wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Vâng ạ! Wild cũng sẵn sàng tranh luận, phản biện hay nói nôm na là cãi để nhận được những gì mà trong sự trầm mặc của đời thường không dễ gì họ bộc lộ. Đó là cãi để tìm ra chân lý để ăn mày kiến thức. Và cũng chẳng bao giờ Wild hưởng thụ miễn phí của ai điều gì mà không trao lại, đó là sự công bằng và không vướng nợ vay. Đến lúc nào PTS không cần thể hiện đức tính khiêm tốn nữa, Wild lại nhận được mà không cần buông lời tranh cãi.
  2. Cái miệng hay cãi lại kèm cái tính khiêm tốn, thì lời nói khi cãi thật đáng học hỏi. Vẫn chờ đợi PTS ngứa mắt ngứa mồm mà xuât ngôn bất biến.
  3. Ghi nhận sự đóng góp của BabyWolf 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 3,967,000 đ +300,000 = 4,267,000 đ(bốn triệu hai trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen nhật (mười ngàn yên)
  4. Ghi nhận sự đóng góp của Turn off 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 3,667,000 đ +300,000= 3,967,000đ (ba triệu chín trăm chín mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen nhật (mười ngàn yên)
  5. Ghi nhận sự đóng góp của compak 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 3,167,000 đ+500,000 đ = 3,667,000 đ (ba triệu sáu trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen nhật (mười ngàn yên)
  6. Cám ơn sự phát hiện của BW. Wild đã sữa chữa lỗi trên, tuy nhiên Séc chỉ có giá trị theo con số được viết bằng chữ. :(
  7. http://dantri.com.vn/c167/s167-372419/dua-...i-ba-om-yeu.htm Hôm nay Wild nhận được 1 sự chia sẽ với những mãnh đời khốn khó từ tấm lòng của một người cháu ở phương xa ủng hộ cho Quỹ Từ Thiện Diễn đàn 1 món quà Tết là 10,000. (mười ngàn Yen Nhật)) cùng một Thiệp chúc Tết. Với mong muốn được tặng cho trường hợp ở đường Link trên là 5,000 (năm ngàn Yen) và 5,000 Yen tham gia góp cho hoàn cảnh còn lại. Theo đường Link, Wild sẽ sử dụng 5,000 yen cho yêu cầu trên và chuyển đến tk của Báo Dân Trí hoặc liên hệ với chính người nhận sẽ được phát qua Bưu Điện. Quỹ hiện có: 3,167,000 vnđ và 10,000 Yen Nhật. Trân trọng ghi nhận tình cảm của Cô cháu gái và chúc cháu vạn sự an lạc tấn trường.
  8. Đã nhận của Meyland 1,000,000 đ(một triệu đồng) góp cho Quỹ Từ thiện Diễn Đàn. Quỹ hiện có: 2,167,000 đ+1,000,000 đ= 3,167,000 đ(ba triệu một trăm sáu mươi bảy ngàn đồng)
  9. 10/02/20104884 - 0008935+300,000.00 FTF.CN:6868680755419014 .FrAcc:0071001645358 .ToAcc:0071001527081 Ghi nhận có 300,000đ (ba trăm ngàn) của Btkhanh đóng góp cho Từ Thiện. Quỹ hiện có:1,867,000 đ + 300,000 đ= 2,167,000 đ(hai triệu một trăm sáu mươi bảy ngàn đồng)
  10. 14 mẹo hay cho sức khỏe ngày xuân 10/02/2010 10:37 Những bài thuốc đơn giản để xử lý những bất ổn của cơ thể vào ngày tết. 1. Gừng tươi hay khô đều có vị cay, thơm, tính ấm, tác dụng làm ấm bụng, cầm nôn mửa, tiêu chảy do rối loạn tiêu hóa. Lấy củ gừng để cả vỏ, lùi hoặc nướng cho cháy vỏ ngoài, đập giập, cho vào nước nấu uống vài lần trong ngày. Nếu cảm thấy hơi đầy bụng, khó tiêu, lấy gừng chấm muối ăn mấy miếng sẽ khỏi. Gừng còn có tác dụng giải độc khi ăn nhiều cua, cá... 2. Hạt ngò, khoảng nửa muỗng cà phê hạt ngò khô sao vàng cho thơm, cho vào nước nóng hãm lấy nước uống. Có thể giã 100 gam hạt ngò ngâm trong một lít rượu nếp để dành sẵn trong nhà, sau 15 ngày có thể dùng được. Người hay bị lạnh bụng, không tiêu, nôn mửa, uống 1-2 muỗng cà phê vài lần trong ngày sẽ khỏi. 3. Trần bì (vỏ quýt khô), lấy vài miếng vỏ quýt xé nhỏ, cho vào cốc nước sôi, hãm trong 5 phút, uống lúc nóng, trị đầy bụng, khó tiêu. 4. Hạt tiêu, khi bị thổ tả, ăn không tiêu, lấy 2-4 gam hãm nước sôi, uống lúc nóng. 5. Cồn bạc hà, rất hữu ích trong trường hợp đầy bụng không tiêu, mỗi lần 20 giọt, uống với nước ấm. 6. Củ riềng, lấy 10 gam, sắc chung với một quả táo, lấy khoảng 100ml chia 2-3 lần uống trong ngày chữa đau bụng không tiêu, nôn mửa. 7. Vỏ hạt cau khô 6-12 gam, sắc lấy nước uống chữa tiêu chảy, bụng đầy trướng do ăn uống không tiêu. 8. Sả vừa giúp tiêu thực vừa giải độc rượu rất tốt. Lấy một bó sả gồm 3-5 tép, cắt nhỏ đun sôi lấy nước uống ngay lúc ấm, nếu dùng tinh dầu 3-6 giọt pha trong cốc nước ấm, uống ngay. Người đang say rượu uống vào sẽ nhanh chóng tỉnh táo và đỡ mệt, đỡ nhức đầu. 9. Lấy 20 gam hạt đậu ván trắng, giã nát, hòa nước nóng hoặc sắc rồi uống, chữa ngộ độc rượu, đau bụng, nôn mửa. 10. Nếu say rượu kèm đau đầu, lấy 50 gam rau cần tươi, giã nhuyễn vắt lấy nước uống. 11. Lấy ba lát gừng tươi giã nhuyễn, vắt lấy nước, hòa thêm 50ml giấm ăn và ít đường, uống giúp giải độc rượu. 12. Pha cà phê đậm hoặc trà thật đậm chừng 100ml, không đường, không đá, uống từng chút một cho thấm sẽ giúp giải độc rượu. 13. Uống một ly nước ép cam tươi, chanh tươi hoặc lê, táo sẽ giúp tỉnh táo sau uống rượu. 14. Khi muốn nôn, loại bỏ rượu khỏi dạ dày, có thể uống một cốc nước nóng có thêm một nhúm muối, dạ dày sẽ phản ứng co thắt mạnh và giải phóng rượu ra ngoài. Theo Tuổi Trẻ
  11. Wild đã PM cho bạn cụ thể về việc Ngân Hàng xác nhận TK chưa nhập số tiền đóng góp của bạn, tuy nhiên vẫn ghi nhận tình cảm của bạn dành cho những mãnh đời bất hạnh. Mọi việc cũng còn tùy duyên bạn nhỉ?
  12. Trung Quốc trong mắt Nhật Bản, cách nhìn tạo ra số phận Thử nhìn lại lịch sử, tham chiếu Nhật Bản, một nước cũng là láng giềng Trung Quốc như Việt Nam, nền văn minh cũng sinh sau đẻ muộn như Việt Nam, và quy mô quốc gia cũng nhỏ bé như Việt Nam, đã định vị Trung Quốc như thế nào trong một bối cảnh lịch sử tương tự như Việt Nam. LTS: Thế giới, đặc biệt là các nước ở châu Á, xem sự trỗi dậy của Trung Quốc có tính cách thời đại, đang bàn thảo sôi nổi về tác động này. Định vị Trung Quốc đang trở thành một chủ đề nóng ở nhiều nước trong khu vực. Bài viết dưới đây đưa ra một góc phân tích về cách nhìn Trung Quốc của Việt Nam và Nhật Bản thời phong kiến. Đây là góc nhìn riêng của tác giả cần được tranh luận, làm sáng tỏ thêm. Mời bạn đọc phản biện bài viết này. Nếu như lịch sử hiện đại của các nước Đông Á (Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản) là lịch sử quan hệ với Phương Tây, thì trong các thời kỳ tiền hiện đại, lịch sử của Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản là lịch sử của mối quan hệ với Trung Quốc. Trong thời đại ngày nay, khi Trung Quốc đang ôm tham vọng giành lại vị trí lịch sử đặc biệt trước đây. Để định vị chính mình, Việt Nam không thể không định vị Trung Quốc. Chúng ta hãy thử nhìn lại lịch sử, tham chiếu Nhật Bản, một nước cũng là láng giềng Trung Quốc như Việt Nam, nền văn minh cũng sinh sau đẻ muộn như Việt Nam, và quy mô quốc gia cũng nhỏ bé như Việt Nam, đã định vị Trung Quốc như thế nào trong một bối cảnh lịch sử tương tự như Việt Nam. Trung Quốc trỗi dậy. Ảnh: Reuters. Trung Quốc không phải là "thiên triều" Nước ta suốt nghìn năm, mỗi khi Trung Quốc xâm lăng thì ngoan cường tuyên bố "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", nhưng thắng họ rồi thì lại đều đặn triều cống, các Vua mỗi khi lên ngôi thì luôn xin "thiên triều" phong tước, tự coi mình là nước nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong con mắt Nhật Bản, Trung Quốc không may mắn có cái vị trí ấy. Trong suốt lịch sử trung đại, không có bất kỳ một ông Nhật hoàng nào cử sứ giả sang Trung Quốc xin tước phong. Ngay trong bức thư đầu tiên gửi Tùy Dạng Đế để thiết lập quan hệ ngoại giao, thái tử Shotoku đã mở đầu: "Thư này là thư của thiên tử xứ mặt trời mọc gửi thiên tử xứ mặt trời lặn". Trung Quốc dĩ nhiên là tức giận, nhưng phải chấp nhận. Rồi dần dần thành quen, và... chấp nhận vĩnh viễn. Với chúng ta, chỉ khi nào bán nước như Lê Chiêu Thống thì mới bị nguyền rủa, còn "nộp cống xưng thần" là chuyện nhỏ, ngay cả với Lê Thái Tổ hay Quang Trung. Ở Nhật Bản, Ashikaga Yoshimitsu (cuối thế kỷ 14), là vị Shogun (tức "tướng quân", dưới quyền Nhật hoàng) duy nhất trong lịch sử Nhật nhận tước phong của Trung Quốc. Và chỉ có thế, cái tên của ông này đã bị lịch sử Nhật Bản muôn đời nguyền rủa như một vết nhơ khó rửa của dân tộc. Như vậy, ngay cả khi không hề có chiến tranh, họ vẫn thiết định một tư thế bình đẳng trong ngoại giao. Đừng nghĩ rằng vì Việt Nam quá gần Trung Quốc mà đành nhân nhượng. Chỉ cần xem quá trình Vương An Thạch phải mất nhiều năm chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt năm 1076 là rõ. Thời đó, chuẩn bị một cuộc chiến tấn công Việt Nam không hề dễ dàng. Việt Nam lựa