-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Tôi khẳng định với bạn năm nay hoặc sang năm điều lo lắng của bạn sẽ chẳng bao giờ xảy ra, tôi được quẻ Kinh tiểu Cát cho câu hỏi của bạn, thậm chí sẽ có điều bất ngờ đem đến niềm vui sự an lành cho bản mệnh của Mẹ bạn. Quẻ độn Khai Vô Vong càng xác tín thêm điều tôi đoán cho bạn tuy nhiên Nội khắc Ngoại vẫn không hạnh thông do ảnh hưởng của Kinh nên chủ về sự lo lắng vẫn còn vì vậy để cũng cố cho sự bình yên bạn nên làm Từ thiện hoặc giải hạn cho Mẹ.
-
Wildlavender cũng cám ơn Voi con nhiều nhiều nha! Voi con nhờ các Cô các Chú khác hỏng nhờ Wild hử? Wildlavender cũng thuộc thế hệ 5x rùi! thông bạch rõ ràng thiếu một số 5 nữa là Wild thành thuốc lá ba số rùi!
-
Theo phép tính Sinh, lão, bệnh, tử. Tôi chọn CHÁNH QUÂN còn lại yếu tố khác tùy bạn quyết.
-
Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn) của Famix đóng góp cho Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có. 9,350,000đ + 500,000đ=9,850,000 đ(chín triêu tám trăm năm mươi ngàn đồng)
-
-
Rau tía tô, vị thuốc chữa nhiều bệnh Tía tô còn có các tên é tía. Tên Hán tử tô, xích tô (gọi là tử, xích tía vì cây có màu tím). Tía tô tính ấm, vị cay, vào 3 kinh phế - tâm - tỳ, không độc. Lá là rau thơm gia vị rất phổ biến đồng thời là vị thuốc rất hay dùng, để trừ cảm mạo. Hạt làm trà uống và thuốc hạ khí, cành làm thuốc an thai. Chữa cảm mạoXông: Lấy lá tía tô cùng các lá thơm khác tạo thành nồi lá xông và lau rửa. Nếu lá được rửa sạch kỹ thì có thể lấy ra một bát để uống trước hay sau khi xông. Xông xong lau khô mồ hôi cả người đắp chăn nằm nghỉ. Nhớ nước sôi mới cho lá xông vào nồi - đậy vung kín và khi xông mở vung. Cháo tía tô: Nấu cháo gạo tẻ cho ra bát, trộn lá tía tô non thái chỉ. Ăn nóng. Có thể thêm hành. Xông xong nằm nghỉ một lúc dậy ăn bát cháo giải cảm này là phương pháp giải cảm lạnh dân gian rất có hiệu nghiệm. Uống nước tía tô: Có 2 cách. Tía tô tươi 15 - 20g giã nát, chế nước sôi gạn nước trong để uống. Hoặc lá tía tô khô hãm nước sôi uống. Uống xong đi nằm đắp chăn. Hai cách này dùng cho trẻ em người già yếu. Ngâm chân: Dùng lượng lớn lá tía tô bỏ vào nồi nước đang sôi để sôi lại, đổ ra chậu đậy bằng một cái rổ thưa, đặt 2 bàn chân lên xông. Khi nước nguội cho 2 chân vào ngâm rửa... Bài thuốc Hương tô tán: Chữa cảm mạo phong hàn, sốt, gai rét, đau đầu, tức ngực. Lá tía tô 8g, hương phụ 8g, trần bì 6g, cam thảo 4g. Gừng 2 lát, sắc nước uống. Có thể kết hợp "nồi xông". Có thai bị cảm mạo: Tía tô, kinh giới, mỗi thứ 1 nắm lá cho 2 bát nước sắc còn 1 bát uống ấm. Tiếp đó cho ăn cháo nóng, có đập vào bát 1 quả trứng gà tươi (có trứng gà đen càng tốt). Cảm mạo: Lá tía tô 1 nắm, vỏ quýt khô lâu năm 1 cái, gừng 3 lát. Đun nước sôi rồi cho 3 thứ vào, đun lại cho sôi, uống nóng. Nếu khó uống cho ít đường phèn. Bài này thích hợp khi bệnh nhân có nôn mửa, đau bụng. Chữa ho, hen, đàm suyễn tức ngực, khó thở Cho người già yếu: Tía tô bổ hư, giáng khí dùng cho trường hợp khó thở ở trẻ em, người già, người có thai vừa hiệu quả, vừa an toàn. Do ngoại cảm phong hàn: Có viêm đường hô hấp dùng bài Tam tử dưỡng thân thang. Tô tử (hạt tía tô) 6-12g, la bạc tử (hạt cải củ) 8-12g, bạch giới tử 6-8g (hạt cải bẹ trắng). Thương hàn ho suyễn: 1 nắm lá tía tô nấu nước uống dần (Thiên kim phương). Người lớn tuổi hay thở suyễn, đuối hơi: Hạt tía tô 1 lạng, sao qua tán bột, đổ 2 bát nước vào quấy đều, lọc bỏ bã. Nấu cháo ăn lúc đói. "Rất hay" (Nam dược thần hiệu). Trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái - Hạt tía tô 20g tán thành bột, hoà với nước đun sôi để còn âm ấm, lọc bỏ bã cho uống. Cẩn thận hơn thì cho bột vào túi vải hãm vào nước sôi. Hoặc lấy bột này hoà vào cháo, hãm vào nước sôi hoặc hoà vào nước cơm cho trẻ uống. Ho tuổi già (lão khái) ho nhiều đờm đặc, khó thở (viêm phế quản mạn tính). Nếu không phải do phong hàn và bệnh khác thì dùng thang "Tam tử phụng mẫu" gồm có tô tử, lai phục tử, xuyên bối mẫu mỗi vị 8gam và bạch giới tử 2g. Sắc uống nóng. Ho suyễn do phế hư hoặc đàm trắng đục dính, nặng ngực: Dùng phương "Tử tô tử tửu" (Y tiện) hạt tía tô 90g, rượu 1 lít. Hạt tía tô sao thơm tán bột ngâm rượu gạo ngon trong 10 hôm chắt lấy nước trong bỏ bã. Uống mỗi lần 15-30ml. Ngày 3 lần sáng trưa tối (Nếu ho đàm vàng, cổ khô, miệng khát, môi đỏ không dùng). Chữa ngộ độc, mẩn ngứa Ngộ độc thức ăn: Đau bụng đi ngoài, nôn mửa do ăn các loại thức ăn như cua cá. Lá tía tô đủ dùng giã lấy nước cốt để uống: Nếu có ngứa nổi mẩn (dị ứng) thì lấy bã đã sắc hoặc lá tươi xoa xát. Tử tô giải độc thang: Lá tía tô 10g, gừng tươi 8g, sinh cam thảo 2g. Nước 600ml sắc còn 200ml chia 2-3 lần trong ngày - uống nóng. Táo bón người già suy nhược: Hạt tía tô, hạt me lượng bằng nhau giã nhuyễn cho nước lắng lấy nước nấu chín. Hạt tía tô, hạt vừng đều 10g, giã nhuyễn cho nước lấy nước nấu cháo, bài này được dùng cả khi táo bón do ung thư ruột. Da mẩn ngứa, mụn cóc: Dùng lá tía tô xoa xát trực tiếp hoặc nghiền nhuyễn cho vào túi vải mà xoa xát. Ngoài ra, tía tô còn dùng để chữa một số bệnh sau: Viêm họng, răng, miệng: Dùng lá tía tô sắc nước súc miệng, ngậm và uống. Nấc liên tục và tiếng to: Dùng hạt tía tô khoảng 30g - 40g sao vàng sắc nước uống liên tục. Hoặc lấy hạt tía tô đã sao, tán nhỏ nước rồi để lắng lấy phần nước trong (bỏ bã) để nấu cháo ăn thường xuyên. Hóa đàm giáng khí, chữa nấc liên tục: Dùng cháo tô tử: tô tử hạt 20g xay nhuyễn như hồ cho nước vào rồi ép lấy nước để nấu cháo gạo tẻ 100g. Cháo được quấy với đường phèn để ăn. Không dùng cho người có tiêu chảy. Tiểu tiện không thông thoát (mãn tính): Uống nước cốt lá tía tô tươi hoặc sắc nước lá tía tô khô. Sao nóng lá tía tô tươi hoặc khô với muối hạt xoa đắp vùng bụng dưới (vùng bàng quang). Hoặc nấu nước lá tía tô đổ vào chậu úp rổ ngồi lên xông. Thổ huyết: Dùng lá tía tô nấu kỹ lọc lấy nước cốt cô thành cao. Đậu đỏ sao chín, tán nhỏ, luyện với cao ích mẫu thành viên nhỏ. Mỗi lần uống 30-50g với ít rượu. Theo Phó Đức Thuần
-
Tổng quan cuộc đời dài lắm bạn ạ! Hỏi điều gì chủ lực thôi, làm sao các Bác có thời gian giúp bạn! cần cung cấp thêm chi tiết những vận và hạn mình trãi qua nữa chứ!
