-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
"Ăn vặt", giảm bệnh Thứ năm, 5/3/2009, 14:54 GMT+7 Người vẫn cho rằng thói quen "ăn vặt" có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, dễ gây các bệnh đường tiêu hóa, răng miệng... Nhưng chỉ cần biết cách "ăn vặt" hợp lý thì lại có tác dụng nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Một số bệnh cần "ăn vặt" Theo BS Hà Tiến Phan - Bệnh viện 354, để giữ sức khoẻ, tốt nhất là nên uống trước khi khát nhưng không uống quá nhiều, nên ăn trước khi đói nhưng không được ăn quá no. Nên ăn ít và chia các phần ăn thành nhiều lần, không nên ham ăn nhiều sinh tức bụng, khó chịu trong cơ thể. Đối với những người mắc bệnh huyết áp thấp, trong túi nên thường xuyên mang theo đồ ăn như các loại bánh quy, các chế phẩm từ sữa... Vì người ta thấy rằng bệnh huyết áp thấp thường gặp ở những người hay bỏ bữa ăn, khoảng cách giữa các bữa quá xa, dẫn đến giảm hàm lượng đường máu. Thói quen này làm giảm trương lực (sự đàn hồi, sự dẻo dai) của mạch máu và kết quả là tụt huyết áp. Vì vậy, phải duy trì chế độ ăn hợp lý 3 - 4 bữa/ngày, ăn giảm khối lượng, chia nhỏ khẩu phần ăn trong ngày. Một số thức ăn đồ uống có tác dụng làm tăng huyết áp như: Cà phê, nước chè đặc, ăn thức ăn đậm muối, nước sâm, bột tam thất, rau cần tây, nước nho... Với những người mắc bệnh viêm dạ dày, việc ăn quá no hoặc để bụng quá đói cũng làm cho bệnh tiến triển nặng thêm. BS. Phan cho rằng, trong bữa ăn chỉ nên ăn no từ 80 - 85% chứ tuyệt đối không nên ăn no hoàn toàn. Khi đói bụng, có cảm giác cồn cào là phải có thực phẩm bổ sung ngay. Nếu là trong giờ làm việc thì không nên vừa ăn vừa làm vì khi làm việc, nhất là làm việc trí não, một lượng lớn máu sẽ được "huy động" tới trung khu thần kinh để phục vụ cho các hoạt động trí não. Lượng máu cung cấp cho dạ dày để thực hiện chức năng tiêu hoá cũng từ đó mà giảm đi khiến cho bệnh nặng thêm. Do vậy, nếu thấy có nhu cầu "ăn vặt" trong giờ làm việc thì nên nghỉ ngơi, thư giãn ít phút để tập trung ăn nhưng nên nhớ là lượng ăn phải rất ít. Ăn quá no ở bất kỳ thời điểm nào cũng làm tăng gánh nặng tiêu hoá của dạ dày, không tốt cho việc điều trị bệnh. "Ăn vặt" cũng phải đúng cách... Để "ăn vặt" không trở thành một thói quen xấu, có hại cho sức khỏe thì điều quan trọng là phải lựa chọn được đồ "ăn vặt" thích hợp. Cụ thể là chọn những loại thức ăn giàu dinh dưỡng, vitamin và chất xơ, không ăn những đồ ăn nhiều chất béo, quá ngọt hoặc mặn... Đồ ăn vặt thích hợp nhất có thể là các loại hoa quả, bánh quy giàu canxi, các chế phẩm từ sữa... "Ăn vặt" đúng cách không chỉ có lợi cho sức khỏe mà còn nâng cao khả năng làm việc. Ngược lại, nếu chọn những đồ "ăn vặt" không phù hợp có thể gây ra chứng béo phì, bệnh tiểu đường, gút... Sau khi ăn xong, việc chăm sóc, vệ sinh răng miệng cũng rất cần thiết bởi nếu không vi khuẩn gây sâu răng sẽ dễ dàng tấn công. Việc đánh răng thường chỉ được thực hiện vào buổi sáng, sau bữa ăn trưa và buổi tối. Còn việc vệ sinh răng miệng sau khi "ăn vặt" thì chưa được chú ý lắm hoặc cũng không có thời gian để thực hiện mặc dù "ăn vặt" là thói quen khá phổ biến. Sau khi ăn xong, thường thì người ta chỉ uống một ngụm nước tráng miệng là xong phần vệ sinh răng miệng. Theo Hồng Anh
-
Ngọc lan chữa bệnh Ảnh: CTV Hoa ngọc lan không chỉ mang lại hương thơm mà còn có công dụng chữa bệnh rất hay. Công dụng của ngọc lan Ngọc lan là loại hoa có mùi thơm ngất ngây rất đặc biệt, là loài thực vật thuộc họ mộc lan. Hoa ngọc lan có 2 loại quen thuộc thường gặp là ngọc lan trắng và ngọc lan vàng. Mùa xuân (vào độ tháng 2) là lúc ngọc lan nở. Khi nụ hoa chưa nở, thu hoạch, cắt bỏ cành, phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) dùng để làm thuốc. Theo y học cổ truyền, hoa ngọc lan có vị đắng, cay, hơi ấm, có tác dụng chống ho làm long đờm, lợi tiểu, làm phấn chấn, trấn kinh, khu phong, kiện vị, giáng áp, giải độc. Dùng chữa các chứng ho, đầy hơi, buồn nôn, sốt, bí tiểu tiện, cao huyết áp... Ngoài hoa, lá, rễ, vỏ thân cây ngọc lan đều có tác dụng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. Dưới đây là những ứng dụng phong phú của ngọc lan dùng làm thuốc chữa bệnh. Một số cách dùng ngọc lan chữa bệnh * Chữa ho đau yết hầu Dùng 20g hoa ngọc lan đem tẩm mật ong trong 3 ngày rồi sắc uống như trà, có thể dưỡng phế nhuận yết hầu, điều lý trường vị, chữa trị ho do không khí không tốt, ngực và cách mạc đầy trướng và đau, đầu vựng mắt hoa. * Chữa vô sinh Dùng 10g hoa ngọc lan chưa nở sắc uống thay trà, uống vào buổi sớm. Cứ 30 ngày một liệu trình, có thể cải thiện thống kinh và vô sinh nữ. * Trị ho trừ đờm, lợi tiểu tiện Hải triết 2 mảnh, dưa hồng 1 quả, cà rốt 1 củ, tỏi 5 củ, hoa ngọc lan 15g. Gia vị gồm giấm trắng 1 thìa to, dầu thơm 1 thìa nhỏ, xì dầu 1 thìa, đường 1 thìa. Hải triết bì dùng nước ngâm nhiều lần rồi rửa sạch, khử mùi tanh. Dưa rửa sạch, bỏ đầu, cuống và tua, thái nhỏ như tơ. Cà rốt cạo vỏ ngoài thái nhỏ. Hoa ngọc lan rửa sạch, bóc cánh rồi thái nhỏ. Cho tất cả các nguyên liệu trên trộn đều với nhau, thêm gia vị sau đó rắc hoa ngọc lan lên trên cho thêm nước vừa đủ rồi sắc như sắc thuốc là được. Bài thuốc này có tác dụng trị ho trừ đờm, lợi tiểu tiện. * Giúp trắng da, tiêu hóa tốt Hoa ngọc lan 6g, trà xanh 1 thìa. Bóc tong cánh hoa ngọc lan, rửa sạch hoa bằng nước muối, để ráo nước, cho vào trong chén. Rót nước đang sôi vào chén, sau đó cho trà xanh, đợi có mùi hương bay ra, có thể uống thay trà. * Chữa sốt, kinh nguyệt không đều, tiểu tiện khó Lấy vỏ thân cây ngọc lan, cạo sạch lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô. Lấy 30g vỏ sắc với 400 ml nước cho đến khi còn 100 ml, uống 2 lần trong ngày. * Chữa sưng tấy Lấy lá ngọc lan loại non và bánh tẻ rửa sạch, giã nát, đắp vào chỗ sưng tấy. * Chữa viêm phế quản mạn tính ở người cao tuổi Lá ngọc lan 30g, lá cây dừa 30g, giun đất đã chế biến 5g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống. * Chữa ho Hoa ngọc lan 30g, mật ong 40g, cho 2 thứ vào hấp cách thủy trong 20 – 30 phút để ăn. * Chữa đau bụng kinh ở phụ nữ Ngọc lan 20g, ý dĩ nhân 30g, hạt đậu ván trắng 30g, hạt mã đề 5g sắc uống trong ngày. * Chữa viêm xoang Lấy hoa ngọc lan lúc còn xanh, sấy khô giòn, tán và rây thành bột mịn, đựng vào lọ kín. Khi bị chảy nước mũi, mở lọ ngửi và hít mạnh để bột thuốc bay vào mũi, ngày làm 2 – 3 lần. Hoài Vũ nguồn thanhnienonline
-
Cái này cơ quan điều tra họ làm rồi anh ạ ! Với 1 vụ án, thông thường họ kết hợp với bên viễn thông truy tìm được cả Sim K.A vất ở đâu vì chỉ cần phát sóng phóng tín hiệu là sẽ kết nối được tất. Vấn đề là họ nghi binh để đánh lạc hướng các đối tượng liên quan và họ chưa công bố với báo chí thôi ạ ! Có khả năng vụ án này sẽ có kết luận đơn giản để đi vào quên lãng......... :rolleyes:
-
Nhà thơ nổi danh điên cuồng (biệt hiểu Hải khùng) ngay từ nhỏ đã có những câu thơ như 1 dự báo về chính cuộc đời của ông khi ông cũng là 1 Phá Quân gặp Hỏa Tinh ôm Xuơng Khúc nên chỉ có ông mới tiên đoán được cái chết đau đớn chính mình khi tình đời phản bội và người thân nay biến người thù. Người tình trăm năm tưởng là vợ sẽ ở mãi với mình nhưng sự thay lòng đổi dạ như 1 con dao nhọn đâm nát trái tim ông để nhà thơ cuồng loạn nhưng rất được yêu mến qua các dòng nhạc thổn thức nói lên tâm trạng của 1 kẻ thèm yêu nhưng không bao giờ thỏa mãn chỉ vì Phá Quân là phá hại tanh banh tất cả những thứ chung quanh Chúng ta hãy đọc lại trích đoạn của bài thơ Thà Như Giọt Mưa của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên hi sinh đến điên cuồng vị nghê thuật mà con người của ông đã quá bất bình thường để vợ con và bè bạn của ông phải từ từ xa la'nh ông, rồi cuối cùng ông tìm cái chết trước cổng chùa lặng lẽ và rất tự nhiên . Người từ trăm năm về như dao nhọn người từ trăm năm về như dao nhọn dao vết ngọt đâm ta chết trầm ngâm dòng máu chưa kịp tràn dòng máu chưa kịp tràn Người từ trăm năm về khơi tình động người từ trăm năm về khơi tình động ta chạy vòng vòng ta chạy mòn hơi nào có hay đời cạn nào có hay cạn đời Hơn 30 năm trước nhà thơ Phá Quân viết về viễn cảnh của phần cuối cuộc đời mình quá bi thảm, nhưng đó cũng là 1 thông điệp huyền bí báo trước cái chết bằng dao kéo dữ dội của tình nhân tượng Phá Quân của cô Kim Anh. Người tình trăm năm của kiếp trước đã gặp oan gia nên Kim Anh sát thuơng Tiến Chính là sự kiện tất yếu xãy ra vì duyên kiếp sẽ gặp và nợ nần còn thiếu nên có người đến đòi. Tại sao lại nói như thế, có bằng chứng vì qua sự sắp xếp các cung số biê/n hiện hình tướng, lý tính và thơi kỳ ứng hiện ? Trích từ bài viết của Killbill cho vụ án K.A
-
Nếu có sự đóng góp của HC, Wild sẽ có phương án đến tay họ. Như cách của Anh Thiên Sứ là một.
