-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Nếu bạn thật sự cần cho một yêu cầu nào cho công viêc hoặc hôn nhân hoặc người hợp tác, chứ chung chung như thế thì một quyển sách bói toán bình thường cũng đáp ứng được.
-
Nếu bạn tin vào PT Lạc Việt thì Chú Thiên Sứ đang ở Hà Nội và thường trực là Phạm Cương (có thương hiệu) và HoangTrieuHai (đã đem chuông PTLạc Việt đánh xứ người) là 2 đệ tử chân truyền của Chú Thiên Sứ. Theo tôi Bạn nên đưa bản vẽ lên đây còn có nhiều ace khác giúp bạn. Đôi khi rất đơn giản mà không phiền đến mức tận mục sở thị.
-
Nghe mà không thấy thì khoan có tin!
-
Chàng trai 36 tuổi yêu bà già 80 như thế nào? Cập nhật lúc 18:07, Thứ Tư, 27/01/2010 (GMT+7) , Những ngày Linh không lên thăm, "nàng" Sông buồn lắm, cứ thẫn thờ cả buổi tối, trằn trọc mãi không ngủ được. Điều đặc biệt là đêm nào không có Linh, bà Sông lại lôi chiếc áo của người yêu ra đắp lên mình. Nhắc đến chuyện tình sướt mướt, đẫm lệ của chàng trai 36 tuổi Giàng A Linh và bà Hạng Thị Sông, 78 tuổi, bất cứ ai cũng biết, và cũng đều bụm miệng tủm tỉm cười. Tuy nhiên, tôi hỏi vì sao họ yêu nhau, thì mỗi người lý giải một kiểu, toàn là đoán mò và “đồn rằng…”. Phần lớn mọi người đều khẳng định Linh yêu bà Sông vì bà Sông có một hũ vàng (?!). Tôi và Giàng A Linh ngồi uống rượu đến xâm xẩm tối thì thấy bà Sông lững thững đi về. Quần áo, đầu tóc ướt sũng bởi sương mù dày đặc bao phủ Sapa suốt ngày đêm. Không còn bàn cãi gì nữa, họ là cặp tình nhân đích thực. . Gặp tôi, như một thói quen, bà Sông đưa những thứ hàng hóa lỉnh kỉnh ra mời chào. Tôi mua giúp bà Sông vài món. Bà Sông nhìn người yêu âu yếm nói một tràng tiếng Mông. Linh dịch lại cho tôi lời người yêu vừa nói với anh: “Đi bán hàng cả ngày, giờ mới được gặp anh, nhớ anh lắm. Em kiếm được đủ tiền để chúng mình uống rượu thoải mái rồi. Đêm nay không say không về anh nhé”. Tôi nghe câu đó mà không tin nổi đôi tai mình nghe có chuẩn hay không. Và tôi tiếp tục không tin nổi vào đôi mắt mình khi bà Sông ngồi xuống ghế, nép sát khuôn mặt nhăn nheo vào ngực Linh. Linh quàng tay qua vai người tình, để tôi chụp được những tấm hình tình tứ nhất. Khi có hai người ở bên nhau, tôi hỏi chuyện, cả hai cùng tranh nhau được kể lể chuyện tình của mình. Bà Sông bảo, bà gặp Linh như một định mệnh mà ông trời sắp đặt trước. Mỗi lần từ Sa Pả lên, Linh đều ngồi quán rượu hẹn trước chờ người tình Bữa ấy, cách đây 6 năm, chiều hè, mưa trút nước. Không bán được hàng, bà Sông vào chợ Sapa trú ẩn. Chờ mãi mưa không ngớt, bà Sông liền tạt vào quán gọi một chai rượu uống cho ấm bụng. Ở quán rượu khi đó, chỉ có một chàng trai, cũng đang ngồi uống rượu suông một mình. Thấy một bà già cũng uống rượu suông, Linh liền xách chai rượu của mình đến cạnh mời bà Sông uống cùng cho đỡ buồn. Rượu vào, lời ra, hai người thi nhau trút bầu tâm sự. Mỗi người đều có một nỗi niềm riêng. Linh thì đau khổ vì đã lấy hai đời vợ, song lại bỏ nhau, còn bà Sông thì góa chồng từ độ đôi mươi. Tôi hỏi chồng cũ của bà thế nào, bà Sông nhất quyết không nói, chỉ bảo rằng, đã không sống với nhau mấy chục năm nay rồi. Câu chuyện của hai người bên chén rượu cứ triền miên không dứt. Đến tận nửa đêm, bà chủ quán phải đóng cửa, họ mới đứng dậy liêu xiêu đi về. Nhưng họ hẹn nhau, ngày mai, tại quán rượu này, sẽ tâm sự tiếp. Những cuộc tâm tình kéo dài không có hồi kết, cho đến một ngày, cả hai cùng chợt nhận ra rằng, họ không thể sống thiếu nhau được. Tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của cả hai người cứ quấn quyện lấy nhau, gần thì không muốn xa, vừa xa đã lại thấy nhớ. Sau mấy tháng như vậy, thì Linh chính thức tỏ tình với bà Sông, và bà Sông cũng vỡ òa sung sướng. Họ cùng ăn uống vui vẻ, tình cảm, rồi dắt nhau về phòng trọ Bà Sông bẽn lẽn: “Ngay từ lần đầu gặp, mình đã yêu anh Linh rồi, nhưng mình già, nói ra, nhỡ anh ấy khinh chết. Nhưng khi Linh nói yêu mình trước, thì mình thích lắm, nhận lời ngay, không dám thử lòng, sợ Linh hiểu lầm”. Từ bấy, cứ mỗi tuần vài lần, chàng trai Giàng A Linh lại cuốc bộ từ Sa Pả lên thị trấn Sapa để gặp người yêu. Chỗ hai người gặp nhau luôn là quán rượu trong chợ, và luôn đúng giờ như hẹn trước. Hai người gặp nhau, cùng ăn uống vui vẻ, sau đó, về nhà trọ của bà Lịch, ngay cạnh chợ Sapa để ngủ. Bình thường, bà Sông vẫn ở cùng những người bán hàng rong, nhưng hôm nào Linh lên thăm, thì hai người thuê hẳn một phòng riêng. Bà Lịch, chủ nhà trọ khẳng định họ yêu nhau như một đôi tình nhân đích thực Ngưỡng mộ mối tình đặc biệt ấy, bà Lịch chỉ lấy tiền thuê phòng rất rẻ, 30 ngàn đồng/đêm. Ngoài ra, bà Lịch còn gọi thợ xây chế tác chiếc cửa sổ căn phòng mà đôi uyên ương này ở thành hình trái tim. Tôi hỏi bà Lịch: “Là chủ nhà, chị thấy anh Linh và bà Sông có sống với nhau như vợ chồng không?”. Bà Lịch bụm miệng cười rúc rích: “Chú nói như vợ chồng là thế nào, như đôi tình nhân, như đôi cu gáy ấy chứ. Hai người bọn họ ở bên nhau, cứ như có bão tố trong rừng ấy…”. Bà Lịch cũng kể thêm, những ngày Linh không lên thăm, nàng Sông buồn lắm, cứ thẫn thờ cả buổi tối, trằn trọc mãi không ngủ được. Điều đặc biệt là đêm nào không có Linh, bà Sông lại lôi chiếc áo của người yêu ra đắp lên mình. Bà Ngà, chủ quán rượu mà đôi uyên ương này thường hẹn hò kể, có lần, khi Linh đang ngồi trong quán rượu chờ người yêu, thì một người cháu của bà Sông ghé qua bảo rằng bà Sông không đi bán hàng nữa, cũng không còn yêu Linh, mà về ở với con cháu cho đến chết. Tin ấy như sét đánh bên tai. Linh đổ nỗi lòng vào bát rượu, triền miên hết ngày này qua ngày khác. Hết tiền, Linh bán chiếc nhẫn vàng mà bà Sông tặng hồi hai người mới yêu nhau để uống rượu. Uống say quá, bị mấy tên nghiện ăn cắp sạch trơn tiền bán nhẫn. Mấy ngày sau, bà Sông ghé qua quán, nghe bà Ngà kể lại chuyện như vậy, bà Sông khóc rống lên. Mấy ngày liền, bà cứ ngồi ở quán, chờ gặp bằng được Linh thì thôi. Khi Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, đã nhào vào nhau, ôm nhau thật chặt, chẳng muốn rời. Linh kể, hồi mới yêu nhau, hai người khổ sở vì bị chê cười, trêu chọc. Tuy nhiên, họ trêu mãi rồi cũng chán. Giờ đây, hai người sống bên nhau rất vui vẻ, mặc kệ miệng lưỡi người đời. Tôi chia tay đôi tình nhân đặc biệt này, khi chén rượu đã mềm môi, khi núi rừng đã nghiêng ngả. Chẳng biết phải hiểu thế nào về mối tình này cho đúng nhẽ, thôi thì cứ tin rằng, lại có thêm một cổ tích tình yêu ở xứ sở sương mù. (Theo VTC) nguồn vietnamnet.vn
-
Đấy lại quan liêu bao cấp rồi, xuất viện chi trả 6 ngày viện phí mà lại bảo 3 ngày. Chỉ có Sư Mẫu đi thăm thôi chứ Sp ngồi nhà điều khiển qua sóng có biết gì đâu ? Mà nghĩ lại sợ thật SM vào thăm mà cứ ngơ ngơ như là ko quen í!
-
Í cái này Sư Phụ của chúng ta cũng đã từng ứng dụng sai có 20 cm thôi! Wild phải đi nằm viện 6 ngày mà không tìm ra bệnh gì, chỉ có dấu hiệu choáng và đau đầu kiểu bị siết vòng kim cô như Tôn Ngộ Không bị núi đè. Bệnh viện Thống Nhất đã làm tất cả các xét nghiệm mà hồ sơ bệnh án thì hoàn toàn vô nhiễm nhé! Hỏi Sp kể lại cho nghe đi! Wild nhắc lại vẫn sợ đây!
-
“Chó hiền” - Nè, cái vụ bầy chó berger ở Dăk Lăk cắn chết người phụ nữ đi mót cà phê, nghe nói công an sẽ cho thực nghiệm hiện trường. - Chó hiền mà, thực nghiệm làm gì! - Hiền mà cắn xé xác người ta vậy sao? Ai dám mở miệng nói vậy? - Thì ông giám đốc chủ rẫy cà phê. Ổng hổng nói hiền mà ổng nói nó “hết dữ” rồi. May là hết dữ mà nó ngoạm đứt một mạng người chứ không thì… Trở lại cái vụ thực nghiệm hiện trường, tôi mà là công an, tôi sẽ không thực nghiệm chỉ trên đàn chó. - Chứ làm sao? - Tôi thuê ngay một cascadeur đóng giả là người phụ nữ xấu số. Nhưng anh chàng cascadeur này không phải vai chính. Lũ chó cũng không phải là vai chính. Nhân vật chủ chốt sẽ là thằng cha quản lý đàn chó. Tôi truy bắt hắn, buộc hắn phải diễn cho ra cái vẻ mặt lạnh tanh đến mất nhân tính khi thấy chó cướp mạng người ta, coi đôi mắt của hắn có phải là mắt của con người không, coi tim hắn là tim con gì… - Có nhân vật chính thì phải có nhân vật phụ. - Thì đàn chó là nhân vật phụ đó. - Hổng phải. - Chứ ai? - Dân nói có lần chó cắn một phụ nữ phải khâu đến 25 mũi. Đại diện dân trong xóm đến yêu cầu bồi thường. Họ cũng bị chủ rẫy dọa thả chó cắn. Ông ta mới là nhân vật phụ, góp phần “hun đúc cái… nết hiền” cho bầy chó. NGƯỜI SÀNH ĐIỆU Phapluattp.vn
-
Thi sĩ Nguyễn Khuyến và một tình huống khó xử Năm 1902, vua Thành Thái từ kinh đô Huế ra Hà Nội dự lễ cắt băng khánh thành cầu Đume (sau đổi tên thành Long Biên). Các quan đại thần trong triều, các quan lớn hàng tỉnh, các bậc đại khoa, nhân sĩ danh tiếng đều được triệu ra dự lễ. Thời điểm đó, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã cáo quan về quê nội, nơi có trang viên của gia đình, gọi là Vườn Bùi, nằm ẩn khuất sau những lũy tre vùng đồng chiêm trũng xã Yên Đổ; rồi do sự phức tạp của thời thế, cụ bị ép lên Hà Nội làm gia sư cho gia đình quan Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải. Dù đôi mắt đã bị lòa, nhận được chỉ dụ, cụ Tam nguyên vẫn phải chống gậy bước ra nơi có lễ cắt băng khánh thành long trọng. Trên lễ đài, nơi hàng ghế danh dự, ngồi cùng vua Thành Thái có quan toàn quyền Đông Dương Pôn Đume và bà vợ thứ xinh đẹp của vua. Điều oái oăm là bà thứ phi này trước đó từng có tình ý với tiến sĩ Nguyễn Hoan, con trai trưởng của cụ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Hoan từng thề non hẹn biển với nàng, nhưng sau chẳng hiểu vì sao, Nguyễn Hoan lại chê, rồi hai người chia xa. Sau đấy, do thần thế của gia đình, nàng diện kiến được với đức vua, được vua đem lòng yêu, rồi cưới làm thứ. Cái ngày nàng cùng vua ra Hà Nội dự lễ trọng, trông nàng thật đài các quý phái. Vào giờ khắc diễn ra lễ chào, tất cả các quan đều phải quỳ xuống vái lạy đức vua, thứ phi và quan toàn quyền Đông Dương Pôn Đume. Cụ Nguyễn Khuyến rất khó xử. Cụ có thể lạy vua chứ không thể lạy bà thứ phi, người đã từng suýt nữa thì thành con dâu cụ. Thế là lúc mà người ta quỳ rạp cả xuống thì cụ cứ lúng ta lúng túng như dẫm phải tổ kiến lửa, như gà mắc tóc. Vua Thành Thái nhìn thấy thế, tỏ ra không hài lòng, toan xử tội. Nhưng khi nhận ra đó là cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một nhà thơ rất nổi tiếng, vua đành nén giận. Buổi lễ khánh thành vừa kết thúc, vua vời Nguyễn Khuyến đến gần, bắt cụ phải làm một bài thơ thật hay để hầu vua, tạ tội. Vua ngắm Nguyễn Khuyến một thoáng, rồi nói: - Nhà ngươi từng là một viên quan rường cột của triều đình, thế mà mới rời triều chính có mấy năm mà sao trông đã tàn tạ như con trâu già thế kia? Bây giờ nhà ngươi hãy làm một bài thơ vịnh con trâu già ta nghe! Nguyễn Khuyến suy nghĩ một thoáng tìm tứ, tìm câu từ, rồi cụ xin phép vua được đọc: Một nắm xương khô, một nắm da. Bao nhiêu cái ách đã từng qua. Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa. Tai nặng buồn nghe Ninh Tử ca. Sớm thả vườn đào chơi đủng đỉnh. Tối về thôn hạnh thở nghi nga. Có người toan giết tô chuồng mới. Ơn đức vua Tề lại được tha. Cụ Tam nguyên mượn một cái tích cổ của Trung Hoa để viết nên bài thơ thể hiện đúng hiện trạng, tâm thế của mình: Ta ốm o tàn tạ như con trâu già chẳng qua cũng bởi đời quan chức của ta nhiều nỗi truân chuyên, tai ách; ta đã chán ngấy những việc như đốt lửa đuôi trâu của Điền Đan và những lời tấu hót xu nịnh như của Ninh Tử. Vì thế mà triều chính không ưa gì cái sự ngay thẳng của ta. Có kẻ muốn giết ta như giết một con trâu già đấy, vua có tha ta thì tha. Thành Thái vốn là một ông vua có chút lòng hiếu nghĩa, vả lại ngài rất thích cái câu trong bài thơ "ơn đức vua Tề" mà ngài cho là cụ Tam nguyên có ý ví von với mình, cho nên ngài không những tha tội mà còn ra chỉ dụ ban thưởng cho Nguyễn Khuyến những món quà quý ngay trong ngày hôm ấy Theo Lê Hoài Nam (Văn nghệ Công an)