-
Thật đáng quan tâm có thể đây cũng là mật ngữ Cổ ! Cám ơn bạn về bài viết này.
-
Tinh thần vững cũng là yếu tố nâng thể lực tạo cảm giác yên lành cho cả thai nhi bạn ạh!
-
Hy vọng Bộ phận kỷ thuật quan tâm vấn đề này !
-
Đồng ý với cách đặt vấn đề của Thế Trung .
-
Quẻ này Tốt nhất trong năm đấy Rin ạ !
-
Nhiều người đúng và gặp trừong hợp mình trong đấy! Giải trí có lý !
-
Đây là một đề tài rất hấp dẫn mà sao không thấy ai bàn tiếp vậy ta?
-
Tìm giải pháp bảo tồn nghệ thuật hát Xoan Bộ VH-TT-DL vừa phối hợp với UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức hội thảo khoa học quốc tế nhằm khẳng định giá trị khoa học, nghệ thuật và sức lan tỏa của hát Xoan Phú Thọ. Hát Xoan còn có tên gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), đây là lối hát thờ thần, tương truyền có từ thời các Vua Hùng. Hội hát Xoan thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới. Các tham luận tham dự hội thảo một lần nữa khẳng định hát Xoan là một di sản văn hóa độc đáo, giá trị, nhưng đang đứng trước nguy cơ mai một cần có biện pháp bảo vệ. Hội thảo cũng là cơ sở để Phú Thọ hoàn chỉnh hồ sơ, đề nghị UNESCO công nhận hát Xoan là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Theo V.Xuân (SGGP)
-
Bạn nhầm làm mình theo! Hi! Xin lỗi Ngư Hóa Long nhé!
-
Những phát hiện lớn nhất của ngành khảo cổ năm 2009 19/01/2010 09:55 (GMT +7)Kho báu Staffordshire Hoard, cây sáo bằng xương, quan tài thời đại đồ đồng hay những sợi lanh cổ nhất..., đó là những phát hiện lớn nhất của các nhà khảo cổ trong năm 2009.Kho báu Staffordshire Hoard Với giá trị khổng lồ lên đến hàng tỉ USD, kho báu Staffordshire (Anh) - một phát hiện quý giá gồm 1.600 đồ châu báu Anglo Saxon thế kỷ VII, trong đó bao gồm những quả táo chuôi gươm, đồ trang sức và thánh giá được chuyên gia dò kim loại Terry Herbert khám phá vào tháng 7/2009, chôn giấu tại một cánh đồng ở West Midlands. Đây được coi là bộ sưu tập giá trị nhất và lớn nhất cùng loại được khám phá từ lòng đất. Các món đồ sẽ được trưng bày tại Nhà Bảo tàng nước Anh cho đến tháng 2/2010. Sau đó, toàn bộ số hiện vật được bán cho Birmingham Museum and Art Galley và Potteries Museum and Art Gallery ở Stoke. Cây sáo bằng xương và pho tiểu tượng tình ái ở Hohle Fels Đồ vật được khám phá trong hang Hohle Fels ở dãy núi Swabian Alb của nước Đức và được tiết lộ trên thế giới trong năm 2009. Cả hai cổ vật giúp giới khoa học có cái nhìn sâu xa hơn về những cư dân sống trong hang thời kỳ hậu đồ đá cũ (cách đây từ 40.000 đến 14.000 năm) hơn sự hiểu biết trước đây. Đồ tạo tác đầu tiên là bức tượng tình ái nhỏ thể hiện bộ ngực nở nang của phụ nữ - được gọi là Thần Vệ nữ của Hohle Fels, có niên đại 35.000 - 40.000 năm tuổi. Bức tiểu tượng được coi là nghệ thuật thiêng liêng nhất và chắc chắn thuộc về hậu kỳ đồ đá cũ. Cây sáo nhỏ làm bằng xương chim được đánh giá là nhạc cụ cổ nhất thế giới được tìm thấy. Quan tài thời đại đồ đồng ở Forteviot Công việc di chuyển tấm đá sa thạch nặng 4 tấn ra khỏi cánh đồng gần Forteviot, ở Perthsire (Scotland) do nhóm chuyên gia khảo cổ và những người tình nguyện thực hiện trong tháng 8/2009 đã làm lộ ra một phòng mai táng nằm sâu dưới lòng đất được xây dựng từ thời đồ đồng, trong đó chứa một số dấu tích hữu cơ và kim loại được bảo quản kỹ. Người ta tin rằng căn phòng mai táng này là nơi yên nghỉ của giới quyền cao chức trọng ở Scotland thời kỳ đồ đồng. Thành phố đã mất BathoneaIstanbul là thành phố lớn nhất châu Âu và là 1 trong 5 thành phố lớn nhất thế giới, với dân số khoảng 13 triệu người. Do đó, khó tin nổi một điều là mãi cho đến năm 2009, người ta mới phát hiện ra dấu vết thành phố cổ mất tích từ rất lâu Bathonea cách Istanbul chỉ 20km, giữa một quang cảnh lịch sử rộng 8km. Địa điểm - có người ở đầu tiên cách đây 15 thiên niên kỷ - nằm ẩn bên dưới một cánh đồng, trên bờ hồ Kucukcekmece, ở phía tây Istanbul. Thành phố cổ có lẽ đã bị chìm một phần dưới nước. Một cái tháp được phát hiện giữa hồ nước được coi là di tích của ngọn hải đăng thành phố Bathonea. Nếu đúng như vậy thì đây là 1 trong 3 ngọn hải đăng của Roman được biết tồn tại ở đông Địa Trung Hải, và nó nằm gần hai ngọn hải đăng khác ở Alexandria và Patara.Những sợi lanh cổ nhất thế giới Những sợi lanh nhỏ này - có tuổi 34.000 năm và do nhóm khảo cổ học Đại học Harvard khám phá trong một hang động ở dãy Kavkaz thuộc nước Cộng hòa Gruzia - là bằng chứng cho thấy nỗ lực đầu tiên của con người nhằm chế tạo sợi dây từ tài nguyên thiên nhiên. Có điều, những sợi lanh này nhỏ đến mức khó có thể nhìn thấy bằng mắt thường - nhóm khảo cổ chỉ tìm thấy chúng khi sử dụng kính hiển vi nghiên cứu những mẫu đất sét. Những sợi lanh này được cắt, xoắn và nhuộm màu - có lẽ để làm ra quần áo hay thúng giỏ. Ofer Bar-Yosef, lãnh đạo nhóm khảo cổ, nói số sợi lanh này thể hiện bằng chứng về "sáng chế mang tính quyết định của người tiền sử".Vũ khí hóa học sơ khai nhất Vũ khí hóa học không là thứ mà chỉ có con người hiện đại sở hữu. Tháng 1/2009, nhà khảo cổ Simon