wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Em chưa có thời gian để gặp Xếp, khi nào nhận được em sẽ tổng hợp số tiền và đi đến Nhi Đồng 2 cùng Chipchip, chuyển tận tay những trường hợp khó khăn các cháu bệnh nặng cùng khoa với Cháu bảo Ân.
  2. Ghi nhận tấm lòng của Arigato, Wild đã kiểm tra tài khoản và sẽ chuyển đến tận tay Mẹ cháu Bảo Ân 500k.
  3. Chữa bệnh bằng đậu đen Thứ ba, 9/12/2008, 10:57 GMT+7 Đậu đen, còn gọi là hắc đại đậu, ô đậu, đông đậu tử..., là một trong những loại ngũ cốc rất thông dụng trong đời sống hằng ngày. Theo dược thư cổ, đậu đen có vị ngọt, tính bình, có công dụng hoạt huyết giải độc, khứ phong lợi thủy, bổ thận tư âm, điều trung hạ khí, thanh nhiệt giải biểu, kiện tỳ chỉ hãn, dưỡng can minh mục, thường được dùng để chữa các chứng thủy thũng trướng mãn, cước khí do phong độc, hoàng đản phù thũng, các bệnh lý hậu sản, lở loét ngoài da, di niệu tự hãn, tiêu khát, tai ù, tai điếc và mờ mắt do thận hư... Ngoài ra, loại đậu này còn có tác dụng làm tăng sức đề kháng và kéo dài tuổi thọ, rất có lợi cho người già, trẻ em và phụ nữ sau khi sinh. Một số cách dùng cụ thể như sau:- Ra mồ hôi nhiều do thể trạng suy nhược: đậu đen 30g, phù tiểu mạch 30g, đại táo 15g, sắc uống. Hoặc đậu đen 60g, hoàng kỳ 30g, sắc uống. - Liệt dương, giảm khả năng tình dục, tai ù, tai điếc do thận hư: đậu đen 60g, thịt chó 500g, ninh nhừ làm thức ăn hằng ngày. - Các chứng bệnh hậu sản: Đậu đen 1.500g sao cháy ngâm với 1.000ml rượu trắng trong một tháng. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10ml. - Thủy thũng do thận hư: Đậu đen 150g, ý dĩ 30g, đãi sạch, ninh bằng nồi đất trong 60 phút, chia ăn vài lần trong ngày. Viêm da lở loét do nhiệt độc hoặc ngộ độc thuốc và thực phẩm: Đậu đen 30g, cam thảo sống 9g, sắc uống.- Kinh nguyệt không đều: Đậu đen 50g sao cháy, tô mộc 12g, sắc uống. - Động thai đau bụng: Đậu đen 50g sắc lấy nước pha thêm một chút rượu vang uống. - Tăng huyết áp: Đậu đen 50g, hạ khô thảo 30g, đường trắng 20g. Đem sắc hạ khô thảo lấy nước ninh với đậu đen cho nhừ, chia ăn vài lần trong ngày. - Bại liệt nửa người do di chứng tai biến mạch não: Đậu đen 100g, độc hoạt 15g, một ít rượu gạo. Cho hai vị vào nồi sắc với 2.000ml nước còn 500ml, hòa với rượu chia uống vài lần trong ngày. - Sỏi đường tiết niệu: Đậu đen 50g, vỏ bí đao 50g, sinh khương 10g, sắc uống. - Tiểu ra máu: Đậu đen 30g, đậu xanh 30g, rễ cỏ tranh 30g, sắc uống. - Di tinh: Đậu đen 30g, thanh hao 30g, sắc uống. - Rối loạn tiền đình: Đậu đen 30g, ngải cứu 45g, trứng gà 1 quả. Luộc 3 vị cho tới khi trứng chín, ăn trứng, uống nước sắc. - Đái tháo đường: Đậu đen 30g, hoàng tinh 30g, mật ong 10g, ninh nhừ ăn hằng ngày. - Đau lưng: Đậu đen 80g, tang ký sinh 80g, tục đoạn 40g, rượu 60ml. Các vị thuốc sao thơm rồi đem ngâm với rượu, sau 7 ngày là dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 15ml. - Giải rượu: Uống nước sắc đậu đen càng nhiều càng tốt. - Làm đen tóc, mọc tóc: Đậu đen 50g, nhục quế 15g, đại táo 50g, ninh nhừ ăn trong ngày. - Tăng tuổi thọ: Đậu đen 50g, đậu xanh 50g, đậu đỏ 50g, ninh thành cháo, chế thêm đường, chia ăn vài lần trong ngày. - Giải khát, làm hết khô miệng ban đêm: Đậu đen 80g, lê 1 quả, đường phèn 30g, sắc lấy nước uống hằng ngày. Theo ThS. Hoàng Khánh Toàn Theo báo sức khỏe và đời sống
  4. Xem Tướng đầu Và Trán Đầu nải chữ Dương chi sở tụ, đầu là nơi tụ hội của mọi khí dương, đầu và trán là nơi tông chủ của tướng mạo. Đỉnh đầu lồi lên là tướng cao sang quí hiện. Lỏm xuống là tướng chết yểu. Da đầu mỏng là người bần cùng. Đầu có tật nhô lên không phải như sừng hay như mục u nhọt đó là người quí cách có thể phát đại phú. Đầu lép là tổn phụ mẫu, lép bên phải là có hại cho mẹ, lép bên trái có hại cho cha. Sau cạnh tai có xương nổi cộm lên là trường thọ. Khuyết lỏm xuống là chết yểu. Cốt phù tang là xương 2 bên màng tang nổi lên, cũng như bên trên 2 tai có xương ngọc lâu gồ ra đều là tướng phú quí trường thọ. Đi cuối đầu, ngồi lắc đầu là tướng bần hàn hạ đẳng. Phần trán tốt nhứt là cao và rộng, nên có câu: "Thượng đỉnh vuông tượng thẳng ngay; thiểu niên đáo lão được ngày giàu sang" là như vậy. Trán cao đứng như bức tường, rộng úp vô như lá gan là tướng thọ và giàu. Trán nghiêng cũng như đầu méo đều làm tổn hại cha mẹ. Nghiêng trái là hại cha, nghiêng phải là tổn mẹ. Trên trán có 3 lằn ngang cong cong như chữ Tam là thông minh, gặp nhiều điều may mắn. Trên trán có 3 lằn xuôi như chữ Xuyên là người có nhiều hy vọng thành công trong mọi dự tính về tương lai. Trên trán có 3 lằn ngang rất bằng phẳng là người suốt đời góa bụa cô đơn không vợ không chồng, đàn bà đàn ông gì cũng vậy khongtu.com
  5. Xem Tướng Mặt Tướng diện quan hệ là nghiêm chỉnh: và thần sắc bình hoà, tinh thần minh tịnh, đó là tướng diện thanh cao quý hiển. Đến như mặt lép méo, màu sắc u ám, tinh thần bạc ác, đục cặn thô lậu, đỏ là tướng điện hạ tiện bần bạc. Tướng diện như khô đục như có bụi bẩn là yểu, hay bị bạo tai hoành hoạ. Sắc diện đen láng, hay trắng mượt như mở hoặc vàng như chuối chín đều là tướng phủ quí. Tướng diện sắc đỏ như lửa, lộ đấy ác khí là tướng đoản mạng bạo tử. Khi giận mặt xanh là tướng sâu độc. Mặt tam giác là đàn ông khắc sát thê tử, đàn bà hình kỵ chồng con, mà hay bạo dâm. Tướng diện như khuôn thiên đầy đặn, như mặt trời buổi sáng, như mặt trăng đêm rằm là đàn ông phát quan, đàn bà sang cả, liệt vào bực mệnh phụ phu nhân. Da mặt dày mịn là đôn hậu hiếu hạnh, da mặt mỏng thô là lanh lợi xảo quyệt, nhưng nghèo khó. Mặt nhỏ hình tướng to béo là thọ. Người gầy ốm mặt to béo là yếu. Mặt đen thân thể trắng là người thượng lưu, mặt trắng thân hình đen là bậc hạ cấp. Mặt vàng là tướng phú quí, mặt xanh là bậc hiền nhân. Nghiêm túc uy mãnh phú quí trường thọ, mặt mũi uy nghiêm người nhìn kính nễ thì giàu sang lại sổng lâu . Trì trọng đôn hậu phúc lộc chi tướng, mặt có thịt mà vẽ lộ hiền hoà là tướng phước lộc. Thanh tú tuấn nhã như đơn quế, côn sơn thị thánh thị hiền, mặt sáng mắt trong như đơn quế, như ngọc côn sơn, vẻ người cao khiết là bậc thánh triết. Cốt lộ mi hàn mạo cổ quái, nhược trrước giả thị dung lục chi nhơn, mày thưa xương lộ mặt vẻ cổ quái, thần sắc lại vẫn đục thì phàm phu mà bất tài. Khí cốt cô hàn, mi đoản diện khuynh tọa như diêu, hành như hạc tắc thủy châu, như lộ lộ đới vũ tất thị lao khổ cơ hàn chi tướng, diện mạo cô độc bần hàn, mày ngắn, mặt méo nghiên, ngồi thì lắc lư, bước đi như hạc bước dưới bãi nước bùn, như cò giữa cơn mưa, nhứt định suốt đời bần hàn cô đơn lao khổ. Lại nói diện tướng bạc nhược, bước nhẹ đi nhanh, thấy ai như có điều khiếp sợ, suốt đời lao nhọc, dù kiếm ăn được cũng yểu. Mặt nhỏ mỏ choắt, gọi là mặt chuột, đôi mắt như chó sói, đi như rắn là tướng bất trung bất hiếu, việc ác đền đâu cũng đều làm được. Tổng quát lại tướng diện sang, hèn, sướng, khổ, hung, hiền đều đại loại như thế.
