-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Món ngon truyền thống trong ngày tết diệt sâu bọ SGTT.VN - Cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, trên đất Sài thành phồn hoa lại xuất hiện những chiếc bánh ú lá tre dân dã ở khắp các chợ. Ngược dòng thời gian, theo truyền thống Việt Nam trong ngày tết diệt sâu bọ này, dân ta còn có những món ăn dân dã khác, đậm đà hồn Việt. Nửa năm tròn trịa Xuất phát từ ý nghĩa trọn vẹn, đoàn viên, trải qua nửa năm tròn trịa, trong ngày mùng 5 tháng 5 dân Việt có món cơm rượu và chè trôi nước để dâng cúng ông bà. Theo quan niệm xưa, ăn cơm rượu để diệt sâu bọ (giun sán) trong đường ruột. Ở hai miền Nam – Bắc cơm rượu cũng khác nhau. Cơm rượu miền Bắc làm bằng nếp lức có màu nâu đất, dạng tơi và hạt cơm rượu vẫn còn đủ cứng để khi ăn có thể nhấm nháp từng hột cơm thấm đẫm vị rượu. Còn cơm rượu miền Nam được làm bằng nếp dẻo, sắc trắng đẹp được rắc men rồi vò viên tròn. Riêng cơm rượu Gò Công thì được nắn theo dạng khối vuông hoặc hình chữ nhật, mang ý nghĩa vuông tròn. Cơm rượu thường ăn kèm với xôi vò. Ở Sài Gòn, muốn ăn món gì ra chợ mua là có. Nhưng, với những người lớn tuổi thường tự tay làm cơm rượu ở nhà để tạo không khí gia đình và cũng để con cháu gìn giữ truyền thống. Món chè trôi nước miền Nam được làm từ bột nếp, nhân đậu xanh trộn dừa nạo, thêm chút hành lá và mỡ heo. Trẻ con thì lại thích nhất là những viên nhỏ xíu, tròn vo. Ngày xưa, ông bà nấu chè trôi nước bằng đường thẻ, chè có màu vàng mượt mà. Ngày nay, chè trôi nước nấu bằng đường cát trắng nên chè có màu trắng tươi cũng khá hấp dẫn. Một số người muốn giống vị xưa thì nấu bằng đường thốt nốt. Chè trôi nước ăn với ít mè rang, giới trẻ thích béo thì chan thêm nước cốt dừa. Dân dã hồn quê Tết Đoan Ngọ người Hoa hay người Việt đều có món bánh ú lá tre. Nhưng, bánh ú lá tre của người Hoa có nhân thịt, hột vịt muối, lạp xưởng… không có hương vị chân chất, thấm đẫm hồn quê như bánh ú nước tro của người Việt. Bánh ú nước tro của người Việt nho nhỏ, gói bằng vài chiếc lá tre đơn sơ bên ngoài. Nếp gói bánh được ngâm với nước tro, khi nấu chín, hạt nếp hoà thành bột, tạo thành khối vàng nâu trong suốt. Bánh có hai loại, loại nhân đậu và loại không nhân chấm với đường. Kiểu ăn bánh ú không nhân chấm với đường thể hiện rõ nét văn hoá ẩm thực dân dã của người Việt. Những người lớn tuổi kể rằng, ngày xưa tay cầm miếng bánh ú cắn một miếng, tay kia cầm miếng đường thẻ nhấp một chút, vị bánh hoà với đường, ngon sao lạ kỳ. Ngày nay, thời đại của công nghệ, người ta ăn bánh ú chấm đường cát trắng. Cứ đến tháng 5 âm lịch là rộ mùa ốc gạo. Có lẽ vì vậy mà ốc gạo cũng trở thành món ăn truyền thống trong ngày diệt sâu bọ. Hai nơi có ốc gạo nổi tiếng ngon là cồn Phú Đa (Bến Tre) và cồn Tân Phong (Tiền Giang). Con ốc ở hai nơi này vào đúng mùa độ béo, giòn hơn hẳn các nơi khác. Ở cồn Phú Đa, không hổ danh xứ dừa, chỉ với một loại nguyên liệu là ốc gạo mà người dân nơi đây chế biến ra không biết bao nhiêu là món. Đầu tiên là món gỏi cuốn ốc gạo. Thịt ốc gạo, rau thơm, bún tươi, dừa vừa nám vỏ nạo sợi, cuốn bánh tráng chấm tương xay, thiệt đơn sơ mà ngon lạ lùng. Để món ăn có hương thơm vị béo của dừa hơn nữa, người ta còn cho thêm nước cốt dừa vào tương chấm. Kế đến là ốc gạo um nước dừa, ốc xào củ hũ dừa, bánh xèo nhân ốc gạo củ hũ dừa... mang đậm sắc thái đặc trưng vùng Phú Đa. Còn người dân Tân Phong lại có món ốc gạo luộc đơn sơ, ăn hoài không ngán. Bởi con ốc gạo vùng này vốn đã ngon sẵn rồi, chỉ cần luộc vài phút, thêm vài cọng sả, canh cho con ốc vừa chín tới là đã có món ốc gạo thơm ngát. Ăn kiểu thôn quê thì ra vườn tuốt vài cọng lá dừa hoặc bẻ gai bưởi làm kim lể ốc, chấm nước mắm gừng, nhai chầm chậm để tận hưởng vị giòn ngọt, đậm đà của thịt ốc. Ngoài ra, dân miệt trái cây Tiền Giang còn có món ốc gạo trộn gỏi đu đủ hoặc món cháo ốc gạo hành nóng hổi, thơm phức. Thành thị hơn có món ốc gạo chấy tỏi, ốc gạo tiềm thuốc Bắc… thiệt thèm! QUANG TÂM – MINH CÚC
-
Buồn thảm lễ an táng gần 100 hài nhi Cứ đều đặn mỗi tuần một lần, vào lúc 9h sáng, tại một ngôi đền nằm nép mình giữa những khu nhà cao tầng của Hà Nội lại diễn ra lễ an táng cho các thai nhi được nhặt từ nhiều nơi trong thành phố về.Những số phận bị ruồng rẫy Gần 5 năm trôi qua nhưng bà Trần Thị Hường, trưởng một nhóm bảo vệ sự sống tại Hà Nội vẫn không quên được lần đầu tiên nhận thai nhi về mai táng. Các cơ sở nạo phá thai nằm san sát trên một đoạn đường Giải Phóng, đối diện cổng Bệnh viện Bạch Mai. Hôm đó gần nửa đêm, có điện thoại từ một phòng khám gọi tới thông báo có một thai nhi vừa mới nạo xong. Hai vợ chồng họ không nỡ bỏ mặc mà muốn được mai táng cho đứa con mà họ vừa rứt ruột bỏ đi, nhưng với họ thì không thể. Họ đã nhờ phòng khám giới thiệu giúp người có thể làm việc đó thay họ để đứa con đỡ tủi phận. Bà Hường tức tốc nhờ người giúp việc đèo tới đó. Phòng khám đã đóng cửa, đường vắng và tối, không một bóng người. Hai bà cháu nhìn quanh rồi quyết định lục tìm trong tất cả những túi ni lon đựng rác vứt trên đoạn phố đó. Gần 20 phút trôi qua mà không có kết quả, thì bỗng có hai người dắt xe đạp tiến lại, trên tay cầm một cái bọc. Đó chính là cặp vợ chồng vừa bỏ đi giọt máu của mình. Họ đã nép vào một chỗ kín đáo để đợi bà. Hôm đó, đưa được thai nhi về cũng là lúc đồng hồ điểm 12h đêm. Ngay trong đêm đó, hài nhi bé bỏng được tắm rửa, được đặt tên Thánh và rửa tội trước khi khâm liệm và đưa vào giữ lạnh chờ ngày mai táng. Tắm cho một thai nhi bị phá bỏ. Ảnh: BVSS Gần 5 năm trôi qua, hàng ngàn thai nhi bị chối bỏ đã được nhóm Bảo vệ sự sống này đưa về nơi an nghỉ. Bà Hường cho biết, hiện nay nhóm Bảo vệ sự sống tại Hà Nội có hơn 100 thành viên, trong đó có hơn chục thành viên gần như thường trực. Bất kể đêm hôm, mưa gió, hễ được tin báo có thai nhi bị phá bỏ cần mai táng là họ lên đường đi nhận ngay. Hiện nay nhóm phân công nhau đi lấy thai nhi ở các bệnh viện, phòng khám đều đặn 3 lần/ngày. Có những em bị đưa ra khỏi cung lòng người mẹ khi chưa có nổi hình hài, mà chỉ là một nắm lầy nhầy, đỏ hỏn. Đến các tình nguyện viên lâu năm nhất cũng không thể phân biệt nổi em nào với em nào. Các em đến từ nhiều cung lòng ấm áp khác nhau nhưng cuối cùng lại chung một tấm vải liệm. Và, cũng rất nhiều em chỉ chút ít nữa thôi là được chào đời. Cỗ quan tài chung và gần 100 số phận bị ruồng rẫy. Ảnh: BVSS Nhìn những tấm ảnh tư liệu nhóm lưu lại tôi không khỏi rùng mình. Những hình hài bé trai, bé gái sáu, bảy, tám tháng, thậm chí gần đến ngày chào đời, bị cắt ra làm nhiều mảnh, đớn đau nằm trên tấm vải liệm trắng toát. Viết những dòng này bên tai tôi còn văng vẳng tiếng một thành viên trong nhóm nói với bà Hường: "Bà ơi, bà nhắc bác sĩ đừng cắt nát đầu các em ra". Cũng có những em may mắn hơn là bị đưa ra khỏi lòng mẹ còn nguyên hình hài. Có em vẫn còn sống và với những trường hợp như thế ngay lập tức sẽ được đưa đến bệnh viện cấp cứu. Một lễ tiễn đưa các em về nơi an nghỉ. Tuần này là 91 hài nhi. Ảnh: H.Vinh Lễ tiễn đưa 91 hài nhi Có mặt tại Đền Đức Mẹ Hằng cứu giúp (Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội) một sáng thứ 7, với tôi ngôi nhà thờ này hôm nay dường như lạnh lẽo hơn. Bên trong đang diễn ra Thánh lễ tiễn đưa 91 hài nhi. Tất cả các em được đặt chung trong một chiếc hộp xinh xắn, phủ khăn trắng toát trên một chiếc bàn cũng phủ khăn trắng và điểm những chiếc nơ màu tím. Những người có mặt dường như cũng lặng lẽ hơn, thỉnh thoảng mọi người lại đưa mắt về chiếc hộp đặt giữa nhà thờ. Đưa các em về nơi an nghỉ. Ảnh: H.Vinh 91 thai nhi trong một tuần của một số rất ít ỏi phòng khám chịu hợp tác để nhóm đem về an táng. Còn bao nhiêu em nữa sẽ đi đâu về đâu. Bà Hường cho biết, vài năm gần đây, không có tuần nào nhóm an táng dưới bảy chục thai nhi, có nhiều tuần lên tới hơn 100 em. Sau lễ tiễn đưa, các em sẽ được đưa về nghĩa trang hài nhi Từ Châu (xã Liên Châu, huyện Thanh Oai, Hà Nội) để mai táng. Đó là một nghĩa trang nhỏ nằm giữa cánh đồng bao la. Người ta có thể dễ dàng nhận ra nghĩa trang bởi những tấm nắp bê tông xám xịt và nổi bật lên là cây Thánh giá trầm mặc. Ngôi mồ chung của các em là một hố lớn, hố này được phân ra mười hai ô nhỏ, sâu chừng 2m. Cứ chôn lớp nọ xếp lên lớp kia cho đến khi đầy ô. Hết ô này sẽ chuyển qua ô khác. Nghĩa trang hài nhi Từ Châu nằm giữa cánh đồng bát ngát. Ảnh: BVSS Vì nằm giữa cánh đồng trũng, mỗi năm 12 tháng thì có tới 5 tháng nơi đây bị ngập nước. Đưa các em về tới nơi, việc đầu tiên của các thành viên là mở tấm nắp bê tông và tát nước trong mộ ra để đặt cỗ quan tài chung của các em vào. Thứ nước nhờ nhờ đen, nhìn kỹ như có loang loáng mỡ và bốc mùi hôi thối kinh hoàng. Vậy mà có khi vừa tát xong chưa kịp trát lại đã bị dềnh nước từ các ô khác sang, lại phải dừng lại để tát. Một năm 12 tháng thì có 5 tháng phần mộ của các bé bị ngập nước như thế này. Ảnh: BVSS Chưa đầy 5 năm, hơn 8.000 sinh linh đã yên nghỉ nơi đây và sẽ còn nhiều nữa khi các ông bố bà mẹ cứ vô tư giết đi những đứa con của mình bất chấp đạo lý, bất chấp an toàn sức khỏe. Việt Nam là một trong 3 nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, đáng báo động có tới 20% người nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên. Theo số liệu của một phòng khám tại Hà Nội, có người mới 23 tuổi phá thai tới 4 lần trong năm. Độ tuổi phá thai nhiều nhất là dưới 25, trung bình mỗi người phá từ 2-3 lần trước khi kết hôn (cá biệt là 4-5 lần). Nguồn Tin Tức Online
-
