-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Trường hợp màu sắc cho xe hơi, Wild có lời khuyên : Canh thân = Mộc bạn nên chọn màu Thủy ví dụ như Đen, xanh biển ....để dưỡng mệnh, Vì đã là xe hơi có mui như nhà có nóc . Bạn tránh màu trắng bạc hoặc mang sắc Kim sẽ khắc bạn.
-
Thứ Bẩy, 09/05/2009 - 10:34 AM 10 “sở thích” để sống trường thọ (Dân trí) - Sau khi nghiên cứu, điều tra cụ thể, các nhà dưỡng sinh và các chuyên gia dinh dưỡng đã phát hiện thấy những người sống trường thọ thường có 10 sở thích sau đây. 1. Thích ăn cháo Nhìn từ thói quen ăn uống, trong những người sống trường thọ thì không có một ai là không thích ăn cháo. Nhà kinh tế học nổi tiếng của Trung Quốc Mã Dần Sơ và phu nhân Trương Quế Quân đều là những người trường thọ trăm tuổi. Hai người đặc biệt thích ăn cháo sáng và mỗi sáng đều lấy 50g yến mạch và 250g nước nấu thành cháo. Người sống thọ trăm tuổi ở Thượng Hải (Trung Quốc) là Tô Cục Tiên mỗi ngày ba bữa đều ăn cháo nấu từ gạo, định lượng mỗi bữa là một bát nhỏ. Các nhà y học và dinh dưỡng từ bao đời nay đều cổ động người già nên ăn cháo vì nó tốt cho sức khoẻ. Cháo dễ tiêu hoá, hấp thụ, có thể điều hòa dạ dày, bổ tỳ, thanh lọc phổi, mát đường ruột. Nhà dinh dưỡng học thời nhà Thanh Tào Từ Sơn đã từng nói: “Người già, mỗi ngày nên ăn cháo, không kể bữa, có thể tăng cướng sức khoẻ cho cơ thể và hưởng đại thọ”. 2. Các món kê Người già thích nhất ăn kê và xem kê là thực phẩm bổ dưỡng tốt nhất cho cơ thể. Kê từ trước đến nay đều được xứng danh là “món đầu đàn của ngũ cốc”. Người có thể chất ốm yếu, bệnh tật thường dùng kê để bồi bổ sức khoẻ. Y học Trung Quốc cho rằng, hạt kê có ích cho ngũ tạng, đặc biệt là dạ dày (làm dày đường ruột, dạ dày), bổ sung tinh dịch, mạnh khoẻ gân cốt, cơ bắp. Có một danh sư nổi tiếng thời nhà Thanh đã nói: “Hạt kê là dinh dưỡng tốt nhất cho sức khoẻ con người. Khi dùng hạt kê nấu cháo, dầu kê trong cháo có tác dụng tốt hơn cả canh nhân sâm”. Có thể nói, người già trường thọ thích ăn kê là rất đúng và có cơ sở. 3. Lấy ngô làm món ăn chính Ngô còn có tên gọi khác là Ngọc trân châu, là “thực phẩm vàng” được toàn thế giới công nhận và cũng là món ăn chính mà người trường thọ không thể “rời xa”. Các nhà khoa học Mỹ nhận thấy người Pueblo bản địa không ai bị cao huyết áp và xơ cứng động mạch. Nghiên cứu thì được biết là do người dân vùng này thường xuyên ăn ngô. Các nhà khoa học cho biết: trong ngô hàm chứa đại lượng lecithin, acid linoleic, vitamin E vì vậy không dễ gây ra cao huyết áp và xơ cứng động mạch. 4. Mỗi ngày 500ml sữa Uống sữa là thói quen phổ biến của người trường thọ. Theo điều tra, hiện tại trong số 25.000 người sống đến trăm tuổi ở Mỹ thì có 80% là nữ và sữa là thực phẩm không thể thiếu trong chế độ ăn hằng ngày của họ. Giá trị dinh dưỡng trong sữa khá toàn diện. Hàm lượng lysine trong sữa rất cao, hàm lượng cholesterol khá thấp. Đường trong sữa khi vào hệ tiêu hoá có thể chuyển hoá thành acid lactic, có tác dụng khống chế sự sinh trưởng của vi khuẩn có hại. Sữa cũng chứa rất nhiều canxi, dễ hấp thụ. Ngoài ra còn chứa khá nhiều vitamin A, D, những chất này đều rất cần thiết, có ích cho cơ thể. Các sản phẩm chế biến từ sữa như phomat cũng rất bổ, có thể phòng chống sâu răng. Ăn sữa chua có thể giảm mức cholesterol vì vậy, người thường xuyên ăn sữa chua không dễ mắc bệnh tim mạch. Ngoài ra, sữa còn giúp sáng mắt, chắc răng, ngăn ngừa tế bào lão hoá.. 5. Mỗi ngày ăn một quả trứng gà Mõi ngày ăn một quả trứng gà là một trong những thói quen để sống trường thọ. Các nhà dinh dưỡng học đã đưa ra quy tắc “ 3 trong 1” tức là: “buổi sáng ăn một quả trứng, buổi tối uống một cốc sữa, bữa trưa ăn một quả táo”. Ngoài ra, ngày ba bữa ăn nhiều rau xanh, hoa quả, ăn ít thịt, ăn uống điều độ... Đều đặn như thế thì sẽ trường thọ. Lòng trắng trứng có tác dụng khôi phục tế bào bị tổn thương của gan. Chất lecithin trong lòng đỏ trứng có thể thúc đẩy tế bào gan tái sinh, còn có thể nâng cao lượng protit huyết tương trong cơ thể, tăng cường chức năng bài tiết và chức năng miễn dịch. Sau khi lecithin được cơ thể tiêu hoá, sẽ giải phóng ra choline, choline có thể cải thiện trí nhớ. Trong lòng đỏ trứng hàm chứa muối vô cơ, canxi, photpho, sắt và vitamin khá phong phú. Nhưng trong trứng cũng chứa khá nhiều cholesterol, chất béo và acid béo, nếu ăn quá nhiều sẽ làm cho cơ thể tăng lượng dung nạp cholesterol, như thế sẽ gây ra xơ cứng động mạch và nguy hại đến mạch máu não và tăng thêm gánh nặng cho gan, thận. Vì vậy, mỗi ngày chỉ cần ăn 1 - 2 quả là được. Những người trường thọ thì không bao giờ ăn quá nhiều trứng. 6. Thích ăn khoai lang Ăn khoai lang là một trong những sở thích lớn của người già trường thọ. Một trong những người trường thọ tâm sự: “Khoai lang là một báu vật, bữa ăn nào cũng phải có nó”. Theo nghiên cứu, khoai lang có 5 tác dụng lớn: thứ nhất dinh dưỡng phong phú, điều hoà bổ máu; thứ hai là nhuận tràng thông khí, có lợi cho đại tiện; thứ ba là ích khí, tăng cường hệ thống miễn dịch; thứ tư là khoai lang hàm chứa chất chống ung thư, có thể phòng chống ung thư; thứ năm là phòng chống lão hoá, ngăn chặn xơ cứng động mạch. Khoai lang hàm chứa đại lượng chất keo protit vì vậy có thể ngăn ngừa các bệnh gan và thận, tăng cường hệ miễn dịch, tiêu trừ các gốc tự do, tránh bệnh ung thư do các gốc tự do gây ra. Trong khoai lang lại còn chứa khá nhiều canxi, magie, vì vậy có thể phòng ngừa chứng xương cốt rời rạc. Từ đó có thể thấy, khoai lang là một báu vật không thể thiếu của người trường thọ. 7. Đậu phụ là lựa chọn đầu tiên Người già thường thích ăn đậu phụ, họ cho rằng: “Ăn cá sinh nóng, thịt sinh đờm, bắp cải, đậu phụ đảm bảo bình an”. Thành phần chủ yếu của đậu phụ là protein và isoflavone. Đậu phụ có công dụng ích khí, bổ hư, lọc chì trong máu, bảo vệ gan, thúc đẩy chức năng trao đổi chất trong cơ thể. Thường xuyên ăn đậu phụ có lợi cho sức khoẻ và phát triển trí lực. Người già thường xuyên ăn đậu phụ có tác dụng rất tốt để trị liệu các chứng như xơ cứng mạch máu, xương cốt lỏng lẻo, rời rạc. 8. “Sùng bái” cải thảo Cải thảo là một trong những loại rau củ người già thích ăn nhất. Cải thảo có mùi vị tươi ngon, dinh dưỡng hài hoà, là loại rau tốt nhất trong mùa đông. Đại sư Tề Bạch Thạch Trung Quốc đã để lại một bức tranh cải thảo rất có ý nghĩa, bức tranh độc luận cải thảo là “vua của các loại rau” và ca ngợi “ trăm loại rau không bằng cải thảo”. Thường xuyên ăn cải thảo cơ lợi cho việc đánh đuổi bệnh tật, kéo dài tuổi thọ. Cải thảo hàm chứa chất khoáng, vitamin, protein, chất xơ, carotine, ngoài ra còn hàm chứa một loại chất có thể phân giải nitrosamine - một chất gây ra ung thư. Nhìn từ công dụng dược lý, cải thảo có 7 công dụng lớn: đó là dưỡng dạ dày, nhuận tràng, giải rượu, lợi tiểu, giảm mỡ, thanh nhiệt và chống ung thư. 9. “Không rời” củ cải Người già trường thọ mùa đông không rời xa củ cải. Họ nói: “Mùa đông ăn củ cải, mùa hè ăn gừng, 1 năm 4 mùa đảm bảo an khang”. Củ cải hàm chứa nhiều loại vitamin và khoáng chất, không chứa chất béo, có tác dụng đẩy mạnh trao đổi chất cũ mới, tăng cường cảm giác thèm ăn và giúp tiêu hoá. Củ cải đích thực là thực phẩm bảo vệ sức khoẻ của người già. Y học Trung Quốc cho rằng, củ cải có thể “hoá giải” và tiêu hoá thực phẩm tích trữ trong dạ dày, trị mất tiếng do ho, đờm gây ra; trị ho ra máu, chảy máu mũi; giải khát, trị kiết lỵ, giảm đau đầu, lợi tiểu... Nếu ăn sống có thể giải khát, thanh nhiệt, giải đờm, ngăn hen suyễn và trợ giúp tiêu hoá; Luộc chín ăn có tác dụng bổ ích, khoẻ tỳ. “Củ cải và trà” tức là ăn củ cải, sau đó uống trà, có thể tiêu trừ khô nhiệt, bài trừ khí nóng độc tích tụ trong cơ thể, có tác dụng rất tốt để khôi phục thanh khí và tinh thần. Củ cải nấu với thịt sẽ là ngon nhất nhưng không được ăn cùng với nhân sâm và cam quýt. 10. Cà rốt là “vật báu” của người trường thọ Cà rốt hàm chứa nhiều vitamin A, có chứa phong phú chất carotine. Nghiên cứu chỉ rõ, cà rốt có thể cung cấp các thành phần dinh dưỡng cần thiết để phòng ngừa bệnh tim mạch, trúng gió, cao huyết áp và xơ vữa động mạch. Chất carotine ít bị phá hủy dù ở nhiệt độ cao mà cơ thể lại dễ hấp thụ. Vào cơ thể, carotine sẽ chuyển hoá thành vitamin A, giúp trị các chứng khô mắt và quáng gà do thiếu vitamin A gây nên. Chất carotine chỉ dễ hấp thu khi có dầu mỡ vì vậy, những người già “trường thọ” có kinh nghiệm thường cắt cà rốt thành miếng nhỏ và xào với dầu mỡ, như thế khả năng bảo tồn của carotine có thể đạt trên 79%. Cà rốt cắt miếng vuông dài rán trong chảo dầu thì chất carotine có thể bảo tồn đến 81%. Cà rốt cắt miếng nấu với thịt, tỉ lệ bảo tồn chất carotine đạt đến 95%. Cà rốt còn có tác dụng tăng cường trí nhớ. Trước khi đọc sách hay học bài nếu ăn một đĩa cà rốt xào, rất có lợi cho việc tăng cường và củng cố trí nhớ. Dương Hằng Theo bbs