  6. Câu chuyện về “bóng ma không đầu” Thứ hai, 8/12/2008, 12:17 GMT+7 Hạt Norfolk ở nước Anh vào thế kỷ thứ 19 cứ đến ngày 19/5, người lớn, trẻ em dù ở đâu, làm gì đều tìm mọi cách trở về nhà trước khi màn đêm ập xuống. Câu chuyện truyền từ đời này sang đời khác về những bóng ma không đầu, trắng toát, ngồi trên cỗ xe tứ mã phóng như bay về phía dinh thự Blickling Hall đã khiến ngay cả kẻ bạo gan nhất cũng không dám lai vãng ngoài đường vào buổi tối kinh hãi ấy. Bóng ma không đầu, trong lời đồn của du khách, còn xuất hiện cả bên trong dinh thự Blickling Hall, lang thang từ phòng này sang phòng khác, với chiếc đầu gói trong vạt váy, máu chảy long tong. Người dân hạt Norfolk thì thào với nhau rằng bóng ma không đầu đó là Anne Boleyn, kiều nữ của dòng tộc Boleyn, người sau này trở thành hoàng hậu và chịu một cái chết oan nghiệt. Nàng bị chém đầu lúc 8 giờ sáng ngày 19/5/1536 tại tháp Green. Còn người đánh xe không đầu là Thomas Boleyn, cha của Anne, người đàn ông bị nguyền rủa vì phản bội con gái mình. Blickling Hall được cho là nơi mà Anne từng sống hạnh phúc thời thơ ấu. Hình ảnh ngựa không đầu Dòng tộc Boleyn sống ở dinh thự Blickling Hall từ năm 1437, lúc đó dinh thự thuộc quyền sở hữu của Geoffrey Boleyn. Vài năm sau, cháu trai của ông, Thomas Boleyn - một người rất đam mê quyền lực và danh vọng - thừa kế ngôi nhà. Thomas là một người đàn ông tham vọng và nhẫn tâm. Là một quần thần dưới triều đại vua Henry thứ VIII, ông đã sớm nhận ra rằng đức vua rất quan tâm đến các con gái của mình, đầu tiên là Mary rồi đến Anne. Thomas không ngại làm tổn thương bất kỳ ai để đạt được tham vọng của mình và ông bắt đầu khuyến khích con gái thắt chặt mối quan hệ với vua. Kết quả đúng như ý muốn của Thomas, đức vua đem lòng yêu Anne, một cô gái thông minh, duyên dáng với đôi mắt nhung huyền lay láy, chiếc cổ dài thanh mảnh và mái tóc mượt mà, óng ả. Trớ trêu thay, vua Henry đã có hoàng hậu còn Anne thì không muốn mình là cái bóng của một người đàn bà khác. Đức vua hiểu điều đó và nhanh chóng lên kế hoạch ly dị với hoàng hậu Catherine. Toàn cảnh dinh thự Blickling Hall ở hạt Norfolk (Anh) Không có được sự đồng ý của Giáo hoàng, để chiều lòng người đẹp, Henry tự xưng mình là người đứng đầu nhà thờ Anh, tuyên bố hủy hôn với hoàng hậu Catherine. Năm 1533, ý nguyện trở thành “mẫu nghi thiên hạ” của Anne trở thành hiện thực.Ban đầu, nhà vua đắm chìm trong hạnh phúc mới. Nhưng bi kịch, sau đó, đã khởi nguồn từ việc hoàng hậu Anne không thể nào sinh hạ cho ngài một hoàng tử để thừa kế ngai vàng. Cộng thêm những lời thị phi chốn thâm cung, từ miệng những kẻ không ưa gì hoàng hậu ngang ngạnh, nhà vua dần dần lạnh nhạt với Anne, tìm niềm cảm hứng với các cô gái mới, tìm cách loại bỏ Anne. Với sự giúp đỡ của quận công Thomas Cromwell, nhà vua bắt đầu bí mật điều tra để tìm bằng chứng đổ một tội gì đó cho Anne. Lúc đầu, họ định khép Anne vào tội sử dụng ma thuật với chi tiết tình nghi là bàn tay phải của nàng có sáu ngón. Về sau, Anne bị buộc tội ngoại tình. Đối với một hoàng hậu, ngoại tình tức là phản quốc mà phản quốc thì phải chết. Anne biết số phận mình đã được định đoạt khi mà ngay cả cha đẻ mình, Thomas Boleyn, cũng tham gia hỗ trợ phiên tòa xét xử nàng. Vào ngày nàng bị xử chém, rất nhiều người đã tụ tập tại tháp Green. Nàng đi chậm rãi đến đoạn đầu đài, bình tĩnh nói vài lời với dân chúng rồi quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện. Đứng cạnh nàng là một kiếm sĩ người Pháp, nổi tiếng với những nhát chém gọn gàng. Nàng nói: “Anh sẽ không gặp nhiều rắc rối đâu vì ta có cái cổ rất nhỏ. Ta sẽ là một “Hoàng hậu Không đầu”. "Hoàng hậu không đầu" Anne Boleyn được cho là xuất hiện hàng năm vào ngày nàng bị xử chém Đứng cách đó khá xa, vua Henry đang ngồi trên lưng ngựa, nóng lòng chờ đợi tiếng súng báo hiệu ông trở thành một người đàn ông tự do. Khi súng nổ, Henry vội vã phi ngựa đến gặp người phụ nữ mà sau này trở thành người vợ thứ ba của ông. Sau khi bị chém, xác Anne được cất vào một cái hòm đựng cung tên, đầu để dưới cánh tay và được chôn trong tháp. Ba năm sau, Thomas Boleyn chết, nhưng linh hồn của ông và con gái ông không bao giờ có thể yên nghỉ. Hàng năm, như một lời nguyền, vào ngày giỗ của Anne, bóng ma không đầu của Thomas phải trả nợ cho con gái bằng cách chở nàng về Blickling Hall, cứ năm này qua năm khác đến bao giờ đủ 1.000 năm thì thôi. Truyền thuyết về bóng ma của Anne Boleyn có lẽ xuất hiện ngay sau cái chết của nàng. Những chi tiết khác như lời nguyền giáng lên cha Anne hay cỗ xe ma được cho là xuất hiện từ cuối thế kỷ 18 và 19. Chuyện Anne có thêm một ngón tay cũng là chi tiết thêm thắt từ thời Victoria. Ngày nay, Blickling Hall là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch của Anh sau khi được trùng tu và mở cửa cho khách tham quan từ năm 1962. Năm 2007, tòa dinh thự xây bằng gạch đỏ này đứng đầu danh sách 10 ngôi nhà bị ma ám nhiều nhất ở nước Anh do National Trust (tổ chức bảo tồn các tòa nhà ở Anh, xứ Wales và Bắc Ailen) bình chọn. (Còn nữa) Theo tintuconline
  7. Tướng người phát đạt ! Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú,tiếng nói vang dội,Tam đình bình ổn Ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt. Thực ra, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt. Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc ( trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu ) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng). Ngược lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng ( vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục ) kể trên phải đồng thời kiêm bị. Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là : - Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu ) - Tai phản ( Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn ) - Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm ) - Môi cong lên ( Tướng của người chết thảm ) - Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong ) Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn *chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm. Ví dụ như ngũ lộ mà : - Mắt lộ nhưng không có thần quang - Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ - Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng - Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh - Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt . Tướng pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ ** mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên ( tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình ) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán. Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt ( nếu hội đủ cả hình lẫn chất ) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau . Tóm lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Hình thì như đã miêu tả trong quyển I, còn chất thì đó là những điểm độc đáo về nội dung đã nói ở chương nguyên lý về thanh trọc. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn cứ vào nguyên tắc “ Trọc trung hữu thanh “, Thanh và trọc tương đối dễ phân biệt, nhưng “ thanh trung hữu trọc và trọc trung hữu thanh “ thì lại rất khó tìm ra. Trong chương nói về thanh trọc, soạn giả đã cố gắng tổng hợp các điều liên quan đến thanh trọc tản mát trong các sách vở về tướng, nhưng thực tế không phải chỉ có bấy nhiêu. Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta thường nói “ Tâm lĩnh thần hội” nghĩa là những gì uyên thâm cao xa, thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền được. Điển hình cho lề lối này là phần hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền. Tuy vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn năng khiếu đặc biệt về một ngành học càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì vậy độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng nguyên lý thanh trọc trong tướng học “ đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông ” kia mà.
  8. Nếu chủ về tài lộc Concaocon nên sử dụng Xâu 3 đồng Xu có sợi chỉ đỏ buộc xuyên qua , phía trên có thỏi vàng bằng đá ( Thổ sinh kim ), cũng tốt. Cái này dân Đài Loan thường đặt vào ví nếu nhỏ và treo ở Văn Phòng, cửa hàng lớn. Mang tính Vượng tài .
  9. Chính xác là Phúc cho những ai không thấy mà tin . Câu này nói về câu chuyện của vị thánh Thomas Anh ạ !
  10. Hiện nay Chị Nga Minh chăm sóc cháu tại tp Hồ Chí Minh, nhưng có Anh Thọ là chồng của Chị đã trở về Huế vì không thể nghĩ việc lâu hơn. Wild đã giới thiệu Anh là Giám Đốc Trung Tâm hiện đang ở Hànoi có quan tâm đến hoàn cảnh của gia đình và sẽ giúp Anh Chị bằng những giải pháp Phong Thủy . Wild cũng đã có số phone tay của Chị và phone nhà. Khi nào quyết định ra Huế. Anh sẽ được đón tiếp.
  11. TƯỚNG HÌNH KHẮC . -Tóc vàng khè, xoắn tít lại với nhau thành từng bụi một -Tròng đen có màu vàng xậm ( như nước trà pha đặc ) tròng trắng đục đỏ -Lưỡng quyền quá cao nhọn, lấn hết khuôn mặt và các bộ vị khác -Trán nổi từng cục u nhỏ như ốc bám -Trán cao, mặt hõm -Trán có vằn sâu hoặc thẹo -An đường có hằn sâu dài chạy thẳng từ sơn căn lên trán , xung phá -Tuổi trẻ mà tóc rụng quá nhiều -Xương da khô, phá -Mắt dài, miệng lớn quá mức -Mặt gầy guộc nổi gân -Mặt hình tam giác -Tai chỉ có vành trong mà không có vành ngoài -Mặt choắt, nhọn, eo bụng quá hẹp -Sắc mặt khô xạm trì trệ như đất bùn -Sơn căn thấp gẫy -Cằm nghiêng lệch -Cổ gầy, trơ xương nổi đốt -Tiếng oang oang như tiếng sấm -Tính nóng như lửa -Thần khí thô trọc -Trán rộng, cằm nhỏ và nhọn -Mắt có khí sắc lốm đốm màu trắng -Sống mũi nổi gân máu hoặc nổi đốt -Thịt lạnh như nước đá -Tay lớn, xương thô -Vai lưng nghiêng lệch -Mắt tròn và quá lớn -Lộ hầu, răng như bàn cuốc -Xương thô cứng, tóc rễ tre -Đêm ngủ hay la hoảng -Miệng như thổi lửa -Lỗ mũi có lông dài thò ra ngoài -Trán gồ, mang tai bạnh -Xương che lỗ tai quá cao và đầy -Mắt trắng bệch, không huyết sắc
  12. Em đã trao đổi với Chị Nga Minh , Gia đình chị về căn nhà này 4 năm, và từ ấy xảy ra nhiều chuyện không may, có thể phán đoán của anh đã đúng : Do Phong thủy của căn nhà . Nhưng cách nào để ra tận nơi giúp họ sớm. hạn chế bớt những tai họa, vì họ ở Thừa thiên Huế .
  13. NHÌN TƯỚNG MÀ ĐOÁN NGƯỜI. 1 - Loại bằng hữu hiệp nghĩa: Loại tướng bạn bè có tính hiệp nghĩa được biểu lộ ra ngoài bằng các đặc điểm sau đây . Cặp lông mày trông có vẻ thô nhưng nhìn kỹ thì thấy thanh tú và oai vệ : ánh mắt sáng nhưng không lộ , nhìn người hay vật đều nhìn thẳng mục tiêu : Mũi và lưỡng quyền cao thấp tương xứng với nhau ; tiếng nói rõ ràng mạnh mẽ . Thấy việc phải dám làm dám nói , không sợ quyền uy , không ham tiền bạc . 2 - Loại bằng hữu khẳng khái: Đặc diểm của bạn bè có tính khẳng khái bao gồm : Mày đẹp , trán rộng , ánh mắt có vẻ cương cường nhưng không lạnh lẽo , mũi ngay thẳng và cao , phối hợp đúng cách với lưỡng quyền ; tính tình độ lượng , thất việc đại nghĩa dám bất chấp mọi hiểm nguy , đứng ra đảm trách , thấy kẻ nguy khốn về tiền bạc dám dốc hết túi giúp đỡ một cách tự nhiên mà không hối tiếc . 3 - Loại bằng hữu trung hậu: Về mặt hình thức , loại bạn bè trung hậu thường có các đặc điểm : lông mày dài và thanh tú phối hợp thích nghi với cặp mắt không bị khuyết hãm về hình thể ; mục quang ôn hoà nhưnh không kinh kiếp ; về mặt nội tâm , kẻ đó dù biết rõ bạn bè có lòng tham hay biển lậnmà không tổn hại trực tiếp đến mình thì sẽ làm thinh , không vạch trần thói xấu của bạn bè cho người khác biết ; không cưỡng cầu , không hại người để lợi cho bản thân , đối với bạn bè gặp lỗi nhỏ thì bỏ qua , gặp lỗi lớn thì thẳng tay phản kháng . 4 - Loại bằng hữu gian xảo âm hiểm: Ngoại biểu của hạng bạn bè kẻ trên là cặp lông mày thô và đậm quá mức bình thường, lòng trắng có nhiều tia máu hồng hoặc đỏ mũi gãy lệch, chuẩn đầu méo mó ánh mắt thường liếc xéo, không nhìn trực diện kẻ đối thoại, thích chơi gác người, thích nói xấu sau lưng người hoặc tọc mạch những chuyện kín của người không liên quan gì tới mình. 5 - Loại bằng hữu an phận thủ thường: Loại này có bề ngoài dễ nhận thấy nhất là mũi nhỏ nhưng ngay thẳng, lưỡng quyền hẹp và thấp, nhãn cầu nhỏ không sáng, ánh mắt không giao động và ít biến thông, miệng nhỏ môi mỏng. Về cá tính, kẻ đó không dám mạo hiểm bất kể việc gì lớn nhỏ. 6 - Loại bằng hữu vô tình hoặc bạc tình: Loại này hình như toàn thể khuôn mặt đều mỏng manh. Mày thưa thớt và nhỏ, da mặt mỏng, mũi gãy dài và hình như không có thịt mang tai bạnh ra rất rõ ( nhìn từ sau vẫn còn thấy ) về mặt tâm tướng kẻ đó bất cứ làm gì đều chỉ biết có mình mà không biết tới người khác, hơn người chút đỉnh thì hớn hở còn thua sút thì bực dọc thịnh nộ. 7 - Loại bằng hữu tính nết hồ đồ: Loại bản hữu có tính hồ đồ nghĩa là kẻ ham tường việc đời, không có chủ kiến, dễ bị người thuyết phục. Bề ngoài của tướng người trên là lông mày mịn, nhỏ mọc lan xuống bờ mắt, Xương lưỡng quyền nhỏ, thấp, lòng đen, lòng trắng không rõ ràng, ánh mắt không có thân quang,giọng nói thiếu âm lượng, bước chân thiếu ổn định. Đó là loại người không phân biệt được xấu tốt rõ ràng. Theo NTH
  14. Có một câu chuyện trong đời thực đã cho tôi đáp án về nghiệp quả, tôi xin post lên đây để minh chứng: Cách nhà tôi không xa có một đôi vợ chồng trẻ chưa xứng tầm Đại Gia, nhưng công việc làm ăn mỗi ngày một phát triển thuận lợi. Họ đã có những ý tưởng giúp người nghèo và cơ nhỡ rất thiết thực. Hàng tháng cứ vào đúng ngày 14 và rằm, 30 và mùng một. Họ cùng gia đình nấu 1 xe cơm chay với nhiều món ngon được chế biến hoàn hảo như quán. Ai cũng được ăn bất kể tôn giáo, sắc tộc, sang hèn đều miễn phí. Tiếng lành đồn xa, người bán vé số, em bé đánh giày tận đâu đâu cũng kéo nhau đến ăn, cả những người buôn bán quanh đấy dù không khó khăn cũng đến ăn để đỡ được bữa cơm nhà. Vợ chồng còn bắt đầu một tâm nguyện mới, đến tháng Vu Lan, tổ chức xe đi viếng Thập cảnh Chùa ở tỉnh xa để bà con chòm xóm có điều kiện đóng góp cho các chùa nghèo. Cũng miễn phí xe và ăn uống ! Quả là việc làm này công đức hằng hà !(chắc họ nghĩ thế) Thế nhưng ! Ở đời vẫn còn đó những chữ NHƯNG làm ta suy nghĩ cho đến cạn nguồn căn nguyên. Theo lộ trình xe đi đến nơi xa nhất là một ngôi chùa nằm trên sườn núi Chứa chan thuộc tỉnh Đồng nai. Chùa này cũng có đường đi khá cheo leo như thử thách phật tánh, nhẫn tánh của người đến viếng. Người chồng đã mau mắn như người dẫn đường, thuê cho mình một cuốc xe ôm để được tham quan trước khi đưa đoàn đến vãng cảnh. Con đường ngoằn ngoèo nhỏ hẹp nhiều đá cạnh đã không dễ dàng cho anh xe ôm giữ chặt tay lái đưa khách đến nơi an toàn, cả hai đều tuột khỏi vị trí yên xe và rơi tự do 2 hướng khác nhau. Người ngồi dậy lại là anh xe ôm với một ít xây xát nhẹ. Nhưng người khách đã nằm đó bất động. Sau khi hoàn hồn anh lái xe đã vội chạy về nơi xuất phát kêu gọi sự cấp cứu. Anh Chồng được đưa đến bệnh viện với chẩn đoán ban đầu, chấn thương mặt trước vùng sọ trán. Trong giờ phút bối rối ấy, mọi người tập trung quanh bệnh viện để nghe ngóng . Tiếp đó lại có ca cấp cứu mới được chuyển vào viện là một bé trai 5 tuổi, cháu đã bị ngã khi leo trèo lên các bậc đá làm thang cho dòng người đi viếng. Bé là con trai của người bị nạn. Thật là Họa vô đơn chí, ai ai cũng xót xa bàng hoàng trước 2 sự cố này . Người vợ cũng lên tiếng bảo bà con cứ đi viếng chùa, Chị ở lại bệnh viện với vài người thân. Tình hình sau đó cháu bé cũng hồi phục nhanh nhưng người chồng lại là một ca khó so với một bệnh viện của huyện. Tất nhiên chuyến đi được kết thúc sớm so với dự tính ban đầu. Về đến tp, với tiện nghi của một bệnh viện lớn, người chồng cũng qua khỏi với một vết lõm ở trán với một nét ngẫn ngơ như trẻ thơ. Hy vọng với thời gian và tốn kém khá lớn may ra hồi phục đươc một phần trí nhớ. Và có lẽ anh cũng đang muốn QUÊN, quên đi tất cả quá khứ, công việc mà vợ chồng anh đã làm, đã giàu có từ những đồng tiền cho vay nặng lãi, từ những hành xử nóng nãy, đạp đổ nồi canh bún mà con nợ của anh không còn khả năng góp đúng lịch, đến những xấp vải của người thợ may(cũng là con nợ) đang giữ của khách mà anh đã thu hồi không một lời giải thích không một chữ ghi chép. Đến những chậu hoa bán rằm mùng một của một con nợ trốn góp cho vợ chồng anh cũng bị vùi dập như cỏ dại gặp lũ. Khi đương thời Anh cũng đã ý thức được việc tích đức nhưng có đủ không ? Khi túi TỘI quá đầy mà túi PHƯỚC quá vơi ! Và có phải chăng chư Phật thập phương đã từ chối tiếp nhận bước chân của vợ chồng Anh được đến cạnh ngài để sám hối để hồi hướng hồi tâm ? Và có phải chăng nghiệp quả nhãn tiền, phước ưu tội chướng đang được giải bàn cho bài toán của cuộc đời. Một câu chuyện có thật mà tôi chứng kiến và nghiền ngẫm, tôi đã chọn chủ đề của Topic này để kể lại.
