wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Tôi nghi ngờ sự đóng góp học thuật của toithangthan, mượn trúc bẻ tre đây thôi!
  2. Wild đăng ký ủng hộ Bác Xuyền 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) nhờ Bác Thiên Sứ chuyển giúp!
  3. Già mà còn .. nhanh trí ! Một người đàn ông ( hơi ) cao tuổi ở Louisiana đã sở hữu một trang trại lớn trong nhiều năm. Ông ta có một ao lớn ở phía sau trại . Nó cũng giống một bể bơi , do đó, ông ta đóng thêm một bàn ăn, làm sân hình móng ngựa, và trồng một vài cây táo , cây đào. Một buổi tối, ông ta thả bộ ra ngòai bờ ao mà đã lâu không ra đó. Ông xách theo một thùng năm gallon để tính hái về một số trái cây. Khi gần ao, ông nghe tiếng người cười nói khúc khích. Khi ông đến gần, ông thấy đó là một đám phụ nữ trẻ đang đùa vui trong ao của mình. Các cô gái thấy ông thì la lên và ... lội ra chỗ sâu hơn! Một trong những người phụ nữ hét lên với ông ta : chúng tôi sẽ không vào bờ cho đến khi ông đi khỏi đây! Ông già cau mày, "Tôikhông đến đây để rình các cô tắm đâu ! ... " Và giơ xô lên , ông nói: "Tôi tới đây đem đồ ăn nuôi .... cá sấu !"
  4. Nếu vậy các nhà khoa học lại vào cuộc xem cô bé có khả năng gì ? não nằm ở chân hay ở đâu? mà lơ lững được?
  5. Oan oan tương báo!
  6. Bốn loại lễ lạy Pháp Hạnh dịch từ Anh sang Việt Đọc bản tiếng Anh Thiền sư Thánh Nghiêm (Thuyết giảng vào buổi tối ngày 4 tháng 12 năm 1992 trong đạo tràng tu học) Lễ lạy có 4 loại. Loại thứ nhất là lễ lạy để cầu xin ước mơ được thành tựu. Khi chúng ta lễ lạy kiểu này, chúng ta cầu xin chư Phật và Bồ tát giúp đỡ mình. Chúng ta có thể lễ lạy theo cách này khi đối diện với khó khăn hay những việc không may mắn. Ta cũng có thể lễ lạy dùm cho người khác. Nếu ai đó không được khỏe, bạn có thể lễ lạy để xin sự giúp đỡ từ đức Phật. Loại lễ lạy này còn được thực hành để tránh chuyện tai nạn, bệnh tật, hay xin tăng tuổi thọ. Loại lễ lạy thứ hai được thực hiện bởi sự chân thành nơi nội tâm chứ không phải với tâm mong cầu. Bạn có thể lễ lạy với chiều sâu của trái tim để bày tỏ lòng tri ân lên ngôi Tam Bảo. Bạn cũng có thể lễ lạy vị giáo thọ hay các bậc sư phụ của mình. Sư phụ đại diện cho ngôi Tam Bảo, vì thế chúng ta lễ lạy quý Ngài với tâm chân thành để thỉnh cầu sự dạy dỗ và và hưóng dẫn. Ðiều quan trọng là bạn phải hiểu rằng chính bạn là người hưởng lợi từ sự lễ lạy như vậy, chứ không phải là vị sư phụ của mình. Qua hành động biết ơn và tôn kính này mà chúng ta có thể thay đổi chính mình và phát khởi chân thành nơi nội tâm.Loại lễ lạy thứ ba là lễ lạy sám hối. Ðể thực hiện được loại lễ lạy này, bạn cần phải có tánh khiêm cung và cảm giác hỗ thẹn. Không thể lễ lạy theo dạng này nếu bạn còn đầy rẫy sự kiêu căng. Ngay cả khi chạm đầu xuống đất, mà bạn vẫn còn suy nghĩ là mình đúng và người khác là sai thì không được. Cách lễ lạy này giúp bạn thay đổi bản tánh của mình trở nên biết tiếp thu và và thành thật hơn. Nó cũng sẽ giúp bạn trở nên đầy đủ và hoàn thiện hơn. Loại lễ lạy này giống như là giặt quần áo. Quần áo chúng ta hết bị dơ đi rồi lại dơ lại. Và mỗi khi chúng bị dơ lại, chúng ta lại tiếp tục giặt lại. Ngày nào chúng ta còn giặt, thì quần áo chúng ta còn được sạch sẽ. Thực hành động tác lễ lạy sám hối mà không thú nhận lỗi lầm hoặc thiếu sự thẳng thắn và chân thành thì cũng giống như mặc quần áo mà không giặt giũ. Chúng sẽ ngày một dơ thêm. Khi bạn còn thấy vết dơ nơi quần áo, thì hãy mừng vui vì chúng rõ ràng và dễ phát hiện. Nghĩa là quần áo của bạn vẫn còn không đến nỗi quá dơ. Nếu bạn không bao giờ giặt quần áo, bạn sẽ không nhận ra được những vết dơ mới. Không nhất thiết phải cảm thấy tủi thân khi mình tìm ra lỗi ở chính mình. Càng tìm nhiều lỗi, càng tốt. Có khả năng bạn sẽ tìm thấy chúng trước khi chúng khởi hiện. Hơn thế nữa, một khi bạn phát giác ra sự yếu kém của mình, bạn có thể sẽ thay đổi được chúng.Loại lễ lạy thứ tư tôi gọi nó là “lễ lạy không có hình tướng”. Tuy nhiên, vì khó có thể ngay lập tức đi tới sự không có hình tướng (vô tướng), nên chúng ta bắt đầu bằng hình tướng và dần dần tiến triển qua các giai đoạn cho đến khi chúng ta đến được vô tướng. Tương tự như vậy, đễ đạt đến vô ngã - vô thường, chúng ta bắt đầu bằng hữu ngã. Từ đó, chúng ta quán chiếu sự rỗng lặng cho đến khi chúng ta dần dần di chuyển đến mức độ vô ngã. Chúng ta cũng làm như vậy vói sự bám víu cố chấp: bắt đầu từ quán chiếu sự bám víu và từ từ đạt được mục tiêu của mình. Lễ lạy vô tướng đến từ quán chiếu bốn y điểm của chánh niệm: thân, cảm giác, tâm, và các hiện tượng (thân, thọ, tâm, và pháp). Bất kể y điểm của tâm nào mà chúng ta quán chiếu, chúng ta bắt đầu bằng hình tướng và kết thúc bằng vô tướng. Chúng ta có thể coi bốn y điểm này trong bối cảnh những giai đoạn của lễ lạy vô tướng mà tôi sẽ mô tả ngay đây. Giai đoạn 1 là khi chúng ta ra lệnh chính mình lễ lạy và cơ thể vâng lời mệnh lệnh này. Chúng ta kiểm soát cơ thể mình và ra lệnh cho nó lễ lạy một cách có ý thức. Khi thực hành sự lễ lạy, chúng ta liên tục hết sức chú tâm vào các cử động và cảm giác. Như vậy là chúng ta đã quán chiếu được hai y điểm đầu tiên là thân và cảm xúc rồi. Y điểm thứ 3, tâm, cũng được liên hệ vì sự trong sáng và nhận thức chính là tâm. Ở thời điểm này, tâm của chúng ta chắc phải là đã thuần và trầm lắng vì cử động của cơ thể được tiến hành một cách chậm rãi. Trong giai đoạn thứ hai, chúng ta biết mình đang lạy và cảm nhận được hành động lễ lạy, nhưng cơ thể chúng ta tự động lễ lạy. Chúng ta không còn cần phải ra lệnh hay kiểm soát cơ thể của mình nữa. Lúc này chúng ta là những chứng nhân. Ai đang lạy? Cơ thể đang lạy. Ở giai đoạn này, không còn suy nghĩ, “tôi đang lạy”, mà là lễ lạy đang diễn ra. Ở giai đoạn thứ ba, mọi người có thể thấy như là bạn đang lễ lạy, nhưng chính thực trong bạn, không còn những suy nghĩ về bạn đang lễ lạy hay lễ lạy đang xảy ra. Thân, tâm và cảm giác đã hòa nhập: không có sự chia cách.Như việc học cưỡi ngựa, thoạt đầu còn có người cưỡi và con ngựa, hai ý chí riêng biệt muốn đi theo đường của mình. Vì vậy, chuyến đi hết sức dằn xốc. Người c ưỡi ngựa có kinh nghiệm không cảm thấy có sự phân cách giữa chính họ và ngựa. Ngựa hồi đáp ngay tức khắc và vì thế chuyến đi trở nên thật êm ái và suông sẻ. Mức độ thứ 3 là giai đoạn của vô tướng, nhưng nó chưa phải là vô ngã. Khi chúng ta hoàn thiện giai đoạn thứ ba, sẽ không còn bất cứ một sự ảnh hưởng nào khác nữa. Chúng ta sẽ không còn bị chi phối bởi trạng thái nội tâm hay ngoại cảnh. Dĩ nhiên, chúng ta phải luôn bắt đầu từ giai đoạn đầu tiên. Nếu chúng ta không thể ngay cả đạt đến đạt được trình tự sơ khởi của tâm an bình và nhẹ chuyển, thì không thể nào tiến triển đến giai đoạn kế tiếp được. Pháp Hạnh (The Buddhist Translation Group)
  7. NAM MÔ ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử. Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng Quan Đại thần là Bảo Hải thấy vậy, bèn khuyến thỉnh rằng: “Thưa Điện hạ! Trong sự tu phước có hai thứ: một là tu phước hữu lậu hai là tu phước vô lậu. Song phước hữu lậu dầu có to tát thế nào, thì chỗ cảm báo cũng chỉ ở trong cõi Nhơn Thiên hưởng phần khoái lạc mà thôi: chớ không thoát khỏi luân hồi sanh tử. Còn như phước vô lậu, thì chỗ kết quả ở ngoài ba cõi bốn dòng, kiếp kiếp đời đời tiêu diêu tự tại. Vậy xin Điện hạ nên vì tất cả chúng sanh mà cầu đặng “Nhứt Thiết Trí” đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề, thì sự phước báu không khi nào cùng tận, mà lại đặng viên mãn cái tâm nguyện nữa. Ni Ma Thái Tử nghe quan Đại Thần khuyên nói rành rẽ như thế, liền chấp tay thưa với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là: Ba nghiệp của thân 1- Không sát hại chúng sanh, 2- Không trộm cắp của người và 3- Không tà dâm Bốn nghiệp của miệng. 