chọn như vậy về mặt chính trị, vì một nguyên nhân văn hóa: chúng ta chấp nhận văn hóa Trung Quốc là một "khuôn mẫu đỉnh cao", do đó, dù kháng chiến ngoan cường để giữ độc lập trong thực tế, nhưng về mặt chính trị, lại chấp nhận mình thuộc vùng ảnh hưởng của nó. Vậy, tiếp theo, ta thử xem Nhật Bản trước đây nhìn văn hóa Trung Quốc như thế nào. Trung Quốc không phải là khuôn mẫu Nhật Bản dĩ nhiên thừa nhận Trung Quốc là một nền văn minh rực rỡ và học tập nó hết mình, nhưng khác Việt Nam, Nhật Bản không cho phép Trung Quốc trở thành khuôn mẫu. Có thể thấy sự lựa chọn này ở tất cả những lĩnh vực chủ yếu của nền văn hóa. Cắm rễ trên nền tảng văn minh nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, Việt Nam dĩ nhiên có một bản sắc khác biệt với Trung Quốc, ngay từ cội rễ. Nhưng ta thử nhìn vào phần văn hóa bác học, phần được tầng lớp tinh hoa dân tộc du nhập về và "đặt chình ình" vào giữa cơ thể dân tộc. Là một nước đi sau, Việt Nam muốn bắt kịp Trung Quốc. Nhưng ít nhất là từ thế kỷ XV trở đi, chúng ta có một cách nhìn lạ lùng: không thua Trung Quốc nghĩa là... không khác Trung Quốc. Bị dẫn dắt bởi cách nhìn này, những sáng tạo của chúng ta thật đáng tự hào, nhưng chỉ có điều, ở khá nhiều lĩnh vực chủ yếu, chưa bao giờ vượt ra ngoài "chiếc hộp Trung Quốc". Tổ chức khoa cử như Trung Quốc. Sắp xếp bộ máy nhà nước như Trung Quốc. Dùng hoạn quan như Trung Quốc. Viết chữ Hán như người Trung Quốc viết... Xây dựng Văn Miếu, biểu tượng của nền văn hiến nước nhà, chúng ta không dám làm bất kỳ chi tiết nào khác với Khổng miếu ở Trung Quốc. Văn miếu (Việt Nam) xây dựng từ thế kỷ 11. Khang Hy ở thế kỷ 17 đến thăm Khổng miếu (Trung Quốc), viết 8 chữ "Vạn thế sư biểu. Khang Hy ngự thư". Chúng ta cũng lật đật làm một tấm bảng y như vậy để treo ở nhà mình, đến nỗi Hồ Cẩm Đào ở thế kỷ 21 này đến thăm Văn miếu (Việt Nam), nhìn 8 chữ ấy, từng bối rối vì ngỡ đang... ở nhà. Ngay cả trong những sáng tạo nhằm mục đích phân biệt mình với Trung Quốc, chúng ta cũng sáng tạo trong khuôn khổ của Trung Quốc: sáng tạo chữ Nôm, nhưng theo đúng những nguyên tắc của chữ Hán, bắt buộc những ai muốn học chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước. Nhật Bản thì không cho phép Trung Quốc có vinh dự là một lò gạch để đúc nên những cục gạch giống nhau. Họ không tổ chức khoa cử như Trung Quốc. Không xây dựng hệ thống nhà nước như Trung Quốc. Không dùng hoạn quan như Trung Quốc. Dùng chữ Hán, nhưng ngay trong cuốn sử đầu tiên, "Cổ sự ký", họ phá vỡ mối quan hệ giữa âm và nghĩa của chữ Hán để viết một thứ chữ Hán mà người Trung Quốc... không đọc được. Suốt hơn một nghìn năm độc lập phong kiến và tự chủ khi học hỏi Trung Quốc, Việt Nam có nhiều sáng tạo độc đáo, rất riêng, nhưng không có những đóng góp khiến Trung Quốc ngày nay nhìn lại mà hổ thẹn. Chúng ta không thể làm điều đó, vì ngay từ xuất phát điểm là cách nhìn và cái nhìn, "chữ thánh hiền" là chữ Trung Quốc, "người thánh hiền" là người Trung Quốc, nhìn chung, mọi hình mẫu đều nằm ở Trung Quốc. Vậy chúng ta thử nhìn xem ông bạn Nhật kia học Trung Quốc bằng thái độ văn hóa nào. Trả ơn thầy bằng cách giỏi hơn thầy Các bậc đại Nho của chúng ta coi mọi điều hay lẽ phải đã được "thánh hiền Trung Quốc" nói hết cả, mình không cần phải lập thuyết làm gì, chỉ cần sống sao cho đúng. Ở Nhật Bản xưa, các nhà Nho được tôn vinh là bậc đại Nho là những người dám làm một việc mà đối với các nhà Nho Việt Nam là không thể chấp nhận được: phủ định triệt để thánh hiền Trung Quốc, để xây dựng một cách nhìn và cái nhìn một mới về nhân sinh. Ảnh: 2m.au.com Trong văn hóa Việt Nam, có bậc đại Nho nào của chúng ta khi biện luận mà dám đặt vấn đề một cách "vô lễ" như thế này với thánh hiền Trung Quốc? Sách "Sentetsu Sodan" ("Tiên triết tùng đàm") của Nhật kể về Yamazaki Ansai, bậc đại Nho của Nhật Bản thế kỷ 17, như sau: Một hôm Yamazaki Ansai hỏi các môn đệ: "Nếu bây giờ Trung Quốc cử Khổng tử làm chánh tướng, Mạnh tử là phó tướng, dẫn vài vạn binh thuyền tấn công nước ta. Là học trò của Khổng Mạnh, các trò sẽ làm gì?". Nghe câu hỏi là biết câu trả lời rồi. Các học trò của Khổng Mạnh sẽ phải... chém đầu Khổng Mạnh để báo ơn vua, như chính Khổng Mạnh đã dạy. Việt Nam thì chỉ có thể chém đầu Ô Mã Nhi, Liễu Thăng, chứ chém đầu cụ Khổng cụ Mạnh thì không dám. Chúng ta không cảm thấy cần phải "đặt vấn đề" về mặt văn hóa với Trung Quốc. Thế kỷ 17, Nhật Bản có một bậc đại Nho là Ito Jinsai phê phán triệt để Tống Nho: để hiểu Đạo của người, không thể bằng cách nhìn đạo của Trời thông qua Lý, như Tống Nho quan niệm, mà cần nhìn thẳng vào chính cuộc sống đời thường và trần tục này. Họ có những kẻ điên. Tominaga Nakamoto, đầu thế kỷ 18, còn đi xa hơn nữa, lớn tiếng tuyên bố rằng, đạo Nho là của Trung Quốc, đạo Phật là của Ấn Độ, Thần đạo thì của Nhật Bản nhưng của thời xưa. Cần một triết thuyết mới cho cuộc sống thực hôm nay. Nakamoto tuyên bố vậy, nhưng chẳng làm được gì cả. Chí nguyện là một chuyện, còn có sáng tạo được cái "triết thuyết mới" ấy hay không là chuyện khác. Tuy nhiên, điên như Nakamoto là dở cho riêng ông nhưng tốt cho đất nước ông. Khoảng nửa thế kỷ sau, thái độ thách thức cái vị trí đỉnh cao văn hóa của Trung Quốc đã đi đến đích: ngay từ trước duy tân Minh Trị gần một thế kỷ, cậu học trò Nhật Bản có những cống hiến thực sự trong thực tế để dạy lại ông thầy của mình. Các học phái "Kokugaku", "Rangaku", "Mito"... đã phủ nhận tận gốc vị trí lãnh đạo của văn hóa Trung Quốc, bằng cách chỉ ra những lý luận phi tự nhiên của Nho giáo Trung Quốc, sự cực đoan của học thuyết "thiên mệnh", những sai lầm trong những kiến thức y học Trung Quốc về giải phẫu người... Học tập Trung Quốc là chịu ơn Trung Quốc. Chịu ơn thầy thì phải trả ơn thầy. Cách trả ơn duy nhất đúng là cống hiến cho ông ấy những hiểu biết mới của riêng mình. Lời cuối cho một khởi đầu Sang đến thế kỷ XIX, ở Việt Nam, đáp lại tiếng khóc canh tân thảm thiết của Nguyễn Trường Tộ là cái im lặng đáng sợ của một hoang mạc tinh thần, vì ngay cả khi Việt Nam đã bị Pháp nghiền nát, những ông quan hay chữ trong triều đình Huế vẫn chưa thôi sùng bái Trung Quốc như là "khuôn mẫu đỉnh cao". Ở Nhật Bản, vì dám thách thức thầy mình về mặt trí tuệ, nên sang đầu thế kỷ XIX, trí thức Nhật không bất ngờ khi thấy Trung Quốc đại bại trước Anh quốc trong chiến tranh nha phiến. Và nhờ thế, họ được chuẩn bị sẵn về mặt tinh thần để đáp lại tiếng gọi canh tân của Fukuzawa Yukichi bằng một nhịp bước quân hành khiến cả bầu trời rung chuyển. Cách nhìn tạo ra cái nhìn. Cái nhìn tạo ra sự lựa chọn. Sự lựa chọn tạo ra số phận. Số phận thay đổi khi cách nhìn thay đổi. Người Nhật ngày trước nhìn văn hóa Trung Quốc như thế nào thì sau đó họ cũng nhìn văn minh Phương Tây theo cách ấy. "Học tập Phương Tây, Đuổi kịp Phương Tây. Vượt qua Phương Tây" - đó là tinh thần Nhật Bản suốt từ thời kỳ Duy tân đến nay. Tinh thần này trùm lên mọi lĩnh vực, kể cả văn chương nghệ thuật. Dĩ nhiên, khi nghe khẩu hiệu này của Nhật Bản, ta sẽ cảm thấy họ lộng ngôn. Bởi "Phương Tây" là cả một thế giới khổng lồ và đa dạng. Nhật Bản không thể so sánh được về mặt quy mô. Nhưng, lộng ngôn thì cũng như... Nakamoto ở thế kỷ 18 là cùng. Mỗi dân tộc khi tham gia vào dòng chảy toàn cầu hóa đều không thể không định vị quốc gia mình trên bản đồ thế giới. Mỗi người Việt định vị bản thân mình trước cuộc đời như thế nào thì Dân tộc Việt định vị chính nó trước thế giới như thế ấy. Sức mạnh của một dân tộc thể hiện rõ nhất không phải khi nó đứng ở vị thế của kẻ mạnh, mà khi nó sinh ra, mới ngước mắt nhìn mặt trời đã nhận thấy mình là kẻ yếu. Một dân tộc yếu khi còn chưa thôi thách thức những đỉnh cao, nó vẫn còn đang sống, đang hành trình. Một dân tộc đã chấp nhận một đỉnh cao nào đó là khuôn mẫu vĩnh viễn, nó là một chiến binh "gục bên súng mũ bỏ quên đời". Tác giả: Nguyễn Lương Hải Khôi Bài đã được xuất bản.: 07/02/2010 07:30 GMT+7 nguồn tuanvietnamnet.vn
  13. Đã nhận của Anh Thiên Sứ 500,000 đ và Chipchip 200,000 đ vào ngày hôm nay góp vào Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 1,167,000 đ + 700,000 đ=1,867,000 đ(một triệu tám trăm sáu mươi bảy ngàn đồng)
  14. Bạn vào xem để có thông tin này. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=3431
  15. Trên đường đời xuôi ngược, đôi khi ta chỉ có Duyên với nhau ở một quảng thời gian nào đó, hết duyên thì hãy giữ lại cái nghĩa tình để đãi nhau.