-
Đồng ý với Anh Thiên Sứ, Nếu nhanh chóng chúng ta sẽ nhờ Văn Phòng trung tâm tại Hà Nội chuyển giúp đến tận tay họ. Wild sẽ ứng trước cho Anh khi đã tổng hợp được sự đóng góp của các thành viên. Wild thật sự xúc động và cảm kích trước tấm lòng và nghĩa huynh đệ thời nay còn sót lại.
-
Văn phòng Trung tâm là nơi tiếp khách của Sư Phụ !
-
Ngôi chùa thiêng bị lãng quên hơn hai thế kỷ (Dân trí) - Nằm ngay dưới chân núi Tuyết Sơn, giữa cánh đồng mênh mông có một ngôi chùa cổ kính được xây dựng từ năm 1801. Trải qua thời gian với nhiều đổi thay của thời cuộc, ngôi chùa đã xuống cấp trầm trọng và đang kêu cứu...Cho đến nay, sau hơn 200 năm tồn tại, ngoài sự chăm sóc của các bô lão và người dân trong làng, ngôi chùa không nhận được sự quan tâm chính đáng của chính quyền địa phương và di tích này gần như bị bỏ hoang giữa cánh đồng. Ngôi chùa là chứng nhân lịch sử Phải đi men theo những quả núi cao, chằng chịt những hố rãnh sâu hoắm bị nước sói mòn, băng qua một ngôi làng nhỏ, thưa thớt dân cư, chúng tôi mới đến được xóm 8, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc (Nghệ An) để tận mắt chứng kiến một ngôi chùa được xây dựng vào năm đầu tiên của thế kỷ XIX đã gần như bị lãng quên - chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát. Trải qua bom đạn chiến tranh ác liệt vậy mà khu chính điện của ngôi chùa vẫn còn khá nguyên vẹn. Những hình rồng cuộn trang trí trên bức tường phía sau, những pho tượng cổ và những câu đối còn nguyên nét mực... Từng vết rêu mốc của thời gian hằn rõ lên cả những viên đá lát trong khuôn viên chùa. Dòng chữ được ghi dưới những họa tiết hoa văn tại gian Thượng vẫn còn đến bây giờ. (Ảnh Q.C) Những chứng cứ chính xác còn để lại như năm xây dựng ngôi chùa được viết trang trọng, ẩn sau những khúc rồng cuộn trên bức tường phía sau. Ngôi chùa này được xây dựng năm 1801, sau triều Tây Sơn Nguyễn Huệ, tức trước năm mà vua Gia Long chính thức lên ngôi.Theo ghi chép còn lại của làng, thực địa nguyên thủy của chùa được xây dựng trên một khu đất có chiều dài 85m, chiều rộng 82m, tổng diện tích lên đến 6970m vuông. Chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát là một ngôi chùa lớn và quan trọng về giá trị văn hóa và tâm linh lúc bấy giờ. Cấu trúc của chùa gồm chùa Thượng và chùa Hạ, lợp ngói vảy cổ kính. Phía trên cửa cổng chùa Thượng đắp nổi hình con Hổ Long lớn. Phía trong chùa trên vẽ hình 2 con rồng chầu mặt nguyệt lẫn vào các đám mây đoạn khuất, đoạn hở, nhiều pho tượng đồng, tượng gỗ được đúc, chạm khắc tinh xảo...Các vị bô lão trong làng cho biết, chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát là một ngôi chùa thiêng. Khoảng năm 1972 - 1973, một trại nuôi lợn được chuyển đến ngay bên cạnh ngôi chùa, trong năm đó, một con lợn mẹ đã đẻ ra một con voi con. Ngay sau đó, con voi con chết, được người dân trong làng chôn cất trên một gò nhỏ cạnh chùa rồi thờ cúng từ đó. Cho đến tận bây giờ, những người trong làng qua cổng chùa đều phải bỏ nón, khom người và thành kính nếu không sẽ bị “ngài quở” sinh ốm đau. Chính vì ngôi chùa linh thiêng như vậy mà người dân trong làng vẫn đều đặn hàng trăm năm nay đều tổ chức lễ bái vào các ngày rằm tháng giêng, 19/01 âm lịch, 03/03 âm lịch, 10/10 âm lịch. Không chỉ mang giá trị tinh thần, ngôi chùa này còn chứng kiến và tham gia vào nhiều biến cố lịch sử. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, do địa thế nằm giữa cánh đồng, chùa đã được dùng làm nơi huấn luyện dân quân, du kích địa phương. Vườn chùa qua nhiều năm tháng là nơi diễn ra các cuộc họp bí mật của Đảng bộ địa phương và nhiều cán bộ lão thành cách mạng. Từ năm 1949 - 1955, nhà chùa còn là trường học của con em trong vùng. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại, từ năm 1968 - 1976, chùa nơi kho chứa vũ khí, chủ yếu là các loại đạn pháo bắn tàu thủy địch: 75, 85, 120 li, lựu đạn.... Từ năm 1969 - 1977, ngôi chùa lại tiếp tục trở thành trụ sở kháng chiến cho ủy ban nhân dân xã Nghi Tiến. Lưỡi rìu đá và bình vôi được người dân phát hiện trong khuôn viên di tích Mới đây, trong quá trình canh tác xung quanh ngôi chùa, người dân trong vùng đã tìm thấy rất nhiều cổ vật của ngôi chùa từng bị “độn thổ”. Đáng lưu ý trong đây là hàng chục chiếc bình vôi nhỏ, thiết kế tinh xảo, khi rửa sạch bùn trở nên sáng loáng, những chiến lưỡi rìu đá và hàng chục kg tiền đồng cổ. Đặc biệt, theo sách vở ghi chép để lại, chùa từng có một tấm bia đá lớn có 17 dòng chữ Hán được khắc theo hàng dọc từ trên xuống ghi lại sắc chức các vị quan tướng có công. Sau nhiều năm bị mất tích, mới đây người dân trong vùng đã tìm được phần chân của bia đá. .Di tích đang kêu cứu Qua thời gian và bom đạn ác liệt, diện tích chính thức hiện nay của ngôi chùa chỉ còn lại 880m2. Bên cạnh đó, do chưa có sự công nhận di tích chính thức của địa phương cùng những phương án bảo tồn di tích cụ thể, ngôi chùa vẫn đang phải chịu cảnh nguy nan. Người dân nghèo nơi đây chỉ đủ tiền góp xây cổng Tam Quan và tường bao để bảo vệ di tích. Ông Võ Đình Nông, người trông nom chùa hiện nay than thở: “Tôi nối tiếp cụ thân sinh ra tôi là đời thứ hai trông nom ngôi chùa này. Hiện nay, chùa đang bị xuống cấp nghiêm trọng, chúng tôi biết mà bất lực vì không có kinh phí trùng tu”. Những hoành phi câu đối, hình họa tiết cổ cùng những bức tượng cổ đang rất cần sự bảo quản và tôn tạo của chính quyền địa phương. Nếu không có sự quan tâm kịp thời thì không chỉ di tích này mà ngay cả những cổ vật được khai quật sẽ hư hỏng theo thời gian. Nói về số phận của ngôi chùa hơn 200 tuổi, ông Lưu Quang Thượng - Chủ tịch ủy ban nhân dân xã Nghi Tiến - cho biết: “Chúng tôi cũng biết đây là một di tích có ý nghĩa rất quan trọng, vì thế xã cũng đã tiến hành thủ tục để trình lên các cơ quan chức năng có thẩm quyền cao hơn quan tâm công nhận di tích cũng như có phương án trùng tu, tôn tạo ngôi chùa, tránh để di tích này bị lãng quên và xuống cấp như hiện nay”.Thế Cường
-
Đấy cũng là minh chứng sự tồn tại nền văn hóa việt đã có từ xa xưa trước qua những di tích cổ , Vì sự thiêng liêng đó càng khẳng định vị trí của thuyết âm dương ngũ hành là nền văn minh Việt.
-
Dù thế nào đi nữa bạn đã đến với Lý học đông Phương là đã có cơ may có người giúp bạn, nếu ở hà nội bạn hãy tìm đến Phạm Cương, cậu ấy vừa KTS vừa Phong thủy, Nếu xây mới lại từ đầu bạn lại có cơ may CHUẨN cho một cuộc sống llâu dài. Nếu bạn ở tp Hcm bạn chờ Sư Phụ về đã.
-
Đã làm người sống trong nhân gian ai cũng có sẵn hoặc tạo cho mình thêm nghiệp quả vì thế cũng nên biết để cải tạo cho mình nhân lành. Tuy nhiên Định mệnh có thật! Và chúng ta chỉ thay đổi được định lượng chứ không thay được định tính của số phận. Mà muốn xoay chuyển ta gây cho túi phước đầy túi tội sẽ vơi!