1- Không nói láo xược 2- Không nói thêu dệt 3- Không nói hai lưỡi 4- Không nói độc dữ thô tục Và ba nghiệp của ý 1- Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục 2- Không hờn giận oán cừu 3- Không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu đặng một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai, mà Ngài đã thọ ký cho huynh trưởng tôi đó vậy. Khi Đức Phật ấy thành đạo, trước hết tôi ra khuyến thỉnh Ngài nói đủ Pháp Tam Thừa liễu nghĩa mà hóa độ chúng sanh.Trong khi đó, tôi cũng còn tu Bồ Tát Đạo, làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình, mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện. Đến chừng Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ rồi, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà hóa độ chúng sanh. Những sự trang nghiêm đẹp đẽ trong quốc độ tôi, cùng là thời kỳ diệt độ và kiếp sơ trụ thế của Chánh Pháp tôi, đều nguyện y như công cuộc ứng hóa của Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai vậy”. Phật Bảo Tạng nghe mấy lời của Ni Ma Thái Tử nguyện, liền thọ ký rằng: “ Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, người sẽ được hoàn mãn các sự cầu nguyện ấy.Vì người có lòng mong cầu một thế giới rất đẹp rất lớn như thế, nên ta đặt hiệu cho ngươi là “Đắc Đại Thế”, tức là Đại Thế Chí Bồ Tát. Sau khi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai nhập Niết Bàn rồi, người bổ xứ làm Phật, hiệu là: Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, kế tiếp ra đời mà hóa độ mọi loài hàm thức”. Ni Ma Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi liền thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự nguyện cầu của tôi quả đặng như lời Ngài thọ ký đó, tôi xin kính lễ Ngài và nhờ Ngài làm sao cho các thế giới đều vang động và ở giữa hư không có rải xuống nhiều thứ hoa thơm đẹp, lại có các Đức Phật ở các thế giới mười phương cũng đều thọ ký cho tôi như vậy nữa”. Ni Ma Thái Tử thưa rồi, vừa cúi lạy Phật, tức thì các thế giới mười phương, cả núi sông, cây cối, và những vật có hình chất, đều rung động ra thành tiếng vang rền khắp cả, còn giữa hư không lại có các thứ bông rất thơm tho và tốt đẹp rơi xuống như mưa. Các Đức Phật ở mười phương đều đồng tình thọ ký rằng: “Tại cõi Tán đề lam, có người đệ tử của Phật Bảo Tạng Như Lai tên là Ni Ma, con thứ hai của Vua Vô Tránh Niệm, có phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trót ba tháng, đem công đức ấy mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề và nguyện đặng ở cõi thế giới trang nghiêm. Vì vậy nên trải qua hằng sa kiếp, người ấy sẽ bổ xứ thành Phật, sau khi Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai đã nhập Niết Bàn” Ni Ma Thái Tử nhờ Phật Bảo Tạng và các Đức Phật mười phương thọ ký rồi, lòng rất vui mừng, hằng chăm tu tập công hạnh vô lậu mà cầu cho mau thỏa mãn những điều tâm nguyện. Từ đó về sau, Ni Ma Thái Tử mạng chung rồi đầu thai ra thân khác đời khác, kiếp nào cũng hằng giữ bổn nguyện, quyết chí tu hành, học đạo Đại Thừa, làm hạnh Bồ Tát, mở mang trí huệ cho chúng sanh và làm những sự nhiễu ích, đặng dìu dắt các loài ra khỏi sông mê mà bước lên đường giác. Hiện nay, Ngài Đại Thế Chí (tức là Ni Ma Thái Tử) đương làm một vị Đẳng Giác Bồ Tát, hầu gần Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ đương Phật hóa, tiếp dẫn chúng sanh, chờ đến thời kỳ quả mãn công viên mới bổ xứ làm Phật. “If you can benefit people and make them happy, then no matter where you go, everyone will be influenced by your example”. (Spring Sun, Lotus Flower Pg 12)
  8. Những câu danh ngôn về Tình bạn Người bạn tốt nhất bao giờ cũng là người bạn đến với ta trong những phút khó khăn, cay đắng nhất của cuộc đời. Maxime Goocki Những người bạn giả dối giống như những chiếc bóng: chúng theo gót ta ra ngoài nắng ấm, và rời bỏ ta ngay khi ta bước vào bóng râm. C. Bôvi Khi ta mất một người bạn trung thành thì không gì có thể hàn gắn sự mất mát của tâm hồn ta. P. Coocnây Có ít nhất 1 người bạn để ta chia sẻ những tư tưởng và tình cảm thì tốt hơn là có một lô bạn hời hợt. Dr. Blair Justice Một sống một chết - tình bạn mới biết. Một giàu một nghèo - mới biết lòng nhau. Một hèn một sang - tình bạn rõ ràng. Tư Mã Thiên Cùng chung một ước muốn, cùng chung những ghét bỏ, những người ấy hẳn phải có tình bạn bền bỉ. Ngạn ngữ Mỹ Latinh Cách giữ bạn tốt nhất là không bao giờ phản bội bạn. U. Midơne Điều quyến rũ nhất của mọi hạnh phúc là có một tình bạn vững bền và dịu dàng. TÌnh bạn xoa dịu đi mọi lo lắng, xua tan mọi nỗi buồn phiền và khuyên nhủ khi ta bất hạnh. Seneque Khi giàu rất dễ có bạn, nhưng lúc lận đận thì tìm được bạn là điều không có gì khó khăn cho bằng. Epictète Có ba loại bạn có hại: bạn khoác lác, bạn chiều chuộng, bạn xiểm mị. Có ba người bạn có ích: bạn ngay thẳng, bạn khoan dung, bạn hiểu rộng. Khổng Tử Lúc nào người bạn cũng thương ta và trong nghịch cảnh, người bạn trở thành anh em ruột thịt. Kinh Thánh Tình bạn không cần đến lời nói - Đó chỉ là sự cô đơn thoải mái khiến cho ta không còn cảm thấy buồn phiền vì cô đơn.Dag Hammarsk Jold Bạn là người mang cả chồng sách mà anh đang tìm và anh có được những quyển sách mà bạn ấy đang giữ. P. Brown Những người bạn chân chính chỉ cho ta mọi trở ngại trên đường đời và giúp ta vượt qua. Chớ coi những kẻ nịnh hót là bạn. Người bạn chân chính là người nào trung thực và thẳng thắn. M. Xaadi Ai bỏ bạn bè trong cơn hoạn nạn thì rồi người đó sẽ được biết nỗi đắng cay của cơn hoạn nạn. S. Ruxtavêli Tình bạn trước hết là sự chân thật, là việc phê bình những sai lầm của bạn. Bạn bè là những người đầu tiên phê bình gay gắt để ta có thể sữa chữa sai lầm. Ostrovski Người bạn chân chính cũng giống như sức khoẻ, chỉ đến khi mất rồi mới nhận thấy hết giá trị của niềm hạnh phúc ấy. F. Balcon Tình bạn nhiều khi đưa đến tình yêu nhưng rất ít tình yêu chấm dứt mà thành tình bạn. Colton Tình bạn chân thành là một cái cây mọc chậm và phải thử thách, phải chịu đựng nhiều nghịch cảnh trước khi được gọi bằng danh hiệu đó. G. Washington Làm bạn bất kể sang, hèn, giàu, nghèo, đàn anh hay đàn em, chỉ lấy tài đức để kết thân với nhau mà thôi. Mạnh Tử Người nào bảo rằng có thể sống mà không cần đến người khác thì kẻ đó sai lầm. Người nào bảo rằng kẻ khác không thể sống thiếu anh ta thì kẻ đó tự lừa dối mình. Khuyết danh Giàu có là một điều tốt, sức khoẻ là một điều tốt, nhưng điều tốt hơn nữa là được bạn bè yêu thương. Euripides Tôi không nhận làm bạn với hai người: một người không bao giờ nói cho tôi biết về anh ta và một người không bao giờ nói về tôi. Chamfort Người bạn thân mà anh cố công tìm được trong một năm, anh có thể làm mất trong một giờ. Tục ngữ Trung Hoa Người thương hại ta không phải là bạn, người giúp đỡ ta mới là bạn. Ta không lựa chọn được cha mẹ nhưng lựa được bạn thân. Romain Rolland Làm bạn với người thẳng, người chân thật, người giỏi thì có ích. Làm bạn với người gian, người nịnh, người kém thì có hại. Luận ngữ Trong đời người có những giây phút thật gay go. Khi đó sự cô độc là nỗi bất hạnh lớn và ta cần có bạn bè. VJ. Nemiro with Dantsbenke Nỗ lực lớn nhất của tình bạn không phải là chỉ thẳng cho bạn thấy khuyết điểm mà làm cách nào để cho bạn thấy được nó. La Rochefoucauld Đừng bỏ cuộc! Hãy kết giao với những người giàu nghị lực và có kỷ luật. Hãy giao du với những người có cao vọng và luôn sống tích cực. Johnson Muốn tránh thất vọng thì bạn hãy phát triển tình bạn mà không mong đợi sẽ nhận lại được cái gì. Hãy làm cái gì đó cho người khác mà không đòi hỏi họ phải đáp trả lại. Andrew Mattthews Ngôn ngữ của tình bạn thể hiện bằng nghĩa chứ không phải bằng từ ngữ vì thế nó thông thái hơn ngôn ngữ bình thường. J. Thorreau Chiến trường thử thách người dũng cảm, cơn giận thử thách người khôn ngoan, khó khăn thử thách bạn bè. Ngạn ngữ Nga Hãy mang lại hạnh phúc cho người khác, bạn sẽ hưởng hạnh phúc. Hãy mang lại sự bình an cho người khác bạn sẽ hưởng sự bình an. Mang lại sự đau khổ cho người khác, bạn sẽ nhận lại sự đau khổ. E. Simo Đừng bao giờ thổ lộ hết với bạn bè vì có ngày họ có thể biến thành thù nên nhân đó sẽ hại anh. Cũng đừng bao giờ đối xử tàn tệ với kẻ thù đến độ họ không thể trở thành bạn anh vào một ngày nào đó. SomersetMaugham Một người bạn trung thành là một nơi trú ẩn an toàn. Tìm được một người bạn là tìm thấy một kho báu. Không thể nào mua được một người bạn trung kiên. Giá trị của người bạn còn cao hơn cả tiền bạc. Một người bạn trung thành là một liều thuốc trường sinh. Ecclesiastes Tình bạn là cái cần thiết nhất đối với cuộc sống, vì không ai lại mong muốn cuộc sống không có bạn bè, dù cho người đó có hạnh phúc khác chăng nữa. Aristote Tôi không thấy gì hạnh phúc bằng khi trong lòng luôn nhớ đến những người bạn tốt. W. Shakespeare Một người nghèo vẫn được xem là giàu nếu dưới mái ấm của anh ta có một người bạn tận tuỵ. Trái lại, người giàu có nhất vẫn chỉ là nghèo, hèn nếu anh ta không có bạn bè để bày tỏ nỗi lòng. J. Gibbons Ngoài người bạn tri kỷ, không có thứ thuốc nào chữa được tâm bệnh. F. Bacon Người bạn thật sự không phải là kẻ biết nghiêng mình trên đau khổ của chúng ta với lòng thương xót, nhưng chính là kẻ biết nhìn ngắm hạnh phúc của chúng ta mà không ganh tị. G. Thibon Anh cần có một người bạn cùng tuổi - đó là cách để chúng ta thấy mình không già đi. P. Brown Nước trong quá thì không có cá, người câu nệ quá thì không có bạn. Kinh Dịch
  9. Thật đúng là ngớ ngẩn hao tốn kinh phí và hao hơi tiếp đón đoàn nọ đoàn kia! Cách đặt vấn đề của các nhà chuyên môn không dám thừa nhận mình bó tay trước hiện tượng mà quay lại xúc phạm cháu bé và gia đình!
