-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Cảm nhận Hà Nội qua từng khu phố cổ. Khu phố cổ Hà Nội, từng được các du khách phương Tây ví với thành Venice cổ kính, cho đến hôm nay nó vẫn là khu phố cổ xưa độc đáo ở Việt Nam.Khu phố cổ Hà Nội thường được gọi là khu 36 phố phường nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, thuộc quận Hoàn Kiếm, có diện tích là 100 ha, được giới hạn phía bắc là đường Hàng Đậu, phía nam là các đường phố Hàng Bông - Hàng Gai - Cầu Gỗ và Hàng Thùng; phía đông là đường Trần Nhật Duật - Trần Quang Khải, phía tây là đường Phùng Hưng. Nơi đây, xưa là các phường hội thủ công. Mỗi phố mang tên một hàng hoá: Hàng Nón, Hàng Chiếu... Trong khu phố cổ Hà Nội, xen lẫn các ngôi nhà truyền thống là các công trình văn hóa, lịch sử, tôn giáo và các nhà hàng ẩm thực. Khu phố cổ còn giữ được dáng vẻ kiến trúc của dân tộc Việt Nam và châu Á - tạo thành một quần thể kiến trúc độc đáo - nhà cửa san sát, phố xá tấp nập. Nhiều hoạt động trong đời sống hằng ngày của người dân đô thị diễn ra tấp nập: sinh hoạt, bán hàng, sản xuất, vui chơi, nghỉ ngơi, lễ hội, tạo nên sức sống mãnh liệt để khu phố tồn tại và phát triển liên tục. Hà Nội xưa phân chia thành hai khu vực rõ rệt: khu thành cấm dành cho vua chúa, quan lại và khu buôn bán dành cho dân chúng - chính là khu phố cổ ngày nay. Thời trước, khu phố cổ được hình thành từ một mạng lưới giao thông đường sông với hệ thống kênh rạch tạo bởi các nhánh của sông Hồng và sông Tô Lịch. Những thợ thủ công lành nghề được triều đình tuyển chọn đã lập ra các làng nghề ngay gần khu vực các cổng hoàng thành. Thế kỷ XI, đây đã trở thành một khu phố buôn bán sầm uất với những phường thợ tách biệt chuyên làm một loại mặt hàng. Chính vì vậy, đến ngày nay, thành phố vẫn thường được gọi là Hà Nội - 36 phố phường. Mỗi phường bắt đầu bằng chữ "Hàng" như Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Thiếc, Hàng Giấy, Hàng Mã, Hàng Giầy... “Hàng” tiếng Việt cổ có nghĩa là hàng hóa, và các khu phố được đặt tên theo loại mặt hàng bán nhất định. Một vài khu phố ngày nay vẫn bán những mặt hàng truyền thống đó. Phố cổ thực sự là khu vực rất hấp dẫn để du khách khám phá. Những ngôi nhà “ống” trong khu vực này là những ngôi nhà bề ngang hẹp và kéo dài về phía sau. Để thấy độ sâu của chúng, có thể xuôi theo những ngõ hẻm giữa các tòa nhà hoặc thăm một trong những cửa hàng trên phố Hàng Gai. Cuộc sống trên phố cổ hiện tại vẫn diễn ra sôi động. Ngay từ sáng sớm, đường phố đã đông người: người đi làm, người bán hàng, người đi chơi... Những người đàn ông làm những nghề do cha ông truyền lại, các cụ bà trông coi nhà thờ họ, trông cháu hay bán thuốc lá, trông coi nhà cửa... Thậm chí trong những đêm đông giá lạnh, người Hà Nội vẫn có thói quen tụ tập, cùng nhau thưởng thức món ăn. Phố cổ Hà Nội đang đứng trước những biến động to lớn và phức tạp của sự thích ứng với đời sống xã hội phát triển, làm cho một số ngôi nhà, đoạn phố bị thay thế bởi những khối kiến trúc mới, hiện đại. Song phố cổ vẫn còn đầy vẻ quyến rũ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, xinh xắn và rêu phong, thấp thoáng ẩn mình trong màu xanh mượt mà và ngọt ngào hương hoa của cây lá. Phố cổ không bao giờ phai mờ vẻ đẹp thuần khiết, thanh tao. Vừa qua, thành phố Hà Nội đã trùng tu một số ngôi nhà cổ điển hình trong khu phố cổ. Đó là ngôi nhà số 87 phố Mã Mây và ngôi nhà số 38 phố Hàng Đào. Theo Sở Du Lịch Hà Nội
-
Nếu như Nắng ngoài kia đồng cảm, hãy gởi cho nhau chút ấm áp đang còn
-
Đã có tranh chấp thì có thiệt hại! Khó mà tìm thấy tinh thần thiện chí ở đây! nhưng dù sao đây cũng là nước láng giềng anh em để các nhà ngoại giao 2 bên giải quyết các bạn ơi!
