-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Cây khế ven đường Cu Tý là thủ lĩnh đám bạn nhóc tỳ, tính rất ưa suy gẫm. Ngày nọ, Tý và đám bạn đi đến làng nọ nô đùa, phát hiện ven đường có một cây khế. Trên cây trái chín đầy cành, xum xuê mọng nước chiếu sắc vàng óng. Lũ trẻ vừa nhìn thấy, xúm nhau chỉ chỏ kêu to, cuống quýt chạy quanh cây, chỉ có cu Tý đứng im, vẻ trầm ngâm, không chút tranh giành. Đám nhóc tranh nhau trèo lên cây, Tèo thấy cu Tý cứ đứng ỳ ra, vội thúc: Mau trèo lên cây hái trái đi chứ! Sao đứng im như phỗng vậy? Chậm chạp quá thì không xơi được trái nào đâu nghen! Tý lắc đầu: - Không thèm! Cây khế này vừa chua vừa khó nuốt! - Lũ nhóc hí hửng hái trái bỏ vào miệng nhai nhưng lập tức phun ra hết và kêu oai oái cùng nhăn nhó chùi miệng. Khế đúng là chua lè, không những chua mà còn chát. Lúc này chúng mới ngẩn người, hỏi cu Tý: - Sao mày tài thế? Chưa ăn mà đã biết là khế không ngon? - Tý cười: - Có gì khó hiểu đâu? Trái to xum xuê trĩu cành, nằm lồ lộ trên cây ven đường, trông hấp dẫn vậy mà còn nguyên, tức là không ai dám động đến, mà không người động đến thì là khó nuốt chứ sao! (Theo Truyện cổ Việt Nam) BÀI HỌC ĐẠO LÝ:Từ xưa đến nay, bất cứ cái gì có dáng ngoài hấp dẫn mà không ai dám động đến thường là khó “nuốt” rồi. Câu chuyện kể trên đây có thể trong đời ta đã từng dự vào hay làm kẻ bàng quan chứng kiến. Song xử sự thì thế nhân luôn có hai cách: 1- Quyết định tránh xa không động tới. 2- Nhào vô nếm thử để biết mùi vị nó chua, đắng như thế nào… Cuộc đời cũng giống vậy, khi nghe nói đời là bể khổ, tình là dây oan, mọi người đều hiểu, song không phải vì vậy mà họ không lao vào. Họ sẽ lý luận là “Phải biết mùi vị nó đắng như thế nào, oan nghiệt ra sao…”. Tất nhiên, ai cũng có quyền chọn cho mình một thái độ sống, khi nghe cảnh báo quyết định lánh xa hay tự thân lao vào nếm thử rồi liễu ngộ. Loài vật cũng biết sợ khổ và thích an vui, song chúng không có được khả năng tư duy để biết và tìm cho mình giải pháp lìa khổ, được an như con người. Đây là khả năng đặc biệt quý giá thuộc lĩnh vực trí tuệ của con người, biết suy nghĩ làm sao để chế ngự đau khổ và đạt được hạnh phúc vững bền. Bởi vậy Phật mới nói cõi người là thuận duyên nhất cho sự tu học. Không riêng gì cây khế ven đường mà tất cả mọi thứ tài sắc, danh vọng, giàu sang… chưa chắc người có được đã ngất ngưởng tận hưởng bình an, vì cái giá họ phải trả để được sở hữu những thứ mà thế nhân hằng thèm thuồng, ao ước ấy thường rất gay go. Khi người nghèo sống cảnh bần hàn, nhìn cảnh người giàu lắm tiền thì cho là sướng, song họ không biết rằng tủ thuốc những nhà giàu kia chứa đầy thuốc ngủ, an thần vì đầu óc họ luôn căng thẳng không có lấy phút giây an ổn do phải lo tính toán lợi nhuận, thiệt hơn. Người nghèo tuy thiếu thốn về vật chất nhưng đầu óc họ vô tư, đơn giản… Ngũ dục thế gian cũng giống như cây khế ven đường, người sở hữu hay làm chủ quả trái vàng óng có hình sắc quyến rũ, song vị chua chát bên trong chỉ riêng họ biết rõ mà thôi. Ở đây không bàn đến nếm hay không nếm, cần nhất là bản thân mỗi người phải có trí, vì khi nội tâm sáng suốt họ sẽ tự biết giải quyết và ứng xử như thế nào. Song trí tuệ không thể cứ sống mặc tình hoặc ngồi đấy đợi nó tự phát. Ta cần phải tìm hiểu, nghiên cứu giáo pháp để thực hành, mở mang kiến thức, tô bồi tuệ căn, củng cố đức hạnh. Đây chính là cách để giải khổ và tạo dựng hạnh phúc cho mình. Khi ta nếm được mùi vị của pháp lạc, sẽ biết thế nào là tuyệt vời, vì nó không chua và chát hay đắng như vị của “cây khế ven đường”. Hạnh Đoan Nguồn: giacngo.vn
-
Đức mẹ trong tranh 'khóc' ra dầu Hàng trăm người hiếu kỳ đổ xô tới một ngôi nhà tại Pháp sau khi nghe tin những giọt dầu chảy ra từ bức tranh Đức mẹ đồng trinh Mary trong ngôi nhà. Khách tham quan lau những vệt dầu trên bức tranh Đức mẹ Mary tại nhà anh Esat Altindagoglu vào ngày 7/3. Ảnh: AFP. Nhà của anh Esat Altindagoglu - một doanh nhân gốc Thổ Nhĩ Kỳ - nằm trong thị trấn Garges-les-Gonesse cách thủ đô Paris khoảng 20 km về phía bắc. Telegraph cho biết, trong 3 tuần gần đây mỗi ngày anh phải tiếp hơn 50 người. Họ tới đây vì muốn tận mắt xem những giọt dầu chảy ra từ bức tranh Đức mẹ Mary. Altindagoglu cho hay một linh mục người Li-băng đã tặng vợ anh bức tranh nhân dịp sinh nhật cô năm 2006. Những giọt dầu bắt đầu chảy ra từ bức tranh vào ngày 12/2 năm nay. Kể từ đó ngày nào Đức mẹ cũng "khóc". "Khi tin đồn lan ra, những người ở Pháp tìm tới nhà tôi. Sau đó cả những người từ khắp châu Âu cũng đến. Trong hơn 3 tuần qua tôi tiếp từ 50 tới 60 người mỗi ngày", Altindagoglu kể. Đức mẹ trong ảnh bắt đầu "khóc" từ ngày 12/2. Ảnh: AFP. Altindagoglu nói một linh mục chính thống giáo đã đồng ý tổ chức một buổi lễ tại nhà anh trong tuần này để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức mẹ Mary. "Công việc tiếp theo là mời một giám mục chứng kiến những giọt dầu từ bức tranh để hiện tượng kỳ lạ này có thể được Giáo hội công nhận chính thức", Telegraph dẫn lời Altindagoglu. Trong nhiều thế kỷ qua người ta từng nói đến hàng trăm vụ tượng khóc ra máu, dầu hoặc nước. Tuy nhiên, chỉ có một trường hợp duy nhất được Giáo hoàng công nhận là hiện tượng kỳ lạ vào năm 1973. Đó là bức tượng Đức mẹ Mary bằng gỗ ở tỉnh Akita, Nhật Bản, tờ báo Anh cho hay. Minh Long nguồn vnexpress.net
-
Nhưng chưa bao giờ chưa nơi nào phát hiện Đức Mẹ cười? Hay các ngài nhìn thấy nhân gian quá nhiều đau khổ nhỉ? Đã đến lúc chúng ta được quan tâm chăng?
-
Tranh của Rin nói lên tâm trạng của người biết yêu cái đẹp có nhiều khát vọng vươn cao nhưng độc hành trên mọi bước đường và thiếu người chia sẽ. Tác giả đã chọn cuộc sống khép kín dù nghề nghiệp mang tính hướng ngoại, luôn tạo khoảng cách với mọi quan hệ xã hội vì trái tim rất dễ tổn thương và nhạy cảm. Đây là mẫu người trung thành nhưng khắt khe với bản thân và mong muốn điều hoàn mỹ. Vài dòng nhận định qua tranh, nếu không đúng xem như bài này Wild riêng tặng Rin.
-
Oh! bài này Wild có post rồi NT chịu khó tìm lại trong diễn đàn mình đây thôi.