  15. diệu tâm thân mến ! Nỗi băn khoăn của bạn cũng như của nhiều người, không muốn tiếp tay cho những kẻ làm giàu pha màu sát khí ! Nhưng nếu bạn nghĩ được rằng cứu thoát một đàn chim, giải phóng cho đàn cá, bạn đã đem lại cho chúng sự tái sinh, trở về với bầu trời với dòng sông của sự sống. Sinh khí bắt đầu từ đây làm tâm bạn an bình, còn những người bán, nghiệp quả theo họ như một vòng xoáy, vì không có sự tiếp tay của bạn, họ vẫn chọn một nghề khác với một nghiệp quả khác tương tự, nếu có phát triển đi chăng nữa cũng chỉ làm nặng thêm hạt nhân oán đối. Thôi thì ta cứ làm khi lòng mình thấy Phải, thấy An, thấy còn Cảm xúc. Còn mọi việc như bánh xe luân hồi tuân theo luật trả vay. Vài dòng lạm bàn có gì không phải ta lại tiếp tục học hỏi từ những gương thiền định.
  16. Chiều qua vào lúc 15h ngày 5/12/08, Wild đã tìm gặp được Vợ chồng Anh Chị Minh là cha và Mẹ của Cháu Bảo Ân theo tin chuyển viện điều trị tại bệnh viên Nhi Đồng 2 Tp HCM. Thật không khó tìm vì cháu có màu da rất vàng, mà chúng ta dễ nhận biết căn bệnh sau khi trông thấy cháu. Dưới đây là một số hình ảnh của chuyến đi : Wild gặp được cả Anh Thọ là cha cháu cũng xin nghĩ dạy 1 tuần để vào đây cùng Chị chăm sóc cháu: Gia đình cũng xúc đông nhờ tôi chuyển lời cảm ơn đến tất cả những tấm lòng của các thành viên Diễn đàn đã quan tâm đến hoàn cảnh của cháu. Tiền đã được Wild trao tận tay Chị Minh, trong lúc thăm hỏi về diễn biến sức khỏe của cháu, Anh Trọng viết giấy nhận số tiền 2.200.000vnd ( hai triêu hai trăm ngàn). Chứng từ xác nhận: Đại diện của khoa trao đổi với Wild và giới thiệu 1 trường hợp thương tâm khác : Wild sẽ có bài giới thiệu về một bé chưa đầy 7 tháng tuổi đã mang bệnh Tim bẩm sinh .
  17. Bạn vào đây để xem http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...et_co/t310.html
  18. Thứ Tư, 03/12/2008 - 3:48 PM Cô giáo Trần Thị Nga Minh nhận 7.260.000 đồng tiền ủng hộ Chị Nga Minh nhận quà của bạn bạn đọc. (Dân trí) - Ngày 28/11 đại diện báo Dân trí đã trao số tiền 7.260.000 đồng do bạn đọc ủng hộ cho chị Trần Thị Nga Minh (31 tuổi), giáo viên trường THCS Lâm Mộng Quang - nhân vật trong bài “Lời khẩn cầu của một cô giáo trẻ”. Cầm số tiền lớn trên tay chị Nga Minh xúc động “cảm ơn các nhà hảo tâm đã giúp đỡ gia đình tôi trong lúc hoạn nạn này”. Gặp lại chị Nga Minh khi chị đang làm thủ tục chuyển viện cho người con gái xấu số của mình tại bệnh viện TƯ Huế, sau hơn 1 tuần nằm cấp cứu vì bệnh quá nặng nên gia đình đã chuyển bé Bảo Ân vào điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 (TPHCM) mong cho bé qua được cơn nguy kịch. Tình cảnh của gia đình chị Nga Minh quá đau khổ, bản thân chị bị bệnh hen suyễn mãn tính hơn 10 năm nay, mỗi khi trái gió trở trời là chị lại lên cơn hen nặng, đã nhiều lúc vì bệnh quá nặng chị đã phải cấp cứu tại bệnh viện TƯ Huế. Cũng vì căn bệnh quái ác đó mà Nga Minh không thể tiếp tục sinh con. “Các bác sỹ cho biết nếu tôi tiếp tục sinh con thì ảnh hưởng rất lớn đến mạng sống”, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt hốc hác, chị Nga Minh tâm sự. Mạng sống của bé Bảo Ân chỉ còn được tính từng ngày, từng giờ. Ba lần sinh con là cả 3 lần vợ chồng chị Nga Minh như chết lặng vì những người con xấu số của chị đứa thì qua đời quá sớm, đứa thì bị bệnh hiểm nghèo khi còn quá nhỏ. Hai người con trước của chị Minh đã qua đời, bây giờ người con cuối cùng của gia đình chị - bé Bảo Ân đang bị bệnh xơ gan bẩm sinh khi em chưa đầy 16 tháng tuổi, mạng sống của bé đang tính từng ngày, từng giờ.Hiện nay bé Bảo Ân đang nằm điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, “vì bệnh viện TƯ Huế không liên kết với bệnh viện Nhi đồng 2 nên bé Bảo Ân phải lo mọi chi phí trong quá trình điều trị”, liên lạc với chúng tôi qua điện thoại, chị Nga Minh cho biết. Nguồn dantri.com Qua bài báo trên Wild quyết định không chuyển tiền qua Bưu Điện nữa . Wild sẽ đến và trao tận tay Chị Nga Minh nhằm giúp đỡ phần điều trị cho căn bệnh của cháu !
  19. Vừa qua Wild tổng hơp được sự đóng góp của các thành viên dưới đây : Lãng Tử : 1.000.000vnd Coc con : 200.000vnd Nam : 500.000vnd Chipchip : 100.000vnd Phuong2t : 200.000vnd Duyenanh : 200.000vnd --------------------------------- Tổng cộng là 2.200.000vnd Hôm nay Wild sẽ chuyển số tiền này đến Chị NGA MINH mẹ của cháu Bảo Ân . Wild sẽ post phiếu chuyển tiền sau khi có để tường minh .
  20. Tướng đổi thay theo nghiệp ! Vì tướng mạo là biểu hiện của nghiệp nên nó cũng bị thay đổi theo nghiệp. Một tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế. Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ. Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác. Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi. Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh. Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp lắm!!! trannhatthanh (chép từ Vietlyso.com)
  21. Khảo luận về Tướng mạo và Phong thủy Số mệnh vẫn là câu hỏi của kiếp người cho dù khoa học tiến bộ đến mức nào chăng nữa. Biết bao câu chuyện thực sự xảy ra chung quanh ta, khiến nhiều người suy nghĩ về số mệnh và sửa đổi số mệnh. Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông là hai lãnh tụ Trung hoa cận đại nhưng họ Tưởng một đời hạnh phúc, kế nghiệp xây dựng sẵn của Tôn Trung Sơn, đánh Nhật đã có Đồng minh giúp, chống Cộng đã có Mỹ viện trợ và khi thua chạy ra Đài Loan cũng an hưởng hàng chục năm thanh bình ở Đài đảo thịnh vượng và quyền hành làm chủ một cõi sơn hà truyền đến đời con cái. Về đường vợ con, Tưởng Giới Thạch cũng sung sướng hơn Mao nhiều, bà thứ hai của họ Tưởng là Tống Mỹ Linh thuộc một gia đình giàu có nhất Trung hoa đầu thế kỷ 20 và cũng là một phụ nữ vượng phu ích tử và được nhiều người nể trọng, hưởng thọ tới 105 tuổi. Trong khi ấy Mao Trạch Đông cả đời lao tâm lao lực, tuy chiếm được cả lục địa nhưng chẳng lúc nào an nhàn. Về nội bộ Mao phải tranh giành quyền lực với đồng chí như Lưu Thiếu Kỳ, Đào Chú, Lâm Bưu... Đối ngoại, Mao vừa phải đối kháng với Mỹ, vừa phải quyết đấu với Khruschev của Nga. Mặt vợ con của Mao rất bi thảm. Ba đời vợ thì Hạ Tử Chân, Dương Khai Tuệ và Giang Thanh, kẻ thì bị giết, kẻ tự sát và khi nhà độc tài hấp hối cũng chẳng có ai bên cạnh vì Giang Thanh còn mải giành quyền kế vị. Con cái của Mao cũng không ra gì. Con trai duy nhất là Mao Ngạn Anh thì chết ở Triều tiên. Mấy cô con gái đường chồng con quá bạc bẽo. Nguyên nhân nào gây ra sự khác biệt về số mệnh như thế? Các nhà nghiên cứu phong thủy và số mệnh cho rằng tại mồ mả tổ tiên của hai lãnh tụ này đắc thất khác nhau. Tưởng Giới Thạch đặt phần mộ của thân mẫu tại Phụng Hóa, Triết Giang, được nơi đất phát. Mao Trạch Đông có phần mộ của thân phụ ở Thiều sơn, Hồ Nam tuy đất tốt nhưng bị kẻ thù hủy "long mạch" nên chẳng được hưởng toàn cái may... Quay sang Tây phương, rất nhiều người chú ý tới số phận gia đình Kennedy ở Mỹ và gia đình Aristotle Onassis ở Hy lạp. Đây là những gia tộc quyền uy và phú quý nổi danh nhưng nhiều đời gặp bất hạnh. Có người cho rằng họ thuộc vào loại gia đình bị thần linh nguyền rủa (family curse) nên đã nhận bao tai họa và thảm kịch. Có lẽ đó là lý do người tin vào mệnh vận khá nhiều. Ngay cả những kẻ không tin thần thánh cũng nhìn nhận là có số mệnh. Một học giả và là nhà văn nổi tiếng Trung hoa hiện đại là Bá Dương đã có ý kiến sau đây về vận mệnh xem ra khá xác đáng: "Không tin vào thần thánh nhưng tin vào số mệnh. Số mệnh và thần thánh không có quan hệ gì với nhau. Số mệnh thể hiện bằng những gì xảy ra ở ngoài vòng khống chế của cá nhân trong một giai đoạn nào đó của kiếp người. Cho nên vấn đề không phải ở chỗ tin hay không tin. Nếu quả thực không có nó thì tin hay không tin là phạm vi tôn giáo. Nếu quả thực có nó, nó không còn là vấn đề của tôn giáo nữa mà là vấn đề của con người." Nếu nhìn nhận có số mệnh thì con người phải làm sao để đối phó? Cứ "nhắm mắt đưa chân" đành để số mệnh "mặc cho con tạo xoay vần"? Hay cầu khẩn thần thánh để hy vọng thoát số kiếp bất hạnh và hưởng hạnh phúc? Hay chống lại số mệnh như Lương Khải Siêu từng viết: Bách niên lực dữ mệnh tương trì (Trăm năm trong cuộc đời lấy sức của mình mà chống lại số mạng.) Tuy nhiên, con người có chống được số mệnh hay không? Biết trước số mệnh, có thể cải được số mệnh hay xu cát tị hung hay không? Nhà phong thủy muốn dùng khoa dương trạch hay âm trạch để cải số mệnh, nhà tính danh học cũng muốn sửa đổi số mệnh bằng đổi tên, trong khi ấy nhà đạo đức hy vọng tướng tùy tâm sinh (tướng do tâm mà ra) giữ thiện tâm thì số mệnh sẽ được cải thiện và hoàn thiện. Trong phần mạn đàm về mệnh tướng, phong thủy sau đây, dành độc quyền cho Thời Báo, chúng tôi đã dựa vào nhiều thiên hồi ký cuả các nhà tướng số nổi danh Trung Hoa như Lư Nghệ An, Từ Lạc Ngô, Viên Thu San, Vi Thiên Lý, Kiến Nông Cư Sĩ, Vương Đình Chi và Tề Đông Dã...