  16. Minh triết Việt trong sự tích Ông Táo (Phần 1) Rất nhiều người quan niệm rằng tục cúng ông Táo là của người Hán du nhập vào văn hóa Việt. Thậm chí nó được các học giả nói một cách rất nghiêm túc. Nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh lại có quan điểm hoàn toàn ngược lại. Ông Tuấn Anh cho rằng: Chính nền văn hiến Việt trải gần 5000 huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử là nguồn gốc của phong tục cúng ông Công Ông Táo. Khi nền văn minh này sụp đổ ở Nam Dương Tử và bị Hán hóa trải hàng ngàn năm; khiến ngày nay người ta ngộ nhận tục cúng ông Công Ông Táo của người Hán. Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của ông để bạn đọc tham khảo và tiếp tục thảo luận. Ông Táo trong truyền thuyết và phong tục Việt Cứ mỗi khi năm hết Tết đến thì nhà nhà Việt Nam theo phong tục lại làm lễ cúng Ông Táo về trời. Đây là một phong tục thuần Việt có từ thời Hùng Vương dựng nước và còn giữ lại trong truyền thống văn hóa Việt đến ngày nay. Bằng chứng gián tiếp cho điều này là từ thời Hùng vương thứ VI, vua Hùng đã chấm giải nhất cho hoảng tử Lang Liêu là người kế vị và bánh chưng bánh dày do hoàng tử Lang Liệu được đặc biệt dùng cúng tổ tiên trong ngày Tết. Từ đó, chúng ta dễ dàng suy ra rằng: Lễ Tết nguyên đán có từ thế kỷ XV trước CN - tương đương thời vua Bàn Canh của Ân Thương. Từ đó chúng ta dễ dàng đặt vấn đề với lễ cúng Ông Táo về trời liên hệ đến ngày giáp Tết phải là phong tục của người Việt từ thời xa xưa. Bởi vì, khi nền văn minh Hoa Hạ tiếp quản được nền văn minh ở Nam Dương Tử, đã Hán hóa những giá trị văn hóa Việt trong hơn 1000 năm và tiếp tục duy trì đến bây giờ, ở vùng đất cũ của Văn Lang xưa, khiến không ít người ngộ nhận tục cúng ông Táo của người Hán. Nhưng chính vì nguồn gốc tục cúng Ông Táo trong văn hóa Hán chỉ là sao chép lại từ văn hiến Việt. Nên nó chỉ là một tín ngưỡng thuần túy và không mang tính minh triết liên hệ với nội dung của nó. Ngược lại, truyền thuyết của dân tộc Việt với hình ảnh Táo quân "Hai ông, một bà" và nội dung của nó lại trùng khớp hoàn toàn về nội dung với những giá trị minh triết Đông phương của chính cái mà người ta gọi là có nguồn gốc Hán. Chúng ta hãy xem lại truyền thuyết có dấu ấn cổ xưa nhất về ông Táo còn lưu truyền trong văn hóa Việt. Tóm lược như sau: Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi bèn cho ba người hóa thành "ba đầu rau" hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa. Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Tranh dân gian Việt - bản khắc gỗ Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình. Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người. Cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể. Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là "cò bay ngựa chạy") để làm phương tiện cho "Vua Bếp" lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ, nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống. Càng tiến dần vào trong Nam thì tục cúng ông Táo về trời có một chút thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở miền Bắc với một nghi lễ không thể thiếu là Cá Chép là mang tính nguyên thủy hơn cả. Qua truyền thuyết của dân tộc Việt truyền lại, chúng ta thấy rằng hình ảnh hai ông một bà - tức một Âm hai Dương hoàn toàn trùng khớp với quẻ Ly trong Kinh Dịch. Quẻ Ly Vết lõm trên ông đầu rau trong bếp Việt xưa Ba vị Táo quân trong phong tục Việt cũng phù hợp với thực tế cái bếp xưa của Việt tộc cũng chỉ có ba miếng đất gọi là: Ông Đầu rau. Một trong những nét độc đáo khi tạo ba ông đầu rau để nấu bếp là khi nặn bao giờ người thợ nặn cũng lấy ngón tay ấn nhẹ vào giữa một trong ba ông này, tạo thành một vết lõm tròn. Và ông đầu rau có vết lõm đó bao giờ cũng đặt vào giữa. Ba ông Đầu rau trong bếp Việt xưa Bây giờ, bếp ga, bếp dầu ầm ầm. Xưa nhất cũng là cái kiềng ba chân bằng sắt phổ biến ở thành thị. Ông Đầu rau bằng đất dù ở vùng sâu, vùng xa cũng chắc không còn nữa. Huống chi một vết nhấn tròn giữa một ông đầu rau, chắc chẳng ai còn nhớ. Cho nên, điều mà người viết nói ở đây, may ra chỉ còn trong ký ức của những người cao niên, ở một miền quê xa xôi nào đó. Ý nghĩa của vết lõm này chính là dấu hiệu của tính bao trùm mà tiếng cổ Việt ngày xưa gọi là "Cái'. Tức Táo bà. Quẻ Ly thuộc Dương, nhưng lại ở phía dưới Hà Đồ, nên tính Âm mới bao trùm lên tất cả. Bởi thế tính Âm mới làm cái trong ba ông Đầu rau. Chính vì vậy, Ly là Trung Nữ. Trong bức tranh dân gian Việt mà các bạn thấy ở trên táo bà ngồi giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Biểu tượng trong truyện dân gian "cả ba người cùng chui trong đống lửa" đấy chính là hình tượng của ba ông đầu rau trong bếp mỗi nhà. Tranh Đàn Cá. Thiên nhất sinh thủy. Địa lục thành chi. Lạc Thư Chu Dịch trong phong tục cúng Táo Quân của người Việt Một hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính là con cá chép. Tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao không phải là cưỡi chim? Ông cha ta có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn không! Khi mà tổ tiên người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con cá chép thuộc hành thủy. Trong những di sản văn hóa phi vật thể là những bức tranh dân gian Việt chúng ta thấy trang đàn lợn với một lợn mẹ và năm lợn con. Đây chính là hình tượng của "Thiên Nhất sinh thủy - Địa lục thành chi". Chúng ta cũng thấy hình tượng này trong tranh cá chép làng Đông hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế. Biểu tượng Táo Quân (Hỏa) cưỡi trên lưng cá chép (Thủy). Cá thuộc hành Thủy, tượng của quẻ Khảm: Và hình tượng Táo quân cưỡi cá chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị tế trong kinh Dịch. Đây là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 tư quẻ Dịch. Biểu tượng cho chu kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết thúc và chuyển sang một chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới tốt lành. Đó là tinh thần của quẻ Vị Tế. (còn nữa) Nguyễn Vũ Tuấn Anh nguồn tuanvietnamnet.vn
  17. Đây là một câu hỏi hay! Nhưng SP phê quá đúng! Giá như nghiêm túc 1 chút cũng có người có kiến thức toàn thư họ trả lời đấy !
  18. Huyền thoại đạo sĩ Thất Sơn - Bài 1: Đạo và đời Khai mở đất hoang, giúp dân chữa bệnh…, vị giáo chủ đến với tín đồ không phải chỉ lvới những lời rao giảng mà rất “đời”. Họ là những người góp công lớn khai mở đất vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, tích trữ lương thảo chống giặc. Lịch sử pha lẫn huyền thoại về những đạo sĩ Thất Sơn là một phần của lịch sử khẩn hoang Nam Bộ. Loạt bài giới thiệu một số mẩu chuyện kết hợp khảo cứu và truyền khẩu về các đạo sĩ Thất Sơn. Danh tăng Đoàn Minh Huyên là giáo chủ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, được tín đồ suy tôn là Đức Phật Thầy Tây An. Ông đã cùng đệ tử lập nên làng Xuân Sơn và Hưng Thới, tức xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên (An Giang) ngày nay. Mang màu sắc của một tôn giáo nhưng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là tu tại gia, không cần xuống tóc, miễn sao tròn cái đạo làm người. Đó là triết lý sống căn cơ của người chính đạo. Giúp dân thoát đại dịch Theo công trình biên khảo của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp và lời truyền kể của dân gian, khoảng năm 1849, đang chu du giảng kinh, vừa lúc biết vùng Đất Sét-Cái Tàu Thượng (Lấp Vò) người dân lâm đại nạn dịch tả và chết ngày càng nhiều, Đức Phật Thầy tức tốc trở về. Ngài đã trị và cứu được không biết bao nhiêu người mắc bệnh. Ổ dịch nơi này dứt thì nơi lân cận phát, với chiếc xuồng con sắp nát, ngược dòng Tiền Giang, ông bơi riết đến lòng Ông Chưởng cứu dân. Ông dựng một mái trại đơn sơ ở Cái Xoài (Chợ Mới), bắt tay ngay vào việc trị bệnh. Bệnh phát ra ở đâu có mặt ông ở đó. Tại Tòng Sơn, Trà Bư, Xẻo Môn, Kiến Thạnh, bằng cách khuyên người tu tâm dưỡng tánh, hoặc vài ba loại hoa lá có sẵn quanh vườn nhà, thế mà ông trị bệnh gì cũng dứt. Người dân khâm phục, đến xin quy y đông nghẹt. Nhà cầm quyền lúc ấy sợ, mời ông về cầm giữ tại An Giang để tra xét. Sau thời gian thử thách, biết rõ ông là bậc chân tu nên cho vào chùa Tây An Cổ Tự ở núi Sam. Thới Sơn Tự, nơi Đức Phật Thầy ở, ngày nay khách thập phương thường đến viếng. Ảnh: VĨNH SƠN Tại đây, ông cảm hóa được vị thiền sư chủ chùa và thu hút hàng vạn thập phương thiện tín. Để tự do hành đạo theo chủ trương của mình và tránh sự khó dễ của chính quyền do hằng ngày thiện tín đến quá đông, ông cho di tản tín đồ, khai hoang tản mạn nhiều nơi. Các vùng xa xôi hoang vắng, chưa có vết chân người là chỗ tốt để Bửu Sơn Kỳ Hương của ông hoạt động. Đi khẩn hoang Năm 1851, từng đoàn tín đồ của Đức Phật Thầy chia nhau ra đi. Đoàn thứ nhất đi vào Thất Sơn, nơi rừng bụi rậm rì, đầy thú dữ. Nơi đây các nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn được dựng lên (nay là xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên). Đoàn thứ hai đến Láng Linh, một vùng bùn lầy, mùa lụt như biển cả, mùa hạn thì như bãi đất hoang. Địa thế bất tiện cho nông nghiệp nhưng rất thuận lợi cho khách ẩn cư vì tiếp giáp với láng là rừng Bảy Thưa. Tại vùng này, một trại ruộng tên Bửu Hương Các được cất lên để vừa ở tu, vừa chăm lo khai phá cánh đồng hoang. Vùng này là xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, An Giang ngày nay. Đoàn thứ ba về miệt Cần Lố, vùng Đồng Tháp Mười. Một ngôi chùa được dựng lên tại Trà Bồng, ruộng rẫy được khai mở… Đoàn thứ tư về Cái Dầu, sát hữu ngạn Hậu Giang, nơi có nhiều phù sa. Những người điều khiển nông trại Bửu Sơn Kỳ Hương là các vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy. Họ là những người đạo đức gương mẫu, giỏi võ nghệ. Những nơi họ đến khai hoang, về mặt chủ quyền là những vùng đã thuộc về Việt Nam từ lâu nhưng muốn đưa người vào định cư lập nghiệp không phải giản đơn, bởi đâu đâu cũng toàn rừng bụi, cọp beo, rắn rít, lại thêm sơn lam chướng khí nhiều… Theo dân gian, nơi đâu đoàn