-
Số trường hợp nhiễm cúm A/H1N1 tăng không ngừng 09/05/2009 9:14 Tại một ga tàu điện ngầm ở Mexico City - Ảnh: Reuters (TNO) Tình hình dịch cúm A/H1N1 trên thế giới vẫn diễn biến cực kỳ đáng ngại khi số quốc gia công bố xác nhận có trường hợp nhiễm bệnh và số ca nhiễm tăng lên hàng ngày. Trong khi đó, số người chết vì cúm A/H1N1 vẫn chưa ngừng lại. Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra lúc 23 giờ đêm qua 8.5 (giờ VN), quốc gia mới nhất có mặt trong danh sách các nước có trường hợp nhiễm cúm A/H1N1 là Brazil với 4 ca nhiễm bệnh, nâng số quốc gia trên thế giới xác nhận có trường hợp nhiễm bệnh lên con số 25 nước, với tổng cộng 2.500 trường hợp nhiễm bệnh (tăng so với con số 24 nước và 2.384 trường hợp nhiễm bệnh theo thông báo của WHO đưa ra vào chiều 8.5). Cũng theo thông báo mới nhất của WHO, số người chết vì nhiễm cúm A/H1N1 tại Mexico đã tăng thêm 2 người lên con số 44 người. Đây vẫn là vùng "tâm chấn" dịch bệnh khi có đến 1.204 trường hợp nhiễm bệnh được xác nhận, bao gồm cả 44 trường hợp tử vong. Số trường hợp nhiễm bệnh tại Mỹ vẫn là 896 với 2 ca tử vong. Số trường hợp nhiễm cúm A/H1N1 ở các quốc gia khác như sau: Canada (214), Tây Ban Nha (88), Anh (34), Pháp (12), Đức (11), Israel (7), Ý (6), New Zealand (5), Brazil (4), Hàn Quốc (3), Hà Lan (3), El Salvador (2), Áo (1), Trung Quốc - Hồng Kông (1), Colombia (1), Costa Rica (1), Đan Mạch (1), Guatemala (1), Ireland (1), Bồ Đào Nha (1), Thụy Sĩ (1), Thụy Điển (1) và Ba Lan (1). Tiến Dũng nguồn thanhnienonline
-
Món ăn cho người viêm đại tràng 07/05/2009 18:18 Viêm đại tràng mãn tính làm ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Dưới đây là những món ăn dành cho người có bệnh này. Trong số nhiều nguyên nhân gây viêm đại tràng mãn tính như: do nhiễm trùng, sau các bệnh lý đường tiêu hóa (viêm dạ dày, ruột...), nhiễm độc thuốc hoặc hóa chất... thì theo lương y Vũ Quốc Trung còn có yếu tố ăn uống, nhất là ăn uống thất thường kéo dài, lạm dụng các thức ăn không thích hợp gây kích thích tổn thương niêm mạc ruột. Triệu chứng hay gặp nhất là đau bụng - thường đau ê ẩm phần bụng dưới, hoặc đau dọc theo khung đại tràng, đau tăng khi ăn, trước khi đại tiện, đau giảm sau đại tiện. Trong trường hợp tổn thương lan đến lớp thanh mạc của ruột thì sẽ đau bụng thường xuyên, nhất là khi vận động. Người bệnh hay bị rối loạn đại tiện (tiêu chảy hoặc táo bón), không thoải mái sau khi đại tiện xong, vì cảm giác mót rặn muốn đi nữa; rối loạn tiêu hóa (chướng hơi thấy bụng căng tức khó chịu; có cảm giác hơi di chuyển trong ruột), cảm giác miệng đắng, ăn không ngon miệng. Tình trạng rối loạn tiêu hóa kéo dài khiến người bệnh ngại ăn uống. Phòng phong, Nhục đậu khấu - Ảnh: K.Vy Để chẩn đoán bệnh cần khám chuyên khoa tiêu hóa, làm xét nghiệm phân, soi đại tràng, chụp X - quang đại tràng. Các món ăn bài thuốc chữa viêm đại tràng Theo lương y Vũ Quốc Trung, trong chữa trị, chế độ ăn uống rất là quan trọng. Không nên kiêng khem quá mức; cần giữ cân bằng trong khẩu phần ăn; tránh những thức ăn khó tiêu, thức ăn không thích hợp (tùy theo từng bệnh nhân); nếu đi ngoài phân có mùi chua, nhiều bọt thì giảm các thức ăn dễ lên men như đường, sữa, dưa chua; nếu đi ngoài phân có mùi thối thì giảm ăn đạm, nên ăn sữa chua, dưa; trong trường hợp bị táo bón nên ăn những thức ăn nhuận tràng như khoai, sữa chua, củ cải. Một số món dưới đây dùng thích hợp: * Đậu ván, đại táo: Đậu ván 25g, đại táo 20g, bạch thược và trần bì mỗi thứ 5g. Sắc lấy hai nước hòa chung, chia uống 2 lần trong ngày vào sáng và tối. Ngày uống 1 lượng như thế để trị viêm đại tràng mãn do tỳ vị hư hàn. * Trái vải, hoài sơn: Vải khô chỉ lấy cơm 50g, hoài sơn 40g, hạt sen 30g, gạo tẻ 60g. Ba vị đầu giã nát, nấu cháo chung với gạo tẻ, mỗi tối ăn 1 lần, liên tục 15 - 20 ngày. Trị viêm đại tràng mãn do tỳ thận hư hàn. * Củ sen: Củ sen già còn tươi 150g, gạo tẻ 100g, đường cát trắng 30g. Làm sạch củ sen, bỏ đốt và vỏ, cắt miếng nhỏ, nấu cháo với gạo tẻ, khi cháo chín thêm đường cát, ngày ăn 1 thang. Trị viêm đại tràng mãn do tỳ thận hư hàn. * Cật heo, cốt toái bổ: Cật heo 2 cái, cốt toái bổ 10g, gia vị vừa đủ. Làm sạch cật heo, cắt miếng, cốt toái bổ dùng vải thưa bọc lại, cho chung vào nồi, thêm nước hầm trong 1 giờ, nêm muối và gia vị vừa miệng. Ngày ăn 1 thang, chia ăn 2 - 3 lần, ăn liên tục 5 - 7 ngày. * Bổ cốt chỉ, ngũ vị tử: Bổ cốt chỉ 12g, ngũ vị tử 10g, ngô thù du 6g, nhục đậu khấu 10g, gừng tươi 6g, đại táo 5 quả. Tất cả đem nấu lấy nước dùng trong ngày. * Bạch thược, phòng phong: Bạch thược, phòng phong, cam thảo, bạch truật mỗi thứ 10g đem nấu lấy nước để dùng trong ngày. Hạ Mai nguồn thanhnienonline
-
Lưu ý khi dùng thuốc Đông y 08/05/2009 16:21 Đông trùng hạ thảo Bài viết dưới đây nhằm lưu ý khi sắc các bài thuốc, khi dùng thuốc trong y học cổ truyền. Sắc thuốc - Khi sắc cần cho ngập nước, cho thuốc vào trước, rồi sau đó cho nước vào ngâm khoảng 1 tiếng, để nước ngấm vào thuốc mới có thể sắc kiệt ra được những hoạt chất. - Lượng nước cho vào cần tùy theo lượng thuốc nhiều ít và yêu cầu của việc điều trị, thường sau khi sắc xong còn lại 1 bát nhỏ khoảng 200 - 300 ml là vừa. - Sắc thuốc bổ cần đun lửa nhỏ, để thuốc chịu nhiệt từ từ thì các hoạt chất mới dễ được sắc ra. Sau khi đun sôi nước thuốc, cần đun nhỏ lửa tiếp khoảng 30 - 45 phút, tắt lửa xong để ủ 5 - 10 phút rồi mới chắt nước thuốc ra. Nếu dùng lửa to đun sôi, thuốc dễ trào ra ngoài gây lãng phí và các hoạt chất cũng có thể bị phân hủy làm giảm tác dụng của thuốc. Nhân sâm không dùng chung với củ cải - Những loại thuốc bổ quý dùng độc vị (dùng một mình) như nhân sâm, linh chi thì nên dùng cách hãm uống như uống trà; đông trùng hạ thảo, tam thất, kỷ tử, đảng sâm, đương quy nên nấu cùng thực phẩm bổ như chim cút, chim sẻ, gà ác, chim câu (ngâm cho mềm rồi cho vào bụng chim hoặc gà và đun cách thủy).- Lượng thuốc sắc mỗi thang đủ uống trong 1 ngày, không nên sắc một lúc nhiều quá rồi để qua ngày hôm sau dùng, vì hoạt chất của thuốc biến mất, làm giảm hiệu quả, có khi bị hư uống đau bụng, tiêu chảy. - Với thuốc bổ thường phải sắc 2 - 3 nước thì các hoạt chất của thuốc mới tiết ra hết được. Sau đó hòa chung các lần sắc để uống. - Nên dùng nồi đất để đun sắc, không nên sử dụng đồ kim loại, có thể dùng nồi men sứ. Vì, thuốc bổ phải cần sắc lâu, để các hoạt chất của thuốc mới ra hết được, trong điều kiện sắc lâu, các kim loại dễ sinh ra phản ứng với các hoạt chất trong thuốc, làm biến đổi tính chất và thành phần của hoạt chất. Cũng không dùng chung với dụng cụ nấu ăn để tránh gây ra các phản ứng hóa học khác, làm giảm công dụng của thuốc. Lưu ý khi dùng - Khi dùng thuốc bổ Đông y cần phải chú ý vấn đề kiêng kỵ. Chẳng hạn như khi uống nhân sâm thường nên kiêng ăn củ cải. Theo lý luận Đông y, nhân sâm và củ cải có tác dụng tương phản nhau, nếu dùng đồng thời thì tác dụng của nhân sâm sẽ bị củ cải triệt tiêu; khi dùng nhân sâm, thủ ô không nên đồng thời uống nước chè. - Ngoài ra, khi bồi bổ phải cố gắng tránh những thức ăn chưa ăn bao giờ hoặc lúc bình thường không ăn thường xuyên như các loại hải sản tươi sống, để tránh làm cho các vị của thức ăn kháng lại vị thuốc. Nhất là đồ hải sản tươi sống có nhiều histamin dễ dẫn đến những phản ứng, dị ứng, khiến cho việc bồi bổ không thuận lợi, bồi bổ mà không có hiệu quả. - Thuốc bổ nên uống nóng, không nên uống lạnh. - Cữ uống sáng cần uống lúc đói bụng, nửa giờ sau mới ăn sáng để thuốc dễ hấp thụ; tối uống sau bữa ăn 2 giờ; còn buổi trưa uống 0,5 - 1 giờ trước khi ăn. Nếu sau khi uống thuốc lúc đói bụng mà dẫn đến hiện tượng đầy bụng, không muốn ăn thì có thể uống thuốc sau bữa ăn khoảng 1 giờ. Khánh Vy (Theo lương y Hoài Vũ)
-