“Vua giải độc” và bài thuốc chữa bệnh dại bí truyền 10 đời ANTĐ - Lão nông Mai Văn Khá (76 tuổi, ngụ tổ 8, Khu vực 4, phường Hương Sơ, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế) lâu nay được biết đến là “vua giải độc” xứ Cố Đô. Được cho là có khả năng chữa khỏi những ca bệnh bị chó dại cắn chỉ trong vòng vài phút, tuy nhiên bài thuốc này của ông chưa được cơ quan chức năng kiểm chứng. Bài thuốc bí truyền 10 đời Năm nay đã là năm thứ 60 ông Khá theo nghiệp giải độc chó dại cứu người. Ông bộc bạch đây là phương thuốc bí truyền của gia đình mình đã được lưu truyền qua 10 đời, hiện ông đang dạy nghề cho con trai để bài thuốc gia truyền nhà mình thêm một “tuổi” mới. Ông Khá tranh thủ phơi khô thảo dược giữa tiết trời nắng Theo lời “thầy lang kiêm nông dân” này thuật lại, cụ tổ gia tộc của ông là một võ sư giỏi nên biết nhiều bài thuốc quý, trong đó giải độc chó dại được ví như “môn võ bí kíp” làm nên tiếng tăm. Bản thân ông Khá từ năm tròn tuổi 15 đã được bố chọn để truyền nghề. Sau hai năm theo cha học nghề, chàng trai ngày đó đã có thể hành nghề độc lập giúp người. Bởi đây là bài thuốc gia truyền nên ông Khá đề nghị được giấu tên các loại thảo dược, không phải vì lý do “mất bí quyết” mà lo sợ người khác làm theo không cẩn trọng có thể dẫn đến hậu quả xấu. Theo lời ông, bài thuốc giải độc chó dại cực kì đơn giản: “Chỉ cần sử dụng hai loại cây có chứa chất nhựa dẻo. Cây thuốc sau khi cắt về được phơi khô và tán mịn thành bột. Cũng có thể sử dụng thuốc ở dạng tươi nhưng như thế sẽ không phát huy hết hiệu quả, bởi cây thuốc phải lấy từ rừng, phơi khố mới cô đủ chất nhựa và phát huy công hiệu giải độc”. Nhựa thảo dược được xem là yếu tố giải độc cực kì hiệu quả. Tuy không thể giải thích một cách khoa học nhưng ông lão giải thích theo lời người cha dặn lại: “Chất nhựa này có tác dụng khống chế và đẩy lùi chất độc, không cho chất độc phát tán trên cơ thể người bệnh”. Về quy trình giải độc, lão nông cho biết gồm hai công đoạn chính như sau: Trước hết cần kiểm tra tình trạng sức khoẻ người bệnh, đánh giá mức độ nặng nhẹ của độc tính để pha thuốc theo đúng tỉ lệ. Thông thường chỉ cần sử dụng 1 - 2 thìa lớn bột cây thuốc là đủ. Vị lang vườn chỉ dẫn phải pha bột lá cây thuốc vào nước lọc rồi cho người bệnh uống để cầm độc là việc cần làm trong mọi trường hợp. Tiếp theo công đoạn cầm độc là công đoạn giải độc: “Tôi ngậm bột lá vào miệng sao cho vừa đủ độ ướt thì nhả ra đắp vào vị trí người bệnh bị con vật cắn; vừa đắp đồng thời kết hợp việc dùng tay xoa bóp, vuốt đều thân thể người bệnh từ trên xuống dưới. Tiếp đó dùng kim nhọn chích mạnh vào vết thương và sử dụng đồng xu bằng bạc nguyên chất “kéo” máu độc ra ngoài. Để chắc chắn hơn, tôi dùng một viên đá gia truyền để “nạo vét” chất độc sạch hoàn toàn”. Điểm lưu ý đặc biệt trong suốt quá trình giải độc là khâu kiểm tra xem máu độc đã phát tán trên cơ thể người bệnh hay chưa. Ông Khá bật mí căn cứ vào màu sắc các mạch máu để nhận biết điều này: Nếu một khi chất độc đã “lên thượng” (đi lên phần phía trên cơ thể như: ngực, tay...) thì cần phải khơi thông mạch máu ở trên đầu người bệnh, phun thuốc vào nhằm ép chất độc xuống dưới và hút ra bên ngoài. Việc ngậm bột thuốc vào miệng đóng vai trò quan trọng không kém bởi như lời ông Khá giải thích, nước bọt của người có tác dụng bổ trợ trong quá trình giải độc. Tuy nhiên nước bọt chỉ phát huy hiệu nghiệm ở mức độ vừa phải. Những công đoạn phụ này đòi hỏi thầy lang phải thạo nghề, nếu không sẽ gây nguy kịch đến tính mạng người bệnh, nặng có thể dẫn đến tử vong. Tuy nhiên với kinh nghiệm 60 năm trong nghề, ông Khá tự tin khẳng định mình chưa từng “bó tay” trước bất kì ca bệnh nào. Tuy giải thích tỉ mỉ có phần hơi nhiều công đoạn như trên nhưng lang y Khá cho biết ông chỉ cần 5- 10 phút đồng hồ để hoàn thành mỗi ca bệnh. Với những trường hợp nặng nhất, ông cũng chỉ cần đến chưa đầy 20 phút để giải độc. Không kiếm tiền từ nghề gia truyền Có biệt tài như vậy nhưng lang y Mai Văn Khá bộc bạch không sử dụng món nghề gia truyền để kiếm sống. Ông trải lòng: “Hành nghề thuốc cốt là để cứu người, tạo phúc ở đời”. Triết lí sống “cha mẹ có đức, con cái thỏa sức hưởng lộc” bởi thế không biết từ khi nào đã thấm vào máu thịt ông lang vườn. Đó cũng là lí do để vợ chồng ông gắn bó và kiếm sống từ hơn mẫu ruộng suốt mấy chục năm nay, chỉ những lúc có người cần giúp đỡ ông Khá mới trổ tài cứu người. Về tiền công, tiền thuốc thang thì sao? Ông Khá khoát tay lắc đầu với ông tiền không không quan trọng bằng tình người. Ông chia sẻ mỗi ca bệnh ông chỉ nhận đúng 30 nghìn tiền thuốc chứ không bao giờ lấy nhiều hơn. Ai có tấm lòng thì biếu thêm gói thuốc, lạng trà. Số tiền 30 nghìn đồng đúng là quá nhỏ, có thể chỉ bằng một dĩa cơm, ấm trà hay tách cà phê ở thành phố. Cảm phục hơn khi biết rằng để có số thuốc dự phòng trong nhà sẵn sàng phục vụ người bệnh, ông Khá định kỳ phải lặn lội lên rừng bứt thuốc, về nhà ông huy động vợ con tranh thủ lúc rảnh rỗi đem thuốc ra phơi khô, thái mịn. Đối với những trường hợp người bệnh khó khăn ông Khá hoàn toàn không lấy một đồng tiền. Đã ở tuổi xấp xỉ 80 nhưng “thầy lang chân đất” vẫn giàu lòng nhiệt huyết như tuổi thanh niên, hôm chúng tôi đến nhà ông vẫn đang miệt mài trở thuốc giữa nắng. Trải lòng sau bao năm hành nghề giải độc cứu người, niềm vui lớn nhất của ông Khá đến giờ là con cháu ngoan hiền, biết thương người như lời ông căn dặn mỗi ngày. Ông hồ hởi kể câu chuyện cách đây vài năm như niềm tự hào: “Năm đó có cô gái ở phường Kim Long bị chó dại cắn, trớ trêu rằng trong lúc lên cơn dại cô này cắn vào vai chồng nên cả hai bị nhiễm độc. Chất độc âm ỉ phát tán cho đến ngày họ được đưa vào bệnh viện nhưng người ta trả về vì độc tính đã quá nặng. Lúc đó con gái tôi đi mua sắt vụn nhìn thấy liền chạy về chở tôi lên giúp, giúp hai vợ chồng qua cơn nguy kịch. Điều đáng quý nhất là các con tôi không mặc kệ người khác khi gặp họ đang khó khăn, nguy kịch”. Thiết nghĩ những bài thuốc dân gian điển hình như bài thuốc giải độc mà lang y Mai Văn Khá đang sở hữu cần được cơ quan chức năng chuyên ngành vào cuộc nghiên cứu. Nếu những bài thuốc dân gian đó thực sự mang lại hiệu quả tốt, sẽ có thể nhân rộng vì tính hữu ích, tiện dụng và giá rẻ; nhất là đối với căn bệnh dại đến nay y học vẫn chưa tìm ra lời giải hoàn hảo nhất. Ưu điểm chữa bệnh chó dại cắn bằng thuốc nam: Theo kinh nghiệm bản thân, thầy lang Mai Văn Khá cho hay người bị chó dại cắn thường phát bệnh sau 3 tuần nhiễm độc. Khi đó người bệnh sẽ có những biểu hiện như thè lưỡi, sủi bọt mép, thậm chí kêu gào đau đớn. Nguy hiểm hơn là những lúc lên cơn người bệnh có thể truyền bệnh cho những người xung quanh do không kiểm soát được chính mình. Lang y Khá cho biết thêm người bị chó dại cắn nếu được điều trị bằng thuốc nam hoàn toàn không lo lắng phải chịu các tác hại do tác dụng phụ của thuốc tây gây nên. Tới thời điểm này khoa học hiện đại thừa nhận việc tiêm vắc-xin chống dại ít nhiều gây ra cho con người những tác dụng phụ. Trong khi đó trong y học hiện đại, tiêm vắc-xin là phương pháp duy nhất điều trị bệnh chó dại cắn. Theo Phapluatvn
-
Ông Sư & con bọ cạp ....Một Ông Sư phát hiện con bọ cạp đang chơi vơi trong nước. Ông quyết định đưa tay ra cứu nó nhưng chính con bọ cạp đó lại cắn ông. Ông vẫn cố gắng cứu con bọ cạp ra khỏi nước và lại bị đốt. Một người khuyên ông không nên cứu nó nữa vì nó liên tục đốt ông. Ông Sư trả lời :”Bản năng tự nhiên của bọ cạp là chích, bản năng tự nhiên của tôi là yêu thương. Vậy tại sao tôi phải từ bỏ bản năng yêu thương của mình chỉ vì bản tính của con bọ cạp ? Xin đừng từ bỏ tin yêu, đừng đánh mất lòng tốt và sự hào hiệp của mình ngay cả khi những người xung quanh có làm cho mình đau ." (ST)
-
Tánh linh của vạn vật Vì tánh linh của vạn vật mà cảm động, vì cái khổ của lục đạo chúng sanh mà khóc, thế giới Ta Bà hữu tình phi tình đều có Phật tính. Vì sao mà cảm động ? Tôi đã từng chứng kiến một cảnh chết rất bi tráng. Cái chết đó làm rung động cỏi lòng sâu thẳm của tôi. Từ đó tôi nguyện suốt đời không làm tổn hại bất cứ một sanh mạng cho dù là bé nhỏ… Một lần nọ đi săn Linh dương, chúng tôi được chứng kiến đời sống và bản chất của chúng. Linh dương có hình dạng giống sơn dương nhưng có khiếu nhảy rất giỏi, mỗi con trưởng thành nặng khoảng 30 kg ,tính tình thuần hậu , là loại động vật mà bọn thợ săn thích nhất. Lúc đó đội săn bắn chúng tôi bí mật bao vây khắp vùng nơi một đàn linh dương đang cư trú, áp hơn 60 con linh dương vào mõm đá trên vách núi cao, nghĩ rằng như thế sẽ làm cho chúng rơi hết xuống mà chết cho đở lãng phí cung tên. Nhưng không ngờ, khoảng 30 phút sau, một con linh dương đực đột nhiên kêu lên một tiếng. Tất cả linh dương lập tức phân thành hai nhóm: môt nhóm già và một nhóm trẻ. Tôi nhìn rất rõ nhưng không hiểu vì sao chúng lại phân theo già trẻ như vậy. Lúc đó, một con linh dương đực từ trong nhóm già đi ra, con này lông dài xuống ngực, trên mặt có nhiều nếp nhăn ngang dọc, hai cái sừng bị mòn đi. Vừa nhìn tôi đã biết con linh dương này già lắm rồi. Nó đi ra đứng phía trước, nhìn về hướng nhóm trẻ kêu một tiếng “be”. Một con linh dương trẻ liền bước ra. Một già một trẻ của hai nhóm đi đến vách núi đoạn mệnh. Sau đó lui lại vài bước, đột nhiên con linh dương trẻ hướng về trước chạy như bay, liên tiếp linh dương già cũng chạy theo. Con trẻ chạy đến ranh giới của vách đá, rùng mình một cái, hướng về phía khe suối đối diện mà nhảy. Con già liền kế theo sau cũng từ vách núi đá mà nhảy. Cứ một trẻ một già thời gian nhảy có trước sau một chút, tư thế nhảy cũng có khác. Con già nhảy thấp hơn, có nghĩa là có trước có sau, có cao có thấp.Tôi rất kinh ngạc, lẽ nào chết cũng phải từng đôi sao? Tôi nghĩ những con linh dương này trừ khi có ráp cánh mới nhảy qua được vách núi bên kia. Đúng vậy, con trẻ vừa nhảy được khoảng 5,6 mét thì rớt xuống ,trên không trung vẽ ra một đường cong rất đáng sợ. Tôi nghĩ nhiều nhất là vài giây nó sẽ rơi vào trong sâu thẳm. Đột nhiên một việc lạ xuất hiện. Con linh dương già nhờ vào kỷ thuật thành thạo của mình, tại chổ con trẻ từ điểm cao nhất trong nháy mắt nhảy xuống và toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ, những con linh dương trong nhóm già nắm thời gian rất chính xác, ngay lúc mà toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ thì cũng đúng lúc thời điểm cao nhất của đường cong nhảy, giống như hai chiếc tàu vũ trụ ở trên không trung hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận, bốn móng chân của nhóm trẻ đạp mạnh trên lưng của những con già, giống như nhờ vào cái cầu để nhảy qua vậy, nó ở trên không trung lại nhún một lần nữa và rơi xuống đất lại một lần nữa dồng lên cao. Mà các con linh dương trong nhóm già giống như xác phế