người khai hoang của các vị đại đệ tử Đức Phật Thầy đến thì thú dữ tự dưng được thuần phục. Các ngài không ai đem theo gươm giáo, chỉ võ trang bằng cái tâm cái đức, bằng lời khuyên răn mà thú dữ khuất phục, có khi còn quấn quýt bảo vệ. Phải làm thì mới có ăn Ông Nguyễn Sơn Đào (Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang), người đang nắm giữ gần nửa ngọn núi Ông Két, nơi Đức Phật Thầy từng lập ra hai ngôi làng Xuân Sơn và Hưng Thới, phân tích: “Đức Phật Thầy quan niệm “có làm thì mới có ăn”, mới có sức khỏe để phụng sự nhân dân, đất nước. Làm người đương nhiên phải có đạo đức. Do vậy, ông dùng văn thơ để nói về cách sống của người có đạo đức mà sau này gọi là giáo lý và những câu sấm truyền”. Ông Nguyễn Hữu Nghi lật lại từng trang sách chữ Nôm viết về “tứ ân” mà Đức Phật Thầy từng truyền dạy. Ảnh: VĨNH SƠN Lúc mới về Thất Sơn, Đức Phật Thầy huy động nhân dân quanh vùng bày cách khai thác đá sỏi để làm đất bằng mà trồng khoai mì, cấy lúa, dùng nước suối mà tưới tiêu. Ông cho lập ra ba trại gọi là trại ruộng, trại rẫy và trại cưa để phục vụ canh nông và xây dựng làng mạc. Tại đây ông lần lượt thu thập nhiều đệ tử, trong đó nổi tiếng có “thập nhị hiền thủ” là 12 vị đệ tử đầu tiên xin quy y với thầy. Công cuộc khai mở đất của đoàn bổn đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ở cả hai vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Sau khi lập nên các nông trại khẩn đất hoang canh tác lúa nước, nhiều đoàn người được chỉ dụ của Đức Phật Thầy đi sang cánh Đồng Tháp Mười mở đất, truyền đạo. Lấy tứ ân làm trọng Người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không cần đi chùa, cúng miễu hay hành đạo rườm rà. Được phép cưới vợ, gả chồng và một mực giữ vẹn nghĩa phu thê. Đức Phật Thầy truyền dạy lấy tứ ân làm trọng. Ở chùa Phi Lai Tam Bửu có ông Nguyễn Hữu Nghi (Hai Nghi), giữ chức phó ban quản tự khu di tích lịch sử Ba Chúc, cắt nghĩa tứ ân rành rọt. Ông là người may mắn được gặp gỡ các bậc cao niên đi trước như “ông già Nam Bộ” Sơn Nam, giúp các vị này sưu khảo để lại tư liệu của mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương từ thời kháng Pháp. Ông Hai Nghi kể trong tứ ân có hai vấn đề: tứ đại trọng ân và trọng ân. Trong tứ đại trọng ân tức là con người phải nhớ ơn đất, nước, gió, lửa. Bởi đây là bốn yếu tố cấu thành vạn vật hiện hữu trên thế gian. Còn tứ trọng ân gồm: ơn tổ tiên, cha mẹ; ơn tổ quốc; ơn tam bảo; và ơn đồng bào, nhân loại. Là một công dân, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ đất nước. Nếu thời bình ta phải làm cho đất nước được giàu mạnh, thời chiến ta phải hy sinh chiến đấu để giữ độc lập cho đất nước. Tam bảo tức là Phật, Pháp, Tăng. Người tu hành luôn luôn tuân theo Phật, Pháp, triệt để không hành động ngoài giáo lý của nhà Phật. Mọi sự mê tín dị đoan, tin vào chuyện ma quỷ, đồng bóng… đều là khắc tinh của người chính đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông Đoàn Minh Huyên sinh ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) tại Tòng Sơn, tổng Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc huyện Lấp Vò, Đồng Tháp). Tại xã Thới Sơn ngày nay có ngôi trường mang tên đạo sĩ Đoàn Minh Huyên “Trường THCS Đoàn Minh Huyên” để ghi nhớ ơn lập làng của ông. Mộ của ông hiện nằm cạnh Tây An Cổ Tự ở núi Sam (Châu Đốc).VĨNH SƠN
  19. Ông Đạo Lập tàng hình- bài 3 Những câu chuyện truyền khẩu từ đời này sang đời khác đã phủ lên các đạo sĩ Thất Sơn một màu sắc thần thoại. Được mệnh danh là người có nhiều phép thuật và trị bệnh giỏi của Bửu Sơn Kỳ Hương là ông Phạm Thái Chung mà người đời thường gọi là ông Đạo Lập (do ông lập nên chùa Bồng Lai ở Bà Bài, xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên). Sang sông rộng bằng chiếc nón làm thuyền Nhờ tự thân tu luyện nên dân gian truyền tụng ông Đạo Lập có nhiều phép lạ. Những lúc ngao du bốn biển, muốn sang sông rộng, biển sâu ông chỉ cần dùng chiếc nón lá rộng vành đang đội trên đầu thẩy xuống nước làm thuyền. Ông còn đoán biết trước chuyện chẳng lành xảy đến mà tránh, thậm chí đi mây về gió để kịp thời cứu khổ cứu nạn cho người khác. Tương truyền buổi đầu thời Pháp thuộc, không biết ông Đạo Lập góp tay cho nghĩa quân thế nào mà thực dân Pháp cứ lùng bắt. Một lần ông đến Hà Tiên thăm nhà người quen, đúng khi bọn thực dân dò ra tung tích nên đến vây bắt. Chợt nghe có tiếng động, ông liền đứng lên cắp nón, cầm gậy xô cửa tầu khậu (nhà ngoài, nơi làm kho chứa hàng hóa) rồi bước vào trong, bảo chủ nhân khóa chặt cửa lại. Lên nhà trên, chủ nhà thấy toán người Pháp đang lục soát, truy tìm ông Đạo Lập. Sau khi sục sạo khắp nơi, họ bắt chủ nhà mở cửa tầu khậu. Lúc ấy tâm trạng chủ nhà như chết đứng, cứ ngỡ mở cửa ra bọn Pháp tóm ông Đạo Lập là cái chắc. Ai dè, cửa mở, chẳng thấy gì trong đó, ông Đạo Lập đã biến đi tự bao giờ! Khu du lịch Mũi Nai (Kiên Giang) là nơi tương truyền ông Đạo Lập đón thuyền trở về với câu chuyện biết tàng hình của ông Đạo Lập. Dân gian truyền khẩu khi đảng Cần Vương còn hoạt động, ở vùng Châu Đốc có một người tên Thái được đảng tín nhiệm. Ông Thái được giao giữ tờ mật chiếu, nếu để bại lộ thì rất nguy. Ông Thái bèn giấu tại miễu thờ Thần Nông hoang vắng. Ít lâu sau ông đến kiểm tra thì phát hiện tờ mật chiếu mất. Một điều lạ là khi giấu ông Thái rất thận trọng, nhét mật chiếu vào trong tờ giấy đề chữ “Thần” lớn, đặt ngay bàn chánh trong miếu. Vì là chỗ tôn nghiêm nên tờ giấy này xưa nay không ai dám động đến. Mất mật chiếu, ông Thái hết sức lo sợ cơ mưu bị bại lộ. Tình cờ, một hôm ông Đạo Lập gặp ông Thái, trong câu chuyện ông Đạo Lập tiết lộ đã hóa rắn theo dõi và đốt tờ mật chiếu để bảo vệ mưu đồ đại nghĩa. Từ đó người đời đồn đại và tin là ông Đạo Lập biết tàng hình. Dự báo thiên cơ Theo lời của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội ở Hà Tiên, bà từng nghe kể lại ngày xưa ông cố của bà vốn là nhà hàng hải, thường chở hàng hóa sang Xiêm (Thái Lan) buôn bán. Hồi ấy, ông cố vừa đóng xong chiếc thuyền buôn đặt tên là Minh Thuận và định cho xuất cảng với hàng hóa là hồ tiêu, hải sâm, đồi mồi… thì đúng lúc ông Đạo Lập ghé nhà chơi. Sau lễ cúng kiếng, ông cố của bà hỏi xin ông Đạo Lập một phép bình an, may mắn cho chuyến khai trương đặc biệt này. Ông Đạo Lập đưa cho ông cố bà ba lá bùa và nói chuyến đi rồi cũng may mắn, phát tài. Duy chỉ có vướng chút lo sợ nhưng cuối cùng sẽ bình an vô sự. Với ba chiếc bùa, khi ra khỏi cửa Hà Tiên thì đốt đi một lá. Lá thứ nhì chờ lúc có một con cá to định làm hại thì đốt. Còn lá thứ ba để dành đốt khi vào cửa sông Bắc Nam. Thuyền dong buồm với 10 người, chiếc bùa thứ nhất được đốt vừa lúc ra khỏi Hà Tiên. Thuyền ra giữa biển, thình lình ở trước mũi thuyền sóng bắn lên cao. Một con cá to nhảy bổng lên khỏi mặt nước, bằng một tầm người đứng. Vị thuyền trưởng nhớ lời dặn của ông Đạo Lập đem đốt lá bùa thứ hai. Thuyền lập tức bình yên, tiếp tục vượt biển. Lênh đênh trên đại dương, một buổi chiều nọ, trước mũi thuyền bỗng vụt hiện lên vật gì to như hòn đảo. Cả thuyền ai nấy đều kinh ngạc, tưởng chừng tàu bị lạc vào đảo hoang. Nhưng nhìn kỹ thì thấy nó cử động và khi đến gần mới nhận ra một con kình ngư khổng lồ, đang đùng đùng lướt sóng chặn đầu thuyền. Biết rõ đó là con vật ăn thịt người, trên tàu ai nấy kinh hoảng. Vị thuyền trưởng bấy giờ mới sực nhớ lá bùa thứ nhì đã đốt, chắc chắn nó phải được đốt vào lúc này mới đúng. Cùng đường, thuyền trưởng đành đem đốt lá bùa thứ ba nhưng hoàn toàn vô hiệu. Cửa sông Hà Tiên, nơi được truyền tụng ngày xưa ông Đạo Lập tiễn thuyền Minh Thuận đi buôn chuyến đầu. Kình ngư lướt tới càng nhanh, cái vẫy đuôi nhẹ của nó cũng đủ làm thuyền lật úp. Lúc ấy mọi người đều trông rõ từng khía cạnh của cánh vi cá khổng lồ. Thuyền trưởng ra lệnh cho thuyền đảo chệch một bên để tránh vật dữ. Tuy nhiên, sóng bủa trùng trùng tràn ngập cả sàn thuyền. Cánh vi cá và cánh buồm thuyền đã cao ngang nhau và chỉ cách chưa đầy chục thước. Nháy chớp, lưng cá đã cọ vào sườn thuyền khiến thuyền chao nghiêng dữ dội. Phút nguy ngập ập đến nhưng không hiểu sao con kình ngư bỗng dừng lại. Đợi khi thuyền vừa vượt khỏi, nó mới quẫy đuôi một cái khiến thuyền phải quay tròn mấy vòng. Mọi vật trên thuyền đều bị xô đổ nhưng từ từ yên trở lại. Ông Phạm Thái Chung người ở làng Đa Phước, huyện An Phú (An Giang). Ngoài tên mà người dân vẫn gọi là Đạo Lập, ông còn có biệt hiệu khác là Đức tiên sinh. Hằng năm cứ vào ngày 26-9 âm lịch, người dân cúng giỗ ông. Từ hôm ấy cho đến khi trở về, thuyền được bình yên, không còn gặp trở ngại. Khi về tới Mũi Nai (Kiên Giang), vị thuyền trưởng vừa lên bờ đã thấy ông Đạo Lập đứng sẵn ở dưới đám dừa bên mé biển, cười nói: “Đoán biết bữa nay cậu về nên ghé lại đón mừng. Chà! Chiều hôm ở ngoài Thổ Châu, cậu đã sợ xanh mặt, khi đó tôi ngồi trên chóp cột buồm chớ đâu. Nếu tôi không giữ cho thuyền vững lại và đuổi quái ngư đi, nó sẽ cắm đến và đội lật thuyền, các người đều đã vào bụng nó rồi. Các người chẳng thấy từ xa nó hướng thẳng về mũi thuyền đó sao!”. Thuyền trưởng bỗng thất sắc, nhớ lại từng phút lâm nguy ngoài biển. Ông Đạo Lập còn nói: “Chỉ tội nghiệp cho con cá bé, bỗng dưng chết oan ức vì lá bùa thứ hai, đáng lẽ phải để mà diệt con quái ngư ấy”. Nghe ông Đạo Lập nói, ai nấy đều kinh hồn. Cho đến nay, dân vùng Thất Sơn và vùng ven biên giới dọc theo tuyến quốc lộ N1, nối từ Bảy Núi về miệt Kiên Lương, Hà Tiên vẫn còn kể khá nhiều chuyện về ông như ông Đạo Lập làm phép, ông Đạo Lập ném dao… VĨNH SƠN