-
Dự định của Wild, trong tuần tới nếu sắp xếp được thời gian, chúng tôi tổ chức lên thăm gia đình Ông Tẩu lần nữa để chuyển giao số tiền còn lại trong quỹ đồng thời giúp ông làm chuồng nuôi gà do Thiên sứ tài trợ. Còn vấn đề trồng rau để cải thiện bữa ăn, tôi e rằng không thực hiện được vì gia đình Ông không có nguồn nước và đất thì khô cằn. Có lẽ chúng tôi đi lần này sẽ liên hệ với hàng xóm tìm hướng giúp đỡ gia đình Ông và 2 cháu.
-
Trích Ngovansan 6. Với lá số tử vi của tôi, nếu theo PTLV là Đại hải thủy, với sách Tàu là Phúc đăng hỏa. Vậy mạng tôi là gì? Giữa Tàu và Việt khác nhau Thủy & Hỏa và Tốn & Khôn đổi chỗ cho nhau , Đấy là điểm khác biệt ưu việt.
-
Làm sao bạn biết miếng đất này không tốt ? Bạn chỉ cần cho biết tuổi của người nào đứng chủ khi về ở ! Mặt tiền hướng nào ? Diện tích đất ? Bản vẽ ? Cứ khơi khơi như vậy không giúp bạn được .
-
Tượng đá cụt đầu công chúa Mỵ Châu: Huyền thoại và sự thật Thứ ba, 3/3/2009, 15:12 GMT+7 Lâu nay, du khách gần xa mỗi lần về thăm thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) khi đến ngôi am nhỏ thờ nàng Mỵ Châu công chúa đều được các bô lão ở đây kể cho nghe một truyền thuyết gắn liền với pho tượng đá cụt đầu được thờ trong am. Trong câu chuyện không biết có bao nhiêu phần trăm là sự thật nhưng dân gian vẫn xem bức tượng là hiện thân của Mỵ Châu công chúa và là minh chứng sắt đá cho lòng trung nghĩa. Tuy nhiên, gần đây lại có ý kiến cho rằng thờ pho tượng đá cụt đầu nghĩa là vô hình chung xem An Dương Vương là người cha tàn nhẫn và tạo ấn tượng không đẹp về hình ảnh đất nước chúng ta trong mắt bạn bè quốc tế?! Du khách thập phương đến viếng am thờ Mỵ Châu Chuyện tình đẫm lệ và huyền thoại về những viên ngọc trai nuôi từ máu...Chuyện kể rằng: sau khi mắc mưu cha con Triệu Đà, thành Cổ Loa thất thủ, vua An Dương Vương cưỡi ngựa cùng công chúa Mỵ Châu chạy về phía Nam, đến đèo Mộ Dạ (thuộc đất Diễn Châu, Nghệ An bây giờ) thì ngựa cùng sức kiệt, vua ngoảnh mặt ra biển và khấn thần Kim Quy lên để thần cứu mình. Thần Kim Quy hiện lên và chỉ: “Giặc đang ngồi sau lưng nhà vua đó”... Vua An Dương Vương nhìn lại, thấy công chúa Mỵ Châu đang miệt mài rứt lông ngỗng từ chiếc áo để đánh dấu cho Trọng Thủy tìm theo. Nghĩ con mình phản bội, vua cha rút gươm, chém đầu Mỵ Châu. Trước khi chết, Mỵ Châu quỳ xuống chân vua cha và nguyện rằng: “Oan cho con lắm. Nếu con là kẻ bất trung có lòng hại cha, khi chết, thân xác con sẽ biến thành tro bụi. Bằng không hóa thành ngọc, thành đá trôi về hầu cha”. Quả nhiên vì Mỵ Châu là người vô tình bị mắc mưu kế của Trọng Thủy nên khi chết, máu của nàng chảy xuống biển. Các loài trai, sò ăn vào biến thành ngọc. Còn thân mình nàng biến thành một tượng đá cụt đầu trôi ngược biển Đông, về đến dòng sông, đất Cổ Loa thì dừng lại ở đó. Kỳ lạ thay từ ngày có tượng đá, nhiều chuyện lạ đã xảy ra. [/size] Nhiều trẻ chăn trâu ra chơi đùa, nghịch ngợm trên tượng đá liền bị ốm, trâu bò “làm bậy” quanh tượng đá liền lăn đùng ra chết. Nhiều người thấy tượng đá lạ, đẹp, muốn khiêng về thì không thể nào lay chuyển được. Thấy sự lạ, các bô lão làng Cổ Loa liền cử một đám thanh niên lực lưỡng, tắm gội sạch sẽ, khiêng võng đào ra, làm lễ xin được rước tượng đá về thờ thì khiêng được. Khi khiêng về đến đền “Ngự triều Di quy” bỗng nhiên tượng tuột xuống, không thể khiêng đi được nữa. Dân làng thấy vậy liền lập am thờ, ngày đêm hương khói và cho rằng tượng đá là hóa thân của công chúa Mỵ Châu trôi về hầu cha như lời nguyện trước khi nàng chết. Pho tượng cụt đầu là một khối đá nguyên vẹn, có hình dáng của một người cụt đầu ngồi theo thế xếp bằng, hai tay đặt song song và bàn tay đặt lên đầu gối Trong sách “Thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thủy” của tác giả Chu Trinh, NXB Thanh Hóa - 2005 còn có đoạn: “Năm 40 sau công nguyên, Hai Bà Trưng đi đánh Tô Định ở thành Luy Lâu - Hà Bắc có giấu quân một đêm ở thành Cổ Loa. Trong đêm đó Bà Trưng mộng thấy có một người con gái hiện về trong giấc mơ, kể lể oan tình và xin được âm phù Hai Bà cùng các tướng lĩnh, tiêu diệt Tô Định và quan quân nhà Hán để trả mối thù cướp nước hại nàng. Sáng dậy, Bà Trưng đi hỏi bô lão Loa Thành, nơi đây có thờ người con gái nào không? Bô lão Cổ Loa nói, có thờ công chúa Mỵ Châu - con gái vua An Dương Vương. Hai Bà Trưng mổ trâu cúng lễ rồi xuất quân đến sào huyệt của Tô Định ở Luy Lâu đánh tan bè lũ cướp nước hại dân”.Dấu ấn thời gian của truyền thuyết này hiện vẫn còn được lưu dấu qua đôi câu đối cổ trong am thờ công chúa Mỵ Châu:Phiên âm: Thiên cổ thụ giai khí uất thông, duyên đới tình căn hoàn tẩm miếu Nhất phiến thạch bình sanh trung tín, tiềm linh hạo sảng bạn vương cung. Dịch nghĩa: (Cây nghìn năm khí lành phảng phất, rễ tình dây duyên quấn quanh miếu điện Đá một phiến giữa đời thành thật, thiêng ngầm sáng rõ quyến luyến cung vua) (Nguyên tác Hán văn: Lê Dư, dịch Việt văn: Phạm Hoàng Quân) Tượng cụt đầu có phải là hiện thân của công chúa Mỵ Châu?Theo cụ Chu Trinh, 82 tuổi – nguyên là cán bộ văn hóa xã Cổ Loa, người từng viết nhiều cuốn sách ghi lại các truyền thuyết được truyền tụng trong làng Cổ Loa: Truyền thuyết xưa có truyền lại, nguyên thủy của pho tượng cụt đầu là một khối đá nguyên vẹn, có hình dáng của một người cụt đầu ngồi theo thế xếp bằng, hai tay song song, đặt lên đầu gối. Nhưng sau này các cụ cao niên trong làng Cổ Loa, trong đó có cả cụ Chu Trinh đã phát hiện ra pho tượng đá gồm ba khối đá ghép lại, trong lòng có chỗ bị rỗng. Am thờ công chúa Mỵ Châu bên trái đền Ngự triều Di quy[/color] Pho tượng đá cụt đầu là tượng đá nguyên khối hay do ba khối đá ghép lại hiện vẫn chưa có một văn bản cổ nào chứng minh điều đó. Tuy nhiên, theo cụ Chu Trinh: Thời ông cha cụ còn sống có kể lại, vào thời Bắc thuộc, Mã Viện đã cho quân lính bổ pho tượng ra để moi ngọc trong lòng pho tượng nên tượng mới bị chẻ ra làm ba mảnh (?!)... Chuyện pho tượng đá cụt đầu có phải là hiện thân của nàng Mỵ Châu công chúa hay không vẫn đang còn là vấn đề bỏ ngỏ. Tuy nhiên, sự kỳ lạ khiến nhiều người tin rằng đó chính là hiện thân của công chúa Mỵ Châu có lẽ bởi dù đó là một pho tượng đá không hề có dấu vết đục đẽo, tạo tác gì của con người nhưng lại rất giống hình hài của một người bị cụt đầu. Ông Trần Quang Dũng - Phó giám đốc Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa cho rằng: “Nếu chúng ta đi tìm một sự thật lịch sử nào đó mà không có những cứ liệu khoa học thì có thể sẽ làm tổn thương đến tâm thức tín ngưỡng của người dân. Với vai trò của một người quản lý khu di tích, tôi thấy người dân Cổ Loa, người dân Bắc bộ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung đã có những tình cảm, ấn tượng rất tốt đẹp đối với việc thờ cúng ở đây. Do đó chúng ta không nên mất công đi tìm một sự thật nào đó ở phía sau huyền thoại. Còn về phía Trung tâm bảo tồn khu di tích Cổ Loa lâu nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào cụ thể về trường hợp đặc biệt này”. Còn theo ý kiến của nhà nghiên cứu văn hóa Hà Văn Thùy: Để thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, không nên để pho tượng người cụt đầu trong đền thờ Mỵ Châu công chúa. Bởi theo ông: “Thứ nhất, theo “Ðại Việt sử ký toàn thư”, truyền thuyết Mỵ Châu- Trọng Thủy chỉ ghi: “Khi nghe thần nói giặc ở sau lưng, nhà vua quay lại thì hiểu ra tất cả, ngài rút gươm chém chết con gái. Máu nàng Mỵ Châu hoà vào biển...” nghĩa là không hề có nhân chứng vật chứng nào xác quyết nhà vua đã chém đứt đầu con mình . Tiền sảnh đền Ngự triều Di quy - nơi thờ các quan văn, võ nước Âu Lạc Hơn nữa, trái tim nhân từ của một người cha, một đức vua ngoài 70 tuổi như An Dương Vương khó có thể làm một việc tàn nhẫn là chém đứt đầu con mình dù đó là một người có tội. Việc để pho tượng cụt đầu trong am thờ chẳng khác nào nghĩ oan cho vua cha - Thứ hai: Có thể xem tượng đá cụt đầu là một ước vọng tâm linh của người dân trong việc đề cao lòng trung nghĩa của công chúa Mỵ Châu, nhưng chúng ta đều biết: từ bao đời nay cha ông ta vẫn tự hào nước mình là một nước văn hiến, nhân bản do đó việc chọn một hình ảnh bi thảm nhất trong một câu chuyện để tôn thờ liệu có trái với đạo lý ngàn năm của cha ông!? Pho tượng liền một khối hay là do ba khối đá ghép lại, trong lòng có chỗ bị rỗng? Đến nay điều này vẫn chưa có lời giải đáp thoả đáng! Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng lúc sinh thời cũng đã từng tìm hiểu về sự kỳ lạ của pho tượng Mỵ Châu và cho rằng: Đây là một khối đá thiên tạo, thuộc dòng đá cuội, hệ đá granit thường chỉ có ở vùng núi cao. Việc xuất hiện một tượng đá như thế ở vùng đồng bằng như Cổ Loa là một hiện tượng hiếm thấy! Xem ra câu chuyện về pho tượng vẫn còn nhiều điều bí ẩn... Theo Hà Tùng Long nguồn tintuconline
-
Có khả năng trong xe có đèn trần, nên trời tối nhìn vào trong dễ thấy hơn ban ngày.