của tên lửa đã di chuyển hết chất đốt sau đó tự động rời khỏi tàu vũ trụ, thậm chí nó càng bi thảm hơn xác phế tên lửa, sức mạnh của những con linh dương trẻ đạp nhún xuống giống như đôi cánh của con chim bị gãy ngang rớt thẳng xuống đất. Nhưng sức của những con trẻ nhảy lần thứ hai không xa như lần thứ nhất. Độ cao cũng chỉ bằng nữa lần trước nhưng cũng đủ để vượt qua khoảng cách hai mét cuối cùng. Trong nháy mắt chỉ thấy những con linh dương trẻ rơi xuống ngọn núi đối diện thích thú kêu lên một tiếng “be” quay qua tảng đá đằng sau khuất dạng, cú nhảy đã thành công. Lúc gấp gáp từng đôi từng đôi từ trên cao vòi vọi nhảy xuống, vùng cao trên khe suối như vẽ ra những đường cong làm người ta rối tung, thì từng con linh dương già đã rơi xuống thịt nát xương tan. Tôi không ngờ đến giờ phút đồng loại sắp tuyệt diệt thì đàn linh dương đã nghĩ ra biện pháp hy sinh một nữa để giành lại một nữa cơ hội sanh tồn cho đồng loại. Tôi càng không nghĩ đến những con linh dương già sao mà ung dung khoan hồng chọn lấy cái chết, cam tâm tình nguyện, bỏ thân mệnh mình mở ra một con đường sống còn cho đời sau. Tôi vì thế mà cảm động nên từ đó về sau thề không sát hại. Do tận mắt nhìn thấy một cảnh chết vô cùng bi tráng làm rung động lòng tôi. Tôi cảm thấy rất xấu hổ. Từ đó về sau, nguyện không sát hại bất cứ một sanh mạng nào dù là rất nhỏ. *Vạn vật đều có tánh linh * Một buổi tối cuối thế kỷ 20, lúc ở trường đại học Hồ Nam khi xem một màn ảnh làm cảm động trời đất, tôi không cầm lòng được khóc ré lên! Tỉnh Thanh Hải có một vùng sa mạc thiếu nước trầm trọng, mỗi người một ngày chỉ dùng 2 lít nước do đội quân đóng quân ở rất xa vận chuyển lại. Hai lít nước không chỉ dùng để uống, mà còn vo gạo, rữa rau… còn phải cho gia súc kéo uống, gia súc kéo thiếu nước không thể được, khát à!... Có một ngày, bổng ở đâu hiện ra một con bò già, mà được mọi người cho là nó rất trung thành và thật thà. Nó quá khát giẫy giụa tuột ra khỏi dây cương mạnh mẽ xông vào con đường trong sa mạc mà đoàn xe chuyển nước đi qua, đợi một hồi đợi đoàn xe chuyển nước đến, nó chạy nhanh đến đứng sững giữa đường. Các chiến sĩ chuyển nước trước đây cũng đã gặp qua tình hình chặn đường của những con gia súc như vậy nhưng những con động vật trước không buất khuất kiên cường như con bò này. Đoàn vận chuyển nước có quy định. Xe chuyển nước giữa đường không để mất đi một giọt, càng không thể tuỳ tiện cho nước. Những quy định này xem ra cũng thật khắt khe nhưng vì bất đắc dĩ. Từng giọt nước này đều là khẩu phần của mỗi người rồi. Trong sa mạc người và vật đều như vậy, nó đứng đó một hồi lâu như vậy , thậm chí làm tắt đường, các tài xế phía sau bắt đầu chưởi rũa. Có vài tài xế tính tình nóng nảy dùng dầu châm đốt con bò tội nghiệp đó nhưng nó vẫn không động đậy, kiên cố như núi Thái, không chịu dùn bước. Đến khi chủ nó tìm đến, ông ta rất hổ thẹn nắm một cây roi dài quất lên trên thân yếu ớt của nó. Toàn thân như nát nhừ, không thể đi được, cây roi cũng nhuốm đỏ màu máu, nhuốm đỏ thân nó, nhuốm đỏ cả một vùng cát vàng sa mạc và nhuốm đỏ cả một buổi chiều tà. Nó kêu lên một tiếng thảm thiết hoà với tiếng gió tàn khồc u ám lạnh lẻo của sa mạc hiện ra cảnh tượng sao mà bi tráng. Người tráng sĩ đứng kế bên bật khóc, người tài xế bị cản xe cũng oà lên khóc. Cuối cùng, người tráng sĩ nói: “thôi, để tôi vi phạm luật lệ vậy. Tôi chấp nhận xử phạt”. Anh ta cầm bát của mình lấy khoảng 2 lít nước trong xe để trước mặt con bò, nhưng nó không uống bát nước trước mặt mà nó đã cực khổ có được, nó ngước mặt lên trời rống lên một tiếng dài, dường như nó đang kêu gọi. Trong ráng chiều, không xa từ phía sau đống cát chạy ra một con bò con. Con bò mẹ bị thương nặng nhìn con bò con tham lam uống sạch bát nước, le lưỡi ra liếm liếm đôi mắt đáng thương của bò con. Con nghé cũng liếm mắt mẹ. Mọi người lẳng lặng nhìn. Những giọt nước mắt chảy dài của tình mẫu tử lăn xuống . Tia nắng cuối ngày đã tắt, hai mẹ con không đợi chủ gọi, lặng lẻ cùng chúng tôi đi về. Một buổi tối của cuối thế kỷ 20, khi tôi xem cảnh này trên ti vi, tôi hiểu ra cái khổ của mẫu thân. Tôi và vô số những người đang ngồi trước ti vi đã bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi cuồn cuộn trào ra. Vì thế, tôi thành kính khẩn cầu quý vị xem xong mẩu chuyện này nên đối xử tốt với tất cả những sanh mệnh dù lớn hay nhỏ xung quanh ta bởi vì chúng đều có tính linh, đều có cha mẹ, con cháu, gia đình của chúng. Chúng cũng như con người chúng ta, đều có khát vọng được vui vẽ, hạnh phúc. Chúng ta thế nào đành lòng làm tổn hại chúng ư? Lại cầu mong bạn hãy đối xử tốt với mẹ, bởi vì đối với chúng ta, mỗi người mẹ đều có tình thương đậm đà và thắm thiết hơn con bò mẹ kia rất nhiều!…Xin thành tâm, thành tâm khẩn cầu tất cả đều biết yêu thương và tôn trọng mạng sống lẫn nhau để có một cuộc sống thật bình yên. Xin kính chúc tất cả quý vị đều hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc của cuộc sống. *Trích Internet- Như Nguyện dịch*
-
Nhân quả cảm ứng - Cục bướu hình người Châu Sư Huynh từ học viện tịnh tông ở Úc đến Singapore, đang cùng với nữ cư sĩ bị cục bướu trên mặt và Tịnh Không lão pháp sư bàn luận về câu chuyện cục bướu trên mặt của người bệnh này, đối với những người tu học như chúng ta có ý nghĩa giáo dục rất lớn. Nhân quả báo ứng theo mỗi chúng ta, bất cứ ai trên thế gian này, chỉ có điều là hình thức biểu hiện của nó không giống nhau. Trên con đường tu học chúng ta phải luôn tinh tấn, chân tu thật luyện, như thế mới có thể cải biến vận mệnh của mình. Trong bài viết Cách Hữu gởi đến có bức hình khiến người ta xem xong vô cùng sợ hãi nhưng lại là một câu chuyện có thật, càng cảm ân vị Bồ Tát này đồng ý dĩ thân thị pháp, nguyện những ai xem xong đều có thể sám hối, cảm ân và buông hết tất cả. Ngày 3 tháng 1 năm 2007, tôi tình cờ gặp được một vị cư sĩ đang xem tấm hình này, còn có một vị sa di ni đang thuyết giảng: “Đây là bức hình của một vị nữ sĩ người Singapore, trên mặt nổi một cục bướu to hình người, miệng trên cục bướu hình người này không chỉ có thể ăn cơm mà còn có thể nói chuyện. Hiện tại cô đang sống ở Tây Tạng, mỗi ngày đều có một vị Hoạt Phật giảng kinh thuyết pháp cho cô”. TRÍCH CÂU CHUYỆN VỀ NGỘ ĐẠT QUỐC SƯ 10 KIẾP BỊ CỤC BƯỚU HÌNH NGƯỜI Vị cao tăng này thuật lại câu chuyện cao tăng Ngộ Đạt quốc sư 10 kiếp bị cục bướu hình người ở đầu gối. Oan gia trái chủ của ông đã theo ông suốt 10 kiếp. Dưới đây là những lời ghi âm lại trong cuộc trò chuyện của Tịnh Không lão Hòa Thượng. Các vị hãy xem tiếp “Từ bi tam muội thủy sám”, xem cục bướu trên đầu gối của Ngộ Đạt quốc sư, lúc được tôn giả Ca-nặc-ca điều trị mới hiểu rõ nhân quả của nó. Oan gia trái chủ của ông đã theo ông suốt 10 kiếp, mỗi kiếp đầu thai đều muốn đòi ông trả thù. Hai người tiền kiếp đã kết oán ra sao? Vào thời vua Hán, Ngô Sở Phản dùng mưu lược của Viên Áng tru di Triều Thác. Triều Thác bị hãm hại mà chết, căm hận trong tâm, thề quyết báo thù. Nào ngờ Viên Áng về sau xuất gia làm cao tăng, có Hộ Pháp Thần phù trợ, đời đời kiếp kiếp đều có đức, đều chuyên tâm tu hành. Đời thứ 10 làm quốc sư, chính là Ngộ Đạt quốc sư, thầy của hoàng đế. Hoàng đế cúng dường cho ngài trầm hương bảo tọa. Chúng ta đều biết một ký trầm hương cũng phải tốn mấy trăm ngàn. Ngài tiếp nhận trầm hương bảo tọa, trong tâm sinh ra ngạo mạn, cảm thấy mình rất giỏi, không ai sánh được. Một điểm ngạo tâm này nảy sinh, bao nhiêu công đức mười năm tu hành đều tiêu tan. Một niệm đầu kiêu căng, ngạo mạn, cho mình là hơn hết khiến Hộ Pháp Thần bỏ đi, ma quỷ vây lấy thân, chút xíu là mất mạng. Lại có một câu chuyện, các vị đồng tu chúng ta nghe nói rất nhiều về Ngộ Đạt Quốc Sư. Chúng ta thường hay làm lễ “tạt nước”, lễ “tạt nước” chính là do nguyên cớ này mà ra. Ngộ Đạt quốc sư bị một cái bướu mặt người, được tôn giả Ca-nặc-ca, một vị La Hán cứu giúp. Tôn giả Ca-nặc-ca sống ở Tứ Xuyên đại lục, đạo trường của A La Hán. Phàm phu tục tử như chúng ta đến đó chỉ thấy núi non hoang dại, trên núi không thấy một bóng cây. Vị quốc sư này và tôn giả Ca-nặc-ca có duyên từ trước, biết ngài sẽ gặp nạn nên biến thành một lão ăn mày, thân mang đầy ghẻ lở, vừa hôi thối vừa xấu xí. Người mang đầy ghẻ lỡ này cố tình đến gần để Ngộ Đạt Quốc Sư trông thấy, lúc ấy ngài vẫn chưa được phong Quốc Sư, vẫn là một vị xuất gia, danh tiếng chưa có, nhưng khi thấy tình cảnh đáng thương, trong lòng nảy sinh niềm cảm thương , muốn quan tâm, giúp đỡ và điều trị vết thương cho lão ăn mày. Những cục bướu trên mặt đều nổi đầy mủ, ngài dùng miệng hút từng vết mủ trên mặt. Sự quan tâm như thế không phải ai ai cũng làm được. Chính vị La Hán này muốn khảo nghiệm ngài. Khi bệnh tình đã được bình phục, vị A La Hán này liền nói: “Sau này ngài sẽ gặp phải đại họa, trong cơn đại họa hãy tìm ta, ta sống ở ngọn núi bên kia Tứ Xuyên, trên núi còn có hai cây thông. Ngài hãy đến trước cây thông rung nhẹ, hô to tên của ta, ngài sẽ gặp được ta”. Về sau đạo hạnh của ngài ngày càng cao, danh tiếng càng lúc càng vang xa, làm đến chức Quốc Sư. Một chút kiêu căng, ngạo mạn mà nổi bướu khắp người, chữa trị thế nào cũng không khỏi. Lúc ấy ngài mới nghĩ đến gã ăn xin trước đây, trước đây ta có cứu ông ấy, ông còn dặn ta lúc gặp nạn hãy đến Tứ Xuyên gặp ông ấy. Theo những lời ông ấy dặn, ngài đến một nơi quả nhiên có hai cây thông, ngài rung nhẹ cây thông, hô to tên “Ca-nặc-ca”. Ngay khi hô to, đạo trường xuất hiện, mới biết thì ra người trước đây chính là A La Hán biến hóa. Ca-nặc-ca dùng nước tam muội từ bi rửa sạch vết thương cho ngài. Cho nên “lễ tạt nước” bắt nguồn từ truyền thuyết này. Đạo trường của tôn giả Ca-nặc-ca, phàm phu như chúng ta không thể nào thấy được. Cho nên có thể nóivạn vật trên thế gian gần mà chẳng gần, chẳng gần mà gần. Thế giới cực lạc của mười phương chư Phật cũng không phải là ngoại lệ. Nguyên bản xuất xứ: Thực chứng về sự tồn tại của oan gia trái chủ: cục bướu trên mặt hình người có đầy đủ ngũ quan, lại có thể ăn cơm, nói chuyện. (nguồn bài viết: không rõ xuất xứ) Xin hãy hưởng ứng trai giới, vì bốn lý do chính: (1) Tôn giáo: giới sát, chấm dứt sát sinh hại mạng. (2) Bảo vệ môi trường: chăn nuôi là nguyên tố dẫn đến trái đất nóng lên. (3) Sức khoẻ: đa số bệnh tật đều do ăn thịt mà ra, ăn chay đem lại lợi ích rất lớn cho sức khoẻ và tuổi thọ của con người. (4) Văn minh: chăn nuôi và giết mổ thật vô cùng tàn nhẫn, không phải là hành vi nên làm trong nền văn minh con người. Bốn điều này đều có kèm theo phim ảnh làm chứng cứ. Bộ phim bao gồm quan hệ nhân quả khoa học về tác hại của chăn nuôi đối với sự hủy hoại của vỏ Trái Đất, về thực trạng giết mổ súc vật, về thí nghiệm lâm sàng của việc ăn thịt đối với sự phát sinh những căn bệnh hiểm nghèo về đường ruột…