  10. NHỮNG BÍ ẨN CỦA ĐỜI NGƯỜI Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bệnh để cứu giúp mọi người, ông Cayce đã cứu chữa cho hàng mấy chục ngàn bệnh nhân, và điều này xác nhận sự thật về năng khiếu thần nhãn của ông. Với năng khiếu thần nhãn này, ông Cayce có thể nhìn thấu suốt tận trong nội tạng của người bệnh, những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người mà thông thường người ta không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu thần nhãn có thể soi thấu vào bên trong cơ thể con người, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ để nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí ẩn của đời người. Việc đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây. Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, thuộc miền tây nam tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự nói chuyện về ông Cayce. Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ. Sau khi quan sát những cuộc khám bệnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu thần nhãn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng, nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn giấu đối với cặp mắt phàm, thì người ấy chắc hẳn có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn thuộc về vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy tiêu hóa của người bệnh mà thôi. Chẳng hạn như những vấn đề: Trong tất cả mọi ngành triết học và tôn giáo thì ngành nào gần nhất với chân lý? Mục đích của đời người là gì? Giả thuyết cho rằng linh hồn con người bất diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Liệu thần nhãn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy hay chăng? Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu trượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời, v.v... chưa từng thoáng qua trong bộ óc chất phác của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách mặc nhiên những giáo lý mà người ta giảng cho ông ở nhà thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông. Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là do lòng mong muốn giúp đỡ những kẻ bệnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên nghĩ đến việc dùng thần nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bệnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng thêm lòng hứng khởi của ông Cayce. Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi được nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bệnh. Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma nên đề nghị ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng thiêng liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụng sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến khoa chiêm tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa chiêm tinh là đúng đắn thì nó có thể là một ngành khoa học nối liền con người với vũ trụ, và giúp chúng ta có thể hiểu được rõ ràng hơn về vũ trụ. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm thần nhãn của ông Cayce về khoa này. Một ngày vào tháng mười năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số chiêm tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế, ông nói ra một câu lạ lùng: – Thuở xưa, người này là một tu sĩ. Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh con người thì câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào như bị điện giật! Phải chăng câu ấy có nghĩa là thần nhãn của ông Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề luân hồi? Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khám nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm nhiều điều khác. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammers đang bàn luận sôi nổi với cô thư ký Linden Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng, nếu người ta có thể chứng minh thuyết luân hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học! Nếu ông Cayce tiếp tục thí nghiệm về điều này thì những cuộc quan sát của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng lý thuyết luân hồi thực sự diễn ra như thế nào. Chẳng hạn như mối liên hệ giữa luân hồi và khoa chiêm tinh là như thế nào? Và từ đó người ta có thể biết thêm nhiều điều về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người. Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce quan sát thêm về vấn đề này. Mặc dầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc thí nghiệm. Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đúng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí ẩn của đời người mà từ lâu ông đã khảo cứu, tìm tòi. Theo kết quả những cuộc quan sát đó, khoa chiêm tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Linh hồn con người trải qua nhiều kiếp sống và được tiến hóa thông qua những cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ đời sống. Con người thâu thập kinh nghiệm trong cuộc sống và tích lũy nó trong tâm thức, rồi mang theo những điều đó vào những kiếp sống tiếp theo sau đó. Khoa chiêm tinh dựa vào những mối quan hệ giữa con người với vũ trụ để nhận biết được những chuyển biến quan trọng trong đời người. Tuy nhiên, khoa chiêm tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại chỉ đúng một phần nào thôi, chứ không hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người ta chưa khám phá được một cách trọn vẹn. Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc quan sát thử nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Rồi sau đó những người tham gia tổ chức nghĩ rằng những gì họ muốn biết về tiền kiếp có thể sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một “lá số” chi tiết, và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Vì thế, người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hãy tự đưa ra một cách thức dẫn dụ thích nghi hơn đối với ông. Và đây là cách dẫn dụ mà ông Cayce đã đưa ra: – Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày... tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của người này và vai trò của ông ta trong cuộc đời là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của ông ta trong kiếp sống hiện tại này. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của ông ta với những chi tiết về tên tuổi, quê quán và thời kỳ nào đã trải qua những tiền kiếp đó. Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa tâm linh của người này. Từ đó, những cuộc quán sát bắt đầu chuyển hướng nhằm vào những tiền kiếp của đương sự. Những cuộc quan sát đặc biệt này được gọi là những cuộc “soi kiếp”, để phân biệt với những cuộc khám bệnh, chỉ nhằm quan sát cơ thể của bệnh nhân nhằm mục đích chữa bệnh mà thôi. Đối với hai loại quan sát kể trên, ông Cayce đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này: Mỗi khi ông Cayce tuần sự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội! Chính ông cũng đã tự khám nghiệm mình để tìm nguyên nhân của sự chóng mặt, thì ông nhận thấy rằng cần phải đổi hướng nằm quay đầu về hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi như thế thì ông không giải thích được, mà chỉ cảm thấy như vậy là thuận dòng “nhân điện” trong người ông. Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ ông đã từng làm một vị tăng lữ bậc cao ở các đền cổ bên Ai Cập và có nhiều năng lực thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến trên sa mạc và bị bỏ nằm lại trên bãi cát, vì những người đồng đội tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình, không có nước uống, không lương thực và không một mái che, ông đã chịu khổ rất nhiều suốt ba ngày ba đêm, đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của thể xác. Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đúng đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại luôn là một thử thách lớn cho bất cứ ai. Ông Cayce đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha để cứu chuộc những lỗi lầm trong quá khứ là thói kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích sắc dục. Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và vì thế người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này. Ông liền đề nghị ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và tình nguyện đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình ông, gồm bà Cayce, hai người con trai và cô thư ký Gladys Davis. Cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia đình ông. Cả gia đình đều bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những gì xảy ra thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce là: lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mê. Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu cũng như mỗi đức tánh đều có nguyên nhân sâu xa từ trong tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai, ông nói: – Trong bốn tiền kiếp, con là một nhà khảo cứu khoa học; con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi. Khi soi kiếp cho người con trai kia, ông nói: – Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh quốc. Kiếp này con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn. Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người lạ như ông Lammers, cô Linden Shroyer hoặc những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng. Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về chính ông và ông đã tự xét lương tâm mình một cách nghiêm khắc. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu thần nhãn của mình, bằng những cuộc khám bệnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự chính đáng và thiêng liêng chứ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... “phản đạo”. Làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là những điều đúng với sự thật? Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng vì ông vốn sinh trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý tỏa chiếu từ những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn giáo và Phật giáo nói về vấn đề luân hồi. Hơn nữa, chính danh từ này đối với ông cũng không được hấp dẫn cho lắm, vì ở phương Tây thời ấy người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết luân hồi. Chính những cuộc soi kiếp đã giải tỏa mọi sự nghi ngờ cho ông Cayce. Trong những cuộc quan sát về các tiền kiếp, ông Cayce được biết rằng luân hồi không chỉ đơn giản là sự đầu thai trở lại làm thú vật, và càng không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hàng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng vào thuyết ấy một cách sáng suốt và lấy đó làm nền tảng cho mọi sự ứng xử trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á châu cũng chủ trương thuyết Thoái bộ luân hồi, cho rằng con người tội lỗi tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó chỉ là một chủ trương sai lầm phiến diện về thuyết luân hồi. Vài tôn giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một chân lý căn bản và trọng đại. Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng luân hồi có nghĩa là khả năng tiến hóa liên tục về tâm linh dành cho mọi sinh vật: sự tiến hóa của tâm thức con người trải qua nhiều kiếp sống, khi thì làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm một giống dân khác.v.v... nhưng với sự tu dưỡng hướng thiện thì sẽ luôn vươn lên mãi cho đến khi tâm thức đạt tới sự toàn thiện. Tâm thức con người khi biết hướng thiện qua từng kiếp sống cũng ví như một nghệ sĩ sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác, nhưng vẫn luôn trau giồi và phát triển tài nghệ, kinh nghiệm nghề nghiệp của mình. Nhiều bậc hiền triết và các nhà thông thái, trí thức của Âu Tây cũng chấp nhận thuyết luân hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordano Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer. Về vấn đề này, ông Cayce bày tỏ ý kiến: – Những điều đó hiển nhiên là đúng sự thật rồi; nhưng còn giáo lý của đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết luân hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi phủ nhận đấng Christ và giáo lý của Ngài? Ông Lammers đáp: – Không phải vậy đâu. Ta hãy xét lại giáo lý căn bản của đấng Christ thì rõ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa câu hỏi đó cho đấng Christ, và Ngài đáp rằng: “Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hãy thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà tiên tri.” (Mathieu 22:35-40.) Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến hóa qua tu dưỡng trong thuyết luân hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: “Đừng làm hại kẻ khác nếu không muốn kẻ khác làm hại mình.” (Kinh Pháp cú, kệ số 129, 130) Và những Thánh kinh của Ấn giáo cũng dạy rằng: “Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi.” Ấn giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có sự khác biệt, dị đồng giữa sự bác ái và sự tiến hóa tâm linh trong luân hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luân hồi nhiều hơn mà thôi, chứ không cho rằng hai điều ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên mười tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Kinh Thánh (Bible) và ông rất lấy làm say mê. Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có nói về luân hồi. Vậy thì tại sao bộ Kinh Thánh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này? Ông Lammers nghĩ rằng: – Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề luân hồi. Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho Ngài có dạy thuyết luân hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề luân hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Baptiste là Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không dùng chữ luân hồi tái sinh, nhưng Ngài đã nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng: “Elie đã trở lại...” Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài đang nói với họ về Thánh Jean-Baptiste. Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: “Bạch thầy, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?” Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm chứa ý nghĩa về sự luân hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, chương 13, câu thứ 10: “Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao.” Câu ấy ngụ ý rằng có một định luật quả báo tác động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã dần dần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn đề luân hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy rằng có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết luân hồi trong những tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin, Thánh Jerome, Clement d’Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho mười hai vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi? Theo ông Lammers thì đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết luân hồi nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô. Những điều kể trên đã giải tỏa bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Cayce, vì ông luôn sợ rằng ông đã dùng những năng lực lạ lùng của mình một cách trái đạo, tức là đi ngược với tôn giáo của ông. Ngoài ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ khác về năng lực của mình, nhưng điều này lại có một cơ sở khoa học. Một thí dụ là làm sao giải thích sự gia tăng dân số quá lớn trên thế giới hiện nay nếu người ta cho rằng tất cả linh hồn đều đã sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt tăng thêm đó ở đâu mà ra? Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô thư ký Gladys Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy. Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự quan sát bằng năng khiếu thần nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi những cuộc quan sát đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài liệu ở các sách trong thư viện quốc gia. Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới thì tìm ra một lời giải thích cũng không phải khó. Một người trong nhóm cho rằng, dầu sao chúng ta cũng không biết chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khảo cứu gần đây có đề cập đến những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantide nay đã biệt tích. Ở nhiều nơi như Mexico, Ai Cập và một phần của Đông phương, những di tích khảo cổ đã xác nhận rằng có nhiều nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc hoang vắng. Như thế, người ta có thể hình dung được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng chưa hẳn đã có sự thay đổi tổng số các sinh linh trong vũ trụ. Có thể rằng có hàng triệu tâm thức vẫn trôi giạt trong cõi vô hình, trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không tạo ra đủ điều kiện cho họ đầu thai làm người. Tuy ông Cayce vẫn chưa hết hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về sự giải thích hợp lý như trên. Nhưng còn vấn đề châu Atlantide cũng là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật? Hay đó chẳng qua chỉ là một chuyện hoang đường? Những cuộc quan sát bằng thần nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mỉ và với rất nhiều chi tiết. Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật về sự hiện hữu trước đây của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không còn chú ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết về sự hiện diện của châu Atlantide. Dầu sao, một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ túc cho nhau để chứng minh vấn đề. Ông Cayce đã đọc một quyển sách nhan đề “Châu Atlantide, một thế giới thời kỳ tiền sử” của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng những cuộc quan sát của ông đã mô tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy. Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên, là những vấn đề được nêu ra trong các cuộc quan sát bằng thần nhãn, đã giúp cho ông Cayce dần dần có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót do trình độ học vấn. Dần dần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tò mò xen lẫn với óc phê phán, ông bắt đầu phân tách những cuộc quan sát trong trạng thái thôi miên để kiểm soát nó một cách hoàn hảo hơn. Trước hết, ông nhận thấy rằng những cuộc quan sát ấy đều có sự mạch lạc và liên quan chặt chẽ với nhau. Không bao giờ một cuộc quan sát này lại cho kết quả tương phản với một cuộc quan sát khác, dầu là cách nhau bao lâu cũng vậy. Vì thế, một người có thể được ông quan sát lần thứ nhì nhiều tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất nhưng những tài liệu ghi nhận kết quả đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào người ta lật ra một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở trong lần đọc trước. Phần nhiều những cuộc “soi kiếp” giúp đưa ra được những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide. Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bổ khuyết cho nhau và trở nên hoàn chỉnh hơn. Do đó, mỗi cuộc soi kiếp thường lặp lại một phần những gì đã được nói ra trong lần trước, rồi thêm vào một số chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện. Không những các cuộc soi kiếp đều cho kết quả phù hợp với nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu cho đó là những sự việc bí ẩn thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ, một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người kia trong tiền kiếp đã từng làm người “phóng ghế”. Ông Cayce không hề biết “phóng ghế” nghĩa là gì. Chỉ khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó chỉ cho một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ. Người ta trói chặt những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh, gọi là “phóng ghế”. Một thí dụ khác là trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước anh ta đã sống ở Pháp. Tại đây, anh ta đã gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng không tin rằng ông này đã từng sống ở bên ngoài nước Mỹ. Sau khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các danh nhân, ông mới biết rằng ông Fulton quả thật đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích trong các hoạt động của ông. Ngoài những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khám bệnh, dầu cho đương sự có quen biết với ông hay không, điều đó không quan hệ gì cả. Họ có thể là những người hoàn toàn xa lạ, hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, năng lực cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp. Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ. Một cuộc soi kiếp vào ngày sinh của một đứa trẻ tại Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được. Một trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp cho biết trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng lúc với sự thích thú đặc biệt về ngành y học. Vào năm tám tuổi, nó đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, nó đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển y khoa, và năm mười hai tuổi, nó nói rõ với cha mẹ rằng nó rất muốn vào trường Đại học John Hopkins để theo ngành y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh ở New York; mẹ nó là một nữ diễn viên. Lúc đầu, cha mẹ đứa bé đều phản đối ý định theo học y khoa và khuyên nó hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ vẫn cương quyết giữ lập trường và sau cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay nó đang học lớp dự bị về khoa Sinh hóa tại một trường Đại học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu thần nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biệt của nó sẽ biểu lộ ra ở kiếp này. Những thí dụ kể trên cho thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một giá trị rất lớn trong việc tiên đoán tương lai, không những của những đứa trẻ sơ sinh mà còn cho cả những người lớn. Một cô thư ký điện tín viên ở Bưu điện thành phố New York vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín với những lỗi sai lệch một cách lạ lùng mà cô thường xuyên mắc phải nhiều lần khi gửi đi. Khi được nghe biết về ông Cayce, cô liền quyết định nhờ ông soi kiếp cho cô. Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ mất thì giờ vô ích khi theo đuổi nghề điện tín viên, và tốt hơn cô nên học ngành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước cô đã là một nghệ sĩ có tài trong ngành này. Cô ấy từ trước chưa hề có ý nghĩ sẽ theo đuổi một ngành nghệ thuật nào, dầu là hội họa hay bất cứ ngành nào khác. Nhưng cô ấy có đủ niềm tin vào đề nghị của ông Cayce nên đã ghi tên học thử ở một lớp hội họa. Cô vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình rất có năng khiếu và đã thành công mau chóng trong ngành hội họa, đồng thời cô cũng cải thiện rất nhiều cả về nhân cách. Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững lòng tin hơn trước khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì tạo ra được những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp hơn; những người khác nhận được những lời chỉ dẫn có thể giúp họ san bằng nhiều sự khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội. Những điều nói trên đã dần dần thuyết phục ông Cayce về tính cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn cũng như sự giải thích mà nó đưa ra về số phận con người hay ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng điều làm cho ông tin tưởng hơn hết là tinh thần Gia Tô giáo tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết luân hồi. Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn trong Kinh Thánh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: Và: – Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi. Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như: – Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo với Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy. Và: – Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những tội lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác. Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bệnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước. Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết, họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Vì sao nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau? Nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ như Thời đại Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh chiến (Croisades) và lúc khởi đầu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có Châu Atlantide, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời vua Louis 14, 15 và 16, và cuộc nội chiến ly khai (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng còn có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Miến Điện, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và nhiều xứ khác... Nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau. Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những tâm thức thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường ra đời cùng lúc ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những tâm thức khác lại tái sinh theo cách tuần tự. Sự luân phiên tái sinh thành từng nhóm như vậy là do sự tương đồng về nghiệp lực, cũng giống như sự thay phiên của những toán thợ có cùng một phận sự trong một công xưởng. Vì thế, ông Cayce tin rằng phần nhiều những tâm thức đang tái sinh trên thế gian hiện nay đều đã cùng sống với nhau trong những thời kỳ quá khứ. Ngoài ra, những chúng sinh nào đã từng có những mối liên hệ gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước. Một câu hỏi khác được nêu ra: – Những nhận xét đó dựa vào đâu mà có? <br style="font-family: Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px; text-align: left; "><br style="font-family: Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px; text-align: left; ">Câu trả lời là: Khi ông Cayce rơi vào trạng thái thôi miên, ông có khả năng đưa ra những nhận xét đó dựa vào hai yếu tố. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này lưu giữ ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm cả những kinh nghiệm trong những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong phần sâu kín nhất của tiềm thức, gọi là tàng thức, nằm ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa tâm lý học hiện đại. Tàng thức của một người là lãnh vực có thể được thăm dò bằng ý thức của người khác, khác với trạng thái ý thức, vốn luôn có những đề kháng đối với mọi sự thăm dò từ bên ngoài, tương tự như trong một thành phố lớn, người ta có thể đi từ nơi này đến nơi kia bằng những đường ngầm dễ dàng hơn những phương tiện khác ở trên mặt đất. Vì thế, trong trạng thái thôi miên, ông Cayce có thể nhìn sâu vào tàng thức của đương sự một cách trực tiếp. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là phần nào, với những phát minh của khoa phân giải tâm lý (Psychanalyse) về cuộc đời và về trạng thái vô thức. Nhưng còn yếu tố thứ hai đã giúp ông Cayce đưa ra các nhận xét thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những “ký ức của không gian” (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong trạng thái thôi miên của ông như akasha: danh từ; akashique: tính từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau: “Akasha là danh từ dùng để chỉ một trạng thái vật chất tối sơ và căn bản của vũ trụ. Loại vật chất ấy có tác dụng như một kiểu băng từ tính trên đó ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự kiện đã từng xảy ra trong vũ trụ. Chính nhờ có sự lưu giữ trong kiểu “ký ức không gian” đó mà những ai có năng khiếu thần nhãn có thể nhìn ngược về dĩ vãng như đọc một quyển sách mở ra từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Loại vật chất akasha có chức năng tương tự như một máy ghi hình vĩ đại của vũ trụ. Khả năng nhìn thấy ký ức của thiên nhiên dựa trên loại “máy ghi hình” đó vốn tiềm tàng ở tất cả mọi người, nhưng sự bộc lộ của nó tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm của mỗi người, và cũng tùy nơi việc chúng ta có thể tự đặt mình vào một trạng thái thụ cảm thích nghi đến mức nào, cũng giống như khi ta bắt đúng tần số vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong những lúc thức tỉnh, ông Cayce không thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi để “bắt đúng tần số” như nói trên, nhưng trong trạng thái giấc ngủ thôi miên thì ông có thể làm được điều ấy. Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong trạng thái thôi miên thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông luôn trả lời giống như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất akasha cũng có thể gọi là “ký ức của vũ trụ”. Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất akasha. Nền triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn là hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp thần giao cách cảm; và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất akasha, cũng là một quan niệm khác của triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, tuôn tràn như suối chảy trong những cuộc quan sát sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ đầu Công nguyên? Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng, mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của lịch sử, được ẩn giấu, tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình huyền bí của vũ trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về điều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc quan sát bằng thần nhãn; và những cuộc quan sát của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy. Có lẽ việc dùng thần nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như sóng vô tuyến hay tính chất phóng quang của chất radium; như nguyên tử lực hoặc trí nhớ của bộ óc con người và sự truyền cảm của hệ thần kinh. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một cách lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng hai mươi hai năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi, là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khám bệnh bằng thần nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho khoảng hai ngàn năm trăm người. Cũng như những cuộc khám bệnh bằng thần nhãn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thư từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những ai muốn tìm biết sự thật về những điều này còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay đang còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp. Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tính cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về thuyết luân hồi, là một nguyên tắc tồn tại căn bản trong vũ trụ. Và nếu tất cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhất nó cũng đáng để cho ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao cuộc phát minh lớn lao vĩ đại mà ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giả thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết tương đối, ông đáp: – Tôi chỉ thử đặt một nghi vấn về một định lý. Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, đem đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời. Trong khoảng hai mươi hai năm đó, có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu thần nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho những câu hỏi sau đây: – Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi? – Nguyên nhân vì đâu mà tôi phải chịu sự đau khổ này? Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước của họ cũng tầm thường như kiếp này, và không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là kết quả của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ vô thủy. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bệnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự tác động của một định luật căn bản gọi là luật nhân quả. Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học nhân quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cũng như tìm thấy sự thăng bằng và an tĩnh của tâm hồn. Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi kiếp đó, người ta cũng còn phải nhìn nhận sự kiện là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của hầu hết mọi người về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việc kể trên không phải là đem đến cho ta một giả thuyết mới, vì đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều lục địa trên quả địa cầu. Nhưng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều sau đây: Thứ nhất, đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ người ta có được những bản phúc trình đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của một số đông người. Thứ hai, đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và sắp xếp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người đều có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã hợp nhất triết lý Đông phương với những giáo lý Gia Tô, và làm cho cả hai nền triết lý Đông Tây càng thêm phần sống động. Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông phương và Tây phương. Những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce cũng đã tổng hợp khoa học và tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cảnh giới tinh thần chịu sự tác động của luật nhân quả một cách đúng đắn cũng giống như thế giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ như nhiều người lầm tưởng, mà là do những tư tưởng và hành động sai lầm trong quá khứ. Nó cũng chỉ ra rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng hoàn toàn của sự di truyền, mà chỉ là kết quả của những hành vi và cung cách ứng xử của mỗi người trong những kiếp trước. Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích rèn luyện chúng ta trên con đường hướng thiện; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là những bài học quí giá mà nếu chúng ta biết cách nhận lấy trong trường học lớn của thế gian thì trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đi đến mục đích minh triết và toàn thiện. rongmotamhon.net
  11. Cô có kế hoạch thăm các cháu mồ côi từ sơ sinh bị bỏ rơi cho đến 15t tại 2 chùa ở Bình thuận nhân ngày Quốc Tế Thiếu Nhi vào ngày 31/5 và 1/6,http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/26057-tham-va-tang-qua-tre-mo-coi-nhan-ngay-1-6/page__p__177181__fromsearch__1#entry177181 Dinhlenhhoang có hoan hỷ với phương án này không? Hoặc tùy duyên cô trao cho 1 hoàn cảnh cá nhân đặc biệt nào đó trong phạm vi thành phố này (Tp HCM)?
  12. 7 điều không nên làm ngay sau khi ăn trứng Có một số điều không nên thực hiện ngay sau khi ăn trứng để tránh những tổn hại cho sức khỏe. 1. Không ăn đường Không nên chế biến trứng cùng với bột ngọt (mỳ chính) là điều mà chắc hẳn rất nhiều người đã biết. Nhưng có thể nhiều chị em không biết rằng trứng không nên nấu chín cùng với đường hoặc không dùng đường ngay sau khi ăn trứng. Ở nhiều nơi thậm chí còn có thói quen chế biến món thịt kho trứng với đường thắng để lấy màu. Trong thực tế, điều này sẽ làm cho protein axit amin fructose trong trứng tiếp hợp với lysine. Chất này khó hấp thu bởi cơ thể, như thế sẽ tạo ra các hiệu ứng y tế bất lợi. 2. Không ăn quả hồng Ăn hồng ngay sau khi ăn trứng là một trong những nguyên nhân ngộ độc thực phẩm và viêm dạ dày ruột cấp tính. Sau khi ăn 1 – 2 giờ bạn có thể bị nôn mửa. Khi đó cần uống ngay lập tức dung dịch bao gồm 20g muối và 200ml nước sôi. Nếu bạn không nôn, bạn cần phải uống nhiều lần để thúc đẩy nôn mửa. Hoặc bạn cũng có thể sử dụng nước ép gừng tươi hòa lẫn với nước ấm. Sau đó bạn vẫn cần phải uống thuốc nhuận tràng để đào thải những chất độc hại trong cơ thể. 3. Không uống sữa đậu nành Mỗi buổi sáng thức dậy, một số mẹ cẩn thận chuẩn bị bữa sáng cho con. Muốn con cái đầy đủ dinh dưỡng từ sáng sớm nên rất nhiều mẹ chuẩn bị khẩu phần bao gồm trứng chiên và cốc sữa đậu nành. Trẻ cũng thường uống sữa sau khi ăn trứng để làm dịu cơn khát của chúng. Uống sữa đậu nành sau khi ăn trứng không tốt cho tiêu hóa. (ảnh minh họa) Trong thực tế, sữa đậu nành có chứa protein thực vật, chất béo, carbohydrate, chất dinh dưỡng, bao gồm vitamin, khoáng chất… có tác dụng bổ dưỡng rất tốt. Sữa đậu nành còn chứa chất ức chế trypsin, có thể ức chế hoạt động của con người, ảnh hưởng đến tiêu hóa và hấp thụ protein trong cơ thể người. Nếu ăn trứng cùng với uống sữa đậu nành thì protein trong trứng có thể kết hợp với trypsin trong sữa đậu nành làm cho quá trình phân hủy protein bị cản trở và làm giảm tỷ lệ hấp thụ protein trong cơ thể. Ngoài ra, trong sữa đậu nành có protidaza gây kiềm chế protein trong trứng gà, ảnh hưởng tiêu hóa. 4. Không ăn thịt ngỗng, thịt thỏ Không nên ăn thịt ngỗng, thịt thỏ ngay sau khi ăn trứng, nguyên nhân là bởi vì thịt thỏ, thịt ngỗng ngọt, tính hàn, trứng cũng thuộc nhóm thực phẩm này, cả hai đều có chứa một số chất có hoạt tính sinh học khi ăn với nhau sẽ xảy ra phản ứng kích thích đường tiêu hóa, gây tiêu chảy. 5. Không ăn thịt rùa Khi ăn trứng có rất nhiều điều cấm kỵ mà bạn cần đặc biệt lưu ý. Ví dụ như ăn trứng cùng lúc với thịt rùa có thể dẫn đến ngộ độc thực phẩm. Đặc biệt là những người mệt mỏi, cảm lạnh càng không nên ăn. Đối với phụ nữ mang thai, tiêu hóa đôi khi không tốt cũng không thích hợp với cách ăn này. 6. Không uống các loại thuốc chống viêm Trứng rất giàu protein, trong khi các chứng viêm trong cơ thể lại liên quan đến lượng protein. Vì vậy, khi bắt đầu tình trạng viêm, nhớ không uống thuốc sau khi ăn trứng. Đặc biệt là các bệnh tiêu hóa, tiêu chảy, có thể thậm chí không ăn trứng. Trứng có chứa protein sẽ làm tăng gánh nặng cho dạ dày, ảnh hưởng tương đối đến sự hấp thu và tiêu hóa. 7. Không uống trà Người dân Việt Nam thường có thói quen uống chè đặc sau bữa ăn .Vì cho rằng nước chè giúp miệng sạch, và giúp hỗ trợ tiêu hoá. Nhưng thực ra mọi thứ lại hoàn toàn ngược lại. Uống trà ngay sau khi ăn trứng là gây hại cho cơ thể. Trà chứa nhiều axit tannic kết hợp với protein tạo thành protein axit tannic làm chậm hoạt động của nhu động ruột, kéo dài thời gian lưu trữ phân trong ruột, không chỉ là nguyên nhân gây ra táo bón mà còn làm tăng nguy cơ tích trữ các chất có hại cho cơ thể và gây ra chất ung thư bất lợi tác động xấu đối với sức khỏe con người.