-
Quản lý trang trại phạm tội giết người? Chủ trang trại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Người quản lý chó phạm tội giết người. Như chúng tôi đã thông tin, ngày 21-1, bà Phạm Thị Ngắn cùng hai người phụ nữ ở buôn H’drát, xã Ea Kao, TP Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk vào rẫy cà phê của ông Phạm Ngọc Thành thì bị bầy chó berger ở đây cắn chết. Theo hai người phụ nữ chứng kiến, nhóm của các chị đang mót cà phê thì một con chó berger xông ra. Sau khi hô hoán, hai chị kịp trèo lên cây tránh chó dữ. Riêng bà Ngắn trèo lên cây cà phê quá thấp, bị con chó nhảy lên kéo rơi xuống đất và tiếp tục vồ lên người bà Ngắn để cắn xé. Nghe tiêng kêu cứu của các chị, quản lý của trang trại Nguyễn Đình Sơn đi xe máy đến xem sự việc. Dù bà Ngắn đã van xin nhưng ông Sơn lại bỏ đi. Khoảng năm phút sau khi ông Sơn bỏ đi, một bầy chó berger của trang trại xông ra cắn xé, kéo lê thi thể bà Ngắn. Sau khi chó tấn công nát người phụ nữ xấu số, ông Sơn quay lại, huýt gió gọi đàn chó quay về và nói: “Ai nhủ (bảo) vô đây mót chi”, rồi gọi điện thoại di động cho một người nào đó báo là “chó đã cắn chết người” và bỏ đi. Tại hiện trường, thi thể của bà Ngắn bị chó cắn tơi tả, mất nhiều phần cơ thể. Theo vợ chồng ông MTC, có nhà sát rẫy ông Thành, một ngày sau cái chết của bà Ngắn, ông thấy người trong trang trại dựng tấm biển báo: “Rẫy ông Thành 507. Ai tự ý vào rẫy chó bécgiê cắn, chủ rẫy không chịu trách nhiệm”. Sau khi bà Ngắn bị chó cắn chết, trang trại dựng lên tấm bảng này. Ảnh: NVD Người quản lý chó phạm tội giết người Thạc sĩ Trần Quang Trung, giảng viên Đại học Luật TP.HCM phân tích: Ông Sơn là người quản lý bầy chó, phải nhận thức rõ chó berger là giống chó nguy hiểm, có khả năng gây thiệt hại cho người khác. Khi thấy chó cắn người, ông Sơn bỏ đi là có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra. Đây là lỗi cố ý gián tiếp, thuộc dạng hành vi không hành động vì ông Sơn hoàn toàn có khả năng ngăn chặn hậu quả xảy ra như đưa người ra khỏi nơi nguy hiểm, ra lệnh cho chó ngưng tấn công bà Ngắn… nhưng ông không làm là đã đủ dấu hiệu của tội không cứu giúp người đang trong tình trạng bị nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 BLHS). Đồng tình với ý kiến trên, kiểm sát viên cao cấp VKSND Tối cao Võ Văn Thêm cho rằng: Trước hết, phải xác định berger là giống chó nguy hiểm vì có khả năng tấn công làm chết người. Khi chứng kiến nạn nhân bị tấn công, ông Sơn không hành động nên mới có hậu quả chết người và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Mở rộng vấn đề, ông Thêm cho rằng sau khi con chó đầu tiên cắn bà Ngắn, nếu ông Sơn vào nhà thả tiếp bầy chó ra tấn công bà Ngắn thì ông Sơn đã phạm tội giết người chứ không phải tội không cứu giúp người đang trong tình trạng bị nguy hiểm đến tính mạng. Bởi lẽ lúc này ông Sơn đã sử dụng bầy chó làm công cụ, phương tiện nguy hiểm để giết người. Trước mắt, vụ chó tấn công làm chết người là đặc biệt nghiêm trọng, đã có đủ dấu hiệu của tội phạm hình sự nên việc đầu tiên là cơ quan chức năng phải khởi tố ngay vụ án để điều tra. Sau khi khởi tố vụ án, công an làm rõ các chi tiết liên quan mới xác định chính xác tội danh của quản lý trang trại là giết người hay không cứu giúp… Chủ trang trại: Phải bồi thường Theo Thạc sĩ Trần Quang Trung, dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng phải xem chó berger là nguồn nguy hiểm cao độ. Vì thế, khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, chủ sở hữu phải bồi thường. Nếu không xem chó berger là nguồn nguy hiểm cao độ, chủ trang trại Phạm Ngọc Thành vẫn phải bồi thường cho gia đình nạn nhân. Ông Thêm thì khẳng định đây là nguồn nguy hiểm cao độ nên chủ sở hữu phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho gia đình nạn nhân. Riêng trách nhiệm hình sự, nếu tại thời điểm bầy chó cắn chết bà Ngắn không có ông Thành ở trang trại, ông không trực tiếp ra lệnh cho quản lý thả chó cắn người cũng như không trực tiếp thả chó… ông không sẽ không chịu trách nhiệm hình sự trong vụ này mà chỉ chịu trách nhiệm dân sự mà thôi. Tuy nhiên theo ông Thêm, vẫn phải khởi tố vụ án mới làm rõ các tình tiết, ngóc ngách liên quan này. NHÓM PV phapluattp.vn
-
Lục bình - thuốc quý trôi nổi 24/01/2010 12:07 (TNTT>) Còn có các tên gọi khác như rau mác, bèo tây (do người Pháp du nhập vào nước ta từ năm 1905 dùng để khử ô nhiễm môi trường và sản xuất khí sinh vật - trung bình 1ha lục bình sản xuất 70.000 m3 khí sinh vật - chiếm 69% là khí metan). Lục bình thuộc họ cây đơn tử diệp, sống lâu năm, phát triển bằng chồi, thân và hạt. Lục bình sinh sản cực nhanh, chỉ cần 60-90 ngày một cây sẽ sinh ra 250.000 cây con. Hoa lục bình gây cản trở giao thông thủy; còn thân, lá hút nước rất nhiều nên làm cạn kiệt ao hồ nhanh. Lục bình có rất nhiều ở miền Tây và miền Đông, gồm 2 loại: cọng to, cao 45cm, loại cọng nhỏ, thấp sát mặt nước, cao 12cm. Nở rộ hoa màu tím nhạt vào tháng 3-4 âm lịch. Đọt non, tước ra làm dưa chua hoặc luộc chấm mắm ăn rất ngon. Có thể ăn với mắm sống kèm đọt lụa, sầu đâu và bông điên điển. Trong thân, lá lục bình có hàm lượng NPK với tỷ lệ 16-60-38 nên người chăn nuôi thường trộn với so đũa, cám làm thức ăn nuôi heo, gà, vịt. Trâu, bò cũng thích nhai lục bình. Rễ lục bình là chất phụ gia của nhà vườn các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang ủ làm phân bón cây, ốp gốc cây hoa và ốp vào nhánh già khi chiết cành. Một đặc điểm khác của lục bình là dùng thân phơi khô, kéo thành sợi ướp với keo dính, dệt thảm, giỏ xách và ghế thay mây, tre. Về mặt y dược, các nhà nghiên cứu châu Âu phát hiện ra điều kỳ lạ, rễ lục bình giúp dưỡng khí dồi dào cho ấu trùng muỗi sống trong nước lớn nhanh, nên mật độ sinh sản tăng trưởng cao, đáng quan ngại cho sức khỏe con người. Thế nhưng lá, hoa, thân và quả của lục bình lại là vị thuốc hiệu quả cao đối với người loãng xương và trẻ gầy còm. Lá lục bình hút thán khí với tỷ lệ cao giúp làm sạch môi trường. Thân cây lục bình dùng ăn sống, là vị thuốc trị giun, sán ở đường ruột trẻ em và người cao tuổi, hiệu quả không thua kém hạt bí ngô và lá sầu đâu”. Lương y Dương Tấn Hưng
-
Những khối đá huyền bí - Bài 1: Phiến đá được phong thần 10/01/2010 22:38 Bức tượng Phật thiên thủ (nghìn tay) có liên quan đến mỹ thuật và hình tượng của Kỳ Thạch phu nhân mà một số nhà nghiên cứu cho là có thể gợi mở thêm về mối liên hệ giữa văn hóa Bà La Môn giáo với Phật giáo trên đất Việt ngày trước - Ảnh: Diệp Đức MinhĐá là vật vô tri vô giác nên người ta thường ghép đá với những tính cách cứng nhắc lạnh lùng. Nhưng không hẳn như thế, bởi trong dân gian và sử sách đã có nhiều câu chuyện về thế giới huyền bí và đời sống sinh động của đá. Đầu tiên là chuyện tảng đá khắc hình một nữ thần không mặc áo, để ngực trần, đã chìm xuống sông Trà, nằm im qua nhiều mùa trăng, rồi bất chợt “nổi lên” vào một buổi giông hè. Nữ thần báo mộng Chuyện xảy ra ở xã Thanh Phước, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên ngày trước, mà người viết bài này tình cờ được một cụ già kể cho nghe trong một chuyến về thăm Huế. Rằng ở vùng ngã ba sông Hương và sông Bồ có một ông lão đánh cá nghèo, ngày ngày xuôi dòng nước của con sông chảy qua làng để quăng lưới. Một hôm từ mờ sớm đến mặt trời lên cao vẫn chưa bắt được con cá nào đủ to để ra chợ đổi gạo, ông buồn bã nằm trên vạt cỏ ven bờ, gối đầu lên một tảng đá lớn thiu thiu ngủ. Chợt ông nằm mơ thấy có một người thân hình to lớn, mặt mày đỏ gay giận dữ, tay cầm chiếc gậy dài thúc thúc vào người ông, quát: “Này ông lão kia, sao ông lại dám gối đầu lên người của ta mà ngáy?”. Ông lão sợ quá quỳ mọp xuống, vị thần đá liền trấn an và nêu một câu hỏi nếu ông trả lời được thì vị thần đó hứa sẽ cải biến số phận để ông được sung túc và mạnh khỏe, sống lâu. Câu hỏi đó là: “Thứ gì luôn im lặng và thiêng liêng như đá? Thứ gì luôn luôn ở với người, giúp ích cho người, mà không hề đòi hỏi đền đáp, hoặc lên tiếng kể lể lời nào?”. Ông lão đánh cá ngẩn ngơ, chưa trả lời được, vì ông nghĩ trên đời đâu có thứ gì tốt bụng đến thế. Vị thần đá liền giải đáp: “Đó là hơi thở, nó có mặt để truyền sự sống cho các ngươi từ lúc mới ra đời cho đến khi nhắm mắt mà chẳng đòi ơn nghĩa gì, nó cũng im lặng như các loài đá mà các ngươi vẫn dùng để lót đường, xây nhà vậy”. Trước khi biến mất, thần đá quay lại nói thêm: “Thấy ngươi hiền lành, ta sẽ cho ngươi một món quà, ngươi hãy mau thức dậy và quăng lưới xuống sông, ngươi sẽ nhận được món quà ấy”. (Chúng ta sẽ trở lại với vị thần đá nói trên trong một câu chuyện khác của loạt bài này). Khi giật mình thức giấc, ông lão vội vã quăng lưới xuống nước như lời vị thần ấy dặn. Không lâu sau, ông cảm thấy có vật gì nằng nặng cứ trì lấy chiếc lưới. Ông lặn xuống xem chẳng thấy gì quý báu mà chỉ là một phiến đá to đang làm vướng lưới. Ông gỡ lưới ra khỏi phiến đá rồi lên bờ về nhà lòng không vui. Đêm ấy đang chập chờn, ông lại mộng thấy một phụ nữ xuất hiện với ánh sáng chói quanh người, bảo ông: “Ta là nữ thần dưới sông kia, hồi trưa ngươi đã gặp ta tại sao không đem ta lên bờ? Nếu ngươi đem ta lên ta sẽ phù hộ cho ngươi thoát khỏi cảnh túng thiếu”. Sáng ra, ông lão rủ thêm vài người trong làng lại quãng sông lặn xuống và đem lên hai phiến đá to bên trên có khắc hình một nữ thần với nhiều tay đang vươn cao, chân đang ngồi xếp bằng, chung quanh có hình voi, hình người trông rất lạ mắt. Lúc ấy trời bỗng chuyển giông, mây kéo đen nghịt rồi mưa trút xối xả, hai viên đá sáng lên từng chặp theo những tia chớp trên cao lia xuống. Thấy vậy, người ta hoảng sợ đem các viên đá này vào gần làng, lấy gạch xây một cái bàn thờ để đặt đá lên trên. Hình do họa sĩ Tôn Thất Sa vẽ năm 1915 về “Bững Chàm ở Thanh Phước”, tức phiến đá “Kỳ Thạch phu nhân” (trích từ Bulletin des Amis du Vierx Hue năm 1915) Kỳ Thạch phu nhân chi thần Từ đó hễ ai đem lễ vật dâng cúng cầu gì thường được toại nguyện. Nhất là cứ đến tối 30 hoặc ngày rằm âm lịch mỗi tháng, người trong làng thường thấy bóng một nữ thần từ trong tảng đá bay ra, ban đêm ít ai dám lai vãng đến chỗ thờ. Nghĩ đây chỉ là chuyện truyền khẩu, nhưng về sau chúng tôi được một nhà nghiên cứu cho biết chuyện trên được chép lại hẳn hoi trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn với một số chi tiết có khác với lời kể của dân gian, song cốt lõi của chuyện vẫn giống nhau, với đoạn cuối khá huyền bí: “...Hai viên đá vuông to bằng tấm chiếu, sắc xanh trắng, mặt đá có nét chạm thân người mặt thú, 20 tay và 4 chân, người chài sợ cho là thần đem để ở chỗ sạch sẽ rồi dựng đền tranh để thờ. Từ đấy tỏ ra linh ứng. Hồi đầu bản triều (Nguyễn) phong làm “Kỳ Thạch phu nhân chi thần”. Gặp năm đại hạn, sai quan đến cầu đảo hàng mấy tuần không được mưa, bèn sai dời hai viên đá đến bờ sông, đêm hôm ấy liền nổi gió to mưa lớn, sáng hôm sau ra xem, thấy mất một viên, còn lại một viên, bèn rước về tế tạ. Viên đá ấy nay vẫn còn...”