-
Lọ lục bình kêu liu riu Thứ ba, 17/2/2009, 07:00 GMT+7 Tính đến năm Kỷ Sửu này, tôi mới ngoài sáu mươi. Chính xác là vừa chạm sáu mốt từ nửa tháng giêng Tây vừa rồi. Nhưng tôi đã nhanh chóng trở thành một ông già. Lòng dạ tôi hẹp như một chiếc lọ lục bình. Lọ lục bình mà kêu liu riu như trong thơ dân gian thì hay quá. Đằng này lọ lục bình tôi tăm tối như đêm ba mươi. Tuổi tác chưa là gì, nhưng sao tôi hay tự ái vặt. Hình như máu tự ái là tài sản gia truyền. Nó có tính kế thừa một cách cố hữu. Người ta nói tận sao Kim sao Hỏa mà cũng nghe được. Nghe được là vận ngay vào bản thân mình. Vận vào là tự thấy mình bị xúc phạm. Bị xúc phạm liền phản ứng tức thì. Phản ứng tức thì mà không cần soi xét phải trái đúng sai. Hồ đồ quá. Chính xác là hồ đồ, phải không các bạn? Những người chịu trận cơn giận vô cớ này chẳng ai khác, đó là những người thân trong gia đình mình. Họ biết tường tận cái tính khí thất thường này của tôi lâu rồi. Nhưng buộc lòng vợ con phải sống chung với lũ. Tôi là một cơn lũ bất thình lình. Chẳng kể mùa nào. Chẳng kể giờ nào. Cơn lũ bắt đầu bằng tai. Sau đó truyền lên mắt. Nghĩa là có một quy trình vận hành trong các cơ quan thị giác, thính giác đoàng hoàng, có trật tự. Cơn lũ trong tôi dâng lên từ từ. Mỗi ngày thêm một tý. Này là chúng nó coi mình là người thừa. Chúng đã lừa vì thấy mình hiền lành, thật thà. Chúng nó lợi dụng tính tin người, cả nể của tôi. Thôi thì trăm đường quy kết cho chúng nó. Chúng nó là con gái con trai ngoan hiền, chưa có biểu hiện hư hỏng gì đâu. Hồi chúng còn bé, hoàn toàn phụ thuộc vào mình. Bây giờ chúng nó sủi tăm, dám coi thường ta. Á à thế thì cho chúng mày biết thế nào là quyền lực của cái người đẻ ra và kỳ công nuôi dưỡng chúng. Cơn lũ trong tôi dâng lên từ từ. Mỗi ngày một tý. Hàng ngày ra cơ quan, chẳng ai người ta thèm để ý cái lão ủy viên thất sủng. Chẳng ai hỏi han một lời dạo này vẫn khỏe chứ? Sắp hưu chưa? Đến tuổi hạ cánh an toàn rồi còn gì. Ngần này tuổi mà vẫn tại vị, không thấy ngượng sao?Thơ đâu rồi, tết này không thấy in bài nào cho nó máu? Tiền công tác phí từ tháng 12 năm ngoái, vì sao chưa được thanh toán. Hội thảo văn chương, đi nước ngoài không thấy ai mời nữa. Nói tóm lại, tôi nhanh chóng trở thành một viên chức ngoài rìa trong bộ máy nhà nước. Cơn lũ trong tôi dâng lên từ từ. Mỗi ngày một tý. Nghĩ xa nghĩ gần. Thấy mấy thằng bạn hồi xưa, học dốt hơn mình. Đạo đức lăng nhăng kém cỏi hơn mình. Chúng nó chưa từng là đảng viên, chưa từng cầm súng bảo vệ đất nước. Tại sao nhà lầu xe hơi mới coong? Tại sao con lớn con bé của chúng chẳng học hành trong nước. Đi một bước áo quần sáng bóng, cười tươi một bước. Rặt một lũ cơ hội, hay do ngẫu nhiên của việc sinh đẻ vào giờ sung sướng? Nhìn mấy cái mặt ngu si, đần độn, bóng lộn chường ra trên báo, tức lộn ruột. Cơn lũ trong tôi dâng lên từ từ. Mỗi ngày một tý. Trời ơi! Tại sao, từ bao giờ tôi sinh ra đổ đốn, nhỏ bé như thế này? Nhìn vào ai cũng chỉ thấy cái xấu xa bỉ ổi của họ. Chẳng thấy người nào trong sáng tài năng bằng mình. Cứ lấy ta làm chuẩn cho mọi tiêu chí đánh giá con người, trong một không gian xã hội quen biết hẹp. Trong khi ta đích thị là một gã đàn ông ruột gan như chiếc lọ lục bình. Tài chí phốp pháp rỗng tuếch như bọng ong hút hết mật. Bây giờ, ta là một cái xác biết đi, biết ăn, biết cười nói không hơn không kém. Buồn thật. Xấu hổ thật. Buồn và xấu hổ đến nỗi không dám rửa mặt, cạo râu, soi gương. Vì trong gương sẽ có một cái mặt phèn phẹt. Cái mặt í không còn chơi được nữa. Nó lì lợm. Nó trơn tuồn tuột. Nó “chuối”. Nó “ngầu”. Mặc dù nó phồng mang nhăn nhở cười. Nhưng cái mặt vẫn thâm sì tối om như thằng nghiện. Tất cả đều từ lòng tham lam, máu sân hận, tình si mê mà ra cả. Không biết có phải vậy không. Người ta bảy tám chín mươi chục mà còn vui vẻ trẻ trung, hồn nhiên như nước, tỉnh táo ráo xoạc như lửa. Họ yêu nhau điên khùng. Họ vẽ tranh điên khùng. Họ làm thơ điên khùng. Họ tôn vinh tình yêu ngang một thánh đường. Tình yêu con người trong họ, đã tưới mát cho những cánh đồng sỏi đá khô hạn. Những cánh tay tình yêu làm thành cây cỏ. Chúng vươn dài, vươn xa mút mắt. Họ đã được đền đáp bằng chính những bông hoa tình yêu của mình. Hoa chính là cơ quan sinh dục, bộ phận sinh sản. Hoa là cái chỗ sexy nhất. Vì thế ai ai cũng cần có hoa. Vui có hoa. Buồn có hoa. Chết đi càng cần hoa. Hoa mở đường vào nơi ồn ào cuộc sống. Ở quê tôi không nhiều hoa như thành phố. Nên họ phải làm hoa bằng giấy nhuộm phẩm. Xanh. Đỏ.Vàng.Tím. Hồng. Trắng bạc…Những mâm hoa, sợi hoa tua tủa như mưa. Mưa hoa trong nhà. Mưa hoa ngoài sân. Hoa treo trước ban thờ. Ở đâu có hoa là ở đấy cuộc sống đang nồng nàn. Ở đâu có hoa là ở đấy có cuộc sống hiến dâng. Hiến dâng cái đẹp. Hoa là hiện thân của cái thiện. Hoa chỉ biết cho chứ không hề nhận lại. Những cây hoa giấy ở quê tôi - Ảnh: AN Thế tại sao ta không làm như hoa? Khi ta mở miệng cười là hoa rung cánh nhúm nhím. Khi ta cười thành tiếng là lúc hoa đương biến thành quả. Những chùm quả tình yêu vỡ ra muôn sự ngọt ngào. Thế tại sao ta không làm như hoa? Cái mặt do cha mẹ cho, đẹp đẽ thế kia mà, tại sao cứ nhăn nhó khó chịu? Nhăn nhó khó chịu như bị nhức đau răng miệng. Hay là hoa bị con sâu hôn nhân không tình yêu cắn cuống. Hôn nhân không tình yêu đã khiến cho cái mặt mình nhặng xị chảy dài. Đời người còn mấy su hào bắp cải nữa mà tính toán hơn thiệt. Thôi. Cho qua đi anh. Ta làm như hoa sắp cắm trong chiếc lọ lục bình. Lòng dạ đổi mới từng giờ cho con cái cháu chắt nó nhờ. Sáu mươi, chứ bảy tám chín mươi trăm chục vẫn cứ là tươi như hoa. Hoa trùm lên chiếc lọ lục bình kêu liu riu. Như thế có đáng yêu không? HỨA HIẾU LỄ nguồn vietimes
-
Một đám ma tốn trăm trâu ngàn gà Thứ ba, 3/3/2009, 07:00 GMT+7 Chưa hết 15 ngày mo, Ậu cả nhẩm tính đã thịt trên 100 con trâu, 150 con lợn và hàng ngàn con gà để cúng tiễn đưa lang Đá – Quách Vị về mường Ma. Ngày đưa tang, huyệt mộ Lang Đá táng trên đồi cao mà trên quan tài để một bát nước đầy. Trong suốt quãng đường gập ghềnh vượt suối, băng đồi, bát nước ấy không sóng sánh ra ngoài một giọt… Cuộc sống hiện đại với những chi tiết đã được tinh giảm cho phù hợp với hoàn cảnh cũng vẫn còn xót lại những hủ tục ma chay, cưới xin rườm rà, không cần thiết. Có biết về đám ma của một vị quan Lang xưa chúng ta mới thấy hết vẻ bề thế cũng như sự rườm rà của nó. Chánh quan lang Quách Vị trước khi từ quan Sau hơn 30 năm, từ lúc hai mươi tuổi cho đến khi ngoài năm mươi, từ quan Thông sự Tri châu, phó Tri châu, Tri châu, quan Án sát rồi liên tiếp hai khóa làm Chánh quan Lang – Tuần phủ tỉnh Hòa Bình, nay từ quan về lại quê nhà Mường Vang, Quách Vị rất buồn. Ông không ở trung tâm Chiềng Vang mà bỏ lên làng Pol thuộc Đồi Thung, nơi núi rừng có độ cao trên ngàn mét so với mực nước biển để sống những ngày cuối đời. Tại đây còn lại một nhà khách, ông cho xây cất để thỉnh thoảng vợ chồng Công sứ Tuyxtơ lên nghỉ ngơi, săn bắn và tắm nước khoáng