wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Sự lãng mạn trong "cái tôi" được phát huy nhiều hơn bao giờ hết (có lẽ vì trời bước sang thu), nhưng bạn đừng lãng mạn trong công việc, hãy để dành nó cho những người xung quanh... BẠCH DƯƠNG March 21-April 19 Bạn bắt đầu một ngày mới bằng những mối quan hệ họ hàng thân thiết. Bạn luôn biết rằng mình cần gì và làm thế nào để đạt được những việc mình cần đó. Và chính các giác quan sẽ giúp bạn suy nghĩ và tìm hiểu về những gì mình cần, tham vọng, ước mơ, và sự khao khát của những người thân thiết nhất đến với bạn. Vào ngày thứ nhất và thứ 2 trong tháng, bạn đã sẵn sàng gõ cửa những năng lượng đang ngủ và bạn sẽ trông thật đáng yêu và ngạc nhiên bởi những lời tiên đoán tốt đẹp đến với mình. Ngày 6 và 7 trong tháng là những ngày đẹp nhất để bạn nhìn lại những mốt thời trang chỉ hơi cũ cũ và đưa nó trở lại tủ quần áo của mình. Nếu bạn không thể chấp nhận cái gì đó cổ điển thì hãy tự nhiên và tạo cho mình một phong cách hiện đại. Mà, nếu như giá cả phải chăng có lẽ bạn còn khuân cả cửa hàng về đấy. Vào ngày 11, bạn có một kế hoạch xa. Không hề có 2 phương án dành cho kế hoạch này chính vì vậy bạn hãy lên danh sách những việc cần làm nhé. Vào ngày 15, cả thế giới sẽ im lặng, nó sẽ tạo điều kiện cho bạn tìm kiếm cái gì đó quý giá. Vào ngày 20 và 21, một vài công việc nặng nhọc có thể trở thành vấn đề nghiêm trọng với bạn, nếu bạn quyết định làm nó. Đầu tiên hãy suy nghĩ, kiểm tra thật tỉ mỉ chính bản thân mình. Bạn có sẵn sàng để làm điều này không? Có lí do nào để bạn lưỡng lự không muốn làm nó không? Vào ngày 26, 27, hãy tập thể dục cho cái đầu của mình, đây là thời gian mà bạn phải làm việc với cường độ căng thẳng cao! Đến ngày cuối tháng, bạn sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Điều này thật bất ngờ với bạn, có thể bạn sẽ phản ứng mạnh, nhưng hãy nghỉ ngơi và thư giãn để tìm cảm giác thoải mái thì hơn. * KIM NGƯU April 20-May 20 Nếu như bạn cảm thấy mệt mỏi, buồn chán vào ngày đầu tiên trong tháng, đó chính là điều mà bạn cần phải thay đổi thái độ, quan điểm của mình. Hãy thổ lộ những điều bí mật bạn đã chôn giấu. Trước tiên hãy xem xét lại những điều nhỏ nhặt, sau đó là tất cả, cuộc sống chỉ vui vẻ khi những điều nhỏ cũng được chú ý đến. Hãy nhớ lại khoảng thời gian đầu tiên bạn yêu như thế nào? Tất cả diện mạo của một trái tim đang yêu đã được làm mới và kích thích như thế nào? Hãy nhớ lại lần đầu tiên bạn chuyển nhà đến ở một chỗ mới như thế nào? Và bạn đã được mọi người chú ý như thế nào? Hãy nhớ lại chuyến du lịch đầu tiên đến một vùng đất mới? Những điều khác biệt bé tí ti đã gây cho bạn sự tò mò chú ý đến thế nào? Hãy mang những điều cũ kĩ nhưng lại mới mẻ đó, những con mắt tò mò đó để làm mới những thói quen hằng ngày của bạn. Hãy thử nhìn thật lâu vào cốc cà phê của bạn, và những cái tay cầm trên xe bus, dạo một vòng quanh văn phòng và để ý đến những thói quen nhỏ của đồng nghiệp. Nhai 100 lần, ngẫm nghĩ trước khi bạn nuốt. Nếu như bạn kiểm soát được những ý muốn, sở thích của mình thì chẳng có gì phải buồn cả. Vào ngày 6, lòng gen tỵ khi đã trào dâng có thể làm chệch hướng công việc của bạn. Hãy cảnh giác với những gì mà bạn tiết lộ. Vào ngày 12, sự không thẳng thắn, úp úp mở mở của một ai đó sẽ làm bạn phát cáu, nhưng liệu nó có là mối đe dọa công việc của bạn hay không? Rất có thể là không hề! Vào ngày 16, bạn hãy dành thời gian để mua một cái gì thật lớn. Vào ngày 21, đừng thể hiện gì cả cho đến khi bạn biết được những điều nhỏ nhặt nhất, thậm chí bạn biết cả kết quả của nó nữa, nhớ là phải kiểm tra thật tỉ mỉ đấy. Ngày 26 và 27, hãy sẵn sàng cho một điều gì đó lãng mạn, bởi vì lãng mạn là một phần tính cách trong bạn. Ngày 30, hãy lắng nghe những xúc cảm sâu xa nhất, nó sẽ là người bạn đồng hành tốt nhất của bạn. * SONG SINH May 21-June 21 Nếu cảm thấy thích, bạn có thể tụ tập cùng một nửa của mình, còn nếu chưa có một nửa thì bạn có thể làm những việc đó với người bạn thân của mình, trong suốt ngày đầu tiên trong tháng, bạn hầu như đúng hoàn toàn. Thỉnh thoảng hãy dịu dàng. Sau tất cả nếu bạn đánh mất đi sự nhạy cảm vốn có của mình thì tất nhiên điều này là không tốt cho bạn. Ngày 5 và 6, sao lại không quan tâm đến sở thích mới của mình ví dụ một chú dế Nokia N95-8GB ? Bạn có thể tò mò vào sửa và cài đặt các chương trình máy tính, hay nghe một bản nhạc opera. Đây là khoảng thời gian để bạn mở rộng tầm nhìn. Ngày 10, ai đó sẽ trốn khỏi những vấn đề nan giải phải bàn bạn, hãy tìm cho ra kẻ đó là ai, và chuyện gì khiến họ phải làm như vậy? Vào ngày 14, óc sáng tạo là tài sản lớn nhất của bạn, hãy vận dụng nó vào thực tế cho những ngày tiếp theo, những ý kiến của bạn sẽ tạo cho công việc của bạn gặp rất nhiều thuận lợi và gặt hái những tinh hoa. Vào ngày 20, tâm trạng yêu đương của bạn bỗng nhiên nổi hứng. Ai sẽ là nạn nhân may mắn để cho bạn tán tỉnh đây? Vào ngày 25, hãy có những kế hoạch tốt nhất cho những hoạt động và bạn sẽ nhìn thấy cái nào là tốt nhất. Vào ngày 28 và 29, bạn sẽ thúc đẩy một trong số những dự án mới của mình bắt đầu, nhưng rất có thể bạn chưa chuẩn bị kĩ càng cho nó. Hãy dám nghĩ, dám làm và kiểm tra sớm, lâu dài từng bước một, bạn sẽ nắm trong tay những thứ tốt nhất. Vào ngày 30, kết thúc một tháng tốt đẹp với những điểm nhấn ngọt ngào. CỰ GIẢI June 22-July 22Hãy cẩn thận khi mà bạn bắt đầu làm bất kì cái gì mới vào ngày đầu tháng. Cả ngày thứ 2 cũng vậy. Điều đó thì không có nghĩa là bạn không nên có một kế hoạch nào cả, bạn sẽ muốn kiểm tra tỉ mỉ sự thật về những con số và kiểm tra cả cách cư xử đúng đắn của mình, trước khi bạn quyết định triển khai kế hoạch. Một sự kiểm tra cuối cùng với chính bản thân sẽ là tiền đề chắc chắn cho những dự định đang lên và trái tim bạn sẽ biết dừng đúng lúc để không bị tổn thương. Sau đó vào ngày 7 của tháng, hãy làm việc gì đó cực tốt dành cho bản thân, bạn hoàn toàn xứng đáng được hưởng thụ, và các ngôi sao sẽ mỉm cười, đồng tình với bạn về những gì bạn muốn. Vào ngày 13 và ngày 14 nếu như trực giác của bạn mách bảo bạn rằng hôm đó trời sẽ mưa thì chắc chắn là trời sẽ mưa và trực giác của bạn mách bảo bạn rằng có điều gì đó không tốt thì chắc chắn là sẽ có điều gì đó không tốt. Hãy lắng nghe và tin tưởng rằng, sự gan góc trong tâm hồn sẽ giúp bạn vượt qua những đau khổ, vất vả. Vào ngày 19 sẽ có ai đó hiểu sai mục đích của bạn vì thế hãy chắc chắn rằng mọi thứ đều rõ ràng trong những tin nhắn hoặc email. Ngày 23 là một ngày lí tưởng cho những khởi đầu mới. Ngày 27 bạn nên thử kết nối lại với một ai đó, những người mà có ý nghĩa với bạn rất nhiều. Ví dụ như: Một người bạn đã mất liên lạc lâu ngày hoặc một thành viên trong gia đình bạn đang ở một nơi xa. Nhớ là hãy liên lạc nhé. Vào ngày 28 và 29 đều là những ngày của niềm vui sướng và hạnh phúc, hãy chuẩn bị tinh thần để đón chào. Ngày cuối tháng, bạn hãy thận trọng hơn nữa với việc buôn bán, kinh doanh mới của mình. * SƯ TỬ July 23-August 22Vào ngày 1 và 2, bạn và ai đó đều là sự kết hợp hài hòa, cả 2 đều có sở thích giống nhau thậm chí kể cả công việc buôn bán. Bất kể rằng mối quan hệ của bạn với mọi người thế nào, có người thân có người không thân nhưng bạn hãy chia sẻ nguồn năng lượng dồi dào của mình đến tất cả những người này sẽ là một phần trong những kế hoạch của bạn đấy. Vào ngày 5, đừng có quên cái gì đấy, hãy cẩn thận với chính bản thân nhưng bạn cũng đừng có cho mình là trung tâm của tất cả. Hãy cố gắng cân bằng sự ảnh hưởng của bạn với thế giới bên ngoài. Hãy tự hỏi xem những người xung quanh bạn có nhiệm vụ phải làm gì thay vì bạn cứ ở đó mà tôn mình lên cao quá như thế. Vào ngày 10 bạn rất tin tưởng và tự hào về chế độ dinh dưỡng cũng như sức khỏe của mình nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải nói cho tất cả mọi người và bắt họ phải nghe. Hãy giữ yên lặng và quan sát, trước sau gì thì họ cũng sẽ nhận ra kết quả với họ là như thế nào. Vào ngày 16, hãy chịu khó học cái gì đó mới mẻ, bạn sẽ rất thích nó. Vào ngày 18, hãy chú ý đến những cơ hội và sự thăng tiến trong nghề nghiệp. Đến ngày 22, bạn sẽ phải làm một việc gì đó khá lớn nhưng đừng lo lắng, sức khỏe của bạn hứa hẹn sẽ rất tốt đấy. Vào ngày 25, tài năng của bạn sẽ nở rộ ở bất cứ đâu bạn đến và sức mê hoặc của bạn thì bất cứ ai và bất cứ cái gì cũng không thể cưỡng lại được. Ngày 29 quả là một ngày đẹp của các ngày đẹp, hãy làm gì đó thậm chí nếu như bạn thích bạn có thể thuê một đĩa phim để xem với một người bạn tốt. Ngày 30, trực giác của bạn sẽ rất nhạy bén nhưng đừng dùng nó để làm đau mình. * XỬ NỮ August 23-September 22Vào buổi sáng của ngày 1, bạn ra khỏi giường và bắt đầu một ngày mới bằng cách bước chân phải ra khỏi nhà. Dù bạn có bước chân phải hay chân trái thì cuộc sống của bạn vẫn rất thực tế và hơn ai hết bạn hiểu được ý nghĩa của nó. Đó chính là nhiệm vụ của bạn trong tháng mới. Vào ngày 2 đừng mang một tâm trạng nặng nề với những xúc cảm cực tốt của bạn. Hãy ra ngoài và sử dụng thẻ tín dụng của mình một cách hợp lí nhất. Hãy nhớ rằng: tiết kiệm bao giờ cũng tốt hơn là hoang phí! Vào ngày 5 sự ham hiểu biết của bạn sẽ tạo điều kiện cho bạn học một số vấn đề mới. Vào ngày 10, nếu như có một chú lãng mạn thì thật là tốt và tất nhiên, nhiều lãng mạn thì còn tốt hơn, bạn sẽ có một ngày đẹp trong tháng. Vào ngày 14, mọi thứ có thể bị biến đổi. Điều đó cũng có thể là cuộc sống của bạn sẽ tươi đẹp hơn. Sẽ không có nhiều ích lợi lắm cho sự gắn kết của những thứ đã chắc chắn nằm trong kế hoạch. Bạn biết điều đó, mọi thứ đã thay đổi, vì vậy hãy bớt căng thẳng. Vào ngày 20, hãy đảm bảo rằng, sự truyền thông của bạn là sáng sủa và dễ dàng cho người khác hiểu bạn muốn nói gì. Nhưng nếu đã cố gắng thế rồi mà vẫn có ai đó hiểu lầm bạn thì ít nhất bạn cũng phải biết nên làm gì để thanh minh. Vào ngày 25, nếu như công việc làm bạn bị stress, có thể bạn được phép tạo ra một sự đập phá nào đó, có thể bạn sẽ xách túi ra ngoài và đến rạp chiếu phim. Bạn xứng đáng để có một thời gian nghỉ ngơi. Bạn sẽ kết thúc tháng này vào ngày 30, nhưng điểm kết thúc cũng là điểm bắt đầu của bạn. Tuyệt vời! * THIÊN BÌNH September 23-October 22Ngày 1 và 2 đến với bạn nhưng mọi thứ cứ không rõ ràng lắm. Ở đó có sắc đẹp, có tiếng cười, có sự vui vẻ, hân hoan, có tiếng hát, có thức ăn ngon và những người bạn, thậm chí có cả những nụ hôn ngọt ngào. Và chính nhờ những hoạt động đó gần như bạn mới nhận ra là tháng mới đã bắt đầu, tất nhiên là nó sẽ bắt đầu một cách ngoạn mục như thế mà bạn không ngờ. Vào ngày 5, đây chính là thời gian thích hợp để bạn thay đổi cái gì đó, sau đó hãy tính toán được khoảng cách của những cái cần phải thay đổi. Đừng ngồi đó mà phán đoán những cái nông cạn. Hãy gỡ rối cho tinh thần và tính toán xem hướng cần đi là gì. Đừng có làm những việc vớ vẩn cho đến khi bạn tìm thấy sự thật. Bạn muốn chắc chắn rằng một sự thay đổi nhỏ nhất cũng được trau chuốt và quan tâm. Vào ngày 9 nếu như ở nhà mà bạn cảm thấy mọi thứ không được cân bằng thì có thể đây là thời gian mà bạn phải làm cân bằng chúng như treo lại 2 bức tranh và thay những bóng đèn nhỏ bị vỡ. Quan trọng hơn nữa đây có thể là thời gian mà bạn giãi bày những băn khoăn, thắc mắc giữa bạn với người ở chung nhà. À há! Có vẻ tốt hơn thật rồi! Vào ngày 14 bạn có thể giúp bạn của mình vượt qua tình huống khó khăn bằng chính óc hài hước và khả năng thẩm mỹ của mình. Ví dụ như có cần có một mái tóc mới hay một cái áo khoác không giống ai, hãy tư vấn nhưng mà nhẹ nhàng thôi. Ngày 30 là ngày mà bạn có thể kiếm thêm bên ngoài, hãy sẵn sàng với việc kinh doanh. * BỌ CẠP October 23 - November 21 Vào ngày 1, nỗi lo sợ trong tiềm thức có thể đặt bạn vào trạng thái do dự cho bản thân vào buổi tối. Nếu như bạn cảm thấy bồn chồn lo sợ mà bạn không biết tại sao, hãy mang theo và quan sát thật kĩ những tín hiệu lớn bạn sẽ có thái độ ứng xử đúng đắn. Liệu bạn có bao giờ phải nghĩ ngợi đến những lí lẽ tán thành và phản đối sự đối xử công bằng trong buôn bán? Đó là sự quyết định? Đó là một cái váy đỏ mà bạn muốn mua? Vào ngày 5 và 6, tất cả những sự do dự, không quả quyết và lo âu đó sẽ qua. Bạn sẽ có một trạng thái tốt và sẵn sàng tham gia vào mọi thứ. Vào ngày 9 và 10, một số ý kiến mà bạn đưa ra sẽ là định hướng cho những lời ca tụng sau đó. Vào ngày 16 và 17 bạn rất muốn có một hành động đấu tranh, nhưng mà tại sao? Bạn nghĩ rằng sẽ không có gì tốt hơn là mình sẽ luyện tập một cách quá sức trong phòng tập thể dục? Đến ngày 22 và 23, hãy ngừng sự luyện tập và chế ngự mọi thứ. Mọi thứ từ sự phục vụ của một nhà hàng, nơi mà bạn quyết định đãi sếp của mình một bữa ăn trưa để củng cố mối quan hệ cá nhân của mình. Và điều đó cũng sẽ mang lại ích lợi bởi sự khéo léo thông minh của bạn, nghỉ ngơi và đi với sự thanh thản. Vào ngày 28 và 29 một chút kiên nhẫn sẽ giúp bạn đạt mục đích và thậm chí còn xa hơn nữa. Ở một chừng mực nào đó bạn đã nhìn ra sự tiến bộ, đừng vội vã với mọi thứ. Ngày 30 đánh dấu một ngày cuối cùng và hoàn thiện một tháng của bạn. * NHÂN MÃ November 22-December 21Vào ngày 1 và 2, bạn bắt đầu một tháng mới với những kỉ niệm ùa về, tình yêu của bạn thế nào? Liệu nó có phải là một thứ gì đó quan trọng trong cuộc đời bạn? Dẫu rằng nó chỉ là những bông hoa, món quà, một vài mảnh giấy với những lời nhắn, hay một vài cú điện thoại... Tất cả những điều đó cũng cho bạn thấy rằng người ta yêu bạn và bạn thật quan trọng với người ấy. Còn gì tốt hơn nữa đây? Bạn sẽ điều chỉnh lại những lời khen như thế nào? Vào ngày 5, sự nhạy bén về ý thức sẽ giúp ích cho bạn trong một số trường hợp. Hãy cứ thế mà làm và bạn sẽ có một số bước tiến đáng kể mà không mất chút công sức nào. Vào ngày 9, bạn nên cố gắng không tiêu nhiều tiền, tất nhiên ai chả thích tiêu tiền và những viễn cảnh của nó đem lại, nhưng hãy kiềm chế! Bạn hãy làm bất cứ điều gì có thể hạn chế bạn tiêu tiền. Ví dụ như làm việc thật nhiều và đi bộ dài dài có thể làm bạn không nghĩ đến việc tiêu tiền nữa. Vào ngày 13 và 14 hãy tìm ra quá khứ cho câu chuyện tương lai của bạn, quá khứ thì luôn luôn có mối liên hệ với hiện tại và tương lai kể cả khi bạn không nhắc đến nó. Vào ngày 20, hãy làm việc như một con ong chăm chỉ và không sớm thì muộn bạn cũng sẽ có những hũ mật ong ngọt ngào nhất. Vào ngày 25 hãy lạc quan như bạn đã từng lạc quan, và tất nhiên là bạn sẽ có lí do cụ thể để lạc quan. Vào ngày 30, nếu như bạn cảm thấy mệt mỏi, hãy nghỉ ngơi, mọi người cần bạn mạnh khỏe bây giờ và cả về sau nữa. * MA KẾT December 22-January 19Ngày đầu tiên trong tháng là thời gian thích hợp để bạn nâng tầm mình lên. Đây không phải thời gian để bạn khiêm tốn và nhún nhường. Bạn làm việc thật tốt và có những sáng kiến hay cho nhóm, cho đồng nghiệp. Hãy tự thưởng cho mình vì những thành tựu xuất sắc. Vào ngày 5, bạn bị xoay vòng trong chính nội tâm của mình. Và bạn có bao giờ tự hỏi bạn nhìn thấy gì trong chính sâu thẳm con người mình? Một sự khao khát về tài năng và thanh thế chăng? Điều đó là rất tốt và bây giờ bạn đã biết được đích ngắm của bạn là gì, hãy bắt tay lên một danh sách những việc cần làm và tìm sự trợ giúp. Vào ngày 10, mọi thứ sẽ là vàng nếu bạn biết làm cho mình một bữa tối ở nhà, một kế hoạch dễ thương sau giờ làm việc với những người bạn. Vào ngày 16 nếu như bạn cảm thấy không cân bằng được công việc và gia đình hãy cố gắng hình dung ra những gì phải làm và rạch ròi được tý nào hay tý đó. Sự cân bằng là chìa khóa cho hạnh phúc. Vào ngày 21, trí tuệ của bạn sẽ mách bảo bạn phải làm gì là tốt nhất, nhưng trước hết bạn phải vượt qua được những ý nghĩ cổ hủ đã thành lối mòn từ trước. Vào ngày 26 và 27 bạn có thể làm bất cứ cái gì bạn muốn, hãy phân tích và cẩn thận cho việc buôn bán. Vào ngày 30, hãy tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè, họ luôn mở rộng tấm lòng để cho bạn những lời khuyên. * BẢO BÌNH January 20-February 18Vào ngày 1, hãy thật sự cố gắng để kết nối, dẫu rằng đó là một người bạn đồng ngiệp hay người bán bánh mì, đừng có máy móc quá! Hãy hỏi họ là họ cảm thấy thế nào, cuộc sống của họ có gì mới không và hãy chia sẻ những điều mới mẻ của bạn cho họ biết. Bạn sẽ nhận được sự nhiệt tình từ họ mà đến chính bạn cũng không ngờ tới, vậy ngại gì mà không thử. Vào ngày 5, nếu như bạn cảm thấy cần phải làm điều gì đó có ích cho xã hội thì bạn hãy để ý tới những khu vườn công cộng hoặc tổ chức một cuộc đi thăm những bảo tàng nghệ thuật với một vài người bạn. Vào ngày 10, nếu bạn cảm thấy mệt mỏi và cần phải nghỉ ngơi, hãy kiểm tra lại bản thân và có thể đến spa trước khi đi làm, sau đó hãy đi ngủ thật sớm. Vào ngày 16 nếu bạn cảm thấy bối rối không biết làm gì với cuộc sống buồn tẻ và nhàm chán, bạn có thể làm gì đó bất thình lình. Có lẽ chưa khi nào lại là thời gian thích hợp hơn khi này để bạn tặng mình một bữa tối trong nhà hàng, một kiểu đầu hiện đại, chí ít thì cũng là một cái gì đó đẹp đẹp như đi bộ dài theo dọc con phố mà bạn thích. Vào ngày 21, hãy chuẩn bị cho mình để đón trào một ngày tràn đầy lãng mạn. Cho đến ngày 25 bạn hãy thử làm cuộc thí nghiệm cho cuộc sống (hãy hoãn việc đi ngủ sớm và thử sức với một cuốn sách hay hay đi đến một sàn nhảy chẳng hạn). Vào ngày 28 và 29 bạn đã từng bị cô đơn và lo sợ mình sẽ quay trở lại với cảm giác đó? Hãy đương đầu với chúng và khi đó bạn sẽ nhận ra rằng chính sự cô đơn đang sợ mình. * SONG NGƯ February 19-March 20Nếu như không biết bao nhiêu lần đã có vấn đề xảy ra do sự cộng tác của bạn với một ai đó vào ngày 1 thì hầu như chắc chắn đây là dấu hiệu để bạn phải mặt đối mặt với mọi thứ. Đó là một sự cộng tác lâu bền chính vì vậy bạn phải làm việc vì nó. Và mối quan hệ này thực sự phải tồn tại lâu dài thì bạn hãy cắt đứt mọi vấn đề. Vào ngày 5 và 6, hãy cảnh giác, ai đó có thể gây tổn thương đến bạn và trái tim của bạn chính vì vậy bạn hãy lập hàng rào để bảo vệ chính mình. Vào ngày 9, sự ảnh hưởng của một người bạn sẽ làm cho bạn phải đề phòng, thâm chí nếu họ đề nghị giúp đỡ bạn vượt qua tình trạng khó khăn. Có thể bạn phải tìm hiểu thêm về họ và đánh giá đúng. Vào ngày 13 và 14 là những ngày thật thích hợp để thay đổi và thích hợp cho cả sự tìm hiểu bản ngã. Hãy lên những phương pháp thật thú vị và không gây nhàm chán. Vào ngày 16, một câu hỏi khó hiểu sẽ đến với bạn, và nếu có ai đó có thể giải thích được nó thì bạn hãy để cho người ta giải thích. Vào ngày 21 nếu bạn cảm thấy bị chôn vùi bởi cái gì đó hãy cố gắng bước ra khỏi nó và làm một việc gì đó có thể coi là tốt cho mình, ví dụ như đi tập yoga, đi bơi, chìm vào một giấc ngủ ngắn. Hãy ăn tối với những món ăn ngon và bổ dưỡng, bạn có thể ăn chay và bạn sẽ cảm thấy tốt cho sau này. Ngày 25 tiêu điểm của bạn là công việc. Ngày 30, hãy dừng chân vì ở đó có sự vui vẻ và hạnh phúc với nửa kia của bạn, và tất nhiên bạn không hề muốn thoát khỏi nó. Huyentt - (Theo Astrology)*
  2. Trai khôn tìm vợ chợ đông , Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân , Somenhanbai hồng loan chốn này thì không lo ê sắc đâu , cứ nhắm vào avatar mà chọn thí nào cũng...... nhầm hì hì hì :) :) ! ! ! , diễn đàn này còn nhiều trang nam tử đi về lẽ loi lắm đấy ! Hay là nhờ Chú Thiên sứ sẽ ra quẻ KINH XÍCH KHẨU ngay í mà .