-
Dân ùn ùn kéo đến Hố Tiên xin nước suối chữa bệnh Cả tuần nay, theo lời đồn thổi, hàng trăm người từ khắp nơi đã đổ về thôn An Hoang, xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ (Bình Định), xin nước suối Hố Tiên để chữa bệnh. Hố Tiên là dòng suối tự nhiên từ trong núi chảy ra. Đường lên núi rất hẹp, lởm chởm đá và rễ cây, đi không cẩn thận dễ trượt ngã, nguy hiểm. Tại Hố Tiên có một tảng đá lớn giống bàn cờ, tương truyền là nơi các tiên ông ngự để đánh cờ. Phía trên đầu nguồn Hố Tiên có một hòn đá giống hình người, được cho là tiên ông đang ngự để chữa bệnh. Từ sau Tết tới nay, lời đồn thổi nước suối tiên chữa được bệnh lan truyền khắp nơi ở tỉnh Bình Định và vùng lân cận. Trước đó, hai bà Nguyễn Thị Chí và Lưu Thị Trọng (cùng ở thôn An Hoang, xã Mỹ Chánh), kể với mọi người rằng trong khi đi tìm thuốc nam để chữa bệnh cho bản thân, khi đến Hố Tiên, cả hai đã gặp một tiên ông râu tóc bạc phơ hiện ra. Hai bà cầu nguyện, uống nước suối và đã bớt bệnh. Do đó, cả hai xây am lập miếu để thờ cúng tại đây. Nhiều người nghe tin bèn tìm đến đây để cúng, xin thuốc. Bà Chí và bà Trọng lấy nước suối để cho người uống chữa đủ loại bệnh. Người bệnh phải khai báo rõ họ tên, quê quán của mình, đến xin nước trị bệnh gì. Người dân đang hứng nước suối Hố Tiên để uống chữa bệnh. Ảnh: Minh Thảo Theo chân đoàn người lên Hố Tiên hôm 9/3, đã quá trưa, phóng viên VnExpress.net chứng kiến nhiều tốp người, phần lớn là phụ nữ, ngược xuôi vượt núi ôm theo nhiều chai nước suối. Chị Thanh, một người đi xin nước ngượng nghịu bảo: "Không biết có thật nước suối chữa được bệnh hay không, nhưng tôi vẫn xin về để uống thử". Chị cũng từ chối cho biết mình bị bệnh gì. Cạnh Hố Tiên là một am thờ nhỏ do hai bà Chí, Trọng lập, có bàn thờ được xây trên đá, bên trong đang nghi ngút hương khói và hoa quả. Nhiều người phụ nữ vẫn đang lom khom hứng nước từ khe suối chảy xuống. Ngược núi lên cao hơn để tìm đầu nguồn của nước Hố Tiên, phóng viên phát hiện nguồn suối là những hố nước tù đọng, trâu bò của người dân địa phương thả rong trên núi xuống tắm. Xung quanh có nhiều rác, phân súc vật... Đại diện UBND xã Mỹ Chánh cho biết, chính quyền chỉ mới phát hiện việc chữa bệnh trái phép của những người lập am thờ tại Hố Tiến, vì mấy ngày nay xuất hiện nhiều người ở ngoài địa phương kéo nhau đến khu vực này xin nước chữa bệnh. Tượng đá hình người giữa suối, tương truyền đây là tiên ông đang ngự để chữa bệnh. Ảnh: Minh Thảo Ngày 9/3, chính quyền địa phương đã triệu tập hai bà Chí, Trọng để làm việc, yêu cầu tháo dỡ am và bàn thờ trái phép tại Hố Tiên. Đồng thời đề nghị hai người không được lấy nước suối để chữa bệnh cho người dân theo kiểu mê tín dị đoan, tụ tập đông người gây mất an ninh trật tự. "Nhiều người đến xin nước suối còn ở lại dài ngày trên núi, tổ chức nấu nướng ăn uống, rất dễ gây cháy rừng, nhất là trong mùa hanh khô như hiện nay", đại diện UBND xã Mỹ Chánh nhấn mạnh. Theo chính quyền địa phương, trong 3 ngày tới, nếu bà Chí và bà Trọng không tự tháo dỡ am, bàn thờ... thì xã sẽ có biện pháp xử lý, không để tình trạng mê tín dị đoan này kéo dài. Minh Thảo nguồn vnexpress.net
-
"Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?" Bạch Ẩn Huệ Hạc (Hakuin Ekaku, 1686-1769), nổi tiếng với công án "Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?", là một thiền sư ngộ đạo có công chấn hưng dòng thiền Lâm Tế Nhật Bản. Ông được mọi người tán tụng là một bậc tài đức vẹn toàn. Cạnh thiền thất của Sư có một cô gái xinh đẹp mà bố mẹ là chủ một cửa hàng thực phẩm. Bỗng dưng một hôm bố mẹ cô khám phá ra rằng cô đang mang bầu. Cô không chịu khai ai là tác giả của cái bào thai, nhưng sau bao lần cật vấn cô bảo là cha đứa bé chính là Bạch Ẩn. Cha mẹ cô điên tiết lên đến đối chất với Bạch Ẩn. Ngài chỉ nói: "Thế à?". Ngay khi đứa bé vừa chào đời, nó được giao cho Bạch Ẩn, lúc bấy giờ danh dự của ngài đã bị tổn thương nghiêm trọng, nhưng ngài vẫn thản nhiên. Ngài tận tình chăm sóc đứa bé và thường đi sang hàng xóm để xin sữa và các thức cần thiết khác để nuôi trẻ sơ sinh. Một năm sau, cô gái xinh đẹp kia không chịu đựng được lương tâm cắn rứt, bèn thú nhận với bố mẹ rằng người cha thật sự của đứa bé là anh hàng cá trẻ tuổi. Bố mẹ cô gái vội vã đến tạ lỗi với thiền sư, mong ngài thứ tội và xin nhận lại đứa bé. Bạch Ẩn trao đứa bé lại và nói: "Thế à?"
-
Chào bạn! trước khi nhận được lời giải cho lá số, bạn hãy cung cấp thông tin biến cố trong cuộc đời để các Bác các anh chị có thể kiểm chứng xem lá số của bạn có đúng của bạn không? sau đó bạn hãy hỏi những gì cần hỏi.