James ở Đại học Leicester ngờ rằng 20 người lính Roman bị giết chết bởi khi bảo vệ thành phố pháo đài Dura (nay là Dura-Europos) ở phía đông sa mạc Syria chính là những nạn nhân đầu tiên trong lịch sử bị tấn công bằng khí độc. Những người lính này nằm chết trong con đường hầm bị sập và trong cơ thể họ có dấu vết của hóa chất và tinh thể sulphur. Simon James tin rằng những người lính trong đường hầm chết do hít phải khí độc sulphur dioxide. Ida - mắt xích bị mấtIda - một hóa thạch có 47 triệu năm tuổi - được khám phá cách đây nhiều thập niên, năm 1983, tại Messel Pit, miền đông nam Frankfurt am Main (Đức). Nhưng mãi cho đến tháng 5/2009 nó mới được tiết lộ với thế giới và sau đó được coi là "mắt xích bị mất" trong quá trình tiến hóa của con người. Động vật linh trưởng nhỏ này được bàn tán sôi nổi trên khắp thế giới. Nhà cổ sinh vật học Na Uy Jorn Hurum - người mua Ida với giá 1 triệu USD từ một người mà ông gặp trong một quán rượu vodka ở Hamburg - tin rằng Ida là tổ tiên ban đầu của loài khỉ, khỉ không đuôi và con người. Các chuyên gia khác không đồng ý và họ lập luận rằng Ida thật ra có nguồn gốc từ một nhánh của sự tiến hóa đã kết thúc từ lâu và không quan trọng. Khán đài vòng Hoàng đế ở Portus Địa điểm khảo cổ ở Portus tiết lộ nhiều di tích quan trọng trong năm 2009. Trong số đó là một khán đài vòng (amphitheatre) to lớn và sang trọng mà có lẽ dành riêng cho các hoàng đế La Mã ngày xưa. Đây là phát hiện của nhóm chuyên gia khảo cổ Đại học Southampton. Quân đội Cambyses đã mấtTháng 11/2009, hai anh em chuyên gia khảo cổ người Italia - Angelo và Alfredo Castiglioni - tuyên bố họ đã xác định được vị trí của những hài cốt người, công cụ và vũ khí gần ốc đảo Siwa ở Ai Cập. Số hài cốt này được cho là của quân đội Ba Tư do Vua Cambyses thống lãnh bị bão cát tấn công và mất tích mãi mãi. Hai anh em nhà khảo cổ cho biết họ tiết lộ thông tin thông qua một phim tài liệu hơn là trên mặt báo khoa học. Nhưng những nghiên cứu xa hơn cho thấy rằng hai anh em Castiglioni thật ra đã tìm thấy những hài cốt của đội quân bị biến mất một cách bí mật của Cambyses Theo An An
-
Thông tin gì mà nguội thế này ?
-
Đồng Tháp: Xây nhà lầu để… chôn người chết SGTT - Cuối năm 2009 một hãng tin nước ngoài đăng ảnh nông dân Đồng Tháp sống trên nhà sàn, xây mộ người thân trên sàn bêtông cốt thép thật cao, rồi kết luận nông dân xứ này đã biết cách ứng phó với chuyện nước dâng do biến đổi khí hậu, nhiều người cười ra nước mắt. Bà Nguyễn Thị Phải, 63 tuổi, nông dân ở ấp 3 xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, kể lại chuyện xây ngôi mộ đặc biệt cho chồng là ông Nguyễn Văn Hai, như sau: “Vợ chồng tui quê gốc ở vùng Tân Hội, Cai Lậy, Tiền Giang, đến xứ này lập nghiệp đã hơn 20 năm. Trải qua những trận lụt kinh hoàng năm 1996, 2000, 2001, chứng kiến không biết bao nhiêu người qua đời trong mùa nước nổi không có chỗ chôn thân, phải xóc cây gác quan tài ngoài đồng xa chờ nước rút để đào huyệt; những nhà có đất gò, đào được huyệt thì nước cũng tràn vào lênh láng, quan tài chìm trong nước lạnh, tui với ổng sợ quá. Xứ này một năm nước ngập trắng đồng 4 – 5 tháng, nên hai vợ chồng tui bàn nhau, dù nghèo hèn cũng thể, khi chết dứt khoát không ai được vùi thân dưới nước, lạnh lắm, nên năm 2004 bèn gom góp tiền bạc mướn thợ đào móng, xây cột, đổ tấm sàn bêtông cốt sắt cao hơn mặt nước để làm nơi an nghỉ. Ai cũng tưởng vợ chồng tui xây nhà, khi biết tui xây chỗ để đặt mộ, thiên hạ cười ngất”. Cuối năm 2005, ông Hai qua đời, bà Phải đặt mộ ông trên sàn bêtông cao 5m, kế bên còn chừa một chỗ cho bà nằm, thiên hạ kéo đến xem nườm nượp. “Mấy năm nay làm ăn khá, tui và các con kêu người bơm cát vô chỗ ngôi mộ cho bằng mặt, dự định xây cái nhà mồ thật đẹp cho ổng, hết sợ nước ngập”, bà Phải chỉ cho chúng tôi xem ngôi mộ trên sàn đang được bơm cát san lấp mặt bằng, nói. Ngôi mộ trên sàn bêtông của ông Nguyễn Văn Hai sau năm năm chống chọi với nước nổi, nay được san nền Ông Nguyễn Văn Sơn (Sáu Sơn) thợ hồ ở ấp 3 thị trấn Tràm Chim, huyện Tam Nông, cho biết từ khi có ngôi mộ trên sàn bêtông của gia đình bà Phải, những năm qua ông đã xây rất nhiều ngôi mộ tương tự khắp địa bàn hai huyện Tam Nông, Thanh Bình. “Nhiều nơi, người ta thuê thợ xây một cái sàn rất lớn để đặt được nhiều ngôi mộ. Những người có tiền như ông Hai Minh ở ấp 3 thị trấn Tràm Chim, không xây sàn bêtông mà xây luôn một cái bệ kiên cố cao hơn 3m để đặt mộ cha mẹ. Xây mộ trên sàn để thi thể người thân không bị ngâm trong nước lụt, chớ nông dân tụi tui có biết gì về biến đổi khí hậu?”, ông Sơn nói. Những người có thẩm quyền ở tỉnh Đồng Tháp cho biết, từ xưa mùa nước nổi ở vùng này kéo dài năm tháng trong năm, hơn 2/3 diện tích bị chìm trong nước, nhiều nơi bị ngập sâu hơn 2m, nên phần lớn dân cư đều sinh sống trên nhà sàn. Việc mai táng người chết trong mùa nước nổi rất khó khăn, nên những năm gần đây người dân nảy ra sáng kiến xây sàn bêtông cao hơn mặt nước để chôn cất người chết, chứ không liên quan gì đến chuyện