  3. Qua đề tài PHỞ , Wild tình cờ đọc bài này Post lên ACE cùng đọc. Ngoại giao “phở” tại xứ sở của phở 18/08/2008 10:19 (GMT + 7) Trong ngoại giao có rất nhiều mưu kế: bóng bàn, gấu trúc, âm nhạc kể cả bom nguyên tử. Và gần đây có cả ngoại giao “phở” tại Hà Nội. Bom đạn chỉ dọa được ai nhát gan. Nhưng dùng kế “văn hóa” như âm nhạc hay cả bát phở nhẹ nhàng lại rất thành công trong các mối bang giao Và "ngoại giao Phở" ở Hà Nội Ngoại trưởng Úc Stephen Smith tự tay làm phở và thưởng thức phở Hà Nội Ở Hà Nội, chúng ta bàn tán đến ngoại giao “phở". Mấy tháng trước, không hiểu duyên cớ nào mà Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Úc lại có hứng vào quán Phở 24 để tự làm một tô phở rồi thưởng thức làm dân Hà thành được dịp ngạc nhiên đến thú vị. Về phở ngon như thế nào, xin giới thiệu bạn đọc tìm sách của Thạch Lam, Tô Hoài hay Nguyễn Tuân để tham khảo. Dám chắc, bạn đọc xong dù không muốn ăn phở cũng phải đi tìm bằng được để thử. Nào là, vào một sáng mùa thu lành lạnh, bạn sà váo quán phở. Thấy ông chủ cởi trần trùng trục bên nồi nước dùng trong vắt sôi sùng sục, thịt bò thăn thái mỏng nhúng qua, bánh phở mềm và thêm chút hành. Chao ơi, chỉ cần hít hơi cũng thấy ngon rồi. Tôi cũng đã thử Phở 24 ở Sydney, Jakarta và Hà Nội. Thử cả Phở 75 bên Washington DC rồi phở Hà Tây ở Eden (Virginia, Hoa Kỳ) kể cả phở bò không tên ở Dili (Đông Timor). Thú thật, tôi thấy các loại phở đó đã Tây hoá nhiều để cho hợp với gu của dân bản địa, không thể so được với phở Hà Nội. Dân ta đi nước nào cũng tìm phở. Hễ đến thành phố bạn là chân ướt chân ráo đi tìm địa chỉ phở. Có đoàn cán bộ của Việt Nam sang New York công tác. Mấy anh chị trong Sứ quán ta tại Washington DC chở nồi niêu xoong chảo vào khách sạn 5 sao để nấu phở cho các vị khách bị jetlag (trái giờ). Bát phở ở phương trời xa cũng giúp xóa đi nỗi mệt nhọc sau chuyến bay dài mấy chục tiếng. Dân Tây cũng không kém. Lần nào anh bạn sang Việt Nam cũng bắt tôi đèo xe máy đi ăn phở cả ba bữa sáng, trưa, chiều. Không hiểu buổi tối anh ấy có ra quán phở một mình không. Ông sếp từ Washington DC sang vài ngày cũng đòi đi ăn phở hai lần dù lịch làm việc kín đặc. Ông mê Hà Nội vì buổi tối êm đềm và có chỗ đi dạo được. Ông chỉ sợ việc băng qua đường để vào...quán phở. Quay lại chuyện ông Smith làm phở. Không rõ ông Bộ trưởng định gửi một thông điệp nào cho dân Hà Nội. Việt Nam và Úc đã có quan hệ ngoại giao nên màn nấu phở của ông không liên quan gì đến mối bang giao. Có thể, ông Smith thích món này và muốn ca ngợi “quốc hồn quốc tuý” của ta. Rất lạ, dịch vụ của người Việt làm ra để cho người xứ sở Kanguroo đến marketing hộ... Nhưng ông Smith thú nhận "đây là câu chuyện về sự hợp tác thành công giữa Việt Nam và Úc. Úc giúp Việt Nam trong giáo dục và đào tạo. Sự thành công của doanh nghiệp (Phở 24) này cho thấy hiệu quả hợp tác đó". Hóa ra ông tuyên truyền cho phở 24 của anh chàng người Việt và nền giáo dục đào tạo của nước ông. Có thể còn nhiều thông điệp ngầm trong tô phở nóng sốt của ông gửi cho nhân dân ta và kể cả lãnh đạo Việt Nam mà tôi thì chịu không đoán ra. Ông rất hiểu thành ngữ của Việt Nam "muốn ăn thì lăn vào bếp". Nếu không tự tay làm lấy thì khó thuyết phục với ai rằng làm ra bát phở ngon là một nghệ thuật. Để nâng phở lên tầm ẩm thực quốc tế thì người lãnh đạo cao cấp cần hiểu biết một chút mới có thể tạo ra động lực cho sự phát triển. Cái món phở "vừa thổi vừa húp" đối với dân ta quen quá. Nhưng với khách du lịch hay người phương xa tới Hà Nội lại thuộc vào loại "văn hoá ẩm thực". Đã thuộc vào đẳng cấp thì giá có đắt một chút người ta vẫn thích. Một bí mật nho nhỏ ấy mà ít người trong kinh doanh ăn uống hiểu ra. Dân ta lại thích cái gì cũng "tây tây" như cafe, kem cốc, bánh mỳ kẹp thịt hay bar rượu trong khi Tây sang Việt Nam chỉ thích đồ "ta ta" như phở, bún hay nem rán. Một "tâm hồn Phở" Hà Nội bị lãng quên? Ngoại giao Phở Hà Nội Chợt nghĩ, có những thứ như bát phở mình ăn hàng ngày nhưng ta lại thờ ơ và đôi lúc chê bai là đồ "local" (địa phương). Để rồi một hôm nào đó anh chàng nào đó từ phương xa quay về và làm ra một thương hiệu phở quốc tế thì những ông Phở Thìn hay Yết Kiêu mới giật mình. Chợt nhớ đến bài thơ của ai đó "Có những lúc trên đường đời tấp nập//Ta vô tình đi lướt qua nhau//Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất//Một tâm hồn ta đã đợi từ lâu". Một “tâm hồn phở” Hà Nội đang bị “vô tình” sang tên cho một kiều dân Úc. Hương vị phở 75 cực kỳ nổi tiếng ở thủ đô Hoa Kỳ. Thiết nghĩ, còn nhiều thương hiệu khác quanh ta cũng đang mất dần vào những doanh nhân láu cá nước ngoài. Cuối cùng, dân ta trả tiền để mua bản quyền của chính dân tộc mình. Đáng lẽ ra, người có bản quyền phải được "ngồi mát ăn bát vàng". Chuyện ngoại giao “phở” của ông Smith đạt đẳng cấp quốc tế về marketing dịch vụ của người Úc. Ông đến quê hương của phở để nấu phở cho dân Hà Nội thưởng thức. Ước mong các nhà ngoại giao đi xứ người, ngoài những sứ mệnh ngoại giao quan trọng, trong cặp có thêm những tri thức giầu có về văn hóa và marketing như ông Smith đã làm tại Hà Nội. Hiệu Minh (Washington DC) nguồn tuanvietnamnet
  4. Hồn Phố 24/08/2008 10:14 (GMT + 7) “Hà Nội nhắc nhở chúng ta rằng sự vĩnh cửu dựa trên từng nét nhất thời. Rằng tâm hồn được thể hiện rõ nét nhất thông qua những phương tiện thường nhật, giản dị. Nếp sống ấy đã trở thành nét văn hoá, còn được gọi là "Hồn Phố"... “Cái cần bảo tồn nơi đây không phải là bảo tồn những ngôi nhà mà là lối sống" – Wiliam Logan Hồ Gươm - Hồn Phố (Ảnh nguồn: flickr.com) 1. Bạn tôi, một tiến sĩ kiến trúc, người gốc Hà Nội, chuyên nghiên cứu về hình thái học đô thị. Thời gian gần đây anh thường được mời đọc tham luận tại nhiều hội thảo khoa học về quy hoạch đô thị ở trong nước và cả ngoài nước. Quen biết nhau đã lâu, lại cùng là kiến trúc sư nên tôi hiểu anh khá rõ. Tôi quý anh ở cách nghĩ, cách sống. Với bạn bè thì hết lòng, với công việc thì nghiêm túc, cẩn trọng và rất trung thực. Trong thời buổi này, người như anh không phải là nhiều. Cùng với vài người bạn, chúng tôi hay ngồi đàm đạo với nhau về chuyện nghề, về kiến trúc. Trong những cuộc trà dư tửu hậu này bao giờ anh cũng là người nói say sưa nhất. Theo anh, đô thị như một cơ thể sống, nó cũng phải thích nghi với các yếu tố tác động để có thể tồn tại theo thời gian. Vì thế, để đô thị phát triển bền vững trong quá trình đô thị hóa, thì người làm quy hoạch, người quản lý quy hoạch phải biết hình thái đô thị sẽ phát triển ra sao, như thế nào trong môi trường cảnh quan, thiên nhiên mà nó sinh ra, tồn tại… Không hiểu được đô thị, không nhận diện được nó, thì làm sao tìm ra được bản sắc riêng cho từng đô thị. Đồng ý với rằng, muốn “nhận diện" được thì phải “hiểu". Nhưng để hiểu được đầy đủ sâu sắc một đô thị, miền đất nơi sinh ra đô thị ấy lại là vấn đề khác. Từ rất lâu nay, do hoàn cảnh của đất nước, chúng ta đã quá quen với cách làm quy hoạch trên làm cho dưới, trung ương làm cho địa phương. Người ngồi ở Hà Nội vẽ quy hoạch đô thị cho tỉnh miền núi. Hiểu hời hợt, nên vẽ cũng hời hợt. Vì thế vẽ xong được một thời gian thấy không phù hợp thì lại điều chỉnh (?!). Thế nên mới có chuyện, nhiều thị xã kiểu như Điện Biên (giờ là thành phố) vốn chẳng giàu có gì, nhưng một thời gian dài hăm hở bỏ tiền của, sức người bạt đồi, xẻ núi cho phẳng để xây nhà chia lô như các đô thị dưới xuôi. Có lẽ vì thế chăng mà gần đây, nơi này nơi kia rộ lên câu chuyện mời người nơi khác đến hội thảo, để họ giúp nhìn hộ xem đô thị của mình nó là cái loại gì. Thời dân chủ, cập nhật thông tin, trọng dụng người hiền tài là rất quý. Nhưng là người trong cuộc, là dân bản địa mà không có chính kiến riêng, không tư duy cảm nhận được cái hình thái đặc trưng của nơi mình đang sống thì quả là đáng tiếc! Chính vì vậy, mà bạn tôi cùng vài chuyên gia khác ở Hà Nội giờ luôn tất bật (do được mời) đi nhận diện đô thị ở những đâu đâu, từ miền Trung lên tít miền ngược. Thôi cũng mừng cho anh vì có đất mà dụng võ (?!). Tôi không nghiên cứu sâu về đô thị học nên không có tham vọng khi viết về một lĩnh vực đa ngành và quá rộng này. Nếu có, thì chỉ là những gì rất bé nhỏ, vụn vặt, đời thường mà tôi chắt chiu cảm nhận được ở Hà Nội, thành phố thân yêu nơi tôi đã lớn lên và đi qua quá nửa cuộc đời. Nhà văn Băng Sơn trong tập tùy bút “Cái thú lang thang" mà ông tặng tôi, khi nói về hồn dân tộc đã khẳng định: “Lục bát ca dao, lục bát thơ, lục bát dân ca … là tâm hồn dân tộc … nó còn thì dân tộc này còn". Đấy là ông đang nói về một phạm trù rộng lớn về văn hóa, về đất nước, về dân tộc. Còn Dominique Delaunay, một học giả người Pháp nghiên cứu về Hà Nội thì có cái nhìn khiêm tốn hơn: “Hà Nội nhắc nhở chúng ta rằng sự vĩnh cửu dựa trên những cái nhất thời. Rằng tâm hồn được thể hiện rõ nét nhất thông qua những phương tiện thường nhật, giản dị". Tôi tán đồng với vị học giả này. Nguồn: Vũ Minh Châu"s blog 2. Cuối những năm 50 và 60 của thế kỷ trước, gia đình tôi sống trên tầng hai một ngôi nhà có kiến trúc kiểu Pháp ở phố Trần Phú, ngay sát đường tầu hỏa, ngày cũng như đêm chẳng mấy khi vắng tiếng còi tầu hú. Khi ấy, tôi mới 10 tuổi, nhưng đã tự đi học một mình, dù trường ở khá xa tận phố Nguyễn Thái Học, cạnh Nhà in Xuân Thu. Cái phố tôi ở là phố cũ, toàn nhà biệt thự và công sở nên yên tĩnh lắm. Chỉ đoạn phố ngắn phía đường tầu hỏa có nhà tôi,giáp đường Phùng Hưng nhìn sang phố Hàng Da, chếch ra Hàng Bông là nhộn nhịp đôi chút vì có hoạt động thương mại. Đường Trần Phú là đường trồng sấu. Những cây sấu đại thụ có đến trăm tuổi thân xù xì,gốc to hai người ôm, vỏ đen nhánh, tán rợp xum xuê. Mùa hoa sấu cả phố như được ướp hương. Hương hoa sấu nhẹ nhàng tinh khiết, chứ không nồng như hoa sữa. Cứ mỗi buổi sáng vào mùa hoa là đường phố như phủ trắng những bông sấu bé li ti … Những đêm hè khó ngủ, tôi thường được bà cho ra ngồi hóng mát ở ban công nhìn xuống đường. Trong tiếng xào xạc của những nhành lá sấu là tiếng gậy khua đều đều:” Lốc cốc … lốc cốc. “ của ông già mù tẩm quất, với tiếng rao khàn khàn, khê nồng, trầm đục: "Quất ơ …ơ.” Trông thấy ông là tôi sợ, không hiểu sao, nhưng tôi lại thích nghe tiếng rao của ông. Bà tôi bảo lão mù thế mà tẩm hay lắm. Tay lão động vào đâu là xương cốt kêu rưng rức. Bẵng đi một thời gian, tôi không còn nghe thấy tiếng: "Quất …ơ …ơ.” ấy nữa. Đêm hè, cái phố như rộng ra vì thiếu tiếng gậy khua lốc cốc! Nghe bà bảo lão chết rồi, cô đơn sau một trận cảm gió. Đêm Hà Nội (Nguồn: Nguồn: Vũ Minh Châu"s blog) Rồi những đêm đông, ngoài đường vắng lặng, chỉ có tiếng gió đuổi nhau ào ào … trên từng rặng sấu, bỗng da diết trên phố dài hun hút một tiếng rao con gaí khắc khoải gọi mời: "Ai khúc ơ … khúc ơ! “. Thi thoảng tôi cũng được bà lấy ra đồng năm xu mua cho một cái bánh khúc nóng hổi ngoài phủ lớp xôi nếp trắng tinh. Năm tháng trôi đi, tôi cũng dần lớn khôn và vào học trong Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi rồi sang Trung Quốc. Gia đình tôi cũng đã chuyển nhà không ở phố Trần Phú nữa … Thế nhưng, những kỷ niệm nho nhỏ về đường phố thơm mát mùi hoa sấu này, cùng những tiếng rao đêm cứ ngày càng sâu đậm trong tôi. Bây giờ đã qua cái tuổi tri thiên mệnh, yên phận với cuộc đời, với một mái nhà giản dị của riêng mình trong con ngõ nhỏ đầu phố Kim Ngưu, tôi vẫn thường lang thang trên những con phố thân quen của Hà Nội mỗi khi rảnh rỗi, như để tìm lại kỷ niệm một thời của mình. cách nhìn khác. Với tôi, giờ chỉ thích nhìn ngang, bởi nhìn lên cao lại thấy tức mắt, vì sự lộn xộn vô lối của thứ kiến trúc thời mở cửa. Những đường dây điện, điện thoại … chằng chịt, những dàn ăng ten tua tủa như chọc nát bầu trời. Nhìn xuống thấp một chút là mê hồn trận biển quảng cáo chữ tây to hơn chữ ta, cái dựng đứng, cái nằm ngang … mầu sắc chói chang rực rỡ. Thế nhưng nếu quên đi cái tầm cao ấy, chỉ nhìn ngang thôi, hay nhìn xuống, ta lại như được sống trong cái thế giới thực của mình. Những con phố của Hà Nội xưa vẫn thế, chẳng to ra mà cũng chẳng bé đi. Cái mạng lưới đường ô cờ mà người Pháp vạch ra đầu thế kỷ trước vẫn như thế, cho dù đường đã được trải nhựa thêm bao lần, vỉa hè đã được đào lên lấp xuống bao lần để đặt đường ống thoát nước… Và trên tất cả, nhịp sống, nhịp sống sôi động của khu Kẻ chợ xưa vẫn còn hiển hiện đâu đây. Đường phố vẫn ồn ào từ sáng sớm đến đêm khuya. Đi trong phố Hàng, ta vẫn bắt gặp những người phụ nữ của Tú Xương đi bán dạo, từ nồi bắp ngô luộc, khoai luộc đến xôi vò, chè đường … Cuộc sống là vĩnh cửu, con ngươi ở đây sống và hoạt động hồn nhiên như tự thân nó phải thế. Đi trên phố cổ Hà Nội, ta có thể rất dễ dàng ngồi vào một góc nào đấy trong nhà, hay ngoài vỉa hè để mà nhấm nháp ly cà phê đặc sánh hay thưởng thức một chén rượu Vân chính hiệu với mực nướng than hoa chấm tương ớt. Bây giờ Hà Nội đổi thay nhiều, cách sống, lối sống cũng nhiều thay đổi. Đó là quy luật. Nhưng hình như có một sự bảo thủ đến kỳ lạ, là lối sống ở khu phố cổ hầu như it biến đổi. Cái ồn ào náo nhiệt ở đây ít nơi nào trong thành phố này có được. Dẫu kiến trúc hiện hữu của khu phố chẳng còn mấy cái là cổ, nhưng không gian đô thị cổ, lối sống của một thời Kẻ chợ vẫn còn rõ nét lắm, sống động lắm. Giáo sư người Đức Arnold Koerte khi nghiên cứu hoạt động xã hội của khu phố cổ đã phải thốt lên: “Thành phố này không cần đến bất cứ một mẹo vặt nào để tái tạo lịch sử …”. Rồi ông khôi hài dẫn một câu của Chua Beng Huat – Giáo sư Trường đại học Singapore: “Một ngày nào đó có thể chúng ta sẽ phải trả tiền cho những con người trên đường phố này để hàng ngày họ tái hiện lịch sử.” Xin cám ơn tình cảm của ông với khu phố cổ Hà Nội. Nhưng thưa ông, tại khu phố cổ này người dân chúng tôi vẫn sống, vẫn sinh hoạt và buôn bán cũng chẳng phải là để tái hiện lại lịch sử đâu, mà đơn giản chỉ là cách sống ấy, nếp sống ấy đã trở thành truyền thống, trở thành nét văn hóa của người Tràng An hôm nay rồi. Còn tôi, tôi gọi đó là “Hồn phố". Quán cafe Hà Nội (Nguồn: Mr.Lee"s blog) 3. Sáng Chủ nhật, trời se lạnh và hanh hao nắng. Tôi ngồi bên ly cà phê đặc sánh trong quán cafe quen trên đường Bà Triệu cùng một người bạn. Tôi đưa anh xem bài viết của tôi loanh quanh về vấn đề đô thị. Đọc xong anh khen, nhưng bỗng anh nhướng mắt hỏi: “Này ông, có Hồn quê, Hồn phố, thế có Hồn khu đô thị mới không?" Tôi hơi ngớ ra, rồi cười xòa... Chợt vang lên đâu đây giọng ca trầm ấm đến nao lòng của ca sỹ Trung Đức: “Ngõ nhỏ, phố nhỏ nhà tôi ở đó / Đêm lặng nghe trong gió tiếng sông Hồng thở than …!". Ngoài kia vẫn nắng hanh hao và dòng người xe một chiều vẫn không ngừng tuôn chảy... Hà Nội, năm thứ 998 sau ngày định đô. Bạn đọc, KTS Phạm Thanh Tùng (Hà Nội) (nguồn tuanvietnamnet)
  5. Một bài hay cho Phong Thủy Địa Lý có liên quan đến phước phần gia chủ , thế nên chả biết gặp Thầy giỏi hoặc dỡ , ta xét phước mệnh gia đình mình có ? không ?, đã vậy còn có sự khác biệt của Phong Thủy Tàu và PT Lạc Việt nữa , Con người ta phải nhận rõ ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ và ĐỊNH MỆNH có thật trong đời .