để giúp quý độc giả có thêm tài liệu suy nghĩ về một vấn đề nhân sinh và đánh giá lại giá trị của một ngành học thuật cổ, gồm tướng mệnh và phong thủy. Những câu chuyện của các tướng mệnh gia kể lại thường là những gì họ đã chứng kiến nên có thể giúp chúng ta giải trí và có nhiều cơ hội suy nghĩ về ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Nhà tướng mệnh học Vi Thiên Lý trong tác phẩm Mệnh Tướng Cố Sự kể lại kinh nghiệm về xem tướng người và mức cao thâm của những nhà xem tướng nổi danh. Hai nhân vật được mang ra phẩm bình tướng mạo là là hai nhân vật tăm tiếng của văn đàn và chính trường Trung Hoa hồi đầu thế kỷ 20: Hồ Thích và Trần Độc Tú. Hồ Thích là một học giả lỗi lạc, không những vang danh ở Trung Hoa mà còn ở cả quốc tế, ông cũng là một chính khách danh vọng bậc nhất của Trung Hoa đầu thế kỷ trước. Ở VN chẳng mấy người nghiên cứu văn học không biết tới Hồ Thích và không ít học giả đã tán dương ông hoặc chỉ trích ông trong nhiều bài khảo luận trước và sau 1945 (chỉ trích Hồ Thích cay độc nhất và thành kiến nhất là Đặng Thai Mai.) Trầân Độc Tú ở Trung Hoa có uy tín hơn cả Hồ Thích. Họ Trần không những là một khuôn mặt uy tín của cải cách văn hóa ở Trung hoa đầu thế kỷ 20 mà còn là người sáng lập ra đảng Cộng sản Trung hoa và là đàn anh của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Hai người trong những năm đầu đời Dân quốc đều dạy tại Đại học Bắc kinh và đều là nhân vật sáng chói trong giới thanh niên và văn học (Hồ Thích sinh năm 1891 chết 1962) còn Trần Độc Tú (sinh 1879 chết 1942) nên được các nhà tướng số của Bắc Kinh ngày ấy dự đoán vận mệnh. Các nhà mệnh tướng đã căn cứ vào hai tiêu chuẩn thanh trọc để bình phẩm số mạng của họ. Trước hết cũng nên giải thích rõ hơn hai chữ "thanh" và "trọc" trong số mệnh và tướng pháp. Thanh nghĩa đen là "trong", là tốt đẹp, là hữu dụng. Trọc nghĩa là "đục" là xấâu và vô dụng. Kẻ bình thường chúng ta chỉ thấy bề ngoài của một người nghĩa là chỉ thấy cái đẹp hay cái xấu ở tướng mạo hay cử chỉ người ấy nhưng các nhà tướng học có cái nhìn bản chất sự vật và tìm ra được cái nét siêu việt, ưu tú có thể ẩn tàng ở tướng mạo cũng như những biểu hiện hạn chế ởû một cá nhân mà họ quan sát. Tướng mạo con người có thể toàn thanh hay toàn trọc và trường hợp này xấu tốt đã rõ khỏi bàn. Nhưng có trường hợp "Thanh trung đới trọc" hay trong tốt có xấu và "trọc trung đới thanh" hay trong xấu có tốt khó mà phán đoán và đánh giá. Các nhà tướng mệnh cho rằng đẹp mà trộn cái xấu là phá cách và giảm cái tốt. Còn xấâu mà hàm chứa cái tốt không những giảm xấu mà còn mang lại nhiều hanh thông và thành tựu. Sách tướng có dạy: "nhất quý để cửu tiện, nhất tiện phá cửu quý" Nghĩa là "một cách quý của tướng mạo có thể chống lại được chín cái xấu của tướng mạo. Còn một cái xấu của tướng mạo có thể làm hư cả chín cái quý của một người." Nhưng quý (hay tiện) ở vị trí nào mới có thể có khả năng cứu giải, bổ túc cái tốt (hay phá hoại ưu điểm)? Các mệnh tướng gia cho rằng chúng phải nằm ở những bộ vị quan trọng trong tướng mạo hay trong cử chỉ của một người. Vi Thiên Lý kể lại, vào năm dân quốc thứ sáu (1917) ở Bắc kinh có hai nhà tướng thuật nổi danh là Điếu Kim Ngao và Tần Tứ Gia đã công khai trên báo chí đoán số mạng hai nhân vật thời đại Hồ Thích và Trầân Độc Tú. Điếu Kim Ngao cho rằng Hồ Thích có quý cách "trọc trung đới thanh", còn Trầân Độc Tú lại có khuyết điểm là "thanh trung đới trọc" và kết luận số phận Hồ Thích sẽ hanh thông hơn Trầân Độc Tú nhiều. Bề ngoài rõ ràng Hồ Thích không thể anh tuấn bằng Trần Độc Tú vì đã cận thị lại thêm lông mi quá rậm nên khuôn mặt tối sầm, người lại nhỏ bé và yếu đuối. Về sự nghiệp và uy vọng họ Trần khi ấy hơn họ Hồ. Hồ Thích mới về dạy đại học, còn Trần Độc Tú đã là khoa trưởng khoa văn, chủ nghiệm tờ Tân Thanh Niên lừng lẫy và là lãnh tụ Đệ tứ Quốc tế. Tuy nhiên, Điếu Kim Ngao phát giác ra hai điểm quý của Hồ Thích. Trước hết là trong cách ăn nói và tiếng cười của ông ta, tất cả bộc lộ nguồn lạc quan, sảng khoái, hòa nhã và thanh tao. Ưu điểm thứ hai là khi đi đứng hay ngồi, hình tướng của họ Hồ gợi hình con tiên hạc và với cốt cách này thì Trần Độc Tú chẳng có thể sánh bằng Hồ. Điếu Kim Ngao kết luận có lúc Hồ Thích sẽ bỏ chức giáo sư đại học và xuất chính và sẽ giữ những vai trò quan trọng trong chính phủ Tưởng Giới Thạch. Điều này khi ấy khó ai tin vì họ Hồ là nhà văn hóa, tỏ ra không thích chính trị như họ Trần. Điều khó thuyết phục hơn nữa, căn cứ vào đâu mà dám nói họ Trần sau này thất bại và chết trong nghèo túng, còn họ Hồ hiển hách trên thang danh vọng? Nên nhớ cả hai ông nay đều con nhà hào phú và danh vọng đương thời. Bấy giờ dân Bắc Kinh thấy Điếu Kim Ngao luận về tướng mạo hai nhân tài mà họ kính phục thì đều chú ý, nhất là lời luận đoán được đăng trên báo. Kẻ không tin nhiềâu hơn người tin và chính Hồ Thích cũng tỏ ra không tin Điếu Kim Ngao. Nghe nói Hồ Thích đọc trên báo thấy Điếu Kim Ngư đoán số mạng mình như thế thì bảo người bạn họ Chu rằng: "Số mệnh tôi và Trần tiên sinh tương lai như thế nào tôi không thể biết nhưng bảo tôi bước sang chính trị thì sai hoàn toàn. Nếu bạn có hứng thú thì tới tìm Điếu Kim Ngao đánh cuộc, được thua 5 ngàn hay 10 ngàn 'nguyên' tôi gánh cho." Người bạn họ Chu này tìm tới Điếu Kim Ngao để thách đố. Nhà tướng số nhận lời ngay với tiền cuộc là là 10 ngàn nguyên và mang việc này đăng lên báo chí. Cả hai cũng đồng ý "ký quỹ" ở giao thông ngân hàng Bắc kinh một khoản tiền để làm bằng. Báo chí ngày ấy đều loan tin sốt dẻo này. Còn tiếp... Hoàng Minh Hùng Chú thích: Hồ Thích: (Hu Shi; tên thật: Hồng Tân; tên chữ: Thích Chi; 1891 - 1962), nhà văn, nhà triết học Trung Quốc thời cận - hiện đại, người An Huy (Anhui). Năm 18 tuổi, sang Hoa Kì du học, bảo vệ luận án về triết học cổ đại Trung Quốc ở Đại học Côlômbia (Columbia) (1915). Năm 1917, về nước, đề xướng cách mạng văn học, kêu gọi dùng bạch thoại thay văn ngôn. Dạy triết học ở Bắc Kinh. Những năm 1928 - 30, hiệu trưởng Trường Đại học Ngô Tùng, Thượng Hải. Năm 1938, làm đại sứ Trung Hoa dân quốc tại Hoa Kì. Hồ Thích là người truyền bá chủ nghĩa thực dụng ở Trung Quốc, cho rằng thực tại chỉ là các mối quan hệ về cảm giác giữa con người, ông theo thuyết duy tâm chủ quan, tuyên truyền tư tưởng tự do cá nhân, dân chủ và khoa học. Các tác phẩm chính: "Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc" (1919), "Lịch sử văn học bạch thoại" (1928), "Lịch sử triết học thế giới 30 năm nay" (1925), "Hồ Thích văn tồn" (3 tập, 1930). Trần Độc Tú: (Chen Duxiu; 1879 - 1942), nhà hoạt động chính trị Trung Quốc. Quê: An Huy (Anhui). Từng du học ở Nhật Bản. Năm 1915, khai trương tạp chí "Thanh niên". Năm 1917, dạy văn học ở Đại học Bắc Kinh. Cùng Lý Đại Chiêu (Li Dazhao) khai trương tạp chí "Bình luận hàng tuần", truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin vào Trung Quốc. Thành lập nhóm cộng sản ở Thượng Hải (Shanghai). Tại hội nghị thành lập đảng (7.1921) được bầu làm bí thư Cục Trung ương. Từ 1925, là tổng bí thư. Năm 1927, bị phê phán hữu khuynh và bị cách chức tổng bí thư. Năm 1929, bị khai trừ đảng tịch. Từ đó theo khuynh hướng Trôxki (Trockizm). Chết ở Tứ Xuyên (Sichuan). Kỳ trước quý độc giả đã nghe giới thiệu về cuộc thách đố giữa một người họ Chu bạn của học giả Hồ Thích và vị được coi là Thái sơn Bắc đẩu của ngành tướng mệnh Trung hoa tiền bán thế kỷ 20 là Điếu Kim Ngao. Điếu Kim Ngao và một nhà tướng diện khác, Tần Tứ Gia, vào năm 1917, cho rằng Hồ Thích tương lai sẽ thành công và hạnh phúc hơn Trầân Độc Tú mặc dù lúc đó uy thế họ Trần gấp bội họ Hồ. Hơn nữa, hai nhà tướng thuật còn cả quyết họ Hồ sẽ bỏ lãnh vực văn hóa sang hoạt động chính trị. Bản thân Hồ Thích không tin nên mới xui người bạn họ Chu đánh cá với Điếu Kim Ngao và món tiền cá độ lên tới 10.000 nguyên, một món tiền khá lớn ở Trung hoa trước Thế chiến II. Cũng cần nhắc lại, trái với đa số người đồng thời cho rằng tướng mạo họ Hồ và họ Trần đều là ưu việt hay thượng cách nghĩa là tốt nhất, Điếu Kim Ngao và Tần Tứ Gia luận đoán tướng mạo của hai ngôi sao thanh niên này chủ trương, họ đều có khuyết điểm không thể gọi là cách "thượng-thượng" được mà chỉ thuộc loại "trung-thượng" mà thôi. Nói cách khác cả hai đều bị xếp vào loại "danh cao ư thực" (danh vọng cao nhưng thực quyền thấp) hay "quý nhi vô quyền" (có quý cách nhưng không có quyền) và "khởi lạc vô định" (lên xuống khó lường.) Không những thế gia đình của họ cũng không mấy hạnh phúc. Tại sao các tướng mệnh gia lại vừa khen vừa chê hai họ Trần và họ Hồ. Theo họ, Trần Độc Tú có cách "thanh trung đới trọc" và cái xấu (trọc) đã làm giảm cái tốt (thanh.) Còn họ Hồ thì "trọc trung đới thanh" và cái tốt (thanh) đã bù được cái xấu (trọc.) Hồ Thích, sinh năm 1891 ở An Huy, sau khi có học vị tiến sĩ của đại học Columbia ở Mỹ về vào năm 1917 đã trởû thành một trong những cây bút tiền phong cải cách văn hóa ở Trung quốc và được coi như một trong những cột trụ của phong trào Ngũ Tứ Vận Động (trong đó còn có Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường và Trần Độc Tú.) Ông cũng là nhà thơ mới, nhà nghiên cứu triếât học và văn học với hàng trăm tác phẩm xuất sắc và giảng dạy tại Đại học Bắc kinh khá lâu. Hồ Thích viết báo có hàng triệu độc giả, Hồ Thích diễn thuyết có hàng triệu người nghe. Danh vọng lên cao nhưng cuộc sống Hồ Thích trước khi xảy ra cuộc chiến Trung-Nhật thuần túy là văn hóa. Ông hăng say viết sách, viết báo hô hào cải cách văn tự, văn hóa và tư tưởng trên các báo như Tân Thanh Niên và Tân Nguyệt, và chẳng màng tới hoạn lộ. Con ngươi họ Hồ mảnh khảnh, cận thị lông mày rậm, kém hoạt bát, trông có vẻ một học giả, tướng mạo không có gì xuất sắc, lại không thích chính trị nhưng Điếu Kim Ngao dám đoan chắc hai điều: - Hồ Thích sẽ bỏ môi trường tân văn hóa mà ông là khai quốc công thần để bước sang lãnh vực chính trị vào tuổi 50. -Tướng mạo họ Hồ tuy bình thường nhưng ẩn tàng một số ưu điểm bù lại, và báo hiệu ông sẽ thành tựu rực rỡ và hưởng phước hơn Trần Độc Tú. Không mấy ai tin khi lời luận đoán, được đăng tải trên báo chí ở Bắc kinh vào khoảng 1917. Tại sao? Trần Độc Tú là một nhân vật có lý tưởng và có cả một quá trình hoạt động cải cách tân văn hóa và cách mạng ở Trung hoa. Họ Trần, sinh năm 1879 cũng gốc An Huy, ngày nhỏ nổi tiếng là thần đồng, từng dự kỳ thi hương. Tuy không có học vị bác sĩ như họ Hồ nhưng Trần đã sang Nga và sang Nhật du học và viết báo nên kiến thức rất rộng và tư tưởng khá sâu sắc. Năm 1911 họ Trần từng tham gia cuộc khởi nghĩa Vũ Xương và sau đó viết báo hô hào cải cách văn hóa và chính trị. Ông là một trong những người đi tiền phong về báo chí mới của TQ, từng chủ trương báo như Tân thanh niên (sau đổi là Tân thanh) và Giáp dần tạp chí. Năm 1917, Trần được mời làm giảng sư Đại học Bắc kinh về môn văn chương và sau đó làm khoa trưởng Khoa Nghệ thuật tại đại học này. Trầân khuynh tả nhưng theo trường phái Trotsky hay Đệ Tứ Quốc Tế (như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu và Bích Khê ở VN.) và là một sáng lập viên của Đảng Cộng sản Trung quốc và từng được bầu làm chủ tịch đảng và tổng bí thư vào 1921 (sau này bị lật vì phe Đệ Tam do Mao, một em út của Trần, giành được quyền lãnh đạo.) Ông ta được thanh niên coi như lãnh tụ thần kỳ, có khả năng thu hút quần chúng, nói giỏi, văn hay chữ tốt. Nhân chứng cho biết không mấy người gặp họ Trần lần đầu mà không tín phục và không có cảm tình với ông ta. Chính cái dáng anh tuấn, mi thanh mục tú của họ Trần và giọng nói, âm thanh phát ra đã lôi cuốn người đối diện. Thêm vào đó họ Trần đầy tham vọng chính trị và triển vọng tương lai chính trị xán lạn, trong khi Hồ Thích không thích chính trị, uy tín không cao bằng Trần, sức thu hút