ứng phó với nước dâng do biến đổi khí hậu. Ông Lê Chiến Thắng, phó chi cục trưởng chi cục Quản lý đất đai thuộc sở Tài nguyên và môi trường Đồng Tháp, cho biết toàn tỉnh có 185ha đất nghĩa trang, trong đó có nhiều nghĩa trang nhân dân ở các huyện, nên việc mai táng người chết trong mùa nước nổi cũng không còn quá khó khăn như ngày xưa. Tuy nhiên, tập quán của nông dân là thích chôn cất người thân ở đất nhà chứ không muốn mang ra nghĩa trang, nên họ chọn cách xây sàn bêtông cao hơn mặt nước để đặt mộ. “Hiện nay việc xây mộ trên sàn đang khá phổ biến, chưa ai thống kê số mộ này, các ngành chức năng cũng chưa nói gì về chuyện hay dở, đúng sai. Nhưng có thể nói đây là một cách thích nghi với mùa nước nổi hàng năm của nhà nông, gán ghép việc này với vấn đề biến đổi khí hậu thì… khiên cưỡng quá”, ông Thắng nói. bài và ảnh Hùng Anh sgtt.com.vn
-
Mình nên đóng Tạm Thời Topic này ! Để các tv khác khỏi trông chờ tư vấn tự động họ sẽ tìm shop khác thôi!
-
LÀM PHIM VIỆT TRÊN ĐẤT TRUNG HOA Bộ phim Lý Công Uẩn – đường tới thành Thăng Long (*) sẽ được khởi quay tại trường quay Hoành Điếm, Chiết Giang, Trung Quốc vào đầu năm 2010 này. Phan Cẩm Thượng, hoạ sĩ, nhà phê bình mỹ thuật được mời tham gia đoàn làm phim với tư cách cố vấn văn hoá. Ông đã ghi lại những chuyện mắt thấy tai nghe trong những ngày trên đất Trung Hoa qua loạt ký sự nhiều kỳ dành cho Sài Gòn Tiếp Thị. Kỳ 1: Hoa mai trong tuyết Sau lần thất bại của hãng phim truyện Việt Nam, phim Lý Công Uẩn – đường tới thành Thăng Long được dự định quay ở Hoành Điếm, Hàng Châu (Trung Quốc). Ngày 13.12.2009 thì chúng tôi khởi hành. Từ Hà Nội, Lạng Sơn, rồi qua vài thủ tục, sang đất Bằng Tường, Trung Quốc. Những chiếc xe chở thuê cơ động đưa khách ra bến bãi với giá 50 tệ/người và nhiều người Tàu bán hàng, đổi tiền, chụp ảnh lởn vởn. Từ đây đi xe về Nam Ninh hơn hai tiếng rưỡi, chúng tôi nghỉ tạm ở một trạm bán vé xe ôtô và xe lửa, kiêm hàng ăn, khách sạn. Người Trung Quốc đã có bữa tiệc khoản đãi. 8 giờ 30 lên tàu chạy hai đêm một ngày thì tới thành phố nhỏ Nghĩa Ô cách Hàng Châu hơn 100km, cách Hoành Điếm cũng như vậy. Khung cảnh trong trường quay Hoành Điếm, lâu đài cung điện được dựng lên phục vụ cho ngành công nghiệp điện ảnh. Con sông trong ảnh chính là mô phỏng sông Biện dẫn vào thành Khai Phong, kinh đô cổ Trung Quốc đời Tống. Tàu chạy qua Quảng Tây, Giang Tây rồi đến Chiết Giang, nông thôn Trung Quốc hiện ra ven đường cũng lộn xộn và ô nhiễm như bên ta. Tàu lửa Trung Quốc, nói chung ngăn nắp, nhưng lên ga xuống ga và lên xuống tàu phải leo trèo tương đối vất vả, bởi có nhiều tuyến khác nhau. Bạn phải đi lên cao, hoặc chui xuống hầm rồi đến đúng đường tàu của mình, nhưng không có thang máy. Khổ nhất là với du khách có nhiều đồ, nông dân gồng gánh. Cách thức này có lẽ để hạn chế người ta mang quá nhiều hàng cồng kềnh lên tàu. Vệ sinh trên tàu cũng kém, nhà vệ sinh luôn đông nghịt, xếp hàng cả tiếng đồng hồ, nhiều người hút thuốc bừa bãi trong toa kín khá khó chịu, nước thì lạnh ngắt như đá. Nghĩa Ô, thành phố xinh xắn hiện ra lúc 2 giờ đêm, rồi từ đó chúng tôi chạy một mạch về Hoành Điếm chừng hơn một giờ ôtô. “Nhất bản vạn lợi” Nếu mới đến Hoành Điếm không thể hình dung quy mô và đời sống của nó như thế nào. Đây là một thung lũng lớn nằm giữa những dãy núi cao bao bọc cả một khu vực Giang Nam cổ. Trước kia thuần nông nghiệp, Hoành Điếm nghèo nàn nhưng có vẻ đẹp của thời thái cổ. Một đạo diễn ở đây nhận thấy điện ảnh là một ngành công nghiệp tổng hợp, bèn xắn tay đầu tư xây dựng khu trường quay này khi mới chừng 30 tuổi và làm thay đổi toàn bộ nơi đây. Nhiều khu vực theo các phong cách kiến trúc phong kiến, cận đại và hiện đại Trung Quốc được xây dựng, riêng khu Cố Cung, Tử Cấm thành mô phỏng như tại Bắc Kinh, theo người ta nói, bằng 1/3 tỷ lệ thật, đấy là quy mô, còn các công trình cụ thể thì tương đương. Trong đó có cả một trường cưỡi ngựa bắn cung với hàng trăm con ngựa chiến to cao, mà các diễn viên Việt Nam đang luyện tập. Chúng tôi ở khu Biện Kinh cũng là tên của thành Khai Phong, kinh đô nhà Tống, nên con phố trước mặt là Thanh minh thượng hà đồ, lấy theo tên bức hoạ của Trương Trạch Đoan, hoạ sĩ Bắc Tống, vẽ cảnh tiết thanh minh trên sông Biện dẫn vào thành Khai Phong đương thời. Đã có quay phim thì phải có khách sạn cho du khách và đoàn phim, và các xưởng sản xuất đạo cụ. Không biết hàng ngày có bao nhiêu du khách nhưng vé vào từng khu từ 80 – 100 tệ, không rẻ tí nào, và hôm qua có đến 30 đoàn làm phim cùng quay một lúc, mỗi đoàn có hàng trăm diễn viên, ăn ở đi lại nhộn nhịp. Khách sạn ở đây khá thô sơ, chỉ để ngủ là chính, còn mọi dịch vụ không có gì, cơm ăn là cơm bụi bán theo dạng cơm hộp của các nhà ăn ngoài phố. Tuy nhiên đáng nói nhất là các công xưởng đạo cụ. Bước chân tới đó mới thấy sự giàu có và mạnh tay của các thương gia Trung Quốc. Chúng tôi được hoạ sĩ vẽ phối cảnh Lý Vĩnh Hồng dẫn đi chọn đạo cụ, hôm vừa đến một xưởng to bằng cả sân bóng, với nhiều kho tàng. Một bộ sưu tập