  20. Chuyện thu phục thú dữ của các đạo sĩ- Bài 2 Người đời truyền tụng rằng sức mạnh siêu nhiên từ đoàn người trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đã cảm hóa được thú dữ trở nên lành, không hại người. Trong hàng thập nhị hiền thủ (12 vị đệ tử) của Đức Phật Thầy thì ông Bùi Văn Thân là người thứ hai sau Đức Quản cơ Trần Văn Thành đến quy y, được Đức Phật Thầy giao làm chủ trại ruộng ở Thới Sơn. Trại ruộng ấy ngày nay là chùa Phước Điền, được công nhận di tích lịch sử văn hóa. Người trong đạo thường gọi ông là Tăng chủ (ông Tăng sư làm chủ trại ruộng). Ngoài việc tu luyện đạt được phép thần thông, ông Tăng chủ còn hàng phục được mãnh hổ, giao hảo với hổ như bè bạn. Cứu hổ mắc xương, thu phục mãnh hổ Tương truyền thuở xưa vùng Thất Sơn cọp dữ có tiếng. Từ ngày ông Tăng chủ được giao coi giữ trại ruộng thì thú dữ đều rất sợ. Khi ông đi rừng, hễ cọp thấy thì quỳ mọp, có lúc còn quấn quýt theo ông lên núi như người ta dẫn chó ra đồng vậy. Người đời cho là đức độ cao siêu của ông khiến thú dữ cũng hóa lành. Chuyện kể rằng một hôm, vào chạng vạng, Đức Phật Thầy đi xa về, khi ngài vào gần tới cốc thấy một con bạch hổ ngồi ủ rũ gần bàn Thông thiên. Vừa thấy ông, cọp liền há miệng ra. Đức Phật Thầy bước vào cốc kêu to: “Ông Tăng đâu, ra coi đạo hổ đau gì mà ngồi ủ rũ đó!”. Tăng chủ đang ở sau chùa, nghe tiếng Đức Phật Thầy liền chạy ra chỗ ông hổ ngồi, rồi hỏi: “Ông làm gì ngồi đây? Sao mà ốm quá vậy?”. Ông hổ há miệng ra ngước lên trước mặt ông Tăng. Ông Tăng hỏi thêm: “Bộ ông mắc xương hả?”. Ông hổ liền đập đuôi và gật đầu. “Nếu mắc xương thì cúi đầu xuống”. Ông hổ làm theo lời. Ông Tăng cung tay đấm ngay cổ ông hổ ba cái, tức thì cục xương từ trong miệng ông hổ vọt ra. Hình họa tại chùa Phước Điền thể hiện cảnh ông hổ mang đầu heo rừng đến trả ơn cứu mạng của ông Tăng chủ. Ảnh: VĨNH SƠN Vừa lúc Đức Phật Thầy bước ra dặn ông hổ: “Từ đây tôi cấm ông làm hại bổn đạo của tôi lên núi hay vào rừng trong vùng Thất Sơn nữa nghe không?”. Ông hổ cúi đầu lui ra. Sau đó vài hôm, trước trại ruộng có một con heo rừng bị hổ vật chết còn in dấu răng. Các đạo sĩ ngầm hiểu đó là quà ông hổ mang đến đền ơn. Ngày nay, tại di tích chùa Phước Điền, nhiều người dân sống quanh đó vẫn hay truyền kể cho nhau nghe câu chuyện ấy. Cá sấu ngán bảo bối Bà Hồ Thị Quyên (59 tuổi) là cháu cố ngoại đời thứ tư của ông Đình Tây (tức đạo sĩ Bùi Văn Tây, một trong 12 vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy), người đang được gia tộc giao trọng trách giữ ngôi mộ và những bảo vật do ông để lại. Câu chuyện bà Quyên kể ra đây đã được lưu giữ và truyền khẩu qua nhiều đời, dựa trên chuyện của gia tộc và những hiện vật đang thờ cúng. Ông Đình Tây nuôi một con cá sấu có tới năm chân. Người đời ví con cá sấu như chiếc ghe lớn, di chuyển được là nhờ có năm mái chèo nên đặt tên con cá sấu là ông Năm Chèo. Con cá sấu là món quà ông Tây Đình nhận được từ một gia đình ở miệt Láng Linh (nay là xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú) lúc đang đi hành thiện. Nhưng khi về hậu liêu, nhìn thấy con cá sấu với hình thù kỳ lạ, Đức Phật Thầy khuyên nên giết đi kẻo sau này nó sẽ hại dân lành. Thấy con cá sấu ngộ nghĩnh, ông Đình không giết mà lén mang đến một bụi rậm nơi có hồ sen trước cửa đình thả xuống nuôi. Không lâu sau nó lớn nhanh như thổi. Sợ hại người nên ông Đình lấy dây xích cột chân nó vào cây đại thụ cạnh đình làng. Năm món bảo vật mà Đức Phật Thầy trao cho ông Đình Tây thu phục cá sấu Năm Chèo vẫn đang được thờ cúng ở Thới Sơn. Ảnh: VĨNH SƠN Rồi một ngày trời giông, sấm chớp dữ dội, mưa như trút nước, con cá sấu bẻ xích trốn mất. Ông Đình lần theo dấu dây xích phát hiện có bàn chân người bị cắn đứt. Thấy tình hình không ổn, ông Đình Tây liền vào báo cáo cớ sự với Đức Phật Thầy. Thầy nói: “Đây là cơ duyên của ông với nó, sau này sẽ gặp lại”, rồi Thầy đưa cho ông năm món bảo bối và một câu khẩu huyết biệt truyền (chỉ Thầy và ông Đình Tây biết) để sau này thu phục, sấu thần. Bảo bối gồm: hai cây lao, một cây mun cổ phụng, một lưỡi câu và một đường dây băng. Ít lâu sau người dân làng Láng Linh (nơi ông Sinh cho ông Đình Tây con cá sấu) thấy con cá sấu năm chân khổng lồ xuất hiện. Nó trườn lên bờ bắt gà, vịt của dân làng ăn thịt. Ông Đình Tây mang bảo bối xuống định thu phục nhưng khi đến nơi thì nó lặn xuống sông mất dạng. Hễ ông Đình Tây quay đi thì nó lại nổi lên quấy phá dân lành. Nó làm nổi sóng to trên sông khiến ghe tàu ngang qua đắm chìm. Con cá sấu dường như chỉ biết sợ mỗi ông Đình Tây, nên hễ mỗi lần nó nổi lên mặt nước là dân làng la lớn: “Năm Chèo nổi lên, bớ ông Đình!”. Nghe kêu vậy nó liền lặn mất. Một hôm ông Đình Tây xuống mé sông la lớn trong thinh không như thông báo với con cá sấu về sứ mạng của mình mà Đức Phật Thầy đã giao phó. Dường như nó nghe biết nên từ ấy biệt tăm. Chờ mãi nó vẫn bặt tăm, ông Đình Tây liền mang bảo bối trả lại cho Thầy. Thầy bảo cứ giữ, có khi sẽ cần đến. Bà Hồ Thị Quyên (trái) và chị là cháu đời thứ tư của ông Đình Tây ngày ngày trông coi mộ sự của ông. Ảnh: VĨNH SƠN Bà Quyên kể năm 1856, lúc ông Đình Tây được 30 tuổi thì sấu dậy nhưng mãi đến khi qua đời vào năm 1914, ông vẫn chưa sử dụng bảo bối lần nào. Năm món bảo bối của ông Đình Tây vẫn được cất giữ qua nhiều thế hệ sau khi ông mất. Ngày nay, tại ngôi mộ ông Đình Tây ở xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên vẫn còn thờ cúng năm món bảo vật này. Ông Năm Chèo vẫn ở Vàm Nao Dân gian cho rằng con cá sấu biết hối lỗi và đang nằm vắt ngang hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, tạo thành dòng Vàm Nao. Sông Vàm Nao còn gọi là dòng Thuận Giang. Trong nhiều sách sử còn ghi lại nơi đây có độ sâu khó tả, là chỗ có dòng nước xoáy hết sức nguy hiểm cho ghe tàu qua lại. Ngày trước nơi đây mọc lên bến cảng Thuận Giang. Trên sông Vàm Nao ngày nay dân An Giang hay thả lưới và bắt được cá hô khổng lồ, nặng tới hàng trăm ký. Đó là nơi chứa nhiều loài cá lớn nên người đời tin là ông Năm Chèo nằm ở dưới. VĨNH SƠN nguồn phapluattp.vn
  21. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và những oan hồn cầu Bãi Cháy Cầu Bãi Cháy, TP Hạ Long (Quảng Ninh) là cầu dây văng dự ứng lực một mặt phẳng hiện đại nhất Đông Nam Á. Thế nhưng, như một nghịch lý, từ khi hoàn thành, rất nhiều người đã tới đây để tự tử. Nhiều người gọi cầu Bãi Cháy là cầu tự tử, cầu bị quỷ ám... Vì sao vậy? Kỳ 1: Oan hồn thành tinh bắt người Liên quan những vụ nhảy cầu Bãi Cháy tự tử có nhiều câu chuyện truyền khẩu mang yếu tố hoang đường. Ly kỳ và phổ biến nhất là chuyện oan hồn trên dòng Cửa Lục thành tinh bắt người. Đồn rằng. một ngày nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đi qua cầu Bãi Cháy. Bất giác, bà nghe thấy những tiếng khóc, kêu cứu của những oan hồn bị quỷ dữ cử đến đây bắt người. Chuyện hư ảo mà có nhiều người tin. Mới đây, chính quyền tổ chức một buổi cầu siêu cho những linh hồn chết trên biển cả. Buổi lễ có cả nghìn người tham dự và chủ yếu là những người có thân nhân bị chết trên biển. Người ta mang tới đây nhiều tiền, hương cúng để mong linh hồn người thân siêu thoát. Ông Bùi Kim Ta chỉ nơi thường để tạm xác nạn nhân nhảy cầu. Sau sự kiện này, cư dân địa phương lại có dịp thêu dệt rằng, khi làm lễ xong, thả vàng, hương,... chiếc cầu trắng bằng giấy để vong người chết đi lên niết bàn bỗng dưng đen lại vì những vết chân hồn được xá tội. Nhưng, có một vong hồn dù cúng tế thế nào cũng không chịu lên. Vong hồn ấy chính là của kỹ sư người Nhật chết trong khi thi công cầu Bãi Cháy. Những kẻ mê tín kết luận: Có lẽ vì hồn người này chưa siêu thoát nên nạn nhảy cầu vẫn xảy ra? Một chuyện hoang đường khác là, tại hai bờ Cửa Lục, có hai miếu thờ rất thiêng. Một đã mất, một vẫn còn nhưng hương khói thờ ơ nên các thần giận... Đem câu chuyện này trao đổi với người gác cầu, ông Trần Văn Kiểm, đội trưởng đội bảo vệ cầu Bãi Cháy, cho biết, đúng là có chuyện đồn thổi như vậy. Nhưng, ông Kiểm cho là hoàn toàn không có cơ sở. Từ mặt cầu Bãi Cháy tới mặt nước khi thủy triều dâng cao nhất là 50 m. Thủy triều càng xuống thấp thì độ cao càng tăng. Con người rơi xuống nước từ độ cao trên như quả dưa rơi từ cao ốc xuống nền bê tông. Khi tiếp xúc với mặt nước, xương, nội tạng đều dập vỡ và chết ngay. Nếu chưa thì sau đó cũng chết đuối. Thậm chí đối với một số người, rơi tự do xuống từ độ cao trên 35 m thì đã không có cơ hội sống sót. Tới nay, chỉ có một người duy nhất còn sống sau khi nhảy xuống biển từ cầu Bãi Cháy. Cô gái tên N.T.V, 16 tuổi, nhảy cầu ngày 23/6/2009, khi vớt được lên bờ vẫn thở nhưng sau đó chết mà không thể cấp cứu. Một nạn nhân nữ quê Hòa Bình sống được vài ngày trong bệnh viện nhưng cũng không qua khỏi. Hầu hết những người tự tìm tới cái chết đều còn rất trẻ. Trong một phút không kiểm soát được bản thân, họ có ý định tự tử dù chỉ mới thoáng qua trong đầu và thực hiện ngay nếu có điều kiện. Ông Kiểm cho rằng rất có thể độ cao “lý tưởng” của cây cầu đã khiến những ai có ý định tự tử tìm tới. Danh sách những vụ nhảy cầu Bãi Cháy được đội bảo vệ cầu ghi lại khá chi tiết Ông Bùi Kim Ta, 68 tuổi, trú tại phường Yết Kiêu, TP Hạ Long, chuyên câu cá dưới dầm cầu Bãi Cháy, người nhiều lần vớt những xác chết do nhảy cầu, cho rằng số người nhảy cầu tính đến nay đã trên hai chục. Bà Trần Thị Bính, 80 tuổi, bán hàng nước ngay cạnh chân cầu, gần với nơi đặt những xác nạn nhân được vớt lên, cũng đồng ý với nhận định của ông Ta. Ông Ta khẳng định, xác nạn nhân được vớt lên chủ yếu đặt tại bến phà Bãi Cháy phía Hòn Gai, làn dành cho xe tải. Tình trạng của tử thi cực kỳ thê thảm. Dập nát toàn thân, máu chảy ra từ miệng, mũi, tai, có khi cả thất khiếu. Nhiều trường hợp khi vớt lên xác đã trương, bị cá rỉa mất nhiều phần cơ thể. Nhà thơ Trần Nhuận Minh, người sống nhiều năm tại khu vực gần cầu Bãi Cháy, cho biết, khi chưa có cầu Bãi Cháy, tại TP Hạ Long thi thoảng mới xảy ra một vụ tự tử. Số người tự tử nhiều hơn từ khi có cầu Bãi Cháy. Trong một bài báo, khi vụ nhảy cầu đầu tiên xảy ra tác giả đã tỏ ra lo ngại chiếc cầu này sẽ là nơi lý tưởng để quyên sinh. Rất nhiều lần đi trên cầu Bãi Cháy nhưng, để viết bài này, một đêm, người viết theo chân nhân viên bảo vệ Phan Văn Hạnh, đi tuần cầu. Tôi hỏi, anh đã nhìn thấy người nhảy cầu lần nào chưa. Rồi. Sao không ngăn? Không kịp. Dù chỉ cách nạn nhân một mét cũng chưa chắc túm được vì chỉ ưỡn người nhấc chân là qua cầu. Đến lúc này tôi mới để ý đến lan can cầu Bãi Cháy chỉ cao