-
Bia tiến sĩ trở thành Di sản tư liệu thế giới Cập nhật lúc 22:13, Thứ Ba, 09/03/2010 (GMT+7) , Chiều nay (9/3), tại Macao, Trung Quốc, trong phiên họp toàn thể thường niên Uỷ ban Ký ức Thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO, Hồ sơ Bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội đã được công nhận là Di sản tư liệu thế giới. Sau Mộc bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ 2 của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới (Memory of the World) của UNESCO. Đây là sự kiện vô cùng ý nghĩa với Thủ đô trước thềm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Pho “sử đá” đồ sộ Bia tiến sĩ ở Văn Miếu, Quốc tử giám Bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám vinh danh tên tuổi những người đỗ trong các kỳ thi tuyển Tiến sĩ triều Lê và Mạc. Trên mỗi tấm bia khắc một bài văn (bài ký) bằng chữ Hán, nội dung ghi lại lịch sử của các khoa thi tổ chức từ năm 1442 đến 1779. Có 82 tấm bia tương ứng với 82 khoa thi được dựng. Tấm bia Tiến sĩ đầu tiên được dựng năm 1484 đời vua Lê Thánh Tông, ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442. Tấm bia cuối cùng được dựng vào năm 1780 cho khoa thi tổ chức vào năm 1779. Có thể tìm thấy ở đây tên tuổi của nhiều danh nhân từng được nhắc nhiều trong các sách sử Việt Nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách “Đại Việt sử ký toàn thư”; nhà bác học Lê Quý Đôn, tác giả của Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ…; nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến sĩ khoa 1775, đã giúp vua Quang Trung chiến thắng quân Thanh trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử… Không chỉ là nguồn tư liệu phong phú phản ánh một giai đoạn lịch sử hơn 300 năm dưới triều Lê - Mạc, Bia Tiến sĩ Văn Miếu còn là bức tranh sinh sộng về việc tuyển dụng và đào tạo nhân tài độc đáo ở Việt Nam, thể hiện ở tư tưởng trị quốc dựa vào nhân tài. Ngay ở tấm bia đầu tiên (khoa 1442) đã chỉ rõ “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài”. Tấm bia năm 1448 lại nhắc “Nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn” và “Phải có đào tạo sau mới có nhân tài”. Nhiều tấm bia sau cũng nhắc đi nhắc lại ý “nhân tài là nguyên khí quốc gia”; bia các năm 1556, 1604, 1703, 1763, 1772 nhấn thêm ý “phải vun trồng, bồi dưỡng nhân tài”. Từ những tấm bia Tiến sĩ, người đời sau lĩnh hội được nguồn tư liệu có giá trị để tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của các sứ thần Việt Nam, cùng mối quan hệ bang giao giữa các nước vùng Đông Bắc Á. Trong số 1304 tiến sĩ được khắc tên trên 82 bia đá ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, có 225 vị từng được cử đi sứ sang Trung Quốc vào các triều Minh (1368-1644), triều Thanh (1644-1911). Mặt khác, trong các nước có ảnh hưởng của Nho giáo như Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam thì chỉ có Việt Nam có bia Tiến sĩ mang nội dung phản ảnh tư tưởng chính trị, triết học, giáo dục khoa cử của Triều đại, nhờ đó có thể nghiên cứu sự phát triển, thay đổi của Nho giáo trong việc quản lý đất nước của các triều đại ở khu vực thông qua bài văn khắc trên bia. Xứng tầm di sản thế giới Thiên Quang tỉnh - Văn Miếu, Quốc tử giám Giá trị và nét độc đáo của 82 bia Tiến sĩ chính là những bài văn khắc trên bia. Trên thế giới nhiều nước dựng bia, nhưng chỉ duy nhất Bia Tiến sĩ Văn Miếu có bài ký ghi lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài. Những bài ký trên bia Tiến sĩ được viết bằng chữ Hán với những cách viết khác nhau, khiến cho mỗi tấm bia như một tác phẩm thư pháp. Những bài văn bia này phần lớn đều do những danh nhân văn hóa, trí thức lớn của đất nước soạn, nên về cơ bản là những tác phẩm vô giá, góp phần làm nên truyền thống văn hóa, giáo dục của Việt Nam. Có thể kể đến Bài ký đề tên tiến sĩ khoa Nhâm tuất (1442) do Thân Nhân Trung (từng giữ chức Thượng thư bộ Lại, Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc Thử Giám) soạn. Trong đó có đoạn “Kính nghĩ: việc dựng bia đá là cốt để làm cho thịnh ý mưu trị cầu hiền của các bậc thánh đế thần tông được lưu truyền mãi mãi. Đó chính là phép lớn để rèn rũa người đời và là điều rất may cho Nho học”. Đoạn khác lại nêu luận điểm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, rồi lại đặt câu hỏi “ Kẻ sĩ ở chốn trường ốc lều tranh, danh phận thật là nhỏ mọn mà được triều đình đề cao rất mực như thế thì người mang danh kẻ sĩ phải trọng thân mình mà lo báo đáp, đáng phải như thế nào ?”. Mỗi tấm bia còn là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, kết tinh trí tuệ, bàn tay của những nhà văn hóa, thư pháp, nghệ nhân hàng đầu Việt Nam các thời kỳ và là loại hình văn bản đặc biệt của di sản tư liệu, làm phong phú thêm cho thể loại của Ký ức thế giới. Tất cả 82 bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội đều được chế tác theo cùng một phong cách: bia dẹp, trán cong, hình vòm. Các tấm bia được đặt trên lưng rùa, rùa cũng được tạo dáng theo một phong cách chung: to, đậm và chắc khỏe. Trang trí trên bia rất đa dạng, phản ánh sự phát triển hình tượng nghệ thuật theo thời gian, nhờ đó mà hiểu được lịch sử phát triển mỹ thuật của Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Đây được coi là những bằng chứng sống động của trí tuệ và bàn tay khéo léo của những nghệ nhân Việt Nam . Cho đến nay, Bia Tiến sĩ Văn Miếu vẫn là những bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng; phần lớn các hoa văn và văn tự còn rõ, có khả năng đọc được. Các bài văn bia cho biết rõ ngày tháng dựng bia, tên của người soạn văn bia, người dựng bia. Chữ viết trên bia, các hoa văn trang trí cùng phong cách tạo dáng bia, rùa đều mang dấu ấn của thời đại sản sinh ra chúng. Điều này khẳng định tính xác thực, nguyên bản, duy nhất của tư liệu - những tiêu chí quan trọng mà chương trình Ký ức thế giới đặt ra. Bia Tiến sĩ có tác động xã hội to lớn đối với người đương thời và hậu thế. Được ghi tên trên bia đá là niềm khích lệ lớn trong việc học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho đất nước và xã hội. Bia Tiến sĩ cũng là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ. Ngày nay Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với các học giả, du khách, chính khách trong và ngoài nước. Hàng ngày có hàng ngàn du khách trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng, tìm hiểu về chế độ tuyển chọn và đào tạo nhân tài, sử dụng hiền tài, quan điểm về giáo dục của người Việt Nam xưa. Rất nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách quan trọng của các nước trên thế giới đã đến đây và đánh giá cao giá trị và ý nghĩa của những tấm bia đá. Hồ sơ bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc được công nhận Di sản tư liệu thế giới là một món quà ý nghĩa đối với Thủ đô Hà Nội. Đó không chỉ là việc công nhận một di sản quý của cha ông để lại cho Hà Nội, mà còn là một phần của bức tranh đẹp về Thủ đô ngàn năm văn hiến và Anh hùng, trong dịp tổ chức Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. (Theo TTXVN) Cập nhật lúc 22:13, Thứ Ba, 09/03/2010 (GMT+7) nguồn vietnamnet.vn
-
Ghi nhận có sự đóng góp của dangthu 1,000,000 đ (một triệu đồng) dành cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 3,789,000 đ + 1,000,000 đ = 4,789,000 đ (bốn triệu bảy trăm tám mươi chín ngàn đồng)
-
Ghi nhận có sự đóng góp của ComPack 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) dành cho cháu bé bị não úng thủy. Quỹ hiện có: 3,489,000 đ + 300,000 đ = 3,789,000 đ(ba triệu bảy trăm tám mươi chín ngàn đồng)
-
Cám ơn Tetpy và người bạn đã giúp Wild chuyển phần trao tặng đến gia đình người có hoàn cảnh khó khăn.
-
Một ý hay, một đề xuất có tình, Wild sẽ liên hệ lại với Chị Tiết với định hướng của bạn. Hy vọng có tia sáng cho cháu.
-
Đã nhận của Thiên Đồng 100,000 đ (một trăm ngàn đồng) tặng cho cháu bé bị não úng thủy. Quỹ hiện có: 3,389,000 đ + 100,000 đ = 3,489,000 đ (ba triệu bốn trăm tám mươi chín ngàn đồng)
-
Cám ơn Art nhé ! Hôm nay lại có 1 trường hợp được compack đưa lên, cần sự giúp đỡ của ACE hảo tâm mở rộng tấm lòng chia sẽ để đến với gia đình Anh Minh . Có nhận được 100,000 đ (một trăm ngàn) của Thiên Đồng.