-
Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của tranlong07 ủng hộ Quỹ từ Thiện Diễn Đàn. Happy Birthday to u!Quỹ hiện có :8,275,700 đ + 500,000 đ = 8,775,700 đ (tám triệu bảy trăm bảy mươi lăm ngàn đồng)
-
Suy ngẫm về cuộc sống - Ngày tuyệt vời nhất chính là NGÀY HÔM NAY -Điều dễ làm nhất chính là BỚI MÓC LỖI LẦM CỦA NGƯỜI KHÁC -Điều xấu hổ nhất chính là TỰ MÃN QUÁ ĐÁNG - Trở ngại lớn nhất của cuộc đời chính là NỖI LO SỢ - Sai lầm lớn nhất chính là TỪ BỎ MỤC ĐÍCH CAO ĐẸP CỦA MÌNH -Chướng ngại lớn nhất ngăn cản bạn đến thành công là CÁI TÔI ÍCH KỶ -Cảm giác mãn nguyện nhất là khi LÀM HẾT LÒNG VỚI CÔNG VIỆC CỦA MÌNH -Người hay bất hòa nhất là NGƯỜI HAY PHÀN NÀN - Sự vỡ nợ tồi tệ nhất là ĐÁNH MẤT NHIỆT HUYẾT, NIỀM TIN CỦA MÌNH -Nhu cầu lớn nhất của con người là CẢM NHẬN CUỘC SỐNG -Qùa tặng quý giá nhất bạn có thể trao tặng cho mọi người chính là LÒNG KHOAN DUNG -Điều đáng để bạn phải suy nghĩ nhiều nhất bây giờ không phải CÁI CHẾT mà là SỐNG NHƯ THẾ NÀO? -Điều vô giá mà bạn cần và có thể chia sẻ là TÌNH YÊU THƯƠNG…
-
Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của Sunnyday81 ủng hộ Quỹ từ thiện diễn đàn. Quỹ hiện có : 7,775,700 đ + 500,000 đ = 8,275,700 đ (tám triệu hai trăm bảy mươi lăm bảy trăm đồng)
-
Ý NGHĨA CÚNG HOA, ĐÈN, HƯƠNG VÀ Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN Ý Nghĩa Dâng Hoa Cúng Phật Dâng hoa cúng Phật mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho, chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày, theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày, chúng ta dừng được việc ác nào trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm đem dâng cúng chư Phật. Việc dâng hoa cúng Phật là một hành động thành kính ngưỡng mộ, bày tỏ tâm biết ơn sự chuyển hóa vô thượng của giáo pháp, mặc dù giá trị vật chất không đáng quan tâm. Tiếp theo việc dâng hoa cúng Phật là lời tán tụng và tâm người Phật tử hồi tưởng lại đời sống cao thượng, phẩm hạnh vi diệu của đức Phật, quyết cố gắng noi theo, không cầu khẩn van xin gì cả. Đức Phật là một bậc sáng suốt, đã chấm dứt sự phiền não và khổ đau, một đấng hoàn hảo, chứng được trí tuệ bát nhã và giác ngộ chân lý vô thượng, đáng được tôn kính và đảnh lễ. Người Phật tử quyết tâm noi theo chánh đạo, đưa đến chánh kiến và chánh tín, để hiện tại đạt an lạc hạnh phúc, mai sau được giác ngộ giải thoát. Ý Nghĩa Lễ Cúng Đèn Trong hình thức nghi lễ, khi cúng dường một ngọn đèn lên đức Phật, không nên nghĩ hay cho rằng mình đang làm một ân huệ và cầu khẩn van xin phước báo. Trái lại, nên ý thức một cách trọn vẹn rằng: chúng ta đang nâng cao nguồn sáng trí tuệ, mà chúng ta tiếp nhận từ đức Phật. Nguồn ánh sáng này xua đuổi bóng đêm trong tâm thức chúng ta, hướng dẫn chúng ta và tất cả chúng sinh tìm thấy con đường đi đến giác ngộ. Theo cách này, đối với người thực hiện nghi lễ, ngọn đèn cúng dường lên đức Phật là phương tiện để quán niệm về cái ánh sáng giác ngộ đã và đang chiếu sáng trong mỗi người chúng ta từ thời vô thủy, và ánh sáng đó thường bị những bức tường do tự ngã che khuất trong bóng tối. Mục đích của sự tu tập chính là để dẹp trừ cái bản ngã đó. Ý Nghĩa Dâng Hương Cúng Phật Theo kinh sách, khi làm lễ dâng hương cúng Phật có 5 ý nghĩa, gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có: 1. Giới hương,2. Định hương,3. Tuệ hương,4. Giải thoát hương, và5. Giải thoát tri kiến hương. Đức Lục Tổ Huệ Năng giải thích trong Kinh Pháp Bảo Đàn như sau: 1. GIỚI HƯƠNG: Tức trong tự tâm chẳng quấy, chẳng ác, chẳng ganh tỵ, chẳng tham sân, chẳng cướp hại, gọi là GIỚI HƯƠNG. 2. ÐỊNH HƯƠNG: Thấy những cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn, gọi là ÐỊNH HƯƠNG. 3. TUỆ HƯƠNG: Tự tâm vô ngại, thường dùng trí tuệ chiếu soi tự tánh, chẳng tạo điều ác, dù tu nhiều thiện mà tâm chẳng chấp trước, kính trên mến dưới, thương xót kẻ cô đơn nghèo nàn, gọi là TUỆ HƯƠNG. 4. GIẢI THOÁT HƯƠNG: Tự tâm chẳng phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại, gọi là GIẢI THOÁT HƯƠNG. 5. GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG: Tự tâm đã chẳng phan duyên thiện ác, chớ nên trầm không trệ tịch, phải tu học pháp tối thượng thừa, nhận tự bản tâm, thông đạt lý Phật, hạ mình để tiếp người, vô nhơn vô ngã, thẳng đến Bồ đề, chơn tánh chẳng đổi, gọi là GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG. Thiện tri thức ! Năm thứ hương này mỗi người tự huân tập trong tâm, chớ tìm bên ngoài. Dâng cúng Phật hương, đăng, hoa, quả, thủy. Trong các thứ trên, cúng dường pháp là hơn hết. Ý Nghĩa : Đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát khởi tín tâm, tin tưởng sâu sắc, hiểu biết rõ ràng, thành tâm dâng cúng: những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quí nhứt, trên bước đường tu học (học hỏi chánh pháp và tu sửa thân tâm). Không tu tập và không làm như thế, dù thành tâm đến đâu, dâng hương cầu nguyện nào có được gì? Tại sao vậy? - Bởi cầu khẩn van xin mà được như ý, người ta đền ơn đáp lễ, đốt hương cả bó, cháy luôn ngôi chùa! Dâng cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật, những hương thơm kết tụ do việc luôn giữ tâm thiền định, những hương thơm kết tụ do việc phát triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và những hương thơm kết tụ do việc giải thoát sự hiểu biết phiền lụy của thế gian. Tóm lại dâng hương cúng Phật gồm có: 1. Giới hương 2. Định hương 3. Tuệ hương4. Giải thoát hương và 5. Giải thoát tri kiến hương. /
-
Chuẩn!
-
NHẸ GÁNH LO ÂU Bạn có lo âu không? Bạn có cảm thấy khốn khổ không? Nếu có, hãy chăm chú đọc quyển sách nhỏ nầy. Những dòng chữ sau đây đã được viết ra cho bạn và cho những ai còn mãi lo âu về những điều không đáng lo - lo suốt đời, lo đến chết! Lo âu và khốn khổ là cặp tệ hại luôn luôn đi song với nhau như hai con bài trùng. Cả hai tệ hại này cùng sống và cùng chết với nhau, trên thế gian này. Nếu bạn lo âu, ắt bạn cảm thấy khốn khổ. Nếu bạn cảm thấy khốn khổ, ắt bạn lo âu. Chúng ta phải đối phó với những sự kiện của đời sống, phải đương đầu với những diễn tiến khác nhau của kiếp nhơn sinh. Mặc dầu không thể lẩn tránh chúng, ta không nên để cho cặp tệ hại lo âu và khốn khổ tràn ngập và khắc phục ta. Trái lại, phải khắc phục chúng, và ta có đủ khả năng để làm việc này. Điều cần thiết là phải hướng dẫn thích đáng mọi cố gắng, mọi quyết tâm và kiên nhẫn của chúng ta. Nếu hiểu biết sự vật một cách chơn chánh, và thận trọng áp dụng trí não thông minh mẫn và sáng suốt của chúng ta vào mọi việc làm ắt chúng ta có thể chế ngự được những cảm xúc và thoát ra khỏi mọi lo âu và khốn khổ. Những mối lo âu của ta là con đẻ của chính ta. Chính tự ta tạo nó trong tâm, vì không đủ khả năng, hay vì thất bại, không hiểu được và không ước lượng được trọn vẹn những cảm xúc ít nhiều vị kỷ của ta và vì ta lượng định quá đáng hay sai lạc phẩm giá của sự vật. Nếu chúng ta có thể nhìn sự vật đúng trong bối cảnh của sự vật, và thấy rằng không có gì là trường tồn vĩnh cửu, không có gì tồn tại vững bền trong thế gian nầy và tự ngã của chúng ta chỉ là trí tưởng tượng hoang dại, chạy loạn trong cái tâm không kềm chế, như một tuấn mã bất kham, ta sẽ còn đi một đoạn đường dài, dài dẳng, để tìm ra phương thức khả dĩ tận diệt chứng bịnh lo âu và khốn khổ. Chúng ta phải tự trau dồi tâm trí, tự quên mình, để dấn thân vào những công tác phục vụ nhơn loại và để trở nên người hữu ích cho nhơn quần xã hội. Đó là một trong những đường lối mà, noi theo đó chúng ta có thể tìm đến an tịnh và hạnh phúc thật sự. Nhiều người có những ham muốn và những khát vọng, những lo âu và sợ sệt mà chính họ cũng cảm thấy hổ thẹn, không dám nhận, dầu là âm thầm tự nhận trong lòng. Họ không biết làm thế nào để cho những cảm xúc ấy trở nên cao thượng hơn. Tuy nhiên, những xúc động ấy có một năng lực. Dầu họ làm cách nào để đè nén, dồn ép và che đậy, nó cũng tìm lối thoát và khi thoát ra, làm xáo trộn guồng máy cơ thể vật chất này và gây nên những chứng bịnh kinh niên. Ta có thể sửa đổi những điều ấy bằng các phương pháp tham thiền thích ứng, tức chế ngự cái tâm, bởi vì một tâm hồn buông lung là nguyên nhân chánh tạo nên những lo âu tương trợ. Bất luận lúc nào mà bạn lo âu trong lòng, chớ nên phô trương gương mặt phiền muộn của bạn trước tất cả mọi người. Chỉ nên tâm sự với những ai thật sự có thể giúp bạn. Trong lúc khó khăn mà bạn phải trải qua trên đường đời, nếu bạn có thể luôn luôn giữ được nụ cười trầm tĩnh thì quả thật là tốt đẹp. Điều này không phải là quá khó nếu ta thật sự cố gắng. Nhiều thanh niên quá đổi lo âu phiền muộn khi mất tình thương của người bạn gái. Trong những hoàn cảnh bất mãn và thất vọng tương tợ vài người nghĩ đến quyên sinh tánh mạng, có người phải loạn trí, phần lớn tự thấy khốn khổ vô cùng. Tất cả những bất hạnh ấy đều do nơi sự kém hiểu biết về bản chất thật sự của đời sống. Dầu sao đi nữa, chúng ta không thể tránh những cảnh chia ly xa biệt. Ta có thể phân lìa nhau từ buổi đầu, có thể ở đoạn giữa, hoặc nữa, vào lúc cuối cùng của cuộc đời, nhưng chắc chắn không thể tránh. Khi những sự kiện như vậy xảy ra, ta phải cố gắng tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Nếu cảnh biệt ly ấy vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của ta, hãy có đủ can đảm chịu đựng và hãy nhận định rằng đó là bản chất của đời sống. "Bất luận nơi nào mà sợ hãi phát sanh, nó chỉ phát sanh ở hạng điên cuồng, không phát sanh đến người trí", Đức Phật dạy như vậy. Sợ hãi chỉ là một trạng thái tâm. Trạng thái tâm của ta phải