wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Wild bổ sung theo Phật học khai luân ?Thế nào là Phật? - Phật tâm, Phật tánh, Phật nguyện, Phật hạnh, Phật trí, Phật đức, Phật thân, Phật độ..., đó là Phật. Thế nào là Pháp? - Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô ngã, Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi, Lục độ, Thập độ, Pháp tướng...; đó là Pháp. Thế nào là Tăng? - Chí nguyện của Tăng, Giới luật của Tăng, Sinh hoạt của Tăng, Bổn phận của Tăng...; đó là Tăng.
  2. Thay mặt những mãnh đời cần cứu giúp cám ơn tấm lòng của HC.
  3. Wild đã kiểm tra tk, ghi nhận sự đóng góp 1.000.000đ của dangthu79, chúc may mắn đến với dangthu79 trong năm mới !
  4. Wild xin được giải thích theo số vốn hiểu biết của mình. trước tiên wild sửa lại Qui là QUY mới đúng nghĩa. Quy y Phật : còn có nghĩa là Quy y tam bảo, sẽ được đặt cho một pháp danh, một tên gọi trong nhà Phật. Ta sẽ trãi qua thủ tục này để chính thức trở thành đệ tử của một nhà chùa nào đó. Giai đoạn này ta sẽ nhận được bài giảng vỡ lòng về những điều răn về Đạo. Để giữ mình và giới cấm. Tâm phục và hướng về Phật Đại Từ bi. Quy y Pháp : Để hiểu rõ ngũ pháp và những điều cần tránh như :không sát sanh, không trộm cướp...... Quy y Tăng : Để tâm phục và hướng về Sư Thầy người dìu dắt chúng ta đi vào Đạo pháp..... Ta Quy về ba cội này ta sẽ tránh để không Đọa vào Ngạ Quỷ , Súc sanh, địa ngục........
  5. Bác TNM của Diễn đàn ta phán cứ như Trạng ấy chứ nhỉ ? Lẩm cẩm mà ra wẽ nào là Trúng wẻ ấy mới kinh chứ lị !
  6. Chúc mừng Khả năng ứng dụng LVDT của TH ! Thêm một chiến thắng vinh quang của LVDT.
  7. NHỮNG BÍ ẨN VỀ BỘ MẶT CON NGƯỜI Bộ mặt là bộ phận cơ thể dễ được người khác nhìn thấy nhất. Kết cấu mặt người vô cùng phức tạp, hầu như tất cả các cơ quan của đầu người đều tập trung ở khuôn mặt. Toàn bộ những khác biệt về tuổi tác, di truyền, môi trường sống v.v... đều làm cho mặt người ta khác nhau.Có hai bộ mặt giống nhau hay không?Loài người có 46 nhiễm sắc thể, tổ hợp thành 23 cặp, mỗi nhiễm sắc thể có 1250 gien, số gien này quyết định tính di truyền của con người. Kết quả tính toán cho thấy, 23 nhiễm sắc thể của bố và 23 nhiễm sắc thể của mẹ có thể kết hợp thành hơn 8 triệu tổ hợp. Cứ 70 nghìn tỷ trường hợp hai anh em (hoặc chị em) do cùng 1 mẹ sinh ra, thì mới có 1 trường hợp gien di truyền nhiễm sắc thể hoàn toàn giống nhau. Từ ngày con người xuất hiện đến nay, tổng số người từng ra đời còn nhỏ lắm so với con số 70 nghìn tỷ ấy. Nghĩa là căn bản không thể có 2 người sinh ra đã hoàn toàn giống nhau. Cùng lý do ấy, không thể có 2 bộ mặt hoàn toàn như nhau được. Không những cá thể, mà quần thể người cũng khác nhau rất rõ. Người da trắng mũi cao và hẹp, người da đen mũi thấp mà rộng, người da vàng ở giữa 2 loại này. Mũi dài là để không khí lạnh đi qua mũi lâu hơn, do đó ấm hơn, ẩm hơn trước khi vào phổi. Người da đen mũi thấp là do ăn muối nhiều nên xương mũi kém phát triển. Tuy về lý thuyết thì không thể có các bộ mặt hoàn toàn giống nhau, nhưng trong thực tế lại lắm chuyện lạ. 237 người ở làng Halacon miền nam Ấn độ có khuôn mặt giống nhau như đúc. Song nếu xét kỹ thì họ vẫn có không ít điểm khác nhau, có điều khác nhau không rõ mà thôi. Có người nói họ giống nhau là do tật kết hôn người trong cùng tộc. Khoa học diện mạo người Nghiên cứu mặt người là việc rất hữu ích, vì thế có cả một khoa học diện mạo người. Khoa học này nghiên cứu các đặc trưng của khuôn mặt và giúp người ta tìm kiếm công việc hợp với cá tính của họ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và cải thiện quan hệ người-người. Nếu bạn đến nhờ các nhà khoa học ấy giúp đỡ, thì họ sẽ đo độ dài giữa 100 điểm trên mặt bạn, như khoảng cách giữa 2 mắt, chiều rộng trán, đường kính sợi tóc v.v.. Cho các số liệu này vào máy tính, mô hình thuật toán trong máy sẽ chuyển chúng thành các đồ thị thể hiện cá tính của bạn và đề xuất kiến nghị chọn nghề nghiệp lý tưởng nhất cho bạn. Người có 2 mắt gần nhau (như mắt khỉ) thường kém nhẫn nại. Khuôn mặt to và cái cằm vững chãi nói lên người đó giầu tự tin. Người mặt hẹp (dài) thường cẩn thận chu đáo. Ai có gò má cao là người thích mạo hiểm và dễ chán nản. Cằm bạnh vuông vức hay trốn tránh đối kháng. Nếu bạn có cái mũi khoằm như Thái tử Charles thì rất có thể bạn là người đa nghi. Giả thử bạn có gò má cao như vương phi Diana, thì chắc là bạn có tính tình hay thay đổi và thích du lịch mạo hiểm. Nếu bạn có cặp lông mi thẳng băng và dài quá đuôi mắt như tài tử xi-nê Tom Cruise thì có lẽ bạn rất sẵn tinh thần đồng đội, thích hợp tác và thích sống hoà hợp với mọi người. Khuôn mặt và cá tính bẩm sinh Khuôn mặt người ta chia làm kiểu mặt bên trái và kiểu mặt bên phải, tuỳ theo khuôn mặt bên nào sinh động hơn. Nghiên cứu cho thấy, người thuộc kiểu mặt bên trái thì bán cầo não bên phải có chức năng mạnh hơn, mà bán cầu não phải thì liên quan chặt chẽ đến chức năng diễn tấu âm nhạc. Các thiên tài âm nhạc như Vagner, Mozart, Schubert, Tchaikovsky và Liszt đều có khuôn mặt kiểu bên trái. Kết quả điều tra tại một nhà hát ca kịch ở Niu-oóc cho thấy, 98% diễn viên ở đây đều là người có kiểu mặt bên trái. Phần lớn các nhạc công, ca sĩ ngôi sao nhạc Jazz, nhạc pôp cũng vậy. Người kiểu mặt bên phải cũng có những điểm trội độc đáo. Nổi bật nhất là tư duy lý tính nhạy bén. Trong đời thường, đa số chúng ta có khuôn mặt kiểu này. Thí dụ Anh-xtanh và nhiều nhà khoa học, toán học khác. Người kiểu mặt này thường có năng khiếu về nói, nhảy múa và thể thao, về nắm hiểu và biểu đạt nhịp điệu vận động. Hầu như các nhà vô địch Ô-lim-pich đều có tip khuôn mặt này. Muốn biết bạn có khuôn mặt kiểu bên trái hay bên phải, hãy soi gương xem phía mặt bên nào nhỉnh hơn, nhiều cơ bắp hơn, khi nói năng có vẻ linh hoạt hơn, khi mỉm cười thì lông mi rướn cao hơn, nếp da co dãn nhiều hơn, thể hiện rõ hơn tình cảm vui sướng. Các nhà khoa học cho rằng kiểu loại khuôn mặt của con người được hình thành từ trong bụng mẹ; bởi vậy, cha mẹ khi lựa chọn mục tiêu dạy dỗ con mình thì phải quan sát các thông tin thể hiện ở kiểu loại khuôn mặt của đứa con. Đàn bà đẹp nửa mặt bên trái, đàn ông đẹp nửa mặt bên phải Số liệu thống kê cho thấy, nửa mặt bên trái của phụ nữ thường xinh đẹp hơn nửa mặt bên phải và ẩn chứa nhiều cảm xúc. Đó là do trung khu thần kinh phụ trách tình cảm thì ở bán cầu não bên phải. Đại não con người có chức năng giao chéo, khi thông tin tình cảm phản hồi lên mặt, phía mặt bên trái chịu tác dụng rõ hơn bên phải. Tình cảm tế nhị phong phú của nữ giới làm cho nửa mặt trái của họ trở nên tươi đẹp, các nếp da mặt lanh lợi thông thoáng, đem lại cảm giác đẹp cho người nhìn. Xét về góc độ tâm lý, tầm nhìn của mắt người di động từ trái sang phải. Khi ta xem phim, hoặc khi đàn ông liếc đàn bà, bao giờ cũng thế cả, cuối cùng luồng mắt đều rơi xuống bên trái đối tượng ta nhìn. Có lẽ phụ nữ đã nhận ra chuyện ấy một cách không tự giác, cho nên phía bên trái mặt họ thường nghênh lên một chút. Ngoài ra, có nhiều thói quen không lường trước làm cho nửa mặt bên trái của nữ giới bao giờ cũng ở vào vị trí dễ thấy hơn. Trong bố cục cụm tượng vua và hoàng hậu cổ Ai cập, cũng như khi sắp xếp vị trí cô dâu chú rể trong lễ cưới, hầu như nữ đều đứng bên trái nam, như vậy người ngoài nhìn vào sẽ dễ thấy nửa mặt bên trái của nữ. Cũng có thể là loài người, một cách không tự giác, bẩm sinh đã cảm thấy nửa mặt bên trái của phụ nữ đẹp hơn, nên các bà mẹ khi ẵm con nhỏ phần lớn đều dùng tay phải ôm lấy nửa dưới đứa bé, nghiêng đầu về bên trái, dùng nửa trái mặt mình để nựng con. Đứa bé cũng cười toe toét khi nhìn thấy nửa mặt trái của mẹ nó. Điều thú vị là nửa mặt bên phải của nam giới lại đẹp hơn nửa kia. Số liệu thống kê cho thấy, phần lớn nam tài tử xi nê Hollywood đều có nửa mặt bên phải đẹp và hấp dẫn hơn. Tại sao nam và nữ lại khác nhau như thế ? Các chuyên gia mỹ học diện mạo trả lời: vẻ đẹp khuôn mặt đàn ông phụ thuộc vào việc họ dùng hàm răng bên nào để nhai thức ăn. Một mét vuông răng hàm đàn ông có thể chịu được một lực bằng 600 tấn, cho nên hoạt động nhai thức ăn để lại dấu vết rất rõ trên gương mặt. Phần lớn đàn ông nhai bằng hàm bên phải, cho nên cơ bắp nửa bên phải và cằm dưới bên phải thì phát triển hơn bên trái, đem lại cảm giác khoẻ mạnh, tức cảm giác về vẻ đẹp của đàn ông. Càng yêu nhau thì cả hai càng đẹp Số liệu thống kê cho thấy, sau một thời gian dài chung sống, khuôn mặt của hai vợ chồng sẽ có xu hướng tiến tới giống nhau. Tại sao lại thế ? Qua đo đạc cứ 7 năm 1 lần khuôn mặt của 175 cặp vợ chồng được theo dõi, một chuyên gia tâm lý Mỹ cho rằng cuộc sống chung lâu năm sau ngày cưới và cơ cấu bữa ăn như nhau sẽ làm cho các mô mỡ của hai vợ chồng giống nhau. Ngoài ra, trong sinh hoạt tình dục, gien di truyền của chồng đưa vào trong cơ thể người vợ sẽ có tác dụng thay đổi nét mặt người vợ. Sống chung càng lâu thì nét giống nhau càng rõ. Tình yêu hạnh phúc làm người ta vui sướng, khiến cho các chất nội tiết tiết ra đầy đủ, tuần hoàn máu nhanh hơn, qua đó nét mặt trở nên sinh động. Bởi vậy, tình yêu có công dụng làm đẹp con người. Các nhà khoa học phát hiện thấy sinh hoạt tình dục hoà hợp không những có tác dụng về tâm lý mà còn làm cho hệ thần kinh và các hoóc môn sinh ra tác dụng kích thích. Những kích thích này có ảnh hưởng quyết định đối với việc hình thành các đặc trưng nữ tính (như da dẻ mịn màng v.v..). Khi làm tình, đồng tử của cả hai người đều mở to, hai mắt sáng hơn, tâm trạng khoan khoái, lỗ mũi nở to, da mặt mềm mại, có tác dụng như một chất xúc tác làm đẹp người. N.H. theo báo nước ngoài nguồn dongtac.net
  8. BA GIAI ĐOẠN TRONG ĐỜI NGƯỜI I. Cuộc đời của mỗi người đều phải trải qua 3 tầng nấc hoặc 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là sống. Để duy trì sự sống, cần ăn, mặc, ở, đi lại. Trên đời có vô vàn thứ thức ăn, về thực chất chúng không khác nhau mấy. Mặc cũng vậy, vải bông hay gấm vóc đều có tác dụng gần như nhau. Ăn uống là để phòng đói khát, mặc là để phòng giá lạnh. Cũng vậy, ở nhà ngói hay nhà tranh chẳng có gì khác nhau lắm về ý nghĩa đối với cuộc sống. Nói về đi lại, ngày xưa Khổng Tử ra đường đi xe hai ngựa kéo, Lão Tử chỉ cưỡi một con trâu, còn người thường thì cuốc bộ. Ngày nay khoa học kỹ thuật tiến nhanh, mỗi ngày một đổi mới, chuyện ăn mặc ở đi lại của chúng ta khác hẳn ngày xưa, song xét về ý nghĩa và giá trị đối với cuộc sống thì vẫn thế cả. Cuộc sống vẫn còn ở giai đoạn thứ nhất. Các loài động thực vật cũng có cuộc sống của chúng, có cách duy trì sự sống. Cho nên xét về tầng nấc thứ nhất của sự sống, tức mặt sinh hoạt, người và các sinh vật đều tương đối gần với thiên nhiên. Có thể nói đời sống của con người không khác xa lắm với các loài động thực vật. Vì để duy trì sự sống (sinh mệnh), ta mới có cuộc đời, chứ không phải là vì cuộc đời mới có sự sống. Cuộc đời (sinh hoạt) ở tầng ngoài. Sự sống ở tầng trong. Cuộc đời phụ thuộc vào sự sống. Sự sống không thể hiện trên cuộc đời, mà nó có tác dụng khác. Đó là tầng nấc thứ hai trong quá trình phát triển sự sống, tức hành vi của con người. Nói cách khác, giá trị sinh mạng của con người nên thể hiện trên sự nghiệp của người đó. II. Ta đến với thế giới này đâu phải chỉ để ăn mặc ở đi lại. Ngoài những cái đó ra, ta nên có hành vi và sự nghiệp của đời mình. Đây mới là chủ thể của đời người. Ngày nay nhiều người làm việc là để kiếm sống, Vì để giải quyết chuyện ăn mặc ở đi lại mà kiếm một nghề nghiệp, dùng công việc để đáp ứng nhu cầu sống. Dĩ nhiên cũng có thể nói công việc là một loại hành vi. Song trên thực tế con người nên có một kiểu hành vi cao thượng hơn công việc. Nói như cổ nhân, đó là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Một người có tu thân – nghĩa là không nói điều mình không muốn nói, không làm điều mình không muốn làm, thì dù họ là tổng thống, đại doanh nhân hay nông dân, công nhân, xét về hành vi, họ đều bình đẳng với nhau. Họ chỉ khác nhau về chất lượng cuộc sống, song về tinh thần làm người thì bình đẳng với nhau. Nói bình đẳng là nói từ chỗ ấy. Nếu chỉ xét về chất lượng sống thì sao có thể có sự bình đẳng giữa người với người? Người trên toàn thế giới này đều không bình đẳng với nhau! Có những việc người giàu sang mới có thể làm, người nghèo hèn thì không làm được, và ngược lại. Chỉ có tu thân – loại hành vi tinh thần này mới bình đẳng, tự do. Tu thân như cổ nhân