IV. Con người là chủ nhân của nghiệp : Xin dẫn chứng lời của Đức Phật trong kinh "Tiểu nghiệp phân biệt" (Trung Bộ III) : "Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…" Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong "Truyện Kiều" Đã mang lấy nghiệp vào thân, Xin đừng trách lẫn trời gần trời xa. Chính chúng ta chứ không phải một thần linh nào khác quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những là khoa học và công bằng nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con người. Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta, trong thiên niên kỷ mới sắp đến này. Quá khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức sống trong hiện tại từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói lành, làm thiện. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong cuộc sống, trong thực hành. Triết gia Mỹ William James, chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của đạo Phật, đã nói câu :"Chúng ta đang dệt đời chúng ta bằng một sợi chỉ không tháo gỡ ra được " (Nous tissons notre vie d’un fil qui ne se défera pas). Câu nói của Nguyễn Du và của William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu thêm đôi điều như sau : Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi, nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý luôn luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi chỉ, không phải không tháo gỡ được, mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại được. Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hàng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong cả đời này và đời sau. Source: Nguyệt san Giác Ngộ số 48 --------------- * Chú thích : Trần Nhân Tông viết :"Sách Dịch xem chơi, yêu tinh sáng, yêu hơn châu báu, kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rỗi, trọng nhữ hoàng kim". Trần Nhân Tông nói là xem chơi, nghĩa là Ngài không lấy sách dịch làm chuẩn. Văn Vương tác Chu Dịch đích bản chỉ nãi giáo nhân dĩ trị loạn, thịnh suy, đắc thất chi lý, hậu thế dụng dĩ chiêm phệ, thực phi Văn Vương bản ý. (Nguồn: thuvien hoa sen)
-
6. Vấn đề cộng nghiệp : Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số người, vì không phải là một mà là một số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, dân tộc hay một vùng, một địa phương. Cộng nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân, khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới hiểu được tất cả ngọn ngành chi tiết. Trong kinh Chép lời Phật :"Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn loài người, Ta thấy các chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và người bần tiện, mỗi người đều theo nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh". (Chuyển dịch từ bản tiếng Anh "The Tibetan book of living and dying" của Sogyal Rinpoche, trang 92). Chúng ta không có được thiên nhãn thanh tịnh để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả cơ chế vận hành phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu chúng ta cũng biết được đại khái, nhưng rất là đúng đắn, rằng : "Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão". Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật gần 20 thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng, chúng ta buột mồm nói : "Tội nghiệp!". Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người và là nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp, nghiệp của số đông… Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi quả chín muồi và xảy ra thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả hợp thành của những nhân duyên đã từng được tạo ra và nay chín muồi. Nhưng đạo Phật không nói một cách máy móc : nhân nào quả ấy. Vì sao ? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân hành động. Nghiệp này tiếp nối nghiệp kia, nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước v.v… Chính vì vậy mà đạo Phật không nói số mệnh hay số phận , mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh giới phân biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, kể cả với Aán Độ giáo, khá gần gũi với Phật giáo, vì Aán Độ giáo cũng nói nghiệp Karma. Dẫn nghiệp hay cũng gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người. Chúng ta biết chắc là trong đời trước, chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp) khiến chúng ta có được thân phận người,nhưng giữa chúng ta đã có bao nhiêu sai biệt như già và trẻ, khỏe và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu, và mỗi người đều là thành viên những gia đình khác nhau với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy mà ngoài dẫn nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng anh dịch là Supportive Karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp. 7. Khái niệm mãn nghiệp : Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà có người hạnh phúc, người bất hạnh, người sang, kẻ nghèo hèn ; người thì có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi nhưng không ai tin ; người đẹp, kẻ xấu xí, có cô gái đẹp lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại được người vợ đẹp sánh Hằng Nga tái thế v.v… sao lại có những chuyện như vậy ? tất cả những chuyện sai biệt như vậy, đều là quả báo của mãn nghiệp hay là năng trì nghiệp. Một câu hỏi đặt ra là : loại mãn nghiệp này là bất khả kháng hay có thể chuyển được ? Xin trả lời, thuyết nghiệp của Phật giáo là bất định nghiệp là nghiệp có thể chuyển. Đã có bao nhiêu người sinh ra với sức khỏe rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi hơn 80. Triết gia Đức nói tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng nhờ sinh hoạt, làm việc rất đều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ v.v.. 8. Khái niệm năng tiêu nghiệp : Trong Phật giáo có khái niệm gọi là năng tiêu nghiệp, sách Anh ngữ có khi dịch là countereactive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tùy thuộc vào tình hình mà có thể là tốt hay xấu. Có thể đưa ra những ví dụ sau đây để minh họa : Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa học hiện nay là có gien thông minh. Nhưng người đó lại sinh ra trong một gia đình giàu có, được cha mẹ nuông chìu cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi, và cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta đã tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp, xâú và tiêu cực, hủy hoại bẩm sinh tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải ngẫu nhiên mà chính do anh ta nuôi dưỡng, hun đúc trong một đời trước. Còn những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp tích cực thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện người thật việc thật và gần gũi với mọi người. 9. Dẫn nghiệp có thể chuyển được không ? Có người thắc mắc, "mãn nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, nhưng dẫn nghiệp có thể chuyển được không ?" Xin trả lời rằng, dẫn nghiệp cũng có thể chuyển, trong những trường hợp như sau : Đúng là sau khi đã sanh ra làm người, có thân phận người, thì không thể chuyển được thân phận người thành một thân phận không phải người. Thí dụ như các đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường sanh bất lão và bất tử, trở thành thần, thành tiên ngay trong cõi thế này. Tôi nghĩ rằng bàn những chuyện như thế này là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức chăng thì cũng chỉ là một người. Nên miễn bàn là hơn. Nhưng đạo Phật có khái niệm "năng hủy nghiệp" để giải thích những trường hợp tuy có người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của tái sanh nghiệp vẫn còn, nhưng vì những người này trong một đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra những nghiệp cực mạnh,có khả năng tiêu hủy thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay bất đắc kỳ tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình thường gọi đó là những trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi là năng hủy nghiệp, nó tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Người đó, trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong đời này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh, đủ sức tiêu hủy một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách Phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó có thừa dầu và bấc. (Nguồn: thuvien hoa sen)
-
5. Lợi ích của việc tu tập tâm : Tuy nhiên, cần chú ý là theo đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hàng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không nghĩ việc ác, chỉ nghĩ điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng chưa đạt tới đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật hay A la hán, nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng dẫn tới đích giác ngộ và giải thoát tối hậu rồi. Hơn nữa, trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối hậu đó, con ngườii thiện nhất định sẽ không bị đọa vào cõi ác. Kinh Pháp Cú ví người như thế, như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết : Bàn tay không thương tích, Có thể cầm thuốc độc… (Kệ 124) Người ác làm hại người hiền cũng như kẻ ngu ngược gió, mà tung buị, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính người : Hại người không ác tâm Người thanh tịnh không uế, Tội ác đến kẻ ngu Như ngược gió tung bụi…. (Kệ 125, kinh đã dẫn ở trang 75) Vậy nên, quyết định tính chất và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình, là ở trong lòng mình, như thi hào Nguyễn Du đã viết : "Thiện căn bởi tại lòng ta". Tu Phật trước hết và chủ yếu là tu tâm, không phải chỉ vì "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" mà vì đức Phật cũng đã từng khuyến cáo chúng ta : Kẻ thù hại kẻ thu, Oan gia hại oan gia, Không bằng tâm hướng tà, Gây ác cho tự thân. (Kệ 42) và : Điều mẹ cha, bà con Không thể làm được, Tâm hướng chánh làm được Làm được tốt đẹp hơn. (Kệ 43)(Nguồn: thuvien hoa sen)