được kiểm soát và hướng dẫn. Dùng nó một cách tiêu cực ắt có sợ sệt. Được dùng một cách tích cực, nó sẽ đem lại hi vọng và cho ta những lý tưởng trong đời sống. Và dùng nó như thế nào là hoàn toàn do ta quyết định. Mỗi người đều có khả năng kiểm soát tâm. Chỉ có một việc mà con người có thể kiểm soát được một cách tuyệt đối, đó là tư tưởng của mình. Sự kiện này - cùng với sự kiện xác thực khác là tất cả những gì mà con người tạo nên đều phải bắt đầu trong tư tưởng - đưa ta xích lại gần nguyên tắc theo đó ta có thể khắc phục tính sợ sệt.Khi được một sinh viên hỏi về phương pháp hữu hiệu nhức để chế ngự cái tâm, một nhà cơ thể học trứ danh người Anh trả lời: "Hãy cố gắng làm điều gì cho một người nào". Chàng sinh viên lấy làm ngạc nhiên với câu giải đáp có vẽ bí ẩn ấy và xin giáo sư rọi sáng thêm vấn đề. "Bạn không thể có hai loại tư tưởng trái ngược nhau cùng một lúc", vị giáo sư giải thích, "những tư tưởng này sẽ xua đuổi các tư tưởng kia. Thí dụ như nếu tâm của bạn hoàn toàn chăm chú vào việc giúp đỡ người khác mà không mảy may vụ lợi thì cùng lúc ấy bạn không thể sợ sệt". "Sự lo âu làm cạn giòng máu trong cơ thể, sớm hơn là tuổi già". Càng ít sợ hãi, ít lo âu và phiền muộn, sức khoẻ và tuổi thọ càng được bảo tồn tốt đẹp. Mãi mãi sợ sệt và không ngừng lo âu là kẻ thù tệ hại nhất cho cơ thể con người. Nó làm xáo trộn hoạt động bình thường của cơ thể. Nếu bạn biết làm vui lòng người khác, bạn sẽ có một gương mặt luôn luôn tươi tỉnh. Đó là vì bạn không để cho những lo âu phát sanh trong lòng. Tiếng gọi của thiên nhiên Để thành đạt các lợi ích vật chất, con người hiện đại không lắng tai nghe tiếng gọi của thiên nhiên. Hoạt động tinh thần của con người hiện mãi chăm chú mơ tưởng hạnh phúc tương lai mà lãng quên nhu cầu thiết yếu của cơ thể vật chất, và hoàn toàn không nghĩ đến giá trị thực tiễn của khoảnh khắc hiện tại. Tác phong phản thiên nhiên của nhân loại ngày nay là hậu quả tức khắc của những quan niệm sai lạc về trật tự thế gian, về kiếp nhân sinh, và về mục tiêu tối hậu của đời sống. Đó là nguyên nhân của tất cả mọi bất mãn, mọi lo âu, sợ sệt, và mọi hoàn cảnh bất ổn của thời hiện đại. Người thật sự mong muốn hoà bình phải giữ mình, không để làm xáo trộn tự do của kẻ khác. Tìm hạnh phúc cho mình bằng cách làm xáo trộn người khác quả thật là phương pháp sai lạc! "Bạn có thể làm cho vài người mãi mãi thất vọng, và làm cho tất cả mọi người thất vọng vài hôm, nhưng bạn không thể làm cho tất cả mọi người mãi mãi thất vọng". (Abraham Lincoln) Nếu con người hung bạo và tội lỗi mãi mãi sống ngược lại với định luật thiên nhiên, định luật vũ trụ, con người sẽ làm ô nhiễm toàn thể bầu không khí bằng những hành động, lời nói và tư tưởng của mình. Hậu quả dĩ nhiên của hành động và tư tưởng sai lạc tương tợ là thiên nhiên không thể tạo nên những gì mà con người cần phải có để sống, trong lúc ấy con người có thể phải đương đầu với những truyền nhiễm và những loại thiên tai vô cùng nguy hại. Ngược lại, nếu con người có một nếp sống thích ứng với định luật thiên nhiên và trật tự vũ trụ, nếu con người có một lối sống chơn chánh, thanh lọc bầu không khí bằng những công đức, bằng phẩm hạnh thanh cao và rải tâm từ của mình bủa rộng, bao trùm tất cả chúng sanh, ắt con người sẽ thay đổi bầu khí quyển để đem lại hậu quả tốt đẹp cho hạnh phúc nhơn loại. Bạn có thể là một người tân tiến rất bận rộn. Nhưng chớ quên bỏ ra vài phút trong ngày để đọc những trang sách có giá trị. Thói quen này sẽ giải khuây, giúp bạn quên đi những mối lo âu, và cùng lúc, giúp bạn trau dồi tâm trí. Trong khi ấy, cũng nên nhớ rằng bạn có một tôn giáo. Tôn giáo phục vụ bạn, đem lợi ích đến bạn. Như vậy, chính bổn phận của bạn là suy tư về tôn giáo của mình và dành vài phút trong ngày để thực hành những công việ có tánh cách tôn giáo, hợp theo lẽ đạo. Sức khoẻ tâm linh và những khuynh hướng tội lỗi Về phương diện sức khoẻ, không phải lao phổi hay ung thư là những chứng bịnh tai hại nhứt của thời đại chúng ta. Hiện nay, bịnh lao phổi hình như đã được kiểm soát và cũng có nhiều hi vọng rằng trong một tương lai không xa người ta sẽ tìm ra phương thức trị liệu cho bịnh ung thư. Trong thực tế, mối nguy cơ quan trọng nhứt ngày nay là sự tăng trưởng mau chóng của những chứng bịnh thuộc về thần kinh và trí não. Ngoài ra còn nhiều người, tuy thường không được xem là bịnh nhưng rất cần, và hơn ai hết, phải được chữa trị. Người ta có thể hỏi tại sao những phần tử tội lỗi trong xã hội lại được nêu lên đây cùng một lúc với các bịnh thần kinh. Một trong những hậu quả tích cực và sâu xa nhứt, dồn ép trực tiếp trong công trình khảo cứu của Freud là sự nhìn nhận rằng những người gây tội ác và phạm pháp là những người bịnh về tinh thần, cần phải được chữa trị hơn là hành phạt. Chính cái nhìn phóng khoáng vào vấn đề như thế ấy phải đặt nền tảng cho tất cả mọi cải cách xã hội "cấp tiến", và mở đường dẫn lối đến phương pháp cải thiện, làm cho xấu trở nên tốt, hơn là trả thù. Hãy biết người láng giềng của bạn Chúng ta không bao giờ thấy những người khác sống như thế nào. Chúng ta cũng có thể không biết gì về đời sống của những người không cùng một giai cấp xã hội với chúng ta, hoặc kém hơn, hoặc giàu có sang trọng hơn ta. Nếu ta khoẻ mạnh, ta không thể biết được bịnh hoạn là như thế nào, và nếu là người ươn yếu tật nguyền, ta sẽ không hiểu được năng lực của người dồi dào sức khoẻ ra sao. Vì thiếu kinh nghiệm nên ta quá khắt khe, kém khoan hồng. Đức quảng đại khoan dung chỉ phát sanh do sự hiểu biết. Và nếu không có kinh nghiệm, ắt chúng ta không thể hiểu biết. Do đó, nên có nhiều kinh nghiệm, kinh nghiệm về mọi phương diện của đời sống, nhứt là nên đi lại đó đây để mở rộng tầm mắt, nhưng không nên luôn luôn dùng những phương tiện dồi dào tiện nghi nhứt. Hạnh phúc con người Đức Phật dạy rằng tất cả bất hạnh của con người đều phát sanh từ sự ham muốn lầm lạc, muốn những thú vui mà tiền của mua được, muốn nhiều quyền thế hơn kẻ khác, và quan trọng hơn tất cả, muốn tiếp tục mãi mãi sống sau khi chết. Chính vì ham muốn những điều này mà con người trở nên vị kỷ, bởi nó làm cho con người chỉ nghĩ đến riêng mình, chỉ muốn cho riêng mình, và không để ý lo nghĩ đến những gì có thể xảy đến người khác. Và, bởi vì không thể thành đạt tất cả những gì mình mong muốn, con người luôn luôn lo âu và bất toại nguyện. Phương pháp duy nhất để tránh tình trạng bất ổn này là phải thoát ra khỏi nguyên nhân sanh ra nó, tức vượt qua khỏi mọi ham muốn. Điều này rất khó làm. Nhưng, ai đã thành tựu viên mãn sẽ đạt đến trạng thái toàn hảo và an tịnh PHẠM KIM KHÁNH (dịch)
-
Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni Nhập Niết Bàn Bằng Đồng Lớn Nhất Thế Giới ở Nhật Bản. Trong ngày Khai quang tôn tượng có 1300 nhà sư từ khắp nơi trên thế giới về tham dự. Nơi đây là một trong ba địa điểm thiêng liêng của Shikoku ở Nhật Bản. Mỗi năm có khoảng 1,2 triệu người đến chiêm bái và hành hương.
-
-
-
Cúng Đại Bàng Cúng Đại bàng là một cách gọi thông dụng của nghi thức Xuất sanh (xuất cho chúng sanh). Trước khi ăn, Đức Phật dạy các Tỷ kheo phải bố thí, san sẻ thực phẩm cho các loài quỷ thần được no đủ. Đối tượng được bố thí, sẻ chia là chim đại bàng cánh vàng, chúng quỷ thần đồng hoang và mẹ con quỷ la sát. Chim đại bàng cánh vàng (Đại bàng kim sí điểu, Ca lâu la điểu) là một loại chim thần. Trong Phật giáo Bắc tông, chim thần này được xếp vào Bát bộ chúng. Kim sí điểu có 4 chủng loại noãn, thai, thấp và hóa sanh. Trong Mật giáo, kim sí điểu là một trong những hóa thân của Bồ tát Văn Thù, thuộc Kim Cang bộ (ảnh). Hình tượng kim sí điểu giống như diều hâu, thân vàng, cánh đỏ…Các quỷ thần đồng hoang (Khoáng dã quỷ) thuộc thần Dược xoa. Đây là loài quỷ có 6 mặt, ở đồng trống, chuyên ăn thịt và uống máu chúng sanh. Loài quỷ Khoáng dã này được Đức Phật giáo hóa, bỏ ác làm lành nên Phật dạy các Tỷ kheo trước khi ăn phải bố thí cho chúng. Mật giáo thờ các vị thần Khoáng dã này như những thiện thần hộ quốc an dân, tiêu trừ các chướng nạn nước, lửa và binh đao.La sát là loài quỷ hung ác. La sát nữ xinh đẹp và rất quyến rũ, chuyên ăn thịt và uống máu người. Có loại quỷ la sát ở trong địa ngục, hình đầu trâu mặt ngựa chuyên trừng phạt tội nhân. Ngoài ra, còn có loại la sát là thần thủ hộ Phật giáo, gọi là La sát thiên.Chư Tăng vì lòng từ bi nên dựa theo các nghi quỹ Phật chế định, trước khi ăn luôn bố thí cho các loài quỷ thần được no đủ. Theo GNO
-
Thông báo (thay thư mời) Dự kiến nhóm từ thiện Trung Tâm sẽ tổ chức đi thăm và trao quà cho 2 chùa nuôi trẻ mồ côi ở vùng xa thuộc tỉnh Bình Thuận nơi mà các mạnh thường quân ít lui tới. Trước là đem niềm vui đến với các em sau vãng cảnh Chùa, sau nữa là đổi gió vùng biển. Chủ trương của diễn đàn ta trong công tác từ thiện là " đi và đến những nơi thiếu không đến những nơi thừa, những nơi bị bỏ quên" Nhân ngày Quốc Tế Thiếu Nhi 1-6 - 2012 chúng tôi sẽ thực hiện chuyến thăm 2 ngôi Chùa Phước Thiện (28 em) và Thiện Tâm (37 em) tại Thị Trấn Tân Minh Tỉnh Bình Thuận. cách Tp HCM 125 Km. Hành trình đi có thể đoàn chúng ta thực hiện chuyến đi giao lưu và giải trí tại biển Lagi thuộc Xã Tân hải tỉnh Bình thuận, 1 bờ biển sạch và đẹp. Lịch trình : 5g 30 sáng ngày 31/5 khởi hành tại TP HCM đến Chùa vào lúc 10g thăm trao quà chơi với các em, 11g30 : Thọ trai tại chùa Phước Thiện. trực chỉ Thị trấn Lagi nhận phòng , vị trí gần khu resort Mỏm Đá Chim nghĩ trưa ra biển và sau đó thưởng thức hải sản tại nhà nghĩ . Sáng 1/6 ăn sáng tắm biển tập trung ra về vào lúc 11g trên đường về chúng ta ghé thăm chùa Thiện Tâm trao và tặng quà sinh hoạt vui chơi cùng các em. Về Thành Phố vào buổi chiều cùng ngày. ACE tham gia đăng ký dưới đây để chúng tôi tiện việc tổ chức, hy vọng ACE hãy đến với những mãnh đời không Cha Me không gia đình phải nương nhờ cửa Phật nhân ngày của các em, chuyến đi thật vô cùng ý nghĩa nếu chúng ta lưu lại chút gì đó ấm áp cho các em. TM Ban Từ Thiện Diễn Đàn Wildlavender
-
Rất hoan hỷ tiếp nhận sự tham gia của WALL-E, bạn nên theo dõi trên Topic Những Mãnh đời cần cứu giúp hoặc Hoạt Động Trung Tâm vì khi đi thường có thông báo!