chừng 1,5 mét. Tựa tay vào lan can cầu, tôi áng chừng với chiều cao của mình thì quả thật rất dễ nhảy ra khỏi cầu. Thử bước chân lên lan can, tôi thấy chỉ cần buông tay là rơi. Bước xuống khỏi lan can cầu, tôi khẽ rùng mình, lạnh toát. Trên cầu, điện rực sáng nhưng bên cạnh là một khoảng đen mênh mông, hun hút. Ánh trăng hắt xuống biển một đốm trắng in rõ những con sóng lăn tăn. Vội ngồi xuống như sợ mình rơi vào hư vô bởi biết đâu nhỡ chân, chóng mặt... Những câu chuyện, những cái chết khiến tôi gần như tê lạnh. Gió trên cầu vẫn rít, cộng âm thanh rầm rập từ những chiếc xe chở container nặng nề khiến mặt đất nơi tôi đứng rung lên bần bật. Lau mồ hôi, tôi bảo anh Hạnh dừng lại nghỉ. Xuyên qua song sắt lan can cầu Bãi Cháy, vịnh Hạ Long là một màn đen. Tôi đang ở rất gần giới hạn giữa sống và chết chỉ bằng cái buông tay. Đêm ấy, kỷ niệm đáng nhớ với anh gác cầu chính là khi tôi ngồi bên lan can cầu, nói chuyện cùng anh. Ngay lúc ấy có một đám thanh niên cởi trần đi xe máy đến dừng lại và hét to cổ vũ: "Cứ để nó nhảy đi, bình tĩnh mà nhảy xuống nhé". Trước vẻ kinh ngạc của tôi, anh Hạnh giải thích, có lẽ vì đêm khuya, lại thấy một bảo vệ cầu vận đồng phục, tay lủng lẳng dùi cui, cúi người nói chuyện với một người dáng mệt mỏi (là tôi) nên họ nghĩ tôi là một người định nhảy cầu mà anh bảo vệ vừa ngăn được. Anh Hạnh bảo, bây giờ cứ thấy ai đứng một mình ở lan can cầu người đi đường lại nghĩ là định nhảy cầu tự tử... Ông Trần Văn Kiểm, đội trưởng bảo vệ cầu Bãi Cháy, cho biết tính cả người đầu tiên nhảy cầu (khi cầu Bãi Cháy còn chưa hoàn thành), đến nay đã có 14 người nhảy từ cầu xuống biển và hàng chục vụ có ý định tự tử nhưng được ngăn chặn kịp thời. Trong số nạn nhân mới nhất chết vì nhảy cầu Bãi Cháy có một người chưa đầy 16 tuổi, trẻ nhất, và một người 49 tuổi, nhiều tuổi nhất. Theo ước tính, từ khi cầu Bãi Cháy đi vào hoạt động tới nay được hơn 30 tháng, trung bình cứ hai tháng có một người chết vì nhảy cầu. Năm 2007 có nhiều người nhảy cầu nhất, năm vụ, năm người chết. Người lên cầu tự tử không chỉ sinh sống tại TP Hạ Long còn từ nơi khác tới… Đó là thống kê của cơ quan chức năng. Tuy nhiên, nhiều người sống phía dưới chân cầu Bãi Cháy phía Hòn Gai cho rằng, ít nhất có tới hai chục vụ nhảy cầu tự tử. Các vụ tự tử và có ý định tự tử được ngăn kịp ít khi xảy ra vào ban đêm. Muộn nhất là 21 giờ. Lý do tự tử thì rất đa dạng nhưng phần lớn vì thất tình, khúc mắc chuyện gia đình, bị gia đình ngăn cấm chuyện hôn nhân, cùng quẫn vì nợ nần, bệnh tật… (Còn nữa) Theo Thành Duy
  22. Kỳ 3: Tấm lưới gần và tấm lưới xa Giải thoát là giải thoát gì! Cầu Cổng Vàng bắc qua vịnh San Francisco dài 2,73 km không phải là cầu treo dài nhất, nhưng đỉnh tháp treo cáp cao nhất thế giới 235m. Từ mặt cầu xuống nước là trên 72m. Nạn nhân trẻ tuổi nhất là N.T.V, 16 tuổi, quê Thái Bình nhảy cầu Bãi Cháy tự tử ngày 23/6/2009 được một số ngư dân đang câu cá gần đó vớt lên. Khi đưa thi thể nạn nhân lên bờ người cô gái mềm nhũn vì xương cốt vỡ vụn. Người ta đắp tấm chiếu lên người cô rồi chờ người thân tới nhận. Trước khi nhảy cầu giải thoát bi kịch, cô kịp đưa anh xe ôm mảnh giấy ghi địa chỉ liên lạc với người thân. Bà Trần Thị Bính, 81 tuổi, bán hàng tạp hóa cạnh chân cầu Bãi Cháy chứng kiến nhiều xác người nhảy cầu kể lại, khi gia đình V. tới nhận xác con vẫn không thể tin đứa con gái bé bỏng lại tìm tới cái chết. Cho tới tận lúc ấy, họ vẫn không biết lý do con mình quyên sinh vì buổi sáng vẫn thấy con đi học. Trước đó, trong kỳ nghỉ hè, V xin phép được đi chơi xa cho biết thế giới bên ngoài. Họ không ngờ bi kịch lại xảy tới con gái mình khi đang tuổi đẹp nhất. Sau cái chết của cô, dư luận đồn rằng cô có thai, bị người yêu dụ dỗ ra Quảng Ninh rồi bị ruồng rẫy. Ông Bùi Kim Ta, hầu hết nạn nhân nhảy từ cầu xuống biển là chết Một chàng trai đang ngồi trên xe máy người thân qua cầu Bãi Cháy thì đột nhiên nhảy khỏi xe rồi lao qua lan can cầu. Sự việc xảy ra quá nhanh khiến chẳng ai kịp phản ứng. Thậm chí, người chú của nạn nhân đang cầm lái còn không hiểu cháu nhảy khỏi xe để làm gì. Cha mẹ, người thân khi tìm thấy xác con thì ngất lịm. Có nỗi đau nào bằng nhìn thấy đứa con dứt ruột đẻ ra tìm tới cái chết sớm đến như vậy… Bà Bính bảo, chẳng thương những đứa con bất hiếu, chỉ thương những người đẻ ra chúng mà thôi vì chết là hết nhưng nỗi đau thì cha mẹ, người thân phải chịu tới hết đời. Làm liên lụy tới bao nhiêu người và làm xấu đi hình ảnh của cây cầu đẹp nhất nước. Trước khi chết, ai biết rằng người thân họ sẽ phải đau đớn, phiền muộn thế nào. Nhiều gia đình đã mất rất nhiều tiền để tìm xác con. Mỗi cuộn dây cước rà xác chết có giá hàng trăm nghìn đồng. Để giăng kín dòng Cửa Lục cần bao nhiêu cuộn như thế? Chưa kể, mỗi giờ phải trả cho người tìm xác 200.000 đồng. Nhiều nạn nhân phải mất cả tuần mới tìm thấy xác. Ngăn nhảy cầu và tranh cãi kiểu Mỹ Nhiều người TP Hạ Long cho rằng cần làm tấm lưới ngăn hoặc nâng cao lan can cầu hơn hiện nay thì sẽ chặn được nhiều cái chết xảy ra trong một phút hồ đồ, nông nổi. Cần biện pháp nào đó để quá trình vượt thành cầu nhảy xuống biển diễn ra lâu hơn để có đủ thời gian ngăn chặn. Tin rằng trong vài tích tắc rơi tự do xuống nước có người hối tiếc vì quyết định nhảy khỏi lan can cầu Bãi Cháy. Ông Vũ Văn Bắc, Phó Giám đốc Cty Quản lý Cầu phà Quảng Ninh, đơn vị quản lý cầu Bãi Cháy, cho biết, có rất nhiều ý kiến đồng tình phải làm tấm lưới ở lan can cầu để ngăn người ta nhảy xuống biển. Tuy nhiên, điều này sẽ làm xấu cầu bởi thiết kế cầu đã rất hoàn hảo. Vì vậy, vẫn chưa có quyết định phải nâng hàng rào hay làm tấm lưới ngăn trên cầu. Nạn nhân nhảy cầu chờ người thân tới nhận Ông Bắc cho rằng nhiều người nếu không tự tử trên cầu thì họ cũng sẽ tìm tới chỗ khác. Cầu Bãi Cháy chưa chắc là cầu có nhiều người chết vì tự tử nhất và chưa có cầu nào lắp tấm lưới chỉ để ngăn người không muốn sống. Điều quan trọng là tự thiết kế cho mình một tấm lưới xa, không nghĩ đến cái chết ở tuổi xuân thì, để khỏi lo đến tấm lưới gần dưới thân cầu. Những tranh cãi về vấn đề này khiến người viết nhớ tới cầu Golden hay còn gọi là cầu Cổng Vàng trên vịnh San Francisco (Hoa Kỳ). So với cầu này, với số người chết, với sự nổi tiếng về nạn nhảy cầu tự tử, cầu Bãi Cháy chỉ là hạng ruồi. Khánh thành cách đây 72 năm, tới nay, thống kê sơ sơ đã có trên 1.300 người chết vì nhảy cầu này tự tử nhưng thực tế còn nhiều hơn. Cầu này được mệnh danh là cầu có nhiều người tự sát nhất thế giới. Gõ từ The Golden Bridge trong Google, có gần 50 triệu tin, bài viết liên quan. Là một trong bảy kỳ quan thời hiện đại thế nhưng, từ khi sinh ra, cầu này đã mang bi kịch là cầu tử thần vì những vụ tự tử xảy ra liên miên không hồi kết. Từ sau vụ người đầu tiên chết do nhảy từ mặt cầu xuống biển, trung bình hai tuần có một vụ nhảy cầu. Ít tuổi nhất nhảy cầu là một cô bé mới 14 tuổi. Trước khi chết, cô bé đã đọc được từ một trang web dạy rằng, muốn cầm chắc cái chết thì phải nhảy từ độ cao của cầu Cổng Vàng, hiệu quả hơn cả uống thuốc độc. Những người câu cá dưới dầm cầu chứng kiến nhiều vụ nhảy cầu Người cao tuổi nhất nhảy cầu là một cụ ông 70 tuổi. Trong bức thư tuyệt mệnh, cụ ghi lại rằng muốn chết vì không thể chờ tới khi nhắm mắt xuôi tay… Qua nghiên cứu, tại Mỹ có một hội chứng kỳ lạ là thích lên cầu Cổng Vàng tự tử. Vịnh San Francisco có nhiều cầu có độ cao lớn nhảy xuống là chết nhưng rất hãn hữu mới có nạn nhân chết vì tự tử. Đã có rất nhiều kẻ điên muốn là nhân vật thứ 1.000 khi đã có 999 nạn nhân chết vì nhảy cầu. Trong lịch sử tang tóc của cầu, vẫn có 26 nạn nhân may mắn sống sót sau khi đã nhảy khỏi cầu xuống biển. Không rõ tại cầu Bãi Cháy có ai đó không muốn chết mà lại nghe tiếng mời gọi của thần chết? Nhưng, ở Mỹ, khi đứng trên cầu Cổng Vàng, nhiều người đột nhiên muốn tự tử và tức thời nhảy ngay xuống biển. Một chàng 19 tuổi khi đang ở trên cầu thì bất chợt có ai đó ra lệnh nhảy xuống đi và, như vô thức, anh này nhảy xuống... Là một trong những người may mắn thoát chết, anh ta kể lại: “Khi cơ thể vừa rời ra khỏi cầu thì vô cùng hoảng hốt bởi, trước đó tôi chưa hề có ý định chết”. Khi đã có thể đi lại được, anh này đã khởi kiện chính quyền với lý do tại sao không có biện pháp để ngăn những trường hợp như anh. Tại sao nhà chức trách lại để tuyệt phẩm có một không hai thành nơi tang tóc nhất thế giới? Hầu hết các công trình có độ cao lớn và nổi tiếng trên thế giới sau những vụ tự vẫn đều có lưới để ngăn chặn. Nhưng, chính quyền thành phố San Francisco thì kiên quyết bảo vệ vẻ đẹp của cầu Cổng Vàng, không làm lưới ngăn vì sợ xấu cầu. Không rõ có phải vì quá khó để ngăn cản người tự tử, không cần thiết phải ngăn người chán sống hay quá yêu kỳ quan này mà, trong một cuộc thăm dò dư luận, trả lời câu hỏi có nên lắp rào chắn trên cầu Cổng Vàng, đa số người Mỹ cho rằng chỉ phí tiền vì ai đã muốn thì sẽ tìm mọi cách để chết. Có quyền được sống thì họ có quyền tự tìm tới cái chết? Trong lịch sử nạn nhảy cầu Cổng Vàng tự tử có một câu nói nổi tiếng từ một trong 26 nạn nhân sống sót. Khi người ta hỏi “Anh nghĩ gì khi đang rơi tự do?”. Anh này trả lời “Mọi chuyện khủng khiếp tôi gặp phải từ trước tới nay đều có thể giải quyết được. Chỉ duy nhất có một vấn đề không thể giải quyết được nữa. Đó là tôi vừa buông tay nhảy khỏi cầu”. Theo Thành Duy Tiền Phong online