-
5. Dịch học và số mệnh : Phật giáo có phản đối các chuyện như là xem tướng số, bói toán hay không ? Xin trả lời rằng, vấn đề cơ bản của Phật giáo là giác ngộ và giải thoát, không phải là tướng số vá bói toán. Vì vậy mà trong kinh Di Giáo, ngay trước khi nhập Niết bàn, đưc Phật từng khuyên học trò mình là Tăng sĩ, không nên bói toán và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở các trường đại học Phật giáo trước đây ở Aán Độ không có môn tướng số và bói toán, tuy có dạy các môn thể học như là thanh minh (ngôn ngữ), Công xảo minh (tiểu thủ công nghệ), Y phương minh (chữa bệnh) Nhân minh (logic học)… Về Dịch học Phật giáo cũng không phản đối dịch học như là một bộ môn Triết học của Trung Hoa, do các bậc thánh Trung Hoa thời xưa là Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, và Khổng Tử sáng lập và hoàn chỉnh. Nhưng Dịch học, theo bản ý của các bậc thánh, đó không phải là môn học bói toán, mà là một môn triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành dữ, hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước ; và tinh thần của Dịch học là đức năng thắng số chứ không phải là con người phục tùng số mệnh. Tôi tuy không phải là người nghiên cứu chuyên môn về Dịch học, nhưng cũng có nghiên cứu qua sách dịch, không phải là để xem chơi như vua Trần Nhân Tôn nói trong chương I, bài phú Cư Trần lạc đạo (1) mà vì có giảng về triết phương Đông ở một số trường đại học và ở học viện Phật giáo. Tuy chỉ có biết đôi chút về Dịch học, nhưng với cái sở học của mình, cũng thấy được bản ý của các bậc Thánh lập ra môn Dịch học không phải là bói toán. Trái lại, bói toán chỉ làm dung tục hóa môn Dịch học mà thôi. học giả Trung Hoa Phó Lệ Pháp trong cuốn "Quốc học khái luận" (Đài bắc xuất bản, trang 40) viết rất đúng : "Bản ý của Văn Vương làm Chu Dịch là để dạy người cái đạo lý trị loạn, thịnh suy, được mất. Người đời sau dùng để bói toán, thực không phải là bản ý của Văn Vương" (2). Hơn nữa, nếu chúng ta xem kỹ một số lời giải các quẻ của Văn Vương hay các lời giải các hào của Chu Công thì chúng ta sẽ thấy các bậc thánh này nhấn mạnh vai trò của đức, của nỗ lực đạo đức cá nhân hơn là số. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành cát. Rõ ràng, đó là quan điểm đức năng thắng số tuy các bậc Thánh không nói rõ như vậy. Để minh họa, có thể dẫn chứng câu sau đây trong Văn Ngôn truyện một cuốn sách chủ yếu giaỉ thích hai quẻ Càn và Khôn : "Tích hiện chi gia tất hữu dư hương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương…" Nghĩa là nhà tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ… Gia đình như vậy, cá nhân cho tới đất nước, xã hội đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì dân sẽ làm loạn. Cá nhân sống ác, thì gặp nhiều bất hạnh, nếu làm thiện thì sẽ gặp may mắn, đó là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên. Dịch học tuy bàn chuyện hưng vong, thịnh suy và đắc thất nhưng cuối cùng vẫn khẳng định con người sống phải có đức, trị nước cũng phải có đức, thì mọi việc mới thông suốt, hài hòa (sách dịch dùng các từ hanh thông) chính đáng, bền vững (sách dịch dùng các từ lợi, trinh). III. Phật giáo dùng thuyết nghiệp thay cho thuyết số mệnh : 1. Nghiệp là gì ? Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận cán chết người. Người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh, anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện trong kết cuộc như vậy. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như thế, nếu chúng ta có một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp. Trong đời này, không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên và đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên đã tạo ra nó từ trước. Và đây là nghiệp, chứ không phải là số mệnh. 2. Dẫn nghiệp và mãn nghiệp – hai loại nghiệp quan trọng nhất : Nghiệp có nhiều loại nhưng Phật giáo thường chú ý hai loại chính là dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt chúng sanh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài Trời, cõi loài A Tu la và cõi loài người. Ba cõi ác là cõi súc sanh, cõi quỷ đói, và cõi địa ngục. Mắt trần chúng ta không thấy được loài Trời và loài A tu la. Chỉ biết rằng hai loài naỳ có quyền năng và thọ mạng nhiều hơn, dài hơn loài người rất nhiều. Mắt ta không thấy họ, nhưng không phải là họ không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên, quỷ… Trong các loại chúng sanh sống ở cõi ác, có hai loại mắt người cũng không thấy được là chúng sanh trong loại quỷ đói và chúng sanh trong loài địa ngục. Loài quỷ đói là loài chúng sanh bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé cho nên luôn luôn bị đói. Chúng sanh ở địa ngục thì bị khổ triền miên, khổ ở mức loài người không thể tưởng tượng nổi. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể kể xuể được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu. Chúng nó sống khổ thế nào, chúng ta cũng đều biết. Nhưng có điều nhiều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si như súc vật thì sau khi chết chúng ta có thể tái sanh vào làm súc vật. Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường. Cho nên, ít nhất chúng ta phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, để cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho ở đời này, cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đọa vào các cõi ác, khổ, mà luôn tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải thoát. Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng có tên gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng anh tương đương là Reproductive Kamma. Kamma là tiếng Pàli, nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương đương là Karma, một từ mà sách Tây phương rất hay dùng để chỉ nghiệp. Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hay thiện hoặc bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh, cũng như những sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau đây tôi xin đưa vài ví dụ minh hoạ trước hết những hành động tạo nghiệp cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Đó là các hành động cố ý giết cha, mẹ, bậc thánh Ala hán,làm chảy máu Phật và phá sự hoà hợp của tăng chúng. Nếu phạm một trong năm nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan, còn nói chung sống buông thả, không giữ năm giới, không làm mười thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, và súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ là người sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền, hay ốm đau, bị người đời khinh rẻ… 3. Cường độ của nghiệp quyết định ở chỗ dụng tâm : Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát với tâm tham, tâm sân. Gần đây báo chí đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là ví dụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo hằng ngày cũng từng đăng tin một cô gái, chỉ vì ghen tức đối với người con riêng của chồng mình – một cháu bé năm tuổi – đã nhẫn tâm quẳng cháu bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân hận và ghen tức là loại nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đọa vào cõi ác không tránh khỏi. Đối với thiện nghiệp cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ yếu do ở chỗ dụng tâm chứ không phải do ở quy mô và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật có câu : Làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi, thì việc đạo biến thành việc đời ; còn làm việc đời với tâm đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh, thì việc đời cũng biến thành việc đạo. Quan điểm trên về nghiệp giải phóng những người nghèo hèn khỏi nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người nhưng không biết xoay xở thế nào. Trong kinh 42 Chương có nói tới hạnh tùy hỷ bố thí. Đó là hạnh chia xẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia xẻ niềm vui đó là thật lòng, không chút ganh ghét thì công đức của hạnh bố thí tùy hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc có thể giúp cho bao nhiêu nhà được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm v.v… mà để bố thí tùy hỷ có cần phải có gì đâu, mà chỉ cần có tấm lòng biết chia xẻ niềm vui của người khác mà