nói, cho tới nay vẫn còn giá trị, ý nghĩa. Sau này cũng vậy. Bước thứ hai là tề gia. Mỗi người đều có một gia đình. Cha hiền từ, con hiếu thảo, anh em yêu kính nhau, vợ chồng hòa thuận – cuộc sống như thế mới có ý nghĩa. Trong thiên hạ đâu có sự tuyệt đối công bằng không thiên vị? Ăn cho mình, mặc cho mình, ở cho mình... đều là cho riêng mình, đâu phải cho mọi người. Tu thân tề gia không phải là chủ nghĩa cá nhân. Không có cha mẹ, ta từ đâu ra? Tu thân tề gia cũng không phải là xã hội chủ nghĩa – thân và gia đều là tư hữu. Tu thân tề gia là một đạo đức hành vi, công tư đều có. Bạn phải gắng hết sức mình để tu thân tề gia. Ai cũng phải làm thế, như vậy mọi người đều bình đẳng. Tầng nấc thứ ba là trị quốc bình thiên hạ. Cá nhân, gia đình, quốc gia là một khối liền nhau. Con người giỏi lắm cũng chỉ thọ trăm tuổi; rất ít người sống được đến 80-90 tuổi. Sau 100 năm, người trong một gia đình đều hoàn toàn thay mới. Các tôn giáo lớn đều bàn về vấn đề này, riêng người Trung Quốc (TQ) thì không thích bàn vì họ đã quen yên tâm với chuyện ấy. III. Tại sao phải tu thân, phải tề gia, phải xả thân vì nghĩa lớn? Đây là giai đoạn thứ ba của đời người, là hồi kết, chốn quy tụ của cuộc đời. Đời người có mở đầu thì cũng phải có kết cục. Cái gọi là hồi kết ở đây thì khác với cách nói của tôn giáo. Theo tôn giáo, khi người ta chết thì linh hồn sẽ lên thiên đường hoặc xuống địa ngục. Người TQ không bảo cách nói ấy sai hay đúng, chẳng bàn chuyện ấy; họ nói hồi kết của đời người là ở tính người. Một sinh vật đều có thiên tính của mình. Con người thì sao? Người khác các loài động vật ở chỗ thiên tính của người thì cao hơn động vật và khó phát hiện; chẳng những người khác không biết mà bản thân có lẽ cũng không biết. Mọi hành vi của con người đều phải phù hợp với thiên tính của mình. Ai cũng có sở thích riêng. Thí dụ bày hai món ăn, một món gà, một món cá. Bạn thích ăn món nào? Điều đó thấy ngay, rất đơn giản. Nhưng nếu bạn học văn học, hỏi bạn thích thơ hay thích tiểu thuyết, bạn không thể trả lời được ngay. Trong tiểu thuyết lại có truyện ngắn, truyện dài... cho nên càng không thể nói ngay thích loại nào. Các hành vi khác của con người cũng vậy. Tóm lại, hành vi của con người phải hợp với thiên tính của mình. Nếu có thể thỏa mãn thiên tính của mình thì người ta sẽ mong muốn hồi kết cuộc đời mình sẽ được yên vui. Thiên tính của tôi là thế, chỉ có làm như vậy tôi mới yên tâm, cảm thấy vui vẻ. Xin hỏi: đời ta ngoài yên và vui ra, còn có yêu cầu thứ ba nào không? Yên là điều quan trọng nhất trong đời. Yên rồi mới có vui. Có người giàu sang mà sống chẳng yên vui; ngược lại, có người nghèo hèn lại sống yên vui. Vậy ta nên tranh thủ được giàu sang hay yên lòng với nghèo hèn? Giàu sang nghèo hèn chỉ là một cảnh ngộ của đời người, cái ta cần là yên và vui. Chỉ cần hành vi của ta hợp với thiên tính thì hoàn toàn chẳng cần biết cảnh ngộ thế nào mà vẫn cứ vui. Người TQ thường nói đức tính. Thế nào là đức? Thí dụ nói ý thích, đó là thiên tính của con người, không cần điều kiện bên ngoài. Vui cũng là thiên tính. Đau buồn cũng thế. Gặp chuyện đau buồn mà lại không đau buồn thì chẳng thể yên vui được. Như khi cha mẹ chết, nếu không khóc thì lòng bạn sẽ không yên, sao còn nói tới yên vui? Cáu giận cũng là thiên tính của con người. Cáu giận đúng chỗ cũng cảm thấy nội tâm được yên vui. Tôi không biết một chữ nào nhưng tôi cũng có mừng giận buồn vui. Ngoài đường có khối người không biết chữ, có lẽ cái mừng giận buồn vui của họ càng tự nhiên càng ngây thơ hơn chúng ta, họ phát tiết các tình cảm ấy một cách đúng chỗ hơn ta, trọn vẹn hoàn hảo hơn ta. Hồi kết cuối cùng của đời người nên quy tụ về đức tính. Tính tức là đức; đức tức là tính, cổ nhân gọi đó là tính mệnh; chúng ta phải phát triển nó một cách trọn vẹn. Mừng giận buồn vui nếu thể hiện đúng chỗ và trọn vẹn thì có thể làm gương, làm mẫu mực cho kẻ khác – ta gọi những người ấy là thánh nhân hoặc người trời. Họ hợp làm một với Trời, với Thượng Đế, với thiên nhiên vĩ đại. Đời người nếu đạt tới được giai đoạn ấy thì có thể chết mà không hối tiếc gì. Làm người, trước hết phải nói tới cuộc sống (sinh hoạt), đây là văn minh vật chất. Thứ hai phải nói tới hành vi và sự nghiệp, tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ – đây là tinh thần nhân văn. Triết lý cao nhất của đời người thì nói về đức tính. Đức tính thuộc về cá nhân, cũng là thứ loài người xưa nay cùng có. Hồi kết của đời người cũng phải kết ở chỗ này. Nguyên Hải lược dịch theo « Gia đình chủ phụ báo » số 504 (TQ) nguồn dongtac.net
  9. CHẾT VÀ TÁI SINH 19. LỜI CUỐI SÁCH-CHUẨN BỊ CHO MỘT CHUYẾN ĐI Chết là một sự thật hiển nhiên mà cuối cùng ai cũng phải đối mặt, dù mình có muốn hay là không. Ðó là một chân lý mà mỗi chúng ta phải ghi nhớ và chấp nhận, để khi nó đến, ta không còn phải ngạc nhiên, lo âu và sợ hãi. Ôn Như Hầu từng nói: "Biển khổ mênh mông sóng ngập trời Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió Rốt cuộc rồi trong bể thảm thôi" Thật vậy trong cái biển khổ mênh mông ấy, chúng ta chỉ là những "khách trần" lai vãng, đến rồi đi, và nếu chết vẫn chưa hết, ta sẽ phải tiếp tục trôi lăn trong "biển khổ" sinh tử luân hồi này. Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu từng nhắc nhở rằng: "Vô thường già, bệnh, chết không hẹn trước với ta", tức là cái chết sẽ đến với ta bất cứ giờ phút nào. Một điều quan trọng mà tất cả chúng ta cần phải khắc trong lòng là sau khi chết, thần thức của ta sẽ không mất, mà nó được lưu chuyển sang một đời sống khác. Theo giáo lý nhà Phật, sau khi chết nếu ta chưa đạt Ðạo, giác ngộ và giải thoát, ta sẽ có thể tái sinh, đầu thai vào một trong sáu cõi giới: Cõi trời, Cõi người, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỹ và Súc Sanh. Kết quả được thác sanh vào cõi nào đã được ta thiết lập ngay trong đời sống vừa qua, có nghĩa là trong đời sống hiện tại hôm nay, chính ta đang tạo dựng một đời sống ngày mai của ta vậy. Do đó chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để có thể mang theo làm hành trang cho riêng mình trong cuộc hành trình vô tận đang chờ đợi ta ở phía trước Ta phải chuẩn bị điều gì? Ðó là một câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Tuy nhiên, như ở đầu tập sách này, các bậc Thầy người Tây Tạng đã khuyên dạy chúng ta rằng: phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết là mỗi người nên làm điều lành và tránh làm điều ác trong suốt cuộc đời mình. [/color] Lời dạy này đã cho chúng ta hiểu rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp ác mà mình tạo ra trong suốt cuộc đời, từ lúc mới sinh đến khi nhắm mắt lìa đời, sẽ là hành trang mà ta sẽ phải mang theo sau khi ta trút hơi thở cuối cùng ở kiếp này và chính nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trong các đời sống vị lai. Do thấy rõ được cảnh khổ của chúng sinh trong sáu cõi giới luân hồi này, mà Bồ tát Ðịa Tạng đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta về những quả báo khổ đau mà chúng ta sẽ phải gánh chịu ở tương lai, nếu ta phạm phải ở kiếp này: Ngài dạy rõ "Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật quả báo sẽ bị chết yểu, nếu người trộm cướp sẽ bị quả báo nghèo cùng khốn khổ, nếu người không chung thủy với vợ hoặc chồng sẽ bị quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương. Kẻ nói lời thô ác sẽ bị quả báo quyến thuộc hay kình chống nhau, nếu kẻ hay khinh chê sẽ bị quả báo không lưỡi hay miệng lở, nếu người thường nóng giận sẽ bị quả báo thân hình xấu xí. Nếu người có tánh bỏn xẻn sẽ bị quả báo cầu muốn không được toại nguyện, nếu người thường tổ chức săn bắn sẽ bị quả báo kinh hãi điên cuồng, mất mạng, nếu kẻ trái nghịch với cha mẹ sẽ bị quả báo trời đất tru lục. Nếu người đốt núi rừng cây cỏ sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết, nếu cha ghẻ mẹ ghẻ ăn ở ác độc sẽ bị quả báo thác sinh trở lại hiện đời sẽ bị roi vọt, nếu người dùng lưới bắt chim non sẽ bị quả báo thân quyến chia lìa. Nếu người hủy báng Tam Bảo sẽ bị quả báo đui, điếc, câm, ngọng, nếu người hay khinh chê giáo pháp sẽ bị quả báo ở mãi trong ác đạo, nếu kẻ lạm phá của Thường trụ chùa chiền sẽ bị quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục. Nếu kẻ làm ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già sẽ bị quả báo ở mãi trong loài súc sanh, nếu kẻ dùng nước sôi, hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật sẽ bị quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau. Nếu kẻ phá giới phạm trai sẽ bị quả báo làm cầm thú đói khát, nếu người phung phí phá tổn của cải một cách phi lý sẽ bị quả báo tiêu dùng thiếu hụt, nếu kẻ thường tự cao kiêu mạn sẽ bị quả báo hèn hạ bị người sai khiến. Nếu kẻ đâm chọc gây gổ sẽ bị quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi, nếu kẻ tà kiến hay mê tín dị đoan sẽ bị quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh..." (lược theo Phẩm thứ hai, Kinh Ðịa Tạng, bản dịch của HT Trí Tịnh). Nếu ta biết rõ những nguyên nhân và kết quả trên, ta phải cố gắng tránh tạo những ác nghiệp tham lam, sân hận, si mê, giết hại sinh vật, trộm cắp, tham ái , nói dối, uống rượu... và nỗ lực làm những điều thiện,không tham lam, không nóng giận, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, cúng dường, phóng sinh... Để đem an lạc hạnh phúc cho mình và cho người. Bài học công bằng mà tất cả chúng ta đều thuộc lòng, đó là nếu mình đem hạnh phúc cho người, thì mình sẽ được an vui, ngược lại đem khổ đau cho người, thì chính mình sẽ chịu sự bất hạnh. Niềm hạnh phúc và an lạc hoặc sự bất hạnh và khổ đau, đã, đang và sẽ được chính ta tạo ra và chính ta thừa hưởng ngay trong đời sống này, cũng như sau khi chết. Những điềm báo trước khi chết: Những người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc, tự tại, thong dong giữa hai bờ sống chết, họ có thể tái sinh về bất cứ cõi giới nào họ muốn. Còn chúng sanh mê muội, phàm phu tục tử đều phải tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết, phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về cảnh giới thích ứng với nghiệp mà mình đã gây tạo. Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định mệnh, tức là cái đã sắp đặt sẵn mọi chuyện, mình phải đi theo cái có sẵn ấy. Ở đây không phải vậy, người Phật tử tin rằng mình là chủ nhân của chính mình, tuy nhiên, một khi mình không làm chủ được mình để cho ác nghiệp đã được xảy ra, thì chính cái nghiệp ấy sẽ trở lại điều khiển mình. Do đó người Phật tử hãy thận trọng trong mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình, từ nơi đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và cũng từ nơi đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau. Theo kinh điển nhà Phật, một người trước khi chết có những điềm báo trước, có thể tùy theo mỗi người mà có cảm thọ khác nhau về cảnh giới thiện hay cảnh giới ác, và những điềm này sẽ giúp cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người quá cố. Những điềm lành báo trước sẽ có thể sinh về Tịnh độ: Tâm hồn không bị bối rối Biết trước ngày giờ chết Tâm niệm chân chánh không mất Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần áo. Tự mình niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm thầm Ngồi ngay thẳng, chắp tay niệm Phật mà chết Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà Có hào quang sáng soi vào thân thể Nhạc trời vang dội giữa hư không Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại. Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh lên cõi trời: Mong lòng thương mến Phát khởi thiện tâm Lòng thường vui vẻ Chánh niệm được rõ ràng Thân thể không bị hôi hám Sóng mũi không xiên xẹo Tâm không giận dữ Tâm không luyến ái tài sản, gia đình, dòng họ Mắt luôn trong sáng Ngửa mặt lên trời và mỉm cười Những điềm báo trước sẽ có thể tái sinh trở lại cõi người: Ðến khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành Thân không đau khổ Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha mẹ Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em và bầu bạn Ðối với việc lành dữ nhận rõ không lầm loạn Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh Biết rõ bà con bạn bè giúp đỡ cho mình Thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng Dặn dò mọi việc trong nhà trước khi chết Sanh lòng chánh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến đối diện quy y. Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa vào địa ngục: Gặp phải tình trạng con cái và bà con đều nhìn kẻ sắp chết bằng đôi mắt ghét bỏ Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ mó hư không Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng không tùy thuận Người sắp chết kêu gào than khóc Ði ra tiểu tiện mà không hay biết Nhắm nghiền đôi mắt Thường hay che úp mặt mày Nằm nghiêng mà ăn uống Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám Gót chân, đầu gối luôn run rẩy Sống mũi xiên xẹo Mắt bên trái hay động đậy Hai mắt đỏ ngầu Úp mặt mà nằm Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống đất Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào cõi giới ngạ quỹ: Ưa liếm môi miệng Thân nóng như lửa Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống Mắt thường hay trương lên mà không nhắm Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ. Ðầu gối bên phải lạnh trước Tay bên phải thường nắm lại Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào loài súc sanh: Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ Ngón tay và ngón chân đều co quắp Khắp trong thân mình đều toát ra mồ hôi Tiếng nói ra khò khè Miệng thường ngậm đồ ăn Hộ niệm cho người hấp hối: Nếu người hấp hối đang ở trong bệnh viện, người thân nên đến chùa hoặc điện thoại, thỉnh quý Chư Tăng Ni và Ban Hộ Niệm đến giường bệnh để tiếp dẫn cho người mất. Nếu gia đình không quen biết chùa nào, có thể tìm đến khoa Chăm sóc về tinh thần (Pastoral Care) các tu sĩ, giáo sĩ các Tôn giáo chính, được mời vào làm việc toàn thời hoặc bán thời tại nơi đây. Phân khoa này cũng có một Trung Tâm Cầu Nguyện (Worship Center) nằm ngay trong khuôn viên bệnh viện để cung ứng cho niềm tín ngưỡng của bệnh nhân) ngay trong bệnh viện đó để nhờ văn phòng này mời quý Thầy đến hộ niệm. Nếu không cung thỉnh được quý Thầy, Cô đến hộ niệm, hoặc nhà ở xa chùa, thì có thể mở băng cassette niệm danh hiệu Phật cho người hấp hối và con cháu trong nhà đứng xung quanh giường bệnh để niệm lớn câu: Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật. Niệm liên tục cho đến lúc người ấy trút hơi thở cuối cùng, chứ không được khóc kể, sầu thảm. Nếu cứ khóc than như thế sẽ khiến cho thần thức của người sắp ra đi quyến luyến mãi không rời khỏi thân xác, hoặc nếu có rời khỏi thi thể, thần thức người ấy vẫn quanh quẩn trong nhà, chứ không thể siêu thoát được. Một người thân hoặc người lớn tuổi trong gia đình nên đến bên cạnh người hấp hối nhắc nhở họ về nguyên lý vô thường: "Cõi đời là huyễn ảo, vô thường, mọi sự vật hiện tượng sinh rồi diệt, hội họp rồi chia ly, xin người đừng quyến luyến nữa, hãy xả bỏ tất cả và ra đi trong thanh thản". Sau khi người bệnh vừa tắt thở: người thân nhất nên điều chỉnh thi thể trở lại cho ngay ngắn, mọi động tác đều phải thật nhẹ nhàng, tránh đụng chạm mạnh đến thi thể, vì lúc ấy thần hồn của người chết chưa ra khỏi thi thể, dễ có cảm giác đau đớn và khó chịu. Chính sự khó chịu ấy sẽ khiến cho thần thức của người thác sinh vào cõi ác xấu. Cho nên phải cố gắng càng hạn chế chạm đến thi thể người vừa tắt thở càng tốt. Ba hoặc năm tiếng đồng hồ sau khi tắt thở, gia đình có thể dùng nước ấm, nước hoa hoặc rượu cồn (alcohol) để tắm cho người chết và thay quần áo mới. Tất cả nữ trang phải được tháo ra, để ngăn ngừa kẻ tham lam có thể xâm phạm đến tử thi. Nếu là tín đồ Phật giáo nên mặc lót bên trong một bộ đồ màu trắng mới và sạch, bên ngoài mặc áo tràng màu nâu hoặc màu lam và đắp một cái mền Quang Minh bên trên. Tang sự: Lễ tang được bắt đầu sau khi người thân của mình qua đời, có nhiều việc cần thiết phải làm. Những người có trách nhiệm phải thật bình tĩnh mới có thể giải quyết được công việc. Nếu người mất theo tín ngưỡng nào thì nên tôn trọng niềm tin của họ mà tổ chức tang lễ theo nghi thức của tôn giáo ấy. Riêng Phật tử nên tổ chức theo nghi lễ của Phật giáo. Nghi lễ này được diễn ra gọn gàng, đơn giản, trang nghiêm, ít tốn kém, và không theo tập tục mê tín của thế gian, như đốt vàng mã, lầu đài, nhà kho... Công việc đầu tiên là một hay hai người trong gia đình phụ trách liên lạc với quý Thầy để chọn ngày giờ thích hợp cho việc tẩm liệm, phát tang, di quan và an táng, một mặt liên lạc với Sở Mai táng, để lo mua quan tài, đặt xe tang, nơi an táng... Những người còn lại trong gia đình chia nhau mỗi người mỗi việc, thông báo cho thân nhân ở xa, viết cáo phó gởi báo, đài, quét dọn nhà cửa, bàn thờ Phật, Tổ Tiên, sắm sửa đèn nến, hương hoa, trang hoàng bàn vong để thờ phụng người quá cố. Bàn thờ Phật cần được trần thiết trang nghiêm với một hình hoặc tượng Phật đặt ngay ngắn ở giữa, hai chân đèn, lư hương, đĩa trái cây, bình hoa, hai ly nước trong... Bàn thờ Vong, cũng phải trang hoàng cho đẹp đẽ với cặp chân đèn, đĩa trái cây, bình hoa, ba ly nước, một bài vị gồm có tên tuổi, ngày sinh, ngày mất do Thầy viết. Và đặc biệt là di ảnh của người chết, phải chọn một tấm hình đẹp, rõ ràng của người quá cố để thờ. Tẩm liệm, phát tang, cúng cơm và an táng: Ðến thời điểm thích hợp đã định trước, quý Thầy Cô, ban Hộ Niệm cùng tang quyến và bạn bè thân hữu vân tập trước bàn thờ Phật để tụng Kinh và cầu nguyện cho vong linh người quá cố. Sau khi nắp quan tài đậy lại là lễ Phát tang, còn gọi là lễ Thành phục. Tất cả con cháu đều quỳ ngay thẳng trước linh đài của người mất. Quý Thầy tụng Kinh và sái tịnh vào khăn tang, rồi phát tang cho tang quyến. Mỗi người đều lạy hai lạy và nhận chiếc khăn màu trắng, rồi chít khăn lên đầu và mặc quần áo tang. Theo tục lệ truyền thống, người con gái chỉ đeo khăn tang, quần tang mà không có áo. Người con rể, chỉ quấn khăn tang là đủ. Riêng hàng cháu, chắt, trên khăn tang có đính thêm một miếng vải nhỏ hình tròn màu xanh hay màu đỏ, tùy theo bên nội và bên ngoại. Vợ chồng để tang cho nhau, chỉ cần bịt một khăn tang là đủ. Sau khi lễ phát tang là lễ cúng cơm (tiến linh). Tất cả nên cúng thức ăn chay, cúng nước trà thay vì cúng rượu. Tiếp đó là lễ tụng kinh cầu siêu cho hương linh. Trong tang lễ, phần quan trọng nhất là tụng kinh cầu nguyện cho thần hồn người chết siêu thoát, chứ không phải chú trọng về hình thức cúng kiến, đờn trống, nhạc Tàu, nhạc Tây.... Những hình thức bề ngoài chỉ cốt để làm nở mặt nở mày của tang quyến đối với người ngoài, chứ không ảnh hưởng gì đến thần thức người quá cố. Ðến ngày an táng linh cữu, tang quyến cùng bè bạn thân hữu cùng quý Thầy Cô và ban Hộ niệm tiễn đưa linh cữu đến nơi an táng (địa táng hay hỏa táng tùy theo sự chọn lựa của người quá cố), tất cả nên thành tâm niệm Phật để tiếp dẫn vong linh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau lễ an táng, chủ nhà rước vong linh về nhà hoặc chùa để làm lễ An Sàng, tức là lễ an vị vong linh và di ảnh của người quá cố. Có nhiều người hiểu lầm lễ này gọi là lễ ăn sàng, nên bắt buộc tang quyến phải tổ chức tiệc tùng để được ăn uống. Ðây là một sự thật đáng buồn. Sau lễ An sàng, là cúng tuần thất 7 ngày sau khi qua đời, cúng Bách nhật 100 ngày, cúng Tiểu tường giáp năm 365 ngày, và cúng Ðại tường ba năm xả tang, còn gọi là mãn tang hay mãn khó, tức là đúng 1095 ngày. Rồi từ đó mỗi năm cúng lễ giỗ tưởng niệm, cúng đúng vào ngày mất gọi là Chánh kỵ, trước ngày mất gọi là Tiên Thường. Và nếu gia đình tang quyến có điều kiện nên tổ chức lễ Trai Tăng cúng dường, bố thí, phóng sanh các loài vật, đi lễ Phật và cúng dường mười chùa, để hồi hướng công đức ấy cho vong linh người quá cố, giúp họ tái sinh vào cõi giới an lành. Tóm lại theo giáo lý nhà Phật, chết chưa phải là hết mà còn nhiều vấn đề khác nữa, nếu người quá cố chưa giác ngộ giải thoát, chưa giải quyết được vấn đề sinh tử ngay trong kiếp sống hiện tại này, thì còn vô số đời sống khác đang đợi chờ họ ở phía sau. Thích Nguyên Tạng nguồn tuvilyso.net
  10. GIÁNG SINH HẠNH PHÚC ẤM ÁP AN LÀNH đến với tất cả Thành viên và Ban Quản Trị
  11. Chuyện này có thật ? nhưng chưa ai tận mắt thấy bao giờ !
  12. Bạn cứ xem thôi, đến tuổi có lằn ngang rồi nghiệm. hoặc để trong bộ nhớ mà xem người đối diện.
  13. Các bà mẹ của chúng ta, người thì nuông chiều, vỗ về con cái, người khác lại khó tính, nghiêm khắc. Những tính cách đó cũng một phần bị ảnh hưởng bởi cung hoàng đạo. Hãy hiểu rõ hơn về mẹ của mình qua ngày sinh của bà. Dương cưu (20/3 - 18/4): Hầu hết các bà mẹ có con tham gia trận đấu bóng thường ngồi ngay ngắn trên hàng ghế, tay phe phẩy quạt, nhưng bà mẹ Dương cưu thì không thế. Bạn sẽ thấy mẹ Dương cưu nhảy chồm chồm trên sân trong bộ đồng phục của đội bóng. Bà sẽ là người hò hét to nhất và khoẻ nhất, và tất cả là để cổ vũ cho bạn. Kim ngưu (19/4 - 19/5): Lúc vui hay lúc buồn, người mẹ Kim ngưu của bạn cũng luôn ở bên bạn. Cho dù bạn thế nào, hãy yên tâm rằng bà mẹ Kim ngưu luôn hậu thuẫn cho bạn. Bà sẽ ở đó để bạn dựa vào, chia sẻ và khóc lóc. Bà là một người lắng nghe tuyệt vời và luôn thật lòng trong lời nói. Song sinh (20/5 - 20/6): Khi bạn cần một người bạn để chuyện trò, hãy yên tâm rằng bà mẹ Song sinh luôn sẵn sàng đáp ứng. Bà sẽ cho bạn những lời khuyên trung thực, thẳng thắn và hữu ích. Thậm chí khi bà đang làm một việc quan trọng bà cũng bỏ mắc đấy để đến với bạn và hàn gắn vết thương cho bạn. Rồi bà lại trở về với công việc của mình. Cự giải (21/6 - 21/7): Cự giải là mẹ của tất cả bà mẹ. Không bà mẹ nào lại cưng chiều, yêu thương, thấu hiểu và ấm áp hơn người mẹ này. Ở trong vòng tay của mẹ Cự giải cũng giống như cuộn mình trong một cái chăn ấm áp trước lò sưởi. Mặc dù họ cũng có tâm trạng thất thường, nhưng họ vẫn là những người mẹ tốt nhất. Sư tử (22/7 - 21/: Bà mẹ Sư tử không chỉ khuyến khích bạn vui chơi mà còn nhảy vào cuộc chơi cùng bạn. Hãy nhớ rằng mẹ Sư tử là hoá thân của những thú vui nên nếu bạn muốn kiếm một ai đó để xoá tan mây mù và đem lại ánh sáng thì hãy gọi cho mẹ Sư tử. Ánh nắng sẽ chiếu từ trái tim Sư tử tới bạn. Xử nữ (22/8 - 22/9): Khi người mẹ Xử nữ chuẩn bị hộp cơm trưa cho bạn, họ sẽ không quên chiếc thìa, khăn giấy và cả bữa ăn nhẹ cho chiều muộn. Họ không muốn gì hơn là bạn được hạnh phúc, khoẻ mạnh và sẽ đi đến tận cùng trái đất để được thấy bạn như vậy. Hãy nhớ gọi điện cho mẹ nếu bạn về muộn, nếu không họ sẽ phát ốm vì lo lắng. Thiên bình (23/9 - 22/10): Người mẹ Thiên bình của bạn có rất nhiều báu vật trong chiếc tủ của mình, nhưng bạn là món quà quý giá nhất. Bà sẽ nâng niu bạn như nâng niu kho báu của mình. Bà sẽ dạy cho bạn những bí ẩn của thế giới qua vẻ đẹp, sự duyên dáng, lịch thiệp và phong cách của chính mình. Bọ cạp (23/10 - 21/11): Không đâu trên thế giới bạn có thể tìm thấy một người phục vụ trung thành hơn mẹ Bọ cạp của bạn. Bà trung thực, đáng tin cậy và không ngần ngại nói thẳng sự thật. Đôi khi bạn có thể cảm thấy bà can thiệp quá sâu vào cuộc sống riêng tư, nhưng đó chỉ là bởi bà quan tâm tới bạn hơn bất cứ thứ gì trên đời. Nhân mã (22/11 - 20/12): Bà mẹ Nhân mã là người cổ vũ lớn nhất của bạn. Bà sẽ luôn dõi theo từng bước đi của bạn, khuyến khích bạn trở thành bất cứ thứ gì bạn muốn. Bà tin tưởng hoàn toàn vào sự giáo dục nên hãy không ngừng nâng cao mức điểm của mình trong học bạ. Nam dương (21/12 - 18/1): Nhiều khi bạn cảm thấy mẹ Nam dương của mình suốt ngày chỉ biết chỉ trích bạn, nhưng đừng suy nghĩ quá nhiều về điều đó, đấy là cách bà làm với tất cả mọi người. Ngoài ra, bà làm như vậy là vì bà yêu bạn và muốn những điều tốt nhất cho bạn. Bà sẽ làm mọi thứ có thể để biết chắc rằng bạn có mọi thứ bạn muốn và còn hơn thế nữa. Bảo bình (19/1 - 17/2): Bà mẹ hoang dã, lập dị, ngông cuồng của bạn sẽ khuyến khích bạn là chính mình và thể hiện ra ngoài con người độc đáo đó. Bà sẽ không bao giờ gò ép hay cố gắng kìm kẹp bạn, vì thế hãy tận hưởng sự tự do mà bạn có từ người mẹ độc đáo này. Sẽ không bao giờ nhàm chán khi hai mẹ con ở bên nhau. Song ngư (18/2 - 19/3): Người mẹ Song ngư của bạn là một vị thánh. Hãy đối xử với bà bằng sự tôn trọng và bà sẽ đem đến cả thế giới cho bạn. Bà rất nồng hậu, hiểu thông và luôn ủng hộ bạn. Bạn có thể kể cho bà bất cứ thứ gì, vì vậy đừng giữ mãi bí mật to lớn của mình. Nếu ai đó có thể hiểu thì đó chính là bà. Bạn có một người mẹ rất đặc biệt đấy. M.T. (theo MSN)
  14. Wild không có địa chỉ để cung cấp cho bạn, nhưng có biết một ngôi chùa ở Quận Bình Thạnh có điều kiện để 2 mẹ con tá túc.(Wild đã đến và biết đường) Chờ Wild liên hệ lại với Sư Thầy và thông báo sau.