quần chùng kém Trần, lại được đoán là sẽ bỏ văn theo chính và thành tựu cao. Thực là kỳ lạ. Nên biết Hồ Thích và Trần Độc Tú từng là bạn thân và cùng viết cho tờ Tân Thanh Niên nhưng họ đã trởû nên xung đột vì Hồ Thích cho rằng tờ Tân Thanh Niên không nên quá thiên về chính trị mà cần chú ý tới tư tưởng và văn hóa trong khi Trần Độc Tú muốn biến tạp chí thành phương tiện tuyên truyền chính tri. Ngày ấy ai cũng tin rằng với hậu thuẫn chính trị như thế, tài năng và uy tín như thế thì họ Trầân sẽ trởû thành lãnh tụï của Trung Hoa trong tương lai (chứ không đến lầân Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình) và Hồ Thích có lẽ cũng mãi mãi sẽ là Thái sơn Bắc đẩu trên văn đàn như Lâm Ngữ Đường hay Lỗ Tấn mà thôi. Vào khoảng 1937 Hồ Thích cùng Từ Chí Ma, Lương Thực Thu chủ trương tờ Tân Nguyệt ởû Thượng hải và viết nhiều bài về cải cách giáo dục và được chính quyền Nam Kinh để ý và có tin Hồ Thích sắp tòng chính. Điếu Kim Ngao có hy vọng thắng và lãnh tiền đánh cuộc do họ Chu chi trả. Có người biết tin đến báo tin mừng này cho nhà tướng số thì ông này lắc đầu và nói: - Thắng bại chưa phân sao đã nói đến được thua. Theo tôi Hồ Thích phải sau tuổi năm mươi mới rời văn đàn tham gia chính trường còn bây giờ thì chưa đâu, chỉ là tin đồân mà thôi. Hơn nữa, cho dù có vào chính trường chăng nữa và tôi có thắng chăng nữa, cũng chẳng nhận được tiền và bạn họ Chu có thua cũng không mất tiền." Nhiều người nghe câu này ngạc nhiên không hiểu vì sao, vì tại sao được cuộc mà không được tiền, chẳng lẽ kẻ thua không chịu trả? Không phải thế. Điếu Kim Ngư lắc đầu và cho biết bản thân mình cũng không biết lý do nhưng cam kết cuộc thách đố được đặt trên sự tín nhiệm tuyệt đối, nhất là hai phía đánh cuộc đã bỏ tiền cọc vào ngân hàng. Thế rồi thời cuộc biến chuyển. Nhất là nhân vụ Lư Cấu Kiều (không phải Lư Cầâu Kiều như nhiều sách sử VN phiên âm sai), năm 1937 Nhật gấy hấn với Trung Hoa và chiếân tranh bùng nổ, Bắc Kinh di tản, Điếu Kim Ngư đi một đàng và ông họ Chu đi một nẻo, ngân hàng cũng di tản. cuộc thách đố vô tình bị bãi bỏ. Khi ấy mới biết lời dự đoán của Điếu Kim Ngao vô cùng chính xác. Trong giai đoạn Nhật Hoa chiến tranh, chính phủ Tưởng Giới Thạch cần một người có năng lực và có tín nhiệm, và cũng được Mỹ tin. Không ai bằng Hồ Thích nên Hồ Thích trở thành đại sứ kiêm đặc sứ Trung hoa tại Mỹ, một vai trò quan trọng hơn ngoại trưởng vì có thể toàn quyền thay chính quyền QDĐ bàn với Đồng Minh Mỹ trong việc đánh Nhật. Hòa bình trở lại, Hồ Thích lại quay về văn hóa-giáo dục, 1948 trở thành khoa trưởng Đại học Bắc kinh và sau khi quốc quân sang Đài Loan vào 1949, Hồ Thích trở thành viện trưởng viện nghiên cứu trung ương. Năm 1960 ông có ra tranh cử tổng thống Đài Loan nhưng thất bại và sang Mỹ. Hai năm sau ông qua đời. Rõ ràng số của Hồ Thích tuy tốt nhưng cũng chỉ ởû mức thượng trung mà thôi. Điếu Kim Ngao dự tri rất xác đáng nhưng ông không giải thích được vì sao dù thắng cuộc ông vẫn không nhận được tiền cuộc mà chỉ cho rằng tại số ông không có ngoại tài và số ông Chu, kẻ cùng ông đánh cá, không có dấu hiệu hao tài khi Hồ Thích xuất chính. Thời cuộc biến chuyển, một yếu tố bên ngoài khoa tướng mạo và khoa số mạng. Hoàng Minh Hùng Kỳ trước đã nói tới việc hai nhà tướng mệnh nổi danh Trung quốc là Điếu Kim Ngao và Tần Tứ Gia vào năm 1917 đã so sánh tướng mạo của hai nhân vật nổi danh trong giới trí thức trẻ tại Bắc Kinh ngày ấy là Trần Độc Tú và Hồ Thích để đoán vận hạn của họ. Họ so sánh bề ngoài của hai nhân vật này như sau: Hồ Thích cận thị, lông mày hơi rậm, trong khoảng mắt và lông mày không có vẻ gì là đặc biệt hơn người, còn Trần Độc Tú thì "mi thanh mục tú," chưa nói thì mắt và lông mày như muốn thể hiện tình cảm với người đối thoại, gây khả năng truyền niềm tin yêu vào người nghe. Không những thế, bề ngoài mà bàn, Trần Độc Tú đẹp trai và thanh nhã hơn Hồ Thích, ăn nói duyên dáng và hùng hồn hơn họ Hồ, xứng đáng là một lãnh tụ thanh niên ưu tú sau Thế chiến Thứ I ở Trung hoa. Nhưng "mi thanh" là gì? Theo khoa tướng diện thì "mi thanh" có nghĩa là lông mày không quá đậm, quá thưa và cũng không hỗn loạn mọc thiếu thứ tự. "Mục tú" là đôi mắt đẹp không những về hình dáng mà còn trong trẻo, hắc bạch phân minh, nhãn quan nhu cương hòa hợp. "Mi thanh mục tú" là hình ảnh đối nghịch với "mày rậm mắt đục" hay "mi nùng mục trọc" nghĩa là lông mi dày quá và mắt đục ngầu hay lòng trắng nhiều hơn lòng đen. Tướng học cũng cho rằng lông mày cao mới đẹp, còn quá gần mắt thì che cái sáng của mắt không phải là hoàn mỹ. Thế mà Trần Độc Tú lại có đôi lông mày cao so với mắt nên trông thông minh dĩnh ngộ hơn Hồ Thích. Nhưng cũng nên nói rõ lông mày rậm (như con ngài) nhưng đều và khít, tương xứng với vầng trán và ngũ quan khác không phải là xấu, có thể là võ tướng hay phúc tướng như Từ Hải "râu hùm hàm én mày ngài" hay như Chu Ân Lai chẳng hạn (họ Chu trải qua bao sóng gió trên nửa thế kỷ trên chính trường Trung Quốc, đồng chí nhiều người bị thanh trừng hay vào tù như Trần Nghị, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Bành Chân, Đào Chú, La Thụy Khanh, Lâm Bưu và Đặng Tiểu Bình...nhưng vẫn bình chân như vại cho tới khi nhắm mắt!) Thúy Vân được Nguyễn Du mô tả là "khuôn trăng đầây đặn nét ngài nở nang" đã căn cứ vào sách tướng dạy rằng phái nữ nếu có được "khuôn mặt tròn như vầng trăng rằm và lông mày như con tầm nằm ngang" (diện như mãn nguyệt, mi nhược ngọa tầm) thì vượng phu ích tử (Tỉa cho nhỏ hay sửa cho thanh sẽ làm hại cho quý tướng và cho chồng con?) Thảo nào Thúy Vân an hưởng hạnh phúc và quyền quý hơn cô chị Thúy Kiều. Trở lại trường hợp Trần Độc Tú. Ông này đạt được những ưu điểm về tướng diện nghĩa là "thanh" như đã kể nhưng trong cái "thanh" lại có nhiều cái "trọc" nghĩa là có khuyết điểm. Điếu Kim Ngao tìm thấy ở họ Trần có ba cái "trọc" trong tướng mạo và những khuyết điểm này có thể xếp chung vào loại "hình" như sau: -Trước hết là "mục quang bất định" có nghĩa là ánh mắt ông ta luôn luôn di chuyển biểu hiện nội tâm bất định. -Kế tiếp là "ngữ vĩ tế trầm" nghĩa là âm cuối của một chữ hay chữ cuối của một câu phát ra nhỏ và thấp so với âm đầu và âm giữa hay những chữ trên của câu, nên nếu nói nhanh thì không rõ ràng, khiến người nghe bị thuyết phục bởi cách nói hùng hồn dáng điệu hăng hái của kẻ nói hơn là do lãnh hội được ý nghĩa câu nói. Có người lại cho rằng tướng tá họ Trầân thanh tao, nho nhã nhưng giọng nói tuy to nhưng lại có vẻ sấn sổ, lấn lướt và mạnh bạo thể hiện chất "trọc" trong cái "thanh." -"Bộ phạt bất ổn" hay bước đi, dáng đứng không vững vàng. -"Tiếu thanh bất dương" nghĩa là tiếng cười tuy to nhưng âm hưởng không vang, không sang sảng hay gây khoái tai cho người nghe và không thể hiện được nguồn vui tự nhiên của người cười. Tìm ra khuyết điểm biểu hiện chất "trọc" trong cái "thanh" của của Trần Độc Tú, Tần Tứ Gia luận đoán hơi khác. Ông này cho rằng Trần có bốn cái "trọc" về "khí như sau: -"Trầm tư tỏa mi" nghĩa là khi suy nghĩ thì chau lông mày có dáng buồn bã chứng tỏ "ý trọc." -"Nhan sắc bất thuần" hay sắc mặt không đều nghĩa là hay biến sắc, đây là khuyết điểm "sắc trọc." -"Khí lực bất túc" hay là sức không đủ nên có dáng mệt mỏi hay "lực trọc." -"Tú khí bất súc" nghĩa là tinh hoa không hàm chứa mà lộ ra ngoài, thế mà "Anh hoa phát tiết ra ngoài" thì làm sao mà sung sướng cho được! Đây là nhược điểm "tài lộ." Căn cứ vào các phân tích trên hai nhà tướng số đã cả quyết vận mạng của họ Trầân sẽ có lúc rất hồng, tươi sáng vô cùng như vầng dương giữa ngọ. Giai đoạn đẹp nhất của ông ta có thể kể là 1917-1927. Tiếp đó là giai đoạn suy vong tàn mạt từ 1927 tới 1942. Trong giai đoạn suy tàn họ Trần sẽ gặp cảnh gia đình ly tán, cốt nhục chia lìa và thân bại danh liệt, bạn bè bỏ rơi, vào tù và cuối đời bệnh hoạn cho đến khi nhắm mắt một cách âm thầm trong quên lãng. Nên nhớ bản suy đoán được đăng trên báo tại Bắc Kinh vào năm 1917 nghĩa là trước cả cuộc Ngũ Tứ Vận Động năm 1919. Ngày đó chẳng ai tin hai nhà tướng số vì Trần Độc Tú lúc đó chưa tới 40, học giỏi (tốt nghiệp ở Nhật và có sang Pháp học thêm về văn chương), hoạt động chống nhà Thanh từ khi còn là một thanh niên, văn hay chữ tốt, có tài hùng biện, có tư tưởng cải cách, lại là khoa trưởng một phân khoa của đại học Bắc Kinh và chủ trưởng tờ Tân Thanh Niên có hàng triệu độc giả. Họ Trần lại dòng dõi phú hào ở An Huy ăn hết đời cũng chẳng hết của. Thế mà bảo hậu vận của ông ta chết trong thân bại danh liệt, nghèo túng bệnh hoạn thì mấy ai tin. Thời cuộc biến đổi, giai đoạn thứ nhất của họ Trần quả đúng như lời các nhà tướng học dự đoán. Họ Trần trở thành khuôn mặt chủ lực của cuộc vận đồng văn hóa lịïch sử của Trung hoa được gọi là Ngũ Tứ Vận Động (04-05-1919.) Trần Độc Tú sang thăm Nga được Lenin o bế, Trotsky vỗ vai và mang tư tưởng cách mạng vô sản về Trung hoa. Năm 1921 ông cùng Lý Đại Sao thành lập Đảng Cộng Sản Trung hoa và được bầu làm chủ tịch kiêm tổng bí thư. Tuy nhiên, Trần Độc Tú có bản chất vốn là một người quốc gia nên không muốn nghe lệnh của của Cộng sản Quốc tế trong việc thực hiện cách mạng ở TQ. Ông chống chiến dịch thanh trừng do Stalin khởi xướng ở Nga vì Stalin giành được quyền hành ở Nga sau khi Lenin chết và Trotsky bị lưu đày. Kết cuộc Trần bị phe Mao, thân Nga lật đổ và mất chức chủ tịch kiêm tổâng bí thư đảng vào năm 1927. Trong năm này Trần Độc Tú gặp hai biến cố đau thương. Trước hết là mất vai trò lãnh đạo khỏi đảng mà mình thành lập, lại còn bị khai trừ khỏi đảng. Tai họa thứ hai là con trai bị giết. Cậu trai này khi ấy là một sinh viên ở Thượng Hải, một thanh niên nhiệt huyết muốn theo cha làm cách mạng và ngày ấy hoạt động với sinh viên tiến bộ ở Thượng Hải. Đúng vào năm 1927 cuộc Bắc Phạt của phe Quốc dân đảng thành công, phe này thắt chặt quyền hành và mở cuộc thanh trừng phe đối lập. Cảnh sát trưởng Thượng Hải ngày ấy là Dương Hổ lại là một tay hiếu sát vớ được ai khuynh tả bất kể là Cộng sản hay không đều giết cho bằng hết và cậu con Trần Độc Tú cũng bị họa lây. Trong khi ấy, ban đầu Quốc Cộng hợp tác nhưng phe Quốc dân đảng khuynh hữu do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thắng phe Q. D. Đ khuynh tả của Uông Tinh Vệ, thế mà họ Trần lại là bạn của Uông nên 15-10-1932 ông bị bắt giam với bản án 13 năm