  6. Bố trí chỗ tập thể dục 14:58:10, 21/08/2008 Ngày nay kiểu nhà ống phân lô chật hẹp khó có chỗ tập thể dục thoải mái tại nhà. Thực chất, không gian để rèn luyện thân thể rất quan trọng và góp phần cải thiện đáng kể trường khí cho dương trạch nếu biết cách bố trí hợp lý. • Tọa hung hướng cát Nguyên lý này không chỉ dùng cho bếp, phòng ngủ... mà còn đắc dụng khi xếp đặt chỗ tập thể dục. Tọa hung là để lại phía sau (dựa lưng vào) các thành phần xấu như nhà vệ sinh, kho, hoặc phương hướng xấu như hướng Tây, Tây Bắc. Hướng cát là mở ra những không gian tốt như minh đường trước nhà, cây xanh hồ nước... cũng như các hướng tốt nhằm đón nhận sinh khí (hình 1). Cụ thể, hướng cát tường để đặt nơi tập thể dục theo thời điểm trong một ngày là Đông và Nam cho buổi sáng, Tây và Bắc cho buổi chiều tối, tương ứng với vận động của mặt trời, nắng, gió... Ban-công hay giếng trời cũng nên tận dụng, miễn là đủ khoảng rộng để thoải mái thao tác lúc tập thể dục. • Lưu ý trường khí chuyển tiếp Không nên xếp đặt nơi tập thể dục quá trống trải hoặc quá khép kín. Trống trải thì dễ tán khí, ngược lại khép kín làm cho hãm khí, đều không tốt. Buổi sớm, khi từ không gian tĩnh-nội của phòng ngủ chuyển sang không gian động-ngoại của nơi tập thể dục, nếu không có vùng chuyển tiếp sẽ dễ gây ra biến đổi đột ngột, có hại cho sức khỏe. Do vậy, chỗ tập thể dục nên có mái che một phần hoặc toàn phần, vào mùa mưa vẫn có thể tập luyện bình thường (hình 2). Cũng nên tạo khoảng nhìn thoáng đãng hay cửa sổ rộng, trông ra được các cảnh quan đẹp để dưỡng thần và thư giãn hiệu quả. Nếu tầm nhìn bị xấu hoặc bị công trình lân cận che lấp, cần trồng thêm cây xanh để tăng cường dưỡng khí và tạo tiền cảnh lân cận. Tuy nhiên đừng biến chỗ tập thể dục thành vườn cảnh vì trường khí hai chỗ này tĩnh động khác nhau, đồng thời chỗ tập thể dục cần thật phẳng và thoáng, không vướng víu chậu kiểng hoặc lồi lõm rễ cây. Có thể lát nền bằng vật liệu đồng nhất và bền chắc (đá, gạch, sỏi...) tránh dùng các vật liệu thiếu ổn định hoặc trơn trượt (hình 3). Phòng vệ sinh nhỏ nên bố trí bên cạnh chỗ tập cho tiện sử dụng sau khi tập. KTS Hà anh Tuấn nguồn thanhnienonline
  7. Thứ Sáu, 22/08/2008 - 3:12 PM Vừng - Vị thuốc "trường sinh" Vừng là thức ăn thường dùng, quen thuộc. Trong các cuốn sách Đông y các thời đại thì vừng được gọi là vị thuốc kéo dài tuổi thọ. Các nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng trong vừng có chứa rất nhiều các chất chống lão hóa như vitamin E...; có các chất mà cơ thể cần như protein, chất béo, đường, khoáng chất, có các chất phòng chống bệnh xơ cứng động mạch như axit béo không bão hòa, vitamin PP, vitamin B1, những thứ này đều là cơ sở cho việc kéo dài tuổi thọ. Vừng có tác dụng bổ não dưỡng sinh Do vừng có chứa nhiều chất chống lão hóa, bổ não, tăng cường trí lực, lại chứa nhiều axit béo không bão hòa có thể phòng bệnh xơ cứng động mạch, bởi vậy nó có tác dụng bổ não dưỡng sinh rất tốt. Các bài thuốc người trung niên và người già có thể dùng để bổ não chống lão hóa. Nếu thanh thiếu niên do học hành căng thẳng, não lực mệt mỏi, hay đau đầu, giảm trí nhớ có thể dùng: - Đem vừng sao thơm, khi sao cho vào ít muối, ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 30g. - Lấy 30g vừng, 60g gạo tẻ, cho nước ninh thành cháo, ăn một lần một ngày. - Lấy quả dâu khô và vừng với lượng bằng nhau nghiền từng thứ thành bột, trộn đều, mỗi lần lấy một thìa trộn với một thìa mật ong, pha với nước sôi uống. Vừng với tác dụng trị táo bón Vừng có chứa chất dầu có tác dụng nhuận tràng dễ đại tiện, lại bổ nên phù hợp với những người đại tiện táo hoặc khô do âm tân khí huyết hư tổn. Các bài thuốc dùng vừng để nhuận táo dễ đại tiện: Bài 1: Dùng 90g vừng đen, 20g hạnh nhân ngọt, 90g gạo tẻ, ba vị này đổ nước vào ngâm cho nở ra rồi đem nghiền nát, đun chín, cho ít đường, chia làm 2 lần ăn trong ngày. Bài 2: Lấy 30g vừng đen, 60g hạnh đào, cả hai thứ đem giã nát, mỗi ngày lấy một thìa, pha vào nước sôi, cho thêm ít mật ong, quấy đều uống vào sáng sớm. Bài 3: Đem sao vừng đen, lá dâu (hai thứ lượng bằng nhau), rồi nghiền thành bột, mỗi lần ăn 3 thìa, ngày 2-3 lần. Dùng vừng trị chứng thiếu sữa Vừng có tác dụng thông sữa, trị chứng thiếu sữa. Vừng vị tính bình hòa, tác dụng bổ gan thận, bổ dưỡng tinh huyết, nên có tác dụng bổ dưỡng cho sản phụ bị tinh huyết hư tổn, thiếu sữa. Bài thuốc kinh nghiệm là lấy 30g vừng giã nhỏ, 10g tằm khô nghiền bột, cho ít đường đỏ vào trộn đều, hãm nước sôi, đậy kín khoảng 10 phút thì uống một lần cho hết, ngày uống một lần vào lúc đói. Theo BS. Thanh Quý Sức khoẻ & Đời sống
  8. Thứ Sáu, 22/08/2008 - 2:19 PM Chùm ảnh: Thăm giếng nước kỳ lạ nhất thế giới (Dân trí) - Sâu 30m với 13 tầng và 3.500 bậc thang, giếng Chand Baori ở làng Abhaneri gần Jaipur, bang Rajasthan, Ấn Độ được cho là giếng nước kỳ lạ nhất thế giới. Được xây dựng từ thế kỷ thứ 9, giếng nước Chand Baori là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho toàn bộ sinh hoạt của người dân ở khu vực này. Chính khí hậu khô cằn và khắc nghiệt nơi đây đã buộc người dân địa phương phải tìm cho mình một nguồn sống bằng cách tự đào một cái giếng lớn và rất sâu mới có thể bắt được mạch nước ngầm để sử dụng quanh năm. Chính khí hậu khô cằn và khắc nghiệt nơi đây đã buộc người dân địa phương phải tìm cho mình một nguồn sống bằng cách tự đào một cái giếng lớn và rất sâu mới có thể bắt được mạch nước ngầm để sử dụng quanh năm. Những người dân ở đây kể rằng, lịch sử hình thành của chiếc giếng này được gắn liền với một truyền thuyết kỳ lạ. Theo đó, chính ma quỷ đã xây dựng giúp họ chiếc giếng này chỉ trong vòng một đêm. Cũng theo những câu chuyện truyền miệng, sở dĩ giếng có nhiều bậc như vậy là để ngăn cản con người lấy những đồng xu được ném xuống để cầu may. Giếng Chand Baori nằm đối diện đền Harshat Mata và là một trong những giếng bậc thang sâu nhất và lớn nhất Ấn Độ. [ Anh Nguyễn Theo Crack nguồn dantri.com
  9. chip chip ! hình như là đường Bùi Đình Túy Q Bình Thạnh . Ngay nhà thờ Thánh mẫu . đi vào độ 100m có nhà thu mua Phế liệu hỏi thăm nhà Anh Chấu .
  10. Những đạo luật kỳ lạ nhất thế giới Chú rể và cô dâu Colombia phải làm chuyện ấy trước mặt mẹ, cô bán cá được phép để hở ngực ở một thành phố của Anh. Dưới đây là một số đạo luật kỳ quái nhất thế giới. Ở Ảrập Xêút, hôn người lạ là trái pháp luật. Tại thành phố Cali, lớn thứ ba Colombia, mẹ vợ phải chứng kiến đêm động phòng của con rể và con gái bà. Ở London, Anh, vẫy taxi khi bạn mang bệnh dịch là phạm pháp. Singapore nghiêm cấm bán kẹo caosu . Ở Anh, nếu một người muốn đi tiểu nơi công cộng, anh ta phải "nhắm" vào bánh lái phía sau và đặt tay phải Ở thành phố New York, Mỹ, mở hay gập ô khi có một con ngựa ở quanh đó là trái pháp luật. Cô gái bán hàng ở thành phố Liverpool, Anh, được phép để ngực trần nếu cô làm việc cho một cửa hàng bán cá . Luật lệ của Thái Lan cấm việc ra khỏi nhà mà không mặc quần lót. Ở Israel, ngoáy mũi vào ngày thứ 7 bị cấm hoàn toàn. Mai Trang (theo Reuters) nguồn vnexpress.net
  11. Con cá ước mơ TTCT - Chạy chữa đã hai năm, nhà lâm cảnh nghèo túng cùng cực, nhưng phổi bà Lâm - vợ lão Túc - vẫn ung thư tan tành. Tử thần lừng lững trước mặt, không gì ngăn được. Lúc này, lão Túc tựa cửa nhìn ra xa. Kia, nhà ông Bảy Nhu, ông Sáu Giáp. Kìa, nhà bà Rớt, nhà ông Thính... láng giềng cách vài đám ruộng mà lão thấy xa lắc. Phải. Họ cách xa lắm, bởi lão đã đo khoảng cách bằng đơn vị “tiền”, đã đo bằng đơn vị “hạnh phúc”. Người ta rầm rầm tiến lên, nụ cười trên môi. Lão sụp xuống vực với nước mắt. Lão Túc quay vào nhìn vợ. Nom bà ấy như cái que khô ai đó vất lên mặt chiếu tồi tàn. Một que khô dáng hình nhân. Lão chép miệng. Cái chép miệng tự phát không kìm được. Tiếng chép miệng khô khốc, đục, ngắn ngủn và dứt khoát buồn. Tiếng chép miệng không lẫn với bất kỳ âm thanh nào, ngoại trừ tiếng chép miệng loài lươn. Ừ, loài lươn trong bùn vẫn chép miệng như thế vào lúc hoàng hôn. Lão Túc lại quay nhìn bên ngoài. Lão không dám nhìn vợ lâu hơn. Nhìn lâu, lão nhất định sẽ thấy cái que khô ấy phực cháy, bùng lên ngọn lửa xanh tím. Đã nhiều lần nhìn vợ, lão thấy ngọn lửa ấy rồi. “Lửa xanh tím - lão vẫn nghĩ - đó là lửa thần thức đang lìa khỏi xác, lửa bàn giao Thần Chết. Lửa ấy, như sư Bản nói, sẽ tiến vào không trung vô tận, đi tìm nơi ở mới, bỏ cái xác hư nát nằm lại. “Đột ngột, lão rít lên nho nhỏ trong cổ họng: “Đồ phản chủ. Hèn mạt. Nhà nát, mày cuốn gói đi à?”. Lão mím chặt môi, ánh mắt bắt gặp khóm hoa mẫu đơn. Lão chong mắt vào đóa hoa to nhất. Ngay lúc này, tiếng chuông của Hương Trì Tự vang lên, ngân chật không gian. Tiếng chuông lan tỏa vô số vòng sóng, vút cao cả ngàn cánh bay. Ừ, đã năm giờ chiều. Sư Bản vừa công phu. Trong một thoáng, lão thấy đóa mẫu đơn chao qua chao lại, mặc dù trời không tí gió. Hoa rung động theo tiếng chuông ư? Một sinh linh ư? Có thể lắm. Nếu không, hoa làm sao lớn lên, khoe sắc, úa tàn. Lão vẫn chong mắt vào đóa mẫu đơn. Lão biết sư Bản phải đánh đủ 108 tiếng chuông, bởi xâu chuỗi Bồ Đề của sư Bản 108 hột. Còn lâu mới hết tiếng chuông. Một tiếng chuông nữa lại vang lên, tiếp sức cho tiếng chuông vừa đuối. Trong không gian không ngớt tiếng chuông. Lạ thật, trong một thoáng lão thấy sư Bản chờn vờn trên đóa hoa. Đóa hoa lập tức nhòe đi... Lão thấy mình trò chuyện cùng sư Bản trong một màn sương. Cả hai nhấp nhô trên sóng chuông chùa. Lão nghe tiếng nói mình phát ra im lặng: Cuộc sống con người giằng co bởi hai lẽ: sống theo ước muốn và sống thuận theo tự nhiên. Một khi ước muốn - cái phần áp đặt bởi con người - dâng lên bao nhiêu thì cái phần thuận theo tự nhiên xẹp xuống bấy nhiêu. Trong câu chuyện này, một con cá cho người chết là cái phần ước muốn thô. Một cái răng sắp rụng “súc miệng sẽ văng ra thôi” là cái lẽ thuận theo tự nhiên thô. Còn đây là cái phần tinh của chuyện nhổ răng “không có bàn tay của con người là không chảy máu, không đau”. Cái phần tinh của con cá mơ ước là phần lớn những gì tâm tưởng muốn thường không bắt được. Tóm lại trong câu chuyện này, có quá nhiều ước muốn nhưng lại ít có điều gì xảy ra một cách thuận theo tự nhiên. Ngay cả tiếng chuông chùa, cái phần thong thả nhất thì mỗi lần vang lên lại dâng trong lòng người đàn ông những vọng tưởng mới. Bà già sắp chết cũng góp phần vào vọng tưởng này, có vẻ “thoi thóp sống thêm là nhờ tiếng chuông”. Trân trọng giới thiệu bạn đọc một truyện ngắn hay nếu bạn chịu khó bước qua hai “khó chịu”: 1, cái tựa truyện chán phèo không muốn đọc và 2, không có gì cách tân ở đây. NGUYỄN NGỌC THUẦN “Tại sao sư không nhổ chiếc răng xiêu vẹo ấy đi?”. Lão nghe tiếng sư Bản trả lời: “Nhổ mà làm gì? Một sáng đẹp trời nào đấy, tôi súc miệng, nó văng ra thôi. Không có bàn tay con người là không chảy máu, không đau”. Nói xong, sư Bản cười. Hơi gió tuôn ra làm rung rinh chiếc răng độc nhất. Một chiếc răng không bạn bè, trông quá cô đơn. Lão Túc lại nghe tiếng mình phát ra: “Sư sợ chết không?”. Sư Bản lại cười. Sư cười hoài. Nụ cười thoáng hư vô, ảo ảnh: “Nhờ chết, ta mới biết sống. Sao lại sợ?”. Lão Túc nghe mình nín thinh. Lão thấy mình bé lại. Sư Bản hỏi: “Chị nhà dạo này ra sao?”. “Mong manh lắm”. “Mệnh mỏng, đừng buồn”. Lão Túc nghe mình nói thêm: “Mỏng hơn dao lam”. Sư Bản cũng lại nói thêm: “Ừ, nhưng ông đừng lấy lam ấy để cứa mình”. Lão lại nghe mình nín thinh. Một tiếng chuông chùa nữa lại vang âm u trong không gian. Lão lại thấy mình dùng tay sờ nắn vết chai nơi đầu gối sư Bản. Hai vết chai dày cộm, đen đủi. Đó là dấu ấn chứng minh đức kiên trì quỳ gối lâu năm của sư. Lão lại nghe tiếng hỏi của mình, vang lên im lặng như ruồi bay: “Liệu tâm sư có chai như đầu gối không?”