  15. Khi sở đoản và bệnh tật là... điều may mắn 21/12/2008 08:48 (GMT + 7) Bệnh tật, sở đoản không hẳn là những bất hạnh khó gánh đỡ trong cuộc đời con người, bởi khi gặp phải những điều không đáng mong đợi ấy, con người sẽ biết điều chỉnh và sắp đặt lại cuộc sống của mình một cách hợp lý hơn. - Konosuke Matsushita chia sẻ trong cuốn sách Mạn đàm nhân sinh SỞ TRƯỜNG VÀ SỞ ĐOẢN Có những điều nghĩ là bất lợi cho mình thì có lúc lại trở thành lợi thế, cũng có những điều nghĩ là lợi thế thì lại là bất lợi. Cuộc đời thật thú vị! Nhất bệnh trường mệnh Từ nhỏ cơ thể tôi đã yếu ớt. Mùa hè năm 20 tuổi, có lần tôi ra bãi biển Hamadera chơi. Trên tàu đi về, không hiểu sao tôi thấy tức tức ở ngực và ho ra đờm có lẫn máu. Tôi có tám anh chị em, nhưng khi đó sáu người đã mất, chỉ còn lại tôi và một người chị. Anh trai trên tôi và anh kế tiếp đã mất vì viêm phổi, nên tôi cũng lo mình bị như vậy. Bác sĩ khuyên tôi: “Cậu về quê ít hôm mà an dưỡng đi. Mới chỉ bị nhẹ thôi, không phải lo lắng gì cả”. Thế nhưng, tôi đâu có nhà để mà về? Cha mẹ tôi đã mất, ở quê lại không có ai gọi là họ hàng thân thích. Bởi vậy, tôi đành phải tự an ủi mình: “Đây là số phận của mình, không còn cách nào khác. Mình phải lựa mà làm việc và nghỉ ngơi thôi. Nếu thế mà vẫn không được thì đành chịu vậy”. Lúc đó tôi không có tiền tiết kiệm, lại là thời chỉ làm công nhật, nên nghỉ ngày nào là túng bấn ngày đó. Bởi vậy, trong vòng hơn một năm tôi cứ đi làm và cả tuần chỉ nghỉ một ngày. May thay, bệnh không nặng thêm, nhưng không thể trị được tận gốc. Tôi dễ bị cảm, mà đã cảm thì lại kéo theo sốt. Một năm tôi phải nằm liệt ở nhà mấy lần. Tình hình này lặp đi lặp lại cho đến mãi năm tôi 50 tuổi. Trong tình cảnh đó, không biết từ lúc nào tôi đã nghĩ, mình sinh ra vốn yếu ớt, nên không phải cố gắng quá sức để trở thành một người cường tráng, mà cứ giữ gìn thân thể yếu ớt một cách tự nhiên như vậy. Thế là tôi không sợ bệnh tật nữa, mà luôn có ý sống chung với chúng. Bằng lối suy nghĩ đó, tôi đã sống được đến hôm nay. Người ta nói: Nhất bệnh trường mệnh, trường hợp của tôi đúng là như vậy đấy. Tác dụng của sức lực và trí tuệ Thông qua kinh nghiệm nhiều năm làm việc với các cửa hàng và công ty là những khách hàng hay mối cung cấp hàng quen, tôi có để ý quan sát các giám đốc công ty và chủ cửa hàng. Ngoài sự tưởng tượng của tôi, không hẳn những người tuyệt vời, vừa có tri thức, vừa có tay nghề cao mà người ta gọi là người nói cũng giỏi, làm cũng hay thì sẽ thành công. Những người không có gì đặc biệt, nhìn thoáng qua tưởng là bình thường lại lập được nhiều nghiệp tích. Tất nhiên, không phải tất cả đều như vậy, nhưng tôi thấy đó là điều rất thú vị. Điều này có thể là do những người có tri thức cao siêu và tay nghề hoàn hảo thường có xu hướng tự mình làm tất cả. Họ cho rằng mình biết tất cả và nghĩ: “Việc ấy mình biết thừa!” và không lắng nghe cấp dưới. Nhiều người cấp dưới thấy khó chịu, nên không tham gia ý kiến nữa. Do đó sẽ không tập trung được trí tuệ của mọi người. Hơn nữa, họ cho là mình giỏi giang, nên lúc nào cũng thấy việc cấp dưới làm chưa được, tự mình làm sẽ nhanh hơn, nên không giao việc cho ai. Chẳng hạn nếu có giao việc thì họ cũng sẽ lại lời ra lời vào. Mà như vậy sẽ làm cho những người cấp dưới mất hứng thú làm việc. Tôi nghĩ, dù là một người siêu việt đến đâu thì trí tuệ của một người, sức lực của một người cũng chỉ có giới hạn, không thể bằng trí tuệ và sức lực của nhiều người hợp lại. Bởi vậy, dù trí tuệ và sức lực cao siêu bao nhiêu đi chăng nữa, cũng không nên kể cả. Cũng may tôi không tài cán gì, chỉ có lòng nhiệt tình mà thôi. SỨC KHỎE VÀ BỆNH TẬT Sức khỏe là thứ không có gì sánh bằng, có thể coi như ngọc quý. Nhưng chẳng may sức khỏe không tốt thì cũng đừng vội bi quan. Bởi vì, dù phải khổ sở với bệnh tật, thì đó là những kinh nghiệm quý báu để hiểu về sự bao la và thẳm sâu của cuộc đời. Đó cũng là vận mệnh Năm 20 tuổi, khi làm ở công ty sản xuất bóng đèn tôi đã bị viêm phổi. Bác sĩ mới bảo: “Cậu nên nghỉ làm chừng nửa năm về quê mà tĩnh dưỡng!”. Nhưng lúc đó cha mẹ đã mất, tôi không còn nhà để về nữa. Hơn nữa, tôi lại làm công nhật và ở trọ. Hồi đó không có chế độ bảo hiểm như bây giờ, nên nếu nghỉ làm là thực sự sẽ rơi vào tình trạng túng bấn đến không có cả cơm ăn. Không còn cách nào khác, tôi đành phải làm ba ngày thì lại nghỉ một ngày, nghỉ hai ngày thì làm năm ngày liên tục. Lúc đó tôi nghĩ, nếu chết thì chết, đành chịu vì đó đã là vận mệnh của mình. Tôi còn tỉnh táo đến mức nghĩ được rằng: “Tôi đã như cá nằm trên thớt, xin mời cứ làm gì tôi thì làm!”. Nghĩa là lúc ấy tôi vẫn giữ được tinh thần khá vững vàng. Không hiểu có phải nhờ như vậy không mà bệnh của tôi không nặng thêm nữa. Thật là kỳ lạ! Sống hết số mệnh trời cho Nguồn: amazonaws.com Nói như vậy, nhưng khi bị ốm cũng có khi tôi nghĩ: “Cứ thế này mình sẽ chết mất!”. Có thể vì khi đó tôi vẫn còn trẻ. Nhưng khi bắt đầu ra làm riêng, tôi cũng quên cả điều đó. Một phần là do bệnh không nặng thêm nữa. Mặt khác, tự nhiên tôi có ý nghĩ mình không thể chết dễ dàng như vậy được, chắc thế nào cũng phải sống được đến hết số phận của mình. Bởi thế tôi không còn phải trằn trọc với việc sinh tử của mình nữa. Bệnh tật thường không thể khỏi hẳn được, nên tôi phải vừa ôm bệnh mà sống. Người tôi gầy gò, mặt mũi lại xanh xao. Khi cố gắng quá sức thế nào cũng sẽ lên cơn ho. Bởi vậy, tôi cứ phải khổ sở với bệnh tật như vậy cho đến năm 50 tuổi, khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Sau chiến tranh cuộc sống rất khó khăn. Trong xã hội mọi thứ đều nhộn nhạo. Và thế là tôi quyết tâm: “Tình hình này mình phải làm một điều gì đó!”, thì tự dưng người lại béo khỏe hẳn lên. Từ đó, tôi không còn đau ốm nhiều như trước nữa. Cách làm việc của những người thiếu sức khỏe Tôi đã làm việc trong tình trạng sức khỏe không được tốt như vậy, nhưng người yếu ớt sẽ có cách làm ăn thích hợp với họ. Tôi hay ốm nên không thể đứng đầu điều hành công việc kinh doanh. Dù là việc gì tôi cũng nhờ người khác đứng ra thay mặt. Mà như vậy thì mười hay một trăm người cũng đều có thể nhờ cậy và khối lượng công việc làm được sẽ nhiều hơn. Giả sử nếu tôi đứng đầu thì dù sao cũng chỉ có một mình. Mà công việc một người có thể làm được không đáng kể gì. Trong trường hợp của tôi, bệnh tật lại là thứ mang lại không ít điều tốt lành. Và tôi luôn thực hiện đúng theo nguyên tắc này. Bởi vậy, có được như ngày hôm nay có thể nói là nhờ tôi thiếu sức khỏe. Kết thân với bệnh tật Tôi thường nói để khích lệ những bạn trẻ mà sức khỏe không được tốt như thế này: Cậu đừng quá lo lắng đến cơ thể yếu đuối của mình. Cứ làm việc vừa ở mức sức khỏe cho phép là được! Cậu mà làm việc như những người khỏe mạnh vô biên thì không được đâu. Cứ làm chút một chút một, nhưng tỉ mỉ, công phu hơn người khác đi. Cậu sinh ra đã không khỏe mạnh thì hãy cứ nghĩ dù thế cũng chẳng sao đi! Rồi cũng sẽ có những điều tốt lành đến với cậu đấy! Hơn nữa, với người đang đầu hàng bệnh tật tôi cũng bảo thế này: Từ kinh nghiệm của tôi cho thấy chúng ta không được sợ bệnh tật. Chúng ta mà sợ và tránh xa thì bệnh tật sẽ thừa cơ mà đuổi theo. Ta càng làm thân với bệnh tật và chủ động lại gần thì bệnh sẽ càng tránh ra xa. Nếu làm thân được với bệnh tật, cuối cùng chúng sẽ cấp cho ta “Bằng tốt nghiệp” bệnh ấy. Thế nên chúng ta phải tôn trọng bệnh tật! Tôi nói như thế nghĩa là, người yếu ớt cũng không được suốt ngày than vãn rằng mình đau ốm, vì như vậy bệnh sẽ càng nặng thêm. Theo tôi, mọi sự bất hạnh sẽ từ đó mà ra. Nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách chân thực Mỗi ngày vạn vật đều được sinh ra và lớn lên. Đó chính là quang cảnh thực của tự nhiên. Bởi vậy, Bệnh, Lão hay Tử cũng đều sinh ra và phát triển. Nếu nhìn nhận như vậy thì những điều đến ngoài mong đợi của mình cũng sẽ trở nên dễ chấp nhận, kẻ thù nguy hiểm nhất cũng sẽ trở thành người sát cánh với mình. Chuyện gì cũng không nên quá quan trọng hóa lên, mà phải nhìn nhận trong sáng đúng như nó vốn có. Tôi cũng rất muốn kết giao với bệnh tật theo cách đó. (Trích sách Mạn đàm nhân sinh – Tác giả: Matsushita Konosuke, Dịch giả: Phạm Thu Giang, Alphabooks & NXB Hà Nội, 2008)
  16. Những tiếng rao của thời gian....... - Như tình cờ, người viết chỉ ghi lại những tiếng rao của Hà Nội xưa và nay, của quá khứ và hiện tại. Nhưng đọc kỹ, người ta không khỏi giật mình. Đó đâu chỉ là tiếng rao của thân phận người lao động mưu sinh. Đó là tiếng rao của thời cuộc nhiều đổi thay, tiếng rao của …thời gian. Giữa một xã hội bình yên, chậm phát triển với một xã hội đang hối hả vươn lên nhưng đầy phức tạp đến bất ổn. Những tiếng rao…để các nhà quản lý xã hội, xin hãy lắng nghe... Ngày ấy, tôi còn nhỏ tuổi, theo mẹ suốt ngày bán hàng ở một quầy tạp hoá nhỏ trước cửa chợ Đồng Xuân. Mẹ chiều tôi lắm, cho ăn quà vặt suốt ngày. Với mỗi đứa trẻ, không gì sung sướng hơn khi được ăn quà mẹ mua cho. Buổi sáng, những tiếng rao và những người bán quà lần lượt đi qua cửa hàng: - Bánh mỳ nóng ròn đơ..i… Bánh mỳ ngày ấy có riêng loại cho trẻ con. Bánh chỉ nhỏ và dài bằng cái thước kẻ , to bằng quả chuối tiêu nhưng điều đặc biệt là nó giòn tan, dù ăn vào bất cứ lúc nào. Người bán bánh mỳ là những bác trung niên hoặc là các cậu thanh niên 17, 18 tuổi, không hề có phụ nữ đi bán bánh mỳ. Ai không thích ăn loại bánh mỳ này, thì chọn loại bánh mang dáng dấp như bây giờ. Người bán bánh, một tay xách bao tải bánh còn nóng và thơm phức, vai đeo một hòm gỗ từa tựa như cái hòm gỗ của các cậu đánh giầy hiện nay. Trong đó là patê, chả, giò và một cái ống nứa, một đầu có lỗ thủng đựng muối rang trộn lẫn hạt tiêu để rắc vào bánh cho khách.Tuyệt nhiên không có dưa chuột, hành, vài lát cà chua và cả tương ớt như bây giờ. Gánh cốm Vòng - Nguồn ảnh: Blog Uyên Tiếng rao này còn vang rất xa trong những đêm đông khuya khoắt trên những con phố ít ánh đèn, hoặc ở những ga tàu hoả đang chờ khách xuôi ngược như ga Hàng Cỏ hoặc ga đầu cầu Long Biên. Còn có một tiếng rao nữa mà tụi trẻ chúng tôi thoáng nghe thấy là biết ngay, đó là: “Ai ốc mút …Ai ốc mút đây…” Đó là môt thú ăn, gọi là quà cũng được mà gọi là thứ ăn chơi cho khỏi nhạt miệng cũng được. Cô bán hàng nghe có người gọi liền chạy ngay đến, lấy đĩa xúc một đĩa đầy, cài luôn vào đĩa ốc một đồng tiền chinh. Khi ăn, người ta cắm con ốc mút chỉ to bằng nửa cái dăm kèn của kèn đám ma vào cái lỗ vuông ở giữa đông tiền chinh và bẻ mạnh, thế là con ốc cụt phần đuôi. Xong xuôi chỉ việc đưa lên miệng …mút .Thịt ốc dai và giòn, nước trong con ốc ngọt, tẩn mẩn ăn rất thú vị. Bây giờ chẳng thấy ai bán nữa. Chưa hết quà này, lại đã nghe tiếng rao: “Ai đậu tương luộc khô..ng? Ai……”. Món quà cũng lạ.Thật dân dã, giản dị .Cây đậu tương khi lá đã vàng, đến lúc thu hái rồi, người ta nhổ cả cây lên còn nguyên cả gốc rễ, quả chĩu chịt, rửa sạch, rồi đem luộc lên. Khi ăn, người ta chỉ việc tách ra từng hạt. Đậu tương luộc như thế này ăn rất ngọt và bùi, thú lắm. Tiếng rao lại tiếp tiếng rao: - Xôi vò chè đường …nào . - Bánh trôi, bánh chay đây… Mải buôn mải bán chả ai để ý đến thời gian trong năm trôi đi rất nhanh, đến khi nghe tiếng rao: “- Cốm Vòng, cốm Vòng đây…” thì mọi người chợt tỉnh: Thôi, đã sang thu rồi. Cốm Vòng, chuối tiêu trứng cuốc, bưởi rám má hồng, hồng Hạc Trì từ các miền quê đã theo lái buôn về xếp từng sọt đầy ở bến Long Biên. Tiếng rao " Cốm Vòng nào…" len lỏi khắp phố phường, xóm ngõ. Tiếng rao này cũng giống như tiếng rao: “Ai tóc rối đổi kẹo…”. Một đôi quang gánh toòng teng, một bên là nồi kẹo mạch nha, một bên là các vật dụng lặt vặt. Lũ trẻ con chúng tôi nghe thấy tiếng rao vậy là chạy về xin bà nội, xin chị gái gỡ ở trên mái hiên lợp lá gồi hoặc lợp ngói các cuộn tóc rối mà mỗi buổi sáng chải đầu, tóc rụng, bà hoặc chị liền cuốn lại nhét vào đó. Nhận nắm tóc rối, bà bán hàng mở nồi kẹo, lấy một cái que xoắn lấy một ít mạch nha, rồi xoe tròn to bằng quả sấu. Thế là thành một que kẹo mạch nha, trẻ con tha hồ mút dần từng tý một. Những ngày ấy các cửa hàng của Hà Nội thường đóng cửa sớm. Đường phố Hà Nội còn ít ánh đèn, trong ánh sáng lờ mờ của đường phố, chợt tiếng rao: “- Ai phá xa húng lìu nào…Ai phá xa…” có một âm thanh ấm cúng lạ. Tôi đã từng thán phục một ông già Tàu, người Phúc Kiến. Mỗi lần tôi mua lạc rang của ông, với bằng ấy tiền thì ông bốc bằng tay bằng ấy hạt lạc, rồi bỏ vào cái gói giấy cuốn hình sâu kèn, rất gọn. Tôi đã mấy lần đếm thử, lần nào cũng không hơn không kém một hạt lạc. "Bánh trôi, bánh chay đây...!" - Ảnh: VNN, Hoahoctro.vn Các tiếng rao đêm cứ lần lượt cất lên: - Chế mà phù …đây…Đó là một thứ chè đường nấu với vừng đen, ăn rất ngậy. - Lục tào xá…Ai lục tào xá … Lại cũng là chè, nhưng chè này được nấu từ đậu xanh với đường, ăn nóng rất thú vị. - Bánh trôi Tàu …đơi… Cái món này ăn vào những tối mùa đông thì ấm nóng cả người lên vì nó có cả vị gừng thơm nữa. Những món này, người Hoa kiều ở Việt Nam thạo nghề nhất. Cái dáng họ quảy gánh hàng đi bán và tiếng rao của họ đã trở thành một ấn tượng khó phai trong tâm trí chúng tôi, nhất là cái nón đội đầu của họ và cái dáng lầm lũi đi buồn buồn, như gánh trên vai cả số phận nhọc nhằn. Trời về khuya hơn một chút thì lại nghe: “- Ai bánh khúc no..óng nào…” và âm thanh giòn tan của hai thanh tre cật gõ vào nhau: “Sực tắc, sực tắc…” Nghe tiếng rao đó, ai muốn ăn đêm, chỉ cần gọi họ lại. Thế là trong chốt lát, một bát phở hoặc một bát vằn thắn mì nóng hổi đã được mang đến tận nhà. Những tiếng rao hiền hoà, những tiếng rao của quá khứ. * * * Bây giờ thời hiện đại, nhiều tiếng rao làm người ta sửng sốt. Bạn đã nghe tiếng rao này chưa? - Chuột đồng, chuột cống, chuột chù, ăn vào gật gù một tý chết ngay. Chuột Tây, chuột ta, chuột Bồ Đào Nha, chuột Nga, chuột Pháp, chuột Tuy Ni Di, chuột Thổ Nhĩ Kì, chuột gỉ chuột gì, chuột gì cũng chết …Thuốc bả chuột đơ..i. Hoặc: - Ai mà chẳng có đôi tai. Mẹ ơi con muốn có hai cái vòng. Bao ngày con đợi con mong. Giờ đây con đã có vòng đeo tai… Bấm máy lỗ tai nào… Bấm máy… Có những kiểu rao báo ghê rợn... - Ảnh: ketnoi.com Rồi tiếng rao: - Quạt điện, quạt trần, ăm-li, biến thế Lioa, đài điện, đài pin, máy bơm, lò nướng, đồ hỏng vứt đi, giữ để làm gì …Bán ngay đi…Nào….ai… Rồi lại: - Cóc cụ, cóc ông, cóc bà, cóc con, cóc cháu làm ruốc trẻ con đ..i. Lại còn kiểu rao báo ghê rợn: - Cháu gái xiết cổ bà ngoại lấy ba chục đồng theo trai đi bụi. Giết người chặt làm ba khúc nhét vào tủ lạnh, công an phá án chỉ trong có ba ngày… Báo A , báo B, báo G, báo P…đơ..i. Lời rao trên còn được phóng thanh qua hệ thống ămpli chạy pin. Nó cứ hét vào tai mọi người trên đường phố, vọng tận ngõ hẻm… Khiếp quá. Nguyen Viet Binh ( Vietnamnet)