  23. Cọp trong văn học 07/02/2010 12:57 (GMT +7) Xếp hàng thứ ba trong mười hai chi, cọp (Dần) là một hình tượng đa nghĩa, phức tạp trong tâm linh người Việt: vừa là ác thú, vừa là thần hộ mệnh. Từ thờ thần Hổ Cọp - ác thú được người kinh sợ đến độ lập đền thờ, hy sinh nhân mạng để tế lễ mỗi cuối năm, như tục thờ thần Hổ ở làng Ngọc Cục (huyện Đường An, tỉnh Hải Dương) mà Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã kể lại kỹ càng trong Vũ Trung tùy bút. Đến năm 1800, tục này mới chấm dứt. Mặt khác, cọp lại là phúc thần được vẽ tranh thờ để trừ tà yểm quái. Tranh Hổ còn được bày ở nhiều đền chùa, nhất là đền thờ Thánh Mẫu, như tranh Bạch Hổ Thần tượng đặt ở đền Quan Thánh, Hà Nội. Ngày nay, tại miền Bắc Việt Nam, nhiều nhà còn sùng tín tranh Hổ. Tranh dân gian Hắc Hổ Ở nước ta, tùy địa phương, tùy sinh hoạt, quan hệ giữa người và cọp không đồng nhất. Tuy rằng ở đâu cũng sợ cọp, kiêng dè gọi bằng ông cọp, ông ba mươi, ông thầy, ông kễnh, ông cả..., nhưng dường như người dân đồng bằng sông Cửu Long ít kinh sợ cọp hơn có lẽ vì lịch sử mở cõi.Cọp cùng với beo, sư tử, mèo... đều thuộc họ mèo (felin); giống cọp châu Á sống từ Ấn Độ sang Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc. Cọp sống lẩn khuất trong rừng rậm, có thể bơi qua sông, sống bằng săn mồi: hươu nai, chồn cáo và nhất là heo rừng. Cọp săn mồi về đêm. Như vậy cọp còn giúp con người trong việc loại bớt những thú rừng phá hoại mùa màng hay chăn nuôi. Khi cạn kiệt nguồn thịt rừng hay khi về già, không còn đủ nhanh nhẹn để vồ mồi, cọp mới lân la về các làng mạc. Con người không phải là nguồn lương thực ưu tiêncủa cọp: nhiều câu chuyện đã kể về việc gặp cọp giữa đường và được... làm lơ. Đến cọp trong Lục Vân Tiên Cọp cứu người trong truyện Lục Vân Tiên - Ảnh: Tư liệu Trong truyện Lục Vân Tiên, cọp xuất hiện ba lần: một lần cởi trói cho tiểu đồng và đưa ra đường cái; một lần đưa Vân Tiên ra khỏi hang Thương Tòng, nơi Vân Tiên bị gia đình Thể Loan hãm hại; lần cuối, cọp bắt hai mẹ con Thể Loan bỏ lại trong hang Thương Tòng để “trả báo”, nhưng không... ăn thịt. Về cơ bản, cọp vẫn là ác thú ăn thịt người. Vì vậy, trong truyện, Trịnh Hâm mới bắt tiểu đồng trói vào gốc cây: Trước cho hùm cọp ăn mày/Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong/Vân Tiên ngồi những đợi trông/Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn. (câu 875 - 878).Trong truyện, Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) đã trình bày cọp dưới hai diện mạo: khuôn mặt tự nhiên là ác thú, nhưng lại không xuất hiện; khuôn mặt xuất hiện, cứu tinh, lại là một nhân vật hư cấu có suy tính khi hành động: Sơn quân ghé lại một bên/Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng. Nhưng đây chỉ là một mặt trong tâm linh người Việt, khi đã chế ngự được thiên nhiên và ác thú. Những truyện dân gian kể trên có lẽ đã thành hình khá muộn, đồng thời với Lục Vân Tiên, khi người đã bớt sợ cọp và ý thức vai trò của cọp trong việc bảo vệ mùa màng và gia súc. Những câu chuyện vượt thời gian. Đọc Sơn Nam (1926 - 2008), chúng ta thấy người dân Nam Bộ không những không sợ, mà có khi còn tỏ ra thân thiện. Ông trích dẫn trong Gia Định thành Nhất Thống Chí của Trịnh Hoài Đức: “Hồi thế kỷ XVIII, trẻ con, đàn bà cầm liềm cắt cỏ, cầm đòn xóc, cũng chống cự và đuổi được cọp. Thái độ của người dân đối với cọp cũng lạ: vừa kính nể, coi như vị thần nhưng cũng coi thường, nếu cần thì rủ nhau đi săn bắt, giết không nương tay”. Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung tùy bút qua tục giết người tế thần Hổ, còn nhắc đến thần Xương Cuồng có ghi vào sử sách như Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Chích Quái. Tục tế thần Hổ này có từ thời xa xưa trước Tây lịch (trước Công nguyên), khi quân nhà Tần của Nhâm Ngao và Triệu Đà mới lấn chiếm và đô hộ đất Văn Lang. Nhưng đây là một đề tài gai góc, đòi hỏi nghiên cứu chính xác. Chúng tôi sẽ đề cập trong một dịp khác. Cho dù phong tục hy sinh nhân mạng để tế thần Hổ có là một ví dụ đơn lẻ, thì nỗi sợ cọp, kinh hãi hùm thiêng vẫn là một tâm trạng có thật, kèm theo tư tưởng mê tín, mà ngày xưa Tchya (Đái Đức Tuấn, 1908 - 1969) đã phản ánh trong tiểu thuyết Thần Hổ, 1937 và Ai hát giữa rừng khuya, 1942 mà Vũ Ngọc Phan (1902 - 1987) đã giới thiệu cặn kẽ. Ngoài ra, trong truyện Đường Rừng, 1940, Lan Khai (1906 - 1945) kể chuyện Người hóa hổ, người và súc vật có thể hóa kiếp cho nhau. Trong tuồng hát bội Hổ Thành Nhân, thế kỷ XIX cũng có chuyện hổ sinh ra người, nên nhân vật có tên như vậy. Từ thời tiền thế chiến đến nay, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Xã hội đổi thay, môi trường đổi thay. Cảnh núi rừng ma thiêng nước độc giảm đi nhiều. Cọp không còn là ác thú hăm dọa loài người và thần Hổ không còn là ám ảnh. Nhưng trong tâm lý, con người vẫn giữ một hình ảnh kỳ bí nào đó về chúa sơn lâm, về bộ lông tráng lệ, oai phong lẫm liệt, và hành tung bí ẩn. Vẫn còn một không khí hoang đường nào đó qua Trái tim hổ trong nhóm mười truyện Như những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp, đăng trên Báo Văn Nghệ năm 1987, xuất bản thành sách vào 1988 và được tái bản nhiều lần. Cọp trong truyện Đường Rừng - Tranh: Vink Hua Tát là một bản Mường nhỏ, miệt Lai Châu, có con hổ kỳ dị“người ta đồn có trái tim khác thường, chỉ nhỏ bằng hòn sỏi và trong suốt, là bùa hộ mệnh cùng là vị thuốc thần”. Dân bản nhiều người săn hổ, mong lấy trái tim làm thuốc chữa cho một cô gái trẻ đẹp, bị liệt đôi chân. Trong những người đi săn hổ, có chàng trai tên Khó, nghèo, xấu xí, dị dạng, cô độc: “Việc săn hổ kéo dài gần hết mùa đông. Nhưng như có phép lạ, con hổ tinh khôn biết tránh những nơi người ta phục nó. Những người đi săn bị nó săn lại. Hơn mười người chết vì con hổ dữ. Tiếng khóc than, lẫn với tiếng gió hú dài âm âm trong bản. Người ta nản chí dần, số người đi săn rụng nhanh như bứa chín cây, cuối cùng chỉ còn một người. Người ấy là Khó. Khó là trai bản Hua Tát. Chàng mồ côi cha mẹ, sống như con don, con dim. Con don, con dim sống thui thủi, đi con đường riêng, ăn uống thế nào không ai biết được. Người bản Hua Tát không biết Khó đi con đường nào tìm vết hổ. Đường của con don, con dim, hổ cũng không biết. Con hổ thấy sự nguy hiểm. Nó thay đổi chỗ ở, thay đổi đường đi. Khó và con hổ săn nhau từng giờ...”. Cuối cùng người và hổ cùng chết, trái tim hổ bị kẻ gian đánh cắp. Đây là sáng tác mới, nhưng theo dạng truyện cổ, bắt đầu bằng: “Ngày ấy, ở Hua Tát có một cô gái...”. Đã đành là chuyện hư cấu, nhưng mang hơi hướng truyền thuyết dân gian. Và nghệ thuật kể chuyện, viết truyện của Nguyễn Huy Thiệp đã đạt tới đỉnh cao. Nhân ngày Tết Canh Dần, chúng tôi nhắc đến một ít kỷ niệm văn học liên hệ đến cọp. Vấn đề sau là trong tâm lý người dân miền Bắc và miền Nam, cách tiếp cận với con cọp, hay thần Hổ, có phần khác nhau. Phía Bắc, từ đồng bằng lên mạn ngược, có nơi sùng bái hùm thiêng, thờ phụng đến mê tín. Người dân miền Nam cũng sợ cọp, nhưng chỉ là nỗi sợ hãi cụ thể, vật chất mà không sùng tín. Tương truyền ngày trước, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức những trận đấu voi - cọp. Voi được xem như thú vật tuân phục và hữu ích, trái với cọp hung tợn và phá hoại. Do đó, trận đấu thiên vị và bất công, vì cọp bị nhổ nanh, tước vuốt, khớp mõm, và voi bao giờ cũng thắng. Khoảng năm 1750, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cùng triều đình đi trên 12 thuyền lớn, xem trận ác chiến trên bãi đất Cồn, 40 con voi tận sát 18 con cọp. Tập tục này tiếp diễn đến các đời sau, Minh Mạng xây đấu trường Hổ Quyền năm 1830 dưới chân đồi Long Thọ. Mãi đến năm 1904 đời Thành Thái, tục lệ này mới chấm dứt. Vua chúa không tạo nên được tâm lý quần chúng, nhưng gây ảnh hưởng và điều kiện hóa đời sống tinh thần người dân. Ngày nay, nghe đâu ở Việt Nam chỉ còn hơn nghìn con cọp. Cọp là loài thú đang và đáng được bảo vệ. Cọp là tài sản thiên nhiên, uy dũng, hùng tráng. Diễm lệ và kỳ ảo, cọp là vẻ đẹp của một trần thế đang phôi pha... Theo Đặng Tiến (Paris) [/b]
  24. Từ chối con dị tật, tình mẫu tử lâm nguy. Cập nhật lúc 06:32, Thứ Hai, 08/02/2010 (GMT+7) , Một cặp vợ chồng ở tỉnh Thiên Tân (Trung Quốc) đã quyết định ngừng chăm sóc y tế đối với đứa con mới chào đời của họ. Nguyên nhân là do bé gái chưa đầy 1 tháng tuổi này bị dị tật bẩm sinh không có hậu môn. Sự vô tình của bố mẹ bé bé gái này đang khiến dư luận ở Trung Quốc hết sức phẫn nộ. Em bé sơ sinh đang gây xôn xao dư luận. Ảnh: Chinadaily Sau khi phát hiện đứa con của mình bị dị tật bẩm sinh không có hậu môn và một số vấn đề sức khỏe khác, cặp vợ chồng này đã gửi con của họ vào trại tế bần. Hiện tại, bé gái vừa chào đời 15/1 vừa qua, không được chăm sóc y tế mà chỉ được uống nước, theo ông Trương Văn, Giám đốc Tổ chức Bảo vệ Trẻ em ở Trung quốc (CWLC). "Vợ tôi vẫn rất yếu sau khi sinh nên tôi đã nói dối cô ấy rằng con của chúng tôi đã chết do bị dị tật bẩm sinh", người cha của bé gái giải thích. “Thực sự, tôi không muốn chứng kiến con gái của chúng tôi phải chịu thêm đau đớn sau này. Ra đi một cách nhẹ nhàng sẽ tốt hơn cho con gái của chúng tôi". Mặc dù vậy, quyết định vô tình của người cha đã khiến dư luận ở Trung Quốc hết sức phẫn nộ sau khi thông tin về bé gái bị bố mẹ từ chối chăm sóc y tế được đưa lên các diễn đàn trên internet. Rất nhiều người sau đó đã tới trại tế bần để thăm bé gái tội nghiệp này và kêu gọi cần có những hành động để giữ lấy mạng sống cho cô bé. "Làm cách nào mà người cha biết được con của ông ta không muốn sống vì nó mới chỉ là đứa trẻ sơ sinh? Anh ta không có quyền bắt cô bé phải chết. Đó là tội ác giết người”, một độc giả bức xúc. Trong khi đó theo tổ chức CWLC, gia đình bé từ chối điều trị y tế không phải vì tiền. Với thu nhập hiện nay, họ có thể trả được viện phí. Ngoài ra, có rất nhiều tổ chức và cá nhân cũng đề nghị được giúp đỡ, nhưng họ không muốn tiếp nhận. "Chúng tôi đã cố gắng thuyết phục bố mẹ của bé gái giao quyền chăm sóc con của họ cho chúng tôi. Từ đó, chúng tôi sẽ có điều kiện chăm sóc y tế cho bé gái này tốt hơn. Tuy nhiên, họ đã không đồng ý và cho rằng tốt hơn hết hãy để cô bé được chết”, ông Tong Yi, một thành viên của tổ chức CWLC, tiết lộ. Theo luật pháp Trung Quốc, nếu bố mẹ bị phát hiện ngược đãi con cái, họ sẽ bị tước quyền chăm sóc và nuôi dưỡng. Nhưng trong trường hợp này, bố mẹ của bé gái trên vẫn trả chi phí cho trại tế bần. Vì thế, các tổ chức từ thiện đang gặp khó khăn khi muốn giúp đỡ bé gái này. Hà Hương (Theo China Daily) Ở Vn trường hợp này liên hệ đưa vào Kỳ Quang Tự nhỉ ? Tình mẩu tử thế này còn trông gì cái tình khác?