về tội phá rối trị an và giam ở Nam Kinh cho tới gần năm 1937 mới phóng thích. Trong thời kỳ này ông bị cấâm cố và chẳng được cầm cả bút sáng tác. Ra khỏi tù ông lại bị đồng chí bỏ rơi, văn giới hờ hững và bị phe Mao mở chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ Trần là là gián điệp của Nhật. Thanh niên xa ông, độc giả nghi ngờ ông trong khi ông bị bệnh. Trần bị bệnh tim nặng; lại gặp chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, tiềân bạc thiếu thốn, vợ bỏ con chết nên qua đời một cách âm thầm ở một làng nhỏ gần Trùng Khánh vào 24 tháng 05 năm 1942, giữa lúc cuộc chiến đang diễn ra kịch liệt nên chẳng ai chú ý tới cái chết của ông, đúng như lời dự đoán của Điếu Kim Ngao và Tần Tứ Gia. Vào buổi vãn niên cô độc có người bạn thân tới thăm và hỏi Trần Độc Tú về lời dự đoán vận mệnh của Điếu Kim Ngao, họ Trần ngậm ngùi nhìn nhận ông đành đầu hàng số mệnh, một việc mà khi còn trẻ ông chưa bao giờ nhìn nhận. Khi bàn tới Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch , một người cầm đầu đảng Cộng sản có uy quyền tuyệt đối đối với hàng triệu người, người kia là tổng thống của một quốc gia có hàng trăm triệu thần dân, họ Trầân tâm sự: "Mệnh vận của họ quá tốt. Họ Trần này chỉ vì mệnh vận không bằng họ nên kết quả mới bi thảm như thế mà thôi." Có người cho rằng nếu họ Trầân chịu nghe lời của Đệ tam Quốc tế (Comintern) thì sau này kẻ ngồi ghế của họ Mao phải là họ Trần, hay nếu ông cứ ở vai trò một giáo sư đại học, một nhà văn hóa thì uy tín sẽ chẳng thua gì Lâm Ngữ Đường, Lương Thực Thu, Hồ Thích hay Vương Văn Ngũ và Lỗ Tấn. Có tài liệu cho biết khi Trần mới ra đời, trong một gia đình hào phù ở Hoài ninh, An Huy, đã có một nhà mệnh học dự đoán Trần Độc Tú chỉ nên theo nghề y hay văn học và nên sang các nước Tây phương du học mới tốt, còn làm quan hay làm chính trị hay du học Đông phương khó tránh được tù tội và thân bại danh liệt. Nào ngờ lời đoán không sai. Các phần trước đang bàn chuyện hai đại học giả và đồng thời là chính khách nổi danh của Trung Quốc hồi đầu thế kỷ 20 là Trần Độc Tú và Hồ Thích. Họ Trần có thể không mấy người ở Việt Nam nghe danh vì hạ đài sớm, lại có tư tưởng khuynh tả, nhưng Hồ Thích thì độc giả quan tâm tới văn học mới ở Việt Nam phần đông đều nghe qua một vài lần. Trước đây, sau 1949, các học giả Trung hoa ở lục địa chỉ trích Hồ Thích vì họ Hồ thuộc phe Quốc Dân Đảng nhưng gần đây thời cuộc biến chuyển, Hồ Thích lại được tán dương không tiếc lời trong giới trí thức Trung hoa lục địa. Ở Việt Nam sau năm 1954, học giả Đặng Thai Mai ở miền Bắc, theo gót đồng nghiệp bên kia biên giới, cũng phê phán Hồ Thích dữ dội, rằng họ Hồ, về mặt văn hóa, đại biểu cho quan niệm tư sản và phong kiến phản động. Trong khi ấy ở miền Nam VN, Hồ Thích vẫn được tìm hiểu và khen ngợi một cách khách quan trong nhiều tác phẩm khảo cứu, trong đó có cuốn Văn học sử Trung quốc (phần Hiện đại) của Nguyễn Hiến Lê và tác phẩm về Hồ Thích của Huỳnh Minh Đức. Các tác phẩm của Hồ Thích về triết học sử và văn học sử của Trung hoa cũng đã từng được dịch ra tiếng Việt hay được dùng làm tài liệu tham khảo chính cho các học giả VN nghiên cứu về Trung hoa. Gạt chuyện văn hóa sang một bên, xin mời quý độc giả trở lại vấn đề tướng mệnh. Thầy tướng Điếu Kim Ngao của Thượng Hải năm 1917 nhận định về tướng mạo của Hồ Thích đã cho rằng thuộc loại "trọc trung đới thanh" nên bề ngoài nhìn nhiều khuyết điểm (trọc) nhưng đi sâu hơn có ẩn tàng điểm ưu tú (thanh) vô cùng quý giá (trong đó bao gồm cách đi và phong cách biểu hiện qua cử chỉ.) Vì thế Hồ Thích về tướng mạo thuộc "loại xấu" nhưng có yếu tố cứu nguy nên vẫn thuộc thượng cách dù chỉ thuộc loại thượng-trung chứ không phải thượng-thượng. Cái xấu trong tướng mạo của họ Hồ, dù được cái đẹp ẩn tàng bổ khuyết, đã khiến công danh của ông có lúc lên như mặt trời giữa ngọ nhưng sức khỏe kém và tình duyên lận đận. Hôn nhân của họ Hồ là một giai thoại và nó cũng điển hình cho quan niệm về mệnh học của cổ nhân trong việc chọn người phối ngẫu. Trong đời Hồ Thích có ít nhất hai phụ nữ ông thương yêu rất mực vì tâm đầu, ý hợp, lại có trình độ hiểu biết có thể cùng ông bàn bạc chuyện văn chương và chính trị, nhưng những cuộc tình loại này đầy tan, hợp, bi, hoan. Còn người đàn bà ông sống trọn đời từ lúc tóc xanh cho tới khi tóc bạc lại là bà vợ mà cha mẹ cưới cho vào buổi thiếu thời. Bà này tên thực là Giang Đông Tú sinh năm 1890 nghĩa là lớn hơn Hồ Thích một tuổi. Hồ Thích kể lại vào tuổi thanh xuân trước khi theo học ở Cornell (1914), ông theo mẹ tới nhà một bà cô và tình cờ gặp bà họ Giang, bạn của người cô. Bà họ Giang này là phú hào trong vùng An Huy, thấy Hồ thích học giỏi lại con nhà trâm anh thế phiệt nên ngỏ ý gả con gái là Giang Đông Tú cho họ Hồ. Nhưng thân mẫu Hồ Thích (tạm gọi là Hồ mẫu) ngần ngại vì ba lý do. Lý do thứ nhất cô Giang lớn hơn Hồ Thích một tuổi (ông sinh năm 1891) mà theo tập quán của người Hoa thuở xưa thì gái hơn trai một tuổi không tốt, ngược lại trai hơn gái một lại hanh thông. Tục lệ này cũng tương tự như ta thường bảo: "nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một." Khuyết điểm thứ hai của Giang tiểu thư là có tuổi canh dần (1890). Cổ tục cho rằng con gái tuổi hổ sẽ khắc phu và chọn con dâu tuổi hổ vào nhà chẳng khác rước cọp vào nhà sau này vợ bắt nạt chồng (!) Điểm thứ ba Hồ mẫu không muốn sui gia với Giang mẫu vì bà Giang giàu quá mà họ Hồ thì "có tiếng nhưng không có miếng" vì đang suy vong. Tuy nhiên, bà họ Giang đã chấm trúng chàng rể tương lai, nhất định không bỏ cuộc và nhờ người thuyết phục Hồ mẫu rằng con gái mình tứ đức kiêm toàn và tuy là cọp nhưng thuộc loại "cọp giấy" hiền khô. Rốt cuộc, Hồ mẫu xiêu lòng nhưng đòi phải so "bát tự" mới quyết định. Thế là bát tự (ngày, tháng, năm và giờ sinh) của Giang Đông Tú (sinh ngày 08 tháng 11 năm canh dần 1890) và của Hồ Thích (sinh ngày 17 tháng 11 năm tân mão 1891) được mang ra so sánh và thấy không xung khắc. Như thế cô Tú có thể là cọp cái ở đâu không biết nhưng nếu cưới về họ Hồ sẽ là một con cọp nái vượng phu ích tử. Nhưng Hồ mẫu vẫn chưa hoàn toàn yên tâm. Cụ bà còn tuân theo tục lệ cuối cùng là để ngày sinh tháng đẻ của Giang Đông Tú trong một ống tre cùng với ngày sinh tháng đẻ của một số cô gái khác có thể chọn làm dâu tương lai của bà, rồi gác ống tre lên dàn bếp để Táo quân chọn giùm. Một thời gian sau cụ bà nghe ngóng xem trong nhà có xảy ra việc gì không như bể chén, gãy đũa, cãi cọ, hao tài hay bệnh hoạn. Nhưng tất cả bình yên chứng tỏ Táo thần cho biết các cô gái có lý lịch trong ống tre đều không gây xáo trộn trong gia đình nên có thể chọn một cho Hồ Thích. Chọn ai bây giờ? Hồ mẫu thực hiện nghi thức thông lệ. Cụ bà làm mâm hoa quả cúng Táo thần rồi lấy ống tre xuống và dùng đũa gắp một tờ ghi lý lịch của con dâu tương lại. Nào ngờ lại rút trúng thăm của Giang Đông Tú. Thế là cụ bà tin rằng trời đất đã kết hợp cho đôi lứa và mang sính lễ tới hỏi cô Tú cho cậu Hồ Thích. Giang Đông Tú là một phụ nữ hoàn toàn cổ, bó chân, học ít, chỉ biết tề gia nội trợï mà thôi. Hồ Thích chưa từng biết mặt cô Tú nhưng vâng lời mẹ cưới cô này làm vợ ăn ở cho tới khi đầu bạc răng long dù bên ngoài ông có nhiều mối tình lớn và lãng mạn khác. Đối với thế hệ ông, ông là nhà tân học lỗi lạc, một sinh viên xuất sắc của Cornell University (đậu B.A. tại đây) và Columbia University (đậu Ph.D. tai đây) và sau đó lại là cộït trụ của cuộc cải cách Ngũ tứ Vận động nhưng cuộc hôn nhân "tiền định" với người vợ cổ điển của ông trước sau vẫn trọn vẹn. Hồ Thích tạ thế năm 1962 nhưng Hồ phu nhân mãi tới năm 1975 mới qua đời. Khi kể chuyện đời mình, Hồ Thích thường nói đùa ông là mẫu người nam có "tam tòng tứ đức." Được hỏi là "tòng" ra sao và đó là các "đức" thế nào? Ông hóm hỉnh cho biết. "Tam tòng hay 'ba phục tòng' của tôi là vợ ra khỏi cửa là đi theo, vợ ra lệnh là nghe theo, và vợ nói sai cũng cứ làm theo." Còn "tứ đức," ông nói trại ra là "tứ đắc" là bốn điều làm được (vì chữ đắc là được và chữ đức là đức hạnh âm Bắc kinh đọc giống nhau.) Hiểu như thế thì "tứ đức" hay "tứ đắc" theo họ Hồ sẽ là " vợ trang sức lâu chờ được, sinh nhật của vợ nhớ được, vợ có đánh chửi nhịn được, và vợ có hoang phí cười (gượng) được." Ông Hồ tỏ ra nể vợ nên một trí thức đồng thời đã giễu ông bằng hai câu: Hồ Thích đại danh thùy vũ trụ, Tiểu cước thái thái, diệc tùng chi Có nghĩa là: Hồ Thích danh tiếng lừng vang Bà vợ chân nhỏ buộc chàng bám đuôi! Nhân tiện câu chuyện hôn nhân "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" của học giả Hồ Thích chúng tôi cũng xin nói qua cách so sánh ngày sinh tháng đẻ của một đôi xem nếu kết hôn có hợp hay không. Dĩ nhiên cách xe duyên kiểu này là tập tục cổ xưa không phải hoàn toàn khoa học và khách quan nhưng có thể giúp ta tài liệu tham khảo trong chọn lựa. Người Trung Hoa không so sánh lá số Tử vi của hai trẻ khi muốn kết hợp họ như người Việt thường làm mà so sánh Bát tự. Bát tự là tám chữ tiêu biểu, gồm hai chữ chỉ năm (như Hồ Thích sinh năm Tân Mão), hai chữ chỉ ngày (Hồ Thích sinh ngày Đinh Sửu), hai chỉ tháng (ông sinh tháng Canh Tý) và hai chỉ giờ (học giả sinh vào giờ Đinh Mùi). Trong việc so sánh bát tự, điều cần thiết là xem có yếu tố nào xung khắc trong hai lá số hay không như trong trường bát tự của Giang Đông Tú, thầy tướng số không tìm ra các chi như Dậu, Ngọ hay Mùi...có thể xung khắc các chi Mão, Tý và Sửu trong bát tự của Hồ. Nếu có xung khắc nghiêm trọng, sẽ không thể nhận vì hôn nhân dự đoán sẽ gặp nhiều sóng gió và đổ vỡ.) Người Việt cũng so tuổi nhưng chỉ so năm xem có xung hay không mà thôi chứ không so giờ, ngày và tháng nên thiếu sót. Ngoài ra, so sánh bát tự còn phải để ý tới số của cô gái hay của chàng trai có đoan chính hay trung thành hay không, và công danh sự nghiệp, tiền tài ra sao. Phụ nữ có sao Đào hoa hay Hàm trì ở bát tự thì khó mà chính chuyên, đàn ông mà trong bát tự không có quan tinh, ấn tinh (chỉ sự nghiệp) hay tài tinh (chỉ tiền bạc) và bản mệnh (tiếng chuyên môn gọi là nhật chủ) lại yếu thì sau này có thể "phi yểu tắc bần" nghĩa là đã chẳng giàu mà cũng chẳng sang, mà còn có cơ nguy chết yểu khi gặp vận xấu (muốn tham khảo về phần này xin xem Lịch tử vi Thời Báo USA năm Bính Tuất 2006 và Đinh Hợi 2007) Hồng Minh Hùng trích từ khongtu.com