-
http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/25375-chua-bai-liet-cam-diec-trong-10-phut-chuyen-la-co-that/page__st__40 từ đây bạn có thể đem phim chụp và trao đổi thông tin vì các anh trong nhóm hiện ở Bình Dương.
-
Ý thức là gì? NSGN - Bất cứ một cái gì có khả năng duy trì tự tánh của nó vào trong một số hình tướng để khi nhìn đến, ta liền nhận ra, gọi là pháp (Tiếp theo Nguyệt San 190 và hết) Pháp là gì? Trên thực tế, chúng ta sử dụng nhiều danh từ để chỉ cho những sự vật xuất hiện trong thế giới. Những sự vật đó vừa có tính đa dạng, vừa có tính đổi thay, vừa có tính đơn nhất. - Như cùng là người mà có người da trắng, da đen, cao to, nhỏ bé, thông minh, đần độn… Các cá thể người tuy có nhiều sai khác về hình thể tính cách nhưng tất cả đều là người. - Anh A lúc xưa trẻ nay đã già, lại có lúc vui, lúc buồn, lúc khỏe mạnh, lúc ốm đau… dù luôn thay đổi, nhưng khi nào cũng là anh A. Những sự vật vừa có tính đa dạng, thay đổi và đơn nhất như thế được nhà Phật gọi là pháp. Như vậy, những danh từ được dùng để chỉ thị cho pháp, mỗi danh từ là một pháp. Phần đơn nhất của pháp, gọi là tánh. Phần đa dạng và hay thay đổi của pháp gọi là tướng hay pháp tướng. Pháp được định nghĩa như sau: “Bất cứ một cái gì có khả năng duy trì tự tánh của nó vào trong một số hình tướng để khi nhìn đến, ta liền nhận ra, gọi là pháp”. Xét ra, mọi sự mọi vật trên đời đều là pháp. Vì sao đối tượng nhận biết của ý thức là pháp? Năm giác quan của ta chỉ ghi nhận hình tướng của pháp ở thời điểm hiện tại, vì thế năm thức ngoài chỉ biết được cảnh hiện tại. Cảnh hiện tại là một trong vô số hình tướng của pháp. Thông qua hình tướng đó, ý thức biết được đó là gì, là một pháp. Đây là chỗ sai khác giữa ý thức và năm thức ngoài. Ý thức không chỉ biết về một hình tướng mà còn biết đó là cái gì. Pháp bên ngoài thông qua năm thức ngoài đã trở thành những ảnh tượng ở trong tâm. Những ảnh tượng này chính là pháp trần, là đối tượng nhận biết của ý thức.(2) Tâm chúng ta vận hành thế nào để tạo ra một ý niệm về pháp cho ý thức? Một ý niệm về pháp được hình thành thông qua bốn phần của thức. Đó là kiến phần, tướng phần, tự chứng phầnvà chứng tự chứng phần. Để dễ nắm bắt bốn phần này, chúng ta phân tích thí dụ sau: Bạn đang ngồi trong công viên, tâm hồn thư thái không chú ý đến việc gì. Bỗng có một hình ảnh cao gầy lướt qua, trong tâm bạn liền khởi lên ý niệm: Anh A. - Tướng (cao gầy) mà mắt bạn ghi nhận được, là tướng phần. - Cái biết về tướng cao gầy, là kiến phần. - Anh A là thứ mà ý thức phân biệt nhận biết. Anh A là pháp. Đến đây, bạn dễ dàng nhận ra sự sai khác giữa ý thức và năm thức trước. Cái mà nhãn thức biết được là một tướng. Tướng đó, thông qua ý thức phân biệt trở thành cao gầy, là tướng phần của ý thức phân biệt. Ý thức phân biệt không chỉ biết được tướng cao gầy mà còn biết được đó là anh A. A này từ đâu xuất hiện? Như đã nói, ở thời điểm hiện tại khi ý thức biết được tên gọi là A, thì hình ảnh và tên gọi của A đã được lưu trữ trong vô thức. Khi ý thức nhận biết được tướng cao gầy, lập tức thông tin này được đưa vào kho lưu trữ để tra cứu rồi rút ra kết luận là anh A. Bộ phận có nhiệm vụ tra cứu và xác chứng đó, gọi là tự chứng phần. Phần này hoạt động trong vô thức. Ý thức là nơi tiếp nhận kết quả của sự xác chứng. Trong thực tế có vô số người có tướng cao gầy, do đó sự xác chứng của tự chứng phần có thể chưa phù hợp. Muốn xác chứng được chính xác cần có một bộ phận kiểm tra để xác nhận cho sự chứng thành của phần tự chứng. Bộ phận thứ tư này gọi là chứng tự chứng phần. Trong thí dụ trên, phần này hoạt động như sau: Thông tin cao gầy mà kiến phần cung cấp cho tâm vẫn còn quá đơn sơ, chưa đầy đủ. Đến đây bạn hướng sự chủ ý của mình đến đối tượng trên, nhìn kỹ hơn đối tượng ấy. Sự nhìn kỹ, như thấy rõ khuôn mặt, mắt, tai, màu da… giúp bạn có nhiều thông tin hơn. Song song với việc làm này, bên trong chứng tự chứng phần sẽ lôi những thông tin đã được lưu trữ cấp cho phần tự chứng. Phần này sẽ đối chiếu những thông tin về A đang được lưu trữ trong vô thức với những thông tin mới mà kiến phần vừa cung cấp để đi đến kết luận cuối cùng. Kết luận này sẽ xuất hiện nơi ý thức đó là A hay không phải A. Diễn giải trên nhằm giúp chúng ta dễ nhận ra bốn phần của thức vận hành thế nào. Thực tế, với một sự vật quen thuộc, quá trình trên hoạt động gần như đồng thời và cho ra liền kết quả. Cần biết thêm về tự chứng phần và chứng tự chứng phần: Muốn chứng thành một pháp được chính xác, đòi hỏi phải lưu giữ nhiều thông tin về pháp. Điều này đòi hỏi phải có nhiều lần tiếp xúc với pháp. Cứ mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần các thức của chúng ta ghi nhận được thông tin của pháp. Sự ghi nhận có thể do cố ý hay không cố ý đều được lưu giữ trong vô thức. Nói cách khác, khi tiếp xúc với pháp, những gì mà sáu thức ngoài ghi nhận được từ pháp đều được lưu giữ lại. Đây là cơ sở cho việc chứng thành pháp ở những lần sau. Thí dụ trên cho thấy việc chứng thành pháp ở nhãn thức. Với các thức còn lại cũng như vậy. Như mới nghe tiếng chưa thấy mặt cũng đã nhận ra là ai, mới ngửi mùi cũng biết đó là thứ gì. Nếu có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với pháp, những thông tin mới xuất hiện do sự biến đổi của pháp liền được ghi nhận và cho vào kho lưu trữ. Nghĩa là, tâm luôn cập nhật những thông tin mới về pháp thì việc chứng thành pháp diễn ra dễ dàng hơn. Pháp, trên thực tế vừa đa dạng vừa hay biến đổi, nhưng cũng có những thông tin ít biến đổi, nhờ vậy tâm vẫn có thể chứng thành pháp dựa trên những thông tin đó. Như A có một tướng đi rất đặc thù ít thay đổi. Và vì thế dù các tướng khác đã thay đổi, chúng ta vẫn có thể nhận ra A thông qua tính cách đó. Tóm lại, đối tượng nhận biết của ý thức là pháp, không đồng với 5 thức trước. Việc tạo thành một ý niệm về pháp ở bên ngoài là kết quả phối hợp của các thức trong (phần vô thức) và thức ngoài. Ngoại cảnh và nội tâm đều góp phần cho ý thức hiện hành. Do đó, thứ mà ý thức phân biệt biết được bao giờ cũng là một hiện tượng, trong đó tâm với vật không lìa nhau, dù tâm không phải là vật, vật không phải là tâm. Tâm và vật vốn bình đẳng trong thế giới hiện tượng. Không một thành phần nào, dù là tâm hay vật, được quyền thiếu vắng nơi hiện tượng. Nói qua về hoạt động của tư duy Tư duy là hoạt động quan trọng của ý thức phân biệt. Với nhiều người trong chúng ta, biết vẫn chưa đủ, cần phải hiểu. Đây là lý do để tư duy xuất hiện. Thứ mà ý thức biết được là pháp. Vì thế đối tượng tìm hiểu của tư duy cũng chính là pháp. Pháp, là muôn sự muôn vật, phức tạp hơn nhiều so với những gì ta thường nghĩ. Ý thức có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về pháp dẫn đến việc có nhiều ý nghĩa sai khác nơi một pháp. - Như anh A đối với tôi là bạn, với B là kẻ thù, với C là người cha, với D là chồng... - Với một cánh hoa, chúng ta có thể nhìn nó trên khía cạnh mỹ thuật (xấu hay đẹp), trên khía cạnh văn học (hoa này biểu trưng cho tình yêu), trên khía cạnh vật lý (nặng 2gr), trên khía cạnh hóa học (dùng làm nước hoa), trên khía cạnh y học (dùng làm thuốc). Vì có nhiều khía cạnh khác nhau nên có nhiều lối tư duy khác nhau dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau trên cùng một pháp. Hỏi: Vì sao ta chỉ có thể tư duy trên từng cái nhìn sai khác của ý thức? Đáp: Vì chỉ trên từng cái nhìn sai khác, pháp mới hiển bày ra một ý nghĩa nào đó làm cơ sở cho việc tư duy. Lìa ngoài cái nhìn sai khác của ý thức, không có một ý nghĩa nào của pháp được hiển bày. Trong trường hợp này, tư duy không thể xuất hiện. Hỏi: Tại sao chúng ta không thể tư duy trên cái nhìn tổng quát về pháp mà phải tư duy trên từng khía cạnh sai khác của pháp? Chẳng phải chúng ta vẫn thường tư duy qua các khái niệm, định nghĩa mà khái niệm định nghĩa là cái nhìn tổng quát về pháp? Đáp: Điều đó chỉ đúng nếu chúng ta có được những định nghĩa hoàn hảo về pháp. Một định nghĩa hoàn hảo là một định nghĩa nói lên được yếu tính (nếu có) của pháp. Trên thực tế, chúng ta khó có thể có một định nghĩa hoàn hảo về bất kỳ một pháp nào xuất hiện trong thực tế. Thời đại chúng ta đã chứng kiến sự thay đổi liên tục của các khái niệm, định nghĩa. Có thể nêu một trường hợp cụ thể sau: Khái niệm về thành phần cơ bản của vật chất đã thay đổi nhiều. Thoạt tiên thành phần cơ bản của vật chất là nguyên tử, kế đến là các hạt hạ nguyên tử, hiện tại là các quarks. Vấn đề được đặt ra ở đây là các quarks có phải là thành phần cơ bản của vật chất chưa? Đây là điều mà không một nhà vật lý nào dám khẳng định một cách tuyệt đối. Nói cách khác, khái niệm về thành phần cơ bản vẫn còn có thể thay đổi. Khái niệm thay đổi thì định nghĩa thay đổi. Định nghĩa thay đổi thì đó chưa phải là định nghĩa hoàn hảo về thành phần cơ bản của vật chất. Và như thế chúng ta sẽ không có một định nghĩa nào hoàn hảo về pháp. Vì bất cứ một pháp nào thuộc lãnh vực vật chất cũng là một tổ hợp của các thành phần cơ bản. Tóm lại, định nghĩa hay khái niệm đều chỉ là cái nhìn chưa đầy đủ về pháp, chỉ thấy được một phần của pháp. Vì thế, tư duy qua định nghĩa vẫn là tư duy trên một cái nhìn của ý thức về pháp mà thôi. Đến đây, chúng ta đã có được một kiến thức về ý thức. Dù còn rất đơn sơ nhưng tạm đủ để giải quyết những vấn đề đã nêu ra ở đầu bài. Ý thức và trí thông minh nhân tạo Việc đối tượng nhận biết của ý thức là pháp, đã gây ra những khó khăn trong việc tạo ra trí thông minh nhân tạo. Cụ thể như: 1. Không thể chương trình hóa bất cứ một pháp nào xuất hiện trong thực tế: Pháp tướng của một pháp vừa có tính đa đạng vừa luôn thay đổi, nên không thể biết hết mọi pháp tướng có thể xuất hiện, dù chỉ của một pháp. Không một thuật toán nào có thể hàm chứa mọi pháp tướng của một pháp, huống là tất cả pháp. Điều này giải thích tại sao viết chương trình để robot chơi cờ hoặc giải các bài toán đại số phức tạp dễ hơn nhiều so với việc làm cho robot phân biệt được một tách trà với cái bàn.