có những tên gọi nổi tiếng như “quả trứng” để chỉ Nhà hát quốc gia Bắc Kinh, rồi “Tổ chim” để chỉ sân vận động quốc gia ở Bắc Kinh, nơi sẽ diễn ra các sự kiện chính của Olympic sắp tới. Cách “Quả trứng” và “Tổ chim” không xa là “Khối nước” chỉ Trung tâm thể thao dưới nước quốc gia. Sau cùng, còn có “quần chẽn” hay “bánh rán vặn” để chỉ trụ sở mới của CCTV. Sân vận động "Tổ chim". Công trình kiến trúc này có thể làm người đứng dưới mặt đất ngước lên phải cảm thấy chóng mặt, với các tòa tháp cao 49 tầng chệnh choạng tựa vào nhau bằng một bao lơn nằm ngang giữa lưng chừng trời. Tòa nhà độc đáo này do kiến trúc sư người Hà Lan Rem Koolhaas thiết kế. Nó còn được gọi là “sự tái tạo tài tình của tòa nhà chọc trời”. "Khối nước" - Trung tâm thể thao dưới nước. Kỹ thuật xây dựng tòa nhà phức tạp đến nỗi các nhà thiết kế cho rằng nó không thể được xây dựng chỉ mới vài năm trước. Bởi người ta cần tính toán rất tỉ mỉ, chặt chẽ để đảm bảo rằng công trình có thể trụ vững trong vùng hay xảy ra động đất như Bắc Kinh. Chính vì vậy mà công trình ngốn tới 10.000 tấn thép. Trụ sở đài truyền hình CCTV, biểu tượng của Bắc Kinh gồm hai tháp “đứng” tạo góc với nhau và tựa nhau trên đỉnh để tạo thành một cái móc ngang - dọc liên hoàn. Công trình cao 230m, là một trong những tòa nhà cao nhất Bắc Kinh, và có sức chứa tới hơn 10.000 nhân viên. Ngoài bài toán khó về trọng lực, tòa nhà còn là bài toán khó, thách thức đối với trí óc của con người. Nhiều nhà phê bình cho rằng nó đã đi ngược lại với khái niệm thông thường về tòa nhà chọc trời, phải là tòa nhà thẳng đứng như xuyên thủng bầu trời. “Tòa nhà đã nắm bắt được cái thần của đất nước đúng vào thời điểm thích hợp. Đó là sự táo bạo, dám nhìn vào tương lai và thử những cái tưởng như không thể”, Rocco Yim, một kiến trúc sư Hồng Kông cho biết. Rocco Yim là người trong ban lựa chọn thiết kế cuối cùng cho trụ sở CCTV. Yim cũng phủ nhận phê phán của một số người cho rằng tòa nhà không thể hiện được nét đặc trưng của Trung Quốc. Ngoài ra, một số khác còn chỉ trích tòa nhà quá đắt, chi phí mất 800 triệu USD, mặt bằng rộng 44hecta là quá lớn. “Khi xây dựng, Tháp Eiffel bị phân nửa người Paris phản đối”, Yim cho biết. "Quả trứng" - Nhà hát quốc gia. Deng Xuexian, giảng viên kiến trúc tại trường Đại học Tsinghua cũng cho biết, các thiết kế mới thường gây ra phản đối trước khi chúng được công nhận là công trình mang tính bước ngoặt. “Nhà hát Sydney cũng bị nhiều người chỉ trích, thậm chí là cả các thành viên trong quốc hội. Tuy nhiên, sau đó nó lại trở thành công trình kiến trúc lịch sử của Australia”, ông Deng cho biết. Trụ sở đài truyền hình quốc gia Trung Quốc (phải), toà nhà được mệnh danh là biểu tượng của Bắc Kinh. Thậm chí ngay cả những người tán dương đôi khi cũng có cảm giác trái chiều. “Nó hơi kỳ lạ. Không biết nó có đứng vững được không”, Hua Jia, một sinh viên học trường thiết kế cho biết. “Nhưng tôi nghĩ nó thật hoành tráng và rất hiện đại”. Với Thế vận hội mùa hè như một phòng trưng bày, các nhà chức trách Bắc Kinh từ đầu thập kỷ này đã phê chuẩn cho nhiều tòa nhà lớn, thu hút những nhà thiết kế nổi tiếng nhất thế giới, và tạo ra một môi trường mà nhiều người đùa rằng với một dàn “sao kiến trúc sư”. Phan Anh Theo AP
-
Không nên biểu diễn Linh- vật- trống- đồng Thứ ba, 22/7/2008, 07:00 GMT+7... "Nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn viết: Đi tìm cội nguồn của kĩ thuật và nghệ thuật của trống đồng không phải chỉ là để bảo vệ niềm tự hào của quê hương trống đồng, mà còn để bác bỏ những luận thuyết muốn tìm nguồn gốc trống đồng cũng như nền văn minh Đông Sơn ngoài biên giới Việt Nam. Qua đây, bác bỏ những ý kiến cho rằng Thần Đồng Cổ là một nhạc khí, và dùng loại cổ vật tâm linh này để biểu diễn trên sân khấu như tiết mục “giã” trống đồng ở lễ hội Đền Hùng và tiết mục hoà tấu trống đồng của cha con Bá Phổ..." “Trống đồng” là cổ vật tâm linh của vương quyền, cho nên mọi hiện tượng diễn ra có liên quan đến loại cổ vật này đều được sử sách ghi lại khá đầy đủ, song không thấy nói việc một tốp người đứng “giã” trống đồng thành một tiết mục biểu diễn. Nhưng lâu nay chúng ta coi trống đồng là một nhạc khí và đưa ra tiết mục “giã” trống đồng ở Lễ hội Đền Hùng, coi đó là tiết mục truyền thống của văn hoá đân tộc. Hoặc nghệ sĩ Bá Phổ còn theo “thương