xe ôtô còn chạy được từ đầu thế kỷ đến nay vài ba chục chiếc, hàng trăm bộ bàn ghế theo phong cách các thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh được làm thật, nhưng chỉ để cho thuê. Còn các đồ linh tinh khác thì vô kể. Kỹ nghệ làm đồ giả quay phim cũng đáng nể, tức là trông thì biết ngay là giả, với chất liệu xi măng, xốp, nhựa, nhưng lên hình ảnh nom như thật. Các xưởng may trang phục bạt ngàn. Đẹp nhất là các bộ giáp trụ cầu kỳ, giá tới 5.000 tệ/bộ. Bộ phim Lý Công Uẩn có lẽ dùng tới 300 bộ phục trang may mới, và thuê hơn 700 bộ. Đây cũng là cái mà người Trung Hoa sẽ nhất bản vạn lợi từ các đoàn làm phim, như nước ta. Khoảng cách giàu nghèo Tác giả đứng trước một xe ngựa cổ phục chế. Quanh Hoành Điếm, kề cận các vùng dân cư Giang Nam, nông thôn cổ truyền đã biến đổi hoàn toàn, chỉ còn lác đác vài nhà cổ bằng đất đắp và lợp ngói âm dương xen lẫn những nhà gạch. Người Trung Quốc nhìn chung có đất rộng hơn người nông dân Việt, nên khi xây nhà mới cũng to hơn. Song cũng như nông dân Việt, họ chẳng biết xây kiểu nào cho đẹp, mà phần lớn lấy mẫu từ lối nhà tập thể cao tầng xây cho gia đình mình. Bởi thế, trông từ xa những thôn làng lại tưởng là một khu chung cư nào đó. Thoạt tiên là xây luôn lên ba, bốn tầng bằng gạch trần, sau đó khi có tiền mới ốp gạch men trắng ra ngoài, nhiều nhà cứ để gạch trần nhiều năm trời. Cũng có nhiều nhà tập thể, nhưng lại là chia cho nông dân khi quy hoạch đất. Tầng dưới cùng để bán hàng, sản xuất và công xưởng rất rộng. Mỗi thôn làng quy hoạch khu dân cư khá ngăn nắp. Tất cả các nhà đều quay về một hướng, xen kẽ là đường đi, còn đường quốc lộ rất tốt. Môi trường nông thôn cũng ô nhiễm không kém gì ta, nhiều dòng sông tắc nghẽn đầy rác rưởi, nhiều khu rừng bị phá tan hoang và tất nhiên văn hoá truyền thống cũng tan rã dường như hoàn toàn ở nông thôn. Các doanh nghiệp tư nhân chiếm quá nhiều đất, khiến ruộng nương thu hẹp trông thấy. Ruộng đồng nhiều nơi xác xơ, nhất là trong mùa đông dường như không canh tác được gì. Những khuôn mặt cụ già mệt mỏi như vẫn thường thấy ở Trung Hoa hàng ngàn năm qua, những người nông dân ra thành phố kiếm việc làm nhếch nhác vô cùng, co ro bên các chảo thức ăn ở xó nhà chủ. Đền miếu cổ kính chỗ nào làm du lịch thì được chăm sóc tô vẽ không thể tưởng tượng được, chỗ nào ít giá trị du lịch thì hoang tàn đổ nát buồn bã. Sự phát triển tạo ra nhiều vực thẳm phân cách giàu và nghèo, truyền thống và hiện đại, no nê phè phỡn và bất hạnh đói rét… (*)Chủ nhiệm phim là Trịnh Văn Sơn (tác giả kịch bản), giám đốc công ty CP truyền thông Trường Thành, đạo diễn Cận Đức Mậu (Trung Quốc) và Tạ Huy Cường (Việt Nam),cố vấn kịch bản Kha Chương Hoà, hoạ sĩ Phạm Xuân Hải, hoạ sĩ phục trang Đoàn Thị Tình. bài và ảnh Phan Cẩm Thượng
-
Kỳ 3. Kỳ 3: Một thị trường toàn diện SGTT - Ở chung khách sạn, mà người Trung Quốc thường gọi là tửu điếm, mới thấy người Trung Quốc thực sự bước vào xã hội thị trường. Đoàn phim Việt Nam khi lấy cơm hộp ai nấy đều mang về phòng, diễn viên Trung Quốc đều ăn ngay tại chỗ ở ngoài hè. Sáng dậy, họ vén ngay rèm để ánh sáng chiếu vào nhà, và nếu viết lách cũng bật ít bóng điện. Khu trường quay Minh Thanh, Cố cung. Ảnh: Phạm Xuân Hải Thông thường khách sạn khi rút chìa khoá là điện cũng tắt, nhưng người Việt luôn sáng chế, đút ngay một miếng bìa vào lỗ điện thế là điện sáng bất cứ lúc nào, và khi ra khỏi phòng cứ để sáng choang và cả điều hoà, thậm chí tivi vẫn mở. Người Việt Nam vẫn chưa thực sự bước vào xã hội thị trường. Họ có thể tiết kiệm cái gì của mình, nhưng của công, tiền khách sạn đã mất tiền, cứ việc xài cho đã. Hôm nay võ sư đến huấn luyện cho các diễn viên lịch sử, nhưng 8 giờ 30 sáng, vẫn không thấy học trò nào… Nông dân làm dịch vụ Ở Biện Kinh tửu điếm này, nơi chúng tôi sống, muốn vào mạng phải mua thẻ 100 tệ/tháng. Muốn mua sim gọi điện cũng 100 tệ cho 200 phút gọi ở Trung Quốc và vài chục phút về nước, hết tiền là hết cả gọi lẫn nghe. Muốn có hai chìa khoá phòng, nộp 50 tệ. Nước nóng không có từ 12 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Hoành Điếm có nhiều khu trường quay và tham quan, vào mỗi khu giá vé từ 80 – 100 tệ. Nơi đây có thể coi là thành phố nhưng chưa có dịch vụ taxi, đi lại thông thường chỉ có xe ba bánh chạy dầu khét lẹt và chậm như rùa do những nông dân phục vụ. Trong cái giá lạnh chừng 0 đến âm 4 độ, họ bịt xe kín như cái ôtô và mặc chiếc áo bông bộ đội xanh dài đến quá đầu gối như thời cách mạng văn hoá. Chợ búa cũng chia rõ ràng, các cửa hàng sang trọng hàng hoá đắt hơn, chợ trời ban đêm rẻ hơn, nhưng chìm ngập trong gió hú và sương mù, cũng gần đó nhiều hàng ăn ngay nóng, cũng của nông dân bán. Nào bánh bao, thịt xiên các loại, cả các loại rau quả và tôm cá xiên nóng hổi và hấp dẫn. Khi bạn ăn xong chủ hàng còn tặng cho một quả chuối. Người Trung Quốc nhẫn nại trong cuộc sống của mình, họ luôn cười trước mọi biểu hiện của khách hàng. Đã là thị trường phải có người tiêu dùng, và chiếm lấy lòng người tiêu dùng, để móc hết