-
Bạn cứ email cho tôi, tôi sẽ đưa ảnh lên giúp bạn, nhưng Bác Thiên sứ và AE vẫn xác nhận chưa đúng với hình đầu tiên, nếu có thể bạn gởi nguyên file tiện cho chúng tôi chọn lại. Còn nếu là luỡng nghi hán thì là điều đương nhiên nếu đặt tại TQ.
-
Đây là 2 tấm ảnh tôi nhận qua email, có thu gọn ở tấm toàn cảnh để các bạn dễ xem.
-
Đây là ảnh được thu gần và cắt bớt để dễ xem .
-
Chẳng biết người trong ảnh có phải là nhanqua không?
-
Wild nhận được qua email 1 ảnh giống như trên và 1 ảnh chụp quang cảnh như địa danh nơi bạn ấy đến! Có thể qua thông tin này cậu ấy sẽ hiểu cái ảnh chúng ta cần HGL ạ!
-
Vâng! Tôi vừa nhận mail của bạn, cám ơn bạn và bạn đã đưa lên được rồi rất tốt.
-
Bạn có thể email và attach file cho tôi, theo địa chỉ email wildlavender89@yahoo.fr Tôi sẽ đưa lên hoặc phục hồi giúp bạn.
-
Nước ta không thiếu chuyện huyền bí, thậm chí còn nhiều chuyện lạ chưa giải thích được bởi các nhà khoa học. Như chuyện Giếng Lạ, Cá thần ở Bắc Ninh.
-
Đã phạm rồi thì bạn đưa bản vẽ nhà, hướng và diện tích AE mới can thiệp được nhé!
-
Dầu cá: Khắc tinh của ung thư Dầu cá được ví như chiếc áo giáp bảo vệ cơ thể trước nhiều loại ung thư. Chẳng những thế, dầu cá còn là bí kíp để giữ gìn làn da mịn màng, còn xua tan mệt mỏi do học nhiều, v.v. Có viêm nhiễm hoặc phải chịu đựng cảm giác đau đớn. Nghiên cứu cho thấy rằng có ít nhất 2 loại axit béo omega – 3 (EPA và DHA) được tìm thấy trong dầu cá có tác dụng như những hợp chất chống lại hiện tượng viêm nhiễm rất hiệu quả. Nó còn có tác dụng giảm đau với những người mắc chứng bệnh mãn tính như viêm khớp, viêm tuyến tiền liệt hay viêm bàng quang. Dầu cá được ví như chiếc áo giáp bảo vệ cơ thể trước nhiều loại ung thư Tim mạch và huyết áp cao. Dầu cá đem lại những hữu ích tuyệt vời cho tim mạch nói chung. Nó có thể làm giảm chất triglycerides - một chất hóa học không có lợi cho tim, giảm nguy cơ bị xơ cứng động mạch, giảm huyết áp và chứng tắc nghẽn mạch máu - tất cả những biểu hiện này đều có liên quan đến tim mạch và chứng đột quỵ. Tuy nhiên, bạn không nên lầm tưởng rằng, vì dầu cá có hữu ích như thế nên chỉ cần uống dầu cá là đủ thay vì uống các thuốc điều trị tim mạch hay cao huyết áp. Suy nhược. Dầu cá có khả năng cân bằng các chất hóa học trong não và có thể dùng dầu cá để trị liệu tâm lý cũng sẽ đem lại ích lợi như mong muốn. Trong nhiều trường hợp, các bác sĩ tâm lý thường kê đơn cho bệnh nhân của mình uống dầu cá kết hợp với các thuốc chống suy nhược khác để cải thiện tâm lý hiệu quả. Ôn thi, làm việc và học hành nhiều. Dầu cá được xem như một loại thực phẩm chức năng trong trường hợp này vì nó giúp phục hồi chức năng của não bộ rất hiệu quả, tăng sức tập trung và tăng hiệu quả ghi nhớ của bộ não. Bệnh về mắt. Chất béo Omega - 3 axit có trong dầu cá giúp cho mắt được tinh tường hơn, tăng cường thị lực, giảm nguy cơ mắc các vấn đề về mắt khác như cận thị, loạn thi, viễn thị hay thậm chí là mù, lòa. Rắc rối với làn da. Những người mắc chứng bệnh như chàm bội nhiễm, vảy