hiệu” loại cổ vật tâm linh này để đúc một chiếc trống đồng nhưng đã đánh tráo hợp kim của nhạc khí và đưa lên sân khấu hòa tấu với đàn nhị, còn hợp kim đồng thau của loại cổ vật này không thuộc nhạc khí. (xem đầy đủ: Dương Đình Minh Sơn Văn hoá Nõ Nường Nxb Khoa học xã hội tháng 5/ 2008 tr. 317). Trong khi đó, gần 40 đầu sách trong thư tịch cổ của Trung Quốc (sup1)đều đã ghi chép những hiện tượng có liên quan đến trống đồng, nhưng phải đến sách Cựu Đương thư (thế kỷ thứ X CN) mới nói việc “đánh trống” chứ không có sách nào nói việc tốp người đứng “giã” trống đồng cả. Còn ở Việt Nam thì các thư tịch tiêu biểu như: Việt điện u linh, Đại Việt sử ký toàn thư, Lĩnh Nam chích quái, Đại Nam nhất thống chí thì không nói việc biểu diễn trống đồng. Tiết mục giã trống đồng. - Ảnh: VNNThư tịch của ta ghi chép trân trọng loại vật linh này và gọi là Thần Đồng Cổ. lập đền thờ bốn mùa hương khói. Sách Việt điện u linh cho biết đền Thần Đồng Cổ của tỉnh Thanh Hoá toạ lạc trên núi Đan Nê, huyện An Định. Tương truyền đền ở đây được lập từ thời có trống đồng Đông Sơn, còn đền thờ Ngài ở đường Thụy Khuê- Hà Nội là thờ vọng, mới có từ thời đầu nhà Lý và đích thân nhà vua đến cúng tế .Mỗi dân tộc trong xã hội tiền sử thường có một “vật thiêng” tượng trưng cho quyền uy của tù trưởng và dân tộc: có tộc “vật thiêng” là chiếc “gậy”, có tộc lại dùng chiếc “mũ” (chiếc “gậy”- cái “nón” của Chữ Đồng Tử và Tiên Dung- Lạc Việt), hoặc có tộc lại dùng một thứ vũ khí nào đó. Với người Thiên Chúa giáo thì “vật thiêng” cao nhất là Kinh Thánh, thứ đến là cây Thánh giá, còn người Việt tộc thì “vật thiêng” cao nhất là “hèm”- còn gọi là Thần Đồng Cổ, thứ đến là ấn đồng có viền dây Tơ hồng (cuộn thừng) xung quanh. Vì vậy, chúng tôi có bài viết này, để trình bày lại vấn đề trên như sau: Trống đồng là dịch từ chữ đồng cổ của Trung Quốc, do tướng Mã Viện ngụy tạo ra, khi y đưa quân sang đánh chiếm Giao Chỉ của Hai Bà Trưng lần thứ nhất năm 40 - 43 sau Công Nguyên (Lê Mạnh Thát). Trong cuộc chiến đẫm máu đó, Mã Viện đã bắt trên 300 cừ soái, Lạc tướng của cuộc khởi nghĩa đày sang Linh Lăng và tịch thu hết “vật thiêng” (trống đồng) của họ. Việc cướp “vật thiêng” là đoạt quyền tù trưởng, còn cống nạp “vật thiêng” là tỏ lòng thuần phục (quan niệm xưa). Điều đó chứng tỏ “vật thiêng” (trống đồng) gắn liền với cừ soái, Lạc tướng là lực lượng lãnh đạo Việt tộc chống Hán: Trống đồng biểu tượng cho linh hồn và quyền uy của tù trưởng nước Văn Lang - Giao Chỉ, là “vật thiêng” hiệu triệu dân tộc đứng lên chống ngoại xâm. Mã Viện nhận thấy giá trị tâm linh của loại cổ vật này, cho nên y thực hiện một loạt các biện pháp nhằm làm mất tính tâm linh của loại cổ vật ấy. Trước hết y cấm người Lạc Việt sản xuất, tàng trữ “vật thiêng” (trống đồng). Thứ đến y gọi loại “vật thiêng” ấy là đồng cổ - một nhạc khí, ngoài ra còn cổ vũ cho việc đúc và đánh trống đồng trong những quan lại của các quận ở vùng Lưỡng Quảng, cho nên ngày nay ở bên đó mới nhiều trống đồng và có tiết mục đánh trống đồng rôm rả, hoành tráng đến thế. Thứ ba, khi về nước, Mã Viện dùng số trống đồng cướp được ở Giao Chỉ đúc ngựa, đặt trước cửa điện Tuyên Đức với thâm ý: Loại “vật thiêng” của Lạc Việt chỉ như con ngựa cho đế chế Hán cưỡi. Sách Hậu Hán thư của Phạm Việp (424-425) quển 54 mục Mã Viện truyện chép như sau: “Viện hiếu kỵ mã, thiện biệt danh mã ư Giao Chỉ đắc Lạc Việt đồng cổ, nãi trù vi mã thức… mã cao tam xích ngũ thốn vi tứ xích tứ thốn, hữu chiếu trí Tuyên Đức điện hạ dĩ vi danh mã thức yên” ([2]) – nghĩa là: Mã Viện thích cưỡi ngựa, giỏi phân biệt ngựa tốt xấu. Ông ta lấy được trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ bèn đúc thành ngựa mẫu… ngựa cao 3 thước 5 tấc (khoảng hơn 1m), vòng thân ngựa 4 thước 4 tấc (khoảng 1,5m), vua xuống chiếu đặt ngựa mẫu trước cửa điện Tuyên Đức để làm ngựa mẫu (hẳn vùng đó) sẽ yên. Tiếp đến sách Quảng Châu ký của Bùi Thị xuất hiện vào khoảng năm 420-487 ghi lại hiện tượng người Lý, Lão sử dụng trống đồng ở thế kỉ thứ III (CN), sách đã thất truyền, chỉ còn lại những đoạn dẫn để chú giải cho Hậu Hán thư và được bảo tồn trong văn bản Hậu Hán thư. Đoạn văn đó như sau: “Lý, Lão trù đồng vi cổ duy cao đại vi quý diện khoát trượng dư sơ thành huyền ư đình khắc thần trí tửu chiêu chí đồng loại lai giả doanh môn hào phú tử