nóng.Hàng ngày cô đơn thẩn thơ trong rừng, trước mây vờn, gió giỡn, ông lại chợt nhớ đến những năm tháng quan trường với bao niềm vui và cũng không ít nỗi buồn. Nhớ nhất là hành trình vào Huế yết kiến vua Bảo Đại. Trên quãng đường dài thế, đến đâu ông cũng được Tuần phủ các tỉnh đón tiếp long trọng nào ngựa, nào xe. Thế mà bây giờ, muốn đi đâu lại phải có người khiêng võng không khác gì người ốm. Càng buồn, Quách Vị càng xa lánh người thân. Ông không muốn cho ai lên thăm. Hàng ngày, chỉ vài thuộc hạ phục dịch. Sau gần chục năm ở ẩn trong rừng, vào cuối năm 1943, Lang Đá – Quách Vị thấy đã yếu lắm rồi, ông mới chịu cho phu phen khiêng về nhà cái ở làng cũ Chiềng Vang. Tuy không còn là Chánh quan lang nhưng Quách Vị vẫn là Lang Đá – lang ông với vị thế được đặc biệt tôn kính. Mặt khác, con trai cả của ông là Quách Hàm đang là Quan Tri châu Lạc Sơn nên không những thần dân mà hàng ngũ nhà lang các họ, các miền tới thăm ông tấp nập. Vào cuối mùa đông năm 1943, ông qua đời ở tuổi 60. Thế là một con người không có hai vành tai, hai lần làm Chánh quan lang sứ Mường Hòa Bình, sinh năm Quý Mùi, lại từ giã cõi đời vào đúng năm Quý Mùi, vừa tròn một Hoa giáp. Người già ở Chiềng Vang kể: Vào một buổi sáng sớm cuối đông năm 1943, trời rét như cắt da, cắt thịt. Khi bản làng còn chìm trong sương mù thì bỗng nổi lên 3 hồi trống đồng làm rung chuyển cả núi rừng báo tin Lang Đá đã về mường Ma. Sau đó, các Ậu lam – người giúp việc Lang mới cầm chiêng chót gõ từng hồi đi báo tin cho rõ đến các mường: Chiềng Mường, Chiềng xóm. Đêm qua Lang Đá mường ta đã về mường Ma. Hỡi người các mường ơi! Hỡi bố mế, phà khà ơi! Lang Đá ta mất rồi! Bóng, bóng, bóng…cứ thế, cái tin lang Đá về mường Ma được loan rộng. Và cứ thế, người người từ trong nhà chạy ra ngoài sân, hướng về phía nhà Lang Đá mà khóc lóc, kể lể như chính cha mình chết. Rồi không ai bảo ai, họ thay quần áo, váy trắng, bỏ tóc xõa để đến nhà tang chủ mong được nhìn mặt vị Lang Đá của mình lần cuối lìa. Tại gian chính giữa nhà Cái, một chiếc màn trắng buông chùm sập gụ chân quỳ khảm trai long, ly, quy, phượng. Hai cánh màn được mở rộng, Lang Đá mặc áo gấm đỏ, đầu đội mũ cánh chuồn là những phẩm vật vua Bảo Đại ban. Từ trong màn thoảng ra một mùi đặc biệt của hoa lá thơm của núi rừng. Từng đoàn người đi dọc theo dãy đồ đồng đặt trên sàn nhà mà đến quỳ lạy trước thi thể người quá cố. Ở dưới sân, người ta vừa khiêng một chiếc trống đồng rất to từ trong khu rừng mộ về, tượng trưng cho sự linh thiêng của linh hồn Lang Đá. Chiếc trống này được mang lên nhà và phủ nhiễu đỏ. Hương nến được đốt lên để ông Mo cúng thần trống. Sau đó là bắt đầu 15 ngày đêm liên tiếp mo cho Lang Đá lên mường Trời. Đám ma Lang Đá Thời gian mo rất dài, mo liên tục không nghỉ, nên tất cả những ông mo giỏi trong vùng được triệu đến. Họ thay nhau đọc thuộc lòng những bài mo dài dằng dặc được truyền miệng từ ngàn xưa. Quan lang các vùng cùng tùy tùng vài chục người mỗi đoàn, dắt trâu, gánh xôi, gạo, rượu, thịt đến phúng viếng Chánh quan lang Quách Vị:-Thương ôi! Quan Chánh Lang của trăm đất, trăm miền đã về chầu phật, chầu tiên. Người mường chúng tôi lòng đau dạ xót. Hôm nay đến đây lạy người! Ô hô, thương ôi! Quan Tri châu Quách Hàm là con trai trưởng đón lời: …Đầu cha tôi quay về hướng Đông Bắc, nhìn ra tỉnh lỵ Hòa Bình. Sau 15 ngày đêm nghe mo kể nhòm mường lúc cuối lìa, nghe mo kể Đẻ đất, đẻ nước, nghe chuyện Nàng Nga hai mối, nghe cho đủ chuyện, đủ trò, rồi theo ông Mo dẫn lối, Ậu Chí Chuốc gánh đồ về mường Ma đống Rổng phía Tây Bắc, đồi mường Chiềng ta đây. Lang cả Quách Hàm rứt lời, các lang em cùng con cháu đồng thanh khóc lóc và lăn vào áo quan trong tiếng trống, kèn của 12 phường bát âm tấu lên các khúc xinh tiền, lưu thủy, hành vân… âm vang cả cánh đồng Chiềng Vang rồi vọng vào vách núi. Cứ thế cho đến đêm thứ 15, là đêm mo cuối lìa – đêm mo cuối cùng con dân các mường còn được ở gần lang Đá của họ. Họ thức cả đêm chờ đến sáng hôm sau. Đêm ấy, hàng trăm ngọn nến được thắp lên, mấy chục ngọn đèn dầu lạc được đốt sáng. Trong ánh sáng bập bùng, hàng ngàn người, tóc xõa, khăn trắng thắt ngang đầu với nét mặt buồn rười rượi ngồi kín sàn, đặc sân, ngõ chờ thời khắc đưa lang Đá về mường Ma. Khoảng 7 giờ sáng hôm sau, một hồi “ chiêng vàng, chiêng bạc” tấu lên cùng tiếng trống đồng trầm hùng rung động núi rừng, báo hiệu đã đến giờ đưa lang Đá về nơi an nghỉ cuối cùng. Một ông mo chính mặc áo dài đen, đầu đội mũ vuông bằng da hổ, tay cầm kiếm dài, cùng 6 ông mo phụ ngồi một bên gần quan tài, đối diện với bên kia là thân thích của người đã chết. Ông mo chính bắt đầu hâm mo để các mo phụ đứng lên, tang gia thôi khóc để nghe mo: -Bố Đá đi cam thương, cam khốn, cam khốn lại cam sầu, cam rầu rầu nước mắt chảy ra… Quách Công Phiếm (người bên trái) - Chắt đích tôn cụ Quách Vị, cháu đích tôn ông Quách Hàm: Giọng ông mo lên bổng, xuống trầm sao mà ai oán. Rứt lời, các bà vợ, con dâu, cháu chắt lại rộ lên tiếng khóc lâm ly, thảm thiết. Cả ngàn người có mặt cùng nghe các ông mo thay nhau kể đoạn cuối “ Cơi tếch, cơi lia” (cõi đứt, cõi lìa). Các con cháu để tang cho đủ 3 năm, 6 tháng, mặc áo trái hết hạn mới thôi… Nay là ngày tận, việc đêm, mo đã hết.Ông Mo dứt lời, tiếng trống đồng khùng khùng chậm chạp nổi lên, tấu với cồng chiêng bong bong, bi bi cho đủ 3 hồi, chín tiếng. Rồi cả ngàn người từ các lang đạo cho đến thứ dân, từ trên nhà sàn xuống đến sân, ra đến ngõ xếp thành hàng chuyền tay nâng quan tài Lang Đá. Cùng lúc tiếng khóc của ngàn người cất lên náo động cả núi rừng. Mười hai người đội vải căng ra làm cầu. 24 thanh niên trai tráng đều buộc dây chuối ở thắt lưng, nghe theo hiệu lệnh mà đứng thứ tự theo vị trí đã được xếp, mắt không rời bát nước đầy đặt trên đòn khiêng mà chuẩn bị cất bước. Dọc hai bên đường từ nhà đến nơi mộ huyệt là rất nhiều cây lêu và cờ, phướn bay phấp phới. Đến chân đồi nơi đặt nghĩa địa, chiêng chót phát lệnh đặt áo quan xuống và ông mo làm thủ tục cuối lìa. Con cháu đi quanh áo quan 3 vòng theo 3 hồi chiêng. Sau đó chiêng lệnh hồi Một thì đội phu đặt tay vào quan tài, hồi Hai thì nâng lên vai, hồi Ba thì bước lên đồi. Đến lúc này, bát nước đầy đặt trên áo nắp quan tài vẫn không sánh ra ngoài một giọt cho đến nơi hạ huyệt tại đống Rổng mường Vang. Những hòn đá (hòn khụ) cao to bằng người thật được đục đẽo cẩn thận, chạm rồng mây, khắc chữ Nho và khênh lên từ hôm trước được dựng thành hàng rào quanh phần mộ lang Đá. Lúc này chính ngọ ngày 18 tháng 12 năm 1943. Cuộc đời của vị chánh quan Lang không tai khép lại. Mọi việc diễn ra rồi cũng chìm vào yên lặng của núi rừng tây Bắc. Đứng trước cảnh sắc mường Vang, ngẫm về cái được và không được, người viết bài thầm mong thế hệ con cháu các quan lang xưa gìn giữ, phát huy những mặt tích cực để hình ảnh đẹp của dòng quan Lang không lùi sâu vào trong sử sách. Lê Va nguồn vietimes
-
Nhân dịp Sinh nhật CHÚC MEMPHISTO79 càng ngày càng MEMPHISTO !