hầu bao của họ mà vẫn vui vẻ, thế mới là bán hàng. Thị trường Trung Quốc cũng có những cao chiêu nhất định, đó là sự kết hợp giữa tiết kiệm năng lượng và tạo cảm giác khâm phục văn hoá và kỹ nghệ Trung Quốc. Từ trước tôi vẫn thắc mắc tại sao lớp bình dân Trung Quốc lại nấu ăn trên mỗi một cái chảo? Cái chảo này được đun nóng để đỏ lên, đưa thức ăn gì vào cũng chín rất nhanh. Một bữa cơm bình dân sáu món ở miền tây, họ làm xong trong vòng 15 phút, có khi nhanh hơn. Người Trung Quốc từ thượng cổ rất thiếu năng lượng, họ không thể đun bếp dầm dề đến cả vài giờ đồng hồ như người Việt, dù là bếp gas hay bếp điện, bếp củi lại càng không. Nhiều thành phố không có xăng dầu, ôtô chạy bằng khí gas, còn người dân phổ biến dùng xe máy và xe đạp điện. Điều này cũng làm cho thành phố bớt ô nhiễm đi nhiều. Ga tàu, cửa hàng, thang máy hai chiều thường chỉ chạy chiều lên. Mùa đông cây cỏ khó mọc, nên thịt muối và rau củ muối, phơi khô rất thịnh. Các vùng núi phía tây còn khắc nghiệt hơn, nhiều nơi vẫn không làm nhà vệ sinh và không tắm quanh năm, nhất là các vùng núi giáp Tây Tạng và Tây Tạng. Ôtô khách có thể chạy 1.000km/đêm, nhiều du khách lang thang cứ đêm ngủ trên ôtô, ngày tới thăm một địa phương mới. Từ thượng cổ Trung Hoa đã là một nước đông dân, để có việc làm, có miếng ăn, ai nấy phải lành nghề, hơn nữa có độc chiêu. Những nghề độc chiêu chỉ truyền cho con cháu, vì thế mà gia tộc mới đời đời tồn tại. Người bán hàng ăn sáng ở Hà Nội cho đến ngày ông ta trở về nước, lạc vẫn giòn và thơm như vậy, vị phở, vị mì của người tàu ở bất cứ đâu hàng trăm năm không có gì khác. Đó chính là truyền thống và lòng tự trọng kinh doanh. Viên thuốc bé bằng 1/3 hạt đậu xanh, lại in ba chữ Lục thần hoàn lên trên, cho đến nay vẫn là bí mật của một hiệu thuốc. Người mẹ Trung Hoa bán hàng ở chợ. Ảnh: Phan Cẩm Thượng Lòng tin Ở Hoành Điếm này, tôi thấy mọi người mua táo ở chợ, chùi vào áo rồi ăn cả vỏ một cách ngon lành. Táo tàu ăn cả vỏ rất ngon. Thế nhưng những quả táo tàu xuất sang nước ta lại không thể ăn được như vậy, chúng đã được các thương gia ngâm thuốc bảo quản thực vật, nên ta thường phải ngâm nước lã hồi lâu, và ăn thì gọt vỏ. Nếu như chúng tôi thường không mua táo tàu ở nhà, thì sang đây thỉnh thoảng lại mua chén. Thị trường là như vậy, nó cần hoạt động bởi lòng tin, hình ảnh cô gái má đào Trung Hoa chùi quả táo vào áo và ăn luôn đó là biểu thị của lòng tin. Chỗ nào thiếu lòng tin, thì người ta cần đến sự can thiệp của chính phủ, như vụ sữa trẻ em chẳng hạn. Thị trường và con người trong thị trường cũng phát triển. Nhiều người Trung Hoa có thể chưa vừa lòng với nhiều chính sách nhà nước, nhưng cũng nói rằng hàng Trung Quốc rất tốt. Các diễn viên Trung Quốc ở cùng với chúng tôi, tập tành cả ngày, ý thức nghệ thuật rất chuyên nghiệp, không giống chút nào với diễn viên Việt. Tất nhiên điện ảnh của họ có nhiều mục tiêu vươn lên đỉnh cao sánh với Hollywood, diễn viên đóng bộ phim này thì nghĩ đến bộ phim khác quy mô hơn, đạo diễn nổi tiếng hơn, có thị trường lớn hơn. Chân núi có thể là bộ phim chiếu cho một đài truyền hình địa phương, nhưng đỉnh núi có thể là chiếu cho cả thế giới. Nghệ thuật của chúng ta đang đi ngang, nó đã từng không cần đến khán giả, không biết đến đỉnh cao, cho nên diễn viên có thể vẫn đóng hàng trăm tập phim mỗi năm, nhưng chưa bao giờ ước vọng làm phim cỡ thế giới. Vì thế họ không quá lo học tập, tiến bộ, đạo diễn nào cũng vậy, trường quay nào cũng vậy, kịch bản nào cũng vậy. Bước vào một êkíp và trường quay chuyên nghiệp là một thử thách, mà những ngôi sao cần dẹp bớt chút ánh sáng của mình. Điều mà các diễn viên cho bộ phim Lý Công Uẩn lần này đang va chạm, thử thách, ngay cả với những diễn viên kỳ cựu rất am hiểu văn hoá dân tộc của chúng ta. Ở Triết Giang đã có mưa tuyết nhẹ. Thoạt tiên là những cơn mưa lạnh ngắt, rồi những bông tuyết nhỏ nối theo mưa rơi xuống cũng tan ngay thành nước. Trời ẩm ướt và rét buốt. Khi cô phiên dịch kêu với anh hàng cơm tàu sao lại để thùng cơm cho người Trung Quốc lên bàn, và cho thùng cơm Việt Nam xuống đất, hôm sau anh ta cười và bảo: Tao đã cho cơm của chúng mày lên bàn rồi, và đây nhé cơm Trung Quốc dưới đất. Thực ra cái bàn rất hẹp, cái nọ lên bàn thì cái kia phải xuống đất thôi. Phan Cẩm Thượng
-