-
Bí ẩn những xác ướp Việt Bí ẩn những xác ướp kèm những huyền thoại và thông điệp từ một quá khứ thẳm sâu nào đó luôn tạo nên thách thức cho hậu thế trong những cuộc kiếm tìm, giải mã. Lần này PV mời bạn đọc trở lại những dấu ấn trong hành trình khám phá bí ẩn của các trường hợp xác ướp tại VN. Hàng trăm năm qua, tấm thân những dân thường, công hầu, vua chúa... với sự bảo quản tình cờ hay chủ ý của tiền nhân, đã tồn tại yên bình và nguyên vẹn trong giấc ngủ ngàn thu. Chính giấc ngủ của họ đã thành trang sử đặc biệt để hậu thế có thể minh định rõ những ẩn khuất của dân tộc trải qua bao cuộc dâu bể thăng trầm... Hà Nội. Một chiều rét. GS.TS Đỗ Văn Ninh sống lại ký ức ngôi mộ cổ đặc biệt từng khai quật. Ngược thời gian 42 năm trước, đó là gò đất ở thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà (giờ là Nam Định). Chuỗi hạt nhà Phật theo bà hàng trăm năm dưới lòng đất vẫn còn nguyên vẹn - Ảnh tư liệu Phủ Vân, đền thờ chúa Liễu Hạnh, gần đó quanh năm thu hút người dân hương khói nên gò đất hoang này trông càng đìu hiu, cô quạnh hơn. Rồi một ngày dân địa phương đào gò lấy đất đắp đường. Và ngôi mộ cổ bí ẩn phát lộ. Cuộc đào mộ trong đêm Được tin địa phương báo lên, GS Đỗ Văn Ninh cùng đồng nghiệp háo hức chuẩn bị ngay việc khai quật. Ông nhớ cảm giác hồi hộp khi biết mộ nằm trên vùng đất cổ khởi phát nền văn minh sông Hồng đã trải qua bao biến động lịch sử. Giải mã những bí ẩn mộ cổ này sẽ góp phần làm rõ thêm trầm tích lịch sử, văn hóa nước Việt. Cuộc khai quật bắt đầu từ ngày 4 đến 8-11-1968. Họ thắp đèn làm đêm, đặc biệt là phần khai lộ quan tài để tránh sự hủy hoại của nắng trời và người dân tò mò. Suốt ngày đêm địa phương phải cử dân quân bảo vệ hiện trường. Tuy nhiên, chính việc làm đêm hôm lại khiến người dân tò mò hơn. Họ theo dõi sát sao xem xác ướp và báu vật dưới mộ cổ. Nhưng cũng có những người xem người đã mất là tổ tiên và muốn rõ sự thật về tiền nhân. Phần ngoài mộ cổ này được bảo vệ một cách chắc chắn và bí mật như các ngôi mộ Hán cổ tìm thấy ở nước Việt. Khi xây xong mộ, đất được đắp trùm lên thật nhiều để hậu thế nhầm tưởng là gò đồi tự nhiên. Người nằm dưới có thể yên giấc ngàn thu mà tránh được lòng tham của kẻ trộm mộ cũng như sự đào phá của người thù. Sau này, người ta lần ra được đầu mối bằng cách tìm kiếm ao vũng gần đó. Nếu cạnh gò đất mà có ao vũng cũng xa xưa như vậy thì có thể đó là gò mộ. Người xưa muốn đắp điếm che giấu mộ thì phải đào đất. Điều này thường thấy ở các mộ Hán cổ. Trong trí nhớ chính xác của giáo sư Ninh, mộ cổ Vân Cát nằm trong gò đất vuông cạnh khoảng 11m và cao hơn mặt ruộng 1,5m. Người già địa phương kể ngày xưa gò đất này lớn hơn nhưng đã bị người dân đào lấy dần. Mộ chính xây bằng hợp chất vôi, cát nằm giữa gò đất, đầu quay về hướng nam chếch tây khoảng 20 độ. Lớp đất ngoài được đào tung, nhưng vẫn không tìm thấy bia đá ghi danh tánh người mất như các mộ cổ khác thường khắc trên bia đá tự nhiên bền bỉ với thời gian. Bí ẩn ngôi mộ cổ càng thêm bí ẩn! Qua lớp đất, nhóm khảo cổ tiếp tục khai mở phần quách. Việc này khó khăn và mất nhiều công sức nhất vì nó được làm bằng hợp chất rất dày, cứng chắc hơn cả bêtông. Chưa có ximăng, người xưa dùng vôi, cát, mật để xây dựng. Thậm chí người ta còn nung vôi từ các vỏ sò giã nhuyễn. Hợp chất làm quách (thay cho bêtông ngày nay) không chỉ rất cứng, bền, mà còn mịn dẻo để chống sự nứt nẻ, bở mục theo thời gian. Hầu hết xác ướp phát hiện ở VN đều được loại quách đặc biệt này bao quanh. Chính nó góp phần quan trọng gìn giữ thi hài bên trong. Nhóm khảo cổ Vân Cát khó khăn lắm mới phá vỡ được vỏ quách dày gần 0,3m bao quanh quan tài và được đổ kiên cố bằng 13 mẻ hợp chất. Sau hàng trăm năm, dấu vết 13 mẻ đổ quách vẫn còn lại với các lớp nối tiếp sậm, nhạt không đồng màu. Giấc ngủ hàng thế kỷ Đêm khai quật cuối, đàn hương nghi ngút khói để chuẩn bị mở nắp quan tài. Người dân im phăng phắc trong cảm giác sờ sợ lẫn tò mò. Còn các nhà khảo cổ thì hồi hộp, xúc động. Bí ẩn của tiền nhân và lịch sử xã hội hàng trăm năm trước đang nằm sau tấm gỗ sắp lộ thiên. Quan tài lớn, dày gần 10cm, gồm hai loại gỗ ghép lại với nhau mà bên ngoài là gỗ hiếm ngọc am (hay còn gọi san mộc), mặt trong bằng gỗ lim. Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật, cộng sự của GS Ninh, nhớ như in khoảnh khắc 42 năm trước: “Chúng tôi từng khai quật nhiều xác ướp, nhưng vẫn sửng sốt khi nhìn bà như người bệnh đang say ngủ trong lòng quan tài bốc mùi thơm thảo mộc thoang thoảng. Gương mặt bà vẫn mịn màng, thanh thoát nét đài các, dịu dàng”. Ông kể nếu thay quan tài là giường, mọi người sẽ nghĩ bà đang mê man giấc ngủ bình yên. Đó là người phụ nữ khoảng 60 tuổi, tóc dài chớm hoa râm. Lúc mới lộ thiên, làn da toàn thân bà vẫn trắng mịn, mềm mại. Các khớp chân, tay có thể co duỗi dễ dàng. Mô ngực vẫn còn hình hài mà chưa xẹp xuống hoàn toàn. Đặc biệt, hốc mắt vẫn còn rõ lòng đen, trắng. Hai hàm răng nhuộm đen cũng chưa rụng chiếc nào... Ông Truật kể lúc đó mình còn trẻ đã vô tư nhờ một phụ nữ địa phương trạc tuổi người đã mất đến gần thi hài người chết để so sánh “ai đẹp hơn ai”. Trong quan tài, người phụ nữ được đặt nằm trên tấm thất tinh, phía dưới là lớp gạo rang dày 20cm rồi mới đến đáy quan tài. Tấm thất tinh là miếng gỗ đục thủng bảy lỗ theo hình chùm sao đại hùng tinh Bắc đẩu được người xưa tin là thuật phép đạo Lão. Nó “quản lý” vong hồn người chết và bảo vệ họ khỏi tà ma, yêu quỷ phá phách. Thực tế tấm thất tinh này còn có tác dụng thoát nước xuống lớp gạo rang bên dưới để bảo quản thi hài. Cùng hàng trăm vật táng tạm xác định khoảng đầu thế kỷ 18, các nhà khảo cổ trăn trở mãi với tấm minh tinh trên quan tài có dòng chữ Hán: “Đặng thượng phụ y phu nhân Phạm Thị Nguyên Chân, giáo hùng tuệ đức tôn linh...”. Đó là đầu mối giúp họ đi tìm thân phận xác ướp để giải mã bao điều còn ẩn khuất trong lịch sử tiền nhân. Theo Quốc Việt
-
Bí ẩn những xác ướp Việt: Thách thức cát bụi Một bí ẩn kỳ lạ nhất của xác ướp VN là đã được bảo quản rất tốt, dù không phải giải phẫu lấy nội tạng như nghệ thuật ướp xác ở Ai Cập cổ đại hay xây lăng tẩm nguy nga. Ngay thi hài vua Lê Dụ Tông ở Bái Trạch, Thanh Hóa cũng chỉ yên giấc ngàn thu trong cỗ quan tài và quách mộ mà bề ngoài chẳng có gì đặc biệt so với táng thức đương thời. Mùi hương kỳ lạ “Nhiều người nghĩ xác ướp sẽ nặng mùi, nhưng kỳ lạ là lại bốc mùi thân mộc thơm thoang thoảng. Đặc biệt có một vài xác ướp hơi bị nặng mùi do bom đạn hay đào bới xâm phạm làm vỡ quách, hư áo quan để không khí và nước lọt vào trong lâu ngày” - nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật tâm sự về cảm giác đầu tiên khi đánh thức giấc ngủ ngàn thu của xác ướp. Thậm chí, ông Truật từng nhắm mắt, nếm chất nước đọng dưới đáy quan tài để thử phân tích bằng chính giác quan mình. Và ông khẳng định nó không hôi tanh khó chịu mà lại thơm như nhựa thông. Ông Đỗ Đình Truật với cục tinh dầu đặc lại cùng các chất khác trong quan tài xác ướp - Ảnh: Quốc Việt Nhiều xác ướp còn nằm yên nghỉ ngập trong dầu thông. Một số xác ướp dầu ít hơn nhưng vẫn giữ lại mùi hàng trăm năm sau. Nhiều ý kiến cho rằng loại dầu này chính là tinh chất gỗ ngọc am mà người Trung Quốc gọi là san mộc. Theo cố giáo sư - bác sĩ Đỗ Xuân Hợp, người xưa biết kết hợp nhiều yếu tố để giữ xác ướp không bị thối rữa thành cát bụi như thường tình. Nghiên cứu thi hài vua Lê Dụ Tông, giáo sư Hợp ghi chép: “Dầu thông đã được đổ nhiều vào trong quan tài nên khi mở ra thấy chăn bông, vải liệm, áo mặc, giấy bản đẫm dầu và mỡ. Chất thơm ngấm vào da, và qua da vào các tạng nên sực mùi thơm...”. Ngay thi hài vua cũng nhớp nháp dầu thông. Chính loại dầu thân mộc này là một yếu tố quan trọng góp phần bảo quản được xác tiền nhân. Thậm chí những miếng trầu, cau chôn theo hàng trăm năm còn xanh tươi như vẫn có thể dùng được. Đặc biệt, thi hài vua sau đó được đặt ở tầng hầm Bảo tàng Lịch sử VN suốt 46 năm vẫn không hư hỏng. Khí hậu miền Bắc khắc nghiệt chỉ làm thi hài nhà vua co lại, chứ không thối rữa theo thời gian... Giáo sư Hợp từng nghiên cứu nhiều xác ướp còn rất tốt khác cũng đậm dấu vết dầu thông. Đó là mộ bà phi dòng họ Trịnh (bia mộ đề thời gian chôn cất thuộc niên hiệu Vĩnh Trị 1676 - 1680) ở Thanh Hóa đã bị lộ thiên cả tháng trước khi các nhà khảo cổ và bác sĩ về nghiên cứu năm 1957. Trước đó, người ta tình cờ đào lên thấy xác của bà vẫn còn nguyên vẹn trong chiếc quan tài bằng gỗ ngọc am. Hành trang về suối vàng của bà không biết có bị lấy trộm gì không, nhưng các nhà khảo cổ về vẫn thấy sáu chiếc áo gấm thêu kim tuyến, xiêm y còn rất tốt dù đã bị người đào phá rách. Ấn tượng nhất là xác ướp của bà tuy đã bị đưa ra khỏi quan tài, vùi lấp tạm bợ trên cánh đồng ba ngày, rồi chôn lại trong quan tài ngập nước gần một tháng mà vẫn còn nguyên và bốc mùi thơm nhựa thông. Thậm chí sau đó bà được tắm lại bằng năm lần nước sạch vẫn không hết mùi thơm. Và dấu vết bảo quản xác của dầu thông còn lan ra ngoài, khi vùng đất quanh mộ cũng nhiễm mùi thơm. GS Đỗ Văn Ninh cho rằng việc xử lý thi hài rất quan trọng để giữ xác. Người xưa thường quàn xác rất lâu (thậm chí tới hàng năm) trước khi chôn nên chú trọng việc chống thối rữa. Ngoài dầu thông thường được đổ vào quan tài, người sắp qua đời thường được uống thuốc “hồi dương” có quế nóng giúp tăng tuần hoàn máu để nấn ná sự sống, chờ đợi con cháu. Sau đó lại dùng rượu quế (có thể rượu trắng) tắm rửa cho người mất cũng làm sạch được phần nào trong và ngoài thi hài để giảm sự phân hủy do vi khuẩn. Đặc biệt, khi nhập liệm người xưa thường chèn nhiều chăn, gối, quần áo, giấy bản, bông vào quan tài có rải gạo rang, chè khô bên dưới. Ngoài ý nghĩa tùy táng mang về thế giới bên kia, các thứ này còn hút ẩm và đẩy không khí ra ngoài để hạn chế môi trường vi khuẩn hại xác. Thậm chí trước khi nhập liệm, người ta còn đốt nến trong quan tài như là một lễ thức, nhưng cũng góp phần tạo môi trường chân không và sát khuẩn. Bảo vệ giấc ngủ ngàn thu Tìm kỹ thuật bảo quản xác tiền nhân, nhà khảo cổ cũng phát hiện xác ướp vua Lê Dụ Tông, Phạm Thị Nguyên Chân, Bùi Thị Khang, Trịnh Phi, Trịnh Dung quận chúa, Trịnh Quý Thị, Đinh Văn Tả... đều yên nghỉ trong quan tài gỗ quý hiếm ngọc am. Hàng trăm năm trong lòng đất, quan tài gỗ này vẫn không hư và thoang thoảng mùi thơm thân mộc khi khai quật. Những thi hài dù không được ướp dầu thông thơm cũng không thể ám mùi hôi vào gỗ quan. Các nhà nghiên cứu khảo sát thi hài Trịnh Dung quận chúa ở Hoằng Đức, Thanh Hóa, thấy quan tài gỗ ngọc am vẫn thơm, trong khi tấm thất tinh đục bảy lỗ hình chòm sao đại hùng tinh lại nặng mùi thối vì không phải gỗ ngọc am. Thậm chí tấm thất tinh này sau được ngâm trong vũng nước mưa nhiều ngày vẫn nặng mùi. Còn quan tài ngọc am phơi mưa nắng lại giữ được mùi thơm. Theo GS Ninh, ngọc am cũng có tên hoàng đàn rủ, loại cây gỗ trong bộ thông, thuộc họ hoàng đàn, sống trên vùng núi đá vôi ở Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng... Người Trung Quốc gọi nó là san mộc (shamou) và hay sang VN mua về làm quan tài. Gỗ quý này bền thơm và có tính sát khuẩn cao nên góp phần bảo quản thi hài. Đặc biệt, người xưa còn biết làm quan tài rất kín chắc với các mộng ghép chặt chẽ và trét kín bằng sơn sống có trộn mạt cưa hoặc nhựa thông nhào hồ nếp. Thậm chí có quan tài được đóng hai lớp gỗ dày cả 10cm mà nhiều người khiêng không nổi. Chính những yếu tố này đã ngăn chặn không khí và nước thấm vào để góp phần quan trọng bảo quản thi hài. Kể chuyện bí quyết ướp xác người xưa, nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật xòe bàn tay chai sần trong quá trình đục phá quách mộ. Ngoài kỹ thuật xử lý xác và gỗ quan tài thì phần quách bảo vệ rất quan trọng để giữ xác. Hầu như tất cả xác ướp phát hiện đều được bảo vệ bằng loại quách hợp chất kiên cố làm từ vôi, cát, mật, thậm chí còn gia cường độ bền của hợp chất này bằng keo vỏ cây dó, giấy bản và vỏ sò nung nóng rồi giã nhuyễn. Quách bao kín các mặt quan tài, kể cả đáy với độ dày có khi lên đến nửa mét để bảo vệ quan tài và xác ướp bên trong khỏi bị tác hại của nước và không khí lọt vào. “Ở bãi biển Thụy Xuân, Thái Bình có mộ hợp chất mà lâu ngày sóng biển làm nhẵn thín như đá. Dân không biết cứ lên đó ngồi chơi cho đến khi phát hiện, khai quật được xác ướp một cô gái vẫn còn nguyên hình hài...” - nhà khảo cổ già lộ rõ sự thán phục bí quyết ướp xác tiền nhân. Theo Quốc Việt(tuổi trẻ) nguồn tintuconline.
-
Bí ẩn những xác ướp Việt : Giải mã xác ướp Từng khai quật và nghiên cứu nhiều xác ướp, nhưng GS khảo cổ học Đỗ Văn Ninh cùng đồng nghiệp vẫn ngạc nhiên trước những bí ẩn của xác ướp trong mộ cổ Vân Cát. Nằm đìu hiu dưới gò đống hoang tàn nhưng xác ướp này có lẽ không phải là dân thường với táng thức trong mộ hợp chất và quan tài bằng gỗ ngọc am công phu và tốn kém. Tiền nhân đã chủ ý bảo quản thi hài này không về với cát bụi. Đặc biệt, hàng trăm đồ vật táng theo cũng chứng tỏ danh phận bà không đơn giản. Nhưng bà là ai? Đằng sau trang Đại tạng kinh Trong chiếc quan tài gỗ ngọc am còn rất tốt, các nhà khảo cổ đã phát hiện xác ướp được mặc đến 35 chiếc áo thụng bằng gấm, lụa, có cái được thêu cả kim tuyến cầu kỳ. Để về với thế giới bên kia, bà còn được mặc 18 chiếc váy vải, lụa. Một trang Đại tạng kinh chôn theo là đầu mối tìm danh phận xác ướp - Ảnh tư liệu Ngoài hàng chục chiếc gối chèn lớn nhỏ, bà mang theo những thứ thiết thân trong cuộc sống phụ nữ bấy giờ như quạt nan giấy 18 nan gỗ, túi trầu bằng gấm thêu với 10 miếng trầu đã têm và 10 miếng cau tươi cùng túi gấm đựng thuốc lào, khăn lau miệng bằng lụa, mũ lụa. Trong miệng xác ướp ngậm một đồng tiền Khang Hi thông bảo và hai đồng Hồng Hóa thông bảo để “trả tiền đò qua sông âm phủ”... Hầu như tất cả đều còn trong tình trạng nguyên vẹn, chưa bị hư hỏng. Bước đầu những táng vật này đã nói lên được người đàn bà đó giàu có, ít nhất trong giai đoạn cuối đời. Đặc biệt cùng với chuỗi hạt nhà Phật được kết từ 101 hạt gỗ đen, trên ngực xác ướp còn được đặt trang trọng một túi gấm đựng hai quyển Đại tạng kinh và Tu tinh thổ tiệp kinh. Từ những quyển kinh này, GS Ninh đã tạm xác định danh phận người đàn bà không chỉ giàu sang, mà có thể còn thuộc gia đình quan quyền. Ngày xưa, nhiều vua quan nước Việt và thân nhân đã chọn đường tu cuối đời. Xác định được niên đại an táng khoảng đầu thế kỷ 18 và xác ướp là người quyền quý, tu hành, các nhà khảo cổ tiếp tục lần giở sử sách nhà Hậu Lê để trả lại tên tuổi cho người đã khuất. Chẳng có ai vô danh trên cõi đời này. Hàng trăm năm sau, xác ướp vẫn còn đó, chẳng lẽ lại không tìm được danh phận bà? GS Ninh cùng đồng nghiệp đã bám sát đầu mối là những chữ “Đặng thượng phụ y phu nhân Phạm Thị Nguyên Chân...” trên tấm minh tinh. Đã chắc người này là vợ người chức sắc hoặc vai trò lớn với triều đình, nhưng họ vẫn phân vân. Có người nghĩ đó là vị quan họ Đặng làm chức thượng thư triều Hậu Lê. Nhưng cũng có diễn giải khác rằng chữ “thượng phụ” không nhất thiết nghĩa thượng thư. Sử Trung Quốc, Văn Vương nhà Tây Chu đầu thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã mời Khương Tử Nha (Lã Vọng) về làm thượng phụ. Đó không phải chức quan mà là danh tặng người có vai trò quan trọng, cố vấn vua, và ở hàng tuổi tác ngang cha vua. Thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, từ “thượng phụ” cũng xuất hiện khi vua Cao Tôn, nhà Ân mời người đẩy xe đất về làm thượng phụ, cố vấn mình. Từ đó, nhà khảo cổ biết thêm chi tiết quan trọng vị thượng phụ họ Đặng, phu quân xác ướp, có tuổi ít nhất cũng tương đương cha đẻ vua chúa cùng thời. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi rõ có một dòng họ Đặng hơn 200 năm vinh hoa phú quý, hơn cả họ các công thần khởi đầu từ Nghĩa quận công Đặng Huấn. GS Ninh kể ông cùng đồng nghiệp đã lần truy gia phả họ này và phát hiện đây thật sự là một dòng họ lẫy lừng. Khởi đầu là Nghĩa quận công Đặng Huấn mất năm 1583 đến Hà quận công Đặng Tiến Vinh, rồi con cháu nhiều đời cũng đều làm quận công hoặc hiền trung hầu, thống lĩnh. Khoanh trấn Sơn Nam, địa danh cũ nơi chôn xác ướp và loại suy những người họ Đặng khác thời, nhà khảo cổ lần ra được mấy người cùng làm quận công vùng này là Đặng Đình Tướng, Đặng Đình Giám, Đặng Đình Lân. Trong họ, Đặng Đình Tướng tham dự sâu triều chính, đối tượng gần nhất với chữ “thượng phụ”. Ông sinh năm 1649, tên nguyên Đặng Thụy, hiệu Trúc Trai, đỗ đồng tiến sĩ năm 1670, được sung chức phó sứ sang nhà Thanh năm 1697. Cuộc đời ông đã trải nhiều chức vụ, vai trò quan trọng trong triều đình như võ đô đốc, ứng quận công, thái phó, quốc lão, đại tư mã... Ông mất lúc 87 tuổi, năm 1735, được phong phúc thần. Như vậy, các diễn giải lịch sử và chứng cứ khảo cổ đã tạm giải mã được bí ẩn danh phận của xác ướp. Phạm Thị Nguyên Chân có thể chính là phu nhân thượng phụ Đặng Đình Tướng. Nhưng một bất ngờ nữa lại hé lộ ... Lời giải từ xác ướp thứ hai ...Ba năm sau, mùa hè1971, bom Mỹ làm bật tung một bia đá mộ cổ ở gò Lăng Dứa, xã Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức, Hà Tây. Mặt trước bia khắc chữ Hán: “Đặng công quận phu nhân Bùi Thị chi mộ”. Mặt sau có hàng chữ “Vĩnh Thịnh thập niên mạnh xuân thượng nhật lập”. Bí ẩn xác ướp Vân Cát có thể được trả lời chính xác từ mộ cổ thứ hai này ở cách hàng chục kilômet. Khi khai quật, mọi người ồ lên khi thấy tấm minh tinh có ghi rõ rằng bà là Bùi Thị Khang, chính thất ứng quận công họ Đặng, và năm lập mộ chí là “Vĩnh Thịnh thập niên”, 1714, triều vua Lê Dụ Tông. Như vậy, dù hai xác ướp phụ nữ khác biệt thời gian táng, nhưng đều có thể là vợ Đặng Đình Tướng. Các nhà khảo cổ đã về làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, Hà Tây, tìm đọc Đặng phả và ngỡ ngàng thấy 13 đời Đặng quận công đều được chép tỉ mỉ trong Đặng thế gia phả ký. Ứng quận công Đặng Đình Tướng là đời thứ 9, lập bà Bùi Thị Khang làm chính thất. Sau đó, ông lập tiếp Phạm Thị Đằng, cháu bà Khang, làm thứ thất. Là con gái út Uyên thái hầu, bà Đằng gọi bà Khang là cô. Từ đây, bí ẩn mộ cổ ở Vân Cát đã trở nên rõ ràng bằng lời giải từ xác ướp Bùi Thị Khang. Xác ướp Phạm Thị Nguyên Chân ở Vân Cát chính là bà Phạm Thị Đằng (Nguyên Chân là tên thụy lúc chết, còn tên húy là Đằng). Cùng táng thức bằng quách hợp chất bao bọc quan tài gỗ quý ngọc am, nhưng thi hài bà Bùi Thị Khang không còn tốt như thi hài bà Phạm Thị Đằng. Khảo cổ học đã tìm hiểu kỹ và xác định nguyên nhân do nấm mộ của bà Khang bị bom đạn làm nứt vỏ quách. Những đồ vật táng theo bà Khang cũng ít hơn bà Đằng chứng tỏ bà mất lúc Đặng Đình Tướng chưa làm quan lớn. Còn bà Đằng mất sau, vào lúc phu quân đã công thành danh toại lẫy lừng cuối đời nên đồ vật gửi cho vợ sang thế giới bên kia cũng dày dặn, sang trọng hơn. Hồi tưởng chuyện xưa, nhà khảo cổ già Đỗ Văn Ninh mỉm cười thanh thản: “Giải mã bí ẩn xác ướp đâu chỉ là kỹ thuật chôn cất, mà còn góp phần làm sáng tỏ nhân tình thế thái xã hội đương thời, để con cháu nước Việt đời sau không quên tổ tiên mình”. Theo Quốc Việt
-
Bí ẩn những xác ướp Việt: Sự trở lại của đức vua Một sáng xuân 52 năm trước, trên ngọn đồi rậm rạp cây cỏ, nấm mộ vua Lê Dụ Tông bất ngờ được người làm vườn thôn Bái Trạch, xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa phát hiện. Tuy nhiên, hoàn cảnh lúc đó chưa cho phép đánh thức giấc ngủ trong lòng đất hàng trăm năm của nhà vua. Và bí ẩn ngôi mộ cổ chôn cất thi hài vua Lê Dụ Tông vẫn tiếp tục là bí ẩn nằm sâu dưới nắp quan tài... Lời đồn và sự thật Chính điều này đã dấy lên dư luận ngoài luồng nghi ngờ có phải mộ vua Lê Dụ Tông thật hay chỉ là mộ giả để tránh sự xâm hại khi triều đại hưng vong, thời cuộc biến động. Thậm chí nhiều người xác quyết mộ thật đang ẩn sâu đâu đó trong Lam Kinh cùng với tiên tổ, dù gần ngôi mộ ở Bái Trạch có bia đá tạc rõ “Lê triều Dụ Tông hoàng đế lăng. Minh Mạng nhị thập thất niên, tứ nguyệt nhị thập ngũ sắc kiến” (lăng hoàng đế Dụ Tông nhà Lê. Vua sai dựng ngày 25 tháng 4 năm thứ 21 niên hiệu Minh Mạng). Còn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì ghi vua Lê Dụ Tông được táng ở Đông Sơn, Thanh Hóa, sau đó dời về lăng Kim Thạch, Lôi Dương là vùng đất ngày nay thuộc hai huyện Thọ Xuân và Thường Xuân. Thi hài gần như còn nguyên vẹn của vua Lê Dụ Tông - Ảnh tư liệu Trong lúc đó, kẻ gian cũng dòm ngó ngôi mộ cổ đặc biệt này. Năm 1958, người dân Bái Trạch khi phát hiện quách mộ đã làm vỡ một mảng để lộ góc quan tài gỗ quý sơn son. Tin tìm thấy mộ vua được rỉ tai. Kẻ xấu suy diễn chắc nhà vua đã về thế giới bên kia với rất nhiều vật quý của triều đình. Ngoài ra, việc gia tăng canh nông ở địa phương cũng có thể ảnh hưởng đến mộ. Trước tình trạng này, mùa xuân năm 1964 lệnh khai quật ngôi mộ đã được ký. Các nhà khảo cổ về Bái Trạch quan sát ngôi mộ đặc biệt này có nhiều nét tương đồng với các ngôi mộ hợp chất đã được phát hiện ở khu vực. Tuy nhiên, phần quách ngoài lớn hơn các ngôi mộ khác với chiều dài 3m, rộng 2,92m và cao 1,41m. Mộ hướng bắc nam, hơi chếch tây bắc, hướng “ưu tiên” của các vua ngày xưa. Khi quách hợp chất vôi, mật, cát bị những nhát cuốc vô tình làm vỡ một góc, quan tài bên trong thoảng bốc mùi thơm dịu. Và họ đã dùng ximăng để hàn tạm lớp quách bị vỡ. Tuy nhiên, vật liệu ximăng hiện đại không kết dính tuyệt đối với vỏ quách của người xưa nên nước dần thấm vào. Rồi việc phát đồi làm vườn cùng mưa nắng thời gian đã làm mộ cổ ngày càng lộ dần lên mặt đất và có dấu hiệu xuống cấp... Khi nhóm khảo cổ bắt tay khai quật, nhiều người dân địa phương đã tò mò theo dõi, mong tận mắt chứng kiến sự thật trong lòng ngôi mộ nhà vua đã được thêu dệt bởi bao tin đồn. Tuy nhiên họ đành thất vọng. Sau khi phá quách, quan tài bằng gỗ quý sơn son được đưa lên mặt đất đã chuyển ngay về Hà Nội để nghiên cứu và đảm bảo điều kiện bảo tồn. Khi nắp quan tài được bật ra trước sự chứng kiến của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, mọi người đã có thể xác quyết ngôi mộ thật và thi hài là vua Lê Dụ Tông. Chính những chiếc áo hoàng bào, long bào ông mặc có thêu nhiều hình rồng năm móng, khăn gấm che mặt cũng thêu hình rồng, rồi tấm bia đá khắc chữ Lê triều Dụ Tông hoàng đế đã khẳng định đó là nhà vua. Những tin đồn lan truyền về ngôi mộ giả để bảo vệ cho mộ thật ở đâu đó là hoàn toàn hư ảo. Sự trở về từ lòng đất của đức vua Lê Dụ Tông là một phát hiện chấn động trong ngành khảo cổ và sử học VN đương thời. Nhà vua trở về Tuy nhiên, điều làm nhà khảo cổ học ngạc nhiên nhất chính là sự bảo quản độc đáo thi hài vua. Cố giáo sư - bác sĩ Đỗ Xuân Hợp là người trực tiếp tham gia khai quật và nghiên cứu thi hài vua Lê Dụ Tông. Trong một tài liệu ông kể tỉ mỉ: “Xác là một người đàn ông cao 1,49m. Thân hình bị đét lại nhưng hình dạng bên ngoài vẫn còn nguyên. Khi mới mở áo quan, trông như một người gầy ốm mới chết, bụng dưới hơi phồng, lấy tay ấn vào bụng thấy có hơi và ít nước chảy ra (khác với những xác khác bụng lép). Không có một vết rạch hay châm chích gì trên cơ thể...”. Lúc quan tài mới bật nắp, gương mặt nhà vua có màu xám nhạt hơi khác với màu da cơ thể, nhưng sau đó toàn thân chuyển thành màu xám đen. Kỳ lạ nhất là các khớp xương của nhà vua vẫn còn có thể co duỗi mềm mại và nhiều vùng da thịt vẫn còn đàn hồi. Cố GS Đỗ Xuân Hợp khẳng định trước năm 1958, tình trạng thi hài vua Lê Dụ Tông có thể còn tốt hơn nhiều khi chưa bị phát hiện. Chính những nhát cuốc, thuổng vô tình của người dân đã làm vỡ vỏ quách, ảnh hưởng đến quan tài gỗ bên trong làm không khí và nước lọt vào suốt sáu năm đến ngày khai quật. Cho nên lúc mở nắp quan tài, các nhà khảo cổ không còn ngửi thấy mùi thơm thảo mộc như thường thấy ở nhiều quan tài xác ướp khác. Và thi hài cũng ít nhiều bị ảnh hưởng như mắt, mũi lõm xuống, miệng co lại, môi teo mỏng đi... Một phát hiện nữa làm mọi người tin chắc đã tìm đúng đức vua là thi hài khoảng 50 tuổi, trạc tuổi vua Lê Dụ Tông lúc băng hà. Đặc biệt, tóc vua râm bạc, cắt ngắn theo kiểu nhà tu và đội chiếc mũ ni. Tấm gấm phủ mặt nhà vua cũng có bốn chữ vạn của nhà Phật ở các góc. Những chi tiết này góp phần quan trọng xóa tan các nghi ngờ về mộ giả, xác giả. Sử cũ ghi chép rõ cuối đời vua Lê Dụ Tông đã tu hành ở cung Kiền Thọ rồi mới băng hà. Cho nên việc an táng nhà vua lúc đó đủ cả nghi thức hoàng gia lẫn nhà tu. Theo GS Đỗ Văn Ninh, cuộc đời vị vua này có cả niềm vui lẫn nỗi buồn thịnh suy. Lê Dụ Tông là con vua Lê Hy Tông, sinh năm 1679. Tháng 4 năm Ất Dậu 1705, ông được cha truyền ngôi, lấy niên hiệu Vĩnh Thịnh, sau đổi thành Bảo Thái. Đất nước thời này tương đối thái bình, người dân hưởng cuộc sống an ổn. Tuy nhiên, năm Kỷ Dậu 1729, An đô vương Trịnh Cương đã ép vua Lê Dụ Tông nhường ngôi cho thái tử Lê Duy Phường. Ông phải ra cung Kiền Thọ làm Thuận Thiên thừa vận hoàng thượng với nỗi niềm nặng nề và sống đời tu hành lặng lẽ cho đến khi băng hà năm 1731. “Chính sự suy quyền và cuộc sống tu hành cuối đời nên vua Lê Dụ Tông đã nhẹ nhàng ra đi. Dưới nấm mộ lặng lẽ trên ngọn đồi hiu quạnh, ông ngủ giấc ngàn thu mà không mang nặng hành trang châu báu gì ngoài vài bộ quần áo và giấy bút, trầu cau”- GS Ninh tâm sự lẽ đời của một vị vua suy cho cùng cũng chẳng khác mấy thường dân. Và 46 năm sau ngày trở về cho hậu thế diện kiến, vua Lê Dụ Tông lại được hoàn táng vào đầu năm 2010 để tiếp tục an giấc muôn đời với tiên tổ... Theo Quốc Việt
-
Giống các Đại gia thì phẩu thuật Thẩm Mỹ có thể can thiệp được !! Nhưng chân mệnh trời cho thì e rằng không ?
-
Vì vậy cái gì cũng cần đồng bộ thì mới phát và nổi tiếng chứ ! Cứ rồng cái này mà chép cái kia lại có cơ may vất vả í cả đời.
-
Hòa thượng Cua Thuở trước ở miền Bắc nước ta, có một chú bé mồ côi cha sống với mẹ tại một miền quê hẻo lánh nọ. Năm chú bé được 12 tuổi, bà mẹ vẫn còn buôn bán tảo tần nuôi con. Một hôm, trước khi mang hàng ra chợ bán, bà mẹ trao cho con một giỏ cua đồng, bảo giã ra nấu canh làm cơm trưa. Chú bé y lời mẹ dặn mang giỏ cua ra làm. Bất ngờ, vừa giáng chày đập con cua đầu tiên, thấy con vật quýnh quáng, quờ quạng tay chân tìm đường sống, chú bé chợt động lòng bi mẫn, không nỡ tiếp tục, liền đem giỏ cua ra trút xuống ruộng. Tan chợ, bà mẹ mang hàng về. Nhìn mâm cơm đạm bạc, bà ngạc nhiên hỏi: - Thế, món canh cua đâu? Chú bé ấp úng: - Khi sáng con mang cua ra làm, thấy chúng nó khóc, con thương quá, nên. . . thả hết rồi mẹ ạ! Vừa đói, vừa giận, bà mẹ vơ lấy cây đũa bếp, gõ cho con một cái, chú bé hoảng sợ co giò chạy ra kỏi nhà. Chú đi, đi mãi và xa mẹ từ đó. Ba muơi năm đã qua, Bà mẹ đã già nua, vẫn bán hàng từng buổi chợ để mưu sinh. Một hôm đang buổi chợ, bà gặp một vị Tăng trung niên, ghé qua hàng hỏi thăm qua gia thế và đề nghị giúp đỡ bà bằng cách đem về chùa nuôi dưỡng. Bà cụ nhận lời và vào chùa làm công quả từ dạo đó. Ngày tháng dần qua, đã đến lúc bà cụ từ giã cõi đời. Hòa thượng trụ trì, tức vị Tăng đã đề nghị mang bà vào chùa dạo trước, có việc phải đi bố giáo phương xa. Trước khi đi, Ngài dặn các môn đệ rằng nếu bà cụ mất thì chư Tăng cứ tẩn liệm nhưng đừng mai táng mà phải đợi Ngài về. Mọi người đều y lời. Bà lão mất được một hôm thì Hòa thượng trở về. Ðứng trước quan tài mẹ Hòa thượng thắp hương khấn vái rằng: Trong kinh Phật có dạy, một người con tu hành đạt đạo, cha mẹ sẽ được sinh thiên. Nếu lời nói ấ y không ngoa thì xin cho chiếc quan tài này bay bổng lên và vỡ làm ba mảnh. Hòa thượng vừa dứt lời, chiếc quan tài đựng thân xác bà cụ từ từ bay lên, bỗng hạ xuống vỡ làm ba mảnh. Trước sự kinh ngạc của toàn thể hội chúng, Hoà thượng bèn thuật lại thân thế của mình, chẳng ai đâu xa lạ mà chính là chú bé thả cua dạo nọ. Từ đó, người ta gọi Ngài là Hòa Thượng Cua, và cũng theo lời người ta kể ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn còn tồi tại ở một ngôi chùa Bắc Việt để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài. “Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp Ðộ mình còn cứu vớt Mẹ Cha Thuyền to một chiếc sắm ra Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi”. Trích: TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO Thích Minh Chiếu Sưu Tập Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1994
-
@ LEDIEN. Cho đến nay Tk Trung tâm vẫn chưa nhận được số tiền đóng góp của LeDien, nếu chưa chuyển bạn nên chuyển thẳng vào TK của Báo Dân Trí để trao tặng đến cháu. Đã có những trường hợp sau khi báo chí đưa tin, sẽ nhận được rất nhiều ủng hộ từ các tổ chức và cá nhân trong cả nước. Mà Quỹ Từ Thiện của chúng ta còn hạn hẹp nên đã thống nhất giúp những mãnh đời quanh ta chưa được xã hội quan tâm mang tính nhường cơm sẽ áo. Thiết thực và có ý nghĩa dù rất nhỏ nhoi. Chân thành cám ơn tình cảm của bạn dành cho Quỹ TT của Diễn Đàn.
-
Lễ hội Đền Hùng năm 2010 sẽ có quy mô lớn nhất từ trước đến nay 05/03/2010 08:51 (GMT +7) Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm 2010 sẽ được tổ chức ở quy mô cấp quốc gia. Năm nay, giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng sẽ diễn ra trong 10 ngày, từ 14-4 đến 23-4-2010 (tức ngày 1-3 đến 10-3 âm lịch) tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ, trong đó Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng và cúng Trời sẽ diễn ra vào lúc 7 giờ ngày 10-3 âm lịch tại đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh, được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1, Đài truyền hình Việt Nam. Lễ dâng hương ở Đền Hùng Bên cạnh phần lễ là phần hội với các hoạt động văn hóa, thể thao mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc sẽ được tổ chức như: Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc lần thứ 7 hay chương trình nghệ thuật mang chủ đề Kinh đô Văn Lang - Thăng Long - Hà Nội ngàn năm tỏa sáng với hào khí đất Việt qua những màn biểu diễn sử thi võ thuật dân tộc độc đáo nhằm hướng tới đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Năm nay, Lễ hội Đền Hùng 2010 sẽ có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, trải dài ra các vùng phụ cận của tỉnh Phú Thọ. Trong 10 ngày diễn ra lễ hội, du khách thập phương sẽ được tham gia nhiều hoạt động văn hóa như: rước kiệu của các xã vùng ven di tích về Đền Hùng, thi gói bánh chưng, bánh dầy, bắn pháo hoa tầm cao, triển lãm ảnh tư liệu ngoài trời “Các vùng kinh đô Việt Nam”, “Giỗ Tổ Hùng Vương xưa và nay”, giao lưu dân ca các vùng miền... Hiện tại, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đang gấp rút chuẩn bị để ngày giỗ Tổ diễn ra trang trọng, hoành tráng, phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Dự kiến, Lễ hội Đền Hùng năm nay sẽ thu hút khoảng 3 triệu lượt du khách hành hương về đất Tổ. Theo
-
Trị thâm quầng mắt bằng thuốc nam 04/03/2010 10:39 Đọc sách quá khuya dễ thâm mắt - Ảnh: Shutterstock (TNTT>) Thức đêm làm việc nhiều, ngồi trước máy vi tính quá mức, xem sách, tivi liên tục dẫn đến suy yếu võng mạc, mắt mờ, bị quầng thâm và quanh mắt bị bọng sưng khiến “cửa sổ tâm hồn” lộ rõ vẻ mệt mỏi, kém tươi. Đông y học cổ truyển có các đơn thuốc giản lược, dễ tìm, rẻ tiền mà kết quả chữa trị đạt hiệu quả khả quan. - Dùng 3 trái cà chua chín, ép lấy nước, hòa chung ½ muỗng cà phê nước cốt chanh, 2gr bột nghệ khuấy đều, đắp lên quanh mắt, 15 phút sau rửa lại với nước ấm. Liên tục 3 ngày, mắt hết quầng thâm. - 2 củ khoai tây già, nửa trái dưa leo vừa lớn, ép lấy nước pha vào 1/3 muỗng muối, quấy đều, dùng vải gạc thưa thấm nước cốt đắp lên mắt. Sau 20 phút rửa lại bằng nước chín để nguội. Liên tục 2 ngày/lần sẽ hết bọng, thâm mắt. - 2 bông hoa sen tươi tách riêng từng cánh, rửa sạch, giã nát, trộn với 2 lòng trắng trứng gà (vừa đẻ lứa đầu). Lấy phần xác đắp lên mắt. Khoảng 20 phút trước khi đi ngủ. Sáng dậy rửa lại bằng nước lạnh giúp mạch máu ở mắt giảm quầng thêm. Thị lực tăng cường trở lại sau 5 ngày áp dụng. Đông Y Sĩ Kiều Bá Long