  13. PHỔ HIỀN THẬP NGUYỆN Phổ Hiền Thập Nguyện Lời khai thị của Hòa Thượng Viện Chủ nhân ngày vía đức Phổ Hiền. Hôm nay, ngày 21 tháng 2 Âm lịch, là ngày vía đức Phổ Hiền. Thầy nhân cơ hội này, giảng cho quí vị một bài pháp về mười hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền. Đức Phổ Hiền là bậc Bồ Tát trong hàng thánh giả. Thánh giả là những vị hiện thân làm Bồ Tát để tế độ chúng sanh. Chẳng những Ngài mà các đức Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng v.v… đều là những bậc thánh giả. Trong sử không xác định rõ thời gian các ngài xuất hiện, mà chỉ nói “vô lượng kiếp về trước”. Sự ứng thân của các ngài mang ý nghĩa tượng trưng nhiều hơn. Không như lịch sử của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Do đó ta cũng nên hiểu qua ý nghĩa tượng trưng đó. Đức Phổ Hiền, tiếng Phạn gọi là Samantabhadra, Ngài tiêu biểu cho đạo hạnh tu trì. Hạnh là chính yếu, không hạnh không thành công. Các đức Phật, Bồ Tát thị hiện ra đời luôn để lại gương sáng hay các đại hạnh nguyện cho người đời sau noi theo, như đức Phật A-Di-Đà có 48 hạnh nguyện, đức Dược Sư có 12 lời nguyện, đức Quán Âm có 12 lời nguyện, còn đức Phật Bổn Sư thì “chúng sanh vô biên thề nguyện độ”. Riêng đức Phổ Hiền có 10 hạnh nguyện rộng lớn. Trong các hình vẽ, tượng tạc, ta thường thấy Ngài Phổ Hiền ngồi trên voi trắng, đức Văn Thù ngồi trên con Đề Thính (một loại sư tử hiền). Mỗi vị Bồ Tát đều cởi trên lưng một con vật. Con vật tượng trưng tánh hạnh của Bồ Tát. Nói tới tượng vương, ta phải biết oai nghi của nó như thế nào, rất siêu việt. Trong các loài thú, chỉ có voi đi đứng rất khoan thai. Chánh báo nào thì y báo đó, “đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan”. Sự đi, đứng của người tu là phải như vậy đó. Lắm khi chỉ nhìn vào cách đi, cách đứng của người tu là người ta muốn quy y, theo làm đệ tử. Đó thuộc về thân giáo hóa. Quan trọng ở chỗ đó. Hạnh tu là thế, cho nên người xuất gia, trong mọi trường hợp đi đứng nằm ngồi đều phải khoan thai, đường đường chính chính. Hôm nay, ngày vía của đức Phổ Hiền, thầy nhắc lại mười hạnh nguyện của hàng Phật tử. Hầu hết trong chúng đều thuộc lòng mười hạnh nguyện của đức Phổ Hiền : Nhứt giả lễ kính chư Phật ; Nhị giả xưng tán Như Lai ; Tam giả quảng tu cúng dường ; Tứ giả sám hối nghiệp chướng ; Ngũ giả tùy hỷ công đức ; Lục giả thỉnh chuyển pháp luân ; Thất giả thỉnh Phật trụ thế ; Bát giả thường tùy Phật học ; Cửu giả hằng thuận chúng sanh ; Thập giả phổ giai hồi hướng. Có nhiều vị thuộc bài kệ trên mà không hiểu nghĩa, cũng có vị hiểu đôi chút, nhưng không sâu sắc. Học Phật phải hiểu cả sự lẫn lý, khó nhứt là về lý đạo. Bởi lý đạo nói không được, không thể đem ra giảng như 2 với 2 là 4. Vậy ta làm sao đây ? Trước học về sự tướng, rồi nhờ tâm thiền, tâm định làm phát sinh trí tuệ, khi ấy lý đạo mới hiển bày. Nhiệm mầu là đây. Nếu lý không hiểu thì không tu tiến được, cũng như mình không thấy tánh thì sao thành Phật ! Mà thấy tánh là thấy thế nào ? Trong kinh thường nói “kiến tánh thành Phật”. Làm sao kiến tánh đây ? Trong những việc làm hằng ngày, từ việc nhỏ cho đến việc lớn, từ “vận thủy ban sài, gánh nước bửa củi” đến công phu tụng niệm đều đúng với pháp sự đạo tràng. Các pháp môn tu tập, các bộ kinh, luật và luận đều phải hiểu biết rõ ràng, đâu ra đó. Thế mới được gọi là kiến tánh. Hiện tại, trong chúng ta, việc gì cũng không biết, không biết đầu không biết đuôi, làm không tới nơi tới chốn, nếu quí vị suy nghĩ lại sẽ thấy tánh của mình ra sao. Tánh còn mê, còn quấy, không phải là tánh thấy của chư Phật. Bây giờ thầy giảng sự lý của mười hạnh nguyện ; Đệ tử chúng đẳng, Tùy thuận tu tập, Phổ Hiền Bồ Tát, Thập chủng đại nguyện, Nhất giả lễ kính chư Phật. ——————————————————————————– 1. Một là lạy kính chư Phật. Là Phật tử tại gia hay xuất gia, một khi lễ lạy chư Phật, lòng thành kính trong ta phát khởi. Đó là lẽ thường tình. Nhưng chư Phật đâu chẳng thấy chỉ thấy mấy ông Phật giả, làm bằng ciment, bằng gỗ, bằng giấy lộng khuôn v.v… để rồi đặt tên đặt tuổi, giả danh giả tướng, rồi ốp nhau mà lạy. Lạy dữ lắm, với tất cả lòng thành. Đó có phải là lễ kính chư Phật không ? Đứng về sự mà nói thì không ai cho là sai cả, nhưng lễ kính như thế vẫn chưa đúng nghĩa, chưa hoàn toàn, vẫn còn một ông Phật thiệt đâu đó mà ta chưa lễ kính. Làm thế nào để được lễ kính ông Phật thiệt ? Ông Phật đó ở đâu ? Ông Phật thiệt không ở đâu xa cả, mà ở trong chính con người chúng ta. Chữ “kính” là tôn kính ông Phật của mình. Chữ “chư Phật” trong câu “Nhất giả lễ kính chư Phật” hàm ý nói lên sự lễ kính Phật tánh của tất cả chúng sanh, không chỉ riêng của mình. Khi ta lập hạnh kính lễ chư Phật (Phật tánh của tất cả chúng sanh) thì có bao giờ ta làm trái lời thệ nguyện ấy không. Trái ngược nghĩa là gì ? Là không cung kính, bất cẩn, bất cập. Khi ta lễ kính cái Phật tánh của ta, là ta sống rất cẩn thận, nói ra những lời không ngược lại với tánh giác của chính mình và của mọi người. Chính vì vậy, mà trong Đại Thừa Phật giáo, các thầy khi gặp nhau, chắp tay xá chào. Có nhiều vùng ở bên Trung Hoa, các sư chào nhau bằng cách quỳ lạy lẫn nhau. Đó là lễ kính chư Phật. Bên Phật giáo Nguyên Thỉ thì không vậy, người ta cho rằng tăng là bậc đức hạnh cao trọng có đâu lại xá hạng phàm phu. Bên Đại Thừa, lễ kính lẫn nhau vì kính cái chánh nhơn Phật tánh của nhau. Điều này hay vô cùng, khi kính Phật tánh của nhau thì không thể nói nặng, buồn giận nhau, và điều quan trọng hơn hết là kính cả chính mình. Đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tôn kính ông Phật của mình, đó là hạnh tu. Thường Bất Khinh Bồ Tát gặp ai cũng “nguyện nhữ tương lai tác Phật”, nghĩa là tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài tương lai sẽ làm Phật. Có nhiều người giận tức, lấy đá lấy gậy đánh Ngài, Ngài vẫn tự nhiên. Ta kính lạy luôn luôn vị Phật trong ta, ông Phật thiệt trong ta. Tất cả các hình tượng Phật ta thờ ở ngoài đều là giả cả. Nói thế ta đừng móng tâm khinh thường, một khi các hình tượng Phật được làm lễ khai quang, an vị để thỉnh các điển quang nhập vào, thì hình tượng trở nên linh thiêng, vì đã tượng trưng cho Phật tánh của mỗi người chúng ta. Khi ta giữ được “Nhất giả lễ kính chư Phật”, ta không dám khinh thường ai, không dám nói nặng ai, bởi vì nói nặng người là tự nói nặng mình, vì ai cũng có Phật tánh cả. Làm được vậy, hạnh tu mới tiến. Tu mà không thấy Phật tánh nên cứ xài xể người cho đã miệng, cho đã tức v.v… thì đâu còn hạnh tu nữa. Lý đạo là vậy. Trong chúng đồng tu học, dù ta có bận rộn thế nào, gặp nhau cũng nên xá với câu niệm Phật A-Di-Đà, rồi nói chào cô, hay chào sư huynh, hay nói theo phương tây là “How are you ?” hay “Comment allez vous ?”. Khi Ngài Phổ Hiền “nhất giả lễ kính chư Phật”, Ngài không riêng chỉ lễ kính các đức Phật trong mười phương thế giới, mà là tất cả muôn loài chúng sanh. Hạnh của Ngài chỉ có ở hàng Bồ Tát, Bồ Tát tánh phải kính trọng Bồ Tát tánh, thế nên Ngài được gọi là đại hạnh Phổ Hiền vương Bồ Tát. Nhị giả xưng tán Như Lai Lời nguyện thứ hai của Ngài là luôn luôn xưng khen đức Như Lai. Xưng khen như thế nào ? Không lẽ ngồi đó xưng khen đức Phật này nọ. Nếu thế chỉ là bề ngoài của chữ nghĩa, lời nói. Thật ra, xưng khen như thế cũng là chuyện tự nhiên, vì đâu phải dễ thành Như Lai. Tuy nhiên, đừng quên cái Như Lai Tạng Tánh ở trong ta. Nhưng cái Như Lai Tạng Tánh của ta thì tại triền, trong sự ràng buộc, cột chặc. Đức Phật là Như Lai xuất triền, ra khỏi sự ràng buộc, cắt lìa sợi dây tình ái, sợi dây danh lợi. Ta phải nhìn lại Như Lai Tạng Tánh của chính ta. Làm sao sống trở lại với Như Lai Tạng Tánh để rồi được thành Phật, thành tổ. Trước hết, ta phải biết rằng trong ta có Như Lai Tạng Tánh, có viên ngọc Ma Ni. Như Lai Tạng Tánh hiện hữu trong mỗi loài chúng sanh, ngay cả các loài thượng cầm hạ thú, nhưng vì chúng không biết mà thôi. Trong chúng ta, lắm người đậu cả chục bằng tiến sĩ cũng chưa biết mình có viên ngọc Ma Ni, nếu biết họ đã xả bỏ những “thế trí biện thông” để tìm cầu cái siêu trí tuệ. Khổ nổi họ không biết điều đó. Cho nên, là Phật tử, hơn ai hết, ta phải hiểu, phải biết tôn trọng, xưng tán cái Như Lai Tạng Tánh của mình và của người. Còn thương, còn ghét, còn khen, còn chê là chưa phải xưng tán Như Lai Tạng Tánh. Đó là phàm phu tạng tánh. Như Lai là “như như bất động, lai thành chánh giác”, là tự như, sẵn có từ ngàn xưa. Như Lai Tạng Tánh cũng tức là Phật tánh vậy. Tam giả quảng tu cúng dường. Ba là rộng thực hành cúng dường. Đứng về sự, cúng dường là hướng ra bên ngoài, nó nằm trong “tứ vật dụng” ; ẩm thực, ngọa cụ, thang dược, và y phục, là bốn thứ cung cấp nuôi dưỡng chư Tăng Ni. Đứng về lý mà nói, “quảng tu cúng dường” là luôn luôn cung cấp, nuôi dưỡng tâm linh ta bằng những pháp vị cao thâm, giáo lý nhiệm mầu. Đó là những món ăn bồi bổ cho tinh thần, hầu giải tỏa những đói khát, bệnh hoạn, những điên đảo vọng tưởng của nội tâm. Nhiều vị tiền bối nghĩ rằng cúng dường các vật dụng vẫn chưa đủ, các