. Vậy sự tích Kỳ Thạch phu nhân ra sao? Do đâu trên phiến đá to và dài một mét được triều đình phong thần kia lại khắc nhiều hình mà người ta cho là quái dị để mô tả cảnh thiên đường lẫn địa ngục? Bài 2: Giải mã "Kỳ Thạch phu nhân" Một vị thần trong kho tàng tượng đá Chăm Pa - Ảnh: Diệp Đức Minh Trên phiến đá thiêng (Kỳ Thạch phu nhân) có chạm trổ những hình người, hình thú mà người dân Thanh Phước xưa kia cho là chứa đựng những ý nghĩa thần bí... Nghe đọc bài Các bô lão trong vùng bảo rằng phiến đá là của một đền thờ lâu đời bị gió mưa và lẽ vô thường chi phối nên sụp đổ và trôi dạt xuống sông như đã nói. Sau ngày được vớt lên lập miếu thờ, phiến đá được đặt trân trọng trên một cái bệ xây bằng gạch để hương khói và được tuần vũ Quảng Trị là ông Đào Thái Hanh mô tả khá rõ như sau: “Phiến đá này màu đen có hình dạng tựa nửa tấm bửng tròn, có đáy 1,2 mét; cao 0,9 mét và dày 0,23 mét, chạm nhiều hình người và con vật. Các hình chạm chia làm hai nhóm. Phần trên là một hình người gần như trần truồng, ngồi trên tòa sen, chân xếp bằng và tay đặt trên đầu gối; bên phải có (chạm) một con thú kỳ lạ và vài hình phác họa về người, với nét vẽ non nớt; bên trái có 5 hình khắc đàn ông, đàn bà, con nít, người cầm ly rượu, kẻ thổi sáo. Phần dưới (tảng đá) cách với phần trên bằng một đường viền được kẻ một cách thô sơ, có một đám người mặc kín nửa người, hình như muốn vươn lên bằng cách đưa những cánh tay hướng về người ở giữa (của phần trên). Có khoảng 20 cánh tay, mà 7 cái đeo vòng, có thể là tay đàn bà. Chân thì chỉ có 4. Cạnh con người kỳ dị ấy, bên phải có khắc chạm một người có 3 mặt đứng cầm cái chai và một người nữa bị trói gô ngồi chồm hổm ở phía dưới, bên góc đối diện. Sau cùng, bên trái là hình một con voi lớn chổng đuôi lên trời. Qua các hình đó người ta có thể hiểu được tư tưởng của người xưa, với phần trên tượng trưng cho thiên đàng, phần dưới là trần gian và địa ngục. Phải chăng đây là tấm bửng trên đầu cửa của một chùa Phật giáo hoặc chùa Bà-la-môn là người có 3 mặt ”. Đó là những chi tiết được tuần vũ Đào Thái Hanh giới thiệu trên tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue cách đây gần 100 năm (1915), được Đặng Huy Tùng dịch và Bửu Ý nhuận sắc in lại trong bộ sách Những người bạn cố đô Huế do NXB Thuận Hóa ấn hành hơn chục năm trước (1997). Tài liệu này cũng ghi nhận miếu thờ Nữ thần đá Kỳ Thạch phu nhân quay mặt ra bờ sông, xây bằng gạch, bên trong đặt một số đồ thờ bằng gỗ, với đèn, lư trầm, đĩa đựng đồ cúng và nhắc lại sự xuất hiện của phiến đá: “Trên mặt tảng đá có chạm trổ những thân hình người mặt thú (...), các dân chài khiếp sợ trước cái hình dạng kỳ dị và đều nghĩ rằng tảng đá ấy có thần ở, tức thì họ chuyển các tảng đá đến một chỗ xa vắng và lập miếu để thờ cúng. Từ ngày ấy trở đi, cá đánh được nhiều và cơ nghiệp của các dân chài trong làng đã khá thấy rõ, người An-nam đến cầu nguyện với miếu điều gì thì được điều ấy. Vào đầu niên hiệu của triều đại hiện nay hai tảng đá được phong tước Kỳ Thạch phu nhân chi thần (Nữ thần đá kỳ lạ). Đó là tước do vua ban để thưởng công cho Nữ thần đã giúp nhiều điều có ích cho dân chúng địa phương”. Đến nay, qua những công trình nghiên cứu mới nhất, cách giải thích về nội dung các hình chạm trổ kỳ lạ trên phiến đá có khác với cách giải thích ngày trước của tuần vũ Đào Thái Hanh, như lược ghi dưới đây. Giữa bức chạm có một hình người kỳ dị với hàng chục cánh tay đưa lên chính là quỷ vương Ravana trong hệ thống thần thoại, tín ngưỡng Ấn Độ xưa, đang thi thố những quyền năng của mình để quấy phá gia đình thần Siva ngự trên ngọn núi thiêng Kailasa. Cũng ở giữa nhưng bên trên hình quỷ vương là hình thần Siva đang ngồi trên ngai, bên trái Siva là nữ thần Parvati, bên phải là bò thần Nandin. Những hình người khác trong bức chạm có thể là hiện thân của thần sáng tạo Brahma, Visnu hoặc thần Indra. Con thú là voi Airavata. Đại thể, toàn bộ bức chạm nhằm thể hiện sinh hoạt của các vị thần Ấn Độ xưa theo các thần tích nào đó bên sông Hằng. Điều ấy nói lên ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo trong sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa của người Chăm trên đất Thuận Hóa xưa, đưa tới nhận định rằng: Bức chạm được những điêu khắc gia vô danh người Chăm thực hiện và đã trở thành một tác phẩm mỹ thuật Chăm Pa cần được giữ gìn. Những lời giải mã này vẫn chỉ là phác thảo có tính chất gợi mở. Những phân tích và giải thích thích đáng hơn phải cần tham khảo công trình nghiên cứu của các nhà khảo cổ học mà chúng tôi sẽ nhắc đến ở phần sau. Còn tới đây, bên cạnh Kỳ Thạch phu nhân, thiết tưởng cần ghi nhận thêm một trường hợp nữa về viên đá huyền bí khác. Đó là viên đá thần liên quan đến việc sắc lập đền thờ Thai Dương phu nhân dưới thời vua Gia Long. Đây không những là câu chuyện truyền khẩu suông mà còn được ghi lại trong sử sách triều Nguyễn. Để bạn đọc tiện tham khảo, chúng tôi giới thiệu nội dung chuyện viên đá thần với Thai Dương phu nhân chép trong Đại Nam nhất thống chí, tập I, quyển II, mục Phủ Thừa Thiên, tiêu đề Đền miếu, có đoạn: Ở xã Thai Dương, huyện Hương Trà, thờ thần vị Thai Dương phu nhân. Tương truyền trước có người dân trong xã tên là Bố, đánh cá ở cửa biển, một hôm mưa gió tối tăm, đến nửa đêm mưa tạnh trời quang, Bố thấy cạnh bờ có viên đá kỳ dị, bèn vỗ xoa, rồi ngủ đi, chợt mộng thấy một người đàn bà nhan sắc đẹp đẽ nói: “Ta đây là Thai Dương phu nhân, mi là người phàm, sao dám nhờn như thế? Phải đi ngay!”. Bố giật mình khi thấy đá biết hiện hình người, lại là mỹ nhân và biết nói tiếng người nữa, bèn vội ngồi dậy dụi mắt nhìn quanh, chưa biết phải làm gì vào nửa đêm hoang ấy... (Còn tiếp) Giao Hưởng
-
Bài 7: Ramayana trên đài thờ xứ Việt Tượng thần Shiva mang phong thái và dáng dấp của một vua Chăm - Ảnh: Diệp Đức Minh Một kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc Champa là đài thờ Trà Kiệu bằng đá được phát hiện từ năm 1901 đến nay, cùng với nhiều cách giải thích khác nhau quanh các bức phù điêu chạm trên đài ấy. Cách giải thích của nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương khá tỉ mỉ và thuyết phục khi ông cho rằng đó là những minh họa trên đá về anh hùng ca Ramayana của Ấn Độ cổ đại. Nguyên bản của anh hùng ca Ramayana rất đồ sộ, có đến 24.000 sloka, mỗi sloka gồm 2 câu thơ có vần, thuật lại sự tích của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Rama được xem là hóa thân thứ 7 của thần Vishnu - giáng trần để bảo vệ chân lý và tiêu trừ điều ác. Những hình ảnh của hai nhân vật trên có mặt trên đài thờ Trà Kiệu nói lên sự giao lưu xa xưa giữa văn hóa tư tưởng Ấn Độ và Champa. Trường ca Ramayana được cả sử gia nổi tiếng người Âu châu là Michelet (1798-1874) ca ngợi: “Ai đã sống trong khao khát vì dục vọng quá nhiều giờ đây hãy uống cạn ly rượu hừng hực sức sống và trẻ trung này của Ramayana. Ở Tây phương cái gì cũng chật hẹp, Hy Lạp nhỏ bé làm tôi ngột ngạt, xứ Do Thái khô khan cũng làm tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về châu Á cao cả và phương Đông thâm trầm trong giây lát. Chính nơi đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại mênh mông như Ấn Độ Dương tràn ngập ánh mặt trời. Đó là một tác phẩm chứa chan hòa điệu thiêng liêng, tạo nên một không khí thái bình và lòng từ bi vô bờ bến ngay giữa cảnh tương tàn khốc liệt”. Phù điêu chạm Apsara trên đài thờ Trà Kiệu - Ảnh: Tư liệu Cũng như các hình ảnh khắc chạm trên đài thờ Trà Kiệu gây nên tranh cãi về những bí ẩn một thời trên các phù điêu bằng đá, các nhân vật của Ramayana cũng ẩn chứa nguồn sống tư tưởng và triết học thâm sâu vì: anh hùng ca Ramayana đặc biệt ca ngợi một nền đạo đức lý tưởng xây dựng trên căn bản bổn phận và danh dự với các nhân vật (Rama và Sita được khắc trên đền đá) tuyệt đối vâng theo mệnh lệnh của lương tâm, và theo triết gia Kant: “Đó là một mệnh lệnh thuộc phạm trù inpératif catégorique, đòi hỏi một sự vâng lời không suy tính, không do dự, không bị lung lạc bởi bất cứ lý do nào” - theo phân tích của GS Lê Xuân Khoa. Mệnh lệnh đó không phải viết bằng chữ mà bằng hình ảnh của hoàng tử Rama và công chúa Sita chạm trên đài thờ Trà Kiệu như nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương lý giải. Công chúa Sita tự nguyện lưu đày nơi rừng sâu cùng chồng mình, dù nàng có thể ở lại kinh thành. Ở đó Sita đã bị quỷ vương Ravana bắt cóc đưa về xứ Lanka giam trong cung cấm. Khi được giải thoát cũng là lúc nàng mất hạnh phúc vì sự nghi ngờ của chồng. Song Sita đã chịu đựng giữ lòng trong sạch như viên ngọc quý không cháy trong lửa “những đức tính ấy đã làm cho Sita thành một phụ nữ hiền thục và thánh thiện hàng đầu”. Đó là một trong những hiện thân của khát vọng vươn tới giải thoát. Khát vọng ấy mãnh liệt đến độ biến thành một tín ngưỡng tôn giáo. Rama và cả Sita đã trở thành những hình tượng linh thiêng được người Ấn Độ yêu thương và sùng bái. Biểu hiện của sự sùng bái này phần nào thể hiện ở hình chạm các vũ nữ thiên thần Apsara và các Gandharvas đang múa hát dâng hoa trong lễ cưới của Rama trên phù điêu đài thờ. Đài thờ vuông vắn chế tác bằng sa thạch còn có một bộ linga – yoni rất lớn tôn trí phía trên đài. Về ý nghĩa của linga đã nói trong bài trước. Ở đây nhấn mạnh và ghi nhận thêm ý kiến của một số nhà nghiên cứu đại ý như sau: Khi Bà la môn giáo từ Ấn Độ du nhập vào cộng đồng người Chăm từ lâu đời thì các quan điểm truyền thống của Ấn Độ bị thay đổi theo cách hiểu của người Chăm. Thậm chí các vị thần Ấn Độ cũng được gọi theo ngôn ngữ Chăm, chẳng hạn Shiva được gọi “Pônintri”, Vishnu gọi là “Pôpachơn”, hoặc linga gọi là “Kai Cluc”. Theo cách đó, các linga cũng thoát khỏi hình khối ban đầu để có linh hồn theo cách tạo hình của Champa. Đã có một linga thờ thần Shiva ở Mỹ Sơn kết hợp một nửa tên của nhà vua với tên của thần Shiva, thành: Bhadvesvara chứng tỏ có sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền, giữa tôn giáo và các thế lực phong kiến. Từ những di tích lịch sử và điêu khắc Champa như đài thờ Trà Kiệu cho ta thấy sự uyển chuyển của các nghệ sĩ tạo hình người Chăm, đã để lại những tác phẩm điêu khắc đá có linh hồn và những ẩn dụ thiêng liêng. (Còn tiếp) Chính các linga tuy được đặt để thờ thần Shiva nhưng cũng đã mang tên kết hợp vương hiệu nhà vua với tên thần. Như vậy, thờ thần chính là thờ vua, vua là thần. Mukha Linga trong các đền tháp đều mang diện mạo các vua Chăm thần hóa để chiếm ngôi vị tôn vinh, còn thần Shiva - vị thần chính của Bà la môn giáo lu mờ hơn. Thông qua việc cải tiến những họa tiết vốn có và bổ sung thêm những yếu tố mới hoàn hảo hơn, góp phần làm phong phú và nổi bật những đặc trưng nghệ thuật điêu khắc dân tộc. Sự tiếp thu đó mang tính chất dung nạp và sau đó bản địa hóa để trở thành sắc thái phong cách riêng của nghệ thuật điêu khắc Champa. Có thể sự hội nhập của nghệ thuật Ấn Độ vào nghệ thuật Chăm là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực, tính cách điệu và tính quy phạm một cách sáng tạo. Qua mỗi thời đại, mỗi thời gian được phát huy tôn tạo, đưa nghệ thuật điêu khắc phát triển biến nó thành cái riêng không thể nhầm lẫn với nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ, Campuchia, Java hay một nền nghệ thuật nào khác. TS Bá Trung Phụ (Bảo tàng Lịch sử VN - TP.HCM) Giao Hưởng nguồn thanhnienonline