nữ dĩ kim ngân vi đại thoa chấp dĩ khấu cổ khấu cánh lưu dỉ chủ nhân dã”, nghĩa là: Người Lý người Lão đúc đồng làm trống. Trống lấy cao lớn làm quý, mặt trống rộng hơn 1 trượng(?) Lúc mới đúc xong, treo trống ở sân, buổi sáng bày rượu mời đồng loại đến. Người đến đầy cửa. Con trai con gái nhà hào phú lấy vàng bạc làm thoa lớn, cầm thoa gõ trống, gõ xong để thoa lại cho nhà chủ. Người Lý người Lão chỉ cư dân phi Hán ở Quảng Châu, tộc danh này xuất hiện trong thư tịch thời Tam Quốc (thế kỷ III) mà nay có người coi là tổ tiên người Choang. Như vậy, chỉ cần dẫn hai cứ liệu xuất hiện sớm nhất trong thư tịch của Trung Quốc, đã cho ta thấy: Tên gọi “đồng cổ” do tướng Mã Viện nhà Hán ngụy tạo ra từ đầu Công Nguyên (40- 43) - ( Hậu Hán Thư. Cứ liệu thứ hai là ngừơi Lý người Lão đúc trống đồng xong, thì treo trống trước sân… và dùng thoa “ gõ” vào trống đồng, chứ không dùng dùi để “đánh” trống (Quảng Châu ký). Trống đồng - Ảnh: rongbay.com Có thể nói chi tiết cực kỳ quan trọng ở đây là trống đồng mới đúc xong mà “không đánh thử”, chỉ dùng thoa “gõ” vào trống. Đó là hiện tượng không bình thường. Ngày nay ở nhà chùa đúc chuông xong, người ta làm lễ “thử” chuông: trang nghiêm, cẩn trọng. Chuông được treo lên giá, phủ vải đỏ đặt trước sân. Thầy chùa dựng Đàn tràng hương khói kính cáo với đức Phật và thổ thần: dâng đủ lễ, cầu khấn thấu đạt thiên địa thổ thần thì mới được “thử” chuông. Nhưng người Lý, Lão khi đúc trống đồng xong, không làm lễ “thử trống”. Chứng tỏ việc đúc trống đồng của người Lý - Lão không phải nhằm lấy tiếng vang của loại “cổ” này. Hẳn là dùng làm “vật thiêng” biểu tượng quyền uy của tù trưởng và dân tộc . Một tín hiệu nữa cho ta thấy việc dúc trống đồng không phải việc của người bình dân mà của bậc vương quyền. Đó là tinh thần của loại “vật thiêng” (hèm) do tổ tiên của người Văn Lang - Giao Chỉ tạo ra và truyền kỹ thuật đúc “vật thiêng” này sang vùng Lưỡng Quảng.Từ việc dùng “thoa gõ vào trống” trong sách Quảng Châu ký của Bùi Thị xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ V (CN), hoặc các thư tịch khác của Trung Quốc ở giai đoạn đầu này như sách Tấn thư - tác phẩm thế kỷ thứ VII ghi lại việc năm 378 người Di ở Quảng Châu phá tiền đúc trống đồng, hoặc sách Trần thư cũng thế kỷ thứ VII ghi lại việc khoảng năm 551, Âu Dương Ngỗi đánh Trần Văn Triệt ở Quảng Châu, lấy được nhiều chiến lợi phẩm. dâng lên vua trống đồng lớn chưa từng có. Nhưng những sách này đều chỉ mới nói việc đúc trống đồng và cầm thoa “gõ” vào trống, chứ chưa có sách nào nói việc dùng dùi “đánh” trống đồng cả. Phải đến sách Cựu Đường thư, tác phẩm hoàn thành năm 937 – 946 mới xuất hiện việc đánh trống đồng và coi trống đồng là một nhạc khí. Sách Cựu Đường thư đưa ra hai tư liệu: Một là mục Âm nhạc chí đã ghi: Tiết cổ là trống đồng - đúc bằng đồng. Một mặt trống úp xuống, đánh lên mặt trên. Loại trống đồng của Nam Di, Phù Nam, Thiên Trúc đều như thế. Sách Cựu Đường thư là của tác giả ở trung ương, còn trước đó có sách địa phương với tiêu đề Linh biểu lục dị của Lưu Tuân là quan lại ở Quảng Châu vào khoảng năm 889 – 903 ghi rằng: Nhạc của người Man Di có trống đồng, hình dáng như yêu cổ (trống có thân eo lại) nhưng chỉ một đầu có mặt. Mặt liền với thân. Đúc toàn bằng đồng. Thân trống đầy (nhiều) hình côn trùng: cá, hoa, cỏ. Toàn thân đều đặn dày hơn hai phân. Đúc rất giỏi. “Đánh trống” tiếng vang trong trẻo không kém tiếng mai rùa. Trong thời Trinh Nguyên Phiên Quốc (Myanmar) dâng nhạc, có ốc ngọc và trống đồng, mới biết nhà tù trưởng Nam Man đều có trống đồng ([3]). Trong Hội thảo quốc tế, “Âm nhạc truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá” tại Hà Nội (ngày 8-9/8/2004) một đại biểu của Myanmar trong một Tham luận đã dẫn lại diều này (ghi chép của chúng tôi). Như vậy từ thế kỷ thứ X trở đi – tức là sau 900 năm – kể từ khi Mã Viện gọi loại “vật thiêng” ấy là “đồng cổ” thì thư tịch của Trung Quốc mới chính thức gọi loại cổ vật kia là “cổ”- một nhạc khí và nói ngoa lên: “đánh trống đồng nghe tiếng trong trẻo” (sách Lĩnh biểu lục dị). Nhưng thực chất đánh trống đồng chỉ nghe tiếng bịch bịch mà thôi, nên mới nói “Tiếng trong trẻo như tiếng mai rùa”. Tiếng mai rùa cũng bịch bịch, chứ làm gì có âm thanh trong trẻo! Chỉ cần dẫn mấy cứ liệu ban đầu trong thư tịch cổ của Trung Quốc đủ thấy: Việc dựng đứng một “vật thiêng” để thờ cúng “hèm” trong nền văn hoá tâm linh của Lạc Việt - Giao Chỉ thành “cổ ” một nhạc khí là có từ khi Mã Viện mở miệng nói ra (40-43 CN) nhưng phải 4 thế kỷ sau thì thư tịch Trung Quốc mới định danh chữ “cổ” bằng Hán tự (trong sách Hậu Hán thư) và dùng thoa để “gõ” vào “cổ”, hiện tượng diễn ra vào thế kỉ thứ III (C.N) ở người Lý - Lão (sách Quảng Châu ký). Ngoài ra còn phải qua một số tác phẩm nữa như Tấn thư, Trần thư, Tuỳ thư và phải đến Cựu Đường thư (937- 946) mới chính thức gọi trống đồng là nhạc khí trong mục “Âm nhạc chí” của sách này. Bắt đầu từ thế kỷ thứ X trở đi thì thư tịch của họ đồng loạt, chính thức gọi loại vật linh ấy là “cổ” (trống) một nhạc khí và đánh “trống đồng”. Việc giới thống trị ngoại bang dùng thủ đoạn phá nát một dòng cổ vật văn hoá tâm linh của Việt tộc thành “cổ” (trống) - một nhạc khí. Hẳn kẻ nói ra lời “cổ” cũng thấy ngượng mồm, đến khi người cầm bút viết thành chữ “cổ” bằng Hán tự trên giấy, cũng thấy run tay. Bởi vì dân tộc bị hại sẽ truyền nối từng thế hệ mà nguyền rủa kẻ xoá mất một hiên vật trong bản sắc văn hoá tâm linh của họ. Và đến một thời nào đó thì con cháu của tộc bị hại sẽ nghiên cứu, tìm ra nguồn gốc của vật linh ấy, lấy lại cái tinh thần tâm linh ban đầu của nó. Việc nhận thức về tinh thần của vật “hèm” này đã được người Việt bắt đầu thực hiện từ khi nước nhà giành lại quyền tự chủ. Thư tịch của các triều đại nước Đại Việt đều ghi chép trân trọng loại “vật thiêng” là “hèm” này và gọi là Thần Đồng Cổ, lập miếu thờ, đích thân nhà vua đến cúng tế như đền Thần Đồng Cổ Hà Nội. Còn nếu là “trống” - một nhạc khí - thì không thể diễn ra hiện tượng trên. Ngoài ra, trong dân gian, người làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam khi đào được cổ vật này (1893) nay gọi là “trống” Ngọc Lũ, họ đưa vào thờ trong đình làng, mãi về sau mới được đưa về trưng bày ở Trường Viễn Đông bác cổ, nay là Bảo tàng lịch sử Trung ương ở Hà Nội . Việc trân trọng, tôn thờ loại vật “hèm” này được thể hiện ở chỗ: từ dân gian đến vương quyền và thư tịch bác học đều không nơi nào nói đến hiện tượng “đánh trống đồng” - người ta coi cách đánh trống đồng như điều kiêng dè, cấm kỵ - “húy”. Phải chăng, từ đó “vật thiêng” này được phát tán hoặc chuyển mẫu sang đúc ở các nước Đông Nam Á cổ, để thờ cúng và “ấn tín” của các Tù trưởng đương thời của các vùng đó. Điều này cũng được các học giả từng đề cập đến. Ph. Hêgơ (P.Heger) người Áo với sách Những trống kim khí ở Đông Nam Á (1902) đã phân trống đồng làm 4 loại, ký hiệu I, II, III, IV. Ông là người đầu tiên coi trống đồng loại I xuất xứ ở miền Bắc Việt Nam, cho nên ông đã lấy hoa văn của trống đồng loại này (trống Sông Đà) làm tiêu chí để so sánh với hoa văn các loại trống đồng ở vùng Đông Nam Á cổ ([4]) (khi đó trống Ngọc Lũ chưa đưa về Hà Nội). Hoặc sách Lịch sử nghiên cứu trống đồng ở châu Âu của L. Bezacier phần mở đầu đã ghi: Năm 1715 nhà du lịch người Đức Se Vil cho biết: ở đảo Lu-ang (một đảo nhỏ nằm giữa Timor) và Timor La út (Timor La ut) có một "cái chuông thần kì", thật ra là một cái trống bằng đồng thau. Vật linh thờ cúng của dân địa phương ([5]) Còn H. Loofs – Wissowa người Australia với thuyết “Biểu chương vương quyền” (reqalia) thì trống đồng là vật tượng trưng cho quyền lực hợp pháp. Ông cho rằng có một quyền uy tôn giáo tồn tại ở Bắc Việt Nam trong thời cổ, tương tự với quyền uy của Giáo hoàng ở phương Tây. Theo ông, các tù trưởng bộ lạc ở nhiều nơi của vùng Đông Nam Á đã cử sứ bộ đến Bắc Việt Nam để xin cấp các trống đồng, mà với chúng, họ được làm Vua hợp pháp ([6]) Đó là những ý kiến cần thiết cho giới khoa học Việt Nam trong nghiên cứu về Thần Đồng Cổ. Nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn viết: Đi tìm cội nguồn của kĩ thuật và nghệ thuật của trống đồng không phải chỉ là để bảo vệ niềm tự hào của quê hương trống đồng, mà còn để bác bỏ những luận thuyết muốn tìm nguồn gốc trống đồng cũng như nền văn minh Đông Sơn ngoài biên giới Việt Nam ([7]). Qua đây, bác bỏ những ý kiến cho rằng Thần Đồng Cổ là một nhạc khí, và dùng loại cổ vật tâm linh này để biểu diễn trên sân khấu như tiết mục “giã” trống đồng ở lễ hội Đền Hùng và tiết mục hoà tấu trống đồng của cha con Bá Phổ. Dương Đình Minh Sơn , [1] Nguyễn Duy Hinh, Trống đồng trong sử