vị phát tâm rộng lớn hơn bằng cách đốt một ngón tay, đốt trên đầu, nhiều khi đốt cả thân mạng để cúng dường, vì thấy rằng ân sâu của chư Phật quá rộng dầy, không thể nghĩ bàn. Đức Phật, trong vô lượng kiếp, đã vì chúng sanh tìm cầu chơn lý. Ơn đó ta lấy gì đền trả, lấy gì cúng dường để tạm cho là tương xứng. Ôi ! lời xưng dương tán thán nào mới đủ đây, chỉ có đốt thân này ra tro ra bụi, họa may ta đáp đền ơn trên trong muôn một. Hành động này có cả sự và lý. Sự thì khó nghĩ tưởng, lý thì huyên thâm vi diệu, sâu sắc nhiệm mầu. Sự của câu “quảng tu cúng dường” là cúng dường những gì ta có, tùy khả năng. Làm Phật sự cũng là một cách cúng dường, đem công sức ra phụng sự, sau đó hồi hướng cho pháp giới chúng sanh. Trong tất cả sự cúng dường, pháp cúng dường là thù thắng hơn cả. Một khi ta thông hiểu giáo lý của Phật, rồi đem ra giảng giải cho tất cả chúng sanh, bất cứ ngày nào, giờ nào. Đó là hoằng pháp lợi sinh. Đức Phật ra đời chỉ một mục đích chính là cứu độ tất cả chúng sanh. Chúng ta đi tu cũng vậy, chỉ có một mục đích duy nhất là độ tận chúng sanh. Trước là độ các chúng sanh trong ta, rồi mới độ tha. Thế cho nên có câu “Tự tánh chúng sanh thề nguyện độ”, nguyện độ những phiền não, điên đảo trong ta, sớm chừng nào gần Phật chừng ấy. Vì vậy, thầy cố gắng khuyến khích quý vị cố tâm học kinh, luật và luận. Có học mới biết giáo pháp, mới mong tế độ chúng sanh. Nếu không, quý vị tế độ cách nào ? Không lẽ may y, may áo cho nhiều, lập chùa, lập chiền cho nhiều là tế độ chúng sanh sao ? Đã đứng trong hàng Tăng Bảo, lý ra giờ nào cũng thuyết pháp lợi sanh, ban cho chúng sanh những món ăn tinh thần, trường kỳ không gián đoạn. Với các Phật tử đến viếng chùa, sau những lời hỏi thăm xả giao, quý vị đem giáo lý ra giảng, họ quý lắm, thích lắm. Họ về tới nhà hay đi đâu xa vẫn không quên quý vị, nhứt là đối với những gia đình hữu sự (có thân nhân vừa qua đời). Họ đến chùa xin cầu siêu, mà ta giảng cho họ ý nghĩa cầu siêu, rồi từ đó dẫn đến Phật Đà. Thường trong bối cảnh như thế họ dễ dàng quy ngưỡng Phật pháp và dễ tỉnh thức. Quảng tu cúng dường cũng có nghĩa như thế. Cung cấp nuôi dưỡng chúng sanh bằng những món ăn tinh thần, vì họ đang thiếu thốn, đang đau khổ. Họ trở nên đói khát, ốm o, gầy mòn. Họ điên cuồng không biết gì là trái, gì là phải. Ôi ! có gì đáng thương bằng. Quảng tu cúng dường, nghĩa chính yếu là cung cấp nuôi dưỡng tâm linh, làm cho muôn loài chúng sanh đầy đủ yến sáng giác ngộ. Tứ giả sám hối nghiệp chướng. Ngài Phổ Hiền biết rằng chúng sanh sinh ra ở cõi đời này đều có nghiệp chướng. Nghiệp chướng ở loài người nhẹ hơn ở loài súc sanh. Ở địa ngục, ngạ quỷ thì nặng nề, đen tối bội phần. “Ngũ thú tạp cư địa” nghĩa là ta và các loài A-tu-la, điạ ngục, ngạ quỷ và súc sanh cùng nhau chung sống lẫn lộn. Ta không thấy các cõi A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ vì ta còn mắt phàm. Ngay cả người với người đôi khi ta còn không nhìn ra. A-tu-la là loài ưa giận hờn, gọi là A-tu-la tánh. Quý vị hãy gắng dẹp cái giận, cái hờn, là quý vị ra khỏi nhà lửa, còn giận còn hờn là chun vô nhà lửa. Chúng sanh có nghiệp chướng nhẹ, hay không còn nghiệp chướng sẽ không sanh về cõi “Nam diêm phù đề” này, mà sanh lên các cõi khác. Vì vậy, chúng ta nên thường sám hối nghiệp chướng. Hễ thấy tâm không yên, rắc rối, là phải tắm gội sạch sẻ, đắp y mặc áo lên sám hối. Nhất tâm sám hối, mỗi tiếng chuông là một cái lạy. Tiếng chuông tỉnh thức ; Tiếng chuông ngân ngợi trong đêm vắng, Thử hỏi hồn ai đã tỉnh chưa ? Sám hối cho hết nghiệp chướng. Không riêng gì hàng phàm phu chúng ta, ngay cả bậc A-la-hán vẫn còn vi tế hoặc, vô minh hoặc. Lên tới hàng Bồ Tát vẫn còn vi tế vô minh, trần sa vô minh. Hàng Thập Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát, và hàng Duyên Giác vẫn còn vi tế vô minh. Trừ khi nào lên đến Viên Giác thì mới hoàn toàn trong sáng. Vì vậy, sám hối nghiệp chướng vô cùng cần thiết cho mọi tầng bậc tu chứng. Tiếc thay, có lắm người cho rằng họ đã tu lâu lắm rồi, đã bốn chục năm hơn, ngày nào họ cũng sám hối, tội đã diệt, không cần phải sám hối nữa. Họ có biết đâu, khi còn mang thân này, thì vẫn còn tội lỗi, chắc thật như thế. Sám hối có nhiều pháp, nào là Hồng Danh sám hối, Tác Pháp sám hối, Thủ Tướng sám hối. Các pháp sám hối này thuộc về sự. Về lý sám hối thì có Vô Sanh sám hối, nghĩa là luôn quán pháp vô sanh. Tâm niệm hiện tiền của ta không có sanh, không có diệt. Đối với ba thời gian tâm không có ; quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc và vị lai tâm bất khả đắc. Bởi vậy, những lúc rảnh rang, ta nên ngồi kiết già quán sám hối vô sanh. Quán cái tâm niệm hiện tại ra sao. Đó là hạnh tu của đức Phổ Hiền, thiếu nó thời hạnh tu không được viên dung. Ngũ giả tùy hỷ công đức. Tánh ganh ghét ai cũng có hết, thấy ai hơn thời không ưa. Trong giới xuất gia, thấy ai lập hạnh gì là không muốn, sợ họ sẽ thành Phật sớm hơn mình. Thấy người ta học khá một chút là không vừa lòng. Tánh chúng sanh là như thế đó. Vì biết căn bản tánh của chúng sanh, nên Ngài Phổ Hiền đặt ra hạnh “Tùy hỷ công đức”. Có lắm trường hợp, ta nên “A Di Đà Phật” mà tùy hỷ hết, dầu việc đó ta biết là sai, là bậy. Khi chưa gây được cảm tình với người, ta nên cười hòa thôi. Việc này rất sâu sắc và tế nhị. Trong buổi sơ giao, chớ nên chỉ chỗ sai của người, dễ tạo ác cảm không tốt. Một khi ta mất cảm tình thì khó thuyết phục người. Lần hồi ta sẽ giúp họ sửa chữa lỗi lầm. Ta phải làm việc này với cả khối trí tuệ và lòng tư bi vô lượng. Chớ có đem phiền não mà sửa, đừng dạy đời người ta, làm thế là làm với cái chúng sanh tánh, không phải tùy hỷ công đức. Thấy ai hơn ta, ta phải chấp tay tùy hỷ ngay, để đối trị lại lòng háo thắng, ganh ghét. Hãy dẹp tánh hơn thua vị kỷ, ai hơn mình một tí là chịu không được, ngay cả chị em ruột cũng không từ. Người như thế, sống triền miên trong đau khổ. Tùy hỷ là vui theo hay là hoan hỷ. Bất cứ việc gì ta cũng tùy hỷ công đức. Như thế ta mới đi vào tánh sáng, tánh Phật trong ta. Tất cả những gì người khác phát nguyện tu trì ta đều tùy hỷ. Tuy nhiên, có những khi ta không nên tùy hỷ mà phải phát lòng từ bi nhắc nhở đương sự ngay. Thí dụ, trong chúng có vị thầy đang khoẻ mạnh, nhưng hễ tới giờ học là tìm mọi lý do để thối thất, lại nhờ mình xin phép thầy quản chúng thay thẩy. Lúc đó ta nên thẳng thắn, với lòng từ bi, từ chối và nói với thầy đó rằng thẩy không bận việc, hay bệnh hoạn gì, thẩy chỉ sinh tâm lười biếng, mà thẩy lại bắt mình đi nói láo. Nếu trong trường hợp đó mà ta thân mật không nói gì, thì đó là chướng ngại cho ta lẫn vị thầy đó. Ta nên tìm một cơ hội nào đó, trong đạo tình với nhau, nói lại sự kiện vừa qua, chẳng hạn như “Hôm qua huynh biểu tôi xin dùm cho huynh vắng mặt trong thời công phu khuya. Tôi thấy huynh không phải không đúng, huynh khoẻ chớ không có bệnh hoạn chi, tại vì huynh muốn làm cái này, cái kia, theo vọng ý của huynh. Nếu tôi tùy hỷ thì nó ngược lại với hạnh nguyện của đức Phổ Hiền, huynh hoan hỷ hiểu cho, để chúng ta đồng đăng bỉ ngạn’. Không phải lúc nào cũng tùy hỷ, đó là vô minh. Trong sự tùy hỷ phải có đặc tính trí huệ. Có những việc người nhờ ta, nếu ta không nhận sẽ tạo sự bất mãn với nhau. Ta nhận, nhưng biết rằng việc đó là ” ba trời ba đất”, không khéo sẽ bị lôi cuốn vào. Nói thế, không phải ta bỏ mặc, mà phải khéo léo tìm cách sửa đổi đương sự. Tất cả những gì người khác làm mà xứng với Phật tánh, ta đều tùy hỷ cả. Người ta làm được việc lành hầu sớm đạt đạo bồ đề, ta càng phải vui mừng đón nhận. Tùy hỷ công đức, không phải tùy hỷ phước đức. Công đức là chuyện tu, chuyện tiến. Khi thấy người ta tu tiến, ta không những chỉ tùy hỷ, mà còn khuyến tấn họ luôn luôn. Tâm niệm của chúng sanh thì không thế, thường ganh tỵ. Ví dụ, có hai người cùng đi chùa, một người phát tâm cúng dường một số tiền lớn, còn người kia vì chưa biết đạo sâu sắc nên không đồng ý, sợ rằng bạn mình sẽ được chùa trọng vọng hơn, hay thấy ngại ngùng vì người ta cúng dường mà mình không cúng dường, rồi thốt lời trách cứ bạn mình. Lắm người có tánh phàm phu như thế. Thành ra, trong một nhóm bạn đạo năm bảy người, có người muốn cúng vật gì, số tiền gì lớn thì không dám, sợ bạn đạo sanh tâm ganh ghét. Lục giả thỉnh chuyển pháp luân Hạnh thứ sáu là luôn luôn cung thỉnh những vị quay được bánh xe chánh pháp. Việc lợi ích này không phải chỉ riêng ta hưởng, mà cho mọi loài chúng sanh. Chuyển pháp luân là đem thức ăn tinh thần đến cho ta và người, là dùng bánh xe pháp nghiền nát những rác rưới, cỏ dại trong tâm hồn ta. Tất nhiên, có nghe pháp, dần dà ta giải tỏa được các phiền não trong ta. Thành ra, nghe một thời pháp như thêm một món ăn tinh thần, ta không đói mà người cũng không đói, lợi lạc vô cùng. Đó là hoằng pháp lợi sanh, tục Phật huệ mạng. Bởi vậy, khi hiểu được Phật pháp, ta mới biết con đường tu ra sao, tiến thế nào, làm thế nào chuyển được phiền não. Không biết đường đi nước bước thì làm sao đến nơi đến chốn cho đặng. Mà đường không