-
Liên hệ nơi chúng ta định giúp . Một viện mồ côi hay một phường xã rét nhiều , làm công văn xin và nhận ? số lượng nhận ? Wild sẽ vận động nơi vận chuyển càng nhiều càng ít chi phí !
-
Wild kể cho Nam nghe 1 mẫu chuyện nhỏ : Có gia đình quen với Wild, Bố mất từ lâu, nhà nghèo chôn Bố ở xa, (đất thí không tốn tiền), thời gian trôi qua con cái vừa trai vừa gái ai làm ăn cũng khá. Lòng hiếu trỗi dậy 1 trong số người con đề nghị đưa Bố về gần nhà dù đắt bao nhiêu cũng mua tiện bề thăm nom mồ mã. Ai cũng tán thành ý này. Tổ chức bốc mộ, Mộ phát ! thầy cũng ngỡ ngàng ! Lộ Thiên ! không kịp dừng nữa rồi. Thầy lo sợ con cháu đời sau không còn bát mẽ ăn cơm. Mọi người cười khẩy !!!! công việc tiếp tục. Ngày qua tháng qua họa vô đơn chí, các con trong nhà cứ lụn bại chẳng biết vì sao dù mỗi người một công việc.từng gia đình nhỏ cũng đỗ vỡ, tan đàn. Với những thất bại tiếp nối ! Có ai tâm trí đâu tiền bạc đâu mà nghĩ đến lễ nghĩa ! Thế là mộ Bố tuy gần nhưng chẳng ai lui tới ! Người sống chưa yên lo đâu đến người đã chết ! Câu chuyện này đã đi theo Wild mãi và nằm lòng như bài học."Thành ý nhưng không thuận theo thiên ý cũng thất vận" Kết :Theo Wild "nếu xa xôi ta có điều kiện vẫn thăm viếng tốt,nếu gần mà nghèo quá! Cũng đành bất nghĩa " Nghiệm ra: Đất tốt vượng khí thì dù xa ta cũng có phương tiện để trở nên gần. Vài dòng tâm sự cùng Nam chia sẽ !
-
Xem bài của Le ba Trung! Đừng cố gắng ! nếu ngay từ cơ bản Cuộc đất đã không tốt, giải pháp xoay chuyển bằng nội thất chỉ như nan y mà cứ cạo gió cắt lễ thì mầm bệnh lại được nuôi dưỡng, chống chọi với tình trạng như thế cả con người cũng mệt theo cái nhà. Nam không thể tìm khu vực khác được sao ?
-
Nhấm nhẳng với “vua nói tức” Trần Quốc Thịnh! Thứ hai, 16/2/2009, 07:00 GMT+7 LTS: Vietimes vừa giới thiệu với độc giả về các làng nói khoác ở Việt Nam. Các làng nói phét, nói khoác, nói Trạng ở Việt Nam ta có không nhiều (khoảng hai chục làng) nhưng “chúng” tập trung hầu hết (với 14 làng) vẫn là ở xứ Kinh Bắc cũ (nay là hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang). Nhà nghiên cứu Trần Quốc Thịnh được xem như người đi tiên phong nghiên cứu về các cái làng dạng trên ở xứ Bắc. Không chỉ là chuyên gia tâm huyết và nổi tiếng về các làng cười xứ Bắc, ông Thịnh còn đặc biệt hướng sự nghiệp khả kính của mình vào các làng Nói Tức. Trong khi cả nhân loại biết hài hước, thì nói tức, là đặc sản riêng có của xứ Kinh Bắc. Thậm chí,, nhiều người cho rằng, nói tức chỉ Việt Nam mới có, nó thú vị và trí tuệ hơn nói khoác một tầng bậc nào đó (?)…. Nói tức là gì, ông “vua nói tức” Trần Quốc Thịnh là ai? Vietimes xin được trân trọng giới thiệu chân dung một ông “vua” nghiên cứu các làng cười, làng nói tức qua bài viết của tác giả Đỗ Lãng Quân. “Nói tức cả gà, nói tức cả chó” Ông Trần Quốc Thịnh và “Văn phòng tư vấn nghệ thuật” độc nhất vô nhị của mình ở tại quê nhà của ông, huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Mẹ tôi ở quê vẫn thường đay đả mỗi lúc có ai lắm lý mà ương gàn: “Gớm, cái lão (mụ) ấy nói gì mà tức như bò đá! Nói gì mà mất cả... rổ lòng!”. Những tưởng quả đất có những làng nói trạng, nói phét, nói khoác, nói ngang, nói giễu; bây giờ về xứ Bắc lại “tận mục tận nhĩ” những “làng nói tức”. Kể cũng lạ. Túm lại, nói tức nghĩa là nói cho người ta tức tối, tức nổ đom đóm mắt lên thì thôi. Hoá ra, đó cũng là một thứ nghệ thuật mang đậm tính truyền thống ở chốn hương thôn, thế mới lạ.[/i]Ngoại lục tuần, ông Thịnh, nhà ở TP Bắc Giang, vẫn hồn nhiên với cái giọng say hào hoa người của mấy ông “trạng” của “14 làng cười xứ Bắc” (tên bộ sách sưu tầm nghiên cứu tâm đắc của ông) cộng lại. Đời ông đúng là ba chìm bảy nổi. Gặp tôi, ông tấp tểnh chân... què, mặt ông hài hước như Đônkihote, ông chống gậy tre như thầy cúng ở một ngôi làng nghèo. Leo lên 4 tầng lầu ở toà soạn chúng tôi, ông thở dài: - Cậu lên Bắc Giang tìm tớ. Thôi thì tớ xuống với cậu để đáp lễ. Có gì mà cậu phải lăn tăn. Tớ ngoài sáu mươi chửa chắc đã già. Tớ đi mất đúng có 12 đồng (nghìn) từ Bắc Giang về Hà Nội. Này, nhé, 6 nghìn từ Bắc Giang về Bắc Ninh, bọn xe khách nó mời như rước bố ấy. Thấy tớ chống gậy tre ra là nó gọi: “à, bố Thịnh – nhà nghiên cứu lại cất bước lang thang hả”? Đời tớ là dấu cộng của những chuyến lang thang. Từ Bắc Ninh đi xe buýt về chỗ Lò Đúc, mất 3 nghìn đồng. Từ Lò Đúc sang chỗ cậu 3 nghìn xe buýt nữa. Mỗi ngày tớ xuống thăm cậu một lần cũng chả sao. Thời buổi bây giờ sướng thật. - Tớ vẫn đi xe đạp quanh năm. Chưa một lần biết đi xe máy, nhưng 4 thằng con tớ, mỗi thằng tớ mua cho một chiếc xe máy. Chứ đùa à... “Nói tức là nghệ thuật hay lắm chứ. Người làng nói tức, người ta nói tức cả gà, nói tức cả chó. Khách vào, chó cứ sủa nhặng lên, chủ ngồi co chân trên trường kỷ, guốc để dưới gậm, nhìn ra khoảnh sân mới mưa còn vọt vẹt nước, thét: “Mày sủa gì mà sủa ghê thế. Ra ngoài sân mà sủa. Có sợ lấm chân thì guốc đây, tao cho mượn!”. Con gà mới đẻ cứ cục ta cục tác. Anh chàng người làng Đông Loan có vợ vừa đẻ, đang cần giữ im lặng, thấy gà dác quá, anh quơ hòn đất ném thẳng: “Không biết ruốc, đẻ xong ai chả vừa đau vừa rát (cục ta cục tác). Nhưng vợ tao thì nằm im, mày sao cứ phải kêu nhặng lên thế?”. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Thịnh cùng MC - BTV Thanh Hoa (Đài Truyền hình Việt Nam) trong một chương trình làm về nghệ thuật nói tức. “... Trẻ con làng Đông Loan (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) nói tức mới hay: khách du lịch đến hỏi mấy thằng bé bắt cua đầu làng, “này cháu, mày là người của làng nói tức hả, có biết nói cho tao tức được không?”. Thằng bé cười sún răng, vỗ vỗ vào hom giỏ, mặt rất nghiêm trọng: “Ôi trời, thời buổi làm ăn. Mỗi ngày vác giỏ ra sông Thương mò cua bán cũng được bảy tám trăm nghìn về cho bố mẹ. Ai hơi đâu mà nói tức cho thiên hạ nó đánh cho vỡ mặt!”. Nói rồi bọn trẻ chạy tán loạn, cười hỉ hả. Khách đi dọc đường đê sông Thương, hỏi mấy bác vác cày xắn quần móng lợn: -Bác ơi, từ đây vào Đông Loan mấy cây nữa ạ? Bác nói bằng cái giọng vừa nặng lại vừa nhẹ, nhấm nhẳng ra điều ta đây quá quê mùa: -Đông Loan mấy cây? Nhà chú ơi, tôi cũng chưa đếm đâu. Từ ngày Bác Hồ mở ngày tết trồng cây đến giờ, làng tôi trồng suốt, nhưng chưa bao giờ đếm xem từ đây về làng có bao nhiêu cái cây. Nhà chú tiện đường thì đếm hộ làng tôi với... nhé, nhé! Công tử con quan đi học xa, về huyện nghe tin có Đông Loan nói tức, tấp tểnh đi ngó xem. Vừa đến đầu làng Đông Loan, thấy bên kia cái mương nước có một đám đông lớn, anh hỏi mấy cô cắt cỏ: -Cái gì mà xúm đen xúm đỏ thế kia? -Trình công tử, họ xem chuột lột. Từ thuở bé chưa nhìn thấy chuột lột ra sao, muốn ngó tý, công tử hỏi: -Muốn sang thì đi đằng nào? Cô gái chỉ: -Muốn khô đi vòng đầu đình, muốn gần thì đi thẳng, lội một tý. Công tử cho ngựa lội. Bỗng “ùm”, cả hai thầy trò và ngựa cùng sa xuống hố ngầm, ướt lướt thướt. Lóp ngóp lội lên bờ tìm đám đông thì hoá ra mấy người mua cá mới tát ao. Thầy trò công tử đi vòng lại trách cô cắt cỏ: -Họ mua cá sao cô dám bảo là có chuột lột? Cô ráo hoảnh: -Chả chuột lột sao lại ướt thế kia? Câu chuyện này được người làng kể với nhiều dị bản khác nhau, các dị bản đã đưa người nghe đến một nhận