  25. Những người "chống lệnh" Hà bá 02/02/2010 11:07 (GMT +7) Cầu Bãi Cháy được bảo vệ ở mức an ninh Quốc gia, với 40 bảo vệ liên tục tuần tra 24/24 giờ. Nhiệm vụ là bảo vệ, đảm bảo giao thông thông suốt..., nhưng, từ khi nạn nhảy cầu tự tử bùng phát, đội bảo vệ lại có thêm một việc mới... >> Nạn nhảy cầu Bãi Cháy tự tử: Hoang đường và sự thật Việc bất đắc dĩ Với phạm vi phải bảo vệ lên tới gần 10 km, gồm cầu chính và tám cầu phụ, công việc của đội bảo vệ không đơn giản tí nào. Chỉ một vụ tai nạn, xô xát là tắc cầu. Phải liên tục nhắc nhở các phương tiện dừng đỗ trên cầu chụp ảnh gây mất an toàn, giải tỏa điểm có quá nhiều người tụ tập, theo dõi lượng phương tiện lưu thông qua cầu... Bảo vệ thường xuyên tuần tra cầu Bãi Cháy và ngăn được nhiều vụ tự tử Từ khi có hiện tượng lên cầu tự tử, đội bảo vệ lại phải kiêm thêm việc nữa là cố gắng ngăn chặn người tự tìm tới cái chết do nhảy cầu Bãi Cháy. Chỉ vào bản danh sách thống kê những vụ việc xảy ra trên cầu từ ngày cầu Bãi Cháy khánh thành, ông Nguyễn Văn Kiểm, đội trưởng bảo vệ cầu Bãi Cháy cho biết, ngoài số người chết vì lên cầu nhảy xuống biển, số người có ý định tự tử nhưng được ngăn lại vào khoảng 50 trường hợp. Hầu hết các nạn nhân, nhảy cầu hoặc có ý định nhảy cầu đều được đội bảo vệ cầu ghi lại cẩn thận như ngày, giờ, lý do nhảy cầu, tên tuổi, địa chỉ... Ông Kiểm tâm sự, cứu người phúc đẳng hà sa, lương tâm không cho phép chúng tôi thấy chết mà không cứu. Nhiều khi cũng rờn rợn vì Diêm Vương, hà bá đã gọi ai đó mà mình ngăn cản thì cũng sợ... Tuy thế, còn cơ hội dù nhỏ để ngăn người tự tìm tới cái chết, chúng tôi vẫn cố gắng. Làm thế nào biết người có ý định nhảy cầu? Độ cao nhìn từ dưới chân cầu Bãi Cháy Ông Kiểm bảo, khó để biết chính xác nhưng thường thì chúng tôi nhận định qua quan sát, linh cảm. Hầu hết những vụ định nhảy cầu thường được anh em linh cảm đúng, lâu dần thành phản xạ. Cứ thấy ai có biểu hiện bất thường, vừa đi vừa khóc, đầu tóc rũ rượi, thờ thẫn như người mất hồn hoặc, đứng quá lâu trên cầu một mình là lập tức bảo vệ thu vào tầm ngắm. Lúc đó, không ai bảo ai, sẽ có người đi theo. Phải giữ khoảng cách nhất định để họ đỡ nghi. Tiếp cận từ từ nếu họ không để ý vì đi theo sát quá thì không tiện - Ông Kiểm tổng kết. Một bảo vệ tâm sự, nhiều trường hợp biết họ sẽ nhảy cầu mà không ngăn được. Ví như trường hợp N.M.M, SN 1986, trú tại TP Hạ Long, đi xe máy lên cầu khóc rồi lao xuống. Cô gái này bị người yêu bỏ vì gia đình người yêu cấm đoán. Lại có cô gái định nhảy xuống biển thì được bảo vệ kịp giữ lại, đưa vào phòng bảo vệ khuyên can, nói những điều hơn thiệt. Cô gái lúc đó đã hứa không dại dột nữa, đội mới cho về. Thế rồi, không biết lúc nào, cô lại lên cầu nhảy. Ông Kiểm nói, phần lớn nạn nhân nhảy cầu là vì tình và đều rất trẻ. Tự tìm tới cái chết là chuyện thường nhưng có vụ đặc biệt bị người yêu ép phải chết. Vì ghen tuông, một thanh niên ép cô người yêu nhảy cầu Bãi Cháy. Anh ta ghì người yêu ở thành cầu, ép cô phải nhảy xuống biển. Vì bản năng sống, cô gái đó kiên quyết chống trả. Tiếng kêu cứu của cô gái và hành động lạ của đôi nam nữ được đội bảo vệ phát hiện kịp thời phối hợp với Công an TP Hạ Long giải thoát cho cô gái và bắt giữ tay người yêu máu lạnh. Giải cứu một kẻ rồ tình Cuối năm 2006, một vụ dọa tự tử vì tình hy hữu xảy ra trên cầu Bãi Cháy khiến Công an TP Hạ Long và đội bảo vệ cầu phải vất vả suốt nhiều giờ trong điều kiện gió rét mới vận động được kẻ điên tình từ bỏ ý định. Trước đó, không biết từ lúc nào, anh này đã treo người lủng lẳng dưới thân cầu bằng dây thừng, bên dưới là biển nước mênh mông. Khi mọi người đến để tìm cách lôi lên thì anh ta dọa cắt dây. Lý do vì gia đình không cho cưới cô N (ở Bắc Giang) nên quyết định treo mình để hoặc là chết hoặc cưới được nàng. Anh ta ngoan cố tới mức cả khi Công an TP Hạ Long, bảo vệ cầu xuống hiện trường động viên, vận động vẫn không rời vị trí. Anh ta vẫn treo mình dưới cầu và dọa cắt dây. Nhiều phương án được triển khai, cả trên bờ, dưới biển để phòng bất trắc. Anh ta đưa ra tối hậu thư, yêu cầu cả gia đình tới chứng kiến, khi nào đồng ý cho anh ta cưới vợ thì sẽ từ bỏ ý định nhảy cầu. Bà mẹ thấy con treo lơ lửng, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc nên phải đồng ý ngay. Thế nhưng, anh ta vẫn chưa chịu lên. Đòi phải đưa người yêu từ Bắc Giang đến. Thế là cô người yêu dù không muốn lại phải thuê taxi đi từ Bắc Giang đến tận nơi gặp kẻ rồ dại vì tình. Anh Kiểm bảo, đội bảo vệ luôn phải để mắt và tiếp cận ngay tới những ai có dấu hiệu bất thường. Nhưng, khi bảo vệ tiến lại gần đối tượng lân la hỏi chuyện, thường bị mắng vì tò mò, mất lịch sự hoặc nghĩ anh em có mục đích xấu. Nhiều lần, bảo vệ cầu phải dùng biện pháp mạnh như mời công an đến lập biên bản, đối tượng mới đi khỏi hoặc cung cấp thông tin. Ông Trần Văn Kiểm: Mọi diễn biến trên cầu đều được ghi lại Từ lúc nào không hay, nhân viên bảo vệ cầu tự biến thành chị Thanh Tâm để tâm sự, giải thích khuyên can những kẻ chán đời. Thậm chí, nhiều lần phải làm xe ôm miễn phí đưa họ về tận nhà mới yên tâm. Trong buổi lang thang trên cầu Bãi Cháy mới đây, anh Phan Văn Hạnh, bảo vệ cầu đã đưa người viết chiếc điện thoại để xem dòng tin nhắn. Cảm ơn anh, nhờ có anh mà em không chết. Thật uổng phí cuộc đời cho một phút nông cạn. Em sẽ làm lại và cảm ơn anh đã cho em cơ hội làm lại. Anh Hạnh bảo, cô gái này giữa đêm một mình lên cầu Bãi Cháy khóc và định tự tử. Nguyên nhân vì yêu một gã Sở khanh tại TP Hạ Long. Lần ấy, tới gặp người yêu để tính chuyện cái thai đang lớn dần nhưng bị gã lạnh lùng bảo đi giải quyết. Đã thế, hắn lại mượn luôn chiếc xe và giấy tờ của cô gái đi cắm. Quá uất ức và đau xót, cô đã nghĩ quẩn... Chỉ tay về phía một cô gái đi trên cầu anh Hạnh bảo, người đó không lo tự tử vì dáng vẻ vội vã, đi thẳng, không nhìn ngang, dọc lấm lét như người đi tìm cái chết. Sợ nhất là ai đó vừa đi vừa nghe điện thoại. Đã có cô gái vừa nghe điện thoại vừa khóc, bảo vệ chạy tới nơi thì cô ta đã nhảy khỏi cầu. Nhiều người trước khi nhảy cầu gọi điện thông báo cho người thân. Có cô trước khi buông tay còn gọi điện báo em trai tới cầu Bãi Cháy đón chị về… Anh Hạnh bảo, mỗi khi giúp một ai thoát được những suy nghĩ nông cạn, tiêu cực, thì vui. Nhiều vụ chứng kiến người ta buông tay rơi khỏi cầu anh em trong đội cứ thấy ám ảnh như mình có lỗi, bởi nếu nhanh hơn một bước chân thì biết đâu cứu được một mạng người. Có nhiều vụ khi thấy bảo vệ đến ngăn thì buông tay. Anh Hạnh cười buồn, không hiểu vì sao nhiều thanh niên còn trẻ lại tìm tới cái chết dễ dàng như vậy. Cuộc sống còn nhiều điều đáng yêu, đáng trân trọng lắm... (Còn nữa) Theo Thành Duy