thôi. Đại sư Trung Hoa Trí Khải, trong bài tựa cuốn "Đồng mông chỉ quán" kể trường hợp một Sadi trẻ, ở cùng chùa một vị trụ trì đã chứng quả A la hán. Vị trụ trì chùa xem tướng học trò, biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò trên đường về nhà thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy thốc vào bờ đê, đe dọa cuốn trôi đi. Thầy Sadi trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn nhảy xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, thầy Sadi về nhà. Và sau một tuần trở lại chùa, vị A la hán thấy học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, hỏi cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sadi phát tâm từ bi rộng lớn, cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa. Câu chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày, sống trong thời Phật ,muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền để mua dầu. Đi ăn xin, ky cóp mãi mới được một đồng. Nhưng khi đến cửa hàng thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già cho nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có được một ngọn đèn cúng dường Phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật thuyết pháp, mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp của Phật, người ta đi dập tắt tất cả ngọn đèn ở trong nhà tịnh xá cũng như ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà già ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao tắt được, cả đến Ngài Mục Kiền Liên, học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật của bà già. Với tâm thành lớn như vậy,thì dù là cúng dường một ngọn đèn nhỏ, cũng đem lại cho bà ấy công đức vô lượng, khiến cho chư Thiên cũng cảm ứng, che cho ngọn đèn không bị dập tắt. Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật cũng không hiếm những chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ, nhưng sau khi được gặp Phật, được nghe pháp và thành thật ăn năn hối lỗi, cải tà quy chánh, một lòng tin đạo và hành đạo, thì ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên cướp tàn bạo ở vương quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambanali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo Phật, tu hành không bao lâu đều chứng quả Thánh A La Hán. Tóm lại dụng tâm là yếu tố quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pàli còn gọi là tác ý, cho nên Phật giáo định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý,theo hướng thiện hay ác, tức là ta đã tạo nghiệp thiện hay ác rồi. Người bình thường không hiểu cơ chế vận hành của nghiệp, cho nên rất hay xem thường, thậm chí ngay đối với lời nói,họ cũng nói một cách vô tâm : Lời nói bay đi, lời nói vô bằng ; không biết rằng ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn là nghiệp , huống hồ là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói là đạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói là nói dối, nói ác, nói chia rẽ, và nói vô nghĩa ; còn đối với sự bất thiện nơi thân thì có ba là sát sanh, lấy của không cho và tà dâm ; còn sự bất thiện nơi tâm cũng có ba là tham, sân, và si hay tà kiến. 4. Không được coi thường việc nhỏ : Đức Phật luôn răn dạy con người không nên coi thường những nghiệp thiện hay ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy đống rơm cao như núi, như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm bình lớn đầy tràn. Kinh Pháp Cú có các bài kệ : "Chớ chê khinh điều thiện, Cho rằng chưa đến mình, Như nước nhỏ từng giọt, Rồi bình cũng đầy tràn. Người chí chứa đầy thiện, Do chất chứa dần dần" (Kệ 122, HT. Thích Minh Châu dịch) Lại viết : "Chớ chê khinh điều ác, Cho rằng chưa đến mình, Như nước nhỏ từng giọt Rồi bình cũng đầy tràn, Người ngu chứa đầy ác, Do chất chứa dần dần" (121) (Nguồn: thuvien hoa sen)
-
II. Một số tôn giáo và vấn đề số phận, hay số mệnh : 1.Tôn giáo Hy Lạp cổ đại : Trong tư tưởng của Hy Lạp cổ đại, vấn đề số phận (fate) chiếm vị trí quan trọng và được biểu trưng bằng ba nữ thần ngồi dưới một gốc cây ở trung tâm trái đất và quyết định số phận của mỗi người. Vị nữ thần thứ nhất có tên Clotho, làm nhiệm vụ kéo sợi đan thành số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ hai có tên là Lachesie làm nhiệm vụ phân phối số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ ba có tên là Atropos, làm nhiệm vụ cắt đứt số phận của mỗi người, tức là quyết định người nào phải chết và chết lúc nào. Tư tưởng số phận đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại. Trong các bi kịch của Sophocle, thầy bói (Oracle) làm chức năng thông tin cho con người biết số phận của mình, như là một cái gì đã được quyết định trước rồi. Đặc biệt là hoàn cảnh chết của mỗi người là do số phận đã được quyết định như nội dung vở kịch Oedipe cho thấy. Trên đây đã nói về tư tưởng số phận hay số mệnh trong tư tường Hy Lạp cổ đại, như trong các tác phẩm của Homer cho thấy, qua ba nữ thần số mệnh nói trên đây, tuy Homer thường dùng từ số phận hay số mệnh theo số ít, nhằm biểu trưng cho một sức mạnh siêu nhiên, siêu việt lên trên ý chí con người. 2. An Độ giáo và vấn đề số mệnh : An Độ giáo như là tôn giáo thường nói tới một số thần linh như Vishnu, Siva, Kali có khả năng quyết định số phận của mỗi cá nhân tín đồ, thậm chí đôi khi ngược lại với hướng của nghiệp do cá nhân đó tạo ra. Nhưng Aán Độ giáo còn nói tới hai yếu tố khác, cũng quyết định đời sống của con người là nghiệp (Karma) và thời. Yếu tố nghiệp cũng tương tự như khái niệm nghiệp của đạo Phật, nhưng không triệt để và nhất quán bằng đạo Phật. Vấn đề này sẽ được bàn kỹ trong phần "đạo Phật thay thuyết số mệnh bằng thuyết nghiệp". Còn yếu tố thời của An Độ giáo cũng tương đương như yếu tố thời trong Dịch học của Trung Quốc vậy. Nói chung, trong văn chương của An Độ giáo, cả ba yếu tố thần linh, nghiệp (Karma) và thời đều được nhắc tới. Thí dụ, trong cuốn thánh ca nổi tiếng "Bhagavad Gita", khi hoàng tử Arjuna do dự không muốn xung trận vì kẻ thù không ai khác mà chính đều là bà con, họ hàng thân thưộc, thì thần Krishna đóng vai trò người lái binh xa cho Arjuna, đã hiện nguyên hình và giảng giải cho Arjuna là phải xung trận, vì số phận của kẻ thù là bị tiêu diệt. Nội dung của tập thánh ca "Bhagavad Gita" cho thấy, chi phối sự diễn biến của tình hình là ý chí của thần Vishnu cộng với sức mạnh của nghiệp (karma). Nói chung, phần lớn những người theo Aán Độ giáo đều tin những sự kiện chủ yếu của cuộc đời, như thân phận tái sanh, sức khỏe nói chung, người vợ tương lai hay chồng tương lai, số con và giới tính của con, thời điểm chết đều là những sự kiện được xác định trước bởi nghiệp (karma), hình thành từ trong đời sống quá khứ. Một số tín đồ Aán Độ giáo tin rằng, sự cố hay là tác động của một thần linh, có thể đem lại cái chết đột tử cho một người nhất định, và trái lại, việc xuất gia, sống lánh ở một thánh địa rất có thể thay đổi số phận của một con người. Ở Nam Aán, trong vùng cư trú của người Tamils người ta tin rằng số phận một con người đã được an bài sẵn khi mới sanh và được ghi trên trán bằng những dấu hiệu đặc biệt mà chỉ có những thầy xem tướng giỏi mới giải mã và biết được. Do Thái giáo và vấn đề số mệnh: Người Do Thái cổ đại tin là những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc Do Thái đều do Thượng đế an bài sẵn, mà dân tộc Do Thái phải phục tùng. Quân đội ngoại quốc xâm lặng Israel, chiếm cứ Israel, đày biệt xứ dân Do Thái đi nơi khác, như là đế quốc Assiri, và Babylone và sau này đế quốc La Mã từng làm, tất cả những tai họa đó giáng xuống đầu dân Do Thái đều không phải ngẫu nhiên mà là do dân Do Thái đã không trung thành với liên minh mà tổ tiên họ là tiên tri Moise, đã thay mặt họ, ký kết với Yahve trên núi Sinai… Như vậy là số phận của một dân tộc Do Thái, do hai yếu tố quyết định : một là những việc làm của bản thân dân tộc đó, phản bội lại liên minh với Thượng đế. Yếu tố thứ hai là sự trừng phạt của Thượng đế để đối với dân tộc Do Thái. Đó là sự can thiệp của một lực lượng siêu nhiên, siêu việt lên ý chí của con người. Có thể nói, đây là số phận hay số mệnh của dân tộc Do Thái đã được Thượng đế Yahve lựa chọn để truyền bá chân lý của đạo Do Thái cho loài người. 