định: nói tức nhiều khi cũng là nói cùn! Công tử đứng bờ mương háo hức xem chột lột, hỏi: -Có sâu không? -Làm gì có sâu. Công tử lội rồi rơi tòm xuống ao, ướt hết, lên, trách các cô: -Cô bảo nông để tôi và ngựa ướt hết rồi! Cô bảo: -Công tử hỏi có sâu không? Em nói là không có sâu, rét thế này, lại là ở dưới mương nước chảy, đỉa còn chẳng có nữa là sâu bọ. Nói tức cùng các bô lão, các nhà nghiên cứu tại đình làng (ngoại ô TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang). Vẫn chuyện “công tử và cô cắt cỏ”. Thanh niên này cũng vào hàng giỏi giang, đạp xe qua làng Đông Loan, nghĩ rằng mình không hành động, không nói năng gì thì có mà ông giời cũng chẳng nói tức được mình. Anh liều mạng đi qua cánh đồng có các cô nói tức tài danh nhất. Anh đi chầm chậm. Bỗng dưới ruộng lúa có một cô ngừng tay nạo cỏ hỏi bạn: -Sao người ta mặc áo sơ-mi cứ phải sắn tay lên nhỉ? Cô kia trả lời: -Cho nó rõ cái đồng hồ mới được diện! Anh này đạp miết về nhà buông tay áo, cài khuy cổ, đạp xe ra đồng, chắc mẩm các em hết chỗ nói tức. Lại một cô hỏi bạn: -Sao trời nóng người ta cũng buông tay áo nhỉ? Cô bạn lại nói: -Thì có cái đồng hồ đi mượn, trả người ta rồi mà lại. Anh này lại đạp miết... (Các câu chuyện trích trong bài này đều theo lời kể của ông Trần Quốc Thịnh và cuốn “Làng cười xứ Bắc” của ông) “Tớ lên thẳng phòng Chủ tịch tỉnh, xin cấp một bộ đùi đĩa và một đôi lốp xe đạp để nghiên cứu làng... cười” “Thế hệ các cậu bây giờ sướng thật, chứ hồi xưa, tớ làm anh cán bộ văn hoá ở Quế Võ, mệt. 40 tuổi tớ bị bắt khai thụt 5 tuổi để đi học Đại học, vì đang có phong trào đại học hoá đội ngũ cán bộ tỉnh mà. Mà cái anh trẻ được cử đi học lại dốt quá, tớ đành đứng ra “gánh vác” cho đủ chỉ tiêu. 40 tuổi thành anh sinh viên già. Lúc ấy thằng Khải, con cả tớ cũng đi đánh nhau ngoài chiến trường về. Trước, nó là sinh viên được động viên đi oánh nhau, hết giặc lại thành sinh viên. Thế là hai bố con học cùng một lớp. “Vào Đại học, khi tớ chú tâm nghiên cứu làng cười, cánh sinh viên sợ chết cha. Bấy giờ, người ta bảo, tiếu lâm là truyện chống lại thế lực cầm quyền; chế độ ta xã hội chủ nghĩa, không còn gì phải “tiếu lâm” nữa. Tớ vẫn quyết tâm nghiên cứu cho ra nhẽ. Nghĩ lại thì đời mình suốt đời học nhằng học nhịt, học vơ học vét thế này, cũng phải làm một cái gì đó cho ra trò chứ. Hai bố con tốt nghiệp Tổng hợp Văn. Con trai tớ nó lấy vợ cùng lớp (nghĩa là cùng lớp cả với tớ) nữa. Thế mà nhà có 3 người Tổng hợp Văn được trên “phân bổ” mỗi một cái xe đạp khung miền Nam, xăm lốp chả có. Tớ mới mạnh dạn lên phòng ông Chủ tịch tỉnh M.T.L (sau này đồng chí về Quốc hội công tác-PV) xin được cấp một đôi lốp và một bộ đùi đĩa để tôi đi... nghiên cứu văn hoá xứ Bắc. Anh bảo, có xứ nào nhiều làng cười như xứ Kinh Bắc chúng tớ (trước gồm cả Bắc Ninh, Bắc Giang) không? Cả Việt Nam, tính ra chỉ Quảng Trị có làng nói Trạng Vĩnh Hoàng, thêm một làng cười Văn Lang ở Phú Thọ, còn lại tất thảy 14 làng cười nằm trọn ở xứ Bắc hết! Xứ Bắc lại có đặc sản làng nói tức nữa, ghê gớm chưa? Tớ cứ đi miên man, đến làng nọ người ta lại giới thiệu tới làng kia, “hay lắm, nhà bác cứ sang khắc biết”. Tôi là người đầu tiên phát hiện và sưu tầm về 3 làng nói tức Nội Hoàng, Can Vũ, Đông Loan (cả nước chỉ có 3 làng – PV). Ông Thịnh bảo: Tôi kiện bất kỳ ai “sử dụng” đến những công trình tâm huyết của tôi mà không xin phép. Danh sách các người “thuổng” của tôi đã lên tới gần 30 “anh” rồi, trong đó có nhiều người nổi tiếng… kinh khủng”. Cuối cùng, tớ dự định sẽ xuất bản một loạt dăm quyển sưu tầm truyện cười và làng nói tức xứ Bắc. Không ngờ, có kẻ “xúi” đểu “lão Thịnh viết sách chưởi cả tỉnh Hà Bắc (cũ)”, thế là người ta cấm. Thành lập cả hội đồng 5 thành viên (cả thủ kho, kế toán trưởng các thứ) để huỷ sách của tớ. Huỷ một vạn quyển sách, huỷ cả một tấn tư giấy của nhà nước chứ có ít đâu. Độ ấy chưa cấm pháo, tớ nằm buồn, cứ nghĩ: nếu đem cuốn pháo thì có mà nó nổ đùng đoàng cả tuần chửa hết. Tớ liều chết giữ được một quyển, vừa rồi thằng cháu làm Bí thư huyện uỷ Thuận Thành về hưu, nó sang đòi mượn bằng được về để “ngâm cứu”. Nó đánh mất (hoặc nó thủ túi làm độc bản của mình), tớ quay ra chưởi nó chổng mông vào văn hoá mãi. Ngày ấy, sách bị huỷ giấy mực còn thơm phưng phức, tớ còn đau tới mức suốt ngày cầm chai rượu, kéo càng xe cải tiến đi làm rồi chửi đổng. “... Rõ ràng tôi sưu tầm những câu chuyện trong dân gian, truyện ấy bây giờ các nhà xuất bản in túa xua y xì phoóc sách của tớ có làm sao đâu?. Thế mà “nó” phao tin là lão Thịnh học lắm chữ về rồi đâm ra phản động. Nhiều người xui tớ kiện kẻ xấu, nhưng tôi bảo, chả dại, một đời kiện chín đời thù”. Người đành hanh giữ bản quyền nói tức “... Năm 1988, tớ cho xuất bản quyển “Truyện làng cười xứ Bắc – 14 làng cười truyền thống” (Sở Văn hoá Thông tin Hà Bắc xuất bản). Bao nhiêu tâm huyết của tớ dồn cả vào đó. Và, hình như, nhiều làng nói tức cũng dần phát triển theo sự “tôn vinh nói tức” của tớ. Tớ ăn nằm ở các làng để nghiên cứu từ nguồn nước cho đến âm điệu, cư dân, tập quán của các làng. Thỉnh thoảng đạp xe về, các cụ lại bíu áo: “Này, làng vừa đẻ ra mấy câu nói tức thế này có hay không...”. Sưu tầm như thế hạnh phúc lắm! Như làng Nội Hoàng, nghệ thuật nói tức nó rất từ từ, bà con cứ sống, và những câu nói tức ra đời nhúc nhắc. Còn ở Đông Loan, bà con la cà, trà dư tửu hậu, phát triển nói tức rất ác. Truyện hiện đại rất cập nhật. Có ông là Phó Giám đốc Sở vốn là người Đông Loan, nay về hưu sống ở thị xã, ngày nào cũng thấy cô gái trẻ đi qua nhà rao lanh lảnh “ai khoai nướng nào”, ông cảm tác mới thở dài: “Con cái nhà ai lớn nồng nỗng thế này mà chả học hành làm ăn gì. Cứ ngồi nướng khoai rồi đem gọi cả làng cả phố ra khoe... khoai nướng thế này?”. Có bà Phó Chủ tịch huyện về thăm làng, đi ôtô đen bóng rõ xịn, cả làng kéo ra xem, ngắm nghía, một ông đi qua làm bộ khinh rẻ: “Gớm, có miếng tôn gò đen ngòm mà thi nhau ra để ngó!”. Nhưng, sau công trình kỳ khu và độc đáo đó, ông Trần Quốc Thịnh, Hội viên tích cực của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam bắt đầu nổi đoá với lối làm việc bàn giấy của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều người chữ nghĩa thích “đạo” những câu nói tức mà ông tự cho là mình đang giữ bản quyền. Giọng ông chợt nghiêm túc và trầm trọng khi nói về vấn đề bản quyền, ở góc nhìn của ông. Ông bắt đầu xưng tôi với tác giả, ông nói như một người đang đăng đàn diễn thuyết: “Những năm 1980, tôi vừa làm xong bản thảo “Bước đầu tìm hiểu các làng cười Việt Nam”, đưa cho thằng con cả tôi đang làm ở Báo Hà Bắc (cũ) xem, nó cho thằng bạn nó xem, thế là bị đánh cắp. Thằng ấy đem đăng lên tạp chí VH, tớ nhớ rất rõ: tớ tức tốc ra Hà Nội gặp ông nhà thơ Hoàng Trung Thông. Ông Thông bảo: mày cứ viết đơn kiện, tao sẽ cho bọn “đạo chữ” này một trận tơi bời để làm răn với kẻ khác. Tôi tha bổng. Nhưng thằng nào đó lại ăn cắp tiếp, nó lại đem đăng ở báo VN, ông HT - lãnh đạo báo cũng bảo tôi - nếu đúng như thế tôi sẽ đuổi thằng này, ông còn gọi Trần Ninh Hồ, bà Ngọc Trai lên làm chứng. Tôi thương sự nghiệp thằng ăn cắp bản thảo nên cũng “bãi nại”. Nhưng, như thế để thấy vấn đề: thông tin về làng nói tức cực kỳ hấp dẫn đối với