sách, Tạp chí Khảo cổ học, số 12 / 1970 tr 18-35), [2] Hậu Hán thư, bản dich tại thư viện Viện Khảo cổ học. [3] Xem chú thích 1. [4]. P.Heger – Những trống kim khí ở Đông Nam Á ( Chữ Đức) Laixich.1902- Sách bản chính, lưu tại Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, do Tiến sĩ Ngô Thế Phong cung cấp. [5]. Louis Bezacier Lịch sử nghiên cứu trống đồng ở Châu Âu "Sách giáo khoa về Khảo cổ học ở Viễn Đông. Phần 1: Đông Nam Á -Pari 1972 trang 180 - 185 - Bản dịch Tạp chí khảo cổ học số 20 - 1974. http://www.vietimes.com.vn/vn/nhietkevanho...x.viet#_ftnref6[6]12.H.H.E Loofs –Wiosowa. The distribution of Dongson drums: some thoughts in Perter Snoy. Ethnologie und Gest (Sự phân bố của trống Đông Sơn: Vài suy nghĩ) trong Perter Snoy (chủ biên) “Dân tộc học và lịch sử” Wiesbaden. 1983. Tr 410- 417. [7] . Hà Văn Tấn - Theo dấu các Văn hoá cổ- NXB Khoa học xã hội 1998 Tr. 637 -638 nguồn vietimes
-
Tình ném gai thì bị gai đâm Thứ hai, 21/7/2008, 07:00 GMT+7 "Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai" đó là câu phương ngôn có tính nhân quả của người Trung Quốc mà chẳng mấy ai trong chúng ta không biết. Tại sao? Tại vì đó là qui luật sống. Từ bà bán rau ngoài chợ hay ông đạp xích lô bên đường, người có học hay người ít học thi thoảng nhìn cảnh đời éo le người ta vẫn buột miệng "ác giả ác báo". Phương ngôn trên có nghĩa gì? Tức là: khi mình làm điều ác cho ai, kể cả bằng hành động hoặc lời nói xấu, lời nguyền rủa một cách vô cớ, thì mình sẽ nhận lại những điều tương tự. Trái lại nếu mình làm những điều tốt đẹp cho người khác, lành tâm, lành ý, lành cử chỉ, lời nói và hành động, thì mình cũng nhận được những điều tốt lành vọng lại. Nói nhân - quả thì có vẻ sâu xa, kỳ thực để dễ hiểu, cuộc đời thường hiện ra luật phản xạ. Chẳng hạn nếu ta đấm một quả vào tường, tường sẽ dội lại một lực chừng ấy làm đau tay ta. Đứng trước bức tường nếu ta cất tiếng hát du dương, thì bức tường sẽ vọng lại lời hát đó; còn nếu ta cất lời chửi rủa, tục tĩu, cáu gắt thì bức tường cũng sẽ phản xạ lại những âm thanh xấu xí quái dị đó.Người phương Tây có một câu rất hay và dễ hiểu về tình yêu: "Bàn tay tặng đoá hồng thì nó thơm trước". Đấy nếu ta dâng đóa hồng tặng cho người thì tay ta đã thơm rồi, chưa kể ta sẽ được đền trả bằng một đoá hồng khác. Nhưng nếu ta tặng gai cho người, giống câu phương ngôn "kẻ nào gieo gió sẽ gặt bão", đến lúc ta sẽ nhận lại cả búi gai. Người phương Tây còn nói một câu theo tinh thần của Kinh Thánh :"Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ rơi xuống hố". Để lý giải phương ngôn này văn hào Leo Tolstoi đã viết một câu chuyện: Vào một ngày tuyết rơi, những đứa trẻ hân hoan chạy ra ngoài vui đùa cùng nhau. Nhưng có một cậu bé thì lại có suy nghĩ quái ác, trong khi các bạn đang chơi nó liền đào một cái hố trong tuyết, rồi phủ hờ lên miệng hố một lớp tuyết mỏng để ngụy trang. Thế rồi nó ùa chạy lại chơi với các bạn, thâm tâm nghĩ rằng chỉ lúc nữa sẽ có đứa rơi xuống hố. Rồi mải vui chơi, đùa nghịch nó đã sa vào cái hố do chính nó đào… Đau điếng! Khổ thân! Nhưng chẳng biết trách ai cả. Chỉ còn biết tự trách mình thôi. Đào cái hố để bẫy người, đó là câu chuyện biểu tượng thôi. Còn trong cuộc sống có vô vàn kiểu đào hố tai ách khác. Hồi tôi còn học cấp ba, cả khoá học có một cô nàng xinh đẹp trắng trẻo, chàng trai nào cũng mê, lúc nào cũng nghĩ cách làm sao sán về phía nàng dù chỉ một cơ hội rất nhỏ. Rồi các chàng chạy đua, cạnh tranh như những vận động viên của tình yêu, xem ai là người được chấm điểm nhiều nhất. Các chàng thích khoe mình, nhưng than ôi cái tuổi học sinh đó đã có gì đâu để khoe! Các chàng cũng còn biết nói xấu nhau để hạ điểm của đối phương xuống. Một bữa, cô gái cho anh chàng kia vay một đồng, khi anh chàng trả lại còn lịch sự cho một đồng vào trong phong bì, và rồi anh ta nhờ một người bạn trai học cùng lớp với nàng, đưa trả hộ. Chàng đưa hộ liền chơi khăm, anh ta bỏ thêm vào chiếc phong bì đó đồng năm xu. Cô nàng nhận được phong bì trả nợ, mặt tím lại, cho rằng anh chàng trả nợ kia đã chơi xỏ, bôi xấu nàng như thể nàng là người cho vay lãi nặng. Thế là cô cạch mặt anh chàng. Nhưng như người đời bảo: "Cái kim ở lâu trong bọc cũng bị tòi ra". Chàng chơi khăm kia lại quen mui giở cái trò "bỏ năm xu" vào phong bì để loại bỏ mọi đối thủ cạnh tranh, có