phải lúc nào cũng tráng nhựa hết đâu, hầm hố chông gai đầy dẫy, cọp beo, rắn rít v.v… Cho nên phải thỉnh chuyển pháp luân. Ngày nào có món ăn vật chất ngày đó phải có món ăn tinh thần. Trong thời khóa tu học, giờ công phu sáng, chiều, giờ ngồi thiền, giờ học v.v… đều là những món ăn tinh thần vô cùng cao quý. Một ngày quý vị ăn ba, bốn lần, còn tinh thần không có thời nào, nó sẽ đói cở nào, nó sẽ ốm o, gầy mòn đến cở nào. Cho nên, phải luôn cung thỉnh chuyển bánh xe pháp. Vì hiểu được lý này, nên có nghi lễ cung thỉnh pháp sư, có đèn, có nhang, có hoa có quả, đôi khi còn có hồng bao nữa. Đó là trọng pháp. Lòng tôn trọng pháp được biểu lộ qua hình thức trên. Người xưa diễn tả lòng tôn trọng pháp qua lời nói. Cung duy tôn giả, đại Phật tuyên dương, Thuyết pháp lợi sanh, báo Phật ân đức. Theo cổ lệ, người đại diện thay mặt toàn thể thính chúng, cung duy, đảnh lễ vị pháp sư ba lạy cúng dường. Có nhiều trường hợp người đại diện thính giả đã 82 tuổi ngoài, trong khi đó vị pháp sư chỉ mới ngoài 20. Lắm người không biết đạo, thấy thế cho rằng đạo Phật kỳ hoặc. Họ bảo thuyết pháp thì cứ thuyết, cớ sao lại phải cử một vị đại diện, mà vị đại diện đó tuổi đáng ông ngoại thầy pháp sư. Thế là họ sinh tâm hủy báng. Thật ra, sự cung kính lễ bái đó là đối với chơn lý, với chính pháp, không phải đối với cái xác thân tứ đại của vị giảng sư ! Thất giả thỉnh Phật trụ thế Về sự mà nói, Phật nhập niết bàn cách nay đã 25 thế kỷ. Nên nói “thỉnh Phật trụ thế” thế nào được ! Do đó, “trụ thế” ở đây nghĩa là tại mọi quốc độ, mỗi làng, mỗi xóm đều có được một ngôi đại hùng bữu điện, rồi thỉnh Phật thế gian về trụ. Chỗ đó mới có thuyết pháp dung thông. Nhờ đó có người tu tập, hành đạo và đạt đạo. Thực tế mà nói, thỉnh Phật về thờ, dĩ nhiên là phải có kinh pháp, mà đã có kinh pháp thì phải có tăng giảng kinh, pháp khắp độ chúng sanh. Ai ai cũng công nhận mình có Phật tánh, lấy Phật tánh ấy mà sống thì đâu có khác gì còn Phật trụ thế. Bát giả thường tùy Phật học Tám là thường tùy hỷ học Phật. Học làm Phật làm tổ. Người thế gian cho rằng “dĩ thực vi tiên”, không ăn không uống thì sanh bệnh sanh tật. Nhưng đối với người tu, việc tìm đạo, học đạo mới quan trọng. Không học không thể bước lên con đường đạo đặng, hầu đến nơi hoàn toàn an lạc, giải thoát. Cho nên, hạnh thứ tám là thường theo học Phật. Về sự mà nói, học Phật không được thiếu sót bữa nào. Trước giờ học phải chuẩn bị đâu vào đấy, xem lại bài củ, nếu có chỗ chưa hiểu, thời hỏi cho hiểu. Đến lớp trước giờ, đừng đến trể động chúng. Trong giờ học phải nhứt tâm nhứt đức lắng nghe, lấy tánh nghe để mà nghe, để thâm nhập kinh tạng, mà thâm nhập kinh tạng thì trí huệ mới như hải. Cái học bên ngoài là thế, cái học bên trong có khác. Học bên trong là “tự tánh pháp môn thề nguyện học”. Tánh đây là Phật tánh, ta học cái Phật tánh trong ta. Nhất thiết Phật pháp được gồm thâu vào trong tự tánh. Ta nguyện để học, học để tiến. Thế nhưng, ta phải học những gì ? Học phá chấp, học xả bỏ hoàn toàn cái giận, cái hờn, tiếng to, tiếng nhỏ. Ngay cả thân mạng này còn phải bỏ. “Xả” chỉ là một đức tánh trong muôn vàn đức tánh mà người con Phật phải noi theo, học theo. “Thường tùy Phật học” là thế, luôn luôn tiến trên con đường giác ngộ, giải thoát, đừng để gián đoạn, đình trệ. Còn biết bao nhiêu pháp môn của tự tánh ta phải học phải tu. Thế nên nói “Vô lượng pháp môn thề nguyện học” là vậy. Cửu giả hằng thuận chúng sanh Tại sao lại phải hằng thuận chúng sanh ? Vì chúng sanh với ta là một, chớ không hai. Có hai là trở ngại, không viên dung, làm đạo không thành. Trước ta hằng thuận chúng sanh, sau mới bàn đến chuyện độ chúng sanh. Chưa hằng thuận thì chớ mong độ người, đó là việc không tưởng, mơ hồ. Dầu có tài năng diễn thuyết thế nào đi chăng nữa, khi chưa thu phục được nhân tâm thì chớ mong nói người nghe. Không nghe lấy gì độ ? Cho nên, đây là một trong mười hạnh lớn. Vì vậy, ra làm đạo phải khéo léo, phải có trí hóa, nhất là quý vị rồi sẽ ra hoằng pháp. Hành đạo phải có hiểu biết, biết để hướng dẫn lớp sau, hơn nữa biết để mình làm, làm viên dung mọi việc. Nếu có trắc trở, thời công việc không tiến hành như ý muốn, thì đó là không hằng thuận được chúng sanh. Vì vậy, trí hóa rất quan trọng, ví dụ sau đây nói lên ý này. Như có người xin ban Hương đăng cử hành một lần ba, bốn cái lễ, mà trong chúng cần thời giờ tu học. Thời khóa tu học đã được phân định hẳn hòi, giờ nào ra giờ nấy. Nếu kéo dài giờ làm lễ, không khéo trở thành tiền lệ. Dần dà chùa mình trở thành nơi để cúng đám, làm cái nghề thợ tụng. Vì vậy, là người lãnh đạo, ta phải hiểu và giải thích cho phật tử biết rằng thời gian làm hai, ba cuộc lễ là ba, bốn tiếng đồng hồ. Trong khi đó, với trí hóa, ta cũng sẽ làm ba, bốn cuộc lễ trong một buổi lễ, một mà ba, ba mà một, kết quả đều như nhau, không có gì là chướng ngại hết, mọi người đều hoan hỷ. Thế mới thành công, thế mới hằng thuận chúng sanh. Muốn được thế phải học và hành đạo, nhờ học và hành đạo, sau này ra hóa đạo được dễ dàng hanh thông. Thập giả phổ giai hồi hướng Phổ giai hồi hướng là khi ta làm xong việc gì, đừng để trong lòng, mà hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sanh. Hồi tự hướng tha, Hồi nhơn hướng quả, Hồi sự hướng lý, Hồi tướng hướng tánh. Khi ta làm được điều đó, tâm ta trở thành đại đồng thế giới, trở thành cái vô lậu nghiệp, thành cái yến sáng toàn diện. Pháp giới lúc đó không hiện hữu. Không còn người cho người nhận, người bố thí kẻ thọ thí v.v… Tâm hồn ta bấy giờ nó thênh thang rộng lớn, hoàn toàn sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Nếu ta thực hành cho đúng các hạnh nguyện của đức Phổ Hiền thì ta sẽ trở thành Phật, thành tổ. Đức Phổ Hiền tiêu biểu cho mười hạnh lớn. Ta phải hiểu cả sự lẫn lý. Một khi lý đó được dung thông, ta không gặp trở ngại trên bước đường hành đạo. Hôm nay, nhân ngày vía đức Phổ Hiền, thầy nhắc lại những điểm đó, gắng khắc cốt ghi tâm, thực hành cho được mười đại hạnh của đức Phổ Hiền, rồi đến đại từ đại bi của Quán Thế Âm, các đại nguyện của đức Địa Tạng, đại trí của đức Văn Thù v.v… Phải thực hành tất cả, không phải chỉ thực hành đại hạnh mà bỏ đại nguyện, đại trí. Giáo lý tuy phân chia như thế, nhưng chỉ có một, một mà tất cả, tất cả quy về một, rồi cũng không còn một nữa, đó mới hoàn toàn giải thoát, giác ngộ và sáng suốt. nguồn thienlamtu.wordpress.com
  14. CÂU CHUYỆN HAI CÁI BỊ của người đời - Thưa Thầy, tôi không phải là người theo đạo Phật. Xin Thầy chỉ dẫn cho phương pháp tu tập.- Quí vị muốn phương pháp tu tập với mục đích gì và tại sao lại chọn chúng tôi để đặt câu hỏi ? - Tôi thấy cuộc đời này sao mà khổ quá, như tôi đây cũng có trình độ học thức, có công ăn việc làm tốt, gia cảnh đầm ấm, nhưng vẫn thấy khổ tâm nhiều chuyện, nhiều lúc cảm thấy bất an đến độ ăn không ngon ngủ không yên, nhiều điều lo lắng, bực mình lắm!Tôi muốn được an tâm nên đì tìm phương pháp tu tập để thoát khổ. Tôi chọn qúi Thầy để đặt câu hỏi, bởi tôi thường nhận các emails của PHTQ.CANADA do các bạn bè chuyển tới, với các bài viết tuy mang hình thức Phật giáo, nhưng nội dung hay quá, các bạn của tôi thấy có ích lợi nên chuyển cho tôi, mặc dù tôi không phải theo đạo Phật.- Trên đời này, người nào không có tâm cố chấp, không có tâm phân biệt, không mang nặng hình thức thế gian thì người đó sống đời an lạc với hạnh phúc xuất thế gian.- Kính xin Thầy giảng rõ hơn.- Người đời thường mang hai cái đãy (cái bị) .*Một cái trước ngực chứa đầy lỗi lầm của người khác. *Một cái sau lưng chứa đầy lỗi lầm của chính bản thân. Do đó, người đời thường bực bội, bất an trước các lỗi lầm quá dễ thấy của người khác. Trái lại, với các lỗi lầm của chính bản thân, người đời thường che giấu, không muốn ai thấy, chính mình cũng không thừa nhận, không nhận ra, cho nên khó khá được, cho nên khổ dài dài. Muốn hết khổ, muốn bớt khổ, người đời - dù theo tôn giáo nào - nên đổi vị trí của hai cái bị nói trên.Khi nhận thấy chính bản thân cũng có quá nhiều khuyết điểm, nhược điểm, người đời chắc chắn không còn dám cất cao giọng chỉ trích nhục mạ người khác, cũng như không còn chỉ trích tôn giáo, tín ngưỡng của người khác đang theo.- Kính cảm tạ lời chỉ giáo của Thầy. Thực hay quá. Nhưng riêng tôi, tôi không muốn đổi vị trí của hai cái bị đó thì sao, thưa Thầy ?- À, quí vị không muốn đổi vị trí của hai cái bị, thì quí vị đổi nội dung của chúng cũng được mà. - Tôi chưa hiểu rõ ý của Thầy ?- Nếu quí vị vẫn giữ vị trí của hai cái bị Cái bị trước ngực qúi vị chứa đựng toàn là ưu điểm của người khác.Cái bị sau lưng quí vị chứa đựng toàn là ưu điểm của bản thân.- Tôi vẫn chưa tỏ tường ?- À, khi đó quí vị sẽ thấy ưu điểm của người khác quá nhiều, lắm khi vượt trội hơn mình, mình thực ra chẳng bằng nhiều người lắm. Từ đó, mình bớt đi tánh phê phán, phỉ báng người khác - hãy thu mình lại, quan sát chính bản thân, quan sát chính bản tâm, mình sẽ được bình an ngay.- Thực là quí hoá, tôi hiểu rồi. Kính chúc Thầy tâm luôn bình an. Kính cảm tạ.