  22. Wild đã kiểm tra trong Tk . Ghi nhận tấm lòng của Phuong2t gởi cho gia đình Chị Nga Minh 200 ngàn .
  23. 'Mặt trăng cười' kỳ lạ trên bầu trời Việt Nam Tối qua (1/12), nhiều người dân trên khắp Việt Nam được chiêm ngưỡng cảnh tượng ngoạn mục: Mặt trăng, sao Kim và sao Mộc đứng gần nhau nhất, tạo thành hình mặt cười sáng rực trên bầu trời phía tây. > Ảnh mặt trăng cười khắp thế giới Hai hành tinh sáng nhất trong hệ mặt trời đứng cách mặt trăng chỉ 2 độ, và sáng rực suốt đêm qua, với sao Mộc ở bên trái và sao Kim ở bên phải. Hiện tượng này được gọi là "Sự trùng phùng của các hành tinh", xảy ra khi các hành tinh quay đến một vị trí gần như trùng nhau trên một đường thẳng. Nó sẽ không lặp lại cho đến tận năm 2012. Hình do bạn đọc Hải Thành chụp tại Quận 1, TP.HCM. "Chưa bao giờ tôi thấy hình ảnh đẹp như chiều tối qua. Lúc đó khoảng 6 rưỡi. Mặt trăng sáng đến nỗi phần tối của nó cũng mờ mờ như khi có nguyệt thực, và bên trên đó không xa, ở hai đầu mũi của cánh cung mặt trăng là hai ngôi sao sáng rực. Tiếc quá tôi phải đón con nên không ngắm được cảnh này lâu", chị Hoa, nhà ở Mỹ Đình vui vẻ kể lại. Ông Đặng Vũ Tuấn Sơn, Chủ tịch câu lạc bộ thiên văn học trẻ Việt Nam, cho biết: "đây không phải là hiện tượng quá hiếm, và cũng không tuân theo một chu kỳ nhất định. Ngoài việc 3 thiên thể giao hội nhau như lần này, người ta cũng thể chứng kiến hiện tượng giao hội (trùng phùng) của các hành tinh khác, nhưng độ sáng thì có thể không bằng". Cũng theo ông Sơn, hiện tượng này thường diễn ra trong 5-6 ngày, do vậy, ngoài buổi chiều tối hôm qua, người quan tâm có thể theo dõi tiếp trong các ngày tới. Sao Mộc và Sao Kim đã tiến lại gần nhau rất nhanh trong vài ngày qua, và nằm ở vị trí gần nhau nhất là vào đêm thứ hai. Đặc biệt, do trời quang mây nên tối qua ở các tỉnh phía Bắc và Trung bộ bầu trời gần như trong vắt, khiến cảnh tượng trên trông rất rõ nét. Tại nhiều nơi khác như TP HCM, Bình Dương, Pleiku... cũng đều quan sát được. Do có thể quan sát được trên diện rộng, nên ở các vị trí khác nhau, người xem sẽ thấy "mặt trăng cười" có hình dáng hơi khác nhau. Một số nơi, hai hành tinh nằm gần như thẳng trên hai đầu cánh cung mặt trăng, nên trông "mặt cười" khá chuẩn. Ở những nơi khác, hoặc đến thời điểm mặt trăng di chuyển về phía đông, "mặt cười" trông như hơi bị méo miệng do mặt trăng nằm lệch về bên phải một chút so với hai "con mắt". Thuận An - Minh Thùy
  24. Đi tìm vẻ đẹp ca trù (Phần 4) Giáo phường ca trù Thứ ba, 2/12/2008, 07:00 GMT+7 Giáo phường ca trù được tổ chức quy củ, chặt chẽ. Quyền lợi lớn nhất của giáo phường được xác nhận trong một tấm bia đá dựng ngay trước cửa đình là được quyền giữ cửa đình này. Đào nương và kép đàn đều phải thuộc các giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ, như: họ Xuân, họ Đông, họ Thịnh, họ Từ ... Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Đó là hình thức nghệ danh độc đáo trong làng ca hát Việt Nam thời trước. Một văn bia xác nhận quyền lợi của giáo phường - Ảnh: tác giả cung cấp Cách tổ chức giáo phườngHàng năm, xuân thu nhị kỳ, khi “thong thả nhân gian nghỉ việc đồng” thì cũng là lúc các làng vào đám. Khắp các làng quê thường mở hội để tế thần, tế thành hoàng, cầu mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh. Trong phần tế lễ không thể thiếu việc hát thờ thánh. Theo lệ, các giáo phường lại xách đàn, phách đến các đình đền để hát thờ trong suốt kỳ lễ hội. Xưa, các đào kép được tổ chức thành các giáo phường. Nhiều giáo phường được đặt dưới sự quản lý của Ty giáo phường. Theo ghi chép của các văn bia thì Ty giáo phường là một tổ chức quản lý hoạt động ca xướng tương đương cấp huyện. Giáo phường các xã thuộc về Ty giáo phường của huyện. Ty giáo phường huyện quản lý hoạt động của các giáo phường các xã trong huyện. Mỗi huyện thường có một Ty giáo phường. Người đứng đầu Ty giáo phường là một ông trùm. Ty giáo phường phân chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phường. Việc giữ này được truyền từ đời này sang đời khác. Theo đó các giáo phường này được phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng này, hoặc được phép tuỳ ý mời giáo phường khác đến hát giúp trong những ngày tiệc của làng và hưởng quyền lợi. Đặc biệt là giáo phường sẽ được hát trong lễ xông đình trong dịp hoàn thành công việc tu tạo sửa chữa đình làng. Ngược lại, giáo phường cũng phải có một số trách nhiệm đóng góp vào các nghi thức hát xướng tế lễ của làng, theo mức độ quy định giữa làng xã sở tại với giáo phường. Quyền lợi của giáo phường được xác định bằng một tấm bia đá đặt trang trọng ngay trước cửa đình làng mà giáo phường được quyền hưởng lợi. Hát múa ca trù. Chạm gỗ thế kỷ 18. Đền Lê Khôi, Hà Tĩnh - Ảnh: tác giả cung cấp Việc giữ cửa đình này được truyền từ đời này sang đời khác, tuy nhiên nếu cần tiền để lo việc quan hoặc để chi dùng các việc, giáo phường có thể sang nhượng lại quyền này cho quan viên trong chính làng xã có đình, từ đó làng xã này không phải trả tiền cho giáo phường như quy định trước đó nữa. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có bản rập của 64 văn bản mua bán này. Trong đó có 14 văn bản soạn vào thế kỷ XVII, có 39 văn bản soạn vào thế kỷ XVIII, có 9 văn bản soạn vào thế kỷ XIX và 2 văn bản không ghi rõ niên đại. Căn cứ vào niên đại của các văn khế mua bán quyền giữ cửa đình, chúng ta thấy việc mua bán xảy ra phổ biến nhất là vào thế kỷ XVIII. Và trong số các bia thuộc thế kỷ XVIII thì phần lớn là thuộc về nửa sau của thế kỷ này. Việc soạn văn bản sang nhượng, mua bán các lệ hát cửa đình phần lớn đều do các giáo phường và quan viên làng xã có đình thực hiện, không ghi rõ tên người soạn bia, nhưng có xác nhận của các bên với họ tên và chức vụ rõ ràng. Có 3 văn bia ghi rõ soạn giả soạn bản giao kèo về việc sang nhượng quyền giữ cửa đình do các Tiến sĩ soạn. Đó là TS. Phan Lê Phiên soạn 1 bia, TS. Đào Hoàng Thực soạn 2 bia. Những tư liệu văn bia về hát cửa đình với lượng thông tin phong phú cho thấy trong suốt thời gian lịch sử dài lâu (ít nhất là từ năm 1672) đông đảo nhân dân đã yêu thích ca trù, coi việc thưởng thức ca trù như một nhu cầu văn hóa, và quan trọng hơn, việc biểu diễn ca trù đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho cả người nghệ sĩ dân gian lẫn các nhà tổ chức.Những nét đẹp nhân văn của giáo phường xưa Xã có thể có một hoặc nhiều giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ riêng. Văn bia về việc các giáo phường được tập hợp theo “họ”, thể hiện trên bia 11 bia có bản rập lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các họ thống kê được trên bia gồm 8 họ: họ Xuân (2 bia), họ Đông (4 bia), họ Thịnh (1 bia), họ Từ (1 bia), họ Hoàng (1 bia), họ Việt (1 bia), họ Kiều (1 bia), họ Khổng (1 bia). Đứng đầu họ là một ông trùm họ. Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Những văn bia này đã cung cấp cho chúng ta một tư liệu quý về sinh hoạt và quan hệ giữa các cá nhân và có thể coi là một nét đẹp trong một giáo phường ca trù thời trước. Gia đình nghệ nhân ca trù Nguyễn Văn Mùi, 27 Thuỵ Khuê, HN - Ảnh: tác giả cung cấp Giáo phương ca trù xưa còn tôn vinh tri ân người có công truyền nghề. Bia Bản huyện giáo phường lập bi, tạo năm Vĩnh Trị 5 (1681), đặt tại đình xã Trung Việt, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang. Văn bia cho biết có vị trong Ty giáo phường xã Đông Lâm, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc, vì có ngoại tổ họ Hà là Phúc Đạo, ở xã Trung Trật trước có mở nghiệp giáo phường, sinh con gái Hà Thị Khánh lấy chồng họ Nguyễn ở Đông Lâm và tạo nên giáo phường ở đây. Nay các vị trong giáo phường xã Đông Lâm nhớ đến ân nghĩa sinh thành của ngoại tổ, tỏ lòng báo đáp, đặt ra lệ, hễ đình Trung Trật có mở tiệc thì các khoản tiền tiệc, tiền khao và tiền lễ xông đình, các khoản tiền làm cỗ, thảy đều do giáo phường Đông Lâm trang trải. Bia còn ghi tên các vị ngoại tổ họ Hà do dân xã Trung Trật cúng giỗ. Đây cũng là một nét đẹp nhân văn của một giáo phường ca trù, vừa tôn vinh nghề tổ, vừa thành kính tri ân người có công gây dựng nghề cho giáo phường. Giáo phường ca trù ở nông thôn hoạt động bán chuyên nghiệp. Họ là những người nông dân vẫn phải lo việc đồng áng, chăn tằm dệt cửi. Họ được cha mẹ hoặc các đào kép lớn tuổi trong “họ” dạy dỗ về nghề. Người trong giáo phường đều phải tuân thủ các phong tục và luân lý trong làng trong họ. Họ không được phép làm những việc bất chính. Nếu vi phạm, họ bị các bậc cao niên và người Quản giáp luận tội và bắt phạt, thậm chí đến bị đuổi ra khỏi giáo phường và thông báo cho các giáo phường khác biết để không giáo phường nào cho vào nữa. Việc đi hát ở các đình miếu bao giờ cũng do người Quản giáp cắt đặt, và thường là chồng đàn vợ hát, anh đàn em hát, bố đàn con hát. Trong giáo phường xưa, việc thờ kính thầy dạy rất được xem trọng. Trò coi thầy như cha mẹ, “sống tết, chết giỗ”. Những ả đào già có tài thường dạy dỗ được nhiều học trò thành nghề và rất được kính trọng. Mỗi khi các học trò đi hát được trả tiền công vẫn thường trích ra một khoản tiền để góp với giáo phường cung dưỡng thầy. Đối với giáo phường, tất cả các công việc như lễ tế tổ hàng năm, các lệ kiêng tên tổ ca trù, việc thờ thầy, việc chia tiền hát, lệ mở xiêm áo để công nhận một cô đào bắt đầu được hành nghề đều được tổ chức và tuân thủ nghiêm ngặt và tự nguyện. Chính cách tổ chức giáo phường như thế đã tạo nên những nét đẹp nhân văn của giáo phường, khiến cho đào kép ngày xưa rất được cộng đồng làng xã trân trọng và kính nể. Ca trù còn lại được đến hôm nay chính là nhờ các đào kép xưa đã từng sống trong các giáo phường như thế truyền lại. (còn nữa) Nguyễn Xuân Diện nguồn vietimes