ngày bị lộ tẩy. Trời ơi, trong mắt của mọi người, đặc biệt là của người đẹp, chàng bị rơi xuống vực thẳng đứng, mặt mày nhăn nhó, cổ và vai rúm ró xo ro trông thật thảm hại, thể diện bị phá tan như một manh áo rách chẳng còn miếng nào lành. Trong các kiểu "đào hố" còn vô vàn cách "ăn không nói có", "gắp lửa bỏ tay người", "chỉ điểm", thậm chí điêu ngoa và ác ý đến độ, người đời còn dùng cụm từ "ngậm máu phun người"… Đang yên đang lành cứ thì thụt chuyện to chuyện nhỏ nói về người khác, "đâm bị thóc chọc bị gạo", thế là hàng xóm, cơ quan, bạn bè xung quanh bỗng nhiên đổ ngờ cho nhau, mũi tên đã bắn ra thì nó cứ lao đi, người đã nói dối một thì phải nói dối mười, nói dối để làm sao che chỗ này, chắn chỗ kia, để mà không sơ hở… Nhưng than ôi, càng làm thế sự việc càng bung bét vỡ lở ra. Người Việt có câu: Đường đi hay tối Nói dối hay cùng Nghĩa là nếu cứ nhắm vào những chỗ tối tăm mãi, giống nói dối vậy, thể nào cũng vấp ngã hoặc rơi vào đường cùng. Chỉ cần mấy người bị đổ điêu ngồi lại, ba mặt một lời với nhau, thì kẻ đổ điêu kia liền bị lật tẩy. Sống ở đời, người ta đều muốn hơn người. Âu cũng là một bản năng tự nhiên dễ thông cảm. Nhưng muốn hơn người thì phải chạy đua, phải cạnh tranh, giống các cầu thủ điền kinh ấy: Chạy đua, ai đến trước thì nhận phần thưởng, ai đến sau thì thua cuộc. Đó là cạnh tranh lành mạnh, như trong học tập, hay kinh doanh, hoặc chạy đua bầu cử. Tranh tài - tranh sức, thậm chí tranh sắc là của những người có khả năng nhất định. Đằng này những kẻ yếu hèn lại thường không dám cạnh tranh lành mạnh, cứ giở trò ném đá dấu tay, giống như anh chàng kia bỏ thêm năm xu vào phong bì để cho người ta ghét nhau. Đấy cũng mới chỉ là cái xấu của tuổi học trò, thử nhìn, có nhiều kẻ tâm địa xấu xa bỏ thêm nhiều thứ khác bẩn thỉu, xấu xa, thậm chí cả thuốc độc vào đó thì tác hại sẽ lớn thế nào? Đức Phật có nói: "Sự ngu dốt lớn nhất trên đời là dối trá". Hay người Việt bảo: "Ăn ngay nói thật mọi tật mọi lành". Nhiều kẻ nói dối, lại cứ nghĩ rằng đó là cách sống khôn ngoan, nói dối chẳng khác gì bột nở luôn làm cuộc đời mình phồng lên như một chiếc bánh bao… nhưng than ôi, thức ăn nở quá sao mà no bụng, thuốc rổm sao mà chữa bệnh, kết cục sẽ mắc phải những bất hạnh khôn lường. "Đi đêm lắm có ngày gặp ma", người Việt đã nói vậy. Và cũng còn nói rằng : Thức lâu mới biết đêm dài Ở lâu mới biết con người có nhân. Ta ăn ở tốt lành, yêu thương người khác sẽ được mọi người yêu thương lại. Còn ta dối trá, đểu giả thì đừng có nghĩ bằng miệng lưỡi gian xảo sẽ trí trá lấp liếm được. Chẳng chóng thì chầy sẽ bị phát hiện mà thôi. Lúc đó sẽ thấy quả là mọi dối trá không thể bằng: "khôn ngoan chẳng lọ thật thà". Vậy thì hãy đem tặng hoa hồng cho người để tay ta ngát hương thơm tốt lành. Nguyễn Hoàng Đức nguồn vietimes
-
Sự bất tử ngự trị trên những món quà! Cho đi của cải là cho đi rất ít Chỉ khi bạn cho đi chính bản thân mình mới thực sự là cho Vì của cải là gì nếu không phải là thứ bạn gìn giữ vì lo rằng bạn sẽ cần chúng cho ngày mai? Và ngày mai, ngài mai sẽ mang lại gì cho chú chó cẩn thận cất giấu thức ăn dưới nền cát vốn không để lại dấu vết để rồi theo đoàn hành hương về thánh địa? Nỗi sợ hãi về nhu cầu là gì nếu không phải là chính bản thân nhu cầu? Bạn không khát khi cái giếng của bạn đầy tràn, cơn khát không thể chế ngự được? Có những người cho đi chỉ một ít trong số những thứ mà họ có-và họ cho đi để được danh tiếng và những khao khát được che đậy của họ khiến cho món quà trở nên tồi tệ. Và có những người có rất ít nhưng lại cho đi tất cả. Có những người tin vào cuộc sống và tính hào phóng của cuộc sống, và ly cà phê của họ không bao giờ trống rỗng. Có những người cho đi với niềm vui, và niềm vui là phần thưởng của họ. Và có những người cho đi với nỗi đau và nỗi đau là thử thách của họ. Và có những người cho đi mà không biết đến nỗi đau, họ cũng không tìm kiếm niềm vui hay những giá trị đạo đức; Họ cho đi như thể những cây mía phả đi hương thơm ngọt ngào trong những thung lũng xa kia. Qua những đôi tay của họ, Chúa cất tiếng nói, và đằng sau đôi mắt họ, Chúa mỉm cười. Cho đi khi được yêu cầu là điều tốt, nhưng tốt hơn là nên cho khi chưa được yêu cầu mà chỉ bằng sự thấu hiểu; Và đối với những người rộng lượng, việc tìm kiếm một người sẽ nhận món quà của họ là niềm vui còn