4. Đạo Hồi và vấn đề số phận : Từ Ả Rập maniyab là số phận hay số mệnh xuất hiện trong thơ ca Ả Rập ngay trước thời Mahomad. Con người có thể chết vì sự cố, trong chiến tranh hay là vì bệnh tật, nguyên nhân sâu xa của cái chết đó là do tiền định. Nhưng sức mạnh gì quyết định sự kiện cái chết của một con người ? Là Thượng đế Allah chăng hay là số phận, như là một sức mạnh không bị nhân cách hóa. Điều này không rõ trong văn chương Ả Rập, bởi lẽ không phải thi sỹ Ả Rập nào cũng tin đạo Hồi, vì đạo Hồi mãi tới thế kỷ VII sau dương lịch mới xuất hiện. Thế nhưng trong phạm vi đạo Hồi, nhất là trong kinh Coran, thì mọi sự kiện, thậm chí mọi hoạt động trong đời sống của một tín đồ đạo Hồi đều do Thượng đế Allah an bài, chứ không phải do số phận hay là số mệnh. Ngày tận thế cũng do Thượng đế Allah quyết định, ý chí loài người không dự phần trong việc này. Tuy nhiên các nhà Thần học Hồi giáo về sau có xu hướng giảm bớt tính tuyệt đối của sự can thiệp của Thượng đế vào đời sống con người, và dành một phạm vi nhất định cho hoạt động của ý chí tự do. Hình như các tôn giáo thần quyền, ngày càng thiên về thuyết không phải Thượng đế an bài và quyết định tất cả, và con người dù là sản phẩm do Thượng đế tạo ra, nhưng vẫn có một phạm vi ý chí tự do nào đó, khiến nó có thể phạm sai lầm và chịu sự trừng phạt của Thượng đế, điển hình là nhân vật Adam của đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, tuy do Thượng đế tạo ra nhưng vẫn ăn trái cấm, ngược với lời dạy của Thượng đế… Do đó mà phạm tội gốc, tức là nguyên tội. Có thể nói, trong các thuyết của các tôn giaó lớn, chỉ có thuyết Karma (nghiệp) của Aán Độ giáo là tương đối gần gũi (chứ không phải đồng nhất) với thuyết nghiệp của Phật giáo. Tuy nhiên, cần nhớ rằng Phật giáo nói nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tính bất điïnh của nghiệp, nghiệp là có thể chuyển được. Người là chủ nhân đồng thời cũng là thừa tự của nghiệp (trung bộ) (Nguồn :thuvien hoa sen)
-
I Các thuyết túc mệnh luận, định mệnh luận, thiên mệnh luận : Nói chung, tất cả mọi thuyết dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con người đều thiếu giá trị nhân bản, dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào. Túc mệnh luận là thuyết cho rằng số phận con người là do quá khứ an bài, xếp đặt tất cả, mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích, như dân gian từng nói : Con vua rồi lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa… Những người ở Trung Quốc xưa hay nói câu : "Nhất ẩm nhất trác, mặc phi tiền định", nghĩa là ăn một miếng, uống một chén, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Có thể nói, đó là những người theo túc mệnh luận cực đoan. Định mệnh luận cũng là túc mệnh luận, nhưng cường điệu tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói, số mệnh là quyết định, mọi cố gắng của con người đều vô ích. Thiên mệnh luận có nhiều nghĩa, không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo, tức là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì không có gì sai. Phải chăng, đó là ý tứ của Khổng tử trong Luận ngữ : "Ngô… ngũ thập nhi tri thiên mệnh" – "Ta… năm mươi tuổi thì biết mệnh Trời". Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông Trời quy định cho mình thì đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên là Phật giáo sẽ bác bỏ thuyết đó. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên mệnh như là "nguyên lý vận hành và biến hóa của tự nhiên", thì đây không phải là số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tùy thuộc ở phái Tống Nho hiểu luật tắc tự nhiên như thế nào. Ở chương XVI cuốn "Đạo đức kinh", Lão Tử cũng nói "Phục mệnh", nhưng trong văn cảnh của chương này, thì mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là số mệnh. "Phù vật vân vân, các phục kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh" – "Muôn vật phồn thịnh, mỗi vật đều trở về cội gốc của mình , trở về cội gốc thì gọi là tĩnh, tức là trở về với mệnh". Rõ ràng, Lão Tử dùng từ mệnh ở đây không phải với nghĩa số mệnh, mà với nghĩa đạo,tức là cội nguồn của trời đất, muôn vật. Trong Thần hệ của Hy Lạp cổ đại có thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus, vị thần tối cao đứng đầu các vị thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy người Hy Lạp cổ đại tin rằng tất cả các vị thần, kể cả Zeus cũng phải phục tùng số mệnh. Niềm tin ở số mệnh phổ biến như vậy, lan tràn như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm tin đó có đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó ? Người Pháp có câu : "L’homme propose, Dieu dispose" (Người kiến nghị nhưng Thượng đế bác đi). Đây cũng là một biểu hiện rõ nét của thuyết mà Phật giáo thường gọi là Thần ý luận, khẳng định mọi sự việc diễn biến trong thế gian này đều do ý muốn của Thượng đế, và ý muốn đó là siêu việt, vượt trên tầm hiểu biết của con người, cho nên con người chỉ nên phục tùng, không những không được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng đế. Thiên mệnh luận cũng là số mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hóa thành Thượng đế hay là số mệnh do một nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của thuyết này là một mặt khiến cho con người ta an phận thủ thường, mất hết ý chí phấn đấu, mặt khác lại khiến cho con người trốn tránh trách nhiệm của mình, thậm chí mình giết người, đoạt của, nhưng lại tự an ủi : đó là do Thượng đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền nhiệm của Thượng đế. Phật giáo tôn trọng tất cả các tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng đế tạo thế. Đó là đường lối thủy chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo đó về vũ trụ và nhân sinh. (Nguồn:thuvien hoa sen)
-
Việt Nam: Từ dịch bệnh đến an ninh con người 08/05/2009 09:37 (GMT + 7) (TuanVietNam)- Khi các cơ quan chức năng coi các đại dịch là một mối đe dọa an ninh quốc gia thì nhận thức của người dân đối với sự nguy hiểm của dịch bệnh sẽ được nâng lên, đồng nghĩa với ý thức phòng chống dịch bệnh của người dân cũng sẽ tốt hơn. Các cô gái đeo mặt nạ phòng cúm lợn ở thủ đô Mexico City. Ảnh: THX. Từ chuyện đại dịch và nhận thức của người dân Dịch cúm A H1N1 hiện đang nổi lên như một mối quan tâm hàng đầu đối với cộng đồng quốc tế. Tính đến 00h00 ngày 5/5, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết số ca mắc cúm A H1N1 đã vượt qua con số 1.000 tại 20 nước trên 5 châu lục. Nhiều nước đã ban bố tình trạng khẩn cấp và WHO cũng đã nhắc đến khả năng đưa cảnh báo về dịch cúm A H1N1 lên mức báo động cao nhất. Ở Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước cũng đang có những biện pháp tích cực để ngăn ngừa sự xâm nhập của dịch cúm này vào Việt Nam, đặc biệt là ở các cửa khẩu quốc tế. Thế nhưng bên cạnh những nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước thì yếu tố quan trọng hơn cả trong việc kiểm soát thành công các đại dịch, mà cúm A H1N1 chỉ là một ví dụ, nằm ở ngay ý thức phòng bệnh của người dân. Còn nhớ khi xảy ra dịch cúm gà mấy năm trước, người dân tại nhiều nơi có dịch vẫn ngang nhiên buôn bán, tiêu thụ gà sống chưa qua kiểm dịch bất chấp lệnh cấm. Có nơi người dân còn "khai quật" cả gà đã bị tiêu hủy lên để tiêu thụ. Đó là một mối nguy hiểm to lớn đối với an toàn của toàn xã hội, xuất phát từ sự thiếu ý thức của một số bộ phận người dân. Những hành động như vậy cần được trừng trị đích đáng, và quan trọng hơn là cần được ngăn chặn ngay từ đầu. Vậy một trong những câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để nâng cao nhận thức của người dân đối với sự nguy hiểm của vấn đề dịch bệnh? Theo người viết, một giải pháp cần được tính tới chính là nâng cao hơn nữa nhận thức của chính quyền đối với vấn đề này bằng cách "an ninh hóa" mối đe doạ dịch bệnh. Đến dịch bệnh trong nhận thức về an ninh Trên thế giới, vấn đề dịch bệnh từ lâu đã được nâng lên thành một khía cạnh của an ninh. Tuy nhiên, an ninh ở đây không được hiểu theo cách hiểu truyền thống là an ninh quốc gia, mà được hiểu theo một cách hiểu mới. Sự thay đổi này trong nhận thức về an ninh gắn liền với sự ra đời của khái niệm "an ninh con người". Khái niệm "an ninh con người" lầu đầu tiên được nêu lên trong Báo cáo Phát triển Con người của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) năm 1994.