  15. Những điều thú vị trong trà đạo của người Nhật Nhật Bản luôn là một đất nước có những nét văn hóa vô cùng đặc sắc và tinh tế. Xứ sở mặt trời mọc với nền văn hóa lâu đời từ lâu đã mang đến thế giới một nét nghệ thuật truyền thống đặc sắc của người Nhật - nghệ thuật thưởng thức trà đạo. Từ khoảng cuối thế kỉ 12, nghệ thuật trà đạo bắt đầu thật sự phát triển và gắn bó với đời sống của người Nhật cũng như văn hóa Nhật Bản. Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký", nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà. Trà đạo không chỉ đơn thuần là phép tắc uống trà, mà còn là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách hòa mình với thiên nhiên, từ đó tu tâm dưỡng tính để đạt giác ngộ. Bốn nguyên tắc cơ bản của Trà đạo bao gồm Hòa - Kính - Thanh - Tịch. Bốn nguyên tắc cơ bản của Trà đạo bao gồm Hòa – Kính – Thanh – Tịch Hòa có nghĩa hài hòa, hòa hợp, giao hòa. Đó là sự hài hòa giữa trà nhân với trà thất, sự hòa hợp giữa các trà nhân với nhau, sự hài hòa giữa trà nhân với các dụng cụ pha trà. Kính là lòng kính trọng, sự tôn kính của trà nhân với mọi sự vật và con người, là sự tri ân cuộc sống. Lòng kính trọng được nảy sinh khi tinh thần của trà nhân vươn tới sự hài hòa hoàn toàn. Thanh là khi lòng tôn kính với vạn vật đạt tới sự không phân biệt thì tấm lòng trở nên thanh thản, yên tĩnh. Tịch là khi lòng thanh thản, yên tĩnh hoàn toàn thì toàn bộ thế giới trở nên tịch lặng, dù sống giữa muôn người cũng như sống giữa nơi am thất vắng vẻ tịch liêu. Lúc đó, thế giới với con người không còn là hai, mà cả hai đều vắng bặt. Việc thưởng thức trà đạo được ví như con đường mà đi hết con đường đó sẽ đến nơi có “trà đạo vừa ngon vừa không ngon”. “Con đường” ấy cần phải đảm bảo các yêu cầu về những yếu tố sau: nước pha trà, làm ấm dụng cụ, pha trà, rót trà rồi uống trà. Nước pha trà là quy chuẩn đầu tiên được đề cập đến trong trà đạo Nhật Bản. Tuyệt đối không bao giờ dùng nước đang sôi để pha trà đối với tất cả các loại trà Nhật Bản, trà xanh, hay trà bột dùng trong lễ dâng trà. Nước pha trà luôn phải được giữ trong một bình thủy hay được nấu trong một ấm kim khí không đậy nắp được đun trên bồn than rất yếu để giữ nước luôn ở khoảng 80 – 900C. Dụng cụ pha tràTiếp đó, để có thể đến với giai đoạn pha trà cần phải làm ấm dụng cụ: ấm pha trà và tách uống trà được tráng bằng nước sôi trong bình thủy để làm ấm dụng cụ, sau đó dùng khăn lau khô trước khi sử dụng. Ngay việc cho trà vào ấm pha trà cũng không thể tùy tiện mà phụ thuộc vào từng loại trà khác nhau. Thường với loại trà ngon cỡ trung bình, người ta thuờng tính cho mỗi một người khách khoảng một muỗng cà phê trà xanh nhưng nếu dưới 3 người khách thì lượng trà sẽ được cho nhiều hơn một chút để tránh quá nhạt. Đối loại trà xanh cỡ trung bình, công đoạn “pha trà” được chia thành 3 lần:Lần thứ nhất: Trà được pha với nước nóng ở khoảng 600C rồi ngấm trà khoảng 2 phút trước khi rót cho khách. Nước sôi từ bình thủy được rót ra một bình trà khác (hay chén tống) để giảm nhiệt độ trước khi rót vào bình pha trà. Nước pha trà lần đầu luôn được coi là đậm đà nhất, mùi vị trà thấm vào vị giác nhiều nhất. Lần thứ hai: Trà được pha với nước nóng khoảng 800C trong khoảng 30-40 giây. Nước được vào ấm pha trà rồi lắc nhẹ ấm và rót ra tách cho khách. Nước cũng được rót qua bình trung gian nhưng nhanh hơn để có nhiệt độ như mong muốn. Đối với những người pha trà quen thuộc, họ có thể điều chỉnh nhiệt độ từ bình thủy rót vào bình pha trà bằng các thủ thuật như rót nuớc thật chậm, để cao vòi nước trên bình pha trà… Nước trà thứ hai tuy đã mất đi chút ít vị trà nhưng vẫn dậy hương trà thơm ngon tạo nên nét độc đáo của trà xanh Nhật Bản. Lần thứ ba: Nước pha ở nhiệt độ khoảng 900C, cũng khoảng 30- 40 giây.Sau khi qua các giai đoạn rót vào bình thủy, từ bình thủy rót vào ấm pha trà, nước chỉ còn ở nhiệt độ khoảng 900C nên có thể được rót trực tiếp từ bình thủy vào ấm trà. Đối với những loại trà ngon đặc biệt, người ta có thể pha trà lần thứ 4 hay lần thứ 5 (cách thức pha như lần thứ 3) mà nước trà vẫn xanh và còn mùi vị. Nhưng đối với những loại trà xanh hạ phẩm, việc pha trà hơi khác một chút: lần thứ nhất, nhiệt độ của nước phải ở khoảng 70- 800C và ngâm trà trong 2 phút; lần thứ hai, nước pha ở nhiệt độ khoảng 900C, ngâm trà khoảng 1- 2 phút; không có lần thứ 3 vì trà đã không còn mùi vị nữa.Khi pha trà còn cần phải chú ý đến lượng nước pha trà sao cho vừa đủ để mỗi lần rót trà cho khách phải hết trọn vẹn nước trong bình pha trà. Nếu còn sót lại sẽ làm giảm chất lượng của lần uống trà kế tiếp vì sai nhiệt độ và làm mất màu xanh của trà. Trong nghệ thuật trà đạo Nhật Bản, điều “cấm kị” khi rót trà là không bao giờ rót trà cho khách một lần đầy tách rồi rót tiếp cho người khách kế tiếp. Bởi điều này sẽ dẫn tới sự khác biệt về độ đậm nhạt của nước trà trong mỗi tách cũng như không đều về lượng trà trong mỗi tách. Do đó, tất cả các tách của khách đều được đặt trong khay trà rồi rót theo thứ tự 1, 2, 3, 4… rót lần đầu khoảng 30ml (cho mỗi tách, cỡ lớn 70 ml), sau đó rót lần thứ hai với thứ tự ngược lại 4, 3, 2,1 mỗi lần khoảng 20ml (sao cho mỗi tách có tổng cộng 50ml nước trà) nếu còn dư chút ít trong bình, nên phân đều cho các tách. Sau đó mới đưa mời khách. Người Nhật thường ăn kèm một vài loại bánh ngọt khi thưởng trà để làm gia tăng hương vị của trà. Loại bánh được sử dụng để ăn kèm với trà đạo Nhật Bản nhiều nhất là wagashi, vị ngọt thanh của wagashi hòa quyện cùng vị đắng của trà xanh tạo nên một vị khó tả, nhẹ nhàng lâng lâng khó có thể kiếm được ở bất kỳ món ẩm thực nào. Một lưu ý nữa là phải ăn hết bánh trong miệng rồi mới uống trà, không nên vừa ăn vừa uống, có thể mới cảm nhận hết được hương vị độc đáo khi thưởng thức trà đạo Nhật Bản. Cầu kỳ mà độc đáo, tinh tế, từ lâu nghệ thuật trà đạo đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của người Nhật. Con người hòa mình vào không gian dìu dịu hương thơm của trà khiến cho tâm hồn trở nên thư thái, nhẹ nhõm, khác hẳn với cuộc sống xung quanh vốn ồn ào, tấp nập, đầy bon chen. Theo MASK <br class="Apple-interchange-newline">
  16. Đã gởi đến 2 bạn hôm nay!
  17. Trên tay Cô này phải là quyển kinh Coran chứ nhỉ? sao mình thấy giống Ipad mặc áo vậy?
  18. Tôi đã song hành trong không khí của công trình nghiên cứu của anh Thiên Sứ chứng minh nền văn minh của người Việt qua ứng dụng cụ thể là Phong Thủy Lạc Việt vì vậy cá nhân tôi nhận định nếu có người thừa nhận hay ủng hộ tôi cảm giác họ vẫn chưa hiểu hết, còn người chỉ trích hay phản đối thì cơ hội để bàn luận trên diễn đàn tôi e rằng ko có chỗ, chỉ bởi 1 lẽ tiêu chí của Trung Tâm rất rõ ràng Việt Nam 5000 năm văn hiến là 1 nền văn minh Lạc việt đã tồn tại và được công nhận.
  19. Bạn hãy vào trang 23 bài 446 tìm thấy câu trả lời, nhân đây cho Wild bày tỏ chút thành ý "nếu bạn hiểu được rằng 1 thần chú được trao đến 1 phật tử và họ nhận với tất cả tín tâm, đồng thời họ cũng nhận được nhiều chuyển biến thì chúng ta đây tôi và bạn hưởng ít nhiều công đức từ việc gieo duyên và thực hành pháp bố thí. Vì lẽ trên bạn cứ tổng hợp những ai có thành tâm Wild sẽ nhờ bạn chuyển trao. Cảm niệm vô cùng tâm pháp thiện của bạn.
  20. Sẽ gởi đến bạn vào ngày mai!
  21. SP đã đề ra giải pháp đơn giản và chứng minh tính khoa học theo lý luận Lý Học Đông Phương nhưng gia đình họ bận tiếp các nhà khoa học nên chưa quan tâm "lắp đĩa CD trong căn nhà của Cô Bé gây cháy" nhưng vấn đề Wild muốn đặt ra là nếu ứng dụng giải pháp này thì Cô Bé vẫn gây cháy ở nơi khác nếu ko được lắp đĩa CD thì chưa triệt để?
  22. Thoát đĩa vị đệm là một trong những chứng mà các Huynh ở đây can thiệp rất hiệu quả! Mỗi tuần có một ngày chủ nhật dành cho người dân trong phạm vi Tp HCM cachua2008 ah!
  23. Khi đến đây toàn thân cụ co quắp Cứng tất cả các cơ Sau vài phút buông ra Cụ đã tự đứng lên Và đi được nhiều bước dần ra phía ngoài cửa
  24. Thiền sư Tăng Hội Sơ tổ Thiền tông Việt Nam và Sơ tổ Phật giáo Trung Quốc Chúng ta biết rằng vào thượng bán thế kỉ thứ 3 tại Giao Châu có Thiền sư Tăng Hội, cha là người Khương Cư, mẹ là người Việt Nam. Ngài xuất gia năm 10 tuổi, trở thành cao tăng, mở đạo tràng tu tập ở Luy Lâu, Bắc Ninh, thiết lập một trung tâm dịch thuật và sáng tác ở đó và tịch vào tháng 9 năm 280. Thiền sư Tăng Hội đã sử dụng những kinh bản nguyên thủy như kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh Bốn Niệm Xứ để thực tập thiền. Trong khi đó, Thiền sư sử dụng con mắt Đại Thừa để thực tập. Vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3, Thiền sư Tăng Hội mà chúng ta đang công nhận là vị Sơ tổ của Thiền Tông Việt Nam đã rời đất nước chúng ta sang nước Ngô để truyền đạo. Cao Tăng Truyện nói rất rõ ràng là khi thầy Tăng Hội đi sang nước Ngô thì bên đó chưa có tăng sĩ Phật giáo. Chính Thiền sư Tăng Hội đã tổ chức đàn truyền giới đầu tiên cho những người Ngô trở thành những vị xuất gia đầu tiên. Ngôi chùa mà thầy Tăng Hội thành lập có tên chùa Kiến Sơ - ngôi chùa đầu tiên. Bài tựa kinh An Ban Thủ Ý do Thiền sư Tăng Hội đã viết tại Việt Nam, trong đó nói Lạc Dương như là kinh đô. Lúc đó chưa chia ra làm tam quốc. (Nếu đã chia tam quốc thì kinh đô là Bành Thành). Trong bài tựa An Ban Thủ Ý, chúng ta tìm ra được sự thật là bài tựa kinh Quán Niệm Hơi Thở được viết tại Giao Châu. Sau khi đã tiếp xúc với truyền thống Phật giáo phương Nam, chúng tôi vẫn tiếp tục giảng dạy và xiển dương Thiền học Việt Nam theo đúng tinh thần của Tăng Hội. Nghĩa là căn cứ và thiền kinh của Nam tông mà giảng dạy theo tinh thần thực tập rộng rãi và phóng khoáng của Bắc tông. Nếu quý vị có tới Làng Mai để tu tập, sẽ thấy rằng pháp môn của Làng Mai nối tiếp một cách rất trung thực và kì diệu với truyền thống của Thiền sư Tăng Hội. Thiền sư Việt Nam và Thiền sư Tăng Hội lớn hơn Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma - Sơ tổ Thiền tông Trung Quốc tới 300 năm. Như vậy trong các chùa của chúng ta, theo nguyên tắc thì phải thờ Thiền sư Tăng Hội làm Thiền tổ Việt Nam, chứ không phải Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma. Nếu quý vị là nhà học giả, nhà văn, hay họa sĩ thì phải vẽ ra hình ảnh của Tổ sư Thiền đầu tiên của chúng ta là Thiền sư Tăng Hội.Chúng tôi đã viết cuốn "Thiền sư Tăng Hội" và cuốn này đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng. Giới Phật tử lâu nay thường theo Thiền Trung Quốc và Nhật Bản, chưa phản ứng vì họ thấy rất lúng túng, lâu nay đã lỡ tin Bồ Đề Lạt Ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc và Việt Nam rồi. Bây giờ lại nghe nói Thiền sư Tăng Hội lớn hơn Tổ Đạt Ma tới ba trăm tuổi, chính là người đầu tiên giảng dạy Thiền học tại Việt Nam và Trung Quốc thì điều đó chưa chấp nhận được. Thiền sư Tăng Hội rất uyên bác về Lão giáo, Khổng giáo và Phật học, cho nên đã thuyết phục được vua Ngô Tôn Quyền yểm trợ xây ngôi chùa đầu tiên tại nước Ngô. Sau đó thì Tôn Hạo tiếp nối Tôn Quyền, nghe lời một số cộng sự làm khó dễ, nhưng cuối cùng đã được thầy Tăng Hội thuyết phục và vua đã thọ Tam quy Ngũ giới với thầy. Chúng ta thấy khả năng hóa độ của thấy Tăng Hội rất lớn. Thầy không chỉ là Sơ tổ Phật giáo Thiền Việt Nam mà phải được cọi như Tổ Sư Phật giáo đầu tiên ở tại Trung Quốc. Chúng tôi mong rằng cuốn "Thiền Sư Tăng Hội" đó, đã được dịch sang tiếng Anh, sẽ được dịch ra tiếng Trung Quốc một ngày rất gần. Thiền sư Thích Nhất Hạnh
  25. Bấm huyệt trị bệnh á khẩu sau tai biến Quảng nghĩ sau khi bấm huyệt 1 trường hợp câm điếc khác tai biến liệt toàn thân Ca tai biến này cần đến 2 người can thiệp (còn tiếp)