  17. Đi tìm vẻ đẹp ca trù (Phần I) Thứ ba, 18/11/2008, 07:00 GMT+7 Truyền thuyết tổ ca trù và những đền thờ Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời. Trong đó, các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn, chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca trù thành đôi lứa ... Ngoài ra, rất nhiều câu chuyện được lưu truyền và lan tỏa tạo cho nghệ thuật ca trù nhuốm thêm màu huyền bí... Điệu múa cổ - tranh của Nguyễn Tư Nghiêm Câu chuyện lưu truyền như sau: Vào đời Lê, Đinh Lễ, tự Nguyên Sinh, người làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, tính tình phóng khoáng. Một hôm, Nguyên Sinh đem đàn nguyệt và rượu vào rừng thông để tiêu khiển, gặp được hai ông cụ già. Đó chính là hai tiên ông Lý Thiết Quài và Lã Động Tân. Hai tiên ông đưa cho chàng khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu đàn và dặn đóng đàn theo kiểu mẫu như trong giấy. Tiếng đàn ấy sẽ trừ được ma quỷ, giải được phiền muộn. Nguyên Sinh y theo lời. Nhờ tiếng đàn kỳ diệu, chàng chữa được bệnh cho rất nhiều người. Một lần, Nguyên Sinh đến châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, chàng đã chữa bệnh cho người con gái tên Hoa, con của vị Quan châu Bạch Đình Sa khỏi bệnh câm. Sau Nguyên Sinh và Bạch Hoa nên vợ nên chồng, sống cùng nhau rất hòa hợp tương đắc ở bên nhà Bạch công. Nguyên Sinh đã đặt ra lối múa hát mới, rồi lấy hai thanh tre vót thực đẹp để cho nàng gõ lên trên mảnh gỗ theo với nhịp đàn mà hát. Sau hai vợ chồng từ biệt ông bà nhạc dẫn nhau về quê Nguyên Sinh ở Cổ Đạm để lập nghiệp. Ít lâu sau, chàng gặp lại các vị tiên ông và được ghi tên tuổi vào tiên phả rồi cùng nhau hóa. Vợ Nguyên Sinh biết chuyện, bèn phát tán hết gia tài rồi đóng cửa dạy cho đám con em trong làng hát múa. Sau nàng bệnh mà chết. Dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn lập đền thờ, gọi là đền Tổ Cô đầu, hay là đền bà Bạch Hoa Công chúa. Trải các triều đều phong tặng Đinh Lễ là Thanh Xà Đại vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa Công chúa Nhiều nơi có giáo phường ca trù trong khắp châu thổ bắc bộ có đền thờ tổ ca trù. Trong đó gần kề Thăng Long - Hà Nội nhất phải kể đến làng Lỗ Khê thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội. Làng có đình chùa riêng. Trong làng còn có một đền thờ tổ ca trù, mà dân địa phương gọi là đình ca công. Đình ca công xây dựng từ bao giờ không rõ. Về mặt kiến trúc, quy mô hiện nay gồm 5 gian, kiến trúc như nhà ở dân dụng bình thường. Đình còn giữ được một bức hoành phi Sinh từ tự điển (Thờ phụng và dựng đền lúc còn sống) và bức phù điêu các vị tổ ca trù. Bản gốc của thần tích tổ ca trù cũng còn lưu tại đình ca công. Ngày nay, hàng năm vào dịp ngày 6 tháng 4 (Ngày sinh của Đinh Lễ) hoặc ngày 13 tháng 11 (ngày hóa của Đinh Lễ), những nghệ sỹ ca trù ở Hà Nội và các vùng lân cận vẫn thường về “chốn tổ” Lỗ Khê để tỏ lòng sùng phụng và gặp gỡ bạn nghề. Năm 1984, Trung tâm Nghe Nhìn (nay là Hãng Phim truyền hình Việt Nam) đã tổ chức làm phim “Hát cửa đình” tại Lỗ Khê. Đây cũng là dịp tập trung nhiều nhất các danh ca, danh cầm nổi tiếng trong giới ca trù như: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó Đình Kỳ, Đinh Khắc Ban, Phó Thị Kim Đức, Phạm Thị Mùi... Vùng ven đô Thăng Long cũng còn một làng quê còn giữ được đền ca công. Đó là Phú Đô là một làng thuộc xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Tại đây cũng có một đền Ca công ở xóm 1. Đền có ba chữ Ca công từ xác nhận tên gọi của đền. Trong đền có một sắc phong có nội dung: Sắc cho Mãn Đường Hoa Phương Phi Chân Thực Từ Hoà Công chúa và Thanh Xà Thuận Bình Hưng Linh Thông Tuy Hưu Tích Hỗ Đại vương. Niên đại của sắc là năm Chiêu Thống 1 (1787). Sắc này cũng chỉ là một bản sao, vì trên sắc không thấy có dấu ấn triện. Thần tích hiện còn giữ cũng là một bản sao, trên giấy sắc, nội dung cũng không có gì khác thần tích Lỗ Khê. Tượng các vị tổ ca trù ở đền thờ tổ giáo phường Phượng Cách, Hà Tây Làng Phượng Cách, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũng là một nơi có di tích đền thờ tổ. Phượng Cách là tên làng cũng đồng thời là một xã, thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Trong lịch sử nơi đây là một vùng rất thịnh của ca trù. Ở trong khu nhà thờ họ Nguyễn Thế (do ông Nguyễn Thế Mạnh trông nom) có một gian điện thờ đức tổ ca trù với hai pho tượng tròn rất đẹp. Theo các vị cao tuổi trong dòng họ thì đây là nơi các giáo phường lớn nhỏ trong huyện Quốc Oai về dâng hương lễ tổ hàng năm. Phượng Cách cũng là quê hương của ông Tự So và bà Đào Nhu - một đào nương nổi tiếng đã từng chống Pháp. Gần đây nhất, dòng họ có Kép Tư Châu và cô Đào Phê (thường gọi là Bà Hương Phê), những danh ca, danh cầm ở ấp Thái Hà, Hà Nội trước 1945.Nhắc đến các đền ca công, các nhà thờ tổ ca trù không thể không nhắc đến lễ tế tổ - một sinh hoạt quan trọng của các giáo phường, vừa mang ý nghĩa tâm linh là kính tổ, vừa là dịp để các đào nương già trình diễn các kỹ thuật cao siêu của nghệ thuật hát, như một sự báo cáo trước tổ rằng nghề của tổ truyền lại vẫn được giữ gìn, trau chuốt. Đây cũng là dịp để các giáo phường hiểu biết nhau thêm trong tình cảm đồng nghiệp. Vào ngày 13 tháng 11, các Giáo phường làm lễ tế tổ. Trước đó hàng tháng những giáo phường trong hai ba huyện họp lại chọn một người nhiều tuổi từng trải, đứng lên làm Trùm nhất để điều hành công việc. Ông Trùm nhất gửi giấy cho các phường biết nơi tế, vì ít phường có đền thờ tổ riêng biệt nên khi tế họ chọn một nhà nào rộng rãi ở trong phường, hoặc mượn đình sở của làng lân cận. Những phường ở xa góp tiền, còn phường sở tại lo sắm lễ vật và chuẩn bị đón tiếp khách khứa. Khi giáo phường tế tổ cũng cử hành nghi thức như lễ tế thần. Các phường đều tuyển những đào hay kép giỏi tới múa hát. Hát thờ tổ khác lối hát cửa đình ở chỗ có hai khúc hát Non mai, Hồng hạnh. Các nhà nghiên cứu trước đây cho biết khúc hát Non mai đã thất truyền. Nay chúng tôi đã tìm kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm được 2 văn bản chép hai khúc Non mai và Hồng hạnh. Đó là Ca trù thể cách (AB.564) và Ca trù tạp lục (VHv.2940). Non mai là lấy hai chữ đầu tiên trong khúc hát thờ tổ để đặt tên cho cả khúc hát. Theo Ca trù thể cách (AB.564) thì bài thơ có 4 đoạn, mỗi đoạn có một ý nghĩa riêng, lần lượt 3 đoạn đầu tả vẻ đẹp và ca ngợi “đức” của mai, trúc, tùng có tiết tháo của bậc quân tử đem tài cao chí lớn, giúp nước giúp vua; đoạn cuối cùng là mấy câu ca mừng làng và chúc phúc “tứ dân”. Bài thơ này gián tiếp có nội dung ca ngợi vị tổ ca trù là bậc quân tử thanh cao, đem tài giúp nước. Đoạn cuối cùng trong bài thơ chúc mừng dân làng được vinh hoa sang giầu; Sĩ thì chiếm bảng vàng khôi khoa, Nông thì thóc lúa đầy nhà, Công thì ngày càng thêm khéo léo, Thương thì thu nhiều vàng bạc. Tương truyền chính bà Bạch Hoa Công chúa đã làm ra hai khúc Non mai, Hồng hạnh nên ả đào chỉ dành khi hát thờ bà mới hát, ngoài ra không bao giờ hát khúc ấy ở đền miếu khác và cũng không dám hát cho ai nghe. Chính vì thế mà việc thất truyền càng dễ. Ngay cả Nghệ sỹ Nhân dân Quách Thị Hồ cũng không được mẹ dạy cho hai khúc Non mai và Hồng hạnh. Các nghệ nhân, nghệ sỹ ca trù hiện nay còn sống cũng không ai biết hát hai khúc hát này. Trong quá trình lần tìm về hai điệu hát cổ trong lễ tế tổ ca trù tôi được biết, vào khoảng thập kỷ 50 của thế kỷ XX các chuyên gia âm nhạc của Liên Xô đã ghi âm được hai khúc Non mai, Hồng hạnh do bà Châu Doanh Đinh Thị Hảo trình bày. Để ghi âm được 2 bài này, các chuyên gia âm nhạc đã tổ chức một lễ tế tổ, và rất tự nhiên, bà Châu Doanh tay cầm lá phách đã thành kính dâng trước điện thờ hai khúc hát thờ. Đây là tư liệu duy nhất về hai điệu hát thờ Non mai, Hồng hạnh. Tuy nhiên, do kỹ thuật thu âm lúc đó chưa tốt, phương tiện bảo quản chưa hiện đại nên băng ghi âm nghe không rõ lời. Nếu không kết hợp với các lời ghi trong sách cổ thì không thể học hát được bài hát này. Được biết, có một nữ nghệ sỹ ca trù con nhà nòi đã tập hát bài Non mai từ 6 năm nay, qua cuốn băng sao lại từ kho lưu trữ. Mong sao một ngày kia (có thể là đúng vào dịp UNESCO công nhận ca trù là Kiệt tác văn hóa của nhân loại) thì khúc hát này lại vang lên trong một dịp tế tổ ở Lỗ Khê, để tưởng nhớ đến các vị tổ đã đem khúc nhạc ca trù từ nơi tiên giới xuống giữa trần gian … Nguyễn Xuân Diện Nguồn vietimes
  18. Đi tìm vẻ đẹp ca trù (Phần 6) Phát hiện mới: Hát Ca trù trong đón tiếp ngoại giao Thứ sáu, 19/12/2008, 07:00 GMT+7 Một văn bia quan trọng vừa được phát hiện tại kho bản rập của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đó chính là văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký được soạn vào niên hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734, ghi nhận một sự kiện đặc biệt: dùng ca trù trong đón tiếp ngoại giao. Đây là một thông tin hiếm hoi và duy nhất về chuyện giới thiệu âm nhạc ca trù của nước ta với bên ngoài. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nước ta được giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia. Theo sự ghi nhận của thư tịch cổ, ca trù được tổ chức như sau: Hát thờ: hát thờ tổ (còn gọi là tế tiên sư, có 9 làn điệu chuyên dùng); hát thờ thành hoàng trong các đình làng, hát thờ thần trong các đền miếu. Hát chơi: Hát khao trong các tư gia (mừng nhậm chức, sinh con trai, khánh thành nhà, đám cưới), hát chơi trong dinh thự. Hát thi: Hát thi tại các làng quê (thi giữa các giáo phường để chọn người hát giỏi). Hát chơi trong các dịp đặc biệt: Hát chúc hỗ mừng thọ vua, hát trong nghi lễ đón tiếp sứ giả nước ngoài. Trong bài này chỉ xin nêu 3 trường hợp là hát ca trù trong đón tiếp ngoại giao, trong Thánh lễ của công giáo và trong hát thi.Hát ca trù trong đón tiếp ngoại giao Giáo phường ca trù không những biểu diễn phục vụ trong các lễ hội dân gian ở các làng xã mà còn vượt ra khỏi địa phương để tham gia vào các nghi thức tiếp khách của nhà nước. Đây là một vấn đề chưa đề cập tới trong bất kỳ tài liệu nghiên cứu nào trước đây. Văn bia Bản huyện Giáo phường lập đoan bi ký, soạn năm 1734, chứng tích về việc dùng ca trù trong đón tiếp ngoại giao. - Ảnh: tư liệu Tài liệu mà chúng tôi phát hiện được là văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký , bản rập mang số ký hiệu 15639 - 15640, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tấm bia này hiện để tại đình xã Đức Lạp, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Bia được tạo vào niên hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734. Tấm bia gồm 2 mặt, khổ 60 x 43 cm, có 40 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 31 chữ. Trán bia có chạm mặt trời và mây. Diềm bia không hoa văn. Nội dung: Ông trùm giáo phường xã An Thanh, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đái là Khổng Đắc Toàn và vợ là Nguyễn Thị Đề cùng các con và gia tộc đã được bản huyện đã chia cho giữ cửa đình Đức Lạp, tổng Yên Xá. Nay vâng lệnh quan phủ cử gấp về kinh để nghinh đón sứ giả, nhưng vì thiếu tiền để chi phí nên bán lại quyền lợi được hưởng ở cửa đình này cho quan viên xã Đức Lạp cùng huyện lấy 85 quan tiền sử để chi dùng. Có kê ra các lễ tiết và quyền lợi được hưởng cùng bản giao ước giữa hai bên. Đây là một thông tin hiếm hoi về chuyện giới thiệu âm nhạc của nước ta với bên ngoài. Ngoài văn bia này, chúng tôi chưa gặp một tài liệu nào khác cho các thông tin tương tự. Thông tin này cho thấy các giáo phường trong dân gian đã được góp phần tham gia vào các hoạt động lễ tiết của nhà nước. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật ca trù vào thế kỷ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nước ta được giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia. Hát ca trù trong Thánh lễ Thiên chúa giáo Trong quá trình điền dã nghiên cứu, Gs. Nguyễn Hồng Dương (Viện Nghiên cứu Tôn giáo) ghi chép được một số bài thơ thể hát nói (ca trù) trong thánh lễ nhà thờ công giáo ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tiếc rằng chung ta không biết là các bài thơ này được hát lên như thế nào, và khi tấu các bài thơ này lên thì có dùng nhạc đàn đáy và cỗ phách ca trù hay không. Được biết, đây chính là vùng đất mà Nguyễn Công Trứ được cử đến làm Dinh điền sứ, trông coi việc khẩn hoang ở đây và lập nên các làng mạc. Có thể, vì Hy Văn Nguyễn Công Trứ là một tài tử, ham mê đàn hát ả đào mà ảnh hưởng đến cả một vùng này khỉến cho việc phụng thờ, kính chúa cũng ít nhiều tiếp thu nghệ thuật ca trù vào sinh hoạt của người công giáo. Đây là một hiện tượng hy hữu trong nghiên cứu về ca trù cũng như ảnh hưởng của sinh hoạt ca trù trong xã hội. Một cuộc hát thi Theo thư tịch cổ, kết hợp với sự khảo cứu của các học giả đi trước, và tham khảo các nghệ nhân ca trù, chúng tôi thấy có các trường hợp thi trong hát ca trù như sau: Thứ nhất: Thi giữa các giáo phường với nhau để chọn đào kép hay nhất vào hát thờ ở cửa đình, phục vụ lễ hội địa phương (cuộc thi do Hội đồng chức sắc địa phương tổ chức); Thứ hai: Cuộc thi do Ty giáo phường tổ chức để chọn lấy đào kép hay để phục vụ hát chúc hỗ trong các khánh tiết của nhà nước; Thứ ba là cuộc sát hạch do giáo phường tổ chức để công nhận người đào nương đã đạt đến trình độ được phép hành nghề (gọi là lễ mở xiêm áo). Về cuộc thi thứ nhất, chỉ thực hiện ở những làng giàu có về kinh tế, hoặc chỉ tổ chức vào những năm đặc biệt như làng được triều đình ban thưởng hoặc làng có người đỗ đạt cao. Thể lệ thi hát được thể hiện dưới các bản thông báo treo tại đình khi làng tổ chức thi hát. Dưới đây xin giới thiệu về thể lệ thi hát, được chép trong sách Quang Liệt xã Văn Hội điều lệ (A.995/1-2). Thể lệ này được thể hiện dưới các bản yết thị, thông báo treo tại đình Quang Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, khi làng tổ chức thi hát. Bảng thông báo có nội dung như sau: Ngày, tháng, năm, niên hiệu, các quan viên sắc mục... của bản xã, kê ra thể thức ở dưới đây: Báo cho giáo phường bản huyện cùng các giáo phường ở các phủ, xứ được biết: ngày...tháng...năm nay, bản xã theo lệ, có mở tiệc cầu phúc, xướng ca thờ thần. Bản xã theo lệ có mở cuộc thi nghề ca hát. Khi thông báo, các giáo phường sẽ đợi ở đình ngoài. Mỗi ngày, nếu là trong huyện thì đào nương và quản giáp một đôi, nếu là các phủ, xứ khác thì hai đôi. Tất cả đều vào thi. Tôn trọng theo phép tắc, không được tranh giành. Đợi đến ngày ra bảng, ai trúng thì có tên yết trên bảng, ngay hôm đó vào hát nhận giữ thẻ. Nếu ai không trúng, không có trong bảng, sẽ nhận tiền phấn sáp, mỗi đôi 3 mạch 30 văn cổ tiền và không được vào hát nữa để phép thi được nghiêm. Đoàn vũ công ca trù. Ảnh do Hocquard chụp năm 1884 Ngày vào thi, thông báo về thể thức như sau: Năm...tháng...ngày... các quan viên, sắc mục bản xã, bản tổng, kê ra đây các thể thức như sau:Báo cho giáo phường bản huyện cùng các giáo phường trong các phủ, xứ được biết. Hễ bản xã vào tiệc cầu phúc, hát xướng thờ thần, có lệ thi hát. Khi biết thông báo này, đào nương quản giáp xếp lượt rất đông, nên phải theo thứ tự vào thi. Khi biết ngày thi, cứ mỗi ngày 5 đôi cho vào thi. Nam thi thơ, nữ thi phú, mỗi người vài câu. Ngay ngày hôm đó treo bảng ghi tên người đỗ. Người nào trúng sẽ vào thi tiếp. Người nào không trúng, phát cho tiền trầu cau, mỗi đôi cổ tiền 1 mạch 20 văn, và không được vào thi nữa. Việc thi hát và thi kỹ thuật trình diễn gồm 3 vòng thi trong đó vòng 1 gồm 22 điệu; vòng 2 gồm 11 điệu; vòng 3 gồm 21 điệu. Ca trù cách thức mục lục (VNv.160, thư viện Hán Nôm) giới thiệu các điệu hát trong 3 vòng thi với thứ tự như sau: Vòng 1 gồm: Giáo cổ (giáo trống), Thư cách, Hát nam, Thư phòng, Hát giai, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Hà nam, Độc phú, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Cung bắc, Dồn đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Bỏ bộ, Dồn dựng. Vòng 2 gồm: Rung trống, Chạy đuổi, Hát giai, Hát tầng, Ngâm hát gái, Hát nam, Hát truyện, Hát mưỡu, Hát nói, Dựng, Huỳnh. Vòng 3 gồm: Giáo cổ, Thư cách, hát giai, Thư phòng, Tiến chức, Thăng quan, Nhạc hương, Thét nhạc, Ngâm vọng, Bắc phản, Hát mưỡu, Hát nói, Dồn cung nam, Gửi thư, Đại thạch, Hãm, Dựng, Huỳnh, Nói dồn, Gióng chinh phu, Biếm gái. Những người thi đỗ sẽ được hát chính thức trước điện thờ, còn những người không trúng đều được làng phát tiền phấn sáp hoặc tiền trầu cau để vui vẻ ra về. Xem thế đủ biết lệ thi hát ở những làng xã ngày xưa là một dịp so tài sắc vui vẻ thu hút sự tham gia của đông đảo các giáo phường xa gần. Ai hay hát mà ai hay nghe hát Có lẽ trong các lối hát và ngâm vịnh cổ truyền Việt Nam hiếm có một lối hát nào lại xâm nhập sâu rộng hầu hết các sinh hoạt văn hóa tinh thần như là lối hát ca trù. Có thể nói, nghệ thuật ca trù trải mấy trăm năm, cả Thần và Người đều chuộng. Ở nơi đình miếu, đền đài thâm nghiêm các vị thần thánh nghe hát trong hương trầm đượm tỏa, trong sự sùng phụng của con dân. Trước khi dâng lên các vị thần thì các chức sắc địa phương cũng đã nghiêm trang thẩm định để chọn ra những đào hay kép giỏi, để những đào kép giởi nhất dâng thần khúc hát tuyệt kỹ. Nơi giáo đường thênh thang uy nghiêm, Đức Chúa cũng nghe những lời xưng tụng của con chiên thành kính. Và trong dân gian, mỗi khi khao vọng, cho dù là khao thọ, khao thi đỗ, khao được thăng chức, hay khai trương cửa hiệu, hoặc mừng đón nhau về hoặc mừng tiễn nhau đi đều vời đến đào kép ca trù đến, tùy việc tùy duyên mà thưởng ngoạn câu thơ khổ phách cung đàn. Rồi những khi thư thả việc công, những khi buồn thế thái nhân tình, hoặc câu chuyện tình duyên gặp khi trắc trở, ai đó lại đến một ca quán vịn vào tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào một cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa. Có thể nói ca trù đã đồng hành cùng tâm hồn Việt, trải biết mấy thăng trầm cùng lịch sử vẫn lại đang về tìm lại chỗ đứng trong đời sống văn hóa văn nghệ phong phú đa dạng hôm nay. Vâng! Của tin vẫn một chút này! Nguyễn Xuân Diện
  19. Chiều ngày 5/12/08 Wild thực hiện chuyến đi Bệnh viện Nhi Đồng 2 giao tận tay số tiền trợ giúp của ACE đến gia đình Chi Nga Minh. Nơi đây Wild đã không ngăn được lòng mình khi nghe giới thiệu 1 cháu 7 tháng tuổi mang trong người chứng bệnh nguy hiểm " TIM BẨM SINH " cháu tên Phạm thị Ngọc Mai nằm cùng khoa bệnh Nhi với Cháu Bảo Ân, 2 cháu thuộc dạng Bệnh Nặng cần chế độ chăm sóc đặc biệt. Nhìn đôi mắt và màu da sáng trong của Bé Mai không ai tưởng tượng ra màu da của cháu chuyển sang tím tái khi bệnh trạng ập tới và nguy cơ tử vong rất cao . Dưới đây là một vài hình ảnh Wild ghi vội để đưa lên Diễn đàn , với niềm mong mỏi ACE ghé mắt ghé lòng đến trường hợp này để cháu có thêm điều kiện chữa trị, hầu giành giật lại sự sống trước khi trời định số . Wild cũng đã giúp ngay 500.000 ngàn cho cháu. Hy vọng lời kêu gọi này, được sự quan tâm của ACE để Wild có điều kiện quay lại nơi này chia sẽ với cháu ! Bé Mai 7 tháng tuổi bị bệnh tim bẩm sinh: Mẹ con bé Mai: Trao tiền giúp đỡ: Giấy xác nhận:
  20. Phật tại Tâm! Tâm tại Ý. Ý tại Hành động. Hãy hành động tốt! Thứ sáu, 28/11/2008, 07:00 GMT+7 Linh thiêng, tôn nghiêm, yên tĩnh, thanh bình... cái người ta nghĩ, mong tìm được khi đến không gian đình chùa là vậy! Vậy nhưng dường như, những điều ấy chỉ còn là một sự viễn tưởng trong ẩn ức xa xưa! Khi xã hội hiện đại phát triển một cách chóng mặt với tất cả những xáo trộn, bát nháo của nó mà không có được một sự bảo đảm vững chắc từ vốn văn hóa của mỗi người dân, không gian chùa cũng trở thành nơi cho người ta trút lên đó tất cả những tham sân si của mình, của người. Thay vì đi tìm sự thanh thản của tâm hồn, người ta đi chùa để cố gắng trút bỏ tội lỗi, để cầu danh mong lợi, để “mua” thêm chút may mắn cho chuyến đi buôn, cho lần thăng chức này…. Ông to, bà lớn thì mong quyền ngày càng cao, lợi ngày càng nhiều, đi cửa nào qua cửa ấy, thoát vòng tù tội. “Bình dân” hơn thì buôn lời bán lãi, buôn một bán mười, tình duyên suôn sẻ… Thậm chí, đến chùa người ta còn nghe được những lời cầu “siêu thực” đến độ: cầu ngoại tình không bị phát hiện. Mọi thứ thực đến không thể thực hơn, đời đến không thể đời hơn, tất cả những ham muốn hỉ nộ ái ố lạc đều được người đời mang đến cầu khẩn dưới chân Phật với “tấm lòng thành kính” nhất. Cũng bởi vậy, chuyện những ngôi chùa trở thành địa điểm tập trung đông đúc, náo nhiệt của một số lượng lớn “Phật tử” trong những ngày ba mươi, mùng một rồi ngày lễ tết hay hội chùa là điều khỏi cần bàn tới. Cũng là tất yếu bởi nhu cầu tâm linh là lớn lắm! Những ngày ấy, đến chùa quả thực, người ta phải ngỡ ngàng vì niềm tin vào Phật lại lớn đến vậy? Trên con đường dẫn vào chùa đâu đâu cũng chỉ thấy người là người đang chen chân, chen tay nhau mà hành hương về với đức Phật. Nhưng nếu mọi việc chỉ đơn thuần như vậy, hẳn cũng không có quá nhiều điều để phàn trách. Tâm linh là của mỗi cá nhân, nhu cầu lại cũng là rất riêng với mỗi con người nên chuyện cầu khấn, mong ước thế nào cũng chẳng thể cấm đoán, ngăn cản hay hoặc định dạng chuẩn theo kiểu chính sách được. Khốn nỗi, cái phát sinh, cái phiền hà lại nảy sinh nhiều hơn từ chính những nhu cầu phụ đi kèm với nhu cầu tâm linh. Sau một quãng đường lặn lội xa xôi để có thể trình diện dưới chân Phật, để cởi lòng mình với Đức Phật, cầu khấn khấn xong tức là phải “giải trí”, thư giãn, phải bồi bổ, lấy lại sức khỏe. Mà thư giãn, bồi bổ còn gì hơn là ăn uống, mua sắm! Có cầu, ắt phải có cung! Vậy nên, chùa đâu là chợ đấy, cầu khấn đâu, ăn uống, mua sắm đấy! Chẳng cần phải kể đến những quán xá với đủ các loại sản phẩm bao quanh những ngôi chùa như một hệ thống rào thép gai vững chắc mà ngay cả sân chùa, vườn chùa, người ta cũng chẳng tha. Những ngôi chùa như chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Hương, chùa Yên Tử… được đánh giá là rất linh thiêng. Do đó, vào những dịp lễ hội, chùa thu hút một lượng rất đông du khách và các tín đồ Phật tử đến để dâng hương, cầu lễ. Khi đến chùa vào những ngày này, bạn sẽ bị ngợp, bị choáng không chỉ bởi người người đang nườm nượp đi lại, khấn vái cũng như làm trăm nghìn công việc khác mà còn bởi lượng lều quán với đủ loại đồ ăn cũng như các loại hàng hóa bày bán ở đây. Những hàng quán này tập trung lại có thể đạt đến “tầm cỡ” của một cái chợ hạng trung. Lúc này, nếu nói đó là một cái chùa, e không đúng, bởi cái chợ kia thì bỏ đi đâu? Gọi là cái chợ thì e cũng không phải, bởi dù có nhỏ, có bị khuất lấp, bị “đè bẹp” thì vẫn còn đó cái chùa. Thôi đành gọi nó là cái chợ chùa hay chùa chợ vậy ! Ngỡ rằng, đến chùa, chẳng phải thấy những tanh hôi đời thường, thấy rượu bia nồng nặc men say, thấy những mảng thịt đang còn tươi rói au đỏ màu máu! Nhưng không, cái chợ ở chùa là cái chợ có “tất tần tật” mà theo ngôn ngữ của giới trẻ hiện đại là “bao luôn từ A đến Z”. Từ hương hoa, lễ lạt, vàng mã,.. cho thần Phật đến đồ ăn, thức uống của người trần, đều đủ cả. Cạnh hàng vàng mã với đủ các loại tiền vàng, hương nhang, hoa quả… để sắm lễ lên chùa lạy Phật là những quán phở, quán cơm,…(trăm kiểu quán, tây ta lẫn lộn) với người người đang ngồi xì xì xụp xụp ăn uống. Để lên được chùa Tây Phương ngự trên đỉnh núi Ngưu Lĩnh Sơn, sau khi vượt qua con đường đất bụi vàng mù mịt, người, xe hàng hóa chen lấn, bạn sẽ được chứng kiến những lều quán nhỏ nhỏ xinh xinh ven hai bên những bậc thang lên chùa để đáp ứng nhu cầu của các Phật tử! Càng lên đến chùa, thay vì cảm nhận được sự trong lành, tịnh tâm của cõi Phật, người ta lại càng nhận thấy nồng đậm hơn mùi rượu, mùi bia kèm lẫn mùi cá chỉ vàng, cá mực nướng! Không gian chùa sực nức thứ “nước hoa” đậm đặc ấy! Mùi khói hương mang theo cái thanh tịnh của tâm hồn tuyệt nhiên không sao vượt thoát được sự bủa vây của những loại hương vị quá ư là nặng mùi này! Vào đến sân chùa thì cái tục, cái phàm trần cũng đạt đến cực điểm của nó bởi sân chùa đã trở thành một cái chợ nhỏ bất đắc dĩ. Vách ngăn duy nhất giữa khói hương nhà chùa và những quán xá kiểu ấy là ba bậc thềm đá. Người ta thắp hương, khấn Phật trong mùi cá, mực nướng, trong tiếng í ới mua bán, mặc cả, trong những cái cụng ly, trong những cái xé, nhai, nuốt nhồm nhoàm. Người ta gửi những lời cầu khẩn đến Phật bằng hương cá, hương mực, hương rượu bia! Thậm chí, tay người thắp hương còn vương mùi cá, thoảng hương rượu. Tiếng phạch phạch quạt bếp than của những người nướng cá mực càng góp phần đẩy mạnh hơn nữa những luồng hương trần tục ấy vào chốn cửa Phật! Văn hóa tâm linh đã bị bóp méo bởi những hành động vẫn mượn danh tâm linh này. Họ cười nói rôm rả, phấn khởi. Nào thì là đã dâng được cái lễ to lắm cho nhà Phật, lại đọc cả tên tuổi địa chỉ để Phật nhớ nữa! Rồi thì viết sớ, dâng tấu trình, đủ cả, chuẩn cả! Nào thì đã trả được cái lễ năm trước vay nhà Phật, lại đã cầu xin được phước lành, lộc phát cho năm nay, rồi còn hứa hẹn sang năm lại trả cho Phật nhiều hơn, to hơn. Phen này, làm ăn thì tha hồ mà khấm khá, phát đạt, buôn năm được mười,... Cứ vậy, họ “thênh thang” tâm trạng mà hồi hương. Nói cái chuyện ăn, lại phải bàn sang cái chuyện mặc. Với quan niệm: Phật cũng là người mà nên, Phật tử đi chùa giờ cũng góp phần làm cho đức Phật được mở mang tầm mắt, được “mát con mắt bên trái mà sướng con mắt bên phải” với các loại trang phục đủ loại sắc màu, đủ loại kiểu dáng. Từ sooc ngắn, lỡ, ngố, loe dài cho đến các loại váy, đầm liền thân, đầm dời. Áo thì lửng tay, sát nách! Cô nào mát mẻ, sành điệu hơn tí nữa thì áo hai dây tung tăng đi chùa. Gặp tiết trời nóng, lại leo đường núi mệt quá rồi thì các Phật tử cũng chẳng ngần ngại mà cởi phanh áo ngoài, diện luôn cái áo mỏng manh, trong suốt ở trong. Nhẹ nhành hơn thì phanh một vài cái cúc trên, còn ở dưới thì buộc túm lại để lộ cái rốn xinh xinh giống các ca sĩ nhà mình vẫn làm khi lên sân khấu đó. Cũng bởi những thái độ ứng xử ấy mà đến chùa, người ta thấy xuất hiện nhiều biển cấm dở khóc, dở cười. Đại loại kiểu: “Cấm mặc váy ngắn, quần đùi, áo hở nách”, Cấm khạc nhổ”,… Rồi thì những tấm biển lưu ý người hành hương: chú ý đề phòng mất cắp, đề phòng móc túi,… Phàm, sống trong đời, ắt hẳn phải có những điều cấm! Từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ chuyện nhỏ đến chuyện cực nhỏ, chuyện gì cũng có những quy định, yêu cầu riêng của nó. Bởi thế, tất phải có cấm! Cấm nhắc nhở người ta, lưu ý người ta về những điều nên – không nên làm, phải – không phải làm với “mong ước nhỏ nhoi” là làm cho con người và cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng, đôi khi nhìn vào những điều cấm, lại thấy chạnh lòng vì vốn văn hóa, vốn sống hay những điều căn bản của con người dường như không có! Lên chùa, nhìn những biển cấm ấy, lại càng phải ngẫm nghĩ cho văn hóa ứng xử với chính đời sống tâm linh mình của người Việt. Lên chùa để khạc nhổ? Lên chùa để diễn thời trang quần sooc, áo hai dây? Lên chùa để móc túi, để trộm cắp? Hay lên chùa để xóc đĩa, ba cây? Lên chùa để làm từng ấy việc sao? Ở đất nước mà đạo Phật chiếm giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh con người như Việt Nam, những ngôi chùa luôn hiện hữu và tồn tại như chứng tích lớn nhất cho văn hóa tâm linh độc đáo này. Thế nhưng, chính những người con dân đất Việt lại tự biến đời sống tâm linh của mình thành mớ hỗn độn, thành nơi vụ lợi, thành những trò mua bán, đầy tính toán. Không tôn trọng đời sống tâm linh của mình, họ đang tự tạo ra cho mình những hố ngăn, lỗ hổng mới về văn hóa tinh thần. Thử hỏi, ai lên chùa, sau tất cả những bon chen chật đường bụi bặm vì hàng hóa, vì đồ ăn thức uống ấy, thấy nhẹ lòng với chính mình? Ai tìm được ở nơi đó vài phút tĩnh tâm. Tâm. Đến tâm linh mình, giá trị tinh thần của chính mình, người dân Việt còn không biết trân trọng, thử hỏi những ngoại khách sẽ nhìn nhận như thế nào về văn hóa tôn giáo ấy, về bản sắc đời sống tinh thần ấy? Nhìn sang đất nước láng giềng Thái Lan mới thấy mình khác xa họ về cách ứng xử với chính tâm linh của mình quá, mình kém họ nhiều quá về sự tôn trọng, nâng niu những giá trị tinh thần ấy quá. Không chi chít quầy hàng ăn uống, không từng đoàn người ăn xin lăn lê bò toài ra đất cất giọng thều thào, không có cảnh chèo kéo, mời mọc mua hàng cũng chẳng có những biển cấm với những điều cấm có một không hai... Tất cả đều yên tĩnh và tôn nghiêm đến tuyệt vời mặc dù cũng có rất đông khách nước ngoài và người bản xứ về đây cầu khẩn Đức Phật. Thái độ tôn trọng, thành kính trước văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc mình của những người chủ nhà khiến cho du khách không thể không làm theo. Cấm rốt cục cũng chỉ là giải quyết ở khâu bề nổi và sẽ chẳng thể thay đổi được gì nếu bản thân con người không hiểu rõ người ta đến cõi Phật để làm gì! Con đường đến với Phật, đến với Niết Bàn, gạt bỏ những tham sân si dường như còn xa lắm! Đỗ Hòa (Vietimes)