-
Bài 6: Những huyền thoại đá ở Lào Cai Tổng thể đài thờ Trà Kiệu bằng đá Lời khấn trước thần Đá được học giả Léopold Cadière ghi lại dưới đây là của một chủ lễ cầu nguyện cho một cháu bé thoát cơn bệnh hiểm nghèo. “Con sụp lạy, bái kính thần Đá. Con tên... ở làng... Con có thằng con nhỏ khó nuôi tên là... Con xin được bán hoặc ký thác cho ngài thần Đá với lời khẩn nguyện chân thành là (xin thần) cho thằng bé ăn chơi mạnh khỏe. Hằng năm cứ vào ngày tháng (định trước) con sẽ trở lại dâng cúng (lễ vật) lên ngài. Khi thằng bé được 12 tuổi, con sẽ trở lại tạ ngài, xin tháo gỡ lời cam kết hôm nay”. Sau lời khấn, chủ lễ lạy 4 lạy rồi đứng dậy, nghiêng mình lần nữa trước khi cáo từ thần Đá. Những người dự lễ đem rượu cúng ra uống, tin rằng rượu ấy sẽ xua đuổi hết tà khí lạnh lẽo trong người. Đồ cúng gồm xôi chuối, gà luộc có thể mang về nhà dùng như những “món lộc” được ban hưởng sau khi thần Đá đã dùng hết tánh linh của thực phẩm. Những chi tiết này được Đỗ Trinh Huệ ghi lại qua cuốn biên khảo về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan của học giả Cadière. Những trường hợp tương tự trên chứng tỏ trong dân gian vẫn tin vào sức mạnh siêu nhiên của những vị thần đã nhập vào các tảng đá vô danh. Song cũng có những vách đá có tên hẳn hoi, như núi Cô Tiên gần thị trấn Bắc Hà ở Lào Cai. Đó là vách núi đá phẳng rộng đẹp đẽ, trông như có bàn tay của những nghệ sĩ tạo hình mài gọt, chăm chuốt. Từ ngày xưa, dân trong vùng cho rằng có một nàng tiên xuống trần, ngây ngất vì cảnh đẹp nơi đây nên đã dừng lại không đi đâu nữa, từ đó núi có tên Cô Tiên. Ngày kia có hai cha con trên đường đến phiên chợ Pac Kha, khi đi ngang núi Cô Tiên người con gái bỗng bị một ngọn gió độc thổi trúng, ngã té và đột ngột qua đời. Người cha bối rối, chạy đi hái lá cây đắp lên xác chết của con rồi chạy xuống núi báo tin cho dân bản. Người dân bản đem hương cùng các thứ đồ cúng ma, cùng ông lão lên núi Cô Tiên để cúng cô gái. Lúc lễ tống táng đang diễn ra, hương đang cháy, bất ngờ xác chết cựa quậy rồi ngồi dậy, da thịt hồng hào lại. Bà con có mặt trong lễ tang hết sức kinh ngạc, người đi múc nước, kẻ lấy xôi chuối đưa cho cô gái ăn uống. Khi đã hoàn hồn, cô gái kể lại, hồn cô bay lên xa lắm, gặp Bồ tát Quan Âm trong mây, bảo cô hãy quay về cõi trần và chỉ cho cô cách sống theo mười điều thiện, không làm điều ác. Nghe chuyện, nhìn lên trời, mọi người thấy một đám mây ngũ sắc, chầm chậm bay về trên đỉnh núi, như một cái tàng phủ mát suối rừng. Dân liền quỳ xuống tạ ơn Bồ tát cứu mạng cô gái và ban điềm lành cho bản làng, rồi bỏ thời gian công sức đục vách đá thành một cái am, sau đó tạc tượng Bồ tát Quan Âm đặt vào để thờ. Đến tận thế kỷ 21, cứ đến ngày 19 tháng 9 âm lịch, dân bản lại mang xôi chuối, vải vóc đến cúng dường Bồ tát tại điểm trên. Còn nhiều dãy núi đá khác cũng chứa đựng các huyền thoại ở Lào Cai. Như chuyện hình thành dãy núi đá giữa không gian vắng lạnh trên độ cao gần 2.000m, là núi Hàm Rồng. Được gọi tên như thế vì núi có hình dáng một con rồng. Chuyện xưa kể rằng, có hai vợ chồng rồng vì quá yêu thương, ôm ấp nhau không rời, đến nỗi khi nạn hồng thủy xảy ra, cả vợ lẫn chồng đều không hay biết. Nước lên cao, ngập hết núi rừng, rồng chồng cuộn mình bay thoát được lên mây, rồng vợ cố bay theo nhưng không kịp, phải ở lại và hóa thành đá, nhưng vẫn còn cố hướng về phía rồng chồng. Lào Cai còn có hang Tiên ở xã Bảo Nha, bên dòng sông Chảy. Ở đó, đá xếp thành tầng tầng lớp lớp với cả một rừng nhũ đá mang hình hổ, báo, voi, ngựa và các thú rừng khác, mà người dân bản làng tin rằng những con vật ấy đã bị quyền phép của thần Đá thâu hồn, khiến thân xác chúng biến thành đá ở khắp mọi nơi. Cũng có một khối đá đã được ghi danh vào lịch sử hiện đại, như tác giả Trần Mạnh Thường nhắc lại trong cuốn biên khảo về văn hóa các vùng đất Việt Nam: “Khoảng 600 triệu năm trước, cả vùng Tây Bắc Việt Nam còn chìm sâu dưới biển. Sau 3 lần vận động tạo sơn, đến thời kỳ tân kiến tạo cách nay trên 100 triệu năm, khối Hoàng Liên đột ngột nhô lên thành một dãy trùng điệp... Lên cao 2.400m, gió mây quyện hòa với cây rừng. Từ 2.800m đổ lên, mây mù bỗng tan biến, bầu trời trong xanh. Từ 2.963m và lên cao nữa, lại có một khối đá khổng lồ được kê trên một hòn đá nhỏ. Đấy chính là đỉnh Phanxipăng, tiếng địa phương gọi là Huasipan - có nghĩa là phiến đá khổng lồ nằm chênh vênh. Đỉnh Phanxipăng cao ngất, là nóc nhà của Tổ quốc Việt Nam, được kết cấu bởi một phiến đá khổng lồ, cao 180m”. Ai đã đem phiến đá khổng lồ ấy lên tận đỉnh cao ngất như thế? Chuyện ấy sẽ nói sau. Còn giờ là chuyện về đài thờ đá ở Trà Kiệu (tức Kinh thành Sư tử Simhapura đã bị tàn phá) nay thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Đài thờ vuông vắn được chế tác bằng sa thạch, với bốn cảnh chạm nổi, và các phù điêu tương đối còn nguyên vẹn. Người dân địa phương từ lâu đời không ai dám xâm hại đài thờ. Còn các nhà nghiên cứu nước ngoài như Jean Przyluski, George Coedès, Jean Boisselier, đã đưa ra nhiều giải thích về các hình khắc chạm trên đó. Có ý kiến cho rằng bức phù điêu của đài đá này nhằm minh họa cho truyền thuyết về người đã tạo lập vương quốc Phù Nam. Cũng có người cho là nó chứa đựng những minh họa cho các bản kinh tối cổ và thiêng liêng còn lại đến nay. Giao Hưởng
-
Bài 5: Bãi đá cổ Sapa 14/01/2010 23:02 Những tảng đá có hình khắc bí ẩn ở Sapa - Ảnh tư liệu Mặc dù các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã ra công tìm hiểu, song đến nay những nét chạm khắc trên đá cổ ở Sapa vẫn chứa đựng nhiều bí ẩn chưa được giải mã... Những ngày tuyết rơi trắng xóa đường phố, cỏ hoa, Sapa như một nàng công chúa đang nằm ngủ mơ màng trên độ cao 1.600m. Mặt nàng nghiêng nhìn về phía dòng chảy của con suối Mường Hoa, nơi có những tảng đá khắc nhiều ký hiệu và hình ảnh với những nét ngoằn ngoèo mà đến thế kỷ 21 này vẫn chưa ai giải thích được sự có mặt của chúng. Theo nhiều người suy đoán, đó có thể là những “trang sử” của một tiểu vương quốc, một vùng đất thiêng, hoặc như một nhà thơ nói: “Cũng có thể đó là lời tỏ tình xa xưa của một hoàng tử với công chúa Sapa đang nằm ngủ trong rừng đào thuở trước”. Nếu muốn nhìn tận mắt tảng đá “chép thơ tình kia” thì đi chỉ khoảng 7 - 8 cây số là đến. Ở đó có 159 tảng đá nằm rải rác trên các thửa ruộng bậc thang, trên đá có khắc những hình thù kỳ lạ, hoặc đường vẽ chạm, những nét vạch giống như những chữ viết cổ mà cho đến nay các nhà khảo cổ học và ngôn ngữ học vẫn chưa đọc ra. Nếu cộng các tảng đá nhỏ nằm quanh đó nữa thì có ngót đến 200 tảng trên một diện tích khoảng 8 km2 thuộc thung lũng Mường Hoa. Người dân bản Pho sinh sống ở đây tin chắc rằng những dấu khắc trên đá chính là những câu thần chú có năng lực siêu phàm, khi đọc lên sẽ đẩy lùi những thế lực ma quỷ. Họ cũng truyền miệng qua nhiều đời rằng, thuở trước có một bầy hổ rất hung hăng trên đỉnh núi mây mù xuất hiện kéo xuống giẫm đạp hoa màu, phá hoại nhà cửa, cây trồng trong bản, lại còn bắt giết gia súc và sát hại cả người nữa. Một hôm có vị cứu tinh chẳng biết từ đâu tới đã dạy cho nhóm thợ làm đá đọc và học các câu thần chú trên làm cho bầy hổ đang giương nanh vuốt bỗng khựng lại, mất hồn, có con lăn đùng ra chết, có con hóa thành đá nằm đó cho đến ngày nay. Những tảng đá có hình khắc bí ẩn ở Sapa - Ảnh tư liệu Ngoài đàn hổ hóa đá, bãi đá cổ Sapa có tảng dài đến 15m, cao hơn 5m, được gọi là “hòn đá bố”. Các hòn khác như “hòn đá vợ” và “hòn đá chồng” với dáng nghiêng nghiêng hướng vào nhau đã gắn liền với một truyền thuyết tình yêu ở Mường Hoa. Truyền thuyết này kể rằng ngày trước lúc Sapa chìm trong sương lạnh, có một đôi trai gái thương nhau nhưng bị gia đình ngăn cấm. Một hôm, họ lấy cớ đi tìm các cây thuốc quý như nhân sâm, kim tuyến, phòng kỷ để hẹn gặp nhau trong rừng vắng và quỳ xuống khấn vái thần linh che chở khỏi cặp mắt soi mói tìm kiếm khắc nghiệt của người nhà. Nghe lời van xin của họ, các thần cảm động, nên khi hai người gặp nhau giữa rừng lan hoàng thảo thì các thần sai một đám mây trắng vắt quanh chỗ họ ngồi như một tấm màn lụa che chắn để bất cứ ai nhìn từ xa cũng không thấy được. Họ ngồi đắm đuối như thế trong mây trắng đến quên cả đường về, chiều tối họ đi lạc vào thung lũng Mường Hoa và hóa thành đá để muôn đời được bên nhau. Ngày nay hòn vợ và hòn chồng kia vẫn y nguyên như thuở ban đầu, nằm trong Bãi đá khắc cổ, được nhiều tác giả nhắc đến: “Đáng chú ý nhất là hòn đá vợ, đá chồng, đàn hổ đá và tấm bia có khắc chữ lên trên. Tảng đá vợ, đá chồng nói về mối tình chung thủy của đôi trai gái cho dù phải hóa đá vẫn hướng về nhau” (Trần Mạnh Thường). Toàn cảnh Bãi đá khắc cổ cũng được mô tả: “Bãi đá chia làm 2 khu nằm quanh suối Hoa trong thung lũng Mường Hoa cách thành phố Sapa 7 cây số. Quần thể Bãi đá khắc cổ do nhà khảo cổ học người Pháp gốc Nga Victor Gololev phát hiện từ năm 1925. Đến nay người ta đã tìm được 159 tảng đá lớn, có tảng dài tới 15 mét. Trên nhiều tảng đá có chạm khắc các hình vẽ của người cổ. Nhìn chung, các nét vẽ đều thể hiện tư duy tạo hình khúc chiết, xuất phát từ những con người nguyên sơ có đời sống gắn bó mật thiết với môi trường thiên nhiên. Các nhà khoa học đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu khám phá những bí ẩn của các nét chạm khắc trên đá, cố tìm ra ý nghĩa tôn giáo, xã hội, lịch sử của các nét vẽ và đã đưa ra nhiều giả thuyết nhưng vẫn chưa có lời giải đáp thực sự có sức thuyết phục” (Nguyễn Thị Hồng và Bùi Việt). Một số nhà nghiên cứu cho rằng không chỉ ở Việt Nam, mà trên thế giới có nhiều trường hợp chưa giải đáp được về hình vẽ và văn tự trên các khối đá, cũng như sự xuất hiện của các tượng đá. Chẳng hạn ở Chilê, trên hòn đảo nằm ở phía đông Polynesia có 500 bức tượng đá to lớn. Có tượng nặng đến 50 tấn, cao 10 mét. Nhỏ nhất là tượng nặng 5 tấn. Với trọng lượng và số lượng như thế, ai đã ra công tạc những bức tượng ấy vào hàng nghìn năm trước Công nguyên? Và đặt chúng giữa trời làm gì? Những câu hỏi ấy đến nay vẫn chưa có lời đáp chính xác. Ở Việt Nam, chúng ta cũng thấy có nhiều tảng đá được dân chúng thờ bái. Chẳng hạn cách nay hơn 50 năm, trên đường từ phố cổ Hội An lên Vĩnh Điện ở cây số thứ 6 có một nơi để bát hương thờ ông Đá, tương truyền rất linh thiêng. Cống chảy qua gần nơi ấy cũng được gọi là Cống ông Đá. Việc thờ đá ở một số vùng nước ta cũng đã được học giả Léopold Cadière ghi nhận cách đây gần cả thế kỷ như sau: “Một ví dụ cụ thể là việc thờ cúng một vài viên đá mà người ta cho rằng có quyền lực siêu nhiên, là nơi cư ngụ của thần thánh và người ta phải đem bán hay ký thác những đứa con đau yếu (cho thần đá nuôi dưỡng bảo hộ) sợ rằng chúng phải chết. Cha hoặc mẹ đứa bé, nhiều khi cả hai, mang mâm cúng gồm một con gà hay con vịt luộc, xôi, chuối, hoa quả, một chai rượu, hương và giấy vàng bạc. Họ đặt tất cả trước viên đá. Chủ lễ lạy 4 lạy”. (còn tiếp)
-