[1] Theo UNDP, khái niệm an ninh từ lâu được các nước hiểu theo nghĩa hẹp là an ninh quốc gia, đóng gói trong phạm vi các mối đe dọa đối với chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hay các vấn đề gắn liền với sự sinh tồn của một quốc gia như chiến tranh, chạy đua vũ trang, phổ biến vũ khí hạt nhân… UNDP cho rằng trong nhận thức về an ninh của mình, các quốc gia đã không lưu tâm tới những mối lo lắng chính đáng về an ninh của những người dân bình thường trong cuộc sống thường nhật của họ. Chính vì vậy tổ chức này đã đề ra khái niệm "an ninh con người", bao gồm 7 thành tố chính: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng, và an ninh chính trị. Một nhân viên y tế phun nước làm sạch một con đường bên ngoài Khách sạn MetroPark sau khi cảnh sát phong tỏa khu vực này ở Hongkong. Ảnh: AFP Số người chết do cúm A H1N1 tại Mexico đã lên tới 26 người. Ảnh AP Theo đó, bên cạnh các mối quan tâm về an ninh quốc gia, UNDP cho rằng mỗi nước cũng cần đảm bảo "an ninh" của từng người dân, hay nói cách khác là bảo vệ họ trước các mối đe dọa trong cuộc sống thường nhật liên quan đến các vấn đề như chính trị, kinh tế, lương thực, môi trường, y tế… Riêng an ninh y tế trong phạm vi khái niệm an ninh con người gắn liền với việc bảo vệ sức khỏe và tính mạng của người dân trước các mối đe doạ gây nên bởi bệnh tật, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có thể cướp đi nhiều sinh mạng cùng một lúc. Vấn đề an ninh con người trong hoạch định chính sách Có thể nói chính sự ra đời của khái niệm an ninh con người đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong nhận thức của nhiều quốc gia về khái niệm "an ninh". Trong đó quan trọng nhất chính là nhận thức về hai khía cạnh: an ninh cho ai và an ninh trước các mối đe dọa nào? Nếu như theo cách hiểu truyền thống, an ninh đồng nghĩa với an ninh quốc gia, trong đó quốc gia là chủ thể cần được bảo vệ về mặt an ninh, thì theo cách hiểu mới, con người nổi lên trở thành chủ thể chính của an ninh và cần được ưu tiên bảo vệ. Bên cạnh đó, nếu như an ninh truyền thống (hay an ninh quốc gia) đề cao mối đe dọa đến từ ngoại xâm đối với chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia thì an ninh con người tập trung vào các mối đe dọa thuộc "chính trị cấp thấp", như nghèo đói, kém phát triển, ô nhiễm môi trường, bệnh dịch… Mặc dù an ninh quốc gia và an ninh con người có cách tiếp cận khác nhau, nhưng chúng không hoàn toàn đối nghịch, mà ngược lại có mối liên hệ nhất định. Trong báo cáo công bố năm 2003 của mình, Ủy ban về An ninh Con người cho rằng nếu không có an ninh con người thì an ninh quốc gia sẽ không được bảo đảm và ngược lại.[2] Theo đó, nếu người dân của một nước phải chịu đựng các vấn đề như nghèo đói, kém phát triển, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh… thì sức mạnh của quốc gia đó sẽ suy giảm, làm ảnh hưởng tới khả năng tự vệ của quốc gia đó trước các nguy cơ xâm lược. Ngược lại, nếu một quốc gia bị xâm lược thì quốc gia đó cũng không thể có điều kiện đảm bảo an ninh của từng cá nhân người dân trong các vấn đề liên quan đến cuộc sống thường nhật của họ. Chính vì vậy, có thể nói nâng cao an ninh con người, trong đó có an ninh y tế, chính là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia và ngược lại. Mặc dù còn một số tranh cãi đối với việc đưa an ninh con người vào chương trình nghị sự về an ninh của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế, nhưng trên thực tế khái niệm "an ninh con người" đã được nhiều quốc gia tiếp nhận và áp dụng vào các chính sách đối nội cũng như đối ngoại của mình. Ví dụ như Nhật Bản, bên cạnh các chương trình nhằm nâng cao an ninh con người của người dân trong nước như các chính sách về phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường…, Nhật Bản cũng đã đưa an ninh con người trở thành một trọng tâm trong chính sách đối ngoại của mình. Theo đó, chính sách ODA của Nhật Bản ưu tiên tài trợ cho các dự án, chương trình giúp nâng cao an ninh con người của người dân ở các nước mà Nhật Bản quan tâm.[3] Điều này giải thích tại sao nhiều dự án ODA của Nhật Bản ở nước ta cũng như nhiều nước khác tập trung vào các lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, hay chăm sóc y tế, phòng chống dịch bệnh… Như vậy, trong khi thế giới đã đưa khái niệm an ninh con người vào chính sách quốc gia của mình, thì phải chăng đã đến lúc Việt Nam cũng nên áp dụng cách tiếp cận mới này đối với vấn đề an ninh? Trên thực tế, một số thành tố của an ninh con người đã ít nhiều được đề cập tới trên các phương tiện truyền thông nhưng nhìn chung ở Việt Nam khái niệm an ninh con người mới chỉ chủ yếu được nghiên cứu trong giới học thuật. Các chính sách hay văn bản pháp luật chính thức của Việt Nam mặc dù hướng tới việc bảo vệ người dân trước các mối đe dọa về an ninh con người, nhưng các chính chính sách này vẫn chưa chính thức được đề cập tới như là những chính sách "an ninh con người" do việc áp dụng khái niệm "an ninh con người" vào khuôn khổ hoạch định chính sách quốc gia vẫn chưa diễn ra ở nước ta. Lợi ích của việc đưa an ninh con người vào chính sách quốc gia Có thể thấy rằng việc áp dụng cách tiếp cận an ninh con người trong hoạch định chính sách quốc gia sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích. Về mặt ý nghĩa thực tế, việc đưa an ninh con người vào khuôn khổ chính sách quốc gia sẽ giúp chính quyền, các cơ quan chức năng, các nhà hoạch định chính sách tiếp cận và có nhận thức cao hơn đối với vấn đề an ninh con người, qua đó có những biện pháp và chính sách phù hợp để nâng cao toàn diện an ninh con người, góp phần gián tiếp củng cố và bảo vệ an ninh quốc gia. Về mặt ý nghĩa biểu tượng, việc lấy an ninh của mỗi người dân làm trọng tâm trong khuôn khổ chính sách quốc gia sẽ làm nổi bật khía cạnh "vì dân" trong phương châm "nhà nước của dân, do dân, vì dân" của chúng ta. Hơn nữa, việc đưa an ninh con người vào khuôn khổ chính sách quốc gia sẽ gửi tới cộng đồng thế giới một thông điệp tích cực về Việt Nam, không những góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc kêu gọi tài trợ ODA, đặc biệt là đối với các dự án liên quan đến an ninh con người. Quay trở lại vấn đề phòng chống dịch bệnh, có thể thấy việc coi dịch bệnh như một vấn đề an ninh con người sẽ có những lợi ích nhất định, trong đó ngoài việc tạo cơ sở pháp lý và củng cố quyết tâm của chính quyền trong đối phó dịch bệnh thì biện pháp này còn góp phần nâng cao ý thức của người dân trước các mối nguy hiểm do bệnh dịch gây ra. Nếu chúng ta có các quy định pháp lý hoặc chính sách cụ thể coi các đại dịch là một mối đe dọa an ninh con người, gián tiếp ảnh hưởng an ninh quốc gia, thì rõ ràng nhận thức của người dân đối với sự nguy hiểm của dịch bệnh chắc chắn sẽ được nâng lên, đồng nghĩa với ý thức phòng chống dịch bệnh của người dân cũng sẽ tốt hơn. Ví dụ như nếu mấy năm trước chúng ta coi dịch cúm gà là một mối đe dọa an ninh và ban bố tình trạng khẩn cấp đối với vấn đề này như cách một số nước hiện đang làm đối với dịch cúm A H1N1 thì chắc rằng khả năng người dân vi phạm lệnh cấm buôn bán gia cầm chưa qua kiểm dịch cũng như "khai quật" gà đã bị tiêu hủy sẽ giảm đi rất nhiều. Quan trọng hơn, khi chúng ta coi dịch bệnh là một mối đe dọa trực tiếp an ninh con người và một mối đe dọa gián tiếp tới an ninh quốc gia thì những hành động làm phát tán dịch bệnh như những ví dụ nêu trên có thể bị coi là những hành vi vi phạm an ninh quốc gia. Các biện pháp chế tài đối với những hành vi vi phạm đó cũng sẽ nặng hơn, mang tính răn đe cao hơn đối với người dân, và vì thế đóng góp hiệu quả hơn cho nhiệm vụ phòng chống dịch bệnh của các cơ quan chức năng . Qua những phân tích trên, có thể thấy đã đến lúc cần chính thức đưa khái niệm an ninh con người cũng như các thành tố của nó, bao gồm cả an ninh y tế và vấn đề dịch bệnh, vào khuôn khổ chính sách quốc gia. Ví dụ Đảng có thể xem xét đưa việc đảm bảo an ninh con người cho người dân vào các văn kiện của mình, hay Chính phủ có thể triển khai xây dựng chiến lược quốc gia về bảo vệ và nâng cao an ninh con người ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta cũng cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm bảo vệ và nâng cao an ninh con người ở Việt Nam, trong đó trước mắt có thể xem xét xây dựng Luật các Tình trạng Khẩn cấp nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc ứng phó với các vấn đề mang tính cấp bách, đe dọa an ninh con người trên quy mô lớn, trong đó có vấn đề thiên tai và dịch bệnh. Lê Hồng Hiệp (Thạc sỹ Quan hệ quốc tế và Ngoại giao) Theo tuanvietnamnet
-
Con Mắt Trái Tim Con mắt trái tim có cái nhìn thấu suốt Vào linh hồn vào nét đẹp thiêng liêng Con mắt trái tim thấu hiểu nỗi niềm riêng Cả lý trí cũng bó hồn chẳng hiểu Con mắt trái tim không nhìn vào giá biểu Vào tâm hồn vào chất lượng lương năng Con mắt trái tim hướng về cõi vĩnh hằng Yêu chân thật yêu đến giờ phút cuối Con mắt trái tim biết thứ tha, nhận lỗi Biết cúi nhìn biết sửa đổi ăn năn Con mắt trái tim nhất định chẳng cằn nhằn Chuyện nhỏ nhặt bỏ qua cho dễ sống Con mắt trái tim luôn sáng ngời hy vọng Nhìn mọi người với tất cả tin yêu Con mắt trái tim nhất định chẳng đặt điều Dựng ngụy tạo, bày điêu ngoa xảo trá
-
30 năm sau HGL sẽ biết thú vị thế nào khi có người xưng em với Bác nha ! hi hi !
-
Hạt gạo Làng khó nhỉ ? Namy gọi BÁC THIÊN SỨ rồi mà chưa ổn ? Mà hơn nữa là Cụ thì Bác cũng chẳng thích đâu he he !
-
Bạn là tuýp người cổ điển hay hiện đại trong tình yêu? Ảnh: Corbis.com. Nếu nhìn thấy trên bàn tiệc có một bình rượu và một quả cam, bạn sẽ nghĩ đến điều gì đầu tiên. Câu trả lời của bạn sẽ cho biết hoàn cảnh nào dễ khiến bạn nảy sinh tình cảm với người khác phái. Mời bạn chọn lựa chọn đúng với suy nghĩ của mình nhất trong bài trắc nghiệm dưới đây và xem đáp án: Trên bàn tiệc đặt một bình rượu và một trái cam. Ấn tượng đầu tiên của bạn về chúng là: a. Rượu và cam chẳng có liên quan gì đến nhau b. Ép lấy nước cam, có thể làm được một ly cocktail đây c. Sẽ thái cam thành lát mỏng cho vào rượu, cài ở thành cốc d. Ăn cam xong uống rượu hoặc uống rượu xong ăn cam Chọn a: Bạn là người theo mẫu hình cổ điển, không dễ làm quen, kết thân với đối phương ngay. Bạn thường bắt đầu mối quan hệ tình cảm trên đường đến chỗ làm, thư viện, siêu thị hay một địa điểm nào đó vì công việc. Những người bạn có tình ý trước hết phải kết bạn với bạn đã. Chọn b: Bạn là người rất lãng mạn. Nhiều khả năng bạn sẽ gặp người trong mộng của mình trong một chuyến đi chơi, một bữa tiệc lung linh. Muốn duy trì mối quan hệ với bạn, đối phương cũng phải là người lãng mạn, có chung nhiều sở thích. Mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp bằng tuần trăng mặt đến Rome. Chọn c: Bạn rất cẩn trọng trong các mối quan hệ nên người ấy thường là bạn thân lâu năm, đồng nghiệp tốt hay hàng xóm của bạn. Bạn cần quen biết đối phương khá lâu, hiểu rõ họ mới có thể bắt đầu mối quan hệ có sắc thái yêu đương. Bạn cũng luôn đòi hỏi đối phương nghiêm túc và dừng ngay mối quan hệ nếu cảm thấy bất an. Chọn d: Bạn là người phóng khoáng, sôi nổi. Cuộc sống của bạn phong phú, sôi động và tình yêu của bạn thì không bắt đầu theo những cách thông thường. Bạn có thể gặp người ấy ở quán bar, vũ trường, sân bowling. Những mối tình sét đánh có thể khiến bạn ngất ngây và cũng kéo bạn đến tận cùng đau khổ. (Theo Sinh Viên Việt Nam) nguồn vnexpress.net
-
Nghe và xem link này http://www.youtube.com/watch?v=v75AOM5KUTA
-
Hiện tượng BÁO MỘNG http://www.youtube.com/watch?v=WyLHD_XVNcE...feature=related
-
Bạn vào trang chủ Diễn đàn nhìn góc phải có cửa sổ Trình tử vi Lạc Việt và theo link này để có lá số :http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/TuViLacViet.html
-
Mời elegant tham khảo link này : http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=3431
-
2 tuổi này hơi khó cho việc chọn năm sinh cho con. Tính theo bản luận tuổi Lạc Việt . Tuy nhiên nếu bạn sợ lâu quá, e rằng bạn vất vả và bé cũng khó nuôi. Tùy bạn chọn, Wild chỉ luận giải cách nào tốt nhất cho hạnh phúc gia đình và tuổi của con cái sẽ vượng phát cho cuộc sống của bạn.
-
Bạn vào Trang chủ, phía góc trái có Trình Tử Vi Lạc viêt Và Click here http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/TuViLacViet.html
-
Đọc bài của Meiji, Tôi chẳng hiểu bạn gặp khó về mặt nào ? Tình duyên ? Công danh ? Về hướng nhà đã xác định không hợp bạn muốn Bác Thiên sứ hóa giải chắc Bác phải du hành Nha Trang 1 chuyến ?
-
5 “đừng” trong dịch cúm A (Dân trí) - Sự hoảng loạn chỉ dẫn tới những hành động ngốc nghếch - ở mức độ cá nhân hay quốc gia - và đều làm cho tình hình dịch bệnh tồi tệ thêm. 1. Đừng nóng vội Trước những báo cáo không ngừng về tình hình dịch cúm A/H1N1, chúng ta có cảm giác như dịch bệnh đang rình rập khắp mọi nơi và chỉ cần hơi khụt khịt nhẹ là đủ để có cảm giác rằng mình hình như đã bị nhiễm vi rút. Điều này giải thích tại sao nhiều người dù không hề có biểu hiện nào của ốm đau vẫn ùa tới các địa điểm cấp cứu dành cho các trường hợp nhiễm cúm A/H1N1. Đó thực sự là một tin tức không mấy tốt lành. Trên tất cả, chỉ có thể giải thích về hành động của những người không nhiễm vi rút đó là họ quá căng thẳng khi thấy toàn ngành y tế đang huy động tổng lực cho 1 đại dịch đang đến gần. Thêm vào đó, việc tới các phòng cấp cứu khi chưa mắc bệnh lại có thể làm gia tăng nguy cơ nhiễm vi rút tại đây. Trong các đợt dịch trước đây, bao gồm cả dịch SARS năm 2003, các bệnh viện vẫn là nơi dễ lây nhiễm - tất cả các bệnh nhân đều ở cùng một nơi. Nếu có các triệu chứng cúm, như sốt trên 38,5°C, đau đầu, viêm họng, đau người, mệt mỏi và sống ở những nơi được xác nhận là có trường hợp mắc cúm A/H1N1 thì cần thông báo cho cơ sở y tế gần nhất để nghe hướng dẫn thay vì xăm xăm tới viện. 2. Đừng sợ ăn thịt lợn Ngày 29/4, TT Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ thông báo, “cúm lợn” không phải là cúm lây từ lợn và gọi nó là cúm H1N1 2009. Cái tên không có nhiều ý nghĩa nhưng đúng bản chất. Vì rằng không có bằng chứng nào cho thấy vi rút này gây ra cúm ở lợn. Và vi rút H1N1 cũng mang gen của vi rút cúm lợn, cúm gia cầm và cúm ở người. Vi rút này cũng không lây lan qua sản phẩm thịt lợn - tức là không thể nhiễm cúm H1N1 khi ăn thịt nguội, xúc xích hay bất cứ thực phẩm nào làm từ lợn. Cúm H1N1 lây lan từ người sang người chứ không phải là từ lợn và vì thế tự chúng ta phải kiểm soát mình chứ không phải là lợn. Báo cáo từ Mexico cho thấy không có trường hợp tử vong nào mới do cúm H1N1 trong đêm qua. Trước đó, thông báo của nước này cũng cho thấy số người nhập viện do cúm đang giảm dần. Như vậy chúng ta đã có thể hy vọng rằng thời điểm tồi tệ nhất đã qua. Nhưng vi rút vẫn tiếp tục lan ra khắp thế giới, khi nhiều trường hợp mắc mới phát hiện thấy tại châu Âu và châu Á, nhiều chính phủ đã cấm các chuyến bay và sẵn sàng kiểm dịch. 3. Đừng dự trữ thuốc chống vi rút Vi rút H1N1 có thể bị tiêu diệt bởi 2 loại thuốc kháng vi rút là Tamiflu và Relenza - đây là những thông tin tốt lành. Đây sẽ là vũ khí chủ đạo của các chính phủ trong việc phòng chống đại dịch. Với số lượng lớn thuốc được sản xuất trong vài năm qua, các chuyên gia tin rằng đủ để các bác sĩ có thể chặn đứng đại dịch nếu nó xảy ra. Nhưng khả năng cung cấp thuốc có thể bị suy giảm nếu tất cả chúng ta đều trữ thuốc kháng vi rút để phòng thân. Vì thế, thay vì cấp tràn lan, nhiều bệnh viện tại Mỹ chỉ cấp thuốc cho 1 số đầu mối để tăng sự kiểm soát đối với loại thuốc này. 4. Đừng ra khỏi nhà nếu bị ốm Trong khi vắc xin chưa có, hàng rào duy nhất giúp chúng ta chống lại sự lây lan của dịch H1N1 lại là những cách vô cùng đơn giản. Đó là che miệng khi hắt hơi, ho và rửa tay thường xuyên với nước sát khuẩn. Nhưng để làm chậm lại tốc độ lây lan của đại dịch cúm thì cách tốt nhất là hãy cách ly người bệnh khỏi cộng đồng. Biện pháp cách ly này đã được chứng minh là có hiệu quả đối với dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918. Vì thế, khi phát hiện bị bệnh, đừng đi làm cho tới khi khỏi hẳn. 5. Đừng hoảng loạn Sự hoảng loạn chỉ dẫn tới những hành động ngốc nghếch - ở mức độ cá nhân hay quốc gia - đều làm cho tình hình dịch bệnh tồi tệ thêm. Lo lắng về dịch bệnh là đương nhiên nhưng hãy bình tĩnh bởi vì tử vong do cúm H1N1 chưa xảy ra ở ngoài biên giới Mexico. Rất nhiều nhà khoa học đang tin rằng nếu chúng ta đủ bản lĩnh, đại dịch có thể kiểm soát và nó sẽ không phải là 1 đại dịch nữa. Khi WHO và TT Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ nhấn mạnh: cúm luôn là 1 điều bí ẩn và H1N1 cũng như vậy vì thế chúng ta không thể dự đoán được đại dịch sẽ tiến triển ra sao nhưng có một điều rằng: Sự hoảng loạn chỉ làm cho tình hình tồi tệ hơn. Nhân Hà Theo Time nguồn dantri.com
-
Bạn nên lấy lá số ở trang chủ của Diễn đàn, trình tử vi Lạc Việt .