PARIS THỦ ĐÔ ÁNH SÁNG ...Trong ánh sáng rực rỡ của Paris về đêm, nhiều hoạ sĩ, không biết là chuyên nghiệp hay nghiệp dư vẫn miệt mài bên giá vẽ. Trong số họ, có ai sẽ trở thành Picasso, Toulouse-Lautrec… những thiên tài hội hoạ đã qua thủa hàn vi từ chính quảng trường này? Tôi không biết. Nhưng nhìn họ, tôi cảm nhận rất rõ cái hồn lãng tử rất nghệ sĩ của Paris. Một Paris hoàng tráng, một Paris lộng lẫy kiêu sa, một Paris diễm lệ của sắc đẹp và ánh sáng... Từ ngoại ô, chiếc xe con của anh bạn Việt kiều Pháp, hướng dẫn viên du lịch tự nguyện đưa chúng tôi đến thẳng trung tâm Paris. Dừng lại ngay trước Khải Hoàn Môn, anh khoát tay chỉ ra con đường rộng thênh thang nườm nượp xe cộ và cười: “Chào mừng các bạn đến với Paris. Trước mặt các bạn chính là đại lộ Champs-Élysées, một biểu tượng của Paris hoa lệ”. Tôi ngẩn người. Vậy là tôi đã chạm mặt Paris, xứ sở được mệnh danh là vùng đất của hoa hồng và bánh mì, kinh đô của ánh sáng và sắc đẹp, mà một trong những công trình vĩ đại của nó đang hiển hiện trước mắt tôi đây - đại lộ Champs Élysées. Con đường rộng 120m, dài, 1800m, 10 làn xe, lề đường rộng, hai bên có hai hàng cây cổ thụ cao vút, dãy cây xanh lớn ở giữa và hai tuyến xe chạy 2 bên, xây dựng từ thời Napoléon đệ tam, hiện ra đầy dáng vẻ hiện đại, khiến tôi choáng ngợp. Phảng phất trong Khải Hoàn Môn, được xây dựng vào năm 1848 theo lệnh của Napoléon đệ nhất dài 22m, rộng 48m, cao 49m, là cái hồn cốt của Paris, ngạo nghễ và quyền uy. Ấn tượng ấy càng được củng cố hơn khi chúng tôi đứng giữa quảng trường Ngôi sao. 12 trục đường toả ra từ quảng trường này, như 12 cánh hoa của một ngôi sao khổng lồ, tạo ra một trục cảnh quan mà tôi chưa từng được thấy. Anh bạn hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ bảo tôi: “cho đến nay, chưa có đô thị nào trên thế giới có một trục cảnh quan hoành tráng đến vậy. Rồi anh nói thêm: “Trục Đại lộ Champs Élysées, quảng trường Ngôi sao, Khải Hoàn Môn, quảng trường Concorde, trụ biểu Ai Cập, quảng trường Carrousel sẽ xuyên qua vườn Tuileries, chiếu thẳng tới điện Louvre. Có thể coi đây là cốt cách tinh thần của các đế chế Pháp” Đại lộ Champs Élysées Nhưng chừng ấy chưa phải là tất cả. Paris còn nhiều bộ mặt khác nhau mà bộ mặt nào cũng khiến du khách lần đầu tới đây phải kinh ngạc. Không khó để tìm thấy ở Paris, hình ảnh một đô thị đài các và vương giả của quá khứ. Tôi cảm nhận rất rõ điều đó khi chúng tôi lang thang đi bộ trong khuôn viên đẹp mê hồn của cung điện Versailles. Dường như các vị vua Pháp từ Louis 16, Francois 1, Louis 19… đều chú tâm xây dựng và mở mang Paris theo hướng này. Không thể không ngây ngất trước một Paris hoàng gia đầy vẻ quý phái với điện Louvre, lâu đài và vườn Luxembourg, cung điện Versailles. Kiến trúc Phục hưng Châu Âu, kiến trúc trúc đặc trưng Pháp, tổ chức không gian kiểu Hy Lạp, La Mã cổ, sự kết hợp tuyệt vời giữa kiến trúc, hội hoạ và điêu khắc càng làm nổi bật vẻ cao sang và quý phái của hoàng cung và giới thượng lưu Pháp một thời. Vẻ cao sang ấy còn được tôn lên bởi nét độc đáo khác của kiến trúc Hoàng gia: nghệ thuật vườn cảnh. Ai đến Paris mà không bị hớp hồn bởi màu sắc kỳ ảo của vườn Tuileries, vườn Versailles, vườn Champ-de-Mars? Còn tôi, đứng ở tâm khu vườn Luxembourg, đón ngọn gió mát rượi từ sông Seine thổi về, càng hiểu thêm niềm tự hào của người dân Paris về phong cách vườn hoàng gia Pháp, cái phong cách mà các loại vườn quý tộc của Italia hay vườn trại của giới vương giả Anh đều không có. Một phong cách độc nhất vô nhị. Ngày thứ hai ở Paris, chúng tôi được anh bạn ở ban tiếng Việt đài BBC dẫn đi vãn cảnh hai bờ sông Seine, nơi nuôi sống tâm hồn lãng mạn của thành phố hoa lệ vào bậc nhất trên thế giới này. Không chiêm ngưỡng sông Seine coi như chưa đến Paris, anh bạn tôi bảo vậy. Quả thật, khó có thể hình dung cuộc sống kinh thành Paris nếu thiếu dòng sông Seine. Hàng ngàn năm nay sông Seine vẫn luôn là trục phát triển và mở rộng của Paris. Con sông lững lờ uốn lượn nuôi dưỡng hồn vía lãng mạn của thành phố hoa lệ này có lưu vực rộng lớn tạo nên 5 vùng nông nghiệp trù phú và Paris là trung tâm. Lịch sử ghi lại rằng nơi đây 4000 năm trước vốn là một làng chài, được những cư dân tộc người Gôloa đặt viên đá định cư đầu tiên. Làng chài ấy nay là “cife”, đảo trung tâm của thủ đô Paris. Nhưng sông Seine không chỉ là biểu tượng của xây dựng và phát triển. Chảy qua khoảng không gian thơ mộng giữa lòng thành phố, sông Seine như nét vẽ tài hoa của một hoạ sĩ bậc thầy làm tăng thêm vẻ đẹp huyền ảo của Paris. Vẻ đẹp ấy, được huyền thoại hoá với nữ thần Seine, người đã đem mưa đến tưới mát cho một vùng đất khô hạn, hình thành nên sông Seine. Người ta gọi Paris là con gái của sông Seine là vì thế. Chính nữ thần Seine đã tạo ra những hòn đảo, thung lũng thơ mộng trên dòng sông Seine, chắp cánh cho những thiên tài nghệ thuật như Van Gogh, Degas,Gauguin… thành danh, xứng đáng là kinh đô văn hoá một thời của châu Âu và thế giới. Tháp Eiffel-một biểu tượng của Paris hiện đại Khám phá vẻ đẹp lộng lẫy của Paris không thể không nói đến những công trình kiến trúc độc đáo hai bên bờ sông, những điểm nhấn hết sức đặc biệt trong không gian đô thị của thành phố này. Nhà thờ Đức Bà Paris, điện Louvre, cung điện hoàng gia cổ kính soi bóng trên dòng sông Seine tạo ra một thế giới huyền hoặc như trong thần thoại, làm say lòng bất cứ ai chiêm ngưỡng nó, nhất là vào những buổi hoàng hôn. Những công trình ấy ghi dấu vào lịch sử kiến trúc nhân loại như một sắc diện kiến trúc đặc trưng Paris, lịch lãm và hoa lệ. Mang trong mình cảm giác đó, chúng tôi hoà vào nhóm các nghệ nhân trong những bộ trang phục cổ đang say sưa chơi đàn trước sân nhà thờ Đức Bà. Còn thấp thoáng đâu đây dáng chàng gù trong