lớn hơn cả việc cho đi Và liệu có cái gì bạn phải giữ lại không? Tất cả những thứ bạn có một ngày nào đó bạn sẽ được trao tặng lại; Vì vậy mà ngay bây giờ hãy cho đi, vì cơ hội trao tặng sẽ là của bạn chứ không phải là của người thừa kế của bạn. Bạn thường nói, “Tôi sẽ cho, nhưng chỉ cho những người xứng đáng.” Những cái cây trong vườn của bạn không nói vậy, và cả những con vật trên cánh đồng của bạn cũng không nói thế. Chúng cho đi cái mà chúng đang sinh tồn nhờ nó, vì giữ lại có nghĩa là chết gục. Chắc chắn rằng những người xứng đáng sống qua ngày tháng của họ cũng sẽ xứng đáng với tất cả các món quà của bạn. Và những người xứng đáng uống nước từ đại dương của cuộc sống cũng xứng đáng uống nước từ dòng suối nhỏ của bạn. Sa mạc nào có thể lớn hơn sự rộng lớn của lòng dũng cảm và tự tin của việc trao tặng? Và họ là ai hỡi những người dám phơi bày bộ ngực và để lộ niềm tự hào của mình để bạn có thể nhìn thấy giá trị trần trụi và niềm tự hào vững bền của họ? Trước tiên hãy xem bạn có xứng đáng là người trao tặng, và là một dụng cụ để trao tặng. Bởi vì sự thật là cuộc sống trao tặng vào chính cuộc sống trong khi bạn, tưởng mình là người trao tặng nhưng thực ra chỉ là người chứng kiến. Và khi bạn là người nhận – tất cả chúng ta đều là người nhận- hãy đừng xem trọng lòng biết ơn, hãy giải thoát bạn và chính người cho bạn một gánh nặng. Tốt hơn là hãy bay lên với món quà của người trao tặng như trên những đôi cánh; Bởi vì nếu quá để ý đến món nợ của mình là thể hiện sự nghi ngờ đối với sự rộng lượng của người cho, người mang đến cả một trái đất rộng mở vì Mẹ và Đức chúa vì Cha. Kahlil Gibran Như Khuê chuyển ngữ từ bản tiếng Anh
-
Mãnh lực mới của lời ru Thứ ba, 15/7/2008, 07:00 GMT+7 Dạo này con bé cháu nhà tôi hay khóc về đêm. Đúng vào lúc mọi người đang lim nhim vào giấc. Thoạt đầu, nó khóc đòi ăn. Ăn rồi nó khóc đòi đi ngủ. Ngủ được một lúc, quần bị ướt. Nó khó chịu. Càng về sau nó càng thấy khó chịu. Môi đỏ. Mồ hôi ra bết tóc. Nó lăn bên này sang bên kia. Nó lăn như bánh xe trên giường. Nó bắt đầu khóc. Khóc ré lên. Tiếng to hơn. Khóc ngằn ngặt. Khóc sưng húp cả hai con mắt. Khóc đến mức gần như ngạt thở. Làm mẹ nó phải gọi xe đưa cháu đi Viện Nhi cấp cứu. Khi đến nơi đã 3 giờ sáng. Bỗng nhiên con bé lại nhoẻn miệng toe toét cười. Khám xong, bác sỹ nói cháu không làm sao cả. Vậy tại sao nó khóc? Trẻ con thì đứa nào chả khóc! Nhưng tại làm sao nó chỉ khóc về đêm? Thậm chí một hai giờ sáng, ông bà vẫn phải bật đèn bày trò dỗ để nó. Nhưng. Trời ơi! Tiếng khóc của đứa bé lên năm, sáu tháng tuổi như khoan gẫy, như đục cùn, thuốn vào ruột gan người lớn. Người lớn đứng lên ngồi xuống chẳng biết làm gì. Chân tay thừa thãi. Ông bà xót. Xót cháu mình. Xót con gái mình. Bà ôm gối ngồi như hòn đá mồ côi. Hòn đá mồ côi bỗng lóe sáng. Bà nhớ lại kinh nghiệm từ những người già trên làng Cổ Phương. Họ bảo đấy là căn chứng “tiểu nhi dạ đề”. Do trẻ bị căng thẳng thần kinh trước khi đi ngủ. Nó nhìn thấy những con ma lạ hoắc đến quấy rầy. Nên cứ nhắm mắt vào là thấy, làm nó sợ. Trẻ khóc suốt đêm là vì vậy. Mãi đến gần sáng thì mới hết khóc và thiếp dần vào giấc ngủ. Bà vội vàng xuống dưới bếp lấy lên bốn con dao nhọn. Bà nín thở, cầu trời khấn phật. Trình lạy mẹ Hoa ba lạy. Chẳng biết mẹ Hoa trên trời nói sao. Bỗng tôi thấy trên ban thờ nhà mình phjọp phjẹt nở những bông hoa tám cánh. Hoa giống như được làm bằng băng. Khấn xong. Bà ngoại nhẹ nhàng đặt từng con dao nhọn xuống dưới bốn góc chiếu. Nơi cháu nằm. Dao nhọn sẽ trừ khử những con ma quấy rối giấc ngủ. Dao nhọn sẽ dọa giết kẻ nào dám phá giấc mơ ngọt ngào của cháu. Đây là những con dao được rèn bằng thỏi thép già. Từ những bàn tay của người thợ rèn lành nghề Phúc Sen đã làm ra nó. Những con dao mới tinh, còn thơm mùi lửa. Dao này chưa ai dùng vào việc giết mổ. Nếu đã dính một chút máu đào là dao mất thiêng. Không dọa được ma quỷ. Tại sao những con dao người Nùng An Phúc Sen nổi tiếng đến như thế? Bởi dao ấy vừa bền vừa sắc. Dùng đến hai ba đời người chưa hỏng. Nếu chẳng may chém phải đá, dao chỉ kêu một tiếng coong. Mài đi mài lại vẫn sắc như mới. Mài mòn đến sống, mà lưỡi dao vẫn lên nước xanh. Mài cẩn thận, mài kỹ càng, có thể dùng thay dao lam cạo râu gọt tóc. Nếu bạn có dịp lên Cao Bằng, xin đừng bỏ qua dịp may hiếm gặp. Mua lấy vài con