. Tiếng trả lời của sư Bản lẫn vào tiếng chuông: “Đầu gối quỳ. Tâm không quỳ”. Lão lại nghe mình nín thinh. Lão thấy bàn tay mình sững lại, không sờ nắn vết chai ấy nữa. Lão dụi mắt, đóa mẫu đơn lại hiện ra. Một tiếng chuông nữa lại rền vang trong không gian. Lão Túc quay vào nhìn vợ nằm thiêm thiếp trên giường. Lão thấy đôi môi nhợt nhạt, khô héo của vợ vừa mỉm cười. Ồ, có lẽ bà ấy đang bồng bềnh theo tiếng chuông. Đúng là bà ấy thoi thóp sống thêm là nhờ tiếng chuông. Tiếng chuông đã dìu bà ấy trên cánh bay mỗi ngày hai lần. Tiếng chuông đã xoa dịu bà ấy vơi đau đớn lầm than. Lại một tiếng chuông nữa vang lên, đuổi theo tiếng chuông vừa đuối. Lão thấy đôi môi vợ mình lại mỉm cười. Lão ngẩng đầu lên, không dám nhìn nữa, và mắt lão gặp tấm lưới chài treo ở góc nhà. Tấm lưới chài từ lâu vẫn treo đấy không dùng. Thình lình, từ tấm lưới chài, một ảo ảnh hiện ra. Tấm lưới chài vụt bung rộng, xòe trên không, rồi chụp xuống một dòng sông. Lão thu chài, bắt được một con cá sảnh to bằng bàn tay xòe. Một loại cá vợ lão rất thích. Thích đến nỗi lúc còn khỏe mạnh, bà ấy ăn luôn cả vảy, nhai rụm cả xương. Lão dụi mắt. Ảo ảnh biến tan. Lão cau mày. Phải có con cá ấy nấu cháo loãng, cho bà ấy húp một thìa trước khi chết chứ? Một thìa thôi, cũng mãn nguyện lắm rồi. Một tiếng chuông nữa lại rền trong không gian. Tiếng chuông nghe mạnh mẽ hẳn, tiếng chuông bay vun vút. Tiếng chuông thúc giục. Lập tức, lão đến góc nhà, gỡ tấm lưới chài, vắt lên vai, bước nhanh ra cửa, xăm xăm hướng sông tre làng, quyết tìm một con cá sảnh, cho dù nhỏ bằng ngón tay cũng được. Lão băng đồng, không theo con lộ ngoằn ngoèo mất thời giờ. Một tiếng chuông nữa lại vang lên, đuổi theo lão làm bạn đồng hành. Ảo ảnh lại vùng dậy. Trước mắt lão, tấm lưới chài lại bung rộng lên không trung, mặc dù nó đang nằm yên trên vai lão. Tấm lưới chài bung trắng trời, ụp xuống một dòng sông trắng sữa. Một con cá sảnh dính vào mắt lưới giãy giụa. Từ nơi giãy giụa, nhô lên một bát cháo bốc khói. Vợ lão húp được vài thìa. Đôi môi khô héo liền dãn ra, hồng lại. Lão dụi mắt. Loạt ảo ảnh lại biến tan. Trời đã nhá nhem tối, cảnh vật biến dạng sang những hình thù kỳ dị. Đất cày vỡ trông như bầy chó mực sắp hàng. Lũy tre, cây đa như thành, như núi. Vừa đi, lão vừa thì thầm với tấm lưới chài vắt vai: “Chú trăm mắt, hãy tìm cho lão một con sảnh nhé?”. Ruộng đã cày khô, bầy chó mực lởm chởm, lão vấp ngã, tấm lưới văng ra, lão mò nhặt lại. Đột ngột, lão nghe re re một giọng kỳ lạ, mảnh mai mà quyền lực: “Ông là ai? Sao dám đi con đường trái tim?”. Lão nhíu mày: “Ừ, mình không cần trả lời, vì đấy là tiếng nói của im lặng. Ừ, nó vừa dọa mình”. Trời đã tối hẳn. Một màn đen đã hoàn tất công việc xóa nhòa. Công việc của nó chỉ thế thôi. Tiếng chuông của Hương Trì Tự cũng bỏ lão rồi. Lão cố gắng bước nhanh, cố gắng thì thầm cùng tấm lưới chài: “Chú trăm mắt, chú cố giúp lão một lần nhé?”. Chân lão vẫn bước khập khiễng qua ruộng, qua bờ... Thình lình, trước mặt lão hiện ra sừng sững một bức tường đen khổng lồ. Lão đã đến sát lũy tre mà không hay. Lão suýt nữa đi xuyên qua nó. Mũi lão nhăn nhíu đánh hơi, lão cố hít thở thật sâu, lão đi thật chậm dọc bờ tre, căng mắt nhìn xuống bờ sông tre làng. Lão cố tìm một vùng lõm. Vùng lõm bờ sông lúc nào cũng nhiều cá. Trời quá tối. Cái tối từ trời, từ đất, từ tre, từ lão, hòa vào với cái tối từ tối, làm lão ngạt thở. Không thể tìm được một vùng lõm bờ sông. Lão quyết định quăng chài ngay chỗ đang đứng. Lão dạng chân, chùng người đứng thế trung bình tấn, hai tay nắm chặt tấm lưới chài, lưng thẳng đuỗng. Lão mím môi, nói với tấm chài, nói với sông đen: “Chỗ này được đấy. Chài ơi! Sông ơi! Cố gắng nhé”. Lập tức, lão rùng người, xoạc chân ra sau, rồi vươn lên, quay tít tấm chài một vòng, tung xuống sông. Tấm chài đã bung ra như ý. Lão nghe ba tiếng “bùm”, “xào” rồi “im lặng”. Lão xoa tay, thở phào. Có lẽ chân chài đã đến đáy sông, lão kéo sợi dây chóp để thu chài. Bỗng lão sững người, lão lặng người. Tấm lưới chài như có Hà Bá níu lại. Không kéo lên được. Lão cau mày, mím môi: “Quái, thế này là thế nào?”. Lão cố kéo dây chóp, thu chài lần nữa. Vẫn không nhúc nhích. Hà Bá chôn tấm chài xuống sông rồi. Vô phúc. Thật vô phúc. Lúc này, lão quyết định cởi quần áo, xuống nước xem sao. Lão lặn xuống, quơ tay tìm kiếm. Lão gặp ngay tấm lưới chài của mình, đã gói trọn một bụi tre sập chìm dưới nước. Lão lặn men theo tấm lưới. Mắt lưới dính vào gốc tre, nước chảy nhét rối vào gai, vào cành, vô phương tháo gỡ. Có lẽ chỗ này đất bờ sông bị sập, đã vùi bụi tre xuống nước. Lão nghe rất nhiều tiếng cá quẫy. Nơi bụi tre sập này, quả là một sào huyệt cá. Ngạt thở, lão ngoi lên, vuốt nước mặt, thở hắt ra, thở hắt vào. Lão bơi lần vào bờ, cố gắng trèo lên. Lúc này, gió rông khá mạnh. Cái lạnh luôn lạnh hơn trong đêm tối, lạnh hơn trong tuyệt vọng, như được tra thêm cả trăm mũi khoan xoáy vào da thịt. Lão run bắn như động kinh. Có tiếng chó tru văng vẳng đâu đây, dưới đất, trên cao, trong gió, uất nghẹn như một nỗi bất công thật tệ, cứ trôi nổi vô bờ... Lão lật bật mặc quần áo, run rẩy không cài nút được. Lão trừng mắt nhìn vào đêm đen, xuyên qua ruộng đồng, xuyên qua xóm Ao, đột ngột lão thấy “cái que khô ai đó vất lên mặt chiếu tồi tàn” nơi nhà lão đã phực cháy, bùng lên ngọn lửa xanh tím. Ngọn lửa vút cao, sáng lòa. Một linh tính tín hiệu làm lão giật thót. Vợ lão “ra đi” trong cô đơn, không ai bên cạnh. Lão hốt hoảng. Lão chạy, lão té, lão vùng dậy, lão chạy, lão té... Cứ thế trong một đêm đen không biết có con người. Đột ngột, lão Túc dừng hẳn lại. Lão không chạy nữa. Lão không chạy nữa để bị té. Lúc này, lão cẩn thận bước đi trong đêm tối, cố gắng không cho mình ngã. Lão bình tĩnh, không còn hốt hoảng. Lão không lạnh, không cô đơn, không tuyệt vọng. Tất cả những món tầm thường ấy đã rút ra khỏi người lão. Cả cái ngọn lửa xanh tím kia cũng không còn, bởi nó chưa hề có. Cả tấm lưới chài cùng bụi tre sập cũng chưa từng có. Giờ đây, chỉ một việc duy nhất có. Đó là “hậu sự”. Phải. Lão cần cái nhà hòm tươm tất, và cả y phục cho da xương bà ấy. Nhà hòm màu đỏ. Y phục màu trắng, trắng và trắng... Truyện ngắn của NGÔ PHAN LƯU ( nguồn tuoitrechunhat )
  12. nguồn IRENE LIU - LANG VƯỜN trích dịch . Phương Pháp Cấp Cứu Trong Trường Hợp Tai Biến Mạch Máu Não Chỉ với một cây kim, ta có thể cứu được mạng người! Chỉ cần một ống tiêm thuốc (loại dùng xong rồi phế thải, bằng nhựa), hoặc một cây kim thể cứu mạng một bệnh nhân đang bị chứng tai biến mạch máu não (stroke). Việc cứu chữa thật đơn giản và dễ dàng một cách lạ lùng, nhưng có thể mang đến những kết quả cũng không kém lạ lùng và hữu hiệu. Chúng ta chỉ cần một phút để đọc tài liệu này, và các điều ghi trong tài liệu quả là những hướng dẫn tuyệt vời. Xin quí vị ghi nhớ hoặc lưu giữ tài liệu này để sẵn sàng áp dụng, vì biết đâu, một ngày nào đó, quí vị sẽ dùng đến để cứu sống mạng người. Cô Irene Liu kể chuyện: "Cha tôi bị tê liệt và chết sau đó vì ông là nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não. Ước chi tôi biết được thủ thuật này từ trước. Khi tai biến mạch máu não xảy ra, tất cả những tia huyết quản nhỏ trong não bộ sẽ từ từ vỡ ra sau đó. Khi có bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng cuống quít. Điều quan trọng nhất là ĐỪNG BAO GIỜ DI CHUYẼN NẠN NHÂN, bất kỳ là họ đang bị nạn ở đâu. Vì nếu nạn nhân bị di chuyển, các tia huyết quản trong não bộ sẽ vỡ ra. Từ từ giúp bệnh nhân ngồi thẳng dậy, và chúng ta có thể bắt đầu công việc "rút máu". Nếu quí vị có sẵn một ống tiêm thuốc, thì tốt nhất, nếu không thì một cây kim may, hay một cây kim gút, cũng có thể giúp chúng ta được. 1. Trước hết, chúng ta hơ nóng kim bằng lửa (bật lửa, đèn nến) để sát trùng, rồi dùng kim để chích trên mười đầu ngón tay. 2. Chúng ta không cần tìm một huyệt đặc biệt nào cả, chỉ cần chích vào đầu ngón tay, cách móng tay độ một ly (milimetre). 3. Chích kim vào cho đến khi có máu rỉ ra. 4. Nếu máu không chảy, nên nặn đầu ngón tay cho đến khi thấy máu nhỏ giọt. 5. Khi máu đã chảy từ cả mười đầu ngón tay, thì chờ vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh dậy. 6. Nếu mồm bệnh nhân bị méo, thì chúng ta phải nắm hai vành tai của bệnh nhân kéo mạnh, cho đến khi hai tai đều ửng màu đỏ. 7. Châm vào dái tai (ear lobe) hai mũi mỗi bên cho đến khi máu nhỏ giọt từ mỗi dái tai. Sau vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh lại. Chúng ta hãy kiên tâm chờ cho đến khi bệnh nhân hoàn toàn hồi tỉnh và không có một triệu chứng nào khác thường mới mang bệnh nhân đến bệnh viện. Vì nếu nạn nhân được chuyên chở vào bệnh viện sớm hơn. Có thể những dằn xóc của xe cứu thương sẽ làm cho các mao quản (capillaries) trong não bộ bị vỡ ra. Nếu sau khi đó mà họ còn có thể đi đứng được, thì đúng là do phúc đức của Tổ Tiên họ. Cô Liu nói tiếp: "Tôi học cách cứu chữa qua cách làm xuất huyết này từ một Đông y tên Hà Bảo Định (Ha Bu-Ting). Ngoài ra, tôi còn có cơ hội áp dụng phương pháp này nữa. Vì thế nên tôi khẳng định là phương pháp hữu hiệu 100%. Năm 1979, tôi đang dạy tại Đai học Fung-Gaap tại Đài Trung. Một buổi trưa nọ, tôi đang giảng bài trong lớp, thì một giáo sư khác chạy sổ vào lớp học của tôi, vừa thở vừa nói: "Cô Liu, đến gấp dùm, ông Giám sự của chúng ta đang bị tai biến mạch máu não". Tôi chạy lên lầu 3 ngay tức thì và thấy ông Giám sự của chúng tôi là Trần Phúc Tiên, mặt mày nhợt nhạt, tiếng nói ngọng nghịu, và mồm thì méo xệch qua một bên, ông hội đủ tất cả những triệu chứng của một người đang bị tai biến mạch máu não. Tôi bảo một người sinh viên đang thực tập tại Đại học, đến Dược phòng bên ngoài mua cho tôi một ống tiêm, và dùng kim tiêm để châm đầu mười ngón tay của ông Trần, cho đến khi mỗi đầu ngón tay có một giọt máu cỡ hạt đậu. Sau vài phút, mặt ông Trần đã nhuận sắc trở lại, và mắt ông cũng đã bắt đầu có thần. Nhưng mồm ông thì vẫn méo, nên tôi kéo hai tai ông cho đến khi hai tai đều đỏ vì máu đọng, rồi châm vào mỗi bên dái tai hai mũi để hai giọt máu tươm ra. Khi hai giọt máu hai bên dái tai được rỉ ra, một phép lạ đã xảy ra. Chỉ nội trong vòng từ 3 đến 5 phút, mồm ông ta đã từ từ trở lại hình dạng nguyên thủy, và tiếng nói của ông cũng trở lại bình thường. Chúng tôi để ông nghỉ ngơi một lúc, rồi rót cho ông một tách nước trà nóng rồi đưa ông đi đến bệnh viện Ngụy Hoa gần đó. Ông nghỉ ngơi tại bệnh viện mộtđêm, rồi hôm sau lại trở về nhiệm sở làm việc. Sau đó, mọi việc đều bình thường. Ông không có triệu chứng nào nguy hại sau đó. Trái lại, các nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não thường khó trở lại bình thường, vì các tia máu trong não bộ bị vỡ trong khi xe cứu thương di chuyển họ đến bệnh viện. Kết quả là không thể làm cho họ vãn hồi lại trạng thái cũ." Theo các thống kê, thì hiện nay, bệnh tai biến mạch máu não là nguyên nhân giết chết người ta hàng thứ nhì. Những người may mắn thì có thể sống còn, nhưng phải mang tật nguyền suốt đời. Đó là một tai họa khủng khiếp có thể xảy đến cho một cá nhân. Nếu chúng ta có thể ghi nhớ phương pháp cho xuất huyết trên đây, để có thể giúp đỡ những nạn nhân của căn bệnh quái ác này, để áp dụng tức thời trên nạn nhân, thì chỉ trong một thời gian ngắn, bệnh nhân sẽ tỉnh lại và được phục hồi 100%. Tôi hy vọng là quí vị có thể phổ biến tài liệu này để bệnh tai biến mạch máu não không còn là một căn bệnh giết người như hiện nay nữa.
  13. Trắc nghiệm giới tính thật trong con người bạn Ảnh: Corbis.com. Không cần biết hình thức của bạn là nam hay nữ, bài trắc nghiệm dưới đây sẽ cho biết giới tính thực sự ẩn sâu bên trong con người bạn. 1. Bạn thích biết hơn: a. Gia đình của một người như thế nào b. Nhà của một người ở đâu 2. Với bạn, nói chuyện về thời tiết: b. Một cách hay để phá vỡ sự im lặng a. Thật là phí thời gian 3. Bạn thích: a. Giúp đỡ người khác b. Tự giúp mình 4. Nếu ai đó bạn vừa gặp nói về những cảm giác của họ, điều đó làm bạn cảm thấy: a. Gần gũi hơn b. Khó chịu 5. Khi đi mua sắm, bạn: a. Nhẩn nha ngắm nghía và cảm thấy rất thích thú b. Cố gắng mua càng nhanh càng tốt 6. Bạn có hay dành cho người khác những lời khen ngợi? a. Có, với bạn nó đến một cách tự nhiên b. Không thực sự 7. Nếu bạn thành công khi làm điều gì đó rất khó, bạn: a. Sẽ nói ngay với mọi người về điều đó b. Cảm thấy hơi ngại khi khoe khoang Nếu chọn nhiều câu a: Bên trong bạn là một người phụ nữ: Bạn rất nhạy cảm, chu đáo và sẵn sàng tiếp xúc với bất cứ ai cởi mở với mình. Bạn kết bạn dễ dàng và rất thích buôn chuyện. Bạn hiểu hầu hết mọi người bạn gặp tốt hơn là họ hiểu về chính mình. Bạn hoàn toàn là một phụ nữ hay ít nhất tâm hồn bạn là tâm hồn "phái yếu". Nếu chọn nhiều câu b: Bên trong, bạn là một người đàn ông: Bạn sống dựa trên lý trí và nghiêng về thực tế khi nhìn nhận mọi thứ. Bạn thích hoàn thành mọi việc mà không bị vướng bận bởi những cảm xúc phức tạp. Bạn thực sự không hiểu hầu hết phụ nữ và bạn cảm thấy thoải mái hơn khi tụ tập nhất là chè chén với đám đàn ông. Không nghi ngờ gì nữa, bạn đích thực là một chàng trai, ít nhất là về tâm hồn. Minh Thùy (theo Blog Thing) nguồn vnexpress.net ShowArticlebanner();
  14. Hay nhỉ ! Dễ thương quá nhỉ ! Lời cảnh báo vào đời cho trẻ thơ . :)
  15. Mãng cầu và công dụng Thứ sáu, 15/8/2008, 16:47 GMT+7 Không chỉ là một loại trái cây ngon, mãng cầu còn mang lại khá nhiều công dụng, từ rễ, thân, lá đến hoa quả. Bạn đừng xem thường nhé! Bạn biết gì về mãng cầu? Mãng cầu là một trong những trái đầu tiên được mang từ Nam Mỹ tới vùng nhiệt đới Đông bán cầu, trồng rộng rãi từ Đông Nam Trung Quốc tới Úc, Tây Phi, Đông Nam Á và Nam Việt Nam. Mãng cầu lại có hai loại: mãng cầu xiêm (Soursop – Annona muricata) và mãng cầu dai (Sweetsop/Sugar Apple – Annona squamosa L.). Quả na nằm trong nhóm mãng cầu dai, quả na có vỏ dày, màu xanh nhưng thịt lại trắng và mềm, hương vị được nhiều người ưa thích vì độ ngọt cao, hơi có vị chua nên không lạt, lại có hương thơm của hoa hồng. Quả na nằm trong nhóm mãng cầu dai Một ưu điểm lớn nữa của mãng cầu dai là tính thích ứng lớn, ngay trên đất cát ven biển miền Nam Trung Bộ đất xấu đến độ cỏ mọc cũng khó mà mãng cầu dai vẫn sống được do nó chịu được mùa khô khắc nghiệt, không cần tưới. Một trái lớn nặng chừng 150 – 250g, có 65 – 70% cơm rất vừa một người ăn, do đó dễ tiêu thụ. Trái mãng cầu xiêm có vị chua, mùi thơm hấp dẫn rất hợp với khẩu vị dân các nước phương Tây. Có vô vàn cách chế biến mãng cầu khác nhau trên khắp thế giới. Tại Cộng hòa Dominic, thịt trái mãng cầu xiêm được chế biến chung với đường, một chút quế và vỏ chanh để được một món tráng miệng đặc sắc. Nước ép mãng cầu lên men được đóng chai rất phổ biến ở Guatemala. Mãng cầu đóng hộp của Mehico là một trong những món được ưa thích của các thực khách New York và cư dân miền Bắc Mỹ, chúng được dùng làm kem, chế biến các món giải khát thông dụng. Mãng cầu xiêm được làm mứt cô đặc, dạng nước ép, hoặc thịt trái tươi đông lạnh được đóng túi nhựa cung cấp cho khắp vùng Hà Lan, Ấn Độ, Philippines. Ngay cả trái còn xanh cũng được dùng như một loại rau, ở Indonesia dùng trái xanh nấu soup, ở Brazil thì người ta dùng làm món nướng hoặc chiên, chúng cho mùi thơm rất hấp dẫn như mùi bắp non. Công dụng của mãng cầu Mãng cầu xiêm Tất cả các bộ phận rễ, thân, lá, hoa, quả, hạt của mãng cầu đều có giá trị sử dụng: - Rễ cây mãng cầu có công dụng như thuốc tẩy giun, vỏ rễ cây như một thuốc giải độc. - Thân cây mãng cầu có hàm lượng xenlulô từ 65 – 76%, là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho ngành công nghiệp giấy. Tại Tây Ấn Độ, nước sắc cành non, nước sắc lá được dùng chữa tổn thương ở bàng quang, ho, tiêu chảy, chứng khó tiêu, thậm chí còn có tác dụng hỗ trợ phụ nữ khi sinh con. - Nước ép từ lá mãng cầu để chữa say rượu tại Guiana (thuộc Anh) dùng để trị giảm đau, trị chứng co thắt tại Ecuador. Tại Châu Phi nước lá còn được dùng để tắm làm hạ sốt cho trẻ em. Tại Hà Lan, lá mãng cầu được cho vào bao gối, hoặc khăn trải giường để hy vọng có một giấc ngủ ngon. Nhai lá mãng cầu đắp lên vết thương hở hoặc vết mổ làm mất vết sẹo lồi. Lá mãng cầu giã thành bột nhão làm thuốc đắp chữa vết chàm bội nhiễm, thấp khớp. Nhựa lá mãng cầu non có tác dụng kích thích nhanh lên da non. - Hoa mãng cầu được tin là làm giảm nhẹ bớt chứng viêm chảy (catarrh). - Trái mãng cầu được dân vùng đảo Virgin dùng làm mồi để đánh bắt cá, bột thịt trái xanh có tác dụng làm se mặt vết thương, nước sắc trái xanh chữa bệnh lỵ, nước ép của trái chín được xem như một phương thuốc lợi tiểu, giúp chữa bệnh huyết niệu,… - Bột của hột cũng như nước sắc của lá có công dụng như một loại thuốc diệt chấy rận. Bột hạt mãng cầu pha với rượu rum cho một chất gây nôn mạnh. Trong mãng cầu dai có chứa nhiều đường, Calci, Phospho, rất giàu các loại vitamin. Về mặt hương vị và về cả giá trị dinh dưỡng, mãng cầu dai xứng đáng được xếp vào loại trái cây nhiệt đới có giá trị. Hàm lượng chất dinh dưỡng chứa trong 100g phần ăn được của mãng cầu so với chuối sứ và xoài (không tính vỏ, hạt, lõi…) Giá trị dinh dưỡng ĐVT Mãng cầu dai Mãng cầu xiêm Xoài Chuối sứ Năng lượng Kcal 78 59 62 100 Độ ẩm % 77,5 83,2 82,6 71,6 Đạm g 1,4 1 0,6 1,2 Chất béo g 0,2 0,2 0,3 0,3 Carbohydrates g 20 15,1 15,9 26,1 Xenlulô g 1,6 0,6 0,5 0,6 Tro g 0,9 0,5 0,6 0,8 Calci mg 30 14 10 12 Phospho mg 36 21 15 32 Sắt mg 0,6 0,5 0,3 0,8 Natri mg 5 8 3 4 Kali mg 299 293 214 401 Vitamin A mcg 5 1880 225 Vitamin B1 mg 0,11 0,08 0,06 0,03 Vitamin B2 mg 0,1 0,1 0,05 0,04 Vitamin PP mg 0,8 1,3 0,6 0,6 Vitamin C mg 36 24 36 14 Tryptophan mg 9 11 14 Methionine mg 7 7 7 Lysin mg 60 60 44 Theo nutifood nguồn tintuconline
  16. Thứ Tư, 09/07/2008, 08:34 (GMT+7) Cách xử lý khi ngủ dậy vẹo cổ TT - Một sáng nào đó khi thức dậy, bạn chợt phát hiện cổ mình căng cứng, cử động rất khó khăn, kèm theo cảm giác đau nhức khó chịu, tăng lên khi cố làm động tác quay cổ. Có khi đau lan xuống bả vai, chi trên hoặc vùng liên sống bả, khiến cổ bạn phải nghiêng nhiều hay ít về một bên trong tư thế rất gò bó để chống đau. Khi đó, bạn đã mắc chứng bệnh vẹo cổ mà y học cổ truyền thường gọi là lạc chẩm hay thất chẩm. Nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này thường do tư thế khi ngủ không hợp lý, đầu gối quá cao hoặc quá cứng khiến đầu cổ lệch về một bên, các cơ vùng cổ như cơ thang, cơ ức đòn chũm căng giãn kéo dài mà sinh đau. Ngoài ra, tình trạng thoái hóa cột sống cổ hoặc cổ lạnh cũng là những yếu tố góp phần làm bệnh phát sinh hoặc nặng thêm. Khi lâm vào tình trạng khó chịu này, trước tiên bạn hết sức bình tĩnh và sau đó lần lượt tiến hành các thao tác sau đây: Dùng lòng bàn tay xoa xát vùng cổ trong vài phút sao cho tại chỗ nóng lên là được, có thể thoa một chút dầu cao hoặc cồn rượu xoa bóp để làm tăng tác dụng trị liệu. Cũng có thể chườm vùng cổ vai bằng muối sao nóng hoặc muối sao với lá ngải cứu. - Dùng các ngón tay nhẹ nhàng day ấn cổ vai để xác định các điểm đau nhiều (áp thống điểm). Sau đó, dùng ngón tay cái hoặc ngón giữa day ấn các điểm này trong vài phút. Chú ý mỗi điểm day đều với một lực vừa phải chừng 30 giây rồi ấn áp thống điểm từ nhẹ đến mạnh trong 5 giây, nghỉ 2 giây rồi lại tiếp tục ấn, tiến hành 3-4 lần như vậy là được. Khi ấn cảm giác đau nhức thường tăng lên nhưng không vì thế mà giảm cường độ tác động. - Tiếp theo, dùng ngón tay trỏ hoặc đầu bút bi (không phải đầu nhọn) day ấn huyệt lạc chẩm trong vài phút, mỗi ngày kiên trì day ấn vài lần. Vị trí huyệt lạc chẩm: ở mu bàn tay, nằm giữa hai xương bàn tay hai và ba, trên khớp xương bàn - ngón 0,5 thốn (1 thốn bằng 2,2cm, khoảng một đốt ngón tay), khi ấn có cảm giác đau tức nhất. Huyệt vị này còn có tên gọi là hạn cường, là kỳ huyệt, có tác dụng chữa trị các chứng bệnh như cứng gáy, đau nửa đầu, đau dạ dày, đau họng, đau vai và cánh tay... Vì là huyệt hết sức hữu hiệu trong trị liệu chứng vẹo cổ nên được gọi là huyệt lạc chẩm. Ngoài thủ thuật day bấm, người ta còn dùng kim châm cứu châm thẳng hoặc xiên, sâu từ 0,5-1 thốn, tại chỗ thường có cảm giác căng tức, có khi cảm thấy như điện giật lan tới mút ngón tay. Chứng vẹo cổ sau ngủ dậy, khi phát hiện, cần chữa trị ngay, nếu không có thể thành di chứng đau cổ, vẹo cổ, ảnh hưởng đến sức khỏe sau này và chất lượng cuộc sống. Thực tế cho thấy nhiều người hoàn toàn có thể tránh được di chứng nếu biết day huyệt. Bạn chỉ áp dụng thủ pháp trị liệu như đã mô tả ở trên chừng 3-4 lần là có thể chữa khỏi chứng vẹo cổ, hoặc ít nhất cũng giúp bệnh trạng thuyên giảm nhiều. Nếu hiệu quả không rõ rệt thì đi khám để tìm thêm nguyên nhân và loại trừ biến chứng của các bệnh khác. THS - BS HOÀNG KHÁNH TOÀN (Viện 108, Hà Nội) nguồn tuoitreonline
  17. Chữ Nôm và sự nghiệp “Việt hóa” Phật giáo (I) Là một trong hai chữ viết chính của thời đại phong kiến Việt Nam, chữ Nôm có vai trò quan trọng trong hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá; đồng thời thúc đẩy quá trình thuần thục văn hoá trong biến chuyển kinh tế từng giai kì và diễn dịch văn học Việt Nam. Trong quá trình đó, chữ Nôm có vai trò không nhỏ với việc truyền bá, bảo lưu văn hoá Phật giáo.Truyền thống Phật giáo với các kinh điển Nội điển chú trọng vào ngôn ngữ âm Hán. Trong thư tịch Thiền tông, âm Hán tạo nên sự hàm súc trong ngôn ngữ để nghe, suy nghĩ và hành động được những căn cơ gần với các tổ, bậc cổ đức để hướng đạo các thiền sinh sớm chứng ngộ vào cõi Phật đà. Đạo Phật truyền vào đất Việt rất sớm không chỉ trên phương diện lễ nghi tư tưởng mà cả kinh sách nội điển. Kinh sách Phật giáo Đường Tống cũng như tông phái Thiền Tông truyền vào Đại Việt và hưng thịnh thời Lý Trần. Gắn liền với truyền thống nghìn năm phát triển dân tộc, người Việt đã tiếp thu chữ Hán để sáng tạo chữ Nôm và sử dụng trong cuộc sống đa chiều, đa diện của mình. Chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu người Việt trên phương tiện chuyển tải cuộc sống tinh thần cả nghìn năm qua. Thiền Tông tu đạo trong văn - tư - tu khi tiếp xúc văn hoá Việt đã được Nôm hoá thành Thiền tông Việt Nam. Cũng như tại Trung Quốc, Phật giáo Thiền Lâm Tế phát triển mạnh và chú trọng ngữ lục, minh, kệ thì tại Việt Nam, sau khi du nhập, vẫn bảo nguyên cốt lõi là Lâm Tế, bên ngoài đã được bao bọc một lớp sơn mới: Thiền Trúc Lâm. Một nghìn năm phát triển, không dừng lại trong kinh kệ và truyền thống văn hoá đất Việt, in đậm trong tín ngưỡng lễ nghi mà hệ thống thư tịch còn đến ngày nay cho thấy văn học Phật giáo viết bằng chữ Nôm rất phát triển. Chữ Nôm gắn với truyền thống Phật giáo nghìn năm qua, thư tịch kinh điển hướng dẫn sự tu đạo cũng như truyền bá tư tưởng, tín ngưỡng. Văn học chữ Nôm Phật giáo có ý nghĩa thiết thực với cuộc sống người Việt. Như thế, Chữ Nôm đã mang vai trò to lớn của nó trong việc gìn giữ và phát huy văn hoá dân tộc, đặc biệt trong việc phát huy sự hữu ích của tông giáo Phật giáo. Những thư tịch Phật giáo còn đến ngày nay rất nhiều, giai đoạn sớm thời Lý Trần chữ Nôm đã sớm xuất hiện trên văn bia, như bia chuông chùa Vân Bản: “Vân bản tự chung minh”, bia chùa Báo Ân “Chúc Thánh Báo Ân tự bi” khoảng cuối thế kỉ 12 đầu 13; “Báo Ân thiền tự bi kí”…. bắt đầu cho thấy chữ Nôm đã được dùng trong văn bản tôn giáo, ghi chép ruộng Tam bảo. Đây là những tư liệu thành văn đầu tiền của ngôn ngữ chữ Nôm Việt Nam đến nay còn lại. Thực tế cho thấy, văn học Việt Nam thời phong kiến, những tác phẩm còn đến ngày nay nhiều phần là tác phẩm Phật giáo, trong đó văn học chữ Nôm chiếm địa vị không nhỏ, và có ý nghĩa đặc biệt trong nghiên cứu văn hoá, ngôn ngữ người Việt. Cư Trần Lạc Đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, của Trần Nhân Tông, Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang… là những bài thơ văn Nôm thời Trần còn đến ngày nay thể hiện người tu hành đã dùng văn Nôm để thể hiện tu chứng của bản thân hành giả trong quá trình tu tập. Sự giác ngộ được các vua Trần, hệ phái Tam tổ Trúc Lâm thể hiện mỗi người mỗi kiểu, nhưng vượt qua khả năng diễn đạt của ngôn ngữ Hán. Các tác phẩm này được khắc in lại năm 1745 tại chùa Liên Hoa (tức chùa Liên Phái ngày nay) mà học giả Hoàng Xuân Hãn khi nghiên cứu ba bài văn này đã nhận định “tôi tin rằng ba bài văn Nôm kia thật của những tác giả mà bản khắc năm 1745 đã mách”, tức là chứng thực tác giả là Trần Nhân Tông và Huyền Quang. Bài Cư trần lạc đạo với 10 hội thể hiện Trần Nhân Tông trong quá trình tu tập chứng ngộ đạo pháp từng cung bậc, với văn phong hàm súc đầy chất trí tuệ và từ bi. Đây là một trong những văn bản cổ của văn chương Việt còn lưu giữ được. Trong đó cho thấy nhà thơ – nhà tu hành không dừng lại ở việc dẫn dụ con đuờng thành đạo mà hướng thượng bằng hệ thuyết tư tưởng Phật giáo. Tư tưởng Thiền chính là cuộc sống bình dị của con người tu hành đắc đạo. Truyền thống tu hành và phát dương Tông giáo của Thiền phái Trúc Lâm nối kết, xiển dương giáo pháp chứng ngộ trên hệ thống văn Nôm. Nhà thơ từ trong bụi bặm mà vui với đạo, thể hiện tinh thần nhập thế, tự tính giác ngộ lẽ chân như: Mình ngồi thành thị. Nết dụng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính. Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. … (Câu 1 – 4, hội 1, Cư trần lạc đạo phú) Từng bước bóc tách để lộ bản lai chân diện lục của tự thân hành giả trên con đường tu tập: Giữ tính lặng thì tính mới yên. Nén được sự nghĩ lầm thì lòng không sai. Quên cái thân giả dối thì thực tướng sáng bền. Diệt hết lòng tham, lòng giận, thì hiểu rõ lòng mầu nhiệm. Tĩnh độ ở trong lòng sạch của mình, nếu giữ được lòng yên lặng mình đã có Phật tính rồi. (câu 15 - 22, hội 2, Cư Trần lạc đạo phú) Đến Đệ tam tổ Huyền Quang qua bài phú vịnh chùa Hoa Yên thì người tu hành trên đỉnh non Yên Tử đã đi từ con đường thực tại của thầy để rồi giác ngộ thực thể của tự thân giữa nội cảnh và ngoại vi, thấy rõ chân như bản tính. Buông niềm trần tục Náu tới Vân Yên Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ Gió tiên đưa đôi bước thần tiên (Câu 1 – 4, Vịnh hoa Yên tự phú) Để rồi kết kệ: Rũ không thay thảy áng phồn hoa Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà Khuya sớm sang chong đèn Bát nhã Hôm mai rửa sạch nước Ma ha Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại Thế sự hiu hiu gió thổi qua Cốc được tính ta nên Bụt thật Ngại chi non nước cảnh đường xa. Đặc biệt trong những bài phú của Thiền Trúc Lâm các vị tổ đã sử dụng hình thức kết thúc cho mỗi bài phú bằng một bài kệ, đây là sự đúc kết nội dung và sở chứng của người tu hành mà sự biểu đạt chỉ là hình thức ngoại vi. Đệ nhất tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông nhấn mạnh ở lẽ “bình thường tâm thị đạo” của truyền thống tông giáo. Đấy là việc ở trong cảnh bụi trần mà không nhuốm tục: Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên Cơ tắc xan hề khốn tác miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Ở trong đời vui với đạo tuỳ theo duyên gặp, Đói thì ăn, khát thì uống, khó khăn thì ngủ. Trong nhà có của báu cần gì đi tìm ở đâu, Trước cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.) Sau thời Lý Trần, Phật giáo từng bước suy thoái và dần dần chuyển vào địa hạt dân gian, đây cũng chính là bước chuyển biến mới. Sự kết hợp Nho Phật Lão sinh ra tín ngưỡng bản địa thêm phong phú. Thiên tai và nhân họa trải qua, các tác phẩm của thời đại Lý Trần đến nay còn không nhiều, trong đó những tác phẩm Nôm có giá trị học thuật cao, mà thời sau ngôn ngữ và tư tưởng không đạt được đến như thế. Một thời đại mấy trăm năm, văn chương tồn tại đến ngày nay phần nhiều là tác phẩm Phật giáo, hoặc viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm nhưng rất có giá trị học thuật và ý nghĩa lịch sử. Nhận định về văn học Phật giáo Lý Trần nói chung và Văn học chữ Nôm thời kì này nói riêng, Gs Vu Tại Chiếu - Đại học Trịnh Châu – Trung Quốc phát biểu rằng: “Trên văn đàn Việt Nam thế kỉ X – XII, các nhà sư là lực lượng nòng cốt sáng tác thơ văn… Hầu như tất cả tác phẩm chữ Nôm trong thời kì ban đầu của văn học chữ Nôm bây giờ vẫn giữ được đều là do các đại sư Phật học sáng tác”. Đây là một nhận định khách quan và đúng đắn khi nhìn nhận về văn học Phật giáo Lý Trần. Trong Lịch sử Văn học Việt Nam thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII, chủ biên bởi Gs Đinh Gia Khánh, cũng có nhận định: “Cho đến nay chúng ta vẫn chưa thấy được một tác phẩm Nôm chắc chắn thuộc đời Trần mà lại không phải là của nhà chùa”. Sau thuộc Minh, Phật giáo dần dần chuyển hoá và từng bước phát triển theo chiều rộng, tông phái đứt đoạn nhưng cội rễ thêm sâu trong lòng văn hoá dân tộc. Thời Lê sơ thịnh trị Nho giáo nhưng Phật giáo vẫn chiếm những địa vị trong văn đàn. Nói một cách khác, Nho giáo độc tôn về chính trị, nhưng mặt tư tưởng thì chuyển hoà trong Tam giáo. Đây cũng chính là mối ràng buộc về tư tưởng trong các triều đại Việt Nam. Lê Thánh Tông đã viết “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” chép trong sách Thiên Nam dư hạ tập, cho thấy sự thấm nhuần tư tưởng Phật học của vị vua Nho giáo này. Hiện nay, các học giả từng bước bóc tách rằng: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nhiều nhà văn nhà thơ giai đoạn Lê Sơ đều thấm nhuần tư tưởng Tam giáo. Trong đó Phật giáo có ý nghĩa thiết thực với cộng đồng nhân sinh, và thực chứng là những tác phẩm Nôm, trong văn thơ Nôm thời Hồng Đức cũng như hệ tư tưởng của họ trong văn bản Hán. Từ thời Trung hưng về sau, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ. Nhận định giai đoạn này, Pgs Trịnh Khắc Mạnh trong bài viết Hội Nghị Quốc tế về chữ Nôm năm 2006 nhấn mạnh: “Các triều đại nhà nước phong kiến ở Việt Nam phát triển lúc thịnh lúc suy; nhưng văn học Việt Nam nói chung và văn học chữ Nôm nói riêng, lại có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều điểm mới trong sáng tác văn học nghệ thuật được hình thành về cả giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật. Văn học chữ Nôm phát triển toàn diện về chất lượng nội dung và số lượng tác phẩm”. Không chỉ văn nhân sĩ đại phu trong sáng tác văn học chữ Nôm với hệ tư tưởng Phật giáo, mà các nhà sư, nữ sĩ cũng tham gia văn đàn, khiến cho bộ mặt văn học nghệ thuật Văn học Phật giáo bằng chữ Nôm đa dạng về trong thể hiện. Sau khi truyền vào đất Bắc, Phật giáo Lâm Tế Đại Việt phát triển mạnh mẽ, kinh sách được chuyển từ Trung Quốc về và được diễn Nôm cho dễ hiểu, dễ đọc. Điều đó dẫn đến những tác phẩm Nôm đặc sắc của giới Tăng ni cũng như văn nhân sĩ phu. Phật Thuyết phụ mẫu ân trọng kinh, cùng các kinh sách diễn âm của Hương hải Thiền sư là những thành quả rất cao trong biên dịch kinh kệ ra chữ Nôm. Hương Hải đã biên dịch Nôm các kinh sách như Sự lí dung thông, A di đà diễn âm, Kinh Kim cương diễn âm,…. Đồng thời, Hoàng thân quốc thích Lê triều cũng tham gia chốn thiền môn, giác ngộ lẽ chân như. Trần Thị Ngọc Am là vợ chúa Trịnh Tráng là trường hợp như thế khi bà theo Chuyết Chuyết tổ sư đắc pháp và viết 13 bài kệ truyền trong Chuyết Chuyết Thiền sư ngữ lục. Dưới đây là bài kệ thứ 4: Hựu kệ: Tự tính chính sự ở trong lòng, Phật vô Nam Bắc lẫn Tây Đông. Dầu xa nghìn dặm cùng chăng có, Di Đà Phật tính chính ở lòng Phong Phạm Tuấn (VT) nguồn dongtac.net
  18. “…Nhu cầu cuộc sống cùng thời đại đã sản sinh những áng văn chương chữ Nôm bất hủ. Đồng thời diễn tiến theo từng giai kì cho thấy sự hoàn bị trong sáng tạo thể loại. Một trong những đặc sắc của văn chương chữ Nôm nói chung và văn chương chữ Nôm Phật giáo nói riêng là mặt thể loại. Nếu văn chương chữ Hán bó hẹp trong các thể thơ Đường cùng với đối ngẫu của phú thể thì sự phong phú của thơ Nôm khiến cho đa dạng trong sáng tác và thể hiện ngôn ngữ người Việt…” Lâm Tế tông phát triển rồi kéo theo sự phục hồi thiền phái Trúc Lâm, Chân Nguyên Thiền sư là điển hình cho tác giả văn học Phật giáo thời Lê. Sống cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII, Chân Nguyên là đệ tử đời thứ 3 dòng Lâm tế Đại Việt, chính ông đã viết nhiều tác phẩm Nôm, biên soạn lại hệ thống thư tịch của Tam tổ Trúc Lâm. Ông đã để lại nhiều tác phẩm Nôm như: Tôn Sư Pháp Sách Đăng Đàn Thọ Giới, Nghênh Sư Duyệt Định Khoa, Thiền Tông Bản Hạnh, Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh, Thiền Tịch Phú, Đạt Na Thái Tử Hạnh, Hồng Mông Hạnh…. Riêng sách Thiền tông bản hạnh, kể về sự tích Thiền tông và cuộc đời tu hành của các vua từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông. Văn bản Thiền Tông bản hạnh được in cùng các tác phẩm như Cư trần lạc đạo phú, Vịnh Hoa yên tự phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca vào năm 1745 tại chùa Liên Hoa bởi Sa di ni Diệu Thuần. Thiền tông bản hạnh với văn phong đơn giản nhưng thấm nhuần ngôn ngữ Phật giáo, đồng thời thể hiện tinh thần nhập thế của tác giả một nhà tu hành. Vua chúa công hầu được trích dẫn như đề từ cho thời đại của bản diễn Nôm: Bụt sinh Hoàng giác Lê gia Thánh chúa vỗ trị gần xa lai hàng Bốn phương gió tắt lửa lang Phong điều vũ thuận dân khang thái bình Văn phong thể hiện một thời thịnh trị thái bình dưới sự cai quản của vua Lê Hi Tông và chúa Trịnh. Đạo pháp dân tộc cùng hướng đến: Tiêu dao khoái lạc chẳng âu Bất sinh bất diệt ngồi lầu toà sen Ngoài Hương Hải, Chân Nguyên các tác gia văn học khác cũng là những người thấm nhuần thời đại, hiểu lẽ vô thường của nhân sinh. Phạm Thái ban đầu là nhà Nho, sau xuất gia ở chùa Tiêu Sơn - Quế Võ - Bắc Ninh, lấy đạo hiệu Phổ Chiêu thiền sư, ông đã viết nên những áng văn chương đau buồn về thời thế và cuộc đời, thấm nhuần tư tưởng Trí Bi của đạo Phật trong tác phẩm Văn triệu linh, đặc biệt là Sơ kính tân trang: Tu hành nhờ đức Thế tôn, Ắt say sưa đạo lại buồn bồng duyên Lọ là khấn vái tiên thiên Cậy quan âm với mục lien xót tình…. Ối nao ôi! khổ tu hành Biết Tây phương có dạng hình nay không. Cùng thời, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều, được coi là áng văn chương bất hủ, thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Trong tác phẩm, là sự dung hoà tình yêu, cuộc sống và lẽ vô thường của kiếp người, nhân sinh và thế giới quan bi phẫn thời cuộc của tác giả, thể hiện cuối cùng cái thiện, mối lương duyên cũng ràng buộc con nguời đến những điều tốt đẹp. Ngoài truyện Kiều bằng văn Nôm, Nguyễn Du còn sang tác Văn chiêu hồn ca khúc bi thương cho thập loại cô hồn thoát khỏi tầng diêm la địa ngục: Đoạn Quý nữ liều thân: Lên lầu cao xuống dòng nước chảy Phận đã đành tram gãy bình rơi Khi sao đông đúc vui cười Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương Có thể nói, văn chương chữ Nôm của Nguyễn Du là những khúc bi thương cho thân phận con người. Ông đã kết lại tinh thần Phật giáo trong văn chương Nôm giai đoạn cuối Lê triều và mở ra thời kì mới văn chương triều Nguyễn. Nhưng chính ông là mạch nối gắn kết hai giai đoạn, mà ảnh hưởng từ tác phẩm của ông còn mãi về sau. Lê triều là thời kì văn chương chữ Nôm rực rỡ, tác gia phong phú. Trong đó, các sáng tác gắn với hệ tư tưởng hoặc văn phong Phật giáo cũng rất nhiều, bao gồm các văn nhân, nhà sư, vua chúa. Văn chương còn lại đến nay ghi tên tác giả, hoặc khuyết danh. Nhưng tinh thần chung của văn phong thời kì này là tính chất thời đại. Lê triều, thời đồng hành vua chúa và đều tiêu dao chốn am mây chùa vắng, ngắm cảnh tiêu dao. Các chúa như Trịnh Tráng, Trịnh Sâm, Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Cán… thường vui thú yên hà, đi đây đi đó, ban bố ân huệ sắm sanh chùa chiền. Các vị chúa nay còn nhiều tác phẩm thơ văn Nôm truyền đến ngày nay. Trong đó, Trịnh Sâm còn khá nhiều tác phẩm, ông đến danh lam thắng cảnh nào cũng vạch đá đề thơ. Chúa Trịnh Cương thì viết cả tập Lê triều Ngự chế Quốc âm thi, trong đó phần nhiều là thơ ngao du chơi thăm thắng cảnh chùa chiền: Bài thơ 15: Nguyệt đường tự thi (Thơ chùa Nguyệt Đường) Danh lam từng trải đã hay danh, Trình độ này âu hợp chuẩn trình. Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp, Kinh lâu rỡ rỡ diễn chân kinh. Công nhiều nhờ bởi công vô lượng, Thế hợp vầy nên thế hữu tình. Ngăn tục mựa cho mùi tục luỵ, Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh. Nối tiếp thời đại, Nguyễn triều chấm hết thời phân tranh, cũng kết thúc thời phong kiến và gắn liền thời đại chữ Quốc ngữ. Nhưng văn chương chữ Nôm vẫn âm ỉ tồn tại trong lòng cuộc sống dân tộc đến giữa những năm 50 của thế kỉ XX. Đây là thời đại thống nhất toàn vẹn lãnh thổ dân tộc. Thư tịch Hán và Nôm ngày nay còn lại phần nhiều là của thời Nguyễn, hoặc in hoặc sao lại. Nhiều văn bản Lê triều còn tồn tại đến ngày nay là do công quả của văn nhân sĩ phu Nguyễn triều. Thống nhất đất nước, nhưng đa dạng trong văn hoá tông giáo. Thời Nguyễn Đạo Phật phát triển nối tiếp hệ phái triều Lê, văn phong và hệ tư tưởng chịu sự chi phối quán xuyến. Các thiền sư Nguyễn Triều thành danh nhất đã vượt qua cuộc sát hạch dưới thời Minh Mệnh năm 1835 để ban giới đao độ điệp. Trong đó, đáng kể nhất là danh tăng Phúc Điền Hoà thượng. Ông sinh cuối thế kỉ XVIII và cuối thế kỉ XIV mới viên tịch. Gần trăm năm, qua mấy đời vua, Phúc Điền hiểu nhất sự vận chuyển của thời đại và kiếp nhân sinh. Ông dốc mình biên dịch kinh sách chữ Nôm cũng như nhiều thư tịch Hán Nôm khác để quảng bá. Bao gồm các loại sách, kinh sách, lịch sử Phật giáo diễn Quốc âm như: Khoá hư lục Quốc âm, Kim Cương Quốc âm, Thái Căn đàm, Hộ pháp luận, Trúc song tuỳ bút, Tam giáo Nhất Nguyên, Thái căn đàm, Sa di luật nghi giải nghĩa, .... Phúc Điền đã thành công trong việc truyền bá và rộng mở đạo pháp trong thời Nguyễn, văn chương của ông dễ hiểu và thuần phong cách ngôn ngữ Phật giáo. Ngoài Phúc Điền Hoà thượng còn nhiều tác gia khác biện dịch văn chương chữ Hán thành chữ Nôm như Kiều Oánh Mậu chú giải và in lại Truyện Kiều và diễn âm Hương sơn Quan thế âm chân kinh tân dịch, Nguyên Trai Vũ Đức Huân diễn âm Giới sát phóng sinh, Chu Mạnh Trinh với Hương sơn nhật trình ca, Nguyễn Khắc Thuyết diễn Nôm truyện Từ Đạo Hạnh…. Đã tạo nên một thời kì thịnh trị nhất về văn chương chữ Nôm Phật giáo trong dòng văn học Việt Nam. Tuy ngôn ngữ văn chương chữ Nôm Phật giáo giai đoạn này không hàm súc, phong phú như Lê triều, nhưng phát triển đa chiều đa dạng, không chỉ về thể loại mà còn về cả hình thức. Đồng thời, giai đoạn cuối Nguyễn triều, Phật giáo dung hoà trong tín ngưỡng thờ Mẫu, tạo nên một hệ thống văn chương chữ Nôm thấm nhuần văn hoá bản địa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Cơ bản thư tịch chữ Nôm văn học Phật giáo còn đến ngày nay là kinh, sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hệ loại tư liệu liên ngành như, văn bia, hương ước, văn khế, điạ bạ… viết bằng chữ Nôm liên quan đến chùa chiền hoặc tín ngưỡng Phật giáo. Riêng hệ thống bia chí chữ Nôm hiện nay tính trong các tỉnh miền Bắc có khoảng hơn 104 chiếc, trong đó văn bia chùa chiền hoặc hang động gắn với chùa là 67 bia, chiếm 64, 42% tổng số bia Nôm. Trong đó đáng kể là 18 bia Nôm ở chùa Phật giáo xã Vĩnh Quỳnh huyện Thanh Trì - Hà Tây. Tác giả trong hệ thống bia Nôm ở chùa hiện nay khảo sát được chủ yếu thời Nguyễn. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là tác giả vua chúa chiếm đến gần 23, 19% tổng số bia trên. Như vậy, tư liệu chữ Nôm về Phật giáo hiện nay rất phong phú và vẫn chưa được khai thác trên nhiều khía cạnh văn học. Sự đa dạng này vượt qua những chuẩn định của văn bản Hán khi áp chế trong văn học quna phương người Việt thời Phong kiến. Chữ Nôm là sản phẩm của người Việt, và đa dạng trong hình thức thể hiện cũng chính là sản phẩm của người Việt. Nhu cầu cuộc sống cùng thời đại đã sản sinh những áng văn chương chữ Nôm bất hủ. Đồng thời diễn tiến theo từng giai kì cho thấy sự hoàn bị trong sáng tạo thể loại. Một trong những đặc sắc của văn chương chữ Nôm nói chung và văn chương chữ Nôm Phật giáo nói riêng là mặt thể loại. Nếu văn chương chữ Hán bó hẹp trong các thể thơ Đường cùng với đối ngẫu của phú thể thì sự phong phú của thơ Nôm khiến cho đa dạng trong sáng tác và thể hiện ngôn ngữ người Việt. Diễn tiến theo lịch sử cho thấy những tác phẩm văn học chữ Nôm về Phật giáo như: Cư Trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca… là những chuẩn mực về sử dụng sử dụng thể văn biền ngẫu. Đối trong phú Nôm tạo nên những đặc sắc mà văn học Hán không có được. Diễn Nôm khiến cho ngôn ngữ diễn tả được nhiều hơn, cụ thể hơn. Cư Trần lạc đạo là một trong những bài phú kinh điển trong sử dụng chữ Nôm vào sang tác văn chương. Thơ chữ Nôm với nhiều tác phẩm, trong đó thể thơ 6 chữ nối kết thơ Nôm thời Lê sơ như Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập… Trong đó đáng kể các bài kệ của Trần Thị Ngọc Am, cũng như thơ các vua Lê chúa Trịnh, như Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Trịnh Cương…. Nét đặc sắc nhất của văn chương Phật giáo viết bằng chữ Nôm về mặt thể loại có lẽ chính là các bài phú Nôm, bài kệ Nôm, thơ lục bát chữ Nôm, song thất lục bát chữ Nôm…. Đây là những thể loại mang đậm màu sắc người Việt. Như Truyện Kiều của Nguyễn Du viết bằng thơ Lục bát, trong khi Văn Chiêu Hồn của ông viết bằng thể song thất lục bát. Điều nay cho thấy tác gia văn học được thả mình trong thể loại để sang tác theo cảm hứng thích hợp. Chữ Nôm ra đời đáp ứng nhu cầu thực tế xã hội và ngôn ngữ người Việt. Nghìn năm trôi qua, văn chương chữ Nôm vẫn đang được khám phá và nghiên cứu. Sự ra đời của chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu của dân tộc trong sự phát triển văn hoá, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt. Văn chương Phật giáo viết bằng chữ Nôm có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển ăn hoá dân tộc mà ngày nay dư âm mãi còn vang vọng. Văn bản vẫn còn, hình tích chưa phai. Chữ Nôm mãi mãi là đứa con tinh thần của người Việt, gắn liền với truyền thống nghìn năm đã qua và về sau. Phong Phạm Tuấn nguồn vietimes
  19. Viết lại lịch sử hình thành Kinh Dịch Hà Văn Thuỳ Thứ năm 19, Tháng Bảy 2007Có phải "Văn Vương được bức Lạc Thư trên lưng con rùa thần xuất hiện ở sông Lạc mà làm nên Dịch” ? Ảnh bên: một số chữ viết trên mai rùa (Hongkong University) Kinh Dịch là thành tựu văn hoá kiệt xuất của phương Đông. Từ hơn 2000 năm nay, thế giới thừa nhận đó là sản phẩm của người Trung Hoa. Khoảng 30 năm lại đây, một số tác giả lên tiếng đòi bản quyền sáng tạo Kinh Dịch cho người Việt. Ngày nay, nhờ những phát kiến quan trọng về khảo cổ và nhân chủng học, nhất là công nghệ gene, đã tới lúc phải bàn lại về vấn đề vô cùng quan thiết này. Nguồn gốc Kinh Dịch theo quan niệm truyền thống</H3>1. Tóm lược Ngày nay, tất cả các cuốn Kinh Dịch viết bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới đều ghi: “Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tắc chi.” Câu này có nghĩa là: bức Đồ hiện lên ở sông Hoàng Hà, bức Thư hiện lên ở sông Lạc Hà, đấng thánh nhân bắt chước mà làm Dịch. Đó là nguyên văn lời Khổng Tử ghi trong Hệ từ truyện. Nhưng không chỉ có vậy, hầu hết các sách cũng chép theo Khổng An Quốc rằng: “Phục Hy được bức Đồ trên con long mã ở sông Hoàng Hà, Văn Vương được bức Thư trên con thần qui xuất hiện ở sông Lạc mà làm nên Dịch.” Phục Hy là ông vua thứ hai trong huyền thoại của người Trung Hoa, sau Toại Hoàng, tức vị khoảng năm 2850 TCN, đã căn cứ vào bức Đồ xuất hiện từ sông Hà rồi làm ra bát quái, trùng quái. Tiên thiên Bát quái Gần 2000 năm sau, Văn Vương dùng tên quẻ và lời quẻ của đời Thương rồi nhờ cương nhu của sáu vạch suy ra sự biến dịch của mỗi quẻ, do đó viết thêm lời để đoán lành dữ mà gọi là hào. Dịch bắt đầu từ Phục Hy, trải qua đời Hạ, đời Thương đến Văn Vương thì được nâng lên một bước. Dịch của Văn Vương tuy đầy đủ nhưng cái lý vẫn còn bí ẩn. Năm trăm năm sau, Khổng Tử làm Thoán Tượng, buộc thêm lời vào ý của Văn Vương, mục đích làm sáng tỏ Dịch của Văn Vương. Từ cuốn sách bói toán, Văn Vương, Khổng Tử đã chuyển thành cuốn sách có ý nghĩa giáo hoá lớn nên được xếp vào Lục kinh. Phùng Ỷ viết: “Văn vương tán quẻ của Bao Hy, diễn số của cỏ thi, suy việc biến dịch của 9, 6 để sinh ra hào, cho nên quái hào đều liên hệ với nhau bằng lời, và định tên là Dịch. Từ khi Khổng Tử tán Dịch của Văn Vương thì các Dịch của Hạ, Thương đều bỏ. Bởi thế, từ Văn Vương, các sách Dịch mới bắt đầu gọi Dịch, còn trước Văn Vương, chỉ gọi là quái mà thôi. Cho nên Khổng Tử nói Bào Hy vạch Bát quái chứ không nói làm Dịch. [1] Dịch vốn là công cụ bói toán. Đời Thần Nông có Liên Sơn, đời Hoàng Đế có Quy Tàng, đời nhà Chu có Chu Dịch, đều là những quyển sách bói. Khi san định Kinh Dịch, chính Khổng Tử cùng với việc đưa nội dung triết lý, đạo đức vào Dịch, cũng dành ba chương IX, X, XI cho việc bói toán. Sau Khổng Tử, Dịch càng nghiêng hơn vào việc bói toán. Hán nho luận Dịch phần nhiều chủ về tai dị và thuật số. Đến đời Nguỵ, Vương Bật chú Dịch mới truất bỏ những lời bàn về toán số mà phát huy phần triết lý trong Kinh Dịch. Do đó Dịch học chia làm hai phái: một phái chủ trương Dịch học là sách dùng để bói toán, người cầm đầu là Mạnh Hỷ đời Tây Hán, nổi danh nhất là Trần Đoàn và Thiệu Ung ở đời Tống. Cũng vào thời gian này, do nhiều trường phái Dịch ra đời khiến cho loạn thuyết, Dịch chính truyền bị mai một nên Chu Hy đúc kết Dịch còn sót của dòng chính, sáng tác sách Châu Dịch bản nghĩa truyền tới ngày nay. Bảo Ba đời Tống đưa ra Trung thiên đồ, cho rằng, ngoài Tiên thiên, Hậu thiên Bát quái phản ánh thời gian trước và sau khi hình thành vũ trụ, còn có giai đoạn trung gian là Trung thiên đồ là nhân đồ, nói tới con người. [2] Về công dụng của Dịch, Châu Dịch bản nghĩa của Chu Hy viết: Phục Hy đã “thắt dây lại mà làm ra cái vó, cái lưới để đi săn, đánh cá, đó là ngài đã lấy tượng của quẻ Ly.” Rồi “Họ Bào Hy mất. Họ Thần Nông lên thay, đẽo gỗ làm lưỡi cày, uốn gỗ làm cán cày, đem cái lợi về sự cày bừa dạy cho thiên hạ; đó là ngài lấy tượng của quẻ Ích.” Họ Thần Nông lại còn dạy dân họp chợ, giao thương: “Mặt trời đứng bóng thì họp chợ, đưa dân trong thiên hạ đến, tụ góp hàng hoá của thiên hạ lại, giao dịch xong rồi trở về, ai cũng được như ý; đó là Ngài lấy tượng ở quẻ Phệ hạp.” Rồi “Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn lấy tượng ở quẻ Kiền, quẻ Khôn, khoét cây làm thuyền, chuốt gỗ làm chèo, dùng thuyền dùng chèo để qua sông, qua ngòi, đi xa làm lợi cho thiên hạ: đó là lấy tượng ở quẻ Hoán. Dùng trâu ngựa để chở nặng, đi xa, làm lợi cho thiên hạ: đó là lấy tượng ở quẻ Tuỳ…” [3] 2. Nhận định Trên đây là quan niệm mang tính chính thống về nguồn gốc của Kinh Dịch. Tuy nhiên, trong giới Dịch học, từ ngót hai nghìn năm nay luôn xuất hiện những ý kiến dị biệt: 1. Có người cho rằng, không phải Phục Hy làm ra Dịch. Hà đồ, Lạc thư với long mã, thần quy chỉ là sự thêm thắt của Khổng An Quốc, không thể tin là xác thực vì Khổng Tử không hề nói vậy. “Đồ xuất hiện ở sông Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, đấng thánh nhân đặt ra phép tắc.” Hai chữ thánh nhân đâu đã đủ để minh chứng Phục Hy? Khổng An Quốc đời Tây Hán có nói: “Hà đồ là tấm đồ biểu do con long mã mang ra khỏi sông Hoàng Hà thời vua Phục Hy ngự trị thiên hạ. Ngài bèn đem những chấm, những nét của tấm đồ biểu để vạch ra Bát quái.” Thuyết này thực cũng chỉ là do óc tưởng tượng của Khổng An Quốc đó thôi! 2. Có người cho rằng: Không phải Phục Hy từ Đồ, Thư mà làm ra Dịch: Nếu đem Bát quái phối trí với Hà đồ thì 1 với 6 là Thuỷ, đóng tại phương Bắc thuộc ngôi vị của Khảm; 2 và 7 là Hoả, đóng tại phương Nam thuộc ngôi vị của Ly; 3 và 8 là Mộc, đóng tại phương Đông, thuộc ngôi vị của Chấn và Tốn; 4 và 5 là Kim, đóng ở phương Tây, thuộc ngôi vị của Đoài và Kiền; 5 và 10 là Thổ, giữ trung ương, ngôi vị của Thái cực. Sự phối trí này tượng trưng cho cuộc thuận bố của Ngũ hành. Tuy nhiên, còn có Khôn - Cấn, 2 ngôi không thể phối hợp vào đâu được; điều đó chứng tỏ Bát quái không phải xuất xứ từ Hà đồ. [4] Mao Kỳ Linh đời Thanh sơ làm Hà đồ Lạc thư nguyên quái, phản đối Hà đồ và Lạc thư có liên quan tới Dịch. Đến khi Hồ Vị làm Dịch đồ minh biện, đem phân tích rõ ràng rành mạch lai lịch giữa Hà đồ với Dịch, thì lúc đó mọi người mới lại thấy Đồ là Đồ, Dịch là Dịch, cả hai không có gì liên can tới nhau cả. 3. Tôi cho rằng việc gán cho các thánh nhân nhìn tượng các quẻ rồi làm ra vật dụng là không có cơ sở. Đây là điều trái với quy luật tư duy: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Chỉ có thể từ hình thể hang đá nơi trú ngụ, rồi những tổ chim trụ được qua mưa gió, con người nghĩ ra cách làm nhà. Bắt gặp con chim con thú bị mắc lại giữa đám dây leo, con người nghĩ ra cách kết dây thành lưới bắt thú bắt cá. Từ cây gỗ trôi trên sông, người ta học cách kết bè rồi làm thuyền… Không thể có chuyện các thánh nhân ngồi nhìn ngắm các quẻ Dịch rồi làm ra vật này vật khác mà phải như Sử Thiếu Vi viết: Thần Nông ăn lá cây, một ngày chết đi sống lại đến năm lần rồi tìm ra thuốc chữa bệnh bằng cây cỏ. Hiên Viên do "Kiến chuyển bồng nhi chế thừa xa" có nghĩa là nhìn cỏ bồng xoay theo gió mà chế ra xe. Toại Nhân thì dùi cây tìm ra lửa. Ta biết, Phục Hy sống ở khoảng 2800 năm TCN, trong khi người hiện đại Homo sapiens ra đời từ 180.000 năm trước và phải đánh cá kiếm sống từ rất lâu trước khi Phục Hy ra đời. Nếu ngồi chờ Phục Hy “ngâm cứu” các quẻ Dịch mới làm ra thuyền chắc dân châu Á chết đói từ lâu! Như vậy hợp lý hơn không phải là từ quẻ Dịch nghĩ ra thuyền, lưới mà chính từ có thuyền, lưới, nhà cửa, quần áo, cày bừa rồi nghĩ ra Âm Dương, làm ra Dịch? Vì vậy, cũng không phải Phục Hy làm ra Dịch mà Dịch ra đời từ trước đó nhiều. Cùng lắm thì Phục Hy là người có sáng kiến, trên cơ sở những quẻ bói của dân gian làm ra Bát quái rồi trùng quái. Sau này, Khổng Tử không nắm được nguồn cội của Dịch, đã quy công cho Phục Hy. Những quan niệm khác 1. Tóm lược Khoảng ba mươi năm trước, một số học giả như giáo sư Kim Định trong Việt lý tố nguyên, giáo sư Lê Văn Sửu với Nguyên lý thời sinh học cổ Ðông phương và Học thuyết âm dương ngũ hành, giáo sư Bùi Văn Nguyên với Kinh Dịch Phục Hy rồi giáo sư Nguyễn Tiến Lãng Kinh Dịch - sản phẩm sáng tạo của người Việt... đề xuất ý kiến đòi bản quyền sáng tạo Kinh Dịch cho người Việt. Những năm gần đây xu hướng này thu hút thêm nhiều nhà nghiên cứu trẻ: Nguyễn Vũ Tuấn Anh với Tìm về cội nguồn Kinh Dịch [5] , Nguyễn Thiếu Dũng với những bài báo “Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?” và “Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thuỷ của hào âm hào dương”, [6] đặc biệt là Trần Quang Bình với cuốn sách dầy dặn Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc. [7] Các nhà nghiên cứu lão thành đã bằng sự cảm nhận sâu sắc văn hoá phương Đông, thấy những chỗ bất cập của bản Kinh Dịch truyền thống, nhận ra hồn vía văn hoá Việt trong tên gọi các quẻ, trong cách giải nghĩa Dịch mà cho rằng Dịch đã do tổ tiên người Việt sáng tạo. Giáo sư Kim Định nhờ phát hiện triết lý an vi trong Dịch, đồng thời căn cứ ở tư liệu lịch sử cho rằng trước khi người Hán vào Trung Nguyên thì người Bách Việt đã tràn khắp 18 tỉnh của Trung Hoa; Phục Hy, Thần Nông là vị vua người Việt vì vậy, cố nhiên, Dịch phải là sản phẩm của người Việt. Nhìn chung, các vị đưa ra nhiều lý lẽ nghe có vẻ xuôi tai nhưng về chứng cứ chưa đủ mạnh nên chưa thuyết phục được ngay cả giới học giả trong nước. Những tác giả trẻ như Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Đỗ Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, mỗi người theo khả năng của mình đưa ra nhiều bằng chứng mới để chứng minh cho ý tưởng Kinh Dịch là của người Việt. Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhận ra sự không hoàn chỉnh của Hậu thiên Bát quái theo Văn Vương và phát hiện ra Bát quái Lạc Việt trong tranh Ngũ Hổ đình Hàng Trống Hà Nội nên cho rằng người Lạc Việt đã sáng tạo ra Hậu thiên Bát quái chuẩn thì chính là người làm ra Kinh Dịch. Nguyễn Thiếu Dũng phát hiện ra “Chiếc gậy thần – dạng nguyên thuỷ của hào âm hào dương” trên trống đồng Lạc Việt, quẻ Lôi Thuỷ Giải trên chiếc nồi đất thời Phùng Nguyên cách nay 3500 năm và dựa vào truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ tìm ra Trung thiên đồ nên cho rằng Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt Nam. Trung thiên đồ theo Nguyễn Thiếu Dũng có dạng: Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. Trần Quang Bình dựa vào công cụ điện toán, phát hiện ra trong 40.320 đồ hình Bát quái lý thuyết thì Bát quái Văn Vương chỉ là 1 trong 24 đồ hình đạt tới 6 chíều đối xứng. Chỉ duy nhất một đồ hình đáp ứng cả 8 chiều đối xứng, được gọi là Bát quái chuẩn. Ông cũng giải mã hoa văn khắc trên trống đồng và phát hiện Bát quái chuẩn trên trống Lạc Việt. Cũng nhờ giải mã hoa văn trống đồng, tác giả cho rằng Nòng và Nọc là hai ký hiệu nguyên thuỷ của hào Âm hào Dương của Dịch Lạc Việt. Ông cũng cho rằng mình tìm ra Bát quái Âu Lạc trong tranh Đàn Lợn của làng Đông Hồ. Từ đó ông kết luận, là người thủ giữ Bát quái chuẩn, lại có hiện vật là quẻ Lôi Thuỷ Giải trên gốm 3500 năm tuổi nên người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch, còn người Trung Hoa, nhận được vật cống Hà Đồ của người Việt, nhưng chưa được người Việt dạy cho Bát quái chuẩn vì vậy đã dùng Bát quái sai lạc của Văn Vương. Hậu thiên Bát quái Âu Lạc (theo Trần Quang Bình) 2. Nhận địnhHậu thiên Bát quái Âu Lạc (theo Trần Quang Bình) Ý tưởng của các học giả lão thành dù còn mơ hồ nhưng cũng là những gợi ý quý báu để hậu thế đi sâu tìm về cội nguồn của Kinh Dịch. Tôi cho rằng đó là những gợi ý sáng suốt có tính mở đường nên cần được tiếp thu một cách trân trọng. Với những tác giả trẻ kể trên, tôi nhận thấy: 1. Chỉ dựa trên sự phát hiện cái gọi là “Bát quái chuẩn” trên trống đồng, trên tranh dân gian mà cho rằng người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch là chưa đủ thuyết phục. Không thể loại trừ ít nhất khả năng, đó là sự sáng tạo độc lập của những nhóm người cư trú tại những lãnh thổ khác nhau, mà mức độ tinh xảo có khác nhau. Cho rằng người Trung Hoa ngẫu nhiên (bằng vật cống hay chiếm đoạt) có được Hà đồ rồi làm Dịch lại càng không có cơ sở, bởi lẽ nhiều tác giả chứng minh rằng không phải từ Hà đồ làm ra Dịch; mặt khác, nếu vậy, trên đất Trung Hoa không thể có một phong trào làm Dịch rộng lớn, bền bỉ trải dài nhiều thời kỳ, tạo nên di sản khổng lồ: tới đời Thanh, Tứ khố toàn thư tập hợp được 158 bộ gồm 1761 quyển, phụ lục 8 bộ, 12 quyển, 2. Cho rằng, vào đời Hạ, đời Thương Trung Quốc chưa có Dịch là không đúng. Sách bói Liên Sơn, Quy Tàng đã truyền từ thời Phục Hy qua Thần Nông, Hoàng Đế. Di vật xóm Rền (thành Dền?) 3500 năm trước tương đương với đời Thương. Như vậy dấu tích cổ nhất về quẻ Dịch ở Việt Nam cũng muộn hơn những sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế. Ta từng nghe nói sách Tam phần mở đầu Thượng Thư bị Khổng Tử loại bỏ khi san định kinh Thư thì chính đó là “Tam Phần Thư” mà Mao Tiệm phụng sứ đi kinh Tây, khi tới Đường Châu tìm được trong dân gian ba bộ sách gọi là Tam phần thư, gồm có Sơn phần, Khí phần, Hình phần. Sơn phần là Liên Sơn Dịch của Thiên hoàng, họ Phục Hy; Khí phần là Quy tàng Dịch của Nhân hoàng, họ Thần Nông; Hình phần là Kiền Khôn Dịch của Địa hoàng, họ Hoàng đế. Mỗi bộ Dịch đều có 8 quẻ; dưới mỗi quẻ lại đều có 7 quẻ nữa, tổng cộng 8 x 8 = 64 quẻ. Như vây Tam phần là Dịch thời Tam Hoàng. Chúng có những cái tên Liên Sơn, Qui Tàng, Kiền Khôn và có 64 quẻ, gọi là: “Quân, Thần, Dân, Vật, Âm, Dương, Binh, Tượng; Qui, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát; Thiên, Địa, Nhật, Nguyệt, Sơn, Xuyên, Vân, Khí” tức là Kiền, Khôn, Chần, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. [8] Điều này càng minh chứng cho việc Dịch có mặt ở Trung Nguyên ít nhất từ 2800 năm TCN. <H3 class=spip>III. Sự hình thành Kinh Dịch theo cách nhìn mới</H3>Kinh Dịch là bộ phận của văn hoá Á Đông. Vì vậy, muốn khám phá lịch sử hình thành Kinh Dịch, không thể không nắm vững lịch sử văn hoá Á Đông. 1. Cho đến cuối thế kỷ trước, lịch sử Á Đông được quan niệm như sau: “Con người xuất hiện vào lối 500.000 năm trước đây rồi lần lượt bị tiêu diệt qua bốn đợt băng tuyết, những người còn sống sót kéo nhau lên các miền núi cao nguyên sống trong hang hốc. Sang đến Tân Thạch, sau khi làn băng giá thứ tư tan rã, khí hậu trở nên ấm áp, loài người lục tục rời bỏ những hang động trong dẫy Thiên Sơn để thiên di xuống các vùng bình nguyên… Một nhóm sang phía Tây thành người da trắng. Trong những người tiến về phía Đông làm thuỷ tổ giống da vàng có hai chi gọi là Bắc Tam hệ và Nam Tam hệ. Bắc Tam hệ là ba phái đi theo Thiên Sơn Bắc lộ gồm có: 1. Phái Mãn tộc chiếm lĩnh vùng cực Đông Bắc Trung Hoa ngày nay; 2. Phái Mông Cổ chiếm lĩnh chính Bắc Trung Hoa; 3. Phái Đột Quyết chiếm lĩnh Tây Bắc Trung Hoa và Đông Nam Tây Bá Lợi Á. Nam Tam hệ gồm có ba tộc là Miêu (Viêm, Việt), Hoa, Tạng. Thoạt kỳ thuỷ, Miêu tộc theo dòng sông Dương Tử vào khai thác vùng Trường Giang thất tỉnh sau theo bình nguyên Hoa Bắc lên khai thác vùng lục tỉnh Hoàng Hà. Phía Nam lan tới khu vực Việt giang ngũ tỉnh… Khi Miêu tộc đã định cư rồi thì Hoa tộc tuy theo Thiên Sơn Nam lộ nhưng còn sống đời săn hái ở vùng Tân Cương, Thanh Hải… Về sau họ theo khuỷu sông Hoàng Hà tiến vào Bắc Trung Hoa chiếm đất của người Việt.” [9] Những dòng sử trên có một phần sự thật - đó là từ rất lâu, người Việt đã sống khắp lãnh thổ Trung Hoa - nhưng vẫn mắc sai lầm nghiêm trọng là cho rằng người Việt đã từ cao nguyên Thiên Sơn đi xuống. Do xác định hướng di cư như vậy, cũng như cho rằng người vượt Hoàng Hà chiếm đất của người Việt là người Hán, dẫn đến hậu quả là lịch sử không phù hợp với những phát hiện khảo cổ học trong vùng. Nhưng đến nay, nhờ những phát kiến về di truyền học, bức tranh về nguồn gốc loài người cùng thời tiền sử Á Đông được vẽ lại bằng những đường nét khác hẳn: Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện tại Đông Phi khoảng 180.000 năm trước. Đó có thể do cuộc hôn phối của người đàn ông duy nhất với 3 người đàn bà, sinh ra 3 đại chủng: Europide (da trắng), Australoid (da đen) và Mongoloid (da vàng). Người tiền sử từ Đông Phi đi lên Trung Đông từ rất sớm nhưng do bức thành băng hà chắn phía bắc nên không thể đi tới châu Âu. Đợt di cư đầu tiên là đi theo hướng mặt trời mọc về phương Đông. Cuối năm 1998, Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc (Chinese Human Genome Diversity Project), cung cấp những dữ liệu cho thấy cuộc hành trình của người hiện đại sang phương Đông như sau: Khoảng 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ Trung Đông theo ngả Nam Á tới Trung và Bắc Việt Nam. Tại đây hai đại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid tràn lan khắp lục địa Đông Nam Á. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Đông Nam Á di cư tới châu Úc, sau đó là New Guinea và các đảo ngoài khơi. Khoảng 40.000 năm trước, do băng hà tan, khí hậu trở nên ấm áp, người từ Đông Nam Á đi lên khai thác lục địa Trung Hoa. Do sống theo từng nhóm riêng rẽ trong thời gian dài trên địa bàn rộng, người Đông Nam Á đã phân ly thành những bộ lạc khác nhau mà sau này lịch sử gọi bằng tên chung là Bách Việt. Ban đầu người Việt mang theo những công cụ đá mài mà tiêu biểu là loại búa đá lưỡi cong (gọi là phủ, việt) nên tên người Việt được viết với bộ Qua. Khoảng 15.000 năm cách nay, những lớp người tới sau mang theo giống lúa, khoai sọ và gà, chó từ Văn hoá Hoà Bình Việt Nam lên, phát triển nông nghiệp lúa nước trên lưu vực Dương Tử rồi Hoàng Hà. Lúc này tên người Việt được viết với bộ Mễ để ghi nhận chủ nhân của cây lúa nước. Cho đến thiên niên kỷ thứ IV TCN, người Bách Việt sống tại duyên hải Á Đông có nhân số chiếm tới 54% nhân loại, trong đó người Lạc Việt có khoảng 15-20%, giữ vai trò lãnh đạo về ngôn ngữ và xã hội. Người Bách Việt xây dựng nền văn minh nông nghiệp sớm và rực rỡ nhất thế giới và là người giỏi đi biển, có những con thuyền đủ sức làm chủ biển Đông. [10] Tại di chỉ Bán Pha 2 tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc, được định tuổi 12.000 năm trước, năm 2003 các nhà khảo cổ phát hiện chiếc bình gốm cổ đựng trà, trên đó có văn bản được khắc bằng chữ tượng hình cổ chứng tỏ rằng, vào thời đó người Việt đã có chữ viết. Tại di chỉ Giả Hồ với 9.000 năm tuổi, cũng phát hiện những ký tự khắc trên mai rùa cùng những ống sáo làm bằng xương chim hạc, đó là những nhạc cụ xưa nhất của người hiện đại được khám phá. Chính ở đây cũng tìm thấy rượu được làm bằng gạo, mật ong và táo gai. Dựa vào trình độ văn minh của người Bách Việt, ta có thể đoán rằng, vào thời kỳ này, người Bách Việt đã có những hiểu biết cần thiết về thiên văn với sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao gần gũi. Kinh nghiệm dự báo thời tiết đã phong phú và biết làm lịch. Người Việt cũng khám phá ra Âm Dương, Ngũ hành. Có thể vào thời kỳ này công cụ bói toán là những quẻ bói ra đời. Những nghiên cứu di truyền học cũng cho thấy, khoảng 30.000 năm trước, một số nhóm Mongoloid từ Đông Nam Á theo con đường Ba, Thục lên định cư tại Tây Bắc Trung Quốc. Đó là tổ tiên của những bộ lạc Mông Cổ thiện chiến sống du mục trên các đồng cỏ Thiểm Tây, Cam Túc. Sau này, được khoa học định loại là chủng Mongoloid phương Bắc. Có thể hình dung bức tranh thời tiền sử trên lãnh thổ Trung Hoa như sau: Ít nhất vào khoảng 30.000 năm cách nay, người Bách Việt đã có mặt khắp 18 tỉnh của Trung Quốc. Ở vùng phía Bắc có tình trạng: sống cách nhau con sông Hoàng Hà nhưng giữa người Bách Việt và người Mông Cổ là hai thế giới khác biệt. Dù phải sống trên thảo nguyên khô lạnh và khắc nghiệt nhưng người Mông Cổ do phương thức sống du mục nên không thể lùa đàn gia súc qua sông Hoàng tới vùng đồng bằng lầy lội. Mãi sau này, khi thấy những người nhỏ bé, có sắc da đen, tóc xoăn, trồng lúa nước sống nhàn hạ và sung túc bên kia sông, người Mông Cổ nảy lòng tham, mưu toan chiếm đất của Bách Việt. Khoảng 2600 năm TCN, một số bộ tộc Mông Cổ du mục do họ Hiên Viên dẫn đầu, vượt sông Hoàng Hà, chiếm Thiểm Tây, Sơn Tây… Do người Bách Việt quá đông, chống cự kiên cường nên người Mông Cổ lâm vào trận chiến dai dẳng, ác liệt, chịu nhiều thiệt hại. Sau trận quyết chiến Trác Lộc, tuy diệt được thủ lĩnh Việt tộc là Đế Lai, chiếm được một phần đất đai nhưng người Mông Cổ vẫn thường xuyên bị tấn công trong một trận chiến du kích trường kỳ. Mặt trận càng mở rộng thì quân Mông Cổ càng phải dàn mỏng ra và lâm vào tình thế bất lợi. Từ thực tế chiến trận, kẻ xâm lược nhận ra: không thể toàn thắng người Việt bằng bạo lực. Mặt khác, từ thực tế cho thấy nguồn thức ăn dồi dào, đất đai rộng rãi, người đông đúc nên không bắt buộc phải tàn sát diệt chủng hoặc nô lệ hoá kẻ bại trận. Do vậy, ở những nơi chiếm được, người Mông Cổ thực thi chính sách mềm dẻo: dành cho người Mông làm quan cai trị, làm công nghiệp, thương nghiệp, để cho người Việt giữ nguyên quyền cày cấy trên đất của mình, đi lính, làm tạp dịch và đóng một mức thuế vừa phải. Nhận thấy người Việt hiền lành, ưa cuộc sống tự do, thích ca múa… nên các thủ lĩnh Mông Cổ tôn trọng nếp sống của người Miêu Việt, dùng âm nhạc, ca múa phủ dụ. Nhờ vậy, dần dần giữa người Mông và người Việt xây dựng được cuộc chung sống tương đối hoà thuận. Do sống chung đụng, đã có cuộc hoà huyết giữa người Bách Việt và người Mông Cổ, tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam. Việc hoà huyết này như phản ứng dây chuyền tràn lan rất nhanh, chỉ vài ba thế hệ, phần lớn người Việt trong vùng bị chiếm cũng như người Mông Cổ chiếm đóng biến thành chủng Mongoloid phương Nam. Sắc dân này trở nên thành phần chủ thể của dân cư thời Đào Đường, nhà Hạ, Thương, Chu. Khi Lưu Bang lập nước Hán thì họ được gọi là người Hán. Trên thực tế, người Hán chỉ ra đời từ sau năm 2600 TCN, là con lai giữa người Mông Cổ phương Bắc và người Bách Việt. Do mang hai dòng máu của Viêm Đế và Hoàng Đế, người Trung Hoa sau thời Hoàng Đế đã tiếp thu hai nguồn văn hoá Bách Việt và Mông Cổ để xây dựng nền văn hoá Trung Hoa rực rỡ, trong đó có việc hoàn thiện công cụ bói toán. Có thể công cụ bói toán mà sau này có tên là Dịch được ra đời như sau: Khám phá thiên nhiên huyền bí là khát vọng lớn lao của con người. Khát vọng lớn lao không kém nữa là dự đoán những may rủi, hoạ phúc đến với cộng đồng cũng như tới số mệnh của từng con người. Một công cụ để bói toán là điều bức xúc. Do quan sát thiên nhiên, dần dà con người biết được sự vận hành của mặt trăng, mặt trời, các vì sao cùng mối liên quan của chúng với trái đất. Người ta cũng phát hiện ra hai yếu tố Âm, Dương cùng với Ngũ hành sinh khắc chi phối toàn bộ sự vận hành của Vũ trụ. Tới một lúc nào đó, những trí tuệ sáng láng nhất trong cộng đồng hình dung ra Vũ trụ là Thái cực như một vòng tròn chứa nghi Âm và nghi Dương. Lưỡng nghi cọ xát thành Tứ tượng, Tứ tượng cọ xát thành Bát quái… Do quen với chữ Nòng Nọc nên lúc đầu người ta dùng Nòng 0-0 để ký hiệu nghi Âm và Nọc 0 ký hiệu nghi Dương. Tới lúc nào đó, hai ký hiệu toán nhị phân trên được cải tiến thành vạch đứt - - tượng trưng cho Âm, vạch liền – tượng trưng cho Dương. Chồng những tượng Âm, Dương lên nhau thành Tứ tượng rồi Bát quái, trùng quái là việc không mấy khó. Cái khó hơn, khiến đau đầu người xưa là làm cách nào bố trí hợp lý 8 quái trên hoành đồ rồi viên đồ. Càng khó hơn khi bố trí một thứ tự thoả đáng cho 64 quẻ trong mối tương quan đa chiều giữa quẻ này và quẻ khác trên phương đồ, viên đồ… Bằng sự kiên trì của loài kiến, dần dần người xưa cũng tìm ra Bát quái khả dĩ phục vụ cho mục đích của mình: Tiên thiên Bát quái. Có thể Phục Hy là người sáng chế ra Bát quái Tiên thiên này mà cũng có thể Ngài đã tổng kết hàng nghìn Bát quái trong dân gian để thành Tiên thiên Bát quái. Rồi dùng Tiên thiên Bát quái như một la bàn, Phục Hy đã sắp xếp vị trí 64 quẻ theo trật tự hợp lý nhất, đó là Trùng quái Phục Hy. Trùng quái Phục Hy trở thành cuốn sách bói truyền đến Thần Nông dưới tên Liên Sơn, tới Hoàng Đế có những bổ sung cải tiến và được gọi là Quy Tàng. Hai công cụ bói toán này truyền qua thời Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương… Trong dân gian người ta cũng dần dần phát hiện ra những bất cập, những sai lệch của Liên Sơn, Quy Tàng. Vì vậy tự nhiên, không ít đề nghị cải tiến sách bói được đưa ra. Theo truyền thuyết, Văn Vương là thánh nhân đáp ứng được việc này. Có thể do chính Ngài phát minh ra, cũng có thể Ngài tổng hợp những phương án xuất hiện trong dân gian, thành Bát quái mới mà sau này được gọi là Hậu thiên Bát quái hay Bát quái Văn Vương. So với Bát quái của Phục Hy, Bát quát Văn Vương là thành tựu nổi bật vì là 1 trong 24 đồ hình đạt được 6 đối xứng (theo Trần Quang Bình). Dựa vào Hậu thiên Bát quái, Văn Vương bố trí lại 64 quẻ rồi trước tác ra quái từ, hào từ, đưa sách bói thành công cụ bói ưu việt và Dịch ra đời. Năm trăm năm sau Văn Vương, Khổng Tử san định Dịch, viết Thập dực, làm cho Dịch có diện mạo như hiện nay và được xếp vào Ngũ kinh. Dựa vào phát hiện những dấu vết Dịch trên gốm Phùng Nguyên, trên trống đồng Đông Sơn, việc tìm thấy bản Dịch tại Mã vương đôi miền Hồ Nam cùng những bản sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế bên sông Hoàng Hà, ta có thể nhận định rằng: Bát quái, trùng quái được người Bách Việt sáng tạo trên địa bàn rộng lớn từ bên sông Hồng sông Mã, tới Dương Tử, Hoàng Hà. Không phải ngẫu nhiên mà trên quốc kỳ của Đại Hàn dân quốc có đồ hình Thái cực và Bát quái. Họ chính là hậu duệ của dòng U Việt mà tổ tiên từ 3-4 nghìn năm TCN đã góp phần sáng tạo ra Dịch. Có thể có tình huống thế này: cũng như những chiếc búa đá mài được người Hoà Bình đưa lên Trung Nguyên, sau đó là giống lúa, giống gà, giống chó… Bát quái, rồi trùng quái cũng được người Phùng Nguyên sáng tạo rồi theo chân người Việt di cư mang tới bên sông Dương Tử, Hoàng Hà. Việc sáng chế là một quá trình hàng ngàn năm, bắt đầu là Bát quái Tiên thiên rồi Bát quái Hậu thiên. Đến khi người Phùng Nguyên khám phá ra Bát quái chuẩn, là Bát quái Lạc Việt thì xảy ra sự cố người Mông Cổ xâm chiếm đất đai Bách Việt. Cuộc di cư lên phía bắc từ hàng vạn năm bị chặn đứng. Do không có người đi lên mà chỉ có người chạy loạn trở về nên nhiều yếu tố mới của văn hoá phương Nam, trong đó có Bát quái Lạc Việt không được đưa lên phương Bắc. Tíếp đó là những tao loạn thời Chiến Quốc càng làm khó con đường đi lên của người Việt. Tiếp theo là Thục Phán chiếm ngôi của Hùng Vương rồi nhà Tần xâm lăng. Không còn cách nào khác, người Âu Lạc đành khắc Bát quái Lạc Việt lên trống đồng để cất giữ. Do người xưa ký thác một cách quá bí hiểm nên kẻ xâm lăng phương Bắc thủ đắc trống hơn 1000 năm cũng như con cháu sau này tuy có tìm thấy trống cũng không thể giải mã nổi. Đến ngày nay, nhờ cố công của nhiều thế hệ người Việt và nhờ vào phương tiện khoa học hiện đại, những tác giả như Đoàn Nam Sinh, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình tìm lại được đồ hình Bát quái Âu Lạc trên trống đồng, tranh Đàn Lợn của Làng Hồ, tranh Ngũ Hổ đình Hàng Trống… Cố nhiên những khám phá này cần được kiểm chứng công nhận sự chính xác. Dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng vô cùng biết ơn người Trung Hoa anh em có công cực kỳ lớn lao trong việc tiếp thu sách bói Liên Sơn, Quy Tàng từ tổ tiên Bách Việt rồi bỏ công sức, trí tuệ xây dựng nên Kinh Dịch với diện mạo hiện nay, một đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. 2. Khi đi tìm công cụ bói toán, người xưa buộc phải khám phá bản chất cùng sự vận hành của Vũ trụ. Không phải duy nhất một con đường đến La Mã thì cũng không phải chỉ một con đường duy nhất phát hiện bản chất vũ trụ là việc bói cỏ thi. Có thế là cùng với những quẻ Dịch, đã phát hiện ra hai công cụ bói toán khác là Hà đồ và Lạc thư dùng để bói rùa. Dựa vào việc bố trí những chấm Âm, Dương trên Đồ, Thư được vẽ trên mai rùa, khi nướng vỏ rùa, người ta căn cứ trên những vết nứt để định quẻ rồi giải đoán bằng Dịch. Như vậy là, dù được sáng tạo ra một cách độc lập nhưng Hà đồ, Lạc thư cùng phục vụ cho việc bói toán. Do cùng là những công cụ mã hoá bản chất và sự vận hành của Vũ trụ nên Đồ, Thư và Bát quái có những tương đồng do quy chiếu vào bản chất vũ trũ. Tới thời gian nào đó, Đồ và Thư được gộp chung vào Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch. Khi san định Chu Dịch, Khổng Tử thấy trước mắt mình tất cả Quái, Đồ, Thư nên Ngài mặc nhiên tin rằng cả 3 là thành phần bất khả phân ly của sách Dịch. Vì vậy Ngài cho rằng, thánh nhân (những vị tài giỏi sống rất lâu trước mình) nhận được Đồ, Thư từ sông Hà sông Lạc rồi theo đó vạch quẻ: “Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tắc chi.” Chính lời nói này khiến cho hậu thế nhầm theo là từ Hà đồ, Lạc thư mà làm ra Bát quái. Điều này không đúng với logic của tư duy: Quái đơn giản hơn Đồ, Thư nhiều nên theo tư duy logic thông thường, quái phải được làm ra trước Đồ, Thư. Hoặc giả cả ba cùng được tìm ra một cách riêng rẽ. Dầu sao mặc lòng thì cũng không thể từ Đồ, Thư mà làm ra Bát quái. Và quả như những chứng minh ở trên cho thấy, Đồ, Thư không liên quan tới Bát quái. Khổng Tử đã lầm nhưng cháu ông là Khổng An Quốc lại lầm hơn khi đưa ra những yếu tố dị đoan là con Long mã trên sông Hà, con Thần quy trên sông Lạc. Sự thêm thắt vô sở cứ này dẫn hậu nhân đến hoang đường lầm lạc và khiến cho hậu thế gọi ông là tội đồ của Dịch. <H3 class=spip>III. Kết luận</H3>1. Từ chứng minh ở trên, ta có thể tin được rằng, Kinh Dịch nguyên là công cụ bói toán do người Bách Việt sống từ sông Hồng, sông Mã tới Dương Tử, Hoàng Hà sáng tạo. Khoảng 2800 TCN, Phục Hy đã từ những đồ hình Bát quái lưu hành trong dân gian, sáng tạo ra Tiên thiên Bát quái. Dựa vào cái la bàn này, Ngài đã sắp xếp một cách tương đối thoả đáng các quẻ trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, trở thành sách bói toán hữu dụng. Văn Vương dựa vào những bát quái do dân gian phát hiện, đã sáng tạo nên Hậu thiên Bát quái rồi từ đây điều chỉnh vị trí các quẻ và sáng tác quái từ, hào từ, đưa cuốn sách bói toán trở thành Chu Dịch. Bằng công trình san định của mình, Khổng Tử đã đưa Chu Dịch trở thành bộ kinh điển đứng hàng đầu trong kho tàng tri thức nhân loại. 2. Tuy nhiên tới nay cũng chưa thể nói Kinh Dịch là tác phẩm hoàn chỉnh, không còn điều gì để bàn bạc sửa chữa. Đọc bộ Dịch do Chu Hy truyền lại, không thiếu những chỗ người đọc phải chấp nhận một cách khiên cưỡng là chỉ dấu cho thấy điều này. Dịch vốn là công cụ bói toán, vậy mà gần hai ngàn năm nay, những nhân tài xuất chúng về bói toán chỉ đếm không hết trên đầu ngón tay, cho thấy bản thân công cụ bói toán có vấn đề. Vấn đề ở đây là do người Trung Hoa chỉ có thể đạt tới Bát quái Văn Vương với 6 đối xứng. Từ Bát quái bất toàn này đã dẫn đến những thiếu sót nghiêng lệch trong việc sắp xếp các quẻ, khiến việc viết quái từ, hào từ, thập dực thiếu chính xác. Tôi cho rằng, Tiên thiên, Hậu thiên, rồi Trung thiên đồ chỉ phản ánh từng bước con người khám phá sự vận hành của vũ trụ. Do nhận ra đồ hình Bát quái của Phục Hy còn thiếu sót bất cập, trước thời Văn Vương, người xưa đã tìm ra một đồ hình khác. Khi đặt tên cho đồ hình mới này là “Hậu thiên”, thì đồng thời gọi đồ hình của Phục Hy là “Tiên thiên” để phân biệt. Về nguyên tắc, Tiên thiên Bát quái là vô nghĩa, vì lúc đó Vũ trụ chưa sinh, thì làm gì đã có những Càn, Khôn cùng sự vận hành? Một vũ trụ chưa có (tiên thiên) làm sao có thể tác động tới con người ở thời Hậu thiên? Nhưng trên thực tế, Tiên thiên đồ đã là công cụ bói toán hữu hiệu. Điều này chứng tỏ cái tên “tiên thiên” đặt cho đồ hình Phục Hy là không chuẩn. Ngày nay, khi nhận ra sự thiếu sót bất cập của Bát quái Văn Vương, con người cần phải tìm ra bát quái tiến bộ hơn. Tác giả Trần Quang Bình có công đã tìm ra Bát quái chuẩn (Bát quái Lạc Việt). Từ đây, công việc phải làm là xây dựng bộ Dịch mới theo chỉ đạo của Bát quái chuẩn: xếp lại đồ hình của 64 quẻ cho thật chính xác, từ đó chỉnh lại những chỗ chưa phù hợp của quái từ, hào từ, hệ từ… Cũng trong ý nghĩa trên, Trung thiên đồ là một bước trung gian tiến tới đồ hình chuẩn. Khi phát hiện ra đồ hình chuẩn, Trung thiên đồ không còn cần thiết nữa. 3. Dịch là cuốn sách triết lý về Vũ trụ và nhân sinh nên sự chính xác của những luận đoán của nó phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí, tức toạ độ của người dùng Dịch, do sự chi phối của lực hút Trái đất cùng tác động của các thiên thể. Giữa Việt Nam và Trung Quốc có khoảng cách về địa lý, múi giờ khác nhau. Dịch do người Trung Hoa làm ra như hiện nay chưa thật chính xác đối với người Trung Hoa thì độ chính xác sẽ kém đi đối với người ở vĩ độ khác. Xin dẫn ra đây một thí dụ từ bài viết của Nguyễn Thiếu Dũng: “Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiễn Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển: Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.” Vì vậy nên chăng, người Việt Nam nên dựa vào Bát quái Lạc Việt làm ra cuốn Dịch Việt Nam để phục vụ tốt hơn cho nhân dân, đất nước mình. 4. Thoạt kỳ thuỷ, Dịch là sách bói. Có thời kỳ việc bói toán bành trướng làm Dịch bị suy đồi. Nay ta đang ở thái cực khác, coi bói toán là mê tín dị đoan nên trên phương diện chính thống, bị bài bác vùi dập. Đấy lại là một cực đoan. Cực đoan là tiêu cực. Nên chăng chúng ta ủng hộ cả hai cánh của Dịch học - triết lý và dự báo - để Dịch vừa phục vụ con người triết lý vừa phục vụ con người tâm linh? Dự báo tương lai với những cát hung hoạ phúc là khát vọng lớn của con người từ tuổi ấu thơ. Khát vọng đó ngày nay và có lẽ mãi mãi không bao giờ vơi cạn. Vì vậy việc cần làm là biến Dịch thành môn khoa học dự báo tương lai đạt tới độ tin cậy cao chứ không phải như lạc đà vùi đầu trong cát để phủ nhận bói toán. Cần đưa Dịch thành môn học trong trường phổ thông để công dân tương lai không bị mù dịch, ngu ngơ trước quy luật vận hành của Vũ trụ, đứng ngoài thành tựu văn hoá của tổ tiên. Trong lĩnh vực này, cuốn Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người của nhà văn Xuân Cang dựa theo sách Học Năng vận dụng vào việc phác thảo chân dung các nhà văn là việc làm tích cực: từ 8 chữ trong ngày tháng năm sinh của một người, nhà bói Dịch vạch ra những quẻ cho ta biết những gì có thể xảy đến với ta theo từng năm tháng. Dựa vào đấy người ta có thể hạn chế những điều hung và phát huy những năm tháng thuận lợi trong cuộc đời, hạn chế bớt những bi kịch do thiếu hiểu biết. Đây mới là những thử nghiệm nhưng là thử nghiệm mang tính nhân văn cao nên cần khuyến khích. HVT, Sài Gòn cuối Đông Bính Tuất, © 2007 talawas Xem thêm Hà Văn Thuỳ: "Tìm lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá" nguồn dongtac.net
  20. Như Thông muốn biết gì về Dư quang Châu ?
  21. Loài hoa ưa thích tiết lộ tính cách Bạn thích hoa cẩm chướng, hoa hồng, tulip hay những đóa hướng dương... mỗi loại hoa có thể bật mí ít nhiều về tính cách và tâm hồn của bạn 1. Hoa cẩm chướng: Bạn có một phong cách riêng khiến mọi người thấy bạn thật thú vị. Bạn quyến rũ, có khả năng lôi cuốn mọi người. Bởi vậy, rất nhiều người quan tâm tới bạn. Không chỉ thế, bạn sở hữu một trí nhớ tốt, hiếm khi quên tên một ai đó, và những người bạn yêu quý luôn ở sâu trong tâm trí bạn. 2. Hoa đồng tiền: Bạn có một tinh thần lạc quan tuyệt vời. Theo Blog Thing, thế giới qua đôi mắt bạn chỉ toàn những niềm vui. Bạn là một người can đảm và sôi nổi nhưng cũng dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Bởi vậy, dù khó khăn thế nào, bạn cũng có thể vượt qua. 3. Hoa lan Bạn có một nét đẹp riêng và độc đáo. Sự quyến rũ của bạn xuất phát cả từ sự tinh tế và mạnh mẽ. Bạn hiểu biết và tao nhã. 4. Hoa ly Bạn thích vui đùa, hài hước, ưa những lời ngọt ngào và cũng rất hòa đồng với mọi người. Bạn có thể dễ dàng khiến cả một căn phòng vui vẻ hẳn lên cũng như khiến một trái tim nào đó phải xao động. Tính cách của bạn thu hút được rất nhiều sự chú ý. 5. Hoa hồng Bạn là tuýp người tin vào sự lãng mạn cổ điển với những tình yêu đích thực luôn tồn tại. Bạn luôn có những suy nghĩ rất sâu sắc và dành những tình cảm ấm áp cho hầu hết mọi người. Sự lạc quan luôn có trong con người bạn. 6. Hoa hướng dương Bạn thực sự là một người tràn đầy nhiệt tình. Bạn đem hạnh phúc tới cho tất cả những người xung quanh bạn và mọi người cũng rất quý bạn. Bạn dũng cảm và vui vẻ, đem tới cho mọi người sự lạc quan. 7. Hoa tulip Bạn được nhiều người yêu mến và tôn trọng. Nụ cười rạng rỡ tuyệt vời của bạn khiến bạn có thể dễ dàng gần gũi, kết thân với mọi người. Ban Mai ( nguồn ngoisao.net )
  22. Cái này đi sâu vào chuyên môn của ngành vật lý rồi . tất cả tên gọi hay tính năng theo yêu cầu chỉ có Anh Thiên sứ mới nêu được .mục đích sử dụng và hiệu quả của cái chúng ta cần , hy vọng Thiên Sứ sớm có ý kiến về vấn đề này .
  23. Vấn đề thứ 2 Anh Thiên Sứ đặt ra Wild sẽ yêu cầu cung cấp trước khi đặt mua từ người liên hệ , Catalogue hình ảnh cũng như chế độ bảo hành . Hà mạnh hùng thân mến ! Wild biết được tính năng của máy này từ Thầy cảm xạ Dư Quang châu , nhưng thầy Châu đã từ chối không cho thông tin nhiều , Wild trao đổi với người quen ở nước ngoài , họ hứa sẽ tìm mua giúp chúng ta , Wild cũng đã tìm ở Google nhưng chưa tìm được nên không có đường link nào để cung cấp cho Hùng . Nay được biết thêm ở Poland chuẩn bị có triễn lãm về các dụng cụ Vật lý sinh học Từ trường và cũng giới thiệu bán sản phẩm này , nhưng làm sao mua được ? Wild cũng bị hạn chế về điều kiện quan hệ để mua .
  24. Bà con link vào đây để thưởng thức ! http://tuoitremtcn.com/forum/showthread.php?t=637=))kinhd