Bài 3: Đám cưới của nữ thần núi tuyết 12/01/2010 23:28 Phiến đá cổ điêu khắc đề tài đám cưới thần Shiva và nữ thần núi Tuyết Parvati - Ảnh: do chùa Ưu Điềm cung cấp tháng 1.2010 Biết mình gặp đá thần, nửa đêm Bố quỳ xuống khấn: “Nếu đá có thiêng xin phù hộ cho tôi đánh được nhiều cá tôm sinh sống”. Sau lời khấn ấy “mỗi ngày (Bố) đánh cá càng được nhiều hơn, bèn (cùng dân làng) dựng đền tranh ở bến sông để thờ viên đá. Chợt có thuyền khách buôn từ Nhật Bản đi qua đền, trông thấy viên đá, họ bảo nhau rằng: “Đây là đá ngọc”, rồi họ lấy búa lớn để bổ, thì tự nhiên người lăn đùng ra. Khiêng xuống thuyền thì không có sóng gió mà thuyền bị đắm, người trong thuyền không một ai sống sót cả. Từ đấy (đá) lừng lẫy anh linh. Hồi đầu bản triều (Nguyễn) cầu gió thường được linh ứng, bèn sửa làm đền miếu, có lệ quốc tế. Năm Gia Long thứ 10 sắc lập đền riêng, hằng năm tế vào ngày quý của mùa xuân và mùa thu” (Đại Nam nhất thống chí). Vậy đã có hai câu chuyện về Kỳ Thạch phu nhân và Thai Dương phu nhân liên quan đến thế giới của những phiến đá thần. Tiếp đây là chuyện về phiến đá thứ ba, cũng trên đất Thừa Thiên - Huế, ở làng Ưu Điềm, hiện vẫn đang được thờ tại ngôi chùa của làng này. Phiến đá hình vòng cung, có khắc chạm hình các vị thần mà theo một số nhà nghiên cứu như Trần Kỳ Phương và Võ Quang Yến, là nhằm mô tả đám cưới của hai vợ chồng thần Shiva và nữ thần núi Tuyết (có tên Parvati). Shiva là vị thần hết sức đặc biệt trong văn hóa tâm linh Ấn Độ, đặc biệt ở chỗ ông là vị thần vừa phá hoại mà lại vừa sáng tạo. Theo một số nhà nghiên cứu phương Tây, tên gọi Shiva có nghĩa là tốt lành, rõ ràng không hợp với những hành động hủy diệt và phá hoại của vị thần này. Nhưng GS Lê Xuân Khoa cho rằng, theo quan điểm triết học của Ấn Độ thì “không có sự sống nào mà không tiến tới hủy diệt, chính do hủy diệt mà lại có đời sống (mới). Sống và chết không những chỉ nối tiếp nhau mà còn đồng nhất với nhau. Sống tức là một hành động tự hủy diệt (vì) sống tức là đang chết dần. Bởi vậy: với tư cách là cứu cánh của mọi vật - Shiva là tử thần, nhưng với tư cách là nguyên lý của sáng tạo – Shiva lại là nguồn sống. Vì thế, Shiva vừa được coi là một hung thần phá hoại, hủy diệt muôn vật, lại vừa được coi là một phúc thần gieo rắc (mầm mống mới) và bảo vệ đời sống”. Ông có hai đời vợ, kết hôn với hai người, nhưng thực ra cũng chỉ... một người thôi. Vì “một người” ấy đã hóa thân thành hai thiếu nữ yêu thương Shiva trong hai kiếp. Kiếp thứ nhất, chính là nàng Sati (hiền phụ) là con gái của một trong 8 vị thần của trí tuệ tên là Daksha. Daksha không có cảm tình trước bề ngoài tiều tụy của Shiva khi gặp Shiva hiện ra với dáng dấp của một đạo sĩ khất thực. Vì thế Daksha rất bực mình khi nàng Sati lấy Shiva làm chồng, nên ông đã thẳng tay đuổi Sati ra khỏi nhà sau khi đã nặng lời nhục mạ nàng và Shiva. Đứng trước tình cảnh ấy, Sati đã bay khỏi người, trút hồn đi mất lên dãy núi lạnh đầy tuyết, trả lại thân xác cho cha, sau đó nàng hóa thân vào kiếp thứ hai. Kiếp thứ hai, Sati tái sinh làm con gái của thần núi Himalaya và thường được biết đến với tên Parvati (nghĩa là Sơn nữ núi Tuyết hoặc nữ thần Tuyết) và kết hôn với Shiva lần nữa. Lần này, họ sinh đứa con đầu lòng là Karttikeya có sức mạnh diệt các loài quỷ và được tôn thờ là thần chiến thắng. Đứa con thứ hai đánh dẹp quỷ dữ, có quyền năng ban phát hạnh phúc và an vui đến cho mọi người dưới thế, tức là thần Ganesha mình người đầu voi được người Ấn Độ sùng bái. Đám cưới giữa Shiva và nữ thần Tuyết Parvati được thể hiện qua những hình khắc trên phiến đá khá lớn ở chùa Ưu Điềm nói trên. Phiến đá ấy được nhà nghiên cứu người Pháp Henri Parmentier nhắc đến trong một tài liệu phổ biến đầu thế kỷ 20 (1918). Đúng 90 năm sau (2008), ông Võ Quang Yến đã tìm đến địa phận làng Ưu Điềm để tận mắt xem xét, mô tả và nhận định như sau: “Đây là một kiệt tác nghệ thuật và là tác phẩm duy nhất được biết đến nay trong nền điêu khắc Chămpa thể hiện đề tài lễ rước cưới Shiva – Parvati về ngọn núi thiêng Kailasa. Phiến đá có hình chữ U lật ngược, rộng hơn 1 mét, bề cao ngắn hơn chút ít, trán cửa đang còn tốt, không sứt nẻ, chỉ có ít nhiều rêu phong đóng lên nền sơn xanh đã phai màu. Đứng giữa và choán phần lớn bề mặt trán cửa là con bò thần trắng Nandin tiêu biểu cho quyền lực thế gian và cho sự đẻ con, đặc biệt không đeo vòng kiềng của những vật cưỡi Vahana thường thấy. Trên lưng bò thần, ngồi ngay sau bướu, hai chân hai bên, một chân duỗi thẳng, chân kia co lại là thần sáng tạo Shiva (...). Ngồi một bên là nữ thần Parvati với nét mặt dịu dàng và e thẹn của một nàng dâu”. Bao quanh đôi vợ chồng của nữ thần Tuyết trong lễ cưới còn có các nhân vật khác mà theo ông Võ Quang Yến đó là thần Brahma, làm chủ hôn, đầu đội mũ mukuta, đeo khuyên tai với nhiều vòng trên cổ tay và mắt cá, mặc áo sampot có thắt lưng lớn, hai tay chắp trên ngực, ngồi xếp bằng trên một tòa sen. Bên mặt có thần Vishnu cũng đội mũ và mang khuyên tai, vòng ngọc, có bốn tay, hai tay trước chắp trước ngực, hai tay sau giơ lên cao, tay trái cầm một cái vỏ ốc biển, tay mặt cầm một trong chín vật tiêu biểu của mình. Vishnu ngồi trên vai thần điểu Garuda, hai cánh của thần điểu đang giang rộng, hai tay nắm quanh hai chân của Vishnu như đang nâng vị thần này bay bổng dặt dìu theo nhạc cưới... Tại sao đám cưới của Parvati - nữ thần Tuyết xuất thân từ dãy Himalaya xa xôi - lại có mặt trong tác phẩm điêu khắc đá ở làng Ưu Điềm như vậy? Bài 4: Linga “tam vị nhất thể” 13/01/2010 22:54 Tượng Bà Phật Lồi... Điều đáng nói là gần phiến đá có điêu khắc nội dung lễ cưới của nữ thần núi tuyết Parvati (ở làng Ưu Điềm, Thừa Thiên - Huế) lại có một linga nằm sẵn tự bao giờ... Đó là chiếc linga khá lớn mà theo các lão làng trong vùng đã hàng trăm năm dầm mưa dãi nắng. Linga này cùng một tượng nữ thần bằng đá để ngực trần mà dân chúng trong vùng hương khói kính cẩn gọi là Bà Phật Lồi, với rất nhiều mảnh vỡ lớn, cùng chịu chung số phận bị bỏ mặc giữa trời. Trước cảnh ấy, một số nhà hoạt động văn hóa thực sự quan tâm đến giá trị di tích như Võ Quang Yến, Trần Đình Sơn đến tận nơi bày tỏ mong muốn chùa Ưu Điềm hãy tôn trí những cổ vật trên ở nơi tương xứng. Giữa năm 2009, nhà chùa đã cho dựng một căn nhà và đem hết những cổ vật trên vào thờ, trong đó có cả linga. Về việc này, đã có người thắc mắc sao nhà chùa lại đưa cả linga vào nơi trang nghiêm. Thật ra linga - yoni không chỉ là biểu tượng sinh thực khí, mà theo quan niệm của văn hóa Ấn Độ xưa, một linga chứa đựng hình ảnh của ba ngôi tối cao là cả ba vị thần: Brahma - Vishnu và Shiva. Trước hết là Brahma, đấng sáng tạo: “Vạn vật phát hiện tự nơi Ngài và vũ trụ đã có sẵn ở trong Ngài... Cũng như cây sồi có sẵn ở trong hạt sồi, như trái cây có sẵn ở trong mầm hạt, sẵn sàng nảy nở và phát triển, muôn vật hữu tình đã có sẵn ở Brahma, và mọi mầm mống đều phát sinh nơi Ngài”. Lời tôn vinh ấy được GS Lê Xuân Khoa trích dẫn trong một tài liệu về triết học Ấn Độ, đồng thời với rất nhiều sự tích từ Brahma. Tích về Brahma là kết quả hôn phối giữa đấng tối cao và năng lực của chính Ngài. Có tích cho rằng Brahma sinh ra từ một quả trứng vàng (kim noãn) bềnh bồng trên mặt biển nguyên thủy, sau đó trứng tự vỡ làm đôi, một nửa nâng lên thành trời phía trên, một nửa thành đất phía dưới, còn khoảng giữa là không trung vô hạn. Tích khác rất phổ biến, lại cho Brahma sinh ra từ một bông sen ở rốn của thần Vishnu. Vishnu là vị thần bảo vệ sự sống con người giữa hai đầu sinh - tử. Vishnu được lập đền thờ khắp nơi trên Ấn Độ xưa (được điêu khắc trên đá tại các công trình mỹ thuật ở Thuận Hóa xưa, trong đó có phiến đá ở làng Ưu Điềm). Một hôm, khi Vishnu đang nằm trên một chiếc lá sen, Brahma bèn đến hỏi danh tính. Vishnu trả lời: “Chính ta đã sinh ra ngươi”, và Vishnu gọi Brahma là con. Nghe vậy, Brahma rất tức giận, tuyên bố rằng mình mới là đấng sáng tạo. Hai bên đang tranh cãi về ngôi thứ bỗng thấy xuất hiện một cột lửa cao ngất, vươn lên liếm sạch cả mây trời và chiếu sáng đại địa. Thấy thế, Brahma và Vishnu dừng ngay cuộc tranh cãi để đi tìm điểm xuất phát cũng như nơi tận cùng của cột lửa. Hai vị chia nhau đi tìm hai phía, Vishnu lặn sâu xuống mặt đất, còn Brahma bay vút lên đầu ngọn lửa nhưng bay tới đâu thì lửa cao tới đó. Nghĩa là cột lửa không thể biết điểm khởi đầu và điểm kết thúc nơi đâu. Cuối cùng, Vishnu và Brahma thâu thần lực và cùng gặp lại, đang ngẩn ngơ không biết đầu, cuối của cột lửa thiêng thì bỗng nhiên, âm thanh linh thiêng bắt đầu bằng chữ A (trong âm tiết AUM) vang lên, và Shiva xuất hiện giữa cột lửa tỏa hồng nhiều cánh như một đóa sen. Từ trong đóa sen lửa ấy, Shiva nói cho hai vị thần kia biết: “Không ai kém hơn ai trong ba ngôi tối linh bình đẳng gồm Brahma - Vishnu - Shiva. Ba ngôi đó chỉ là thể hiện của một linh thể thuần khiết và duy nhất”. ...và linga ở chùa Ưu Điềm - Ảnh do chùa Ưu Điềm cung cấp Từ chuyện trên, người ta đã kết hợp ba vị thần trong hình ảnh của một linga đặt trên yoni với ý nghĩa: “Shiva là đấng ban mầm sống (bijavan), Vishnu là tử cung (yoni) và Brahma là mầm sống (bija)”. Khi văn hóa Ấn Độ du nhập vào đời sống tinh thần Chămpa, hình ảnh các thần linh tối thượng được thể hiện qua một linga, nhắc ta nhớ đến thần thoại về loài Atula gây chiến với các thiên thần, khi thua, Atula đã dẫn hàng vạn quyến thuộc của mình chạy trốn và tất cả nấp trong... một cọng sen! Phân tích về ba vị thần trong một linga - yoni, TS Bá Trung Phụ nêu rõ: “Linga được cấu tạo thành ba phần. Phần đầu tròn biểu tượng thần Shiva. Phần giữa là thần Brahma có bốn cạnh tượng trưng cho 4 hướng: bắc (kabráh), nam (kanaron), tây (karaykôh), đông (haraymư). Phần cuối cùng tượng trưng cho thần Vishnu 7 cạnh...”. Cũng theo TS Bá Trung Phụ, cần biết người Chăm ở Việt Nam thời trước trong quá trình tiếp thu văn hóa Bà la môn đã không rời bỏ nguồn cội của mình mà để cho yếu tố bản địa dần phục sinh. Chính vì thế, các ngẫu tượng Mukha Linga như ở các tháp Pôklongiarai (xây năm 1303), hoặc tháp Pôromê (xây năm 1659) đều kết hợp tín ngưỡng Bà la môn của Ấn Độ với quan niệm riêng của người Chăm. Điều đó cần được đối chiếu thêm với linga đang được thờ tại chùa Ưu Điềm. Để giải đáp câu hỏi tại sao phiến đá điêu khắc lễ cưới nữ thần Tuyết, tượng Bà Phật Lồi và cả linga bằng đá cùng nhiều cổ thạch của người Chăm lại có mặt trên đất Thừa Thiên - Huế (tức Thuận Hóa ngày xưa), nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Đình Đầu, Võ Quang Yến, Trần Ngọc Bảo cho biết: “Thuận Hóa là tên gọi của vùng đất Thừa Thiên - Huế đời nhà Trần sau khi vua Trần Anh Tông tiếp nhận hai châu Ô và Lý, là sính lễ của vua Chiêm Thành Chế Mân (Jaya Sinhavarman III) dâng để cưới công chúa Huyền Trân. Vua Trần đổi tên châu Ô thành châu Thuận và châu Lý thành châu Hóa. Cuối đời Trần, năm 1404, hai châu này được ghép lại thành phủ Thuận Hóa. Vùng đất Thuận và Hóa này được nhập vào Đại Việt sau lễ cưới công chúa Huyền Trân với vua Chế Mân năm 1306. Trước đó người Chăm đã sống ở đây và để lại nhiều di tích như “tảng đá thiêng được phong thần”, tượng nữ thần Tuyết, tượng Bà Phật Lồi, linga “tam vị nhất thể”.... Đó là ở Thuận Hóa. Còn nhìn về hướng Bắc, các khối đá khắc những dòng chữ bí ẩn từ bãi đá nghìn xưa tại Sapa vẫn đang tiếp tục thách đố các nhà khoa học ngày nay giải mã... (Còn tiếp) Giao Hưởng
-
Có thể vào tháng 3 âl miếng đất muốn bán này sẽ có chủ mới. Việc mua đất ở Phan Thiết lại hoàn thành trước khi bán được đất, như thế có nghĩa giải quyết cách nào đó tùy thuộc vào bạn nhưng thành công lại thuộc về mãnh đất mới này.