công luận. Tiếc là chúng ta chưa quảng bá được như cần phải có”. Chợt, ông Thịnh lôi trong chiếc túi cũ mèm ra một quyển sách trình bày khá đẹp: - Đây là một quyển tôi mới phát hiện ra, NXB TN phía Nam, họ in trộm của tôi mà chả thông báo gì. Bộ sách của họ có nhiều quyển, riêng quyển này giống hệt sách của tôi, không sai một dấu chấm dấu phảy. Tôi kiện chứ. Hiện nay, tôi đã phát hiện ra 26 cơ quan, đơn vị, cá nhân ăn cắp sách, ăn cắp những câu chuyện làng nói tức của tôi sưu tầm mà không hề xin phép. Không trả tôi một đồng kềnh ngã ngửa nào. Đây, Báo TT, đây, Báo QĐ, họ in y nguyên truyện tôi đã dày công sưu tầm, thôi thì họ in là theo Truyện cười dân gian Hà Bắc (ví dụ thế) thì cũng là biết điều, tôi chả đòi hỏi gì. Tài liệu đã công bố thì thôi. Nhưng việc mập mờ là không xong, GS K. lấy cả quyển sách của tôi - cứ nghĩ tôi là thằng sưu tầm tỉnh lẻ thì không để ý (?) - vào công trình của ông, không thiếu một dấu chấm dấu phảy. Tôi đâm đơn kiện, ông viết cho tôi một lá thư 4 trang, dày đặc kín chữ ngỏ ý bỏ qua, rằng “xin ông ít tư liệu”. Nhưng, nếu không đem 4 triệu đồng tiền “bản quyền” lên nộp tôi, thì chả đời nào tôi “tha”. Tương tự thế, ông “có đai có đế” CB ăn cắp chữ của tôi, tôi quật cho tơi bời rồi tôi “bãi nại” tha bổng. Nhà xuất bản N vừa cho người van xin tôi, bởi họ viết về 7 làng cười ở Việt Nam thì có tới 5 làng mà tôi đã phải đi mòn lốp xe, gẫy đùi đĩa xe (xin Chủ tịch tỉnh cấp) mới có được. Ông MTC van tôi thật sự. Tôi đếm và ghi tên được 20 đơn vị ăn cắp của tôi, còn ngót chục đơn vị sau tôi chán chả ghi nữa, tài liệu của tôi hay quá, độc quá, đã bị ăn cắp khoảng 30 lần (mà tôi phát hiện được). Mấy nhà báo ở báo NN, báo PL tự in tên mình sưu tầm chuyện làng nói tức, tôi có ý kiến, cũng phải lên tận nhà tôi xin lỗi tôi thì tôi mới tha cho đấy. Có người còn cầm mấy trăm nghìn tiền nhuận bút đưa cho bà nhà tôi (mà tay cứ rung cầm cập) để bà nói tôi đỡ giận đấy. (Ông Thinh vung cây gậy tre nhỏ như cái sào đuổi vịt lên, trợn mắt). Một vài trăm nghìn đối với tôi – gã nhà quê - là to lắm; nhưng cũng là bé lắm nếu cứ đối xử với “bản quyền” kiểu thế này. “Tại sao tôi dám kiện? Vì ông bảo ông sưu tầm, thế thì sổ điền dã của ông đâu, ông về làng nào, gặp ai, tên tuổi thế nào? Xin thưa, tôi đã gặp họ và sưu tầm truyện tự lúc họ còn chưa chầu tiên tổ cơ. Không bao giờ ông gặp được họ nữa. Nói tức là tư liệu sống của tôi, cả làng người ta biết và quý mến tôi. Quê tôi một bồ ông cống, một đống trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn. Đừng có đùa, cứ tưởng ngồi mát ăn bát vàng mà xong với tôi à?” - ông Thịnh vênh cái kính méo xẹo rỉ ngoèn của mình lên, tự tin. “Tớ cáu tiết nói vậy thôi. Bon chen làm gì. Tớ thích “Tố sự ung dung nhật nguyệt trường – thế mới là Đời”. Ông lại bỏ 12 nghìn đi xe buýt vượt 70km, về lại Bắc Giang, hứng chí lại xuống các làng nói tức, bổ sung những câu chuyện mới. Ông Thịnh cười khì khì: “Nói tức hiện đại nhé, tớ kể này: làng Đông Loan có anh nghèo, nhưng ăn rất hoang. Toàn đi ăn bún chịu, cả năm chưa giả tiền. Một hôm anh làm xong 2 đĩa bún, mấy bát mắm tôm xong, vuỗi đít đứng dậy. Bà chủ táu hạu nhìn theo: “Thế ra anh lại ăn không của tôi 2 đĩa bún nữa à?”. Anh này quay lại trợn mắt: “Hôm nay tôi chấm mắm tôm, chính bà múc cho tôi. Hôm qua tôi chấm nước mắm cá cốt, cùng là bà giót cho tôi. Gớm, người như tôi có ăn bún không bao giờ” – tiếng ông Thịnh cười vang mấy tầng nhà. Ông giắt lại quai dép nhựa Tiền Phong, hứng chí xắn quần móng lợn. Ông túc tắc bảo, “tớ về đây”, rồi chống gậy thập thễnh bước xuống các tầng lầu. Qua rất nhiều số liệu và nhiều sự kỳ công, ông Thịnh lý giải về sự ra đời của làng nói tức Đông Loan như sau: “Gái Đông Loan mỏng mày hay hạt, nhanh nhẹn đảm đang và hơi... tinh nghịch. Nguồn gốc nói châm biếm một phần ở những cô gái mau mắn này mà ra”. Thêm nữa, những điều hổ lốn, vênh nhau giữa các nhóm dân cư trong Làng cũng là nguyên nhân quan trọng khiến cho họ khích bác nhau một cách có... truyền thống: “Đông Loan lắm nghề thì mỗi người một nghệ. Người buôn bán nói “phi thương bất phú”, người làm ruộng lấy canh nông vi bản cho rằng “săn sóc không bằng góc ruộng”, người làm thợ bảo “ruộng bề bề không bằng nghề trong tay”. Đó cũng là một sự phát sinh nói tức. Bài và ảnh của ĐỖ LÃNG (nguồn vietimes)
-
Mạo muội đưa ý kiến, 2 hướng còn lại nghịch với sự tư vấn của Chú TS, bạn nên chọn mua nơi khác cho thuận hướng hoặc có thể 2 miếng ấy có thể xây dựng trổ cửa theo chiều ngược lại .
-
Bài của nick Psychologist (wtt) nhận định: Kim Anh rất có khả năng là bị "nhân cách bệnh". Tiếng anh là "Psychopath". Việc xác định được điều này sẽ có thể giải thích được một vài chi tiết khó hiểu. Psychopath không giống như người bình thường. Con người hoàn toàn không có cảm xúc (Feeling), không biết sợ, không biết yêu, không biết hối lỗi hay ân hận. Khi không kiểm soát được, họ chính là những mầm giống của những kẻ giết người hàng loạt mà không hề run tay hay hối tiếc. Trong xã hội có khoảng 2-3% người bị bệnh này (thường là đàn ông, nhưng cũng có cả phụ nữ) nhưng rất khó bị phát hiện. Họ là những người khéo léo trong cuộc sống nên người xung quanh khó có thể phát hiện ra. Họ rất giỏi "nói dối" và điều khiển người khác. Ở Việt Nam sự hiểu biết về bệnh này rất hạn chế nên sự phát hiện càng khó hơn. Nếu các bạn chịu khó tìm hiểu một chút về bệnh này (google: "psychopath") và tìm hiểu về Kim Anh bạn sẽ thấy rất nhiều sự tương đồng. Nếu thực sự KA bị bệnh này thì những yếu tố sau sẽ rất dễ hiểu: 1. Tại sao cô ấy được giáo dục tử tế mà lại đi có quan hệ với một người như anh Chính, nhất là đó là bố của người yêu cũ của cô. (Giải thích: Psychopath không có biết "yêu" thật, họ chỉ muốn có các quan hệ "có ích" cho họ chứ không hề có tình cảm thật) 2. Tại sao một cô gái trẻ yếu đuối lại có thể cầm dao cắt cổ người khác (Đối với Psychopath, họ không có cảm giác "sợ", kể cả đó là máu, là xác chết. Thấy máu bắn vào người, họ sẽ chỉ hét lên "Khỉ thật! Bẩn áo tôi rồi!" thay vì xót xa thương tiếc cho cái xác chết nằm bên). 3. Tại sao cô ta lại có thể hành xử một cách bình tĩnh và lạnh lùng như thế sau khi gây tội ác. (Cũng như trên, vì không có cảm xúc nên nhưng thái độ như vậy là "bản năng" chứ không có gì khó hiểu cả). 4. Tại sao khi bị bắt và đã bị xác minh là tội phạm, mà cô ta vẫn có thể "khéo léo" trong cách trò chuyện, kể lể về mình, tìm cách gây thiện cảm với mấy người giám sát một cách thái quá (như chuyện "ước mơ lớn nhất đời là được đứng trên bục giảng" :( ) (Vì khả năng lớn nhất của Psychopath đó chính là khả năng "nói dối" và "điều khiển" người khác, bất kể người đó là ai). Theo các nghiên cứu, hơn 60% những kẻ giết người trên thế giới bị bệnh này. Và những người bị bệnh này vĩnh viễn không có khả năng "cải tạo". BB lưu ý:các ý kiến trên chỉ là tham khảo trong việc nhận định vụ án này. Kim Anh là sát thủ hay không phải sát thủ? Và nếu Kim Anh không phải kẻ giết người, thì kẻ giết người thực sự là ai? Nam? Nữ? Điều này có thể xác định bằng QUẺ DỊCH được không? Nếu quả thực KA bị căn bệnh nêu trên, bộ sao nào sẽ thể hiện? ( Như vậy là có thể dễ dàng tìm ra giờ sinh của cô ấy hơn???) __________________ Trích từ VLS