(3) Có thể cụ thể hóa điều nói trên bằng một thí dụ vui như sau: Cái bàn lúc còn mới có bốn chân, sau một thời gian chỉ còn ba chân rưỡi. Để tiếp tục sử dụng, người ta kê vào đó một khúc chêm khác. Trường hợp này, ý thức của ta vẫn dễ dàng nhận ra cái bàn, nhưng với một robot, nhận ra một vật với ba chân rưỡi cộng với một vật chêm bằng gỗ hoặc gạch là điều gần như không thể. Lại nữa, trên thực tế có nhiều kiểu bàn khác nhau. Đặc biệt với những kiểu bàn được tạo ra từ ý tưởng của các nhà nghệ sĩ, kiểu dáng của nó càng thêm phức tạp, lập dị. Việc viết một chương trình thích ứng với sự sáng tạo đầy phóng túng của các nghệ sĩ là không thể. Trong khi đó, ý thức của chúng ta lại dễ dàng thích ứng với các sáng tạo nói trên. Vì sao? Vì đối tượng nhận biết của ý thức là pháp. 2. Việc tạo ra một robot có khả năng nhận biết về pháp đã là quá khó khăn, thì việc tạo ra một robot có khả năng tư duy như ý thức càng khó khăn hơn nhiều lần. Không thể tạo ra một robot có vô số cái nhìn về pháp như ý thức được. Trong khi đó, chính khả năng tư duy trên pháp của ý thức đã giúp cho con người có khả năng thích ứng và tồn tại cao trong một thế giới đầy biến động, đầy bất trắc mà chúng ta đang sống. Vẫn còn nhiều khó khăn khác nữa nhưng đến đây chúng ta đã có thể kết luận “trí thông minh nhân tạo” không thể trở thành hiện thực. Ý thức và sự tạo thành thế giới Vấn đề này xuất hiện từ cơ học lượng tử, một trong hai trụ cột chính của nền vật lý hiện đại. Theo cơ học lượng tử, thành phần cơ bản của vật chất có hai mặt: Một, là sóng. Hai, là hạt. Hai mặt này có tính chất trái ngược nhau. Sóng thì liên tục. Hạt thì không liên tục. Khi chưa tiến hành quan sát đo đạc, chúng ta chưa thể nói nó là gì. Chỉ sau khi tiến hành đo đạc, nó mới biểu hiện ra là sóng hay là hạt. Sự kiện này đã làm phát sinh ra nhiều quan điểm triết học khác nhau. Trong đó, quan điểm của nhóm Copenhagen hiện được nhiều người công nhận nhất. Đại diện cho nhóm Copenhagen, là Bohr và Heisenberg, đã phát biểu: “Thuyết lượng tử nói về sự vận hành của tự nhiên trong lãnh vực nguyên tử cho thấy nó (tự nhiên) phản ứng thế nào khi được các thiết bị đo lường xem xét”. Theo quan điểm này, những gì quan sát đo lường được mới là những sự kiện có thật. Về sau, quan điểm này được đẩy đi xa hơn khi cho rằng vật chất có hai mặt sóng và hạt: Sóng là khả năng xuất hiện của sự vật. Hạt là sự vật đã thật sự xuất hiện. Cái gì đã làm cho sóng biến thành hạt? Chính tác động đo lường của chủ thể nhận thức đã làm cho sóng biến thành hạt. Nói cách khác, chính tác động tra vấn của ý thức đã làm cho khả năng biến thành hiện thực. Đến đây có một câu hỏi được nêu ra: “Phải chăng thế giới được xây dựng bằng ý thức?”. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần lưu ý một số điểm sau: 1. Khoa học được xây dựng trên tinh thần thực nghiệm. Vì thế, mọi lý giải khoa học chỉ có giá trị khi nó tỏ ra phù hợp với các sự vật xuất hiện trong thế giới mà chúng ta đang sống. Nghĩa là, thế giới đã xuất hiện rồi, không chờ sự tra vấn của ý thức thế giới mới xuất hiện. Sự tra vấn của ý thức là để có được sự hiểu biết về thế giới đã được công nhận. 2. Việc đẩy quan điểm của nhóm Copenhagen đi quá xa như đã nói trên sẽ dẫn đến các nghịch lý, cụ thể là nghịch lý “Con mèo Schrodinger”. Con mèo Schrodinger: Một con mèo được giam trong một phòng có chứa một bình thuốc độc. Bình sẽ vỡ khi có sự phân hủy của một nguyên tử - Sự phân hủy này sẽ kích hoạt một hệ thống đập vỡ cái bình. Khi bình chưa vỡ mèo vẫn sống, nếu bình vỡ thì mèo chết. Thực tế chúng ta không biết chính xác lúc nào xảy ra sự phân hủy mà chỉ biết xác xuất của sự phân hủy. Như trong một giờ xác xuất ấy là 50%. Như vậy trong vòng một giờ số mạng của con mèo là tổ hợp của 50% sống và 50% chết. Theo phái Copenhagen, khi chưa mở phòng, tức khi chưa quan sát, trạng thái của nguyên tử là chưa xác định và con mèo ở trong tình trạng nửa sống nửa chết. Chỉ sau khi mở phòng, trạng thái của con mèo mới được xác định là sống hay chết. Với Schrodinger, ở đây xuất hiện một nghịch lý. Việc cho rằng con mèo sống hay chết phụ thuộc vào hành vi mở phòng, trong khi trên thực tế, nếu con mèo chết nó đã chết trước rồi, không đợi mở phòng mới chết thật. Sở dĩ có nghịch lý nói trên vì người ta đã phạm hai sai lầm chính: - Sai lầm trên mặt biện chứng: Trong một thế giới đã xuất hiện, một thành phần cơ bản của vật chất (nói rộng là một sự vật nào đó) khi chưa quan sát đo lường, chúng ta không thể nói nó là hạt cũng không thể nói nó không phải là hạt. Việc cho rằng khi chưa quan sát thì sự vật không có, tức đã lấy phần đầu (không thể nói nó là hạt) mà bỏ đi phần sau (không thể nói nó không phải là hạt). Đây là một nhận định thiên lệch không phù hợp với thực tế. Chính điều này dẫn đến các nghịch lý. - Sai lầm trên mặt lý: Trong thế giới đã xuất hiện, các sự vật vận hành theo lý nhân duyên. Lý nhân quả là một hình thái đơn giản của lý nhân duyên, vì thế nó có một phạm vi tác động hạn chế. Việc đẩy lý nhân quả vượt ngoài phạm vi tác động của nó, như trường hợp mở rộng quan điểm của phái Copenhagen(4), sẽ đưa đến nghịch lý. Với lý nhân duyên, chúng ta sẽ có một lý giải hoàn toàn phù hợp với thực tế, mà không gặp phải một nghịch lý nào cả. Từ hai điều vừa nêu trên, chúng ta có thể kết luận: Thế giới không phải được tạo dựng bằng ý thức. Vậy ý thức có tham gia vào việc tạo ra thế giới hay không? Nếu có, nó tham gia ở mức độ nào? Thế giới là một pháp. Vì chúng ta chỉ có thể tư duy trên từng cái nhìn của ý thức về pháp nên chúng ta chỉ có thể hiểu về thế giới trên từng cái nhìn của ý thức. Một cái nhìn là một kiến chấp - nói một cách dễ hiểu, là một quan điểm của chúng ta về thế giới. Như vậy, ý thức đã tham gia vào việc tạo ra thế giới được hiểu biết bằng những quan điểm của nó. Có thể dễ dàng kiểm chứng điều vừa nói. Với những quan điểm như Duy tâm, Duy vật, Duy hiện tượng… con người đã tạo ra triết học và khoa học. Ở từng môn học, ngoài những quan điểm chính còn có những quan điểm phụ, tạo ra sự tách biệt giữa môn học này và môn học khác. Với triết học và khoa học, chúng ta đã có được những tri thức về thế giới. Khi quan điểm thay đổi sẽ làm phát sinh những tri thức mới. Đem vận dụng những tri thức có được vào thực tế, chúng ta đã làm biến đổi thế giới. Rõ ràng ý thức đã tham gia vào việc tạo ra sự hiểu biết và biến đổi thế giới. Vậy ý thức đã tham gia ở mức độ nào? Điều này còn tùy. Một quan điểm nếu được nhiều người đồng thuận sẽ tạo ra một sự thay đổi về mặt nhận thức và tạo ra một tác động lớn hơn so với những quan điểm được ít người đồng thuận. Thí dụ 1: Việc cho rằng da một loài thú nào đó là quý và sang trọng khi dùng làm áo choàng, nếu điều này được nhiều người đồng ý, chỉ một thời gian sau loài vật ấy gần như tuyệt chủng. Thí dụ 2 : Thuyết Tương đối lúc mới ra đời chưa được nhiều người đồng thuận thì tác động của nó chưa nhiều. Về sau, khi đã được giới khoa học công nhận, đã tạo ra những nhận thức mới về thế giới và đã làm biến đổi thế giới của chúng ta một cách sâu sắc. Tóm lại, ý thức có tham gia vào việc tạo tác thế giới nhưng chỉ ở mức độ có giới hạn. Gặp lại chuyện xưa Trong quá khứ, không ít lần các nhà khoa học đã cho rằng chỉ cần thêm một thời gian ngắn, chúng ta sẽ nắm bắt được mọi quy luật vận hành của thế giới. Song, vào thời điểm quyết định đó, thiên nhiên lại trình hiện một bộ mặt mới tinh tế, phức tạp và sâu rộng hơn. Khoa học lại phải tiếp tục con đường của nó. Câu chuyện của chúng ta cũng giống như thế. Với ý thức, chúng ta đã tạo ra triết học và khoa học. Hiện nay chúng ta đã thâu lượm được một lượng tri thức khổng lồ. Chúng ta đã hiểu biết mọi thứ, nhưng thứ mà chúng ta hiểu biết ít nhất là ý thức, là công cụ chính yếu tạo ra tri thức. Chính sự khiếm khuyết này đã gây ra nhiều vấn đề, nhiều vướng mắc trong lãnh vực tri thức. Hiện nay một số nhà khoa học cho rằng: Ý thức là vấn đề cuối cùng của tri thức. Hiểu được ý thức là tiền đề đưa đến chỗ chung cùng của tri thức. Với họ, câu hỏi “Ý thức là gì?” tương đương với câu hỏi “Bản thể là gì?”. Cũng như những lần trước, hiểu được ý thức lại làm nảy sinh vấn đề vô thức. Vô thức không chỉ tác động lên ý thức bằng những nguyên động lực ẩn chứa trong nó - như Phân tâm học đã nhìn thấy - mà còn đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra các ý niệm cho ý thức. Ngày nào chúng ta chưa thấu tỏ phần vô thức của chính mình thì ý thức vẫn chịu nhiều ràng buộc của các thế lực vô hình trong vô thức. Một ý thức như thế không có nhiều tự do như chúng ta vẫn lầm tưởng. Một ý thức như thế không thể làm Thượng đế. Đến đây chúng ta dễ dàng nhận ra việc hiểu được ý thức chưa giải quyết được vấn đề bản thể. Sự hiểu biết về ý thức đã giúp giải quyết vấn đề trí thông minh nhân tạo, nhưng những câu hỏi đến từ Cơ học lượng tử như thế giới này là có hay là không, là khách quan hay chủ quan, vật chất có phải là một thực thể tách biệt với ý thức hay không, vấn đề khả năng và hiện thực, tính ngẫu nhiên và tính tất yếu… chỉ mới được giải quyết phần nào. Muốn giải quyết thỏa đáng những câu hỏi đó, trước hết chúng ta phải giải quyết những câu hỏi liên quan đến bản thể học, cụ thể như: Thực tánh của tất cả pháp là gì? Thực lý chi phối tất cả pháp là gì? Lý nhân quả - nền tảng của các ngành khoa học - có đủ khả năng lý giải tất cả mọi sự vật hay không? Nếu không, giới hạn của lý nhân quả là gì?… Chánh Tấn Tuệ (2) Cách diễn giải từ ngoài vào trong này là thuận với cái nhìn của nhân sinh mà nói cho dễ hiểu. (3) Những Câu Chuyện Khoa Học Hiện Đại - Phạm Việt Hưng (4) Việc mở rộng quan điểm của phái này được xây dựng trên các phương trình sóng của Schrodinger. Đây là những phương trình được xây dựng trên lý nhân quả. Việc cho rằng các phương trình này vừa có giá trị phổ quát, vừa đúng cho mọi trường hợp riêng lẽ của các sự vật đã đẩy lý nhân quả vượt ra ngoài phạm vi tác động của nó. Nguồn nguyetsan giacngo
-
-
-
Chép từ fb "nhg ng thích ngồi bên máy tính"
-