-
Chữa bỏng nhẹ bằng mỡ gà TNTT>) Khi bị bỏng, việc sơ cứu rất cần thiết, nếu chờ đến khi vào bệnh viện thì vết bỏng đã trầm trọng. Vì vậy, nên dùng những loại thuốc có sẵn ở nhà, như mỡ gà chẳng hạn. Nếu chẳng may bạn bị bỏng vì vỉ lò, bàn ủi, ống pô xe máy, nước sôi... hãy dùng bông gòn hay khăn mềm hơi ẩm lau nhẹ sơ qua vết bỏng và thoa ngay mỡ gà vào vị trí đó. Nên thoa mỗi ngày từ 2 đến 3 lần, nhớ vệ sinh vết bỏng bằng bông gòn, khăn ẩm mềm trước mỗi lần thoa. Mỡ gà có công dụng không gây bọng nước nơi vết bỏng, ít hoặc không gây đau rát, không có mùi khó chịu, có thể không hoặc chỉ để lại sẹo mờ. Cách thức chế biến: Mỡ gà thắng thành mỡ nước, lược bỏ xác, cặn. Sau đó để nguội cho vào ve thủy tinh hay sành sứ có miệng rộng để tiện dùng khi cần. Bảo quản trong tủ lạnh hoặc nơi thoáng mát, có thể sử dụng hiệu quả từ 6 tháng đến 1 năm. Tú Vân nguồn thanhnienonline
-
Từ giải Nobel đến “nổ súng” vào Kinh DịchHàng năm cứ đến mùa công bố giải Nobel vào đầu tháng 10, dư luận Trung Quốc (TQ) lại ồn ào tranh cãi những vấn đề hầu như muôn thủa: Vì sao TQ mãi chưa có giải Nobel? Lỗi tại đâu? TQ có cần giải Nobel hay không? ... Tranh cãi sôi nổi thêm vì tiếp sau năm ngoái, năm nay lại có một người Hoa được tặng giải Nobel Vật lý – ông Cao Côn (Charles Kuen Kao), sinh tại Thượng Hải, từng sống ở HongKong, mang hai quốc tịch Anh và Mỹ. Như vậy cả thảy đã có 10 người Hoa nhận giải Nobel, nhưng họ đều không mang quốc tịch TQ (để so sánh: Nhật có 16 người đoạt giải Nobel tuy số dân chỉ bằng 1/10 TQ; Hungary 10 triệu dân có 10 giải Nobel). Rõ ràng người phương Tây vẫn “thống trị” giải Nobel. Dường như TQ quá bận tâm tới việc họ có được giải Nobel hay không, thậm chí còn nói giải Nobel là nỗi đau muôn thủa của họ. Trong khi đó người các nước khác, kể cả Việt Nam, lại không như vậy. Có thể thông cảm với nước lớn phương Bắc rất trọng thể diện này: có nền văn minh lâu đời nhất nhì thế giới, dân chiếm 1/5 nhân loại, 60 năm qua giành được biết bao thành tựu vĩ đại, thế mà mãi vẫn chưa có giải Nobel danh giá – điều này xem ra khó coi quá, e rằng vì thế mà người ta có thể nghĩ gì xấu về TQ chăng? (thí dụ người kém thông minh, không có tự do nghiên cứu khoa học v.v...). TQ chưa có giải Nobel – điều đó chứng tỏ trình độ khoa học của họ còn thua kém các nước tiên tiến, dù thời gian qua họ đã phấn đấu ghê gớm. Những người châu Âu đầu tiên đến TQ vào thế kỷ XV phát hiện thấy xứ này rất lạc hậu về khoa học kỹ thuật (KHKT). Từ giữa thế kỷ XIX, sau khi TQ tiếp xúc quy mô lớn với phương Tây, giới trí thức TQ cũng bàn cãi nhiều về sự lạc hậu ấy. Phùng Hữu Lan quy kết đó là do các khiếm khuyết về phương pháp nghiên cứu, tư tưởng triết học, giá trị quan. Vương Tấn đổ lỗi cho sự chuyên chế của chính quyền phong kiến và chuyên chế về học thuật (thí dụ Kinh Dịch và nhiều kinh điển khác được coi là toàn năng, chứa đựng toàn bộ trí thức). Lương Khải Siêu cho là tại chế độ khoa cử dựa vào trình độ giỏi văn bát cổ để chọn người làm quan v.v... Nhiều học giả nước ngoài cũng quan tâm vấn đề trên. Năm 1953 Einstein nói đại ý TQ tụt hậu là do nước này không có hai nền tảng của sự phát triển KHKT – hệ thống lô-gic hình thức (formal logical system) và công tác thực nghiệm khoa học nhằm phát hiện quan hệ nhân quả [1]. Bởi vậy TQ không có khoa học cận đại, chỉ có kỹ thuật nhưng đó cũng chỉ là kỹ thuật kinh nghiệm chứ không phải là KHKT . Tiếp đó Joseph Needham (1900-1995) một nhà khoa học Anh rất ngưỡng mộ văn minh Trung Hoa chính thức nêu câu hỏi: tại sao văn minh Trung Hoa từng dẫn đầu thế giới một thời gian dài nhưng từ thế kỷ XVI lại tụt sau văn minh phương Tây? Câu hỏi này khiến người TQ tranh cãi suốt cho tới nay vẫn chưa tìm được giải đáp nhất trí, vì thế họ gọi là Nan đề Needham (Needham’s Grand Question). TQ 60 năm qua đã hết sức cố gắng phát triển KHKT, trước hết là KHKT quân sự và thám hiểm vũ trụ, làm được bom hạt nhân, tên lửa, máy bay chiến đấu hiện đại, tàu ngầm nguyên tử ...và là một trong số ít nước thám hiểm vũ trụ, đưa vệ tinh lên tận Mặt Trăng. Nhưng họ cũng thừa nhận là về KHKT còn kém các nước phát triển một khoảng cách. Tại sao sự lạc hậu ấy lại kéo dài cho tới nay, tuy TQ không đến nỗi thiếu tiền (nhất thế giới về dự trữ ngoại tệ, và là chủ nợ lớn nhất của Mỹ)? Chắc hẳn phải có những nguyên nhân nằm ở tầng sâu lịch sử, tức khiếm khuyết của nền văn hoá truyền thống. Năm 2004 nhà khoa học Dương Chấn Ninh [2] trình bầy tại Bắc Kinh bản báo cáo Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa TQ, được truyền thông nước này đăng tải dưới tít Dương Chấn Ninh nổ súng vào Kinh Dịch và đã gây phản ứng lớn trong dư luận TQ. Họ Dương tóm tắt nội dung những người đi trước đã bàn thảo thành 5 lý lẽ giải thích vì sao khoa học cận đại không nảy sinh ở TQ: 1) Văn hóa TQ có truyền thống nhập thế (can dự vào việc thế gian; là quan điểm của Nho giáo) chứ không xuất thế (không tham gia các hoạt động của thế gian; như quan điểm của đạo Phật); tức chỉ chú trọng thực tế mà coi nhẹ cấu trúc lý luận trừu tượng. 2) Chế độ khoa cử (dùng thi cử để tuyển chọn quan chức). 3) Không coi trọng kỹ thuật. 4) Tư duy truyền thống của TQ không có phương pháp suy diễn. 5) Văn hoá truyền thống TQ áp dụng quan niệm triết học thiên nhân hợp nhất. Theo ông, hai lý lẽ sau cùng có liên quan chặt chẽ với Kinh Dịch. Suy diễn và quy nạp là hai phương pháp tư duy không thể thiếu trong khoa học cận đại. Quy nạp là sự suy lý từ tiền đề cụ thể chuyển tiếp tới kết luận có tính khái quát. Nó có chức năng khái quát tình hình chung và suy đoán kết quả trong tương lai, kết luận của nó đều vượt quá phạm vi của tiền đề. Ngược lại, suy diễn (hoặc diễn dịch) là sự suy lý từ tiền đề có tính chung chung chuyển tiếp tới kết luận cụ thể; kết luận của nó không vượt quá phạm vi của tiền đề. Quy nạp là tinh thần xuyên suốt Kinh Dịch; bởi thế văn hóa truyền thống TQ chỉ có phép quy nạp mà không có phép suy diễn, đồng thời cũng không chú ý lô-gic và trình tự thuyết lý, mà đòi hỏi người đọc tự hiểu ra kết luận cuối cùng. Quan niệm triết học Thiên nhân hợp nhất bắt nguồn từ Kinh Dịch: mỗi quẻ đều bao hàm đạo trời, đạo đất và đạo người; coi quy luật của trời và quy luật của người là một; trong khi đó khoa học cận đại đòi hỏi phải thừa nhận thế gian người có quy luật và các hiện tượng phức tạp riêng, khác với “Trời” (giới tự nhiên); hai chuyện ấy không thể hợp làm một như quan điểm của Kinh Dịch. Kinh Dịch là kinh điển được TQ coi là quốc bảo, là Sách Trời, là nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa. Nhiều người Hoa cho rằng toàn bộ các khám phá khoa học hiện có và chưa có đều đã được viết sắn trong Kinh Dịch, chỉ đợi phát hiện; vì thế dựa vào kinh điển này, TQ sẽ bá chủ thế giới! Thế mà giờ đây Dương Chấn Ninh cho rằng vì tư tưởng và phương pháp của sách ấy hoàn toàn xa lạ với khoa học, nên khoa học cận đại không ra đời tại Trung Quốc. Ông phát biểu: Có nhiều người TQ đi đâu cũng nói bừa, hoặc bảo trong Kinh Dịch có hạt giống của khoa học cận đại, hoặc bảo Kinh Dịch dẫn đường cho khoa học phát triển. Những thói mê tín truyền thống có vô vàn mối liên hệ với Kinh Dịch như phong thủy, bói toán, cảm ứng trời người, vu thuật ... trong khi được dựng lên từ đống tro tàn lại còn khoác cái áo khoa học; có người nói đấy là những “khoa học mới”, “khoa học tiềm ẩn”, nói Kinh Dịch là trước tác khoa học đi trước thời gian, chứa nhiều phát kiến khoa học lớn như cơ học lượng tử, thuyết tương đối, lý thuyết máy tính, mật mã di truyền v.v... Có người muốn dùng Kinh Dịch để chỉ đạo nghiên cứu khoa học, để dự báo khí tượng, để đề xuất “mô hình nguyên tử thái cực”, suy ra “hệ mặt trời có 14 đại hành tinh” v.v... Quan điểm của Dương Chấn Ninh cũng giống ý kiến của Einstein và một số nhà khoa học TQ trước đây, nhưng ông đi sâu quy kết vào ảnh hưởng của Kinh Dịch. Dương Chấn Ninh nhấn mạnh ông không hề công kích triết học truyền thống TQ; ông nói nội hàm của thiên nhân hợp nhất không chỉ có nội ngoại nhất lý (nội: sự việc của đời người; ngoại: sự việc của thiên nhiên; nhất lý: quy nạp hai cái này làm một thể) mà còn có cái quan trọng hơn, là thiên nhân hòa hài (trời người hài hòa), một yếu tố có ảnh hưởng cực kỳ lớn tới tư duy truyền thống và xã hội TQ, quan trọng hơn cả việc khoa học cận đại không xuất hiện tại TQ. Nhất là gần đây Đảng Cộng sản TQ hết sức đề cao xã hội hài hòa, coi là một yếu tố để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Các nhà Quốc học, Dịch Học cho rằng Dương Chấn Ninh đã “nổ súng” vào Kinh Dịch, như vậy ông đã trở thành kẻ “ly kinh phản đạo”. Họ xúm vào phê phán ông, nhưng nhìn chung các phê phán ấy thiếu cơ sở lý luận, chủ yếu chê ông không hiểu Kinh Dịch mà làm ra vẻ hiểu, nói toàn những lời ngoại đạo. Có người moi chuyện ngày xưa ông vào quốc tịch Mỹ, chuyện ông 82 tuổi lấy vợ 28 tuổi để chê ông không yêu nước, không đứng đắn – dù trước đây khi ông về giúp TQ phát triển KHKT họ hết lời ca ngợi ông là nhà yêu nước, là Einstein của TQ. Nhà Dịch học nổi tiếng Lưu Đại Quân nói báo cáo của Dương Chấn Ninh “có rất nhiều sai lầm thường thức” và nêu thí dụ: “Chu Dịch là bộ sách bói toán sớm nhất mà phương pháp bói toán thì dựa vào sự suy diễn, cử nhất phản tam (nêu một suy ra ba), sao có thể nói là không có phương pháp suy diễn? Ngoài ra, Chu Dịch là cuốn sách có giá trị phổ quát toàn thế giới; từ góc độ ấy có thể thấy đây cũng là một sự suy diễn nghĩa rộng.” Nhưng theo nhà khoa học Phương Châu Tử thì phép suy diễn Dương Chấn Ninh nói là sự suy lý lô-gic, từ một số mệnh đề chung chung đã thành lập mà suy ra các kết luận đặc biệt, thí dụ trong hình học Euclid, từ tiên đề đi tới định lý sau đó đến chứng minh; nó hoàn toàn khác với cách suy diễn của bói toán trong Chu Dịch mà ông Lưu nói. Phương Châu Tử nhận xét: cũng như Einstein, Dương Chấn Ninh coi hệ thống lô-gic hình thức là một trong những suối nguồn của khoa học cận đại và cho rằng TQ thiếu cái nguồn gốc đó. Thực tế văn hóa truyền thống TQ chẳng những thiếu phép suy diễn chặt chẽ hợp lô-gic mà cũng thiếu cả phép quy nạp chặt chẽ hợp lô-gic. Dương Chấn Ninh cho rằng trong Kinh Dịch, cái gọi là phép quy nạp của “thủ tượng bỉ loại (lấy hình so loại)”, “quan vật thủ tượng (xem vật lấy hình)” thực ra là phép loại suy không hợp lô-gic dưới sự chỉ đạo của quan niệm thần bí “thiên nhân hợp nhất”. Chẳng hạn: “Khô dương sinh hoa, lão phu đắc kỳ nữ thê, vô bất lợi “ (cây dương khô héo nhú mầm, ông già lấy cô gái đáng tuổi con làm vợ thì không có gì bất lợi); “Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu, vô cữu vô dự” (cây dương khô héo nhú mầm, bà già lấy chàng trai khỏe mạnh, chẳng có hại cũng chẳng đáng khen). Giữa các sự việc “khô dương sinh hoa” với “lão phu đắc kỳ nữ thê” hoặc với “lão phụ đắc kỳ sĩ phu” , tức giữa đạo trời với đạo người chỉ có tính tương tự mơ hồ mà không tồn tại mối quan hệ tất nhiên hợp lô-gic; từ đó quy nạp được kết luận “vô bất lợi”, “vô cữu vô dự” lại càng không thể đứng vững. Kiểu “suy diễn” như vậy chẳng qua là sự phản ánh quan niệm xã hội nam tôn nữ ty hoặc có chút lý lẽ về sinh lý, thế nhưng không có liên can gì tới suy lý lô-gic. Dương Chấn Ninh phản đối cách giới báo chí nói ông “nổ súng” vào Kinh Dịch và thanh minh: 80% nội dung bản báo cáo trên là ca ngợi mặt tích cực, 20% nói về mặt tiêu cực của Kinh Dịch, nhưng thiên hạ lại chỉ nhìn vào 20% ấy. Vì sao TQ ngày xưa từng đóng góp rất lớn về KHKT, thế mà khoa học cận đại lại không thể nảy mầm ở TQ? “Tôi suy nghĩ và nhìn thấy một lý lẽ người khác trước đây ít để ý. Đó là TQ không có phương pháp suy diễn.” – ông nói. Kể từ Kinh Dịch trở đi, người TQ đã không còn dùng phương pháp suy diễn nữa; chưa kể phương pháp của Kinh Dịch ngược với phương pháp suy diễn, do đó nó làm cho người TQ coi quy nạp là phương pháp tư duy duy nhất. Nếu nói tôi có một quan điểm cách mạng nào, thì đó là tôi đã vạch ra vết thương chí mạng ấy. Cho nên người ta không thích… Phương Tây có thái độ đối với học thuật khác với TQ: chúng ta quá tôn sư trọng đạo. Tiền nhân nói gì, Khổng Tử, Mạnh Tử nói gì thì không được bình luận mà phải coi là tuyệt đối đúng. Lời thầy giáo cũng thế. Thái độ ấy quá ư thâm căn cố đế. Mọi người đều biết, phương Tây khuyến khích nghi ngờ mọi lý thuyết hiện có. Sinh viên Mỹ học nhiều học thuyết, kể cả Marx, nhưng nhà trường không dạy học thuyết nào là chân lý duy nhất đúng. Nếu đã là tìm ra chân lý thì còn cần gì sáng tạo nữa? Thiếu tính sáng tạo là căn bệnh phổ biến của phương Đông. Việc nhà khoa học có uy tín lớn Dương Chấn Ninh phê phán Kinh Dịch đã khiến nhiều người TQ thấy cần xem xét lại quan điểm đối với các kinh điển nói riêng và với văn hóa truyền thống TQ nói chung. Trong cuốn Tái suy ngẫm văn hóa truyền thống TQ xuất bản nhân dịp kỷ niệm 60 năm nước CHND Trung Hoa, tác giả Tiêu Kiện Sinh nhận xét: tuy đã trải qua mấy chục năm cải cách mở cửa, người TQ vẫn chưa có được nhận thức tỉnh táo về lịch sử nền văn minh của mình, chưa làm rõ đâu là tiên tiến, văn minh, đâu là lạc hậu, dã man. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến Trung Quốc lúng túng trên bước đường phát triển KHKT. Tiêu Kiện Sinh tập trung phê phán tình trạng nhất nguyên hoá của nền văn minh TQ. Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống Trung Hoa, vì thế lẽ tự nhiên chúng ta quan tâm tới việc người TQ đánh giá, kế thừa và phát huy nền văn hóa truyền thống của họ ra sao; qua đó có thể thấy được do đâu chúng ta cũng lạc hậu mãi về KHKT. Đáng tiếc là vấn đề này dường như chưa được dư luận ta quan tâm đúng mức và hăng hái bàn thảo. Nguyễn Hải Hoành (nguồn dongtac.net) Ghi chú [1] Nguyên văn: Sự phát triển của khoa học phương Tây dựa trên cơ sở hai thành tựu vĩ đại là các triết gia Hy Lạp (trong hình học Euclid) phát minh ra hệ thống lô-gic hình thức, và (trong thời kỳ Văn nghệ phục hưng) phát hiện thấy qua việc làm thí nghiệm một cách hệ thống có thể tìm ra mối quan hệ nhân quả. Theo tôi, mọi người chẳng nên ngạc nhiên về việc các thánh hiền TQ không thể đạt được những tiến bộ đó. [The development of Western science has been based on two great achievements, the invention of the formal logical system (in Euclidean geometry) by the Greek philosophers, and the discovery of the possibility of finding out causal relationships by systematic experiment (at the Renaissance). In my opinion one need not be astonished that the Chinese sages did not make these steps]. [2] Dương Chấn Ninh (1922-) 1946 du học Mỹ. 1948 tiến sĩ ĐH Chicago, ở lại Mỹ nghiên cứu khoa học. 1957 cùng Lý Chính Đạo nhận giải Nobel vật lý. Là nhà khoa học Mỹ gốc Hoa đầu tiên về TQ từ 1971, về nhiều lần giảng dạy và chủ yếu giúp đưa người TQ sang Mỹ học tập. 1994 được Viện Khoa học TQ bầu làm viện sĩ quốc tịch nước ngoài; 1998 được ĐH Thanh Hoa tặng danh hiệu Giáo sư danh dự. Sau khi vợ chết, cuối 2003 về TQ định cư, giảng dạy tại ĐH Thanh Hoa, tặng trường này 10 triệu USD, và lấy vợ 28 tuổi. nguồn dongtak.net
-
Thuốc trong vườn: Dứa và nước ép dứa 23/01/2010 11:14 (TNTT>) Xuất xứ từ đảo Guadeloupe (thuộc Pháp), dứa vừa là thứ giải nhiệt mặc dù tính nóng, vừa là thuốc quý chữa nhiều bệnh thời khí và nội tạng suy yếu nhờ các hoạt tính dược liệu gồm: nước 89,8g, protein 4g, chất béo 1g, đường 1,2g, can-xi 20mg, phốt-pho 9mg, sắt 2,42 mg, vitamin B2, B9 0,19 mg, vitamin C 39 mg. Nhưng giá trị y tính chữa bệnh cao hơn hết là bởi dứa chứa 59,32% chất bromelain là một enzyme trong thịt và nước dứa có khả năng trị đông máu, xoa dịu bỏng, mau liền da, tái tạo tế bào da, xóa áp- xe và các mụn loét. Nước ép dứa cũng giúp hệ tiêu hóa tốt, mau lành bao tử bị viêm, loét. Tái tạo tủy và can-xi giúp xương chắc nhờ giàu vi lượng can-xi, ma-giê, tránh loãng, gãy xương. - Phụ nữ lập gia đình muộn hoặc sau khi sanh con thứ hai, ba, có vấn đề bất thường về kinh nguyệt nên dùng dứa làm nước giải khát, dứa giàu magiê, giúp giảm lượng máu xuất huyết nhiều, hạn chế mất máu, tụt huyết áp. - Mới mổ hoặc sưng a-mi-đan, ca sĩ giảm cường độ âm thanh nên ăn dứa chín hoặc uống nước giá ngày 2 lần (tối, sáng sớm) sẽ nhanh chóng lấy lại giọng. - Nam suy thận, nữ lãnh cảm (khi giao hợp) uống ngày 3 lần nước dứa ép (150ml) với món súp gồm 100g chim câu, 15g hạt sen và 10 quả táo tầu đỏ hầm nhừ sau 30 phút. Ăn 3 lần ngày, liên tục 2 tuần. - Dứa tươi có tính kháng khuẩn, kháng vi-rút cảm cúm, bôi trơn nhu động thành ruột, thanh lọc cholesterol nên giúp bài tiết các độc tố, chất thải thực phẩm ra khỏi đại tràng, chống viêm ruột cùng. - Về mặt thẩm mỹ, dứa bảo dưỡng tế bào da, viêm da, tạo hồng cầu biểu bì. Khi kết hợp với đu đủ vừa chín (mỗi thứ 20g) quết nhuyễn làm mặt nạ đắp. Sau 20 phút, rửa lại với nước. (Nhờ dứa trung hòa a-xít béo và loại chất nhờn trên da). Cần lưu ý khi bụng đói không nên ăn dứa hoặc uống nước dứa ép. Phụ nữ đang mang thai, cho con bú không ăn dứa tươi quá liều lượng (2 khoanh 30g) hoặc dứa chín rục (20g). Chất pepin chứa trong nước dứa là con dao hai lưỡi. Nếu điều trị được bệnh viêm họng, tái tạo mô thanh quản thì làm hạ thấp lượng estrogen làm tắc sữa, giảm magnesium làm cho thai nhi yếu. Đông y sĩ Kiều Bá Long nguồn thanhnienonline
-
Tranh Đông Hồ “níu giữ” hồn dân tộc Nằm ấp mình bên bờ đê phía nam của dòng sông Đuống hiền hoà, đoạn giữa Thuận Thành và Phả Lại, làng tranh Đông Hồ đã trải qua biết bao những thăng trầm để giữ cho “hồn dân tộc” mãi được “sáng bừng trên giấy điệp”. Hồi ức làng tranh - một thời thăng trầm Làng Mái là tên gọi dân gian xưa kia của làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành – Bắc Ninh) bây giờ. Vào thế kỷ XVI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không ai thống kê hết được có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết gồm có 5 loại là: Tranh thờ, Tranh lịch sử, Tranh chúc tụng, Tranh sinh hoạt và Truyện tranh. Từ cuối thế kỷ XIX đến 1944 là thời kì cực thịnh của làng tranh. Lúc ấy, trong làng có 17 dòng họ thì tất thảy đều làm tranh. Đến hẹn lại lên, cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp… Không khí trong làng rộn rạo từ sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế. ]Mỗi năm, chợ tranh chỉ nhộn nhịp và tấp nập nhất vào tháng Chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11,16, 21 và 26. Bà con, du khách thập phương đổ về mua tranh đông vui, tấp nập. Hàng nghìn, hàng triệu bức tranh các loại được mang ra xếp gọn lại bán cho những lái buôn, hoặc bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh treo tết để mang phú quý, vinh hoa cho nhà mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/12 âm lịch) những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất đi chờ đến mùa tranh năm sau lại mang ra chợ tranh bán. Đến chợ tranh làng Hồ không chỉ có khách buôn và mua tranh, mà có cả những người hâm mộ nghệ thuật tranh dân gian thích thăm thú, xem tranh và đi trảy hội mùa xuân. Đó là thời kỳ hạnh phúc nhất của người dân làng tranh. Đình Đông Hồ - chợ tranh Trong những năm kháng chiến chống pháp, khi cả nước điêu linh, Đông Hồ cũng rơi vào cảnh đạn bom lay lắt, làng tranh bị giặc đốt phá tan hoang, người dân trong làng lo chạy loạn khắp nơi, các bản khắc tranh cũng bị thiêu cháy rụi. Nghề tranh từ đó cũng bị gián đoạn. Tranh Chăn trâu thổi sáo Hoà bình lập lại (1954) làng tranh được khôi phục. Nhiều tổ hợp tác sản xuất tranh Đông Hồ được thành lập, đây cũng là thời điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước XHCN đạt kết quả cao. Nhưng từ năm 1985- 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ của người dân thay đổi, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn. Người dân làng tranh chuyển dần sang làm hàng mã. Nghề làm tranh tồn tại yếu ớt, chỉ còn lẻ tẻ một vài gia đình bám trụ với nghề tranh như: gia đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia đình ông Nguyễn Hữu Sam… Đến nay, nhờ công gìn giữ của các nghệ nhân ấy mà tranh dân gian này được khôi phục lại. Cùng với nhiều sáng tạo mới mẻ, tranh dân gian Đông Hồ lại chiếm được cảm tình của nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến mảnh đất văn vật hữu tình này. T Tranh Đánh ghen - Đậm chất dân gian của văn hoá Việt “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” Không phải tự nhiên tranh Đông Hồ được nhà thơ Hoàng Cầm nhắc đến đầy tự hào và kiêu hãnh trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” như một đặc sản nghệ thuật của vùng quê Kinh Bắc. Cái làm nên nét đặc sắc độc đáo của tranh Đông Hồ chính là chất liệu làm tranh, được chế biến thủ công từ các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên: Giấy làm từ cây dó, màu đỏ từ gạch non, màu vàng từ hoa điệp vàng, màu đen từ lá tre đốt, màu trắng được nghiền từ vỏ sò, ốc… Trên cơ sở những màu sắc cơ bản ấy người dân đã tạo thêm nhiều màu sắc khác nhau từ việc trộn lẫn các màu. Để hoàn thành một sản phẩm, không kể khâu khắc tranh trên bản gỗ, có sẵn giấy và màu, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận trong từng giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quết điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ thế, dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh từng hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân, những hình ảnh của cuộc sống thường ngày ... như “bừng” sáng trên giấy dó. Mọi giai đoạn đều thật công phu nên đòi hỏi người làm tranh luôn cẩn trọng, cầu kì, chú ý đến từng chi tiết nhỏ để có được một bức tranh đẹp. Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và có sức cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài cũng bởi những đề tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá người Việt. Một vài tờ tranh bên cạnh mâm ngũ quả ngày Tết sẽ là thứ mà các bà, các chị không thể quên khi đi chợ trong những ngày áp Tết. Đó là thói quen, là tâm linh, tín ngưỡng gắn kết trong tư duy của mọi người dân Việt Nam. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích cho chúng tôi hiểu thêm về ý nghĩa của việc dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh đánh ghen để lột tả được cái nóng giận bực bội ngột ngạt của không khí lúc đó, nền màu vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu hồng nhạt cho tranh làng quê yên bình … Tranh Hứng dừa Đôi khi những bức tranh Đông Hồ còn được những nghệ nhân trang trí kèm theo những từ chỉ dẫn hoặc những tứ thơ tình tứ, lãng mạn, như trên bức tranh Hứng Dừa là “Khen ai khéo dựng lên dừa / Đây trèo đấy hứng cho vừa một đôi; trên tranh Đánh ghen là “Thôi thôi bớt giận làm lành / Chi điều sinh sự nhục mình nhục ta"… Cứ bóc tách từng lớp lang văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy vốn liếng văn hoá Việt thuần khiết và trong sáng, đa dạng và vô cùng độc đáo. Tuy nhiên, điều đáng buồn là giờ đây tranh Đông Hồ không còn mang tính “thuần Việt” như thời xưa mà đang dần bị thương mại hoá. Đến với chợ tranh Đông Hồ bây giờ, người ta không còn được thấy cảnh tấp nập bán mua, cũng không còn cảnh người người, nhà nhà ưa chuộng tranh Đông Hồ như ngày xưa nữa. Các thế hệ sau cũng ít muốn học và theo nghề tranh truyền thống của cha ông vì quá vất vả mà lại ít lợi nhuận. Du khách đến làng tranh bây giờ vẫn thấy cảnh phơi giấy, nhưng đó lại là giấy để làm hàng mã chứ không phải giấy dó in tranh... Mặc dù gần đây đã có nhiều dự án khôi phục lại làng nghề, phát triển du lịch làng nghề truyền thống song làng tranh dân gian Đông Hồ vẫn chỉ đang tồn tại ở mức độ "phảng phất", chưa thực sự được quan tâm đầu tư để phát triển. Hi vọng trong tương lai gần, cùng với các làng nghề truyền thống khác trên cả nước, làng tranh Đông Hồ sẽ tìm lại được vị trí vốn có của mình và ngày càng phát triển, làm giàu thêm cho nền văn hoá đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. (Theo Toquoc) nguồn dongtac.net
-
Làm trắng da dưới cánh tay bằng chanh Một trong những nguyên nhân khiến vùng da dưới nách thâm đen là mồ hôi tích tụ quá lâu, tạo thành những mảng bám dính kết, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển. Để tránh, bạn cần giữ cho da luôn khô thoáng và sạch sẽ. Vệ sinh vùng da dưới cánh tay hằng ngày không những giúp da láng mịn, sạch khuẩn, mà còn kích thích sự hoạt động của các lỗ chân lông, khiến các chất thải trong cơ thể bài tiết nhanh chóng. Vì thế, vùng da nách sẽ trắng dần lên. Sử dụng chanh để tẩy trùng là cách đơn giản, ít tốn kém và hiệu quả nhất cho những làn da thâm đen, có mùi khó chịu. Cách làm: + Xay nhuyễn vài lát nghệ tây (hoặc nghệ đỏ), sau đó trộn thêm một thìa nước cốt chanh và một thìa nước ép dưa chuột. + Trộn đều hợp chất trên cho tới khi chúng quyện sánh với nhau. + Đắp hỗn hợp trên lên vùng da dưới cánh tay (vùng nách). + Giữ nguyên hiện trạng khoảng 20 - 30 phút sau đó rửa sạch bằng nước ấm. + Tốt nhất nên dùng phương pháp trên ba đến bốn lần/ tuần. Bạn đừng vội ngạc nhiên khi chưa thấy da có biến chuyển gì ngay sau những lần đầu áp dụng cách làm trên. Bởi, đây là phương pháp trị liệu hoàn toàn nhờ vào các nguyên liệu tự nhiên. Vừa rẻ, an toàn và có hiệu quả lâu dài. Bạn cần hết sức kiên nhẫn, làm đúng những thao tác trên. Theo Phạm Hằng
-