  21. Đi tìm vẻ đẹp ca trù (Phần 5) Văn nhân và ả đào Thứ ba, 16/12/2008, 07:00 GMT+7 Những đêm hát, đào nương hiện ra như từ trong mộng: Mặt tròn thu nguyệt. Mắt sắc dao cau. Vào - duyên khuê các. Ra - vẻ hồng lâu. Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban - Tạ. Dịu như mai - Trong như tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều. Và như vẫn còn đây, mối duyên giữa văn nhân và ả đào, mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thưởng thức, thể nghiệm các tác phẩm của mình. Văn nhân, trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Những thư tịch ấy đã có một đời sống riêng trong dòng chảy của văn hóa Việt, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác mang tâm hồn và căn cước Việt Nam. 500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Một văn nhân hay chữ trong làng là Lê Đức Mao (1462- 1529) thay mặt 8 giáp viết 9 bài thơ để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ “ca trù”. Đây cũng là bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ ‘ca trù’ lần đầu tiên có mặt trong văn học viết, là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ. Ngày hội làng, các ả đào đứng trước điện thờ, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú... Giáo phường nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các vị thành hoàng để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và hát chệch đi. Nếu cô đầu không nhớ, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Khi ấy quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu, đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên. Người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về văn chương và âm luật. Thưởng công minh làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng” thì làng tốn tiền, thưởng “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, không biết nghe hát nghe đàn. Có khi người cầm chầu mà không biết thưởng thức, gặp cô đào đanh đá hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ bỏ roi chầu mà về. Làng tôi năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào giễu rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”. Ngày xưa, có cô đào họ Nguyễn đã có công giúp tiền của để chàng thư sinh nghèo Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ. Vũ Khâm Lân, quê xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) là một anh học trò nghèo thông minh chăm chỉ, vì dì ghẻ độc ác hà hiếp nên phải bỏ nhà lang thang xin ăn độ nhật. Khi đến làng Dịch Vọng (Từ Liêm) xin ăn ở trường ông Hương cống thì được thương và chu cấp cho ăn học. Trong khoảng hai năm việc học đã ngày chàng tiến tới, trong trường không còn ai là đối thủ nữa. Mùa xuân năm ấy, làng Dịch Vọng vào đám rước thần. Mấy người bạn học rủ ông đi xem hội. Trai gái cả làng đều ăn mặc đẹp, chen chúc nhau xem hát. Riêng ông thì mặc áo bông cũ bẩn, dựa cột lén xem như chỉ sợ người khác thấy mình. Giáo phường đến hát có một cô đào hát tuổi chừng mười bảy, mười tám nhan sắc xinh đẹp, đoan trang; mỗi lần nàng cất tiếng hát thì tiền và lụa thưởng cho nàng ném đầy xuống mảnh chiếu hoa nàng ngồi hát. Lúc cô đang múa, ánh đuốc lớn ngoài sân chiếu qua góc đình, khiến cô nhìn thấy ông, chăm chú một hồi lâu, bần thần nhưu đánh mất một vật gì, không sao hát được nữa. Người làng đang xem cho là cô bị trúng phong đột ngột, ai nấy đều không vui. Người cầm chầu phải xin dừng đêm hát. Vũ Khâm Lân cũng theo mọi người ra về. Hôm sau vào lúc xế trưa, thấy có người con gái đến thẳng chỗ ông, an ủi và tặng ông 10 quan tiền cùng các thứ đồ ăn mặc, rồi trân trọng từ biệt. Từ đó, cứ dăm ba tháng một lần cô lại đến chỗ ông ở, may vá, nấu nướng cho ông. Lúc mới gặp cô gái, ông rất xúc động và kính trọng cô. Lâu ngày thành quen, biết cô gái yêu mình, ông bỗng dưng nảy sinh lòng tà vạy, lẻn tới chỗ cô con gái xin ngủ cựng. Cô gái nghiêm khắc cự tuyệt. Ông lấy làm hổ thẹn xin lỗi nàng, và từ đó càng thêm niềm kính yêu, trân trọng. Hai năm sau, gặp kỳ thị Hội, ông sửa soạn về quê để đăng ký thi theo hộ tịch ở quê nhà. Cô gái đến tiễn, đưa tặng rất hậu. Lúc sắp chia tay, ông cầm tay cô gái xin được biết quê quán, họ tên để sau này biết chốn tìm nhau. Cô gái không cho ông biết gì về thân thế, gia cảnh. Mùa thu, ông về thi ở huyện ở phủ đều đỗ đầu. Thi Hương, thi tỉnh cũng nhất. Cha ông bàn việc chuyện hôn nhân, định hỏi con nhà thế gia cho ông. Ông cố chối từ và thành thực kể lại chuyện riêng, xin được lấy người con gái ấy. Cha ông nổi giận quyết không cho lấy cô đào kia và mắng ông rất nhiều. Ông buộc phải nghe lời cha dạy. Kỳ thi Hội năm sau, cô gái đem lễ tặng rất hậu và tới đợi Vũ Khâm Lân ở chỗ trọ tại kinh đô. Lân ngượng ngập, không biết nói gì. Cô gái nói với Lân: “Thiếp biết cả rồi, chẳng cần chàng nói. Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn hạ không xứng hầu hạ khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp”. Từ đó ông không gặp lại cô đào trẻ đó nữa. Vũ Khâm Lân đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bảo Thái thứ 8 (1727). Sau ông thi đỗ, vào làm việc trong viện Hàn lâm, đi sứ phương Bắc, làm quan trong kinh ngoài trấn trải hơn mười mấy năm. Ông còn được triều đình cử đi dẹp giặc giã. Dẹp xong giặc, ông được phong là Quận công, làm việc ở Ngự sử đài, rồi thăng Tể tướng, vẻ vang hiển hách không ai bằng. Mỗi khi kể chuyện đã qua, ông lại than thở buồn rầu tự trách mình. Ông đã sai người đi tìm chỗ ở của cô gái nhưng vẫn không tìm được. Trong một tiệc hát ở nhà người bạn đồng liêu họ Đặng, thấy có người con gái đang gieo phách giữa chiếu hoa trông giống với người con gái ngày xưa. Hỏi ra thì đúng là nàng. Dẫu cho phong trần dầu dãi mà nét kiêu sa đằm thắm cùng tiếng phách tuyệt kỹ vẫn còn như xưa. Ông hỏi thăm về những ngày tháng đã qua của cô, thì biết mười năm trước cô lấy một viên quan võ ở trấn Thái Nguyên. Khi võ quan này chết, hai người chưa có con cái gì, nàng không biết đi đâu, chỉ còn một ít tư trang, mới lần về quê cũ. Gặp đứa em chẳng ra gì, phá tán sạch cơ nghiệp, cô đành dắt mẹ già lưu lạc trong thành Tràng An, dựa vào các nhà quyền thế, đàn hát qua ngày kiếm miếng ăn. Nghe câu chuyện của nàng, ông không sao nén nổi xót thương, bèn đón cả hai mẹ con nàng về một nơi ở riêng, chu cấp đầy đủ. Hơn một năm sau, mẹ cô mất. Ông lo chôn cất chu đáo. Tang ma cho mẹ xong, cô gái lại từ biệt ra đi, có lẽ lại dấn thân vào chốn ca trường đầy bất trắc. Ông giữ lại không được, hậu tặng cô rất nhiều tiền bạc, cô cũng không nhận. Ông cố ép thì cô nói: “Thiếp không có phúc được làm vợ tướng công, thì những thứ tiền bạc này đâu có phúc để tiêu mà nhận. Rồi nàng lén bỏ ra đi. Ông cho người nhà đuổi theo mà không kịp, không rõ đi đâu. Về sau, biết nàng là người huyện Chương Đức xứ Sơn Nam (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội). Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ tại Đông Dương. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ. Một số giáo phường ca trù ở nông thôn đã di chuyển ra tỉnh và bám theo dọc các trục đường giao thông để mở nhà hát (ca quán). Trước kia người hát đến nhà người nghe hát. Kể từ khi có ca quán, người nghe hát đến ca quán để nghe hát. Từ đó nảy nở mối tình giữa văn nhân và đào nương. Đó là một mối quan hệ khá thắm thiết, gần gũi giữa Nguyễn Khuyến và cô đào Sen người làng Thi Liệu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định; giữa Dương Khuê với cô Hồng, cô Tuyết, cô đầu Hai, cô đầu Phẩm, cô đầu Cúc, cô đầu Oanh, cô đầu Cần. Là Dương Tự Nhu với cô đầu Khanh, cô đầu Văn, cô đầu Phú, cô đầu Kim…Và nhà nho tài tử Nguyễn Danh Kế đã gặp gỡ đào nương tài sắc Nhữ Thị Nghiêm trong một ca quán ở phố Hàng Thao, thành Nam Định. Yêu vì tài, cảm vì tình rồi họ kết duyên chồng vợ. Cuộc hôn nhân này đã sinh ra Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu - một thi sĩ tài hoa đa tình. Ngay em gái của Tản Đà là cô Trang cũng là một đào nương: Có phải cô Trang em ấm Hiếu/ Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà (Tặng cô đầu Trang - Trần Tán Bình). Khắp các nơi phố thị ca quán ca trù mọc lên như nấm sau mưa. ở miền Trung thì Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh nào cũng có nhà hát cô đầu. ở miền Bắc những thành phố lớn đều có nhà hát, ở Nam Định trước cô đầu mở nhà hát ở phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu. Theo phóng sự điều tra của ký giả Hồng Lam trên báo Trung Bắc chủ nhật số 129, năm 1942 thì riêng năm 1938, ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cô đầu tập trung trước thì ở Hàng Giấy, ấp Thái Hà, sau đến Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Vạn Thái, Chùa Mới, Cầu Giấy, Kim Mã, Văn Điển, Gia Quất. Trong các khu phố có các ca quán ả đào, Khâm Thiên và Ngã Tư Sở là những địa chỉ nổi tiếng vì sự gắn bó với các nhà văn nhà thơ nổi tiếng: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ Hoàng Chương. Khâm Thiên là nơi nhộn nhịp nhất của làng cầm ca thưở ấy. Nơi đây có nhà hát 24 gian, có những người quản lý giỏi giang, khiến cho cả khu phố quanh năm đỏ đèn. Nhà văn Vũ Bằng gọi xóm Khâm Thiên là “cái nôi văn nghệ của Hà Nội”. Ông cho biết: “tôi chưa thấy có nhà văn nhà báo đất Bắc nào mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”, và các xóm cô đầu “quả là cái lò đúc ra văn nghệ sĩ”. Và ông kể về việc làm báo ở những tòa báo “lúc đó ở những con đường Nhà thương Phủ Doãn nhưng thật tình chỉ có một anh quản lý và một người tùy phái ở đây thường trực mà thôi. Còn bao nhiêu nhân viên tòa soạn thiết lập đại bản doanh ở Khâm Thiên, Vạn Thái ... Đại bản doanh lưu động, nay ở nhà này mai ở nhà khác. Chúng tôi viết bài, sửa bài ở nhà hát rồi gói tròn cả lại để vào một chỗ nhất định. Sáng ra người tùy phái đạp xe cọc cà, cọc cạch xuống lấy bài, đem về cho nhà in xếp chữ. Mỗi tuần lễ một lần, tôi lại hạ san từ xóm về nhà in để “mi” và vét tiền két chi nhà hát”. Phải nói rằng văn hóa ả đào, văn hóa ca trù đã thấm đẫm trong sáng tạo của thi sĩ, văn sĩ trước 1945. Cũng tại Khâm Thiên, Nguyễn Tuân đã sống và tích lũy vốn liếng cho các tác phẩm về ca trù như Đới roi, Chùa Đàn. Trần Huyền Trân đã sống ở ngõ Cống Trắng, Khâm Thiên. Chàng thi sĩ tài hoa của xứ sở “Rau tần” này đã tặng danh ca Quách Thị Hồ những dòng thơ chứa chan niềm ưu tư: Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/ Mênh mông trời đất vẫn không nhà/ Người ơi mưa đấy ? Hay sênh phách/ Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa. … Thôi khóc chi ai kiếp đọa đầy/ Tỳ bà tâm sự rót nhau say/ Thơ ta gửi tặng người ngâm nhé/ Cho vút giọng sầu tan bóng mây. Năm ấy Quách Thị Hồ tròn 30 tuổi. Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng có nhiều bài thơ gửi gắm tâm hồn đồng điệu với các đào nương đem tài sắc tuổi thanh xuân dâng tặng tri âm. Với Thế Lữ là “Bên sông đưa khách”, với Vũ Hoàng Chương là “Nghe hát” nắn nót câu chữ như ai nắn phím tơ: Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm/ Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm/ “Canh khuya đưa khách…”. Lời gieo ngọc/ Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm. Với Xuân Diệu là “Lời kỹ nữ”, mà theo Hoài Thanh thì “Người kỹ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người Tỳ bà phụ. Nhưng nàng không lặng lẽ buồn mà ta thấy nàng run lên vì đau khổ: Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;/ Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da”… Lại có câu chuyện rằng có một đào nương tài sắc vẹn toàn, từng làm mê mẩn bao quan viên và tao nhân mặc khách. Một đêm mưa gió, nàng đi hát ở làng bên trở về thì bị cảm lạnh và qua đời ngay bên cầu Trò (Sơn Tây). Dân làng và các quan viên thương cảm nàng đã chôn cất và lập miếu thờ nàng ngay bên cầu. Câu chuyện ấy khiến bao người xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh, ‘nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương’ của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện, cảm động mà viết bài Cảm tạ với hai câu kết: Tạ lòng nào biết nên chi được/ Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng. Sau khi nghe chuyện và đọc bài thơ của Vũ Đình Liên, chung với mối đồng cảm ấy, họa sĩ Bùi Xuân Phái đã ký họa lại hình ảnh của người ca nữ qua tưởng tượng. Những nét vẽ gầy guộc mảnh mai của ông như thấu được cả cái thân phận tài hoa nhưng mệnh bạc. Thưởng thức ca trù gọi là “nghe hát”, chứ không phải là “xem hát”. Đào nương ca trù chỉ ngồi yên gần như bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp điều, với vẻ mặt bình thản, đoan trang. Đào nương chỉ có một cỗ phách tre đặt trước mặt và “đối thoại” với khách nghe chỉ bằng giọng hát và tiếng phách của mình. ấy vậy mà nghệ thuật này đã góp cho văn chương hàng nghìn bài thơ viết bằng chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng, rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ với các tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Tự Nhu, Nguyễn Hàm Ninh, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Bùi Kỷ, Tản Đà ... Trong kho tàng văn chương ca trù, các bài hay nhất vẫn là những bài ghi lại kỷ niệm giữa văn nhân và ả đào. Mỗi bài hát là một câu chuyện riêng tư thi vị, mà rất nhiều trong số này lại là những sáng tác ngẫu hứng, ngay trong chiếu hát, ngay trong tiệc rượu. Xưa nay, đến với ca trù là những tâm hồn yêu tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa. Và văn nhân và ca nữ vẫn là một mối quan hệ mà dường như chỉ có tạo hóa mới ban tặng được. Có phải vì thế mà mối tình giữa văn nhân và ca nữ luôn ở trong trí nhớ người đời? Có phải vì thế mà những mối tình này được lưu giữ trong văn chương rất thi vị cho dù nó hiện diện và tồn tại một cách rất mong manh? (Còn nữa) Nguyễn Xuân Diện
  22. Thưởng lãm mặt trăng lớn nhất trong hơn một thập kỷ Cư dân nhiều nơi ở bắc bán cầu đêm qua được chiêm ngưỡng chị Hằng sáng và lớn nhất kể từ năm 1993, do khoảnh khắc trăng tròn trùng với cận điểm (khi mặt trăng gần với trái đấy nhất), một sự kiện hiếm khi xảy ra. > Mặt trăng nhìn từ trái đất lớn nhất trong nhiều năm Thành phố Winterberg, miền trung Đức. Ảnh: EPA. Andover, Anh. Ảnh BBC . Thành phố Fayetteville, bang Bắc Carolina, Mỹ. Ảnh: AP. Trăng phía trên Tượng đài Cách mạng ở thủ đô Mexico City của Mexico. Ảnh: Reuters. Thành phố Los Angeles, Mỹ Trăng tỏa sáng sau rặng cây ở Coventry, Anh. Ảnh: BBC. Ở Yorshire, Anh . Derbyshire, Anh. Mặt trăng chụp từ vườn nhà ở Nairobi, Kenya. Ảnh: BBC. Quần đảo Canary Islands, phía tây bắc châu Phi. Ảnh: BBC. Mặt trăng tròn sáng sớm ở Iceland. Ảnh: BBC. Bề mặt của "chị Hằng" nhìn từ Florida, Mỹ. Ảnh: BBC. nguồn vnexpress.net
  23. Ảnh hưởng môi trường của TTTM 19-12 theo góc độ phong thủy 14/12/2008 08:53 (GMT + 7) Xét theo góc độ phong thủy thì việc xây dựng trung tâm Thương mại - Dịch vụ 19/12 sẽ gây hậu quả tiêu cực lâu dài về yếu tố con người - TS. Phạm Gia Minh thử đưa ra đánh giá các ảnh hưởng môi trường của TTTM - DV 19-12. Tuần Việt Nam giới thiệu góc nhìn riêng của tác giả, như một tư liệu để tham chiếu. Khi trung tâm 19/12 cao tầng được xây lên sẽ sinh ra một sự “cộng hưởng” với các ảnh hưởng của khách sạn Melia, tạo ảnh hưởng xấu về mặt phong thủy. Ảnh: mô hình dự án Đã từ lâu ở Phương Đông người ta đặc biệt quan tâm tới Phong thủy trong việc xây nhà cho người sống (còn gọi là dương trạch) và cả mồ mả cho người đã khuất (âm trạch). Truyền thống đó ngày nay đã được đánh giá, kiểm chứng lại dưới góc độ của nhiều ngành khoa học, được gạn đục khơi trong, loại bỏ đi những yếu tố mê tín dị đoan và cập nhật thêm những kiến thức của tư duy hiện đại nên đã trở thành một môn khoa học về Địa vật lý - môi trường (1). Trong thế kỷ XXI ngày càng có nhiều người Phương Tây ứng dụng Phong thủy trong đời sống thường nhật của họ và đã xuất hiện một lực lượng đông đảo các nhà nghiên cứu cũng như hướng dẫn thực hành Phong thủy ở Tây âu và Hoa kỳ (2). Thông thường những công trình quan trọng mang ý nghĩa công cộng to lớn như nhà Quốc hội, phủ Chủ tịch, Tòa án tối cao, v.v… ở tất cả các nước trên thế giới đều được xây dựng trên những khu đất cao ráo, quang đãng, có không gian đủ rộng bao quanh để toát lên cái uy nghi, trang trọng và đường bệ. Đó là những nơi “vượng khí và đắc địa"vô giá nên không thể tính bằng tiền nếu xét về khía cạnh tâm linh và tinh thần của người dân. Theo thuyết Phong thủy thì những công trình và tòa nhà công cộng đó sẽ có ảnh hưởng tới không khí chung cũng như những khó khăn hay thành tựu của toàn xã hội. Vị trí đắc địa không thôi là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đảm bảo một sự phát triển ổn định và bền vững. Trong Phong thủy người ta rất quan tâm đến những ảnh hưởng của các vật thể xung quanh lên môi trường sống. Khoảng mấy chục năm gần đây một bí quyết mà các nhà Phong thủy Trung hoa đã giữ kín hàng thế kỷ mới được phát lộ cho thế giới biết dưới cái tên là “thuật sao bay”. Kỹ thuật này cho phép định vị và đánh giá khá toàn diện những ảnh hưởng hữu hình và vô hình từ các vật thể xung quanh lên một tòa nhà hay bất cứ công trình nào. Nằm liền kề chợ 19/12 hiện nay là Tòa án nhân dân tối cao quay mặt chính ra phố Lý thường Kiệt hướng Tây Nam, Tòa án nhân dân TP Hà Nội quay mặt ra phố Hai bà Trưng hướng Đông Bắc, Viện KSND TP Hà Nội quay ra hướng Tây Bắc (xem hình chụp từ vệ tinh của Google Earth). Hình chụp từ vệ tinh của Google Earth. Ấn vào ảnh trên để xem ảnh cỡ lớn hơn. Có lẽ đây là ba tòa nhà có tầm quan trọng đặc biệt đối với môi trường pháp lý và kỷ cương của xã hội nên chúng ta sẽ tập trung phân tích ảnh hưởng ( nếu có) của việc xây trung tâm Thương mại- Dịch vụ 19/12 lên các tòa nhà này. Trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ áp dụng kỹ thuật “sao bay” để lập ra biểu đồ Phong thủy của Tòa án ND tối cao (để tìm hiểu chi tiết về kỹ thuật này độc giả có thể tham khảo cuốn sách: “Nhà quản lý ứng dụng Phong thủy và Số mệnh” - NXB Tri thức, Hà Nội tháng 12/2008. Tác giả Raymond Lo, người dịch Phạm Gia Minh) (3).Công trình Tòa án nhân dân tối cao được hoàn thành vào giai đoạn 1904-1905 (lúc đó người Pháp gọi là Palais de Justice). Theo cách chia thời gian của Phương Đông thì cứ mỗi 60 năm gọi là một Nguyên, 3 Nguyên (Thượng, Trung, Hạ) hợp lại là 180 năm. Mỗi Nguyên lại chia thành 3 Vận, mỗi Vận kéo dài 20 năm nên mới có khái niệm “Tam Nguyên Cửu Vận”. Hiện nay chúng ta đang ở Vận 8 (kéo dài từ 2003 tới 2023) do đó năm 1905 thuộc Vận 3. Không đi vào chi tiết kỹ thuật chuyên sâu, xin tóm tắt mấy nội dung quan trọng của thuật “sao bay” như sau: - “Sao Núi” trên biểu đồ Phong thủy nếu được tọa lạc trên các vị trí cao ráo như núi cao hay tòa nhà cao tầng v.v… thì sẽ phát huy tác dụng. Ngược lại sẽ bị “hãm”. - “Sao Thủy” nếu được tọa lạc ở chỗ thoáng đãng như quảng trường, ao hồ, đường xe cộ qua lại (ví như dòng nước chảy) thì sẽ phát huy tác dụng. Ngược lại cũng sẽ bị “hãm”. - Năm 2008 đang là Vận 8 nên các con số chỉ “sao bay” (cả sao Núi lẫn sao Thủy) nếu nhỏ hơn 8 đều không phải là “sao tốt” cho tương lai vì chúng thực sự đã lùi vào quá khứ. Như vậy các sao mang số 8 , 9 sẽ là “sao tốt”. - “Sao Núi" chỉ yếu tố con người, sức khỏe, công danh sự nghiệp. “Sao Thủy” đặc trưng cho hiệu quả công việc, tài, lộc hay sự thịnh vượng. Trên biểu đồ phong thủy “sao Núi” là các con số nhỏ nằm bên trái, còn “sao Thủy” là các con số nhỏ nằm bên phải. Dưới đây là biểu đồ Phong thủy của Tòa án ND tối cao: Mấy lời bình Con số 3 ở trung tâm là Vận 3 (năm 1905) tượng trưng cho tòa nhà của Tòa án ND tối cao, cửa chính trông ra phố Lý thường Kiệt hướng Tây Nam. Trung tâm Thương mại - Dịch vụ 19/12 sẽ được xây kề cạnh phía Đông Nam của Tòa án nên ô có số 2 nằm về phía Đông Nam chứa 2 con số nhỏ: sao Núi số 5 và sao Thủy số 8 sẽ cho ta thấy những ảnh hưởng lên Tòa án ND tối cao của trung tâm Thương mại này một khi nó được xây dựng. Như ta thấy sao Núi số 5 là một sao không tốt, trong trường phái sao bay của Phong thủy nó bị coi như một điều kiêng kị. Nếu xây tòa nhà cao tầng ở đây thì rõ ràng hậu quả xấu của sao Núi này sẽ lại càng được khuếch đại lên nhiều lần vì sao xấu này lại được tọa trên tòa nhà cao 17 tầng !. Hơn nữa sao Thủy số 8 nếu được tọa trên bãi trống hay phố có xe cộ qua lại thì sẽ đem lại Tài, Lộc hoặc hiệu quả công việc nhưng nếu rơi vào tòa nhà cao tầng của trung tâm Thương mại thì nó sẽ hoàn toàn bị “giam hãm”. Do vậy xét theo góc độ Phong thủy thì việc xây dựng trung tâm Thương mại - Dịch vụ 19/12 sẽ gây hậu quả tiêu cực lâu dài về yếu tố con người, chẳng hạn như gây ra những mối bất hòa, mất đoàn kết, khủng hoảng lòng tin, suy giảm uy tín và quyền lực của Nhà nước có nguy cơ bị thách thức (do sao Núi số 5 phát huy tác dụng tiêu cực). Đồng thời hiệu quả công việc thực thi pháp luật sẽ bị suy giảm (vì sao Thủy số 8 bị “giam hãm”). Bởi vậy, hợp cách nhất là chuyển khu chợ tạm 19/12 thành đường đi, trả lại cho Thăng Long - Hà Nội một con phố với những kỷ niệm thiêng liêng về những người anh hùng đã ngã xuống vì Độc lập và Tự do của Tổ quốc. Khi đó sao Núi xấu số 5 sẽ không thể phát tác ảnh hưởng và sao Thủy số 8 tốt, được phát huy sẽ đem lại hiệu quả công việc và sự thịnh vượng. Nếu độc giả để ý kỹ trên hình chụp của vệ tinh sẽ phát hiện thấy thêm một mối đe dọa Phong thủy xuất phát từ tòa nhà của khách sạn Hà Nội Tower được xây theo hình có cạnh nhọn như lưỡi búa rìu chĩa thẳng vào Tòa án ND tối cao và Viện KSND TP Hà Nội, ngoài ra Khách sạn Melia cao tầng cũng có ảnh hưởng không tốt lên Tòa án ND tối cao giống như trung tâm Thương mại – Dịch vụ 19/12 (do cũng nằm ở phía Đông Nam của Tòa án ND tối cao), tuy nhiên do còn có một khoảng cách là chợ 19/12 nên tác động này không mạnh mẽ bằng trường hợp được xây ở sát nách. Nhưng khi trung tâm Thương mại - Dịch vụ 19/12 cao tầng được xây lên sẽ sinh ra một sự “cộng hưởng” với các ảnh hưởng của KS Melia. Những tác động Phong thủy xấu này rõ ràng cần được kịp thời ngăn chặn và khắc phục (tuy rằng đã hơi muộn!) bằng những phương pháp Phong thủy “tương kế, tựu kế”. Ngày nay, nếu có cần cảnh giác về “diễn biến hòa bình” thì cũng nên nhìn nhận Phong thủy chính là một vũ khí thầm lặng và vô cùng lợi hại, đã và đang được những thế lực thù địch sử dụng triệt để bởi sức công phá mạnh mẽ, toàn diện, âm ỉ và lâu dài của nó. TS Phạm Gia Minh---------------- Ghi chú: (1) - Giáo sư Trung quốc nổi tiếng về Phong thủy Phan Cốc Tây trong cuốn sách “ Đi tìm nguồn gốc Phong thủy “ gần đây đã nhận định: "Phong thủy là khoa học tổng hợp vật lý địa cầu học, địa chất thủy văn học , cảnh quan môi trường học, sinh thái kiến trúc học, phương vị từ trường học, khí tượng học và khoa học nghiên cứu thông số con người”. (2) - Tỷ phú Mỹ Donald Trump khi xây dựng khách sạn Trump Tower đã hỏi ý kiến chuyên gia Phong thủy nổi tiếng ở Caliphornia là David Reney, ngoài ra khách hàng thường xuyên của Reney còn là công chúa Christine của Bỉ, diễn viên Nicol Kidman, Tom Cruise, người mẫu Cindy Crawford.v.v… (3) - Raymond Lo là Giáo sư đại học Hồng Kông về Phong thủy, tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo đồng thời là khách mời được nhiều người ưa chuộng của chương trình Phong thủy trên đài truyền hình HK. Ông là người đã dự báo chính xác sự ra đi của Gorbachov và Thatcher, việc đắc cử của Bill Clinton trước Bush (cha) và nhiều sự kiện khác như cuộc chiến vùng Vịnh v.v... Ngày mồng 2 Tết Nguyên đán năm nay (Bính Tý 2008) đài CNN đã phỏng vấn ông về tình hình thế giới , ông đã tiên liệu một sự sụt giảm to lớn của thị trường chứng khoán và nhà đất Hoa kỳ. nguồn tuanvietnamnet
  24. Đến đây rồi lại gặp thêm 2 mầm sống mong manh, không biết trường hợp nào đáng thương hơn nữa. Trường hợp thứ nhất : Cháu bé dưới đây 6 tháng tuổi con Chị Đinh Thị Mai ở Huyện vĩnh an tỉnh Đồng nai, vừa lọt lòng da cháu rất đen nên không nhận ra màu da vàng úa, càng ra ngoài tháng cha mẹ cháu thấy da cháu rất vàng, cả đôi mắt cũng không có màu trắng cạnh con ngươi nữa. Trạm y tế của Xã nhận định cháu bị sốt rét rừng và điều trị theo hướng đó, nhưng chẩn đoán ban đầu đã sai, cháu bị gan vàng da. Cha mẹ cháu làm rẫy khu rừng Vĩnh Cữu Trị An. Khi đưa xuống đây mẹ cháu đã không lận lưng được đồng nào phó mặc cháu cho bệnh viện, Chị được các thân nhân cạnh bên chia sẽ cho cháu ít sữa qua ngày. Chị cũng không đến gần chúng tôi vì mặc cảm vì vụng về, chúng tôi đã thăm hỏi và tặng cháu 500.00 ngàn như một chút chia sẽ với hoàn cảnh của Chị. Phần viết giấy biên nhận, chị lắc đầu vì không biết viết hay không biết chữ? Có một thân nhân nuôi bệnh cạnh bên đã viết thay Chị lời cám ơn. Trường hợp thứ 2: 1 bé trai 2 tháng tuổi, cháu tên : Trịnh quốc Kiệt vừa trãi qua ca phẩu thuật mật, nhưng vẫn còn nhiễm gan. hoàn cảnh của cháu cũng đáng cho chúng ta quan tâm. Gia đình ở An Giang, cả cha mẹ cháu cùng dắt díu nhau lên thành phố để chữa trị cho cháu, thời gian nằm viện , Mẹ cháu phải ra ngoài đẩy xe trái cây bán dạo để có tiền đắp đỗi qua ngày. cha cháu ở lại bệnh viện chăm sóc cháu. khi chúng tôi đến được giới thiệu Mẹ cháu đã không ở cạnh cháu vì phải kiếm sống. 2 trường hợp này đều tâm sự với tôi : Họ vào đây để hy vọng con họ đươc cứu, chứ phần tiền bạc họ đánh liều cho bệnh viện khi có toa mua thuốc đặc trị, họ chỉ biết lắc đầu bất lực. Wild cũng tặng cho trường hợp này 500.000 ngàn trích từ Quỹ từ thiện. Vết mổ này của cháu còn rất mới . Cha cháu bé đang tâm sự với Wild về bệnh tình của cháu. Anh cũng lắc đầu nói Wild viết hộ lời cảm ơn vì anh không biết chữ . Wild sẽ scan phần biên nhận lên để tường minh . Tổng kết phần từ thiện hôm nay Wild đã chi : Gia đình Anh Chúc : 2.000.000 vnd + 110.000 vnd quà . Cháu Mai Tim bẩm sinh : 1.500.000 vnd. Cháu bị gan con Chị Đinh thị Mai ; 500.000 vnd Cháu Trịnh Quốc Kiệt : 500.000 vnd. 50 phần quà cho các cháu cùng khoa ; 300.000 vnd Tổng số chi là : 4.910.000 vnd ( bốn triệu chín trăm mười ngàn đồng ) Quỹ còn lại : 365.000 vnd ( ba trăm sáu mươi lăm ngàn đồng )
  25. Như đã hứa với điều dưỡng khoa lần đến thăm trước, Wild đã mua 50 phần quà trị giá 300.000 ngàn để tặng các cháu bệnh nặng đang đươc điều trị tại khoa. Chẳng biết ngày mai ra sao, Wild nhận lời với suy nghĩ 1 phần quà 1 niềm vui, 1 ánh nhìn rạng rỡ để các cháu tin rằng vẫn còn đó sự quan tâm của những tấm lòng đến với các cháu trong sự chống chỏi của cơn đau thể xác mà các cháu đang phải chịu đựng. Dưới đây là một số hình ảnh Chipchip phân phát quà ! 50 phần dường như quá ít so với các cháu có mặt ở đây. Nhưng chúng tôi ra về với niềm hạnh phúc ! Hôm nay có 50 đứa trẻ mân mê món quà màu sắc ấy sẽ ngoan, quên đau đớn, không quấy khóc ít nhất được một ngày. Hy vọng là thế ! Bé này sốt cao ! Nên dù có quà cũng không thích nữa ! Bé này có lẽ được các ni sư chăm sóc hay người nhà của Bé nhỉ ? Chipchip cũng vui khi thấy bé trai này thích chiếc đàn . Bé này sắp xuất viện rồi đây ! Mong sao các cháu sẽ khỏe mạnh và ra về bình an! Chúng tôi đã hoàn thành việc trao quà từng em dù vẫn còn đó những em chưa biết nhận thức phần quà đó sử dụng thế nào vì chưa qua cơn đau .