ĐẠO PHẬT VỚI VẤN ĐỀ AN TỬAn tử, hay “cái chết êm đềm” được thực hiện bằng “máy tự tử” do bác sĩ Jack Kevorkian, chuyên nghiên cứu bệnh học tại nhiều bệnh viện khác nhau ở California và Michigan, thiết kế năm 1989 dưới tên gọi “mercitron”. Máy này nhằm giúp những người mắc bệnh nan y không còn cơ hội chạy chữa, chỉ còn sống lại những ngày tháng “chờ chết” trong đau đớn tột cùng, chết theo ý nguyện của họ, một cái chết “nhanh chóng, nhẹ nhàng”, hơn là phải sống trong nỗi khổ đau giày vò triền miên. Sau chín năm thực hiện, Kevorkian đã giúp 130 bệnh nhân giã từ cuộc sống bằng “mercitron”. Năm 1998, Jack Kevorkian gởi tới hãng truyền hình CBS đoạn băng video quay cảnh thực hiện cái chết cho bệnh nhân có tên Thomas Youk, 52 tuổi, bị xơ hóa cơ trên, dưới sự trợ giúp của ông. Sau đó, đoạn băng này được phát trên truyền hình ABC News với sự chứng kiến của 16 triệu người Mỹ, và rồi cả thế giới bắt đầu biết đến một “công nghệ” mới trong ngành y học: “công nghệ an tử”! Chính đoạn băng video này đã làm bằng chứng kết án Kevorkian tội “giết người cấp độ hai”, và bị xử 10-25 năm tù. Hôm 1-6-2007, “bác sĩ tử thần” Jack Kevorkian được tạm tha sau tám năm ngồi tù. Trong khoảng thời gian tám năm đó, mặc dù Kevorkian ngồi tù, nhưng việc làm của ông vẫn tiếp tục, và chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong tương lai, không chỉ giới hạn trong lãnh vực giết người của “mercitron”, mà cả trong cuộc đấu tranh của những người, những tôn giáo ủng hộ hoặc chống đối vấn đề an tử. Bằng chứng là nhiều tôn giáo, không chỉ tại Mỹ, mà khắp nơi trên thế giới, đã thẳng thừng tuyên bố sẽ làm bằng mọi cách để việc an tử không trở thành hợp pháp. Trong khi đó, dân chúng bang Oregon, bang đầu tiên của nước Mỹ, đã thông qua luật cho phép những người mắc bệnh nan y không thể sống quá sáu tháng nữa được yêu cầu bác sĩ hỗ trợ cho cái chết. Từ năm 1998 đến 2006, đã có 292 người Oregon chọn cái chết này. Rõ ràng, vấn đề an tử đã và đang trở thành mối quan tâm của thời đại. Vấn đề trở nên thật “có lý” khi một con người hoàn toàn có quyền lựa chọn cho mình một cái chết “an lành” hơn là phải sống trong đớn đau triền miên không sao tránh được. Quả thật, có những trường hợp, những căn bệnh, những cảnh đời,… mà chỉ có cái chết mới là giải thoát - giải thoát cho chính bản thân mình và cho cả người thân bớt đi gánh nặng, lo âu! Do đó, “mercitron” không chỉ được bệnh nhân chấp nhận mà còn được “tri ân”. Nhưng cũng không ít người từ chối, thậm chí chống đối, bởi nó quá “tàn nhẫn” và “phi đạo đức”. Vậy thì, trước thực trạng đó, đạo Phật vốn nhìn cuộc đời như mộng, như huyễn, xem tử sinh như trò huyễn hóa, hết thảy đều mộng mị, vô thường, vô ngã… đối biện vấn đề an tử như thế nào? Hồi Phật còn tại thế, khi Ngài đang ngụ tại Tỳ-xá-li (Vaiśāli), có một Tỳ-kheo bị bệnh nặng, lâu ngày rồi mà điều trị không lành. Thầy Tỳ-kheo nuôi bệnh nói với Tỳ-kheo bị bệnh dai dẳng ấy rằng: “Tôi không thọ trì, đọc tụng Kinh điển hay tư duy hành đạo gì được hết. Hằng ngày phải đi đến nhà người ta tìm kiếm những thức ăn, thức uống, thuốc thang phù hợp với người bệnh khiến thiên hạ đều chán ngấy tôi. Tôi không bệnh mà cũng khổ sở chẳng kém”. Thầy Tỳ-kheo bệnh nói: “Thế thì phải làm sao? Tôi cũng chán ngán nỗi đớn đau này, không thể chịu đựng được nữa. Nếu thầy giết tôi thì tốt lắm”. Tỳ-kheo nuôi bệnh nói: “Thầy không nghe Thế Tôn chế giới không được tự tay giết người hay sao?”. Tỳ-kheo bệnh nói: “Nếu vậy thì thầy vì tôi đi gọi giúp người cầm dao đến đây”. Tỳ-kheo nuôi bệnh lại nói: “Thầy không nghe Thế Tôn chế giới không được đi tìm người cầm dao về giết người hay sao”. Tỳ-kheo bệnh nói: “Thế thì thầy bảo phải làm sao?”. Tỳ-kheo nuôi bệnh đáp: “Thầy chỉ cầu được sống không muốn chết, chứ nếu muốn chết thì có thiếu gì cách để chết”. Sau đó, Tỳ-kheo bị bệnh vì không cần gì và khát khao gì nữa khi phải chịu đớn đau quằn quại, khổ mình, khổ người, nên đã tự sát ( Luật Ma-ha Tăng-kì, ĐTK/ĐCTT 22, n0 1425). Đức Phật biết được sự việc ấy, Ngài cho gọi thầy Tỳ-kheo nuôi bệnh đến và quở trách: “Ông không từng nghe Như Lai dùng vô số phương tiện khen ngợi những người sống phạm hạnh, có thân từ ái, miệng từ ái, tâm từ ái, và khuyên cúng dường cung cấp cho họ những thứ cần thiết là gì? Nay vì sao ông lại ca ngợi sự chết? Điều đó là phi pháp, phi luật, không đúng lời ta dạy, không thể dùng việc này để nuôi lớn thiện pháp”. Đức Phật quở trách vị Tỳ-kheo nuôi bệnh đã tác động Tỳ-kheo bị bệnh kia tìm đến cái chết (tức gợi ý, khuyên bảo hoặc xúi giục người khác nên tìm đến cái chết hơn là sống trong dày vò khổ đau của bệnh tật, như trường hợp an tử), cũng có nghĩa là Đức Phật không đồng tình việc tìm đến cái chết, dù trong bất cứ trường hợp nào và bằng phương cách gì. Trong giới luật của Phật giáo, tự mình sát hại, bảo người khác sát hại, khen ngợi hay tán đồng sự sát hại đều phạm trọng tội. Theo đó, người tạo ra cổ máy “mercitron”, những người đồng tình với việc làm này, kể cả bệnh nhân, đều không phù hợp với tinh thần và giới luật Phật giáo. Đức Phật đã bằng vô số phương tiện để chỉ cho chúng sinh thấy rằng, có được thân người là rất khó, do đó được làm kiếp người là vô cùng quý báu. Hãy thử tưởng tượng, dưới đáy Đại dương có một con rùa mù sinh sống. Cứ một ngàn năm nó nổi lên mặt nước một lần để lấy không khí. Lần nọ, khi nó vừa nổi lên thì đầu của nó chui lọt vào trong một bộng cây đang dật dờ trôi trên mặt biển! Một sự việc vô cùng hiếm có, nhưng được làm thân người, theo Phật giáo, còn hiếm có hơn vậy nữa. Thân người khó được như thế nhưng lại dễ mất, bởi sự chi phối mạnh mẽ của định luật vô thường, và một khi mất rồi thì khó có được trở lại. Vì vậy, mạng sống của con người thật quý giá biết bao. Đặc biệt, chỉ có làm kiếp người, trong tấm thân thể hình hài này, dù xấu hay đẹp, dù sang hay hèn, dù mạnh khỏe hay ốm đau… nó cũng là phương tiện hay công cụ duy nhất làm thuyền bè đưa ta vượt thoát biển khổ đau sinh tử luân hồi. Trong các loài chúng sinh, chỉ duy nhất chúng sinh làm người mới có đầy đủ điều kiện tu tập pháp giải thoát. Kinh điển ghi lại vô số những pháp thoại của Đức Phật cảnh tỉnh chúng ta hãy ý thức về sự vô thường của cuộc đời để nỗ lực tu tập giải thoát không để mất cơ hội là vậy. Hơn nữa, với giáo pháp của Phật, nếu chúng ta thật lòng tu học, chắc chắn thành tựu đạo quả, không những chỉ thoát khỏi kiếp sống khổ đau hiện tại này, mà vĩnh viễn xa lìa các nẻo khổ đau trong ba cõi, đời đời sống an vui, giải thoát, dù thời gian tu học chỉ còn lại một ngày, thậm chí chỉ còn một hơi thở. Đức Phật khẳng định: “Nay Ta nói cho các ông biết, trong hàng Thanh văn của Ta, có người tâm ngay thẳng, không siểm trá, không huyễn ngụy; Ta đã giáo hóa người này mười năm. Do nhân duyên này, người ấy có thể trong vòng trăm, ngàn, vạn năm chỉ một mực hỷ lạc, tâm lạc, phần nhiều trụ thiền định. Điều này chắc chắn là có. “Lại nữa, thôi, không tính mười năm, mà chín năm, tám năm, cho đến một năm, mười tháng, chín tháng, cho đến một tháng; mười ngày, chín ngày, cho đến một ngày một đêm, nếu đã được Ta giáo hóa, thì đến sáng hôm sau họ có thể tiến bộ vượt bực. Sáng sớm đã được giáo hóa thì đến chiều tối, có thể tiến bộ gấp bội. Vì nhân duyên này, nên trong vòng trăm, ngàn, vạn năm chỉ một mực hỷ lạc, tâm lạc, phần nhiều trụ thiền định, thành tựu hai quả. Hoặc quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm” (Kinh Tạp A-hàm). Như vậy, bằng kiếp sống này, chúng ta có thể đạt được giải thoát trong vòng hai mươi bốn giờ tu học. Vậy tại sao chúng ta không tạo mọi điều kiện cho bản thân mình, cho người thân của mình được an vui mãi mãi mà chỉ tìm đến an tử? Chúng ta chỉ nhìn thấy được những nỗi khổ đau của kiếp người do thiếu cơm, thiếu áo, thiếu tiền, hay bệnh tật ốm đau… mà không thấy được nỗi khổ đau lớn nhất của đời người là bị nhận chìm trong dòng thác huyễn mộng của cuộc đời, trôi lăn theo sáu nẻo luân hồi, tử sinh vô tận. Một khi chưa vượt thoát được dòng thác hư huyễn ấy thì sự tìm đến cái chết vì nỗi khổ đau bệnh tật hiện tại nào có ích chi, nếu không muốn nói đó là cách mở cửa đi vào địa ngục. Vì thế, nhiệm vụ của người Phật tử khi đối biện với cận kề cái chết, hãy thực hành như lời Phật dạy: “Nếu mình là một Phật tử trí tuệ, muốn đến chỗ một Phật tử trí tuệ khác đang bị tật bệnh khốn khổ, thì đem ba pháp an tâm này mà truyền dạy cho họ; nói rằng: ‘Này bạn! Hãy thành tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với Phật, đối với Pháp, Tăng.’ “Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong, lại nên hỏi rằng: ‘Bạn có quyến luyến cha mẹ không?’ Nếu người kia có quyến luyến cha mẹ, thì nên dạy buông xả và nên nói rằng: ‘Nếu bạn quyến luyến cha mẹ mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’ Nếu người kia nói không có quyến luyến cha mẹ thì nên tùy hỷ khuyến thiện và hỏi thêm rằng: ‘Đối với vợ con, nô bộc, tiền của cùng mọi vật bạn có quyến luyến không?’ Nếu nói quyến luyến thì nên khuyên buông xả, như pháp xả sự quyến luyến cha mẹ. Nếu nói không quyến luyến, thì tùy hỷ khuyến thiện và hỏi nữa: ‘Đối với ngũ dục thế gian bạn có luyến tiếc không?’ Nếu họ nói luyến tiếc, thì nên giải thích là ngũ dục thế gian là chỗ xấu xa, bất tịnh, bại hoại, hôi hám, không giống như ngũ dục thắng diệu cõi trời. Hãy khuyên kia lìa bỏ ngũ dục thế gian và quyết mong ngũ dục cõi trời. Nếu người kia nói tâm đã xa lìa ngũ dục thế gian và trước đã nghĩ đến dục thắng diệu cõi trời, thì tùy hỷ khuyến thiện và lại nói với họ rằng: ‘Ngũ dục thắng diệu cõi trời, là pháp vô thường, khổ, không, biến hoại. Chư Thiên cõi trời có thân tướng thù thắng hơn ngũ dục cõi trời.’ Nếu kia nói đã bỏ nghĩ đến dục cõi trời và chỉ nghĩ đến thân tướng hơn ngũ dục, thì cũng tùy hỷ khuyến thiện và lại nói với rằng: ‘Dục của hữu thân cũng lại là pháp vô thường, biến hoại, chỉ có sự an lạc của xuất ly, là Niết-bàn với sự diệt tận của các hành. Nhân giả nên lìa bỏ sự mê luyến nơi hữu thân, mà nên vui cái vui Niết-bàn vắng lặng, tối thượng, thù thắng” (Kinh Tạp A-hàm). Đó là cách thăm bệnh và nuôi bệnh của người Phật tử. Một cách tổng quát, khi có một người không may mang bệnh nan y, chúng ta phải tìm mọi cách để “khai thị” cho người đó thấy được bản chất không thật, hư dối, tạm bợ của cuộc đời như trăng nơi đáy nước, bóng mình trong gương, như ánh lửa khí nhiệt bốc, như tiếng vọng của lời gọi, như mây nổi trong bầu trời, như đám bọt nước… và khuyên họ hãy buông xả tất cả mọi tâm niệm chấp thủ cái tôi, của tôi; hướng họ về cảnh giới an lành của Tịnh độ A Di Đà, khuyên họ phát nguyện vãng sinh về đó bằng cách niệm hay phát khởi ý tưởng về Phật A Di Đà và cõi giới của Ngài, thì không cần cổ máy “mercitrin”, người mang bệnh nan y dù mấy, nếu thật sự không qua khỏi, cũng nhẹ nhàng ra đi. Tóm lại, đạo Phật không đồng tình với việc sử dụng hệ thống “mercitron”, cũng không níu kéo sự sống trong trạng thái nằm chờ chết, mà bằng mọi cách, mọi phương pháp làm cho bệnh nhân được “giác ngộ” trước khi chết. Và điều này có được áp dụng hay không còn tùy thuộc vào quá trình nhận thức và khả năng “giác ngộ” của nhân loại về vấn đề sống chết, cũng như về đạo Phật. chuavanhanh
-
Những bức tượng dị hợm!