làm quà. Dao Phúc Sen bây giờ vẫn còn có nhiều người ưa dùng. Mặc dù dao inox trắng bóng của Thái Lan, Trung Quốc bày bán với giá không lấy gì làm đắt. Nói đến dao Phúc Sen, người đi rừng còn vị nể. Nếu ai không thành thạo đường chặt, tôi thành thật khuyên bạn đừng dùng. Nếu bạn cứ lóng nga lóng ngóng sẽ tự làm đứt tay mình. Chuyện ấy đã từng xảy ra với khá nhiều người. Họ còn đồn rằng, ma quỷ chỉ cần nghe tiếng dao kêu lắc cắc leng keng là lập tức ba chân bốn cẳng chuồn ngay tắp lự. Bởi trước lúc cho thép vào lửa, người thợ đã thổi phù phép và niệm chú ba lần vào miệng lò: “Hãy cắt bỏ cái ác! Hãy chặt đứt cái thừa! Hãy gọt đi cái vô lý! ”. Chẳng biết có phải vì thế mà dao trở thành người bạn thân thiết, vật bất ly thân của người Tày Nùng. Dù đi rừng hay đi chợ ai cũng đóng theo một con dao sau lưng. Có con dao làm người ta tự tin hơn. Bà vạch chiếu lên đưa dao nhọn chĩa mũi về đằng đông. Nơi ấy ma quỷ có nước da xanh màu nước biển. Chúng có bộ mặt trơn nhầy như cá mõm lợn. Cá mõm lợn chỉ ăn mỗi rong rêu nên người nó béo, thịt nó chắc, môi nó dầy. Nhưng ma quỷ có dáng dấp cá mõm lợn thì lại nghiện ăn tóc tơ của trẻ. Cứ thấy mùi trẻ con ở đâu là nó ứa nước miếng. Chúng thè lưỡi liếm từ mép trước trán đến sau gáy là hết nhẵn tóc. Về sau người ta gọi là tóc bò liếm. Khá lâu, tóc mới có thể mọc lại được. Dao nhọn khác quay mũi về đằng Tây. Nơi ấy ma quỷ có bộ mặt đỏ quạch. Mũi khoằm, cằm dài, tai chuột. Chúng rất hay ăn bí đỏ. Vì bí đỏ vừa ngon ngọt lại vừa bổ óc. Thường xuyên ăn bí đỏ sẽ không bao giờ bị tắc đường đưa máu lên não. Ma quỷ nhìn thấy cái đầu trẻ nhỏ lúc la lúc lắc, nó đã tưởng nhầm bí đỏ. Nên đêm đêm chúng đi rình mò kiếm tìm cái đầu ngọ nguậy của trẻ. Dao nhọn chĩa mũi về Nam. Nơi có ma quỷ đầu hói, râu thưa. Mặt xanh như đít nhái, giọng nói khàn khàn tựa vịt đực. Giống ma quỷ này chỉ nghiện mỗi quyền lực. Dường như nó ham thích quyền lực từ ngay trong trứng nước. Quyền lực đối với nó quan thiết hơn huyết thống cha mẹ vợ con. Nó thấy trẻ nhỏ luôn luôn được mọi người cưng chiều nịnh nọt. Trẻ nhỏ đúng là một ông vua con. Muốn gì được nấy. Tuy là vua con nhưng oai oách ngang bằng một ông vua lớn. Nên ma quỷ nghĩ mình phải ăn trộm cái quyền lực kia mới được. Dao nhọn chĩa mũi về phương Bắc. Nơi ở của ma quỷ có cặp mắt trắng dã, môi thâm xì. Vành tai mỏng dính như nấm khỉ. Con ma quỷ này chỉ thích kẹo sôcôla và áo mới. Nó ghen với trẻ nhỏ. Bởi ngày nào chúng cũng được người lớn cho quà. Lập tức con ma này rình rập, nấp sau tấm rèm. Khi mọi người tắt đèn đi ngủ, là thời khắc chúng thoải mái vo ve trêu tức. Chuyện bốn con dao nhọn yểm bốn góc giường, thực hư thế nào chưa đến hồi ngã ngũ. Cháu tôi không còn khóc đêm nữa. Nhưng nó vẫn thức đến một hai giờ sáng. Đêm nào cũng vậy. Thương con, tôi thức đêm trông con cho nó. Hai ông cháu cùng khù khì ù òa đùa nhau trong màn. Dưới lờ nhờ bóng sáng, tôi nhìn thấy nó cười. Hướng vào tôi, cháu cười. Một nụ cười không thành tiếng mà trong vắt. Một nụ cười toát lên niềm hạnh phúc không bờ bến. Hàng ngày, nụ cười của con bé làm tan biến mỏi mệt trong tôi. Đêm nay, nụ cười ấy như cơn gió phủ mát khắp lên người. Đấy. Nó ngẩng đầu lên ngọ nguậy như con tằm. Tôi ôm cháu vào lòng và ru. Tiếng ru của người ông đông tuổi nghe khê như cháo. Ru đến câu thứ ba thì quên tịt. Cứ à ơi đánh võng mồm cho đến hết bài. Tiếng ru ư ử từ cổ họng tôi lan truyền sang da thịt cháu. Thật diệu kỳ. Nó há miệng nghe. Im lin lít. Rồi nhẹ nhàng thở. Nó bắt đầu ngủ. Giấc ngủ nghiêng dần như nước. Đặt cháu xuống giường, bất chợt tôi chạm tay đúng con dao nhọn. Tôi nhìn và nói với nó: “Thôi! chào anh bạn đồng hương Phúc Sen. Dù sao tôi cũng cảm ơn về việc anh đã dọa ma giúp. Cháu tôi đã bớt sợ. Bây giờ tôi biết rồi. Cháu tôi chỉ đói tiếng ru. Tiếng ru từ người bà, người mẹ. Tiếng ru truyền đến đời tôi thì… ngưng hẳn. Tự nhiên tôi buồn. Một nỗi buồn không cất lên thành tiếng. Nó nặng trĩu như núi chồng lên núi. Đâu rồi tiếng ru con một thủa: Nọong ơi nòn/nọong nòn đắc ơi a nòn đí/ me pây tổông au pja/me pây nà au luổm/đảy tuô luổm pác đeng …. Em ơi ngủ/ ngủ cho say/mẹ ra đồng bắt cá/mẹ ra ruộng bắt con muồm muỗm/được con muồm muỗm môi đỏ… Hứa Hiếu Lễ ( nguồn vietimes)
-
Tính Triết Lý sâu xa của Đức Phật bao giờ cũng sáng tỏ ! cám ơn Phúc Anh đã sưu tầm bài viết này .