  25. Đi tìm vẻ đẹp ca trù (Phần 3) HÁT CỬA ĐÌNH 25/11/2008, 07:00 GMT+7 500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Trong ngày hội lớn đó 8 giáp trong làng cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Lê Đức Mao đã thay mặt 8 giáp viết 9 bài văn để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, hát cửa đình là một sinh hoạt không thể thiếu trong mỗi dịp tế thần Thành hoàng làng, trở thành một nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Những cuộc hát cửa đình này đều do các giáo phường đảm nhiệm Bức chạm tiên gảy đàn Đáy ở đình Lỗ Hạnh, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang Ở thế kỷ XV ca trù đã là một bộ môn hoàn chỉnh về lối chơi(qua phát hiện tư liệu sớm nhất về ca trù Việt Nam) Trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca trù có từ thời Lý - Trần -Hồ, thế kỷ XI, XII khi căn cứ vào các bức chạm khắc ở các chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Thái Lạc (Hưng Yên) và mấy chữ ả đào, đào nương trong các sách cổ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Công dư tiệp ký. Gần đây với các tài liệu khảo cổ học, mỹ thuật học và nhất là tài liệu bằng chữ Hán Nôm xác thực và tin cậy, chúng ta chỉ mới có tài liệu về ca trù sớm nhất là khoảng thế kỷ XV. Căn cứ về khảo cổ học là các bức chạm khắc đàn đáy - một cây đàn 3 dây đặc biệt chỉ dùng riêng trong ca trù, tìm thấy ở các ngôi đình làng, chùa làng ở Bắc bộ thế kỷ XVI. Tư liệu chữ viết là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao (1462- 1529) trong sách Lê tộc gia phả (A.1855) soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ Ca trù. Đây cũng là Bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ Ca trù lần đầu tiên có mặt trong văn học viết. Bài thơ cho chúng ta thông tin quan trọng: ngôi đình Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội có trước năm 1500 và hát cửa đình đã có trước năm 1500. Bài thơ cho ta mường tượng ra không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ hội đầu xuân cầu phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV. Trong ngày hội lớn của làng Đông Ngạc bấy giờ có ít nhất là 8 giáp, đã cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm và Mừng nay tiệc ca trù thị yến. Ở câu thơ thứ nhất, chữ “ca trù” cho thấy đây là lối hát dùng thẻ (trù) để thưởng cho người hát người đàn (đào và kép). Mỗi khi thấy hay, người cầm chầu gõ một tiếng “chát” vào tang trống để thưởng và khi đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tương ứng một số tiền) vào chiếc chậu thau (để tiếng ném thẻ vào chậu thau sẽ báo cho đào kép biết là làng thưởng khiến cho họ hát càng hay hơn nữa). Ở câu thơ thứ hai cho thấy tiệc ca trù được mở để thờ thần. Hát thờ ở cửa đình Đông Ngạc cho thấy cái trống chầu đã có vai trò riêng: để thưởng và để phạt (để khen và để chê), điều này nói lên rằng việc thưởng thức ca nhạc đã đạt được đến một chuẩn mực, một trình độ đáng kể. Chính việc khen chê như vậy (khen gọi là thưởng đào, hoặc thướng đào) đã góp phần nâng cao các thành tố trong cuộc biểu diễn lên một trình độ mới. Tiếng hát, tiếng phách của đào nương, tiếng đàn đáy của kép và lời thơ đã có cái tiêu chuẩn để đánh giá. Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến đã trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ. Bức chạm nhạc công đàn Đáy ở đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội. Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộThế kỷ XVI sự phát triển và phổ biến của ca trù được ghi nhận bằng các bức chạm khắc dân gian tại các đình làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang) và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có các bức chạm hoặc tượng hình người cầm đàn đáy. Đình Tây Đằng có tượng tròn hình người đứng cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên mình con hươu cầm đàn đáy và một bức chạm khác có cả đám nhạc công đang hòa nhạc trong đó có 1 người đàn ông ngồi cầm đàn đáy. Hình ảnh này cho thấy ca trù đã có mặt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian tại các làng quê và có mặt trong điêu khắc đình làng. Ở chùa Cói (Thần Tiên tự), xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cũng có bức chạm người phụ nữ gảy đàn đáy. Tiếc rằng hiện vật đã bị cháy cùng với ngôi chùa, và chúng ta chỉ còn lại bức ảnh chụp bức chạm này. Đây là tư liệu mỹ thuật về đàn đáy duy nhất hiện biết tìm thấy ở một ngôi chùa. Qua những hình chạm người cầm đàn đáy ở các đình, đền, có thể thấy rằng: dàn đáy đã trở nên phổ biến ở thế kỷ XVI, ở đồng bằng Bắc bộ. Đàn đáy mới đầu được sử dụng trong các cuộc hoà nhạc, cùng với các nhạc khí khác trong một đám đông (có khi có cả người múa), mà người đàn có thể là nam, có thể là nữ với tư thế là đứng hoặc ngồi. Về sau ca quán thính phòng ra đời, đàn đáy là loại đàn duy nhất trong cuộc hát. Thế kỷ XVII và XVIII nghi lễ hát cửa đình rất thịnh trong các làng quê Tiếp tục dòng chảy của của điêu khắc đình làng từ thế kỷ trước, sang đến thế kỷ XVII và XVIII chúng ta vẫn bắt gặp sự ghi nhận của dân gian đối với cây đàn đáy. Điều này càng chứng tỏ cây đàn đáy đã có một chỗ đứng trong đời sống và phong tục dân gian, và hoạt động diễn xướng ca trù đã trở thành một nét sinh hoạt phổ biến tại các đình làng dân gian. Những ngôi đình có niên đại thế kỷ XVII như đình Đại Phùng (xã Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội), đình Hoàng Xá (xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội), đình Xốm (xã Hùng Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) hiện còn giữ các bức chạm những người đang sử dụng đàn đáy. Đặc biệt ở đình Đại Phùng đặc tả hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, còn bức chạm ở đình Xốm miêu tả cả đám nhạc công đang hòa nhạc. Đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Hai ngôi đền có niên đại thế kỷ XVIII là đền Tam Lang (xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Lê Khôi (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) cũng cho các cứ liệu rất cụ thể về đàn đáy, phách và sinh hoạt diễn xướng ca trù ở thế kỷ XVIII. Các bức chạm này có nét điêu khắc tinh tế hơn chứ không còn vẻ mộc mạc thô phác của các bức chạm trước đó. Điều này thể hiện rõ nhất là những đặc tả về trang phục và vũ điệu mềm mại của các nghệ sĩ dân gian. Các nghệ sĩ đã mang trang phục của nghi lễ hát thờ, với chiếc mũ trên đầu, hoặc búi tóc gọn ghẽ và khá kiểu cách, và những bộ trang phục của những vũ công chuyên nghiệp. Đây cũng là tư liệu rất quý, làm cơ sở cho việc phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền trong dân gian. Về các nhạc cụ và trình diễn các nhạc cụ, các bức chạm này không những miêu tả một cảnh hòa nhạc vui vẻ, với sự góp mặt của đàn đáy và cỗ phách, của sáo, trống cơm, chũm chọe. Điều này cho biết trong sinh hoạt ca trù tại các cuộc vui mang tính cộng đồng như thế, ngoài đàn đáy và phách, sự góp mặt của các nhạc cụ khác càng làm cho không khí thêm rộn ràng và ca trù trong lúc này không chỉ có ba thứ nhạc cụ là trống chầu, đàn đáy và phách như ca trù về sau. Như vậy, qua các ngôi đình có các bức chạm các cảnh sinh hoạt ca trù và việc sử dụng cây đàn đáy, chúng ta biết ca trù có mặt ở các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Tĩnh. Nguồn tư liệu văn bia cũng cho biết giáo phường ca trù đã phục vụ hát thờ ở khắp vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Đó là các tỉnh Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định. Tỉnh có nhiều bia nhất là Hà Tây cũ (33 bia), trong đó các huyện có nhiều bia là Quốc Oai (10 bia), Phúc Thọ (8 bia), Thạch Thất và Đan Phượng (mỗi huyện 6 bia). Trong các huyện của các tỉnh thì huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều bia nhất, với 19 bia. Hà Nội có 11 bia, chủ yếu ở ngoại thành và đều thuộc thế kỷ XVIII. Các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định mỗi tỉnh 1 bia. Những tỉnh thành khác, tuy không có các văn bia ghi nhận nhưng thực tế, sinh hoạt ca trù đã có mặt ở hầu khắp các làng quê mỗi dịp tế thần. Các bản hương ước, tục lệ của các làng quê có ghi nhận về những ngày tiệc lớn trong làng đều có hát thờ ở cửa đình, nhiều khi là kéo dài vài ba ngày thậm chí cả nửa tháng trời. Hát cửa đình là hát thờ nên các bài bản đều có quy định khá thống nhất, trở thành một lệ tục. Mỗi giáo phường được quy định được phép hát ở các cửa đình mà mình được Ty giáo phường phân chia. Hàng năm, cứ đến ngày tế lễ ở các làng này là các giáo phường lại xách đàn phách đến hát hầu trước cửa đình theo lệ. Đi hát như vậy gọi là hát lệ. Các ả đào đứng trước điện, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú...trong tiếng hòa âm của các nhạc khí. Giáo phường được mời đến hát nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các Thánh thờ trong đình để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và tránh đi; ví như chữ Hiển thì đọc là Hởn, chữ Lã thì đọc là Lữ. Nếu cô đầu không nhớ ra, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Bấy giờ người quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu , đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên. Trong làng, người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về âm luật, biết thưởng thức ca trù và là đại diện cho cả làng để khen chê đào nương, bình luận và tán thưởng về các ngón đàn, các luyến láy của giọng ca. Thưởng phải công minh thì làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng rãi” thì làng tốn tiền, thưởng mà “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, chê là không biết nghe hát nghe đàn. Có khi, người cầm chầu mà không biết thưởng thức, không biết khen ngợi những câu hát công phu, những tiếng phách cao siêu, những tiếng đàn bén quyện mà đào kép công phu rèn tập, gặp phải cô đào đanh đá, cô ta sẽ hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ mà bỏ roi chầu không dám cầm chầu nữa. Làng tôi ở Đường Lâm, năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào phải hát rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “Ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”. Lại có chuyện nực cười mà một đào nương già (hiện còn sống) đã kể lại với chúng tôi rằng: Bà đi hát ở một làng kia, khi hát, các thẻ tre thả xuống rất nhiều làm cho đào kép rất phấn chấn, bà đã nhẩm đếm được đến hàng trăm thẻ. Thế nhưng cuối cuộc hát, khi làng đếm thẻ để trả tiền cho giáo phường thì chỉ thấy có vài chục thẻ! Lại có chuyện khi người cầm chầu thưởng tiếng “chát” vào tang trống, nhưng chú nhỏ ngồi bên cạnh lại buồn ngủ quên cả việc ném thẻ khiến cho đào kép không vui, nên hát qua loa cho xong chuyện mà về. Đã nửa thiên niên kỷ trôi qua, hát cửa đình là một sinh hoạt văn hóa tinh thần rất độc đáo của người Việt trên khắp châu thổ Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Vẻ đẹp của ca trù là vẻ đẹp của sự hoà quyện giữa văn chương và âm nhạc vừa hoang sơ mộc mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học. Đó là “chút hương hỏa của tổ tiên” để lại cho cháu con hôm nay. (Còn nữa) Nguyễn Xuân Diện