Bài thuốc chữa gãy xương truyền 7 đời 22/01/2010 11:15 (GMT +7) Không bó, không nắn, chỉ cần treo túi thuốc nhỏ bằng 3 đầu ngón tay, cách người bị gãy xương khoảng 2 - 3m là xương tự liền. Người đang sở hữu bài thuốc bí truyền này là bà Quách Thị Viển ở xóm Đồi, xã Lạc Lương, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình. Đến nay, bà Viển đã "phẫu thuật" thành công hàng nghìn ca bị gãy xương. "Cách bức" Mế Viển dẫn tôi lên nhà. Tôi nhìn đi, nhìn lại quanh nhà không thấy bất cứ một dụng cụ nào để sao hay chế biến thuốc. Khi đã yên vị, mế Viển mới nhẹ nhàng gỡ chiếc túi treo trên vách nhà. Phía trong có vài loại lá khác nhau và 2 đồng xu bằng đồng và một con dao. "Bí quyết của tôi là ở đây", mế Viển bảo. Đồng xu kỳ bí làm nên bài thuốc treo. Đang nói dở câu chuyện thì có mấy người đến lấy thuốc. Ai đến cũng mang theo một chai rượu và một gói bánh... Mế nhận những thứ này rất trang trọng rồi đặt chúng lên bàn thờ cung kính làm lễ. Mế bảo, việc cúng này không phải là mê tín mà người Mường thường có thói quen cúng trời, cúng đất để cảm ơn các vị thần linh đã ban cho cây thuốc ở ngoài rừng, cho bài thuốc cứu người...Sau những thủ tục đó, mế mới lấy một ít lá trong túi thuốc ra băm nhỏ rồi gói vào một chiếc túi. Trước khi gói, mế dùng dao cạo đồng bạc có khắc 4 chữ Nho vào gói thuốc. Gói xong túi thuốc, mế dùng kim chọc nhiều lần vào gói thuốc đó. Vừa chọc mế vừa "mằn" (đọc những câu thần chú) vào gói thuốc. Khi đã xong hết các thủ tục, mế mới đưa cho mỗi người 2 gói, mế Viển căn dặn: Nếu là trẻ con phải treo thuốc cách người 7 - 9m, người lớn 2 - 3m. Khi treo thuốc người bị bệnh cảm thấy dễ chịu là được. Nếu treo gần quá người bệnh sẽ khó ở, treo cao quá thuốc sẽ không hiệu nghiệm. Mế Viển học được bài thuốc này từ mẹ. Nghe các cụ kể lại, ngày ấy cụ cố của mế Viển có việc ra Đông Triều (Quảng Ninh) chơi. Trời tối, cụ có nghỉ nhờ ở một gia đình người gốc Hoa. Đúng hôm đó, con dâu của ông chủ nhà đau đẻ. Ông chủ nhà vốn là người có bài thuốc treo chữa gãy xương rất tài tình nhưng về phụ khoa lại không biết. Đúng lúc đó, cụ cố đã dùng bài thuốc gia truyền của người Mường giúp cô con dâu của ông chủ nhà sinh hạ được an toàn. Để cảm ơn người khách, chủ nhà cũng dạy lại cho cụ cố bài thuốc chữa gãy xương kèm theo hai đồng tiền có khắc chữ Nho. Ông này gọi bài thuốc đó là chữa gãy xương bằng phương pháp cách bức.Từ đó cụ cố mới biết bài thuốc này. Trải qua mấy đời, các cụ đều dùng bài thuốc này chữa gãy xương cho người dân quanh vùng. Tính đến đời mế Viển đã là đời thứ 7. Lựa chọn sinh tử Trước khi lên núi tìm gặp mế Viển, chúng tôi đã gặp được "bệnh nhân" của mế, đó là anh Bùi Văn Đông ở xóm Yên Tân, xã Lạc Lương. Nhà anh vốn nghèo khó, những ngày giáp hạt, anh phải vào rừng đào củ mài, củ nâu về ăn. Một hôm thấy anh đi từ sáng đến tối chưa về, vợ anh nóng ruột nhờ anh em vào rừng tìm giúp. 10 thanh niên tìm hết cánh rừng này đến cánh rừng khác mà vẫn chưa thấy anh. Sau gần hai ngày tìm kiếm mọi người mới tìm thấy anh ở một khe núi. Anh bị 2 hòn đá to đè lên chân và nằm bất tỉnh. Anh Bùi Văn Đông có được đôi chân lành lặn là nhờ bài thuốc của mế Viển Khi người nhà đưa anh đến bệnh viện đôi bàn chân của anh đã nát bét. Các bác sĩ bảo: Muốn cứu anh Đông chỉ còn cách cưa đôi chân. Nếu để lâu, vết thương sẽ nhiễm trùng và càng khó chữa. Nghe bác sĩ bảo vậy, anh Đông nghĩ, giờ mà cắt đôi chân đi coi như mình là người tàn phế, cả đời ăn bám vợ con. Giữa sự lựa chọn sinh tử, anh mới chợt nhớ ra là mấy đứa con nhà mình từng bị gãy tay được mế Viển ở xóm Đồi chữa thuốc lá khỏi. Giờ cứ thử để mế Viển chữa cho xem sao. Ngay hôm sau, anh xin xuất viện. Vừa về đến nhà, anh đã cử người đi đón mế xuống. Xem qua vết thương của Đông, mế Viển lắc đầu: Cái này khó đấy. Tôi cũng chỉ thử thôi, chứ chân cẳng nát bét như thế này thì ít hy vọng lắm. Thôi còn nước còn tát. Mế Viển dùng một chiếc ống tre thổi vào vết thương giúp Đông bớt đau. Sau đó mế Viển dùng một gói thuốc treo lên đình màn. Cứ sau 3 ngày, bà lại đến thay thuốc một lần. Sau hai tháng chữa trị, bệnh tình của Đông đã thuyên chuyển. Anh Đông nhớ lại, khi ấy 2 bàn chân đã dập nát của mình như có người dùng tay vun chúng lại. Những cơn đau cũng dần qua đi, thay vào đó là một cảm giác thật dễ chịu lan tỏa khắp cơ thể. Giờ thì anh có thể đi lại được. Tuy không làm được việc nặng như trước nhưng anh vẫn lên nương làm rẫy bình thường. Từ chỗ không tin Một trường hợp khác là ông Bùi Văn Sĩ. Năm ngoái lần đầu đi tập xe máy, ông va phải con bò và bị rơi xuống cống. Ông bị gãy chân. Bệnh viện thì ở xa, mọi người khuyên ông nên đến mế Viển lấy thuốc. Thực ra sống ở rừng núi bao đời nay nhưng ông cũng không tin lắm về bài thuốc treo của mế Viển. Con cái vận động mãi, nhưng ông nhất định từ chối. Vì thương bố nên mấy đứa con đã tự lên nhà mế Viển lấy thuốc. Về nhà chúng bí mật treo gói thuốc lên trên đình màn. Nhờ bài thuốc đó mà ông Sĩ không kêu đau nữa. Mế Viển và thang thuốc của mình Sau 3 ngày, đôi chân của ông có thể cử động được mà không đau. Đến lúc này, các con mới nói với ông: Bố đi lại được là nhờ bài thuốc của mế Viển đấy. "Chúng bay láo! Tao có uống thuốc bao giờ đâu mà khỏi", ông quát mấy đứa con.Lúc ấy người con trai cả mới chỉ tay lên đình màn: "Cái gói thuốc nho nhỏ treo trên cao kia là thuốc của bà Viển đấy...". Lúc đó ông Sĩ mới tin bài thuốc của mế Viển hiệu nghiệm. Không chỉ anh Đông và anh Sĩ được chữa khỏi bệnh, hầu như các gia đình ở huyện Lạc Thuỷ có con, cháu không may bị gãy chân, gãy tay đều được mế Viển chữa giúp. Họ đều mế Viển là ân nhân của gia đình. Nhiều người còn cho con, cháu nhận mé Viển là mế nuôi (mẹ nuôi). Tài nghệ chữa xương của mế Viển đã vượt qua những dãy núi đá của Yên Thuỷ về xuôi. Rất nhiều người ở Hà Nội, Thái Bình, Nam Định... đã cất công lên tận xóm Đồi đón mế Viển về tận nhà chữa gãy xương cho người thân. Khó lý giải Từ ngày được truyền nghề, số người đến mế Viển lấy thuốc ngày một đông. Suốt mấy chục năm qua, mế Viển cũng không nhớ mình đã chữa khỏi cho bao nhiêu người nữa. Chỉ vào đống vỏ chai khổng lồ chất đầy từ ngoài cổng đến chân cầu thang nhà sàn, mế Viển bảo: "Mỗi người đến mang theo một chai rượu, nhìn vào số chai là biết được khách đến đây. Tôi chữa bệnh chẳng phải tiền bạc gì nhưng chai rượu là thứ không thế thiếu để làm lễ". Chữa xương bằng cách treo thuốc quả là lạ đời. Tôi cũng không có ý cổ xuý cho những cách chữa bệnh thiếu cơ sở khoa học. Thế nhưng, tiếp xúc với nhiều bệnh nhân của mế Viển, cũng như biết được các thầy lang người Mường vốn có nhiều bài thuốc bí ẩn nên những hoài nghi của tôi dần được xóa mờ. Kêu gọi mỗi nhà giúp một bát gạo Ông Bùi Văn Vẻ, trạm trưởng Trạm Y tế xã Lạc Lương cho biết, bài thuốc của bà Viển ông đã nghe nói từ lâu. Thực tế, không chỉ người dân địa phương, nhiều người nơi khác đến chữa rất nhiều. Còn tác dụng, hiệu quả của bài thuốc này như thế nào thì ông không rõ lắm. Nhưng có một điều ông biết là ông bạn đồng nghiệp của ông, hồi nhỏ đã từng bị gãy chân và đến bà Viển nhờ chữa.Kết quả là ông bạn đó khỏi thật và chỉ sau vài ngày đã đi lại được. Tuy nhiên, ông vẫn khuyên ai không may bị gãy chân, gãy tay nên đi viện là tốt nhất. Bởi lẽ, đến nay chưa ai lý giải một cách khoa học về bài thuốc của bà Viển. "Phải chữa khỏi thì mọi người mới đến", ông Vẻ khẳng định. Theo Tiến Dũng nguồn Bee.net
-
Ngôn ngữ việt nam phong phú thế đấy! Anh, Pháp, Nga, Đức đố mà có đựoc cách này !
-
Ăn mà không béo (Dân trí) - Mùa đông, mùa của lễ hội, tiệc tùng. Dù biết rằng mình phải kiêng khem nhưng cái lạnh tê tê lại khiến bụng bạn nhanh đói. 10 thực phẩm cho cả bữa chính, bữa phụ dưới đây sẽ giúp cân nặng không tăng phi mã. 1. Hạt bí Phân tích thành phần: Do bí đỏ chứa hàm lượng calo thấp và có chất xơ phong phú nên dành được sự yêu thích của hầu hết những người giảm béo. Hạt bí đỏ là bộ phận dinh dưỡng nhất trong quả bí đỏ. Hạt bí đỏ không những có nhiệt lượng thấp hơn bí đỏ mà còn hàm chứa nguyên tố kẽm có thể làm chậm sự lão hóa cho nữ giới. Ngoài ra hạt bí đỏ rất khó bóc, phải thông qua sự kết hợp khéo léo giữa răng miệng và tay và kích thích tuyến nước bọt tiết dịch, thúc đẩy quá trình trao đổi chất, đẩy nhanh sự chuyển hóa của chất béo và bài trừ chất cặn bã ra ngoài cơ thể. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Nếu muốn đạt được hiệu quả giảm béo tốt nhất thì nên chọn hạt bí tự nhiên, chưa qua chế biến. Ngoài ăn trực tiếp ra, thì bóc vỏ lấy nhân trộn cùng salad cũng là một cách rất tốt. 2. Nước hoa quả ngâm Phân tích thành phần: Hoa quả ngâm có thể được tính là một loại thực phẩm giảm béo mới. Căn cứ vào báo cáo của các nhà dinh dưỡng Mỹ mới nhất, một ngày uống 50ml nước hoa quả ngâm có thể bổ sung hơn 50% vitamin cần thiết cho cơ thể, đồng thời còn có thể thúc đẩy tuần hoàn máu. Ngoài ra, hoa quả ngâm còn có công dụng giảm huyết áp. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Mỗi ngày ăn trước bữa cơm, đồng thời cần chú ý không được cho thêm đường và các chất phụ trợ khác. 3. Cẩu khởi Phân tích thành phần: Cẩu khởi là một nguyên liệu bổ dưỡng truyền thống trong Đông Y và là một loại thực phẩm mới giàu chất xơ. Trong cẩu khởi hàm chứa nhiều vitamin C và chất carotein có thể thúc đẩy tuần hoàn, làm chậm lão hóa, chống lại mệt mỏi và chống ô-ôxy hóa. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Có thể pha trà hoặc nấu cháo lên ăn. Nếu kết hợp cùng với trà hoa cúc thì hiệu quả giảm béo là tốt nhất. 4. Yến mạch Phân tích thành phần: Yến mạch nằm ở mức thấp trong chỉ số GI (Glycaemic Index - là chỉ số phản ánh tốc độ làm tăng đường huyết sau khi ăn các thực phẩm giàu chất bột đường). Do đó, yến mạch không gây tăng lượng đường và gây cho bạn cảm giác mệt mỏi, mà trái lại cung cấp cho bạn một lượng lớn protein và chất xơ. Đó là lý do vì sao yến mạch được coi là siêu thực phẩm thiên nhiên. Do yến mạch là thực phẩm giàu chất xơ nên không những nó có thể thúc đẩy tiêu hóa, bài trừ độc tố trong cơ thể mà còn làm cho da trở nên trơn mịn và sáng bóng. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Cháo yến mạch là phương pháp thực dụng và thường gặp nhất. Nếu điều kiện cho phép có thể ăn bánh mỳ yến mạch với sữa tươi không chất béo. 5. Quả mơ Phân tích thành phần: Mơ tươi chỉ có vào mùa hè nhưng mơ khô hay mơ ngâm cũng không mất đi dinh dưỡng, vì vậy có thể để dành lấy ra ăn vào mùa đông. Mơ hàm chứa phong phú thành phần chống viêm và chất xơ, là vũ khí cần thiết để duy trì làn da đẹp và hình thể gọn gàng. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Ăn trực tiếp hoặc trộn với sữa chua để ăn. 6. Mận khô Phân tích thành phần: Ô mai, mứt mận là một dạng hoa quả khô nhưng nó có giá trị dinh dưỡng còn cao hơn một số hoa quả tươi khác trong mùa đông., bởi vì nó hàm chứa thành phần chống lão hóa và các thành phần khoáng chất, có thể điều tiết nội bài tiết cho nữ giới, đồng thời còn có thể dựa vào gốc tự do để nâng cao khả năng chống lão hóa. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Có thể làm món ăn vặt ăn trực tiếp, cũng có thể thêm vào trong món salad. 7. Gừng Phân tích thành phần: Gừng là thực phẩm không được một số người ưa thích, bởi vì gừng nóng và có vị khá cay. Nhưng gừng có thể thúc đẩy tuần hoàn máu, đồng thời hàm chứa thành phần chống viêm, là thực phẩm có thể phòng chống các chứng u xơ, ung thư. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Cắt gừng thành lát hoặc nấu cùng với táo đỏ là cách ăn tốt nhất, có thể thêm vào một chút đường để điều vị. 8. Quế Phân tích thành phần: Quế không chỉ là một loại hương liệu mà còn là một loại thuốc đông y. Bởi vì quế có thể thúc đẩy sự trao đổi chất toàn thân, còn có thể khống chế đường máu và cholesterol, là một loại thực phẩm không thể thiếu vào mùa đông. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Khi nấu rau, canh có thể cho một lượng quế thích hợp vào, mỗi ngày ăn đều đặn, hiệu quả giảm béo sẽ rất rõ rệt. 9. Bắp cải tím Thành phần: Một bát bắp cải tím chỉ có 22 calo nhiệt lượng, vì vậy nó vừa làm no bụng vừa là thực phẩm mạnh khỏe. Đồng thời bắp cải tím cũng giống như viên vitamin hàm chứa nhiều loại thành phần dinh dưỡng. Cách ăn giảm béo tốt nhất: Ăn sống (trộn sa lát) là tốt nhất. 10. Táo Thành phần: Đây là thực phẩm thường được nhắc đến nhiều nhất nhưng cũng là có tác dụng toàn diện nhất trong thực phẩm chất xơ. Táo không những có thể giữ “phom” cho cơ thể mà con bài trừ độc tố trong cơ thể. Gần đây một kết quả điều tra chỉ rõ, thường xuyên ăn vỏ táo còn có thể duy trì sự mạnh khỏe cho răng. Cách ăn: Bở vỏ táo có thể còn tồn dự thuốc trừ sâu vì vậy trước khi ăn nên ngâm trong nước muối khoảng 5 phút. Dương Hằng Theo health.people
-
Wild sẽ liên hệ đt với Chị Hoa xem chị có nhận trực tiếp được không? Và chỉ có cách trao tặng cháu Hoa qua đường bưu điện có giấy chuyển tiền từ bưu cục