tiểu thuyết của Victo Huygo. Tôi ngửa mặt nhìn lên đỉnh nóc nhà thờ và bỗng thấy choáng ngợp vì sự kỳ vĩ của nó. Với kiến trúc Gôtic Paris, nhà thờ Đức Bà được coi là một kiệt tác không chỉ của riêng nước Pháp. Bắt đầu xây dựng từ năm 1163, được bồi đắp trong 200 năm, cơ bản hoàn thành vào thế kỷ 19, nhiều con số xây dựng khiến người ta thật sự kinh ngạc. Nhà thờ dài 130 m, rộng 50m, cao 45m, 3 tầng, được xây dựng bằng hàng ngàn viên đá tảng đẽo gọt rất công phu. Nhà thờ có 3 cửa, trong đó cửa chính dẫn vào đại sảnh giáo đường có thể đủ chỗ cho 9000 người dự lễ. Nghe nói nhiều hoàng đế nước Pháp trong đó có Napoléon đã được tấn phong tại đây. Chúng tôi lặng lẽ bước trên những viên đá cổ lát trên sân thánh đường mà cảm thấy hơi thở rất rõ hơi thở lịch sử của một dân tộc. Nhà thờ Đức bà Paris Giã từ vẻ đẹp nguy nga của những đền đài, cung điện, ngày hôm sau, chúng tôi quyết định đến thăm quảng trường tháp Eiffel-một biểu tượng của Paris hiện đại. Rất may là mùa này thời tiết Paris khá đẹp. Trong ánh nắng buổi chiều trong suốt như pha lê, tôi mê đi nhìn ngọn tháp như bức thư hoạ của một nghệ nhân hiện lên giữa bầu trời xanh không tưởng. Cái khối sắt thép gồm 10.668 tấn, 18.000 bộ phận cấu kiện, được 250 người xây dựng trong 2 năm, cao 320 m, hoàn thành vào 1889, vượt qua những phản ứng dữ dội của dư luận thời ấy, đã thực sự trở thành niềm kiêu hãnh của giới xây dựng và người dân Paris. Lạ ở chỗ là khối sắt thép khổng lồ ấy lại hài hoà tuyệt vời với những kiến trúc xung quanh. Người bạn tôi cho biết, đứng trên đỉnh tháp, vào những ngày trời quang mây, có thể phóng tầm nhìn xa tới 90 km. Không có điều kiện leo lên tháp nhìn toàn cảnh Paris, chúng tôi giết thời gian bằng cách chọn một quán cà phê nhỏ. Nhâm nhi ly cà phê kiểu Pháp, có vẻ rất giống một quán cà phê Sài Gòn, chúng tôi nhai bánh mì chờ ngắm Eiffel về đêm. Sự kiên nhẫn đã được đền đáp. Với ánh sáng của 22.000 ngọn đèn, dưới bầu trời không mây, tháp Eiffel sáng rực lên như một ngôi sao chổi, một vẻ đẹp kỳ vĩ huy hoàng mà trong đời, tôi chưa một lần được thấy. Đó cũng là đêm cuối trước khi chúng tôi rời Paris để đến với xứ sở sương mù của nước Anh. Thời gian 3 ngày là quá ngắn ngủi. Còn rất nhiều thứ chúng tôi chưa thể đến thăm dù chỉ là cưỡi ngựa xem hoa. Nhà thờ cổ nhất Paris Saint des Pres, Khu La tinh-trung tâm trí tuệ của Paris với những công trình nổi tiếng: nhà thờ thánh Saint-Julien-le-Pauvre, trường Mỹ thuật Paris, lâu đài Luxemburg, Đại học Sorbonne… Sông Seine yên bình Để bù lại, anh bạn ở ban tiếng Việt đài BBC tranh thủ dẫn chúng tôi đi vãn cảnh Paris về đêm. “Cho các bạn một chút khái niệm về cuộc sống đời thường của Parsi”. Anh bảo thế. Ngồi trên xe, anh say sưa thuyết trình với chúng tôi về một Paris muôn mặt: Paris quyền lực, Paris giàu có, Paris bình dân… Và khép lại bằng một nét đặc biệt trong đời sống của thành phố này: những cây cầu và những bến tàu. Với 32 cây cầu và 36 bến tàu trên đoạn sông 13 km, lịch sử đã chứng kiến một cuộc sống trên bến dưới thuyền sôi động hàng trăm năm của Paris. Cầu Pont Neuf cổ được xây 30 năm từ 1578-1607, nối với đảo cife, liên thông điện Louvre với tu viện Saint-Germain-des-prés. Đường dạo và bến tàu Henri 4 chứng kiến bao cảnh đổi thay từ thời Louis-Philippe khánh thành nó vào năm 1843. Cầu le Petit pont,xây dựng năm 1116, được thiết kế lại vào năm 1852 sau một trận cháy lịch sử, nối đường Saint Jacques với đảo Cife. Thú vị nhất trong hành trình ngắn ngủi là khi bạn tôi dừng xe trước bến tàu mang tên Grands- Augustins. Anh chỉ cho tôi một nhà hàng có những hàng ghế đặt sát bờ sông và bảo: “đây là nhà hàng nổi tiếng La Perouse”. Vâng! quả là anh đã đem đến cho chúng tôi một bất ngờ thú vị. Tôi đứng lặng trước của nhà hàng, hình dung ra dáng vẻ của những tao nhân mặc khách Paris một thời: Maupassant, Jola, A.Dumas, Victor Hugo… những thực khách thường xuyên của nhà hàng Laperouse mà lòng trào lên một cảm giác thật khó tả. Chúng tôi ghé quảng trường Montmartre lúc gần 11 giờ đêm, nhưng không khí ở đây vẫn sôi động. Một địa điểm thấm đậm chất đời thường của Paris. Các quán rượu và quầy bar vẫn đông khách. Trong ánh sáng rực rỡ của Paris về đêm, nhiều hoạ sĩ, không biết là chuyên nghiệp hay nghiệp dư vẫn miệt mài bên giá vẽ. Trong số họ, có ai sẽ trở thành Picasso, Toulouse-Lautrec… những thiên tài hội hoạ đã qua thủa hàn vi từ chính quảng trường này? Tôi không biết. Nhưng nhìn họ, tôi cảm nhận rất rõ cái hồn lãng tử rất nghệ sĩ của Paris. Một Paris hoàng tráng, một Paris lộng lẫy kiêu sa, một Paris diễm lệ của sắc đẹp và ánh sáng. Tác giả: Dương Trọng Dật. Bài đã được xuất bản.: 18/01/2010 07:00 GMT+7 nguồn tuanvietnamnet
-
Wild đã xác nhận tấm lòng của Hoai Chan qua việc đóng góp ủng hộ bên Quỹ từ thiện Diễn đàn.
-
Xác nhận có sự đóng góp của Hoai Chan 2,000,000 đ(hai triệu đồng) qua sự chia sẽ của bài viết "Gieo hạt nụ cười" Quỹ hiện có.7,350,000đ + 2,000,000đ=9,350,000 đ(chín triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng)