wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Hít hòa khí sinh tụ khí! bác Trần Phương đã có lý!
  2. Đã có trường hợp PT Lạc Việt can thiệp cho một gia đình ở Huế có người anh bị điên từ mấy mươi năm nay, trở lại sinh hoạt tự chủ được. Ca này có lẽ hiệu ứng khá nhanh sau khi Anh Thiên Sứ trở về có nhận được đt của gia chủ thông báo về kết quả khả quan khi đương số nhận biết và hồi phục trí nhớ, chẳng biết Cụ có nhớ trường hợp này không?
  3. Những bài thuốc cho người mỡ máu cao Cuống bí ngô / Râu bắp - Ảnh: K.Vy Dưới đây là hướng dẫn của lương y Như Tá và lương y Quốc Trung về cách dùng những bài thuốc dành cho người mỡ máu cao: Cách dùng chung: 1. Dùng 300g cuống bí ngô, 30g vị thuốc sơn tra - cả hai đem nấu lấy nước uống. 2. Dùng 30g lá dưa hấu, 30g vỏ đậu phộng đem nấu lấy nước uống. 3. Dùng hạt bắp, và hạt bí ngô (mỗi thứ 30g), đem nấu dùng luôn cả nước và cái. 4. Lấy 1 củ cà rốt, 30g đậu phộng. Nấu chung cả hai thứ để ăn trong ngày. 5. Lấy 100g bí đao, 30g cành lê nấu lấy nước uống. 6. Lấy vị thuốc sơn tra, và hà diệp (cùng 15g) đem nấu uống thay trà - bài thuốc này dùng trị mỡ máu và cao huyết áp rất hay. 7. Dùng 60g lá bắp, 30g hạch đào nhân nấu nước uống. Các bài thuốc dùng theo thể bệnh: 1. Thể thấp nhiệt uất kết - biểu hiện cơ thể nóng, thường khát nước, tiểu ít, người thì phù, bụng thì đầy... Với thể này cần thanh nhiệt, lợi thấp, dùng bài thuốc gồm các vị: bạch truật, bạch linh, trư linh, trạch tả, nhẫn đông đằng, ý dĩ (mỗi loại 10 - 15g), hà diệp, cúc hoa, râu bắp (cùng 10 - 12g), hoạt thạch 20 - 30g, cam thảo 4g, thảo quyết minh tươi 20g; đem tất cả nấu lấy nước uống. 2. Với thể khí trệ huyết ứ - có biểu hiện hay đau nhói trước ngực, lưỡi tím hoặc có điểm ứ huyết, có khi kèm theo thiếu máu cơ tim... Chữa trị trong trường hợp này là dùng bài thuốc gồm các vị như: sinh địa, đương quy, bạch thược (cùng 12 - 16g), đào nhân, ngưu tất, sài hồ (đều 10 - 12g), đơn sâm 12g, hồng hoa, sung quý tử, chỉ thực, hương phụ, xuyên khung (đều 8 - 10g). 3. Với thể tỳ hư đờm thấp - người sẽ có những biểu hiện chân tay mệt mỏi, chán ăn, bụng đầy, ho có nhiều đờm, đi tiêu phân lỏng, rêu lưỡi trắng dày... Phép trị trong trường hợp này là nhằm “kiện tỳ, hòa vị, hóa đàm, trừ thấp”, bài thuốc dùng cho thể này gồm các vị: đảng sâm, bạch truật, bạch linh, trúc nhự (cùng 10 - 12g), trần bì, bán hạ, chỉ thực, mộc hương, sa nhân, uất kim (6 - 10g), bạch phàn 2g, chích thảo 3g. Đem nấu lấy nước uống. 4. Với thể tỳ hư lưỡng thực - thể này thường gặp ở người cao tuổi, biểu hiện gồm: cơ thể mệt mỏi, bụng đầy, ăn uống kém, lưng gối mỏi, tai thì ù, mắt thì hoa, lưỡi thì đỏ... Phép trị trong trường hợp này là “bổ thận, kiện tỳ”, và bài thuốc dùng gồm có các vị: hà thủ ô đỏ (10 - 12g), thỏ ty tử (10 - 12g), tiên linh tỳ, sinh địa (10 - 12g), trạch tả (10 - 15g), bạch linh 12g, bạch truật 10g, đem sắc uống. Cách sắc (nấu) các bài thuốc trên như sau: nước đầu cho các vị thuốc vào cùng 4 chén nước, nấu còn lại 1 chén, rồi cho nước thuốc ra; nước thứ hai tiếp tục cho 3 chén nước vào và nấu còn lại nửa chén. Hòa hai nước lại, chia làm 3 lần dùng trong ngày. Khánh Vy thanhnienonline
  4. Niệm Phật giải thoát. 1-Trước khi ngủ nên niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT để an dưỡng tánh lành an lạc, niệm liên tục cho đến khi ngủ quên, trừ được ác mộng. 2-Sau khi thức dậy còn bản tâm thanh lương an lạc nên niệm NAM MÔ THANH LƯƠNG ĐỊA BỒ TÁT để giữ lương tâm, lương tri của tánh lành an lạc. 3-Trước khi làm việc nên niệm NAM MÔ ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT để nhớ làm gì cũng làm điều lành. 4-Trước khi nói dù nói với bất cứ ai đều nên niệm NAM MÔ DIỆU ÂM BỒ TÁT để nhớ lời nói sâu sắc ngọt ngào, không nói lời vô ích. 5-Tránh sự lười biếng lơi tâm nên niệm, NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT để nhắc mình luôn luôn tinh tấn lâp công bồi đức. 6-Trong đời sống tu hành có gặp những sự cố khó khăn gian khổ hiểm nguy nên niệm NAM MÔ CỨU KHỔ CỨU NẠN QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. 7-Khi muốn làm việc gì hay muốn giúp đỡ ai nên phát nguyện và niệm NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT. 8-Có lúc bị nghiệp đẩy đưa lấn cấn hay vì bệnh đau yếu đuối nên niệm NAM MÔ ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT. 9-Khi đọc hay xem sách có câu nào khó hiểu hay ai hỏi câu giáo lý nào không thông tỏ nên niệm NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT.
  5. BÀI VĂN PHÓNG SANH Chúng sanh nay có bấy nhiêu lắng tai nghe lấy những lời dạy răn các ngươi trước, lòng trần tục lắm nên đời nay chìm đắm sông mê tối tăm chẳng biết làm lành gây bao tội ác, lạc vào trầm luân do vì đời trước ác tâm nên nay chịu quả khổ đau vô cùng mang, lông, mai, vẩy, đội sừng da trơn, nhám, láng, các loài súc sanh do vì ghen ghét, tham sân do vì lợi dưỡng hại người làm vui do vì gây oán chuốc thù do vì hại vật, hại sanh thoả lòng do vì chia cách, giam cầm do vì đâm thọc, chịu bao khổ hình cầu xin Phật lực từ bi lại nhờ Phật tử mở lòng xót thương nay nhờ Tăng chúng hộ trì kết duyên Tam bảo, thoát vòng khổ đau hoặc sanh lên các cõi trời hoặc liền thức tỉnh, về nơi cõi lành hoặc sanh lên được làm người biết phân thiện ác, tránh điều lầm mê... Chúng sanh quy y Phật Chúng sanh Quy y Pháp Chúng sanh Quy y Tăng….
  6. “Sự bất hiếu ngọt ngào” Có một sự thật là: tình thương yêu và hy sinh vô bờ của người mẹ cho những đứa con từ khi có loài người đến nay chẳng hề thay đổi, nhưng lòng hiếu thảo của những đứa con đối với mẹ mình càng ngày càng trở thành một nguy cơ trầm trọng. Hai bộ phim hành động Mỹ nổi tiếng mà tôi xem đi xem lại nhiều lần là Godfather và American Gangster. Và trong cả hai bộ phim đầy cảnh bắn giết này có một câu chuyện luôn luôn làm tôi thực sự xúc động. Đó là tình yêu của hai ông trùm Mafia Mỹ đối với người mẹ của mình. Lòng hiếu thảo là một chiếc thước đo đạo đức có giá trị nhất. Đó cũng là phần nhân tính cuối cùng của con người mà nếu đánh mất thì con người không còn gì để nói nữa. Có lẽ vì ý nghĩa ấy mà những nhà làm phim Hollywood đã cố níu giữ lại cho xã hội một niềm tin cuối cùng về nhân tính con người. Bởi phần nhân tính này với nhiều yếu tố là phần nhân tính khó bị suy đồi nhất. Lòng hiếu thảo là một chiếc thước đo đạo đức có giá trị nhất. Ảnh: vns.hnue.edu Những năm gần đây, chúng ta phải đau đớn chứng kiến những chuyện bất hiếu. Và có những chuyện bất hiếu đã trở thành những tội ác man rợ. Đó là những câu chuyện bất hiếu đã được các phương tiện truyền thông đại chúng đưa tin và lên tiếng cảnh báo. Nhưng còn có một phía khác của sự bất hiếu mà chúng ta chưa lên tiếng hoặc chưa ý thức rõ về nó mà có người gọi nó bằng một cái tên "Sự bất hiếu ngọt ngào". "Sự bất hiếu ngọt ngào" là chỉ những đứa con có đủ điều kiện vật chất để nuôi những người mẹ. Nhưng những đứa con đó không cho mẹ mình được tham gia vào những sinh hoạt tinh thần của gia đình. Sự thật là có những bà mẹ chỉ sống giữa những đứa con như một thực thể sống tự nhiên chứ không phải là một trung tâm của tình cảm. Với lý do công việc và với muôn vàn lý do khác, những đứa con đã để mẹ mình sống cô độc ở một làng quê gần, xa nào đó hoặc ngay trong chính thành phố mà họ đang sinh sống. Thay cho sự hiện diện của họ trước mẹ mình trong những ngày nghỉ là sự hiện diện của một gói quà và những đồng tiền. Thay cho những lời tâm sự của những đứa con với mẹ mình trong những buổi tối khó ngủ của người già là những người giúp việc được trả lương cao. Với đức hạnh của sự hy sinh vô bờ của mình, những người mẹ lại một lần nữa đã gánh chịu một cuộc sống cô đơn như vậy cho đến khi chết. Một thời gian chúng ta có nói đến việc những đứa con gửi cha mẹ vào nhà dưỡng lão trong các nước phương Tây hoặc châu Âu. Và có không ít người quan niệm đó là sự trốn tránh trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ khi cha mẹ về già. Nhưng sau một thời gian quan sát và có nghiên cứu thực tế ở các nước đó, tôi thấy đó là cách những đứa con tìm cho cha mẹ họ một không gian thích hợp và có ý nghĩa nhất với cha mẹ khi ở tuổi già và đó cũng là một trong những văn hoá sống của các nước đó. Nhất là khi cha mẹ họ có những vấn đề của tuổi tác, sức khoẻ và tâm lý. Nhưng hầu như hàng ngày, họ gọi điện trò chuyện với cha mẹ và hàng tuần, họ vẫn đến thăm cha mẹ trong nhà dưỡng lão. Họ ở lại với cha mẹ có khi cả ngày để trò chuyện và vui chơi cùng cha mẹ. Có không ít người mẹ đã bỏ về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ của mình. Ảnh: namlo.conggiao.net Có những người mẹ trong những năm cuối đời chỉ mơ một giấc mơ giản dị nhưng thật đau đớn và thương cảm là có một cái Tết được ăn Tết với con cháu mình. "Con bận lắm. Nhiều khách khứa đến làm việc lắm. Mà nhà cửa bỏ đấy trộm nó vào nó khuân hết. Tết con không về được. Bà cần gì thì cứ bảo. Con sắm sửa đầy đủ cho bà". Đấy là những ngôn từ càng ngày càng trở lên quen thuộc của những đứa con nói với mẹ mình trong một ngày cuối năm về thăm mẹ vội vã. Những lý do trên chỉ là sự bao biện cho thói ích kỷ và sự hoang hoá tình thương yêu của những đứa con đối với mẹ mình. Còn vị khách nào quan trọng hơn mẹ mình nữa? Còn của cải nào quí hơn mẹ mình nữa? Và đối với những bà mẹ, tài sản duy nhất có ý nghĩa là những đứa con. Nhưng những đứa con đó không bao giờ hiểu được người mẹ của chúng không cần bất cứ quyền chức hay tiền bạc chúng đang có mà chỉ cần chúng ngồi xuống bên bà như thuở nhỏ đầy yếu đuối, sợ hãi và tin cậy trong sự che chở của bà hoặc thấy chúng lớn lên làm một người tốt. Nhưng chúng đã xa rời bà mà bà không có cách nào kéo chúng gần lại. Không phải chúng xa rời xa bà bởi không gian và thời gian do điều kiện sống và công việc mà chúng đang xa rời xa sự thiêng liêng của tình mẫu tử. Bà đã và đang mất chúng. Tôi đã chứng kiến một bà mẹ gần 90 tuổi mắt đã mờ lần mò làm một con gà cúng đêm giao thừa trong khi những đứa con của bà đang quây quần vui vẻ đón giao thừa với gia đình riêng của họ ở thành phố chỉ cách nơi bà ở không quá 30 km. Không có bất cứ lý do gì có thể biện minh cho những đứa con khi bỏ quên mẹ mình trong những ngày đặc biệt và quan trọng như thế. "Sự bất hiếu ngọt ngào" còn để chỉ những đứa con bỏ quên những người mẹ trong chính ngôi nhà của họ. Nhưng những người mẹ đó không bị bỏ đói mà ngược lại được "nuôi giấu" trong một đời sống vật chất đầy đủ. Trong không ít những ngôi nhà to, đẹp và đầy đủ tiện nghi, những đứa con đã "giấu" mẹ mình mà nhiều lúc chúng ta không làm sao có thể phát hiện ra là trong ngôi nhà đó có một bà mẹ. Có những người thi thoảng lại đến thăm bạn mình trong suốt mấy năm trời nhưng không bao giờ được gặp bà mẹ của anh ta. Anh ta đã "giấu" mẹ trong một căn phòng trên tầng 3, tầng 4 gì đó của ngôi nhà. Anh ta dậy sớm đi làm vội vã nhiều lúc không còn kịp leo lên tầng chào mẹ. Trưa thì đương nhiên anh ta không về nhà. Tối anh ta về muộn. Vợ anh ta hoặc người giúp việc đã cho bà mẹ ăn cơm trước với lý do để cụ đi nghỉ sớm kẻo mệt. Anh ta trở về nhà ăn tối cùng vợ con và chuyện trò rồi điện thoại và cuối cùng lăn ra ngủ. Có không ít ngày anh ta hoàn toàn quên mẹ mình đang sống trong cùng ngôi nhà và âm thầm mong nhìn thấy con mình và trò chuyện mấy câu với con. Càng ngày chúng ta càng được chứng kiến những đứa con khi có khách đến chơi thì khoe hết đồ này vật nọ đắt tiền, thậm trí khoe một con chim cảnh quí hàng ngàn đô la với một giọng nói thật "say đắm" mà chẳng thấy họ khoe một người mẹ vừa ở quê ra chơi hay đang ở đâu đó trong ngôi nhà to, rộng của họ. Có những người không bao giờ để mẹ ngồi ăn cơm cùng khi vợ chồng anh ta có khách. Có lẽ sự xuất hiện của người mẹ đã già nua không còn phù hợp với những thù tạc, những vui buồn của anh ta nữa chăng. Nhưng anh ta đâu biết rằng, có những đêm khuya bà mẹ không thể ngủ và đầy lo lắng khi nghe tiếng ho của anh ta hay khi vợ chồng anh ta to tiếng. Bà mẹ sống giữa con cháu mà như sống trong một thế giới xa lạ. Vì thế, có không ít người mẹ đã bỏ về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ của mình. Bởi cho dù ở đó bà không được sống với những đứa con của mình thì bà cũng được sống với những gì vốn rất thân thương với bà như con chó, con mèo, cái cây, cái cối. Và thay vào sự chia sẻ, an ủi của những đứa con là sự chia sẻ và an ủi của những thứ kia kể cả những thứ vô tri vô giác. Và thực sự điều này làm cho chúng ta vô cùng xấu hổ và đau đớn. Đức Phật dạy: Tội lớn nhất của đời người là bất hiếu. Có những kẻ đánh đập, nhiếc mọc mẹ mình, có những kẻ bỏ đói, bỏ rét mẹ mình, có những kẻ xưng "bà" xưng "tôi" với mẹ mình như với một người qua đường, qua chợ... Tất cả những kẻ đó đều là kẻ có tội. Và những kẻ vẫn cho mẹ mình ăn ngon, mặc đẹp nhưng bỏ quên mẹ mình trong thế giới tình cảm của họ thì họ cũng mang tôi như những kẻ nói trên. Tác giả: Nguyễn Quang Thiều Bài đã được xuất bản.: 08/03/2010 06:10 GMT+7 nguồn tuanvietnamnet
  7. Tôi cảm thấy có tội và ray rứt nhiều với bài viết này, cám ơn sự sâu sắc của tác giả đã đánh động sự thờ ơ xuống cấp của những người con đối với bậc sinh thành.
  8. Chữa huyết áp thấp bằng quế 02/03/2010 18:25 Vỏ quế - Ảnh: K.V Những người có bệnh huyết áp thấp thường mệt mỏi, giảm tập trung trí lực... Huyết áp thấp là khi chỉ số đo của huyết áp trên dưới 90 mm Hg và chỉ số đo huyết áp dưới nhỏ hơn 60 mm Hg. Huyết áp thấp thường là biểu hiện của sự rối loạn chức năng vỏ não của trung khu thần kinh vận mạch. Những người huyết áp thấp thường mệt mỏi, tổng trạng yếu, giảm tập trung trí lực, hoa mắt, có hiện tượng ruồi bay, nhất là khi thay đổi tư thế có thể thoáng ngất hoặc ngất, nhịp tim nhanh... Huyết áp thấp là do hai yếu tố tác động chủ yếu là lưu lượng tim và sức cản ngoại vi; lưu lượng tim phụ thuộc vào sức co bóp cơ tim, chủ yếu là chức năng bóp của tâm thất trái, sức cản ngoại vi phụ thuộc chủ yếu vào độ đàn hồi của thành mạch máu. Có hai loại huyết áp thấp: huyết áp thấp tiên phát và huyết áp thấp thứ phát. Theo y học cổ truyền, quế là một vị thuốc điều trị huyết áp thấp rất hay. Quế có vỏ cây màu nâu, có mùi thơm... Bộ phận thường được sử dụng là vỏ cây và cành non. Người ta thường thu hái và chế biến quế chi (cành non) bằng cách: vào mùa xuân, mùa hạ chặt lấy cành non, bỏ lá cắt thành từng khúc dài đem phơi khô. Còn vào mùa thu người ta lấy nhục quế (vỏ cây) bằng cách bóc vỏ, phơi khô trong bóng râm. Công dụng và liều dùng quế chữa bệnh như sau: vỏ quế có vị cay, ngọt, tính ấm, đi vào các kinh tâm, phế, bàng quang. Quế có tác dụng phát hãn, giải cơ, ôn thông kinh mạch, trợ dương, hóa khí, giáng khí nghịch. Dùng quế để bổ trị hỏa dương, bổ hỏa mệnh môn, dẫn hỏa quy nguyên, tán hàn, chỉ thống. Liều lượng sử dụng từ 3-9g quế chi; 1-4g nhục quế dưới dạng thuốc sắc. Những bài thuốc (dùng một trong các bài) chữa huyết áp thấp từ quế gồm có: + Bài 1: Quế chi 12g, chích cam thảo 15g, hoàng kỳ 24g, đương quy 12g, can khương 10g. Đem sắc (nấu) uống ngày 1 thang, uống 2 lần trong ngày. + Bài 2: Nhục quế 40g, quế chi 40g, cam thảo 20g. Đem hãm lấy nước chia 3 lần uống hoặc sắc (nấu) uống trong ngày. + Bài 3: Quế chi 6g, cam thảo 6g, kê quan hoa 15g, hoàng kỳ 30g, đương quy 15g, trần bì 6g, đẳng sâm 20g, bạch truật 10g, thăng ma 6g. Đem nấu uống ngày 1 thang. + Bài 4: Quế chi 8g, cam thảo 6g, thược dược 6g, sinh khương 6g, táo đen 4 quả. Nấu uống nóng ngày 1 thang. Hoài Vũ nguồn thanhniên online
  9. Hàng trăm người đổ xô đi xem “rùa thần” Cập nhật lúc 10:12, Chủ Nhật, 14/03/2010 (GMT+7) , - Hàng trăm người đã đổ xô đến nhà ông Nguyễn Hữu Tùng ở xóm 1 xã Hương Bình, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) để được tận mắt thấy “rùa thần”. Con "rùa thần" này có khích thước 10x15cm, nặng khoảng 0,5 kg và đặc biệt nó có nhiều điểm rất khác biệt so với các con rùa khác. Ảnh: Minh Chiến Ông Tùng kể lại, chiều tối ngày 15/7/2009 Âm lịch, ông và con trai trên đường đi bệnh viện về thì nhặt được con rùa này ở giữa đường làng, cách cửa đền “Phúc Ấm”, một ngôi đền được dân gian cho là rất linh thiêng thuộc xóm 1, xã Hương Long chừng 300m. Sau khi nhặt được con rùa, con trai ông Tùng mang về nhà rửa sạch thì thấy hình thể, màu sắc con rùa khác với rùa thường. Đặc biệt con rùa chỉ ăn chuối mà không ăn thức ăn đã qua thờ cúng hoặc con người đã ăn rồi. Phần phía dưới thân "rùa thần". Ảnh: Hà Vy Từ ngày biết tin ông Tùng bắt được “rùa thần”, đã có rất nhiều lượt người kéo đến để xem. Tất cả họ sau khi được tận mắt chứng kiến con rùa đều có chung nhận định, đây là một con rùa rất khác thường. Đã có nhiều giả thuyết xung quanh con rùa được người dân đưa ra bàn tán, nhưng giả thuyết được nhiều người nhắc đến nhiều nhất, cho đó là con "rùa thần". Việc người dân bàn tán chưa đi đến hồi kết càng khiến mức độ lan truyền về con “rùa thần thánh” ngày một rộng, thu hút nhiều người, kể cả các bậc cao niên đến xem. Có người còn nói, sau khi biết được tin này đã có một số thương buôn tìm đến nhà hỏi mua con rùa này với giá rất cao, nhưng gia đình ông Tùng kiên quyết không bán. Hà Vy - Minh Chiến
  10. “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn lần đầu tiên xuất hiện (Dân trí) - Được cho là người tình đầu tiên của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn, nhân vật “bí ẩn” đã đi vào huyền thoại trong sáng tác “Diễm xưa” của chàng thi sĩ họ Trịnh, lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng. Giáo sư Thái Kim Lan (bên phải) giới thiệu bà Ngô Thị Bích Diễm với mọi người Xuất phát cho ý tưởng độc đáo này là giáo sư Thái Kim Lan, hiện đang công tác tại CHLB Đức. Qua lời mời của cô Lan, Ngô Thị Bích Diễm (Diễm) đã đồng ý về Huế gặp gỡ một buổi duy nhất với công chúng. Tuy nhiên khách được mời hạn chế qua điện thoại, chỉ những người thân quen, một thời gắn bó với Trịnh. Cuộc gặp gỡ quá đặc biệt không được thông báo trước đã diễn ra tại trung tâm văn hóa Liễu Quán, TP Huế, tối 12/3 vừa qua. “Sau khi Trịnh Công Sơn mất, Diễm đã trở thành một huyền thoại. Từ đó đến giờ, rất ít ai biết hình bóng cô Diễm trong tuyệt phẩm Diễm xưa là ai. Hôm nay, sự im lặng đó được phá vỡ”, Thái Kim Lan tâm sự. "Diễm" ngày xưa đã trở về ...và đã thu hút sự quan tâm của khách mời, bạn bè tại buổi giao lưu Bà Diễm tâm sự những điều chưa nói đã quá lâu. Kể từ khi Trịnh Công Sơn mất, bà hoàn toàn im lặng với quá khứ Nhà văn hóa Huế, giáo sư Bửu Ý, đã kể lại một câu chuyện tình về Sơn và Diễm. “Ngày xưa, cây cầu Phủ Cam tuy ngắn nhưng đầy duyên nợ. Trịnh Công Sơn ở căn gác tầng 2, số nhà 11/03 đường Nguyễn Trường Tộ. Hàng ngày, chàng cứ đứng lấp ló sau cây cột, lén nhìn một người đẹp. Nàng đi bộ từ bên kia sông, qua cầu Phủ Cam, dạo gót hồng dưới hàng long não, ngang qua chỗ Sơn ở là chàng cứ sướng ran cả người. Một tình yêu “hương hoa” kéo dài cho đến cuối đời chàng. Sau này, mỗi một mối tình tiếp theo của Sơn đều có hình ảnh cô gái đó. Tên cô là Diễm, người đã tạo cảm xúc cho Sơn sáng tác vô số bản tình ca bất hủ”, lời kể của giáo sư Bửu Ý. Tao ngộ Huế sau bao nhiêu năm “ẩn giấu”, bà vẫn mặc một áo dài Huế xưa, chân đi hài. Nét mặt hiền, nhân ái và hay cười nhẹ. Độ tuổi 60 vẫn không làm mất đi nhan sắc thuở nào của “Diễm”. Sự có mặt của Diễm đã làm thỏa lòng toàn bộ mọi người có mặt trong khán phòng. Trên nền, đầy lá và hoa... Một chất giọng Bắc xưa nhè nhẹ cất lên, Bích Diễm đã thổ lộ cùng khán giả “Huế đối với tôi thật bình yên. Trong Huế có một tình yêu. Từ lâu tôi đã giữ im lặng. Quá nhiều kỷ niệm từ thời thơ ấu tại Huế. Dù đi xa đã lâu nhưng tôi vẫn yêu nơi đây như ngày ban đầu. Trong con người quý nhất là tình cảm. Anh Sơn đã lồng hết những cung bậc đó vào nhạc. Xin cảm ơn anh Sơn, cảm ơn Huế vì sự đón tiếp nồng hậu”. Những câu nói bị ngắt ý giữa chừng vì xúc động của bà đã làm không ít người đồng điệu rơi nước mắt. Trên nền guitar và piano sâu lắng, nhiều người bạn đã hát tặng “Diễm xưa” những ca khúc tên tuổi của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn, mà trong đó không thể thiếu ca khúc Diễm xưa. Bài, ảnh: Đại Dương Theo báo Dân trí.
  11. Hãy xem đây là ý kiến cuối cùng, Wild sẽ kể cho các bạn nghe về lai lịch con Chẩu chàng này(do Rubi và kiensurveyor xác nhận). Ở quán cafe cóc, Có chậu Trúc Nhật, chẳng biết từ lúc nào vào khoảng tháng 9/09 ng ta đã thấy nó với màu da như món đồ chơi giả bám vào thân cây Trúc, có lẽ nó sống bằng muỗi mòng quanh thân cây? hay bằng cái gì nhỉ để tồn tại? Rồi có một người cũng táy máy bắt nó bỏ vào túi nilong cột chặt vất xuống miệng cống gần đấy. nhưng chỉ vài ngày sau nó lại có mặt trên thân cây ấy cho đến hôm nay. Và cô chủ hàng nước ấy đã nói với tôi là "hình như nó nghe được tiếng người??? !!!!" Vì em nói gì là nó đã làm theo, Tôi cần một ví dụ "Cô ấy bảo nấp vào đi! không người ta bắt đó" Thế là chuyển hướng ngồi đưa lưng vào góc khuất!!! Nó đã ở đây với chủ nhà này như thế và hàng ngày ra vào Cô chủ quán vẫn hay nói một vài câu gì với nó có phải chăng vì điều này mà nó ở lại? Tôi vẫn thắc mắc vì đây không phải là môi trường sống của nó vì thiếu nước ? Ai có thể giải thích hiện tượng này? Vì rất lạ đối với tôi.
  12. Hồ Xuân Hương rút nhầm tơ duyên 1 Vietsciences- Nguyễn Thị Chân Quỳnh 09/01/2006 Người ta thường nói Xuân Hương vì tài cao nên trắc trở đường tình duyên: lấy phải Tổng Cóc dốt nát, lấy ông Phủ Vĩnh-tường xứng đôi hơn nhưng lại phải làm lẽ... song đấy là truyền thuyết. Mãi đến khi đọc "Long-biên trúc chi từ" của Tùng Thiện vương (1), làm khi theo vua Thiệu-Trị ra Thăng-long tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương (1842), ta mới có bằng chứng Xuân Hương quả có thật và đã vất vả về đường tình. Bài thơ gồm 14 đoạn, đoạn 8 và 9 vịnh cảnh Hồ Tây có nhắc đến Xuân Hương. Thơ chữ Hán : Tĩnh đầu liên hoa khai mãn trì, Hoa nô chiết khứ cung thần ti. Mạc hướng Xuân Hương phần thượng quá, Tuyền đài hữu hận thác khiên ti. Trụy phấn tàn chi thổ nhất dinh, Xuân Hương qui khứ, thảo thanh thanh ! U hồn đáo để kim như tuý, Kỷ độ xuân phong xuy bất tinh ! Đại ý nói : Sen Tịnh-đế nở đầy hồ, Cô hầu gái hái hoa để cúng thần. Đừng dẫm lên mộ Xuân Hương nhé, Ở suối vàng nàng còn ôm hận rút nhầm tơ (duyên). Phấn rụng, cành tàn, một gò đất, Xuân Hương đi về, cỏ xanh xanh. Cho đến giờ u hồn còn như say ngất, Mấy độ gió xuân thổi vẫn không tỉnh (2). Căn cứ vào mấy câu thơ trên, ta biết chắc chắn đến năm 1842 thì Xuân Hương đã mất, tuy không rõ mất năm nào nhưng mộ đã xanh ngọn cỏ và nàng quả đã rút nhầm tơ duyên... Vấn đề rắc rối từ năm 1963, khi ông Trần Thanh Mại phát hiện ra tập Lưu Hương Ký Lưu Hương Ký - mà tác giả đích thực mang tên Hồ Xuân Hương- và bài "Tựa" Lưu Hương Ký của Tốn Phong Thị. Xuân Hương trong tập Lưu Hương Ký cũng lận đận về đường tình, nhưng phong cách thơ Lưu Hương Ký thì khác hẳn những bài thơ truyền tụng Thơ truyền tụng mà ai cũng biết. Từ đó (1963), các nhà nghiên cứu chia thành hai nhóm : một nhóm tin tác giả Lưu Hương Ký cũng chính là tác giả những bài Thơ truyền tụng , nhóm kia còn ngần ngại. Dưới đây, tôi lần lượt trình bầy từng mối tình của tác giả Thơ truyền tụng và của tác giả Lưu Hương Ký trong hai phần riêng rẽ, dựa vào những tài liệu đã công bố trên sách báo, để minh chứng rằng trong hiện tình chúng ta chưa thể xác quyết tác giả Lưu Hương Ký và tác giả Thơ truyền tụng là một người. I - Tình duyên của tác giả Thơ truyền tụng (thơ chữ Nôm) Số phận hẩm hiu, Xuân Hương có ít nhất là hai đời chồng là Tổng Cóc và ông Phủ Vĩnh-tường, và ít ra cũng một lần làm lẽ, còn Chiêu Hổ tuy đôi khi tỏ ra suồng sã nhưng chỉ là bạn xướng họa. A- Tổng Cóc 1 - Không ai biết đích xác tên tuổi, gốc tích của Tổng Cóc. Có người cho là Xuân Hương lấy lẽ ông Phủ Vĩnh-Tường trước, góa chồng rồi mới lấy Tổng Cóc, tức là "lấy xuống". Nhưng cũng có người, như ông Nguyễn Hữu Tiến trong Giai nhân dị mặc, cho là lúc trẻ Xuân Hương bị mẹ ép uổng phải lấy cường hào Tổng Cóc trước. Tổng Cóc đã dốt nát lại có tính ăn chơi bạt mạng, sau một lần đánh bạc thua nhẵn túi, gia sản khánh kiệt nên tiếc của mà chết. Xuân Hương bèn làm bài thơ nổi tiếng "Khóc Tổng Cóc" lời lẽ trào phúng, bởi đối với ông chồng không xứng ý này nàng không có chút cảm tình nào. 2 - Khoảng năm 1989, ông Nguyễn Hữu Nhàn viết bài "Phóng sự điền dã", theo những tài liệu của ông Dương văn Thâm (3), cho biết Tổng Cóc là người Tứ xã, tên thật là Kình, tự là Nguyễn công Hòa, "Cóc" là tên gọi xấu xí lúc bé để đánh lừa cho ma quỷ khỏi bắt đi. Tên "Cóc" sở dĩ được nhiều người biết là vì bài thơ của Xuân Hương. Tổng Cóc làm đến chức Phó Tổng, vốn dòng dõi Nguyễn Quang Thành (đỗ Tiến-sĩ năm 1680), là một nho sinh từng xướng họa với Xuân Hương chứ không phải dốt nát như người ta lầm tưởng. Thí dụ có lần Xuân Hương ra vế : Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới. Tổng Cóc liền đối : Sáng mồng một mở then tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vào. Tổng Cóc có tính ưa ăn chơi, lấy Xuân Hương cũng là người hoang phí lại thêm nghệ sĩ tính. Chẳng bao lâu cửa nhà sa sút, vợ cả ghen, Tổng Cóc bỏ đi biệt sau khi để lại một lá thư từ giã, Xuân Hương lúc ấy đã có thai ba tháng. Xuân Hương sau cũng bỏ nhà đi, sinh hạ một con gái nhưng không nuôi được, lúc ấy đang làm lẽ ông Phủ Vĩnh-tường. Tổng Cóc dò tìm đến nhưng không dám giáp mặt, Xuân Hương làm bài "Khóc Tổng Cóc" gửi chồng cũ, thực sự là khóc cho mối tình cũ của mình chứ không phải trào lộng khóc Tổng cóc chết như ta vẫn tưởng vì như thế tỏ ra Xuân Hương ác, không nhân hậu, theo tác giả Những chứng tích được nêu ra là : - Căn nhà của Tổng Cóc đã cưới Xuân Hương hiện là nhà ông Kiều Phú, xã Sơn-dương (xã này, cũng như Tứ xã, đều thuộc huyện Phong-châu, Vĩnh-phú), vách bằng ván gỗ mít, còn lờ mờ vết chữ của Xuân Hương. - Trên bàn thờ gia tiên ông Bùi văn Thắng, xã Tứ-mỹ, còn đôi bình tiện bằng gỗ mít, bị cưa chỗ loe miệng, một thời bị rẻ rúng bỏ lăn lóc. Trên mỗi bình có hai câu thơ chữ Hán do chính tay Xuân Hương viết : Thảo lai băng ngọc kính (= nói đến tấm gương bằng ngọc) Xuân tận hóa công hương (= hóa công cũng chịu lúc tàn xuân) Độc bằng đan quế thượng (= chi bằng lúc vin cành quế đỏ) Hào phóng bích hoa hương (= tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm) - Nhà thờ tổ dòng họ Tổng Cóc nay là nhà ông Nguyễn Bình Lưu. Ông Dương văn Thâm vẫn còn nhớ đôi câu đối treo trên cột... B - Ông Phủ Vĩnh Tường 1 - Theo ông Ngô Lãng Vân thì sau khi góa Tổng Cóc, Xuân Hương mở quán làm kế sinh nhai. Những khách hâm mộ văn tài tìm đến xin xướng họa rất nhiều, trong số có một ông giải nguyên (đỗ thủ khoa thi Hương). Xuân Hương ra đề : "Thạch liên thiên" (= thơ vịnh đá liền với trời), ông giải nguyên cắn bút nghĩ mãi chỉ ra được bốn chữ "Thiên thạch như lai ", Xuân Hương cho người ra bảo :"Nếu không làm được thì xin về thôi, ngồi ngậm bút mãi làm gì ?". Ông giải nguyên uất quá ngất đi, Xuân Hương thương hại viết nối cho thành hai câu thơ đầu : Thiên thạch như lai bản thượng huyền (= trời với đất xưa nay rất huyền bí) Nhất triều vân vũ thạch liên thiên (= nhưng gập trận mưa thì đá liền với trời) Ông giải nguyên nhân đấy viết nốt được hai câu cuối : Bổ thiên thạch hữu kỳ công tại (= đá có kỳ công đã vá trời) Thiên thạch tương liên tự cổ truyền (= như vậy từ xưa đá với trời dính liền với nhau) được Xuân Hương khen hay. Sau nhiều lần xướng họa, Xuân Hương trở nên vợ lẽ ông giải nguyên, sau này thành ông Phủ Vĩnh-Tường (4). 2 - Ông Phủ Vĩnh-tường" là Trần Phúc Hiển ? Trong Quốc sử di biên, Phan Thúc Trực (1808-52) có viết về một ông Tham hiệp trấn Yên-quảng bị án tử hình khoảng 1818/9 về tội tham nhũng, có nhắc đến người tiểu thiếp của ông này : Kỳ tiểu thiếp Xuân Hương, năng văn, chính sự. Thời xưng tài nữ (5) Năm 1973, ông Lê Xuân Giáo dịch là :"Người tiểu thiếp của quan Tham hiệp lúc đó tên là Xuân Hương vốn hay văn chương và chánh sự nên được người đương thời khen ngợi là 'nữ tài tử' ". Trong phần chú thích ông Lê Xuân Giáo viết thêm : "Xuân Hương đây tức là Hồ Xuân Hương lừng danh thời Lê mạt, Nguyễn sơ mà ai cũng biết " và kết luận rằng nữ sĩ có tới ba đời chồng chứ không phải hai : Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh-tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp Yên-quảng. Không rõ căn cứ vào đâu ông Lê Xuân Giáo khẳng định rằng người tiểu thiếp ấy chính là Hồ Xuân Hương ? và thêm :"lấy độ một năm thì quan Tham hiệp bị tử hình " (6). Năm 1983, GS Hoàng Xuân Hãn cũng cả quyết :"Chúng ta có thể tin chắc tài nữ này chính là tài nữ Xuân Hương mà ta từng quen biết " (7). Sự thực Phan Thúc Trực chỉ viết người tiểu thiếp tên là Xuân Hương chứ không nói họ của nàng, tôi ngờ chính hai ông Lê Xuân Giáo và Hoàng Xuân Hãn đã suy đoán và thêm họ "Hồ" vào. Tuy nhiên, ông Hoàng Xuân Hãn còn căn cứ vào sáu bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương, tìm thấy trong Đại Nam dư địa chí ước biên, mục Quảng-yên, tựa đề :"Chu thứ Hoa-phong tức cảnh bát thủ" (= Đậu thuyền ở Hoa-phong tức cảnh làm tám bài) vịnh cảnh Hạ-long. Trong số sáu bài còn lại thì bài cuối bị loại vì không ăn nhập với Vịnh Hạ-long. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì đời Gia-long, Yên-quảng (sau gọi là Quảng-yên) chia làm ba huyện mà huyện Hoa-phong gồm các đảo trên Vịnh Hạ-long, và những bài thơ vịnh cảnh Hạ-long là bằng chứng nữ sĩ đúng là người tiểu thiếp của quan Tham hiệp Yên-quảng. Ông còn tìm tòi và khẳng định quan Tham hiệp ấy tên là Trần Phúc Hiển, tuy không rõ đỗ gì, nhưng năm 1813 được từ Tri phủ Tam-đái thăng lên chức Tham hiệp Yên-quảng (phủ Tam-đái đến 1822 mới đổi tên thành phủ Vĩnh-tường). Ông kết luận : - Khi chết Trần Phúc Hiển giữ chức "Tham hiệp" thì không có lý do gì để Xuân Hương khóc chồng với chức "Tri Phủ", cũ xưa và thấp kém hơn ; - Trần Phúc Hiển chết năm 1819, Xuân Hương không thể khóc chồng với cái tên "Ông Phủ Vĩnh-tường" bởi lúc ấy "Phủ Vĩnh-tường" còn mang tên cũ là "Phủ Tam-đái" ; - Nếu quả Xuân Hương sinh khoảng 1772, như ông Hoàng Xuân Hãn đoán, thì đến 1819 nữ sĩ đã gần 50 tuổi, với số tuổi ấy khó lòng có thể tái giá với một "ông Phủ Vĩnh-tường" nào khác. Do đó bài thơ "Khóc ông Phủ Vĩnh-tường" chỉ có thể là ngụy tác (8). Lập luận của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có thể coi là vững : a - Nếu chắc chắn tác giả Thơ truyền tụng và tác giả thơ vịnh cảnh Hạ-long là một (nên nhớ ông Phủ Vĩnh-tường là chồng tác giả Thơ truyền tụng chứ không phải chồng tác giả thơ vịnh cảnh Hạ-long), sự kiện Trần Phúc Hiển từng làm Tri phủ Tam-đái chưa phải là một bằng chứng đích xác ông là chồng tác giả Thơ truyền tụng vì còn có biết bao nhiêu ông Phủ Vĩnh-tường khác. Xét văn phong thì Thơ truyền tụng khác hẳn thơ vịnh cảnh Hạ-long khó có thể chấp nhận hai tác giả là một người được. b - Nếu không có sự xuất hiện của một ông Phủ Vĩnh-tường thứ hai, ông Phạm Viết Đại, cũng có vợ tên Xuân Hương. 3 - Ông Phủ Vĩnh-tường là Phạm Viết Đại ? A- Trần Phúc Hiển không phải là người duy nhất có thể là "ông Phủ Vĩnh-tường". Trong Tạp chí Văn Học (Việt-Nam) số 3, 1974, ông Phương Tri cho biết ông Trần Tường đã phát hiện ra ông Phủ Vĩnh-tường tên là Phạm Viết Đại, dựa vào Trà-lũ xã chi, gia phả và trí nhớ các cụ già làng Trà-lũ. Phạm Viết Đại sinh năm 1802, đỗ Cử-nhân năm 1842, năm 1862 được thăng chức Đồng Tri phủ Vĩnh-tường, đến tháng 4, 1862 thì mất, cái chết có phần oan khiên. Các cụ già trong làng còn nhớ những giai thoại và thơ xướng họa giữa Phạm Viết Đại với người vợ kế tên Xuân Hương, một số thơ, tuy có sai ít nhiều, đã được ông Nguyễn Hữu Tiến nhận đúng là của nữ sĩ họ Hồ. Trần Tường còn nhận thấy nhiều bài thơ vịnh cảnh của Xuân Hương trùng hợp với những nơi mà Phạm Viết Đại đã từng làm quan : Ninh-bình (2 bài), Thanh-hóa (3 bài), Sơn-tây (3 bài) (9). Thuyết này có những chỗ chưa ổn : a - Gia phả họ Phạm nay đã mất, chỉ còn bằng vào Giai nhân dị mặc của Nguyễn Hữu Tiến; b - Trong Quốc triều Hương khoa lục, Cao Xuân Dục chép Phạm Viết Đại chỉ đỗ thứ 16 trên 20 người, mà truyền thuyết thì nói ông Phủ Vĩnh-tường đỗ giải-nguyên ; c - Phạm Viết Đại chết năm 1862. Nếu đúng như Lê Dư viết là Xuân Hương chết sau chồng vài năm thì nữ sĩ phải mất vào khoảng 1864/5 trong khi Tùng Thiện Vương đã thấy mộ Xuân Hương từ năm 1842 (tức là năm họ Phạm mới đỗ Cử nhân). Hồ Xuân Hương chết trước hai mươi năm, không thể làm thơ khóc Phạm Viết Đại được, dù cho ông là "Ông phủ Vĩnh Tường". d- Tuy nhiên, lại có một Xuân Hương chết năm 1869, dựa vào Xuân đường đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích San. Nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn tỏ ý nghi Xuân đường đàm thoại chỉ là loại "văn chơi", thiếu độ tin cậy cao :"không có giả thiết nào đứng vững nếu tin vào Xuân đường đàm thoại ". Thế nhưng năm mất của Xuân Hương trong Xuân đường đàm thoại lại gần với năm mất của Xuân Hương vợ kế của Phạm Viết Đại hơn là với Xuân Hương trong thơ Tùng Thiện Vương, và còn phù hợp cả với Xuân Hương sinh năm 1814 của Ngô Giáp Dậu (11). Ông Hoàng Xuân Hãn tỏ ý nghi ngờ thuyết cho ông Phủ Vĩnh-tường là Phạm Viết "Đạt" (chính ra là "Đại") có người vợ kế "tên Xuân Hương mà họ coi là Hồ Xuân Hương. Họ lại thêm rằng bà vợ đã làm thơ đối đáp với chồng... Sự tin được thuyết này hay không liên hệ mật thiết với kết quả điều tra xem bài "Khóc ông Phủ Vĩnh-tường" có được ghi nhớ một cách đặc biệt trong họ Phạm ở Trà-lũ hay không ?" (12). Đành rằng độ tin cậy của những tài liệu này không thể bì với bài thơ của Tùng Thiện Vương song thuyết cho ông Phủ Vĩnh-tường là Trần Phúc Hiển cũng không hơn, cũng chỉ là phỏng đoán, dựa vào cái tên "Xuân Hường" và những chi tiết "tiểu thiếp, biết làm thơ", song phong cách những bài thơ của người tiểu thiếp quan Tham hiệp chỉ giống phong cách thơ trong Lưu Hương Ký chứ không giống Thơ truyền tụng nên ta chỉ có thể coi tác giả thơ vịnh cảnh Hạ-long với tác giả Lưu Hương Ký là một nhưng không thể khẳng định họ cũng là một với tác giả những bài Thơ truyền tụng nổi tiếng xưa nay, mà ông phủ Vĩnh-tường là chồng tác giả Thơ truyền tụng chứ không phải chồng tác giả Lưu Hương Ký . C - Chiêu Hổ Như trên đã nói, Chiêu Hổ không phải là bạn tình của nữ sĩ mặc dầu trong thơ văn xướng họa có những lời lẽ trêu cợt suồng sã. Chiêu Hổ được người đời biết đến chỉ nhờ những lời đối đáp, xướng họa với Xuân Hương. Cũng như Tổng Cóc và ông Phủ Vĩnh-tường, Chiêu Hổ là ai thì vẫn còn là một vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. 1 - Chiêu Hổ là một Huyện quan ? GS Hoàng Xuân Hãn cho biết khoảng 1892/3, A. Landes, Đốc lý Hà-nội, đã thuê người chép lại những bài thơ Nôm, trong đó có cả thơ Hồ Xuân Hương. Theo bản này thì trước cửa nhà Xuân Hương có đề "Cổ Nguyệt Hồ", quan Huyện đi qua bèn vịnh : Nhà Cổ hãy còn đeo đẳng Nguyệt, Buồng Xuân chi để lạnh lùng Hương (13). Phải chăng vì thế mà có thuyết nói khi Chiêu Hổ thi đỗ được bổ chức huyện quan, Xuân Hương ghẹo : Mặc áo Giáp, giải cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý. Chiêu Hổ đối lại : Làm đĩ Càn tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn. Vẫn theo bản của Landes, Xuân Hương đã từng cùng quan Huyện đi ngoạn cảnh Đèo Ba Dội, cầm tay nhau mà leo lên. Xuân Hương xướng : Trèo một đèo, lại một đèo... Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo. Quan Huyện họa : Đã khỏi Đèo Ông lại một đèo, Nhác coi phong cảnh ngán trăm chiều... Ông Hoàng Xuân Hãn đặt câu hỏi phải chăng quan Huyện đây là Phạm Viết "Đạt" (14) ? quên rằng trước đó chính ông đã tỏ vẻ nghi ngờ thuyết cho Phạm Viết "Đạt" là ông Phủ Vĩnh-tường. 2 - Chiêu Hổ là Phạm Đình Hổ (1768-1839) ? Một số người (Văn Tân, Trần Thanh Mại v.v.) đoán Chiêu Hổ chính là Phạm Đình Hổ. Nguyễn Triệu Luật còn viết rõ rằng Chiêu Hổ, tức Phạm Đình Hổ, cùng với Nguyễn Án (đồng tác giả Tang thương ngẫu lục với Chiêu Hổ) và Xuân Hương được người đương thời mệnh danh là "Tam tài tử" (15). Thực ra Chiêu Hổ không thể là Phạm Đình Hổ vì nhiều lý do : a - Phong cách hai người khác nhau rất xa : Chiêu Hổ tính tình phóng túng, tai quái, ưa bỡn cợt và khi xướng họa với Xuân Hương thường chỉ dùng Nôm ; Phạm Đình Hổ tính tình nghiêm cẩn đến câu nệ, lại có ý khinh chữ Nôm. Trong "Tự thuật" ông viết :"Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc rủ rê chơi đùa thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết" (16). Trong khi Chiêu Hổ trêu chọc người thì Phạm Đình Hổ lại bị người trêu cợt : Năm 1830, ông đang làm Tế tửu Quốc-tử-giám đã xin từ chức, viện cớ "Học thức thô thiển, bị bạn đồng nghiệp trêu chọc" (17). b - Phạm Đình Hổ chỉ đỗ Sinh-đồ (Tú-tài), tuy được đặc cách vời ra làm quan nhưng không làm quan Huyện mà làm ở Viện Hàn-lâm và ở Quốc-tử-giám. c - Chữ "Chiêu" trỏ vào con một ông Tiến-sĩ được học ở "Chiêu văn quán". Cha Phạm Đình Hổ chỉ đỗ Hương-cống (Cử-nhân) nên Phạm Đình Hổ không thể dự hàng các "cậu Chiêu" được (18). 1 - Tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du qua bài thơ "Cảm cựu..." Câu 1 & 2 : Dậm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung, Cậy ai tới đấy gửi cho cùng. "Dậm khách" trỏ vào chuyện Nguyễn Du đang trên đường đi sứ. Hai câu thơ này cho ta có cảm tưởng trên đường đi sứ, qua Thăng-long, Nguyễn Du có gập lại Xuân Hương và bài thơ được Xuân Hương sáng tác ngay sau khi đôi bên chia tay, lúc tâm thần đang bị khích động nên mới có "muôn nghìn nỗi nhớ". Nếu không phải vừa mới gập lại nhau mà chỉ bình tĩnh ngồi hồi tưởng lại mối tình chia cắt đã gần một chục năm, kể từ khi Nguyễn Du vào Kinh làm quan (1805), thì tình đã lắng xuống, nhạt phai, làm sao có thể xúc động để có "muôn nghìn nỗi nhớ" được ? Câu 3 & 4 : Mối tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xuân Hương nói rõ hai người dan díu với nhau đủ "ba năm vẹn", vậy ta thử tìm xem họ yêu nhau vào thời điểm nào ? a - 1781-4 ? Thời gian này hai người cùng có mặt ở Thăng-long hay không? Nguyễn Du tuy sinh (1765) ở Thăng-long nhưng năm mười tuổi mồ côi cha phải đến ở với anh là Nguyễn Khản được vài năm thì về quê học. Năm 17 tuổi ta (1781), Nguyễn Du trở ra Thăng-long, đi thi đỗ Tam trường (21) rồi ở lại Thăng-long cho tới khi kiêu binh phá nhà Nguyễn Khản (1784), Nguyễn Du phải trốn lên Thái-nguyên ở với cha nuôi họ Hà, giữ chức Chánh Thủ hiệu (một chức quan võ nhỏ) ở đó. Như thế thì sự hiện diện của Nguyễn Du ở Thăng-long trong khoảng thời gian 1781-4 coi như chắc chắn. Về Hồ Xuân Hương, ông Hoàng Xuân Hãn đoán bà sinh năm 1772 thì đến 1781 bà mới có 9 tuổi, dù cả hai đều có mặt ở Thăng-long đủ ba năm cũng không thể bắt tình với nhau được. Huống chi, theo ông Hồ Trọng Chuyên thì năm 13 tuổi Xuân Hương còn ở quê nhà (Châu Hoan = Nghệ-Tĩnh) xướng họa với Dương Tri Tạn rồi mới dời quê theo cha ra Bắc. Cứ cho là Xuân Hương ra Thăng-long năm 13, tức là 1772 + 13 = 1785, nhưng lúc ấy Nguyễn Du không còn ở Thăng-long mà đang ở Thái-nguyên (22). b - GS Hoàng Xuân Hãn đưa ra hai thời điểm khác : 1790-3 và 1792-5 (23) song lúc ấy Tây-sơn đã ra Bắc và Nguyễn Du chống Tây-sơn nên về ở nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn ở Quỳnh-hải (Thái-bình) trong mười năm, từ 1786 đến 1796 (khi Nguyễn Du vào Nam, định theo chúa Nguyễn nhưng giữa đường bị quân Tây-sơn bắt được, giam ba tháng mới thả ra). Trong thời gian mười năm này, Nguyễn Du thường than trong thơ tình cảnh bệnh hoạn, nghèo túng, có khi mấy ngày bếp không nhóm lửa, vợ con nheo nhóc... Tuy nghèo nhưng cũng có hai lần Nguyễn Du ra Thăng-long : - năm 1793, để thăm anh là Nguyễn Nễ, đích xác Nguyễn Du trọ ở gần Giám hồ (căn cứ vào bài "Long thành Cầm giả ca") chứ không phải là "ở nhà Nguyễn Nễ, gần Giám hồ" như ông Hoàng Xuân Hãn nói ; - và năm 1794 để tiễn Đoàn Nguyễn Tuấn vào Kinh làm quan. Có thể Nguyễn Du còn có những lần khác ra Thăng-long mà ta không biết, song với tình cảnh nghèo túng, bệnh hoạn, lại ôm hoài bão hoạt động để khôi phục nhà Lê, khó có thể tin Nguyễn Du tìm cách ra Thăng-long để dan díu với Xuân Hương. Dù có chăng nữa thì cũng chỉ là những cuộc gập gỡ ngắn ngủi, bị gián đoạn, khó có thể là mối tình "ba năm vẹn". c - 1802-5 ? Thời điểm này cũng không thích hợp nốt bởi mùa hè năm 1802 Nguyễn Du mới theo Gia-long ra Thăng-long mà đến đầu Xuân năm 1805 đã vào Kinh làm quan, tính ra chỉ có hai năm rưỡi, không đủ "ba năm vẹn". Câu 5 & 6 : Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, Phấn son càng tủi phận long đong. "Mừng duyên tấp nập" mà cho là trỏ vào chuyện Nguyễn Du được thăng lên chức Cần-chính Học sĩ và đi sứ e rằng quá khiên cưỡng, nếu trỏ vào chuyện Nguyễn Du cưới vợ thì có lý hơn bởi câu sau cho thấy Xuân Hương chạnh nghĩ đến duyên phận lẻ loi của mình mà "tủi phận long đong". So sánh duyên phận Nguyễn Du với thân phận mình, như thế mới đối. Câu 7 & 8 : Biết còn mảy chút sương siu mấy, (24) Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong. Hai câu này nối ý hai câu trên, than cảnh Xuân Hương lẻ bóng, đơn chiếc. 2 - Tình cảm của Nguyễn Du đối với Xuân Hương a - Tuy Xuân Hương nói mối tình kéo dài "ba năm vẹn" thế mà trong cả tập Lưu Hương Ký không có lấy một bài thơ của Nguyễn Du xướng hay họa với Xuân Hương, đối với cặp tài tử hay thơ như Xuân Hương - Nguyễn Du kể cũng lạ. b - Năm 1813, Nguyễn Du trên đường đi sứ, đã gập lại Xuân Hương ở Thăng-long, Xuân Hương viết bài "Cảm cựu..." tả "muôn nghìn nỗi nhớ nhung" của mình thế nhưng Nguyễn Du lại không có bài thơ nào nhắc nhở đến Xuân Hương và mối tình "ba năm" ấy. Suốt dọc đường đi sứ ta chỉ thấy Nguyễn Du nghĩ đến "cô Cầm" để rồi sáng tác ra bài "Long thành Cầm giả ca" nổi tiếng, nhưng tuyệt nhiên không có lấy một nửa lời nhớ nhung Xuân Hương ! Nếu bảo Nguyễn Du đang làm quan to, sợ "quan trên trông xuống, người ta trông vào", như ông Hoàng Xuân Hãn nói, thì tại sao trong thời gian yêu nhau "ba năm vẹn", chưa làm quan, cũng không có bài nào ? Không có trong Lưu Hương Ký mà cũng không có trong những tác phẩm Nguyễn Du để lại. c - Bài "Mộng đắc thái liên" (= Mộng thấy hái sen) của Nguyễn Du GS Hoàng Xuân Hãn cho rằng khi Nguyễn Du vào làm quan ở Kinh và ở Quảng-bình đã làm bài thơ này có lẽ vì nghĩ đến Xuân Hương. Để xét xem người thiếu nữ trong thơ có thật là Xuân Hương hay không, tôi chọn bản dịch từng chữ của ông Mai Quốc Liên để giữ được đầy đủ chi tiết trong nguyên tác hơn là bản dịch thành thơ của các ông Lê Thước và Phạm Khắc Khoan mà GS Hoàng Xuân Hãn dùng (25). Mộng thấy hoa sen Buộc chặt quần cánh bướm, Hái sen, chèo thuyền con. Nước hồ sao lai láng, Trong nước có bóng người. Hái, hái sen Hồ Tây, Hoa và gương đều để trên thuyền. Hoa để tặng người mình trọng, Gương để tặng người mình thương. Sáng nay đi hái sen, Nên mới hẹn với cô láng giềng xóm Đông. Chẳng rõ đến lúc nào không biết, Cách khóm hoa nghe cười nói. Mọi người đều biết yêu thích hoa sen, Nhưng ai là kẻ yêu thân cây sen ? Trong thân cây sen có những sợi tơ, Vấn vương không thể dứt được. Lá sen sao xanh xanh, Hoa sen đẹp đầy đặn. Hái sen chớ làm hỏng ngó, Sang năm sen không sinh lại được. Những chi tiết về thiếu nữ hái sen không nhiều : cô ta mặc "quần cánh bướm", và là "láng giềng xóm Đông" của Nguyễn Du, song chẳng ai rõ nữ sĩ có mặc "quần cánh bướm" hay không, và hai người có là "láng giềng" bao giờ không. Nếu Xuân Hương là cô "láng giềng xóm Đông" của Nguyễn Du thì, so với nhà của cô, ắt hẳn nhà của Nguyễn Du phải ở phía Tây phường Khán-xuân, song chúng ta chỉ biết thuở nhỏ Nguyễn Du ở nhà cha và anh tại phường Bích-câu, phía Nam Thăng-long, và năm 1793 khi Nguyễn Du từ Thái-bình ra Thăng-long thăm Nguyễn Nễ đã trọ ở gần Giám hồ, cũng là phía Nam Thăng-long nốt, chứ không phải gần Hồ Tây và phường Khán-xuân, tương truyền là nơi Xuân Hương cư ngụ, ở Tây Bắc. Kẻ ở Nam, người ở Bắc, đã không biết đích xác địa chỉ của hai người, làm sao xác quyết được họ là "láng giềng" với nhau ? Hơn nữa, Nguyễn Du chỉ nói đi hái sen ở Hồ Tây chứ không nói là đi hái sen với người thiếu nữ sống ở gần Hồ Tây. Chúng ta chẳng có bằng chứng nào tỏ ra người thiếu nữ hái sen chính là Xuân Hương cả. Chúng ta cũng chưa có bằng chứng nào minh định là Nguyễn Du đã có một thời yêu Xuân Hương, bài "Cảm cựu..." chỉ "minh chứng" mối tình của Xuân Hương đối với Nguyễn Du mà thôi. Phần Nguyễn Du không có lấy một câu thơ nào cho biết đích xác Nguyễn Du có tình với Xuân Hương. Ở đời có khi "hoa rơi tuy hữu ý" mà "nước chẩy lại vô tình", chung quy chỉ là "giấc mộng rồi ra nửa khắc không" ! B - Trần Hầu 1 - Tình của Xuân Hương đối với Trần Hầu Trong Lưu Hương Ký có ít nhất là 6 bài thơ xướng họa giữa Xuân Hương và Trần Hầu. Nữ sĩ cho biết Trần Hầu là người đồng hương. Hai người hâm mộ tiếng nhau mà đem lòng quyến luyến : Bấy lâu ngưỡng mộ tiếng văn chương, nay mừng được gập mặt, (...) Chén tình vừa nhắp đã nồng nàn, đôn hậu. Thanh khí của châu ta còn được ưa chuộng, Tài tình của chúng ta là chung đúc nơi đây (26). Tuy quyến luyến nhưng chưa tiện ngỏ ý : Thân bèo nước gập nhau, nâng chén rượu dưới trăng, Tấc lòng son sắt thực khó nói. Gọi đàn, vì có ý mà gẩy khúc Cầu Hoàng, (...) Sau phút ly biệt, còn lưu luyến biết bao tình (27). và : Trăm năm gập gỡ là bao nả, Thắc mắc sầu riêng khó giở ra (28). Dẫu Xuân Hương tỏ ra có tình ý thắm thiết nhưng thực ra đôi bên chưa có gì gọi là gắn bó. 2 - Tình của Trần Hầu đối với Xuân Hương Họ Trần xác nhận vì hâm mộ mà tìm đến nàng : Giữa chốn Long thành được nghe nói đến nàng... (29). nhận mình là người đồng hương : Phương chi lại là người đồng quận (30). và mình đã đứng tuổi : Thương ta bất tài, mái tóc luống bạc... (31). Còn về giao tình giữa hai người thì : Chưa gập mà lòng đã mến trước, Há phải đến lúc họa thơ với nhau mới có tình cảm mặn nồng ? (32) Tình cảm mà đã "mặn nồng" từ trước khi gập mặt thì không phải là tình yêu mà chỉ là lòng mến mộ văn tài của Xuân Hương, huống chi Trần Hầu còn thêm : Mừng cho nàng có phận gửi thân nơi quyền quý, (...) Chỉ mong cái tình của chúng ta gập nhau trong mộng (33). Hai câu này cho ta có cảm tưởng là thấy Xuân Hương đã kết duyên với người khác Trần hầu không tỏ vẻ đau khổ. Mối tình Trần Hầu - Xuân Hương cũng chỉ được coi là "mộng", chẳng khác gì mối tình giữa Nguyễn Du và Xuân Hương. 3 - Trần Hầu là ai ? Trong Lưu Hương Ký, từ đầu chí cuối Xuân Hương chỉ xướng họa với một " Hiệp trấn Sơn-nam-thượng Trần Hầu", nhưng trong Tục Hoàng Việt thi tuyển, Nguyễn Đình Hồ có chép hai bài thơ chữ Hán của Xuân Hương : "Đang quét sân vừa đi vừa than để trả lời" (sau Trần Thanh Mại phát giác ra tác giả bài này là một thi sĩ Trung quốc) ; "Bình thủy tương phùng nguyệt hạ tôn" là một bài thơ Xuân Hương "họa" "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ", nhưng trong Lưu Hương Ký lại chép là của Xuân Hương "xướng" với "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng ". Vì dựa vào Tục Hoàng Việt ... GS Hoàng Xuân Hãn tin là có tới hai ông Hiệp trấn họ Trần, một ở Sơn-nam-thượng và một ở Sơn-nam-hạ, và tìm ra cả tên của hai người : a - Hiệp trấn Sơn-nam-thượng Hiệp trấn Sơn-nam-thượng tên là Trần Ngọc Quán. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì năm 1813, đời Gia-long, có Trần Ngọc Quán làm Cai bạ Quảng-đức (Thừa-thiên) đến năm 1815 được bổ chức "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng" (Đại Nam Thực Lục Chính Biên xác nhận). Dứt khoát ta phải loại bỏ Trần Ngọc Quán vì lẽ đến tháng 2, 1815 ông này mới giữ chức "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng" trong khi bài "Tựa" Lưu Hương Ký đã viết xong từ tháng 2, 1814, tức là từ một năm trước, và tất nhiên những bài thơ trong Lưu Hương Ký phải được viết ra từ trước bài "Tựa". b - Hiệp trấn Sơn-nam-hạ Hiệp trấn Sơn-nam-hạ là Trần Quang Tĩnh. Vẫn dựa vào Đại Nam Thực Lục Chính Biên, ông Hãn cho biết Trần Quang Tĩnh quê ở Gia-định, năm 1807 được thăng từ Cai bạ lên "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" (35). Lần này thời điểm phù hợp nhưng lại không ổn về địa điểm : Trần Hầu trong Lưu Hương Ký là "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng" chứ không phải Sơn-nam-hạ. Trong Tục Hoàng Việt thi tuyển mới có "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" song độ tin cậy của Tục Hoàng Việt... không lấy gì làm cao, chép có hai bài thơ nói là của Xuân Hương thì một bài đã vơ nhầm của một thi sĩ Trung quốc, bài thứ nhì có nhầm từ Sơn-nam-thượng ra Sơn-nam-hạ, đổi "xướng" ra "họa", cũng không phải là chuyện chẳng thể có. Cứ cho là Tục Hoàng Việt... chép đúng thì ta phải sửa lại tất cả những bài thơ xướng họa với họ Trần trong Lưu Hương Ký chứ không có lý do gì để tách riêng bài "Bình thủy tương phùng..." cho là liên quan đến "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" còn tất cả những bài khác thì vẫn với ông "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng. Mặt khác, Trần Hầu trong Lưu Hương Ký là người đồng quận (châu Hoan) với Xuân Hương, còn Trần Quang Tĩnh quê ở Gia-định làm sao có thể coi là một được ? Ông Đào Thái Tôn cũng chép rằng bài "Bình thủy tương phùng..." là của "Hiệp trấn Sơn-nam-thượng", theo Lưu Hương Ký, nhưng trong phần chú giải thì lại chép theo ông Hoàng Xuân Hãn về một "Hiệp trấn Sơn-nam-hạ" thành ra đầu đuôi không ăn nhập với nhau. Phải chăng ông Đào thấy Lưu Hương Ký "đáng tin cậy hơn" nhưng đồng thời ông cũng "muốn tin" học giả Hoàng Xuân Hãn (36) ? C - Tốn Phong Thị Ngoài Lưu Hương Ký Trần Thanh Mại còn phát hiện ra ở Thư viện Khoa Học Trung Ương một bài "Tựa" tập Lưu Hương Ký kèm với 32 bài thơ của Tốn Phong Thị trong đó có 31 bài thơ chữ Hán nói đến mối tình giữa Xuân Hương và Tốn Phong. Theo bài "Tựa" thì Tốn Phong cũng quê ở châu Hoan như nữ sĩ, hai người gập nhau năm 1807 và đến năm 1814 thì Xuân Hương đưa tập Lưu Hương Ký nhờ Tốn Phong viết Tựa. Trần Thanh Mại đoán Tốn Phong họ Phan chỉ vì trong bài "Tựa" thấy nói Tốn Phong có cô "em họ tên Phan Mĩ Anh". Đoán thế là khiên cưỡng vì có thể là em họ bên ngoại, không cùng một họ. Theo ông Lê Trí Viễn thì Xuân Hương có tới 10 bài thơ gửi Tốn Phong, tôi chỉ được đọc có năm bài với tựa đề nêu tên Tốn Phong. 1 - Tình ý của Xuân Hương đối với Tốn Phong So với hai người "tình" trước thì mối tình của Xuân Hương đối với Tốn Phong xem ra gắn bó hơn, vì Xuân Hương nhắc tới "giải ước nguyền" trong bài "Tốn Phong Thị nằm mộng, ghi lại mang cho xem, nhân đó ghi thuật bằng thơ" : (...) Chén tình đã nhẫn lâu mà nhạt, Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai. và trong bài "Họa Tốn Phong nguyên vận" thì nhắc đến "chén thề, món tóc (thề), trăm năm..." : Kiếp này chẳng gập nữa thì liều, Những chắc trăm năm há bấy nhiêu ? (...) Chén thề thuở nọ tay còn dính, Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo. Được lứa tài tình cho xứng đáng, Nghìn muôn non nước cũng tìm theo. Câu cuối nói lên sự quyết tâm, chí tình của Xuân Hương. 2 - Tình của Tốn Phong đối với Xuân Hương Tốn Phong luôn luôn tán tụng sắc đẹp và văn tài của Xuân Hương : Trên đàn thơ xuất hiện một vị thần thơ, (...) Gập người ngờ là tiên nữ gửi xuống trần (Bài số 12, theo cách đánh số của Trần Thanh Mại) song Tốn Phong chỉ nhắc đến tình giao du, xướng họa : Tựa :"Tình cờ mới gập lần đầu mà thành đôi bạn thân thiết... Tôi phải xuôi ngược vào Nam ra Bắc không thể cùng nhau xướng họa..." Bài số 11 :"Gập người ngờ là có mối duyên bút mực từ xưa" Còn duyên tình ? Chỉ thấy Tốn Phong than : Duyên lạ mây mưa phó mặc hồn mộng, Đừng nói nhớ nhau với biết nhau Đồng tâm chỉ thấy vị ấm chén rượu. (Bài số 18) Ở đây cũng như với họ Nguyễn, họ Trần, hễ nói tới "tình" thì ta lại gập chữ "mộng". Vì hiếm tài liệu chính xác về Xuân Hương nên ta phải căn cứ vào bài "Tựa" của Tốn Phong tuy nhiên bài này cũng có chỗ không ổn : Tốn Phong cho biết trong bài "Tựa" rằng hai người quen nhau từ "Xuân Đinh Mão" (1807), đến "Xuân Giáp Tuất" (1814) thì gập lại, tính ra phải là 7 năm, thế mà Tốn Phong nhiều lần nói rõ là chỉ có "6 năm" : Bài số 28 : Từ lúc chia tay người mỗi ngả, Tình khách cũng đã sáu năm tới nay. Bài số 22 : Cánh bèo gập nhau sáu năm về trước. Tốn Phong nhớ nhầm hay... không biết làm tính ? D - Mai Sơn Phủ Trong Lưu Hương Ký ít nhất cũng có tới ba bài Xuân Hương viết về Mai Sơn Phủ nhưng không có thơ của Mai Sơn Phủ nên ta chỉ có thể căn cứ vào thơ của Xuân Hương để phỏng đoán. Chắc Mai Sơn Phủ cũng cùng quê với nữ sĩ vì trong bài "Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ" (= Kể ý mình và trình bạn là Mai xuân Phủ) có câu : Giấc mộng tình quê thấy tịch liêu Trong bài "Họa Sơn Phủ chi tác", ta thấy tình của Xuân Hương rất thiết tha : Nước mắt trên hoa là lối cũ, Mùi hương trong nệm cả đêm thâu. Vắng nhau mới biết tình nhau lắm, Này đoạn chung tình biết mấy nhau. Song Sơn Phủ dường như lại hững hờ nên Xuân Hương nhắc nhở : Nhớ nhung đừng lỡ hẹn sai kỳ (...) Hai ta đều muộn nói mà chi ? và "khuyến khích" : Hãy nên trao gửi mối duyên đi, Lòng son ai nỡ phụ giai kỳ ? Xem ra, với Mai Sơn Phủ, cũng vẫn chỉ là "giấc mộng tình quê" mà thôi. o O o Vì không được đọc những bài thơ liên quan đến Thanh Liên, Chí Hiên, Thạch Đình v.v... nên tôi chỉ có thể bàn về tình duyên của tác giả Lưu Hương Ký qua Nguyễn Hầu, Trần Hầu, Tốn Phong Thị, Mai Sơn Phủ. Tuy với ai Xuân Hương cũng tỏ ra khắng khít nhưng đối phương, nếu có thơ xướng họa, chỉ thấy mập mờ nói đến "mộng". Hơn nữa, khó có thể tin rằng một người phụ nữ "nghiêm chỉnh", "biết dừng lại trên lễ nghĩa" (như Tốn Phong viết trong bài "Tựa") lại có thể cùng một thời gian "thành thật gắn bó" với ít ra là hai, ba người : Ông Hoàng Xuân Hãn cho là khoảng 1813/4, Xuân Hương nối lại tình xưa sau bẩy năm xa cách với Tốn Phong khi ông này quay lại Thăng-long. Cũng trong thời gian ấy, Xuân Hương viết bài "Cảm cựu..." bầy tỏ "muôn nghìn nỗi nhớ nhung" với Nguyễn Hầu và trách người tình để mình "năm canh chiếc bóng chong". Đấy là chưa kể ông Hoàng Xuân Hãn còn cho là lúc ấy Trần Phúc Hiển vừa được thăng chức Tham hiệp Yên-quảng, trên đường đi nhậm chức, dong thuyền qua Thăng-long có ghé thăm và hứa hẹn sẽ cưới Xuân Hương (37). Điều khó hiểu là Xuân Hương không những gắn bó với mấy người cùng một lúc mà còn không ngại ngùng đem những bài thơ bộc lộ tình yêu khăng khít của mình với những người khác cho Tốn Phong đọc và nhờ viết cả bài "Tựa" mà không sợ Tốn Phong ghen. Thói thường, người ta dẫu có "ăn vụng" thì cũng tìm cách "giấu giếm". Cho nên tôi nghĩ rất có thể Xuân Hương chỉ coi những "mối tình" này là cái cớ để làm "văn chơi", hơi cường điệu một chút, chứ sự thật không có tình ý gì cả. Bởi không có tình ý nên mới không ngại ngùng đưa cho Tốn Phong đọc, biết rằng Tốn Phong sẽ hiểu. Quả nhiên ta thấy Tốn Phong viết trong bài "Tựa" : "Thoạt đầu tôi hết sức kinh ngạc, lạ lùng (vì bất ngờ khám phá ra Xuân Hương còn thắm thiết với nhiều người khác ngoài mình ra) rồi dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái (vì đã hiểu đây chỉ là "văn chơi", không phải sự thực) trở nên vui thú, khoái trá (bây giờ Tốn Phong mới thực sự thưởng thức văn tài của Xuân Hương)". Nếu không thế thì vì sao thoạt mới đọc Lưu Hương Ký Tốn Phong lại "hết sức kinh ngạc, lạ lùng" ? Không thể nói "kinh ngạc" vì thấy thơ Xuân Hương quá hay, Tốn Phong đã xướng họa nhiều lần với Xuân Hương còn lạ gì tài của vị "thần thơ" này ? Rồi tại sao lại "dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái", cái gì đã khiến lòng Tốn Phong "không thư thái" trước đó ? Mới đọc thoáng, tưởng như tình duyên của tác giả Lưu Hương Ký cũng trắc trở như tình duyên của tác giả Thơ truyền tụng, nhưng xét kỹ thì có lẽ không phải, "duyên" trong Lưu Hương Ký chỉ là thứ "duyên bút mực" còn "tình duyên" thực thì lại không thấy Xuân Hương viết rõ, chỉ có thể đoán qua Tốn Phong, bài số 18 : Nhà Nguyệt bây giờ vui bạn phượng chứng tỏ khi Tốn Phong quay lại thì dường như Xuân Hương đã kết duyên với người khác, mà lại là người xứng ý nên mới "vui bạn phượng". Chuyện Xuân Hương xuất giá có thể là chuyện thực vì Trần Hầu cũng viết : Mừng cho nàng có phận gửi thân nơi quyền quý (38). Tuy nhiên, tất cả vẫn chỉ là phỏng đoán, vấn đề Hồ Xuân Hương và Lưu Hương Ký còn dành cho ta nhiều nghi vấn... Trong Thơ truyền tụng ta không thấy có bóng dáng Tốn Phong, Trần Hầu, Nguyễn Hầu, Mai Sơn Phủ v.v., và trong Lưu Hương Ký cũng không thấy bóng dáng của Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh-tường hay Chiêu Hổ. Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy ? Nếu cho là Xuân Hương về già tự ý loại bỏ những bài Thơ truyền tụng cho là nghịch ngợm làm lúc trẻ để đối đáp với những lời trêu ghẹo của con trai cho nên trong Lưu Hương Ký không có bóng dáng Tổng Cóc, Chiêu Hổ v.v. nhưng chẳng nhẽ dân gian cũng tự ý loại bỏ trong Thơ truyền tụng những bài có dính dáng đến Nguyễn Du, Trần Hầu, Tốn Phong... ? Loại ra vì lẽ gì ? Huống chi văn phong của Thơ truyền tụng và Lưu Hương Ký khác nhau rất xa, ai cũng nhận thấy. Ta chỉ có thể đi đến kết luận là về mặt tình duyên, cũng như về văn phong, trong hiện tình chúng ta chưa có cứ liệu chắc chắn để xác quyết tác giả Lưu Hương Ký cũng chính là tác giả những bài thơ truyền tụng ai cũng biết. Châtenay-Malabry, tháng 9, 1998 Thế Kỷ 21, số 115, 11/1998 Sửa lại tháng 9, 2005 nguồn http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.net Nguyễn Thị Chân Quỳnh
  13. "Diễm Xưa" nay về Nhân vật Diễm Xưa của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng. Cũng lần đầu tiên, chuyện tình Diễm Xưa - Trịnh Công Sơn được công khai. Không tờ rơi hay một tấm giấy mời, cuộc gặp mặt các cựu nữ sinh Đồng Khánh (Huế) đêm 12-3 tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế vẫn thu hút rất đông văn nghệ sĩ, trí thức, công chúng yêu mến Trịnh Công Sơn. Diễm Xưa, nay về Người đẹp "Diễm xưa" của Trịnh Công Sơn trong vòng vây của báo chí - Ảnh: B.N.L Sinh thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng kể về cô gái Diễm Xưa như là sự liên hệ về một mối tình liêu trai, như thực như mơ; một dung nhan diễm kiều nhưng mong manh như chợt mơ hồ, tan biến. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân (Huế) cũng từng tả Diễm Xưa là cô gái giống cha, dong dỏng cao, nét mặt thanh tú, bước đi thong thả nhẹ nhàng. Tuy vậy, nhà nghiên cứu này cũng bộc bạch, khi viết tác phẩm Trịnh Công Sơn, có một thời như thế, ông rất khó khăn trong việc tìm kiếm hình ảnh của cô Diễm Xưa để đưa kèm bài. Diễm Xưa nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới Việt Nam từ lâu. Nhưng cô gái trong ca khúc thì rất hiếm người tận kiến, thậm chí cả những người Huế, nơi Diễm được cho là từng có thời gian dài sinh sống. Diễm Xưa Ngô Thị Bích Diễm (trái) lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng - Ảnh: Ngọc Văn Một dấu hỏi lớn vẫn tồn tại lâu nay, nhân vật Diễm Xưa chỉ là một ảo ảnh, một mộng tưởng tình duyên vô thực hay... Cuộc gặp mặt những cựu nữ sinh Đồng Khánh theo sáng kiến của nữ trí thức Việt kiều Thái Kim Lan (hiện sống ở Đức), với cả sự xuất hiện của nhân vật Diễm Xưa, đã gợi cho công chúng Huế nhiều tò mò. Họ dự buổi gặp mặt để nghe nhạc Trịnh, nhưng cũng để được thấy một Diễm Xưa bằng xương bằng thịt. Để rồi đêm 12-3, Diễm Xưa đã thực sự về lại chốn xưa sau hàng chục năm xa Huế, để lần đầu tiên công khai chuyện tình cảm của chị với cố nhạc sĩ họ Trịnh. Diễm Xưa kể rằng, tên thật là Ngô Thị Bích Diễm, người Hà Nội, theo gia đình vào Huế từ năm 1952. Cha là một giáo sư giảng dạy tại Trường Quốc học Huế. Chị từng học trung học tại Trường Nữ sinh Đồng Khánh. Năm 1963, chị rời Huế vào Sài Gòn học đại học, sau đó du học sang Mỹ và định cư ở đó cho đến nay. Chị hiện là một cán sự xã hội chuyên nghiệp ở Cali, Mỹ. Diễm Xưa - Ngô Thị Bích Diễm - Ảnh: Ngọc Văn Trong bầu không khí dạt dào tình cảm, Bích Diễm tâm sự: “Huế với tôi có một tình cảm vô cùng sâu đậm. Đó là một tình yêu chân thành của tôi với sông nước, với con người xứ Huế, với tất cả; và tất nhiên, là với anh Trịnh Công Sơn”. Tiến sĩ Thái Kim Lan xúc động: “Bao năm qua, Diễm đã im lặng, thay vì nói rất nhiều. Đặc biệt, sau khi anh Trịnh Công Sơn mất. Sự im lặng của bạn tôi khiến tôi vô cùng thán phục. Cuộc gặp mặt hôm nay liệu có phá vỡ một huyền thoại mang tên Diễm Xưa ?”. Không dám tự nhận Giải thích về sự im lặng đi qua hơn nửa thế kỷ, Diễm Xưa cho rằng: “Mỗi chúng ta đều mang một tâm sự hay kinh nghiệm nào đó trong quá khứ cho đến hiện tại. Có những dấu ấn xuất phát từ biến cố của cuộc sống, ám ảnh của chiến tranh, chia ly. Vì vậy, tôi luôn giữ yên lặng để nghĩ về Huế. Hơn nữa, cái bóng của anh Sơn quá lớn. Tôi thấy, anh Sơn cũng có những cung bậc tình cảm, tâm sự của những con người như vậy, và đã đi qua nó bằng ý nghĩa triết lý Phật giáo, để tạo nên cho đời những bài nhạc bất hủ. Tôi rất yêu thương Huế, bởi trong tôi có một phần là người Huế”. Cũng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, với Bích Diễm, tình cảm giữa hai người như là một kỷ niệm liêu trai. Chị kể, hai người quen nhau tình cờ qua họa sĩ Đinh Cường (hiện sống tại Mỹ). Hồi đó, Bích Diễm ở gần dốc Bến Ngự, phía bên kia sông An Cựu. Nhà có cây dạ lan hương tỏa hương quyến rũ, khiến Trịnh Công Sơn ở phía bên này sông rất thích. Bích Diễm từng tặng cho Trịnh Công Sơn một cành dạ lan hương rất lớn, gây chấn động mạnh về tình cảm đối với nhạc sĩ họ Trịnh. “Sau này, hai người em của anh Sơn nói lại với tôi về điều đó. Với tôi, anh Sơn giống như một dòng sông, êm đềm, sâu lắng”, Bích Diễm hồi tưởng. Lần đầu tiên bộc lộ chuyện tình cảm riêng tư với cố nhạc sĩ họ Trịnh trước công chúng, Bích Diễm vẫn e dè: “Tôi không bao giờ dám nhận mình là Diễm Xưa. Tôi thấy nó lớn quá, lớn ngoài sức tưởng tượng của mình. Tôi không biết điều đó đúng hay sai. Nhưng dẫu sao, cũng như suy nghĩ của nhiều người, đó là một mối tình rất đẹp”. Theo Ngọc Văn Diễm của những ngày xưa Sinh thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết bài này để kể về Diễm Xưa. Tiền Phong xin in lại toàn văn. Duy chỉ có tít bài thì đặt lại theo trí nhớ, không rõ có chính xác không, vì nguồn văn bản trên Internet không có tít bài. Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến Trường Đại học Văn khoa ở Huế. Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua. Những mùa nắng, ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhạt nhòa trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt... Nhà cô ấy ở bên kia sông mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường. Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ. Đi để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một phần nào cũng cứu rỗi cho con người ta khỏi vành đai tục lụy. Và từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời đất như không có thực. Nhưng thật sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm thêu hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình. Đó cũng là thời gian mà mỗi sớm tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyền đi trên dòng sông để đến với từng căn nhà khép hờ hay đang đóng kín cửa. Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét mới làm sực tỉnh và bỗng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh. Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoang lạc của giấc mơ. Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một nơi hò hẹn. Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi. Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là “Diễm của những ngày xưa”. Trịnh Công Sơn
  14. Tính Xung đột Trong ‘sen’ Loài hoa quen thuộc với người dân Việt trở nên lạ lẫm khi được làm từ những chất liệu công nghiệp là kính và Inox kết hợp với sỏi, đá, gạch, đất, mang những suy tư và trăn trở về cuộc sống trong triển lãm mang chủ đề "Sen" khai mạc tại Trung tâm Viet Art, Hà Nội, chiều 31/1. "Sen" mang những suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống.Sen trưng bày 54 tác phẩm mới sáng tác của Nguyễn Huy Tính, với 1.000 chi tiết được tạo từ nỗ lực làm việc trong suốt năm 2009 của họa sĩ sinh năm 1974 và các cộng sự. Con số 54 tác phẩm ghi dấu ấn về năm Thủ đô được giải phóng (1954), đồng thời cũng thể hiện ý nghĩa 54 dân tộc anh em như những đóa hoa cùng chào mừng ngày thủ đô tròn 1.000 năm tuổi. Họa sĩ Nguyễn Huy Tính trong buổi khai mạc triển lãm.Nguyễn Huy Tính cho biết: "Khi sử dụng hình tượng hoa sen để làm tác phẩm, tôi muốn gợi cho mọi người nhớ về những giá trị truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc. Trong tâm thức của người dân Việt, hình ảnh hoa sen đã trở nên gần gũi thân thuộc trong cuộc sống thường ngày, là chất liệu cho biết bao thế hệ nghệ sĩ sáng tác thơ, ca, nhạc, họa cũng như trong các nghi thức văn hóa tâm linh, từ đời thường, giản dị đến sang trọng, thanh cao". Búp sen làm từ chất liệu kính.Về ý đồ của tác phẩm, họa sĩ đoạt giải nhất Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 2005 phát biểu: "Tôi thể hiện tác phẩm của mình với những bố cục đơn giản, giàu tính trang trí, hướng tới số đông công chúng vốn lâu nay coi mỹ thuật là cái gì đó xa vời với cuộc sống của họ. Sen mang những suy tư và trăn trở về cuộc sống: Xung đột giữa cái cũ và cái mới, cái hay cái dở, giá trị tự thân những hy vọng, những ước mơ… Đó luôn là những câu hỏi mà mỗi người xem phải tự trả lời, đó là thông điệp mà tôi muốn chuyển tải đến công chúng. Hy vọng người xem sẽ có những cảm nhận riêng hay có chút gì đồng cảm cùng tác giả”. Tác phẩm lấy cảm hứng từ câu ca dao "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".Triển lãm “Sen” sẽ kéo dài từ ngày 31/1 đến ngày 10/2, mở cửa tự do. Ngọc Trần nguồn vnexpress.net
  15. Phần chân của con vật, có nhiều người xem qua bảo với tôi đây là con cóc vàng bình thường !!!!
  16. Đây phần trực diện của con vật Tên gọi này Cô chưa nghe bao giờ rubi ơi !
  17. Một góc chụp khác !
  18. Ở tư thế này con vật đã biết có người đến gần nó! các bạn đoán ra chưa ? Nó nghe đựoc tiếng người nữa đấy các bạn !
  19. Ghi nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của LeDien góp cho Quỹ Từ Thiện Diễn Đàn. Quỹ hiện có: 4,789,000 đ + 200,000 đ = 4,989,000 đ (bốn triệu chín trăm tám mươi chín ngàn đồng) .
  20. LeDien mong muốn tặng cho trường hợp nào ko? Hay góp vào Quỹ Từ Thiện?
  21. Những con ếch đổi màu bí ẩn Da một loài ếch mới được phát hiện ở phía tây nam Thái Bình Dương có màu đen pha chấm vàng khi chúng còn nhỏ. Nhưng khi đến giai đoạn trưởng thành da của chúng chuyển sang màu vỏ đào. Một con ếch Oreophryne ezra chưa đến tuổi trưởng thành. Ảnh: Fred Kraus. National Geographic cho biết, những con ếch Oreophryne ezra được phát hiện vào năm 2004 trong một khu rừng trên đỉnh núi ở phía nam Papua New Guinea. Dân địa phương không bao giờ bước vào rừng ẩm ướt này vì họ cho rằng nó được canh giữ bởi các linh hồn. Giới khoa học từng phát hiện một số loài ếch đổi màu da khi chúng trưởng thành. Tuy nhiên, sự khác biệt về màu da giữa cá thể non và cá thể trưởng thành ở ếch Oreophryne ezra lớn hơn hẳn mọi loài ếch khác. Theo Fred Kraus, chuyên gia về động vật có xương sống của Bảo tàng Bishop tại Mỹ, sự đổi màu hoàn toàn đó là một bí ẩn thú vị. Rất có thể màu đen trên cơ thể ếch chưa trưởng thành đóng vai trò "cảnh báo", bởi màu đó khiến những động vật săn mồi tưởng chúng là ếch độc. Da của ếch chuyển sang màu vàng khi chúng đến giai đoạn trưởng thành. Ảnh: Fred Kraus. "Nhưng nếu ếch chưa trưởng thành có màu sắc cảnh báo thì tại sao chúng lại mất màu đó khi lớn. Thật khó hiểu", Kraus đặt vấn đề. Để giải mã bí ẩn, Kraus dự định kiểm tra xem liệu những con ếch Oreophryne ezra chưa đến tuổi trưởng thành có độc để tự vệ hay không. Tuy nhiên, ông sẽ phải tiến hành khẩn trương, bởi môi trường sống của chúng đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu. Rừng trên đỉnh núi cần duy trì nhiệt độ thấp để tồn tại. Tình trạng ấm lên toàn cầu có thể khiến chúng khốn đốn. Những loài thực vật ở mặt đất có thể di chuyển lên phía trên và thay thế những loài cây sống trên núi. Khi đó ếch Oreophryne ezra sẽ tuyệt chủng. Minh Long nguồn vnexpress.net Có liên quan gì đến con vật mà Wild đưa bài đoán cho ACE chăng?
  22. Có Cóc màu da này không NT ?
  23. Chưa có lời giải cho VSA hãy chờ các bạn khác nữa nhé !
  24. Tôi lại nghĩ Nhân vô Minh thành công trong việc đọc nhiều sách. "Hữu ngôn VÔ kiến giả"
  25. Sao Rin không sử dụng nút CÁM ƠN nhỉ?