nến, mẩn đỏ, ngứa, dị ứng, mụn, gàu, hoặc các bệnh khác ngoài da có thể sử dụng viên dầu cá để điều trị cực kỳ hiệu nghiệm. Hơn nữa, dầu cá còn là bí kíp chăm sóc da của không ít các cô gái thời nay vì nó đem lại cho làn da một vẻ đẹp mịn máng, láng bóng. Béo phì. Dầu cá được biết đến như một kế sách giúp bạn giảm cân cũng như khống chế cân nặng. Hơn thế nữa dầu cá không gây tác dụng phụ như một số loại thuốc giảm cân. Có nguy cơ bị ung thư hoặc đang điều trị. Các bằng chứng nghiên cứu cho thấy rằng việc bổ sung dầu cá vào trong cơ thể được ví như bạn đang mặc một chiếc áo giáp giúp cơ thể loại trừ được nguy cơ mắc các chứng bệnh ung thư nguy hiểm như ruột, vú, tuyến tiền liệt. Hệ miễn dịch suy giảm. Hệ miễn dịch suy giảm là một tín hiệu xấu đối với sức khỏe, là nguyên nhân khởi nguồn của các chứng bệnh như cảm, cúm, hay thậm chí là ung thư. Để đạt được điều này thì bạn chỉ cần duy trì một thói quen rất đơn giản là uống viên dầu cá đều đặn. Theo Khổng Thu Hà
-
Chúc mừng VusongAnh hưởng mùa Sinh Nhật Hạnh Phúc, May mắn, Thành Đạt.
-
Như vậy thì không ngẫu nhiên đâu nhỉ, thế thì Cá thần có trước tranh thủy mặc cổ?
-
Biên nhận Chị Tiết nhận tiền.
-
Bí ẩn giếng Ngọc nghìn năm tuổi 29/03/2010 09:54 (GMT +7) Gần đây, dư luận xôn xao về chuyện “ba ông cá thần” tại giếng Ngọc ở Bắc Ninh. Trong khi người dân tứ xứ hiếu kỳ về chuyện ba ông cá thì với nhiều người dân ở đây, giếng Ngọc mới thực sự là một huyền thoại. Nằm trong quần thể đền Cùng, giếng Ngọc được xem như một vật báu trời ban dành riêng cho người dân vùng làng Diềm (Bắc Ninh). Không ai biết giếng Ngọc có tự bao giờ hay đã bao nhiêu tuổi, chỉ biết rằng bao lớp thế hệ làng Diềm sinh ra đều được nước giếng Ngọc dưỡng nuôi khôn lớn. Giếng nước ngọt nhất Kinh Bắc Theo sách “Văn hiến Kinh Bắc”, làng Diềm (thuộc xã Hòa Long, TP. Bắc Ninh) vốn là một làng Việt cổ nằm dưới chân hai dãy núi Kim Lĩnh (còn gọi là núi Thiếp) và Kim Sơn. Đây là nơi có đền thờ bà thủy tổ khai sinh ra môn nghệ thuật dân ca quan họ Bắc Ninh. Làng Diềm xưa nay không chỉ nổi tiếng xứ Kinh Bắc về hát quan họ cổ mà còn là nơi chứa đựng rất nhiều di tích, thắng cảnh hùng vĩ, lạ kỳ, có lịch sử lâu đời. Một trong những di tích đó là cụm di tích đền Cùng, giếng Ngọc nằm ở thôn Viêm Xá. Đền Cùng vốn là một ngôi đền có từ thời nhà Lý thờ “nhị nhân thần nữ” là hai nàng công chúa Tiên Dong (hoặc Tiên Dung) và Thủy Tiên, con của vua Lý Thánh Tông. Tương truyền, vào một đêm trời trong xanh gió mát, hoàng hậu đang nằm ngủ chợt thấy có ánh hào quang rọi sáng khắp nhà. Từ trong ánh hào quang ấy, có hai con cá chép vàng hiện ra xin được đầu thai làm người. Chẳng bao lâu sau đó, hoàng hậu có thai rồi sinh hạ được hai quý nữ, đặt tên là Ngọc Dong và Thủy Tiên. Hai nàng càng lớn càng xinh đẹp, lộng lẫy. Khi tới tuổi xuân sắc hai nàng không những nổi tiếng trong đám hồng quần về yểu điệu thục nữ mà còn vang truyền thiên hạ về tài trí của bậc quân tử. Khách phương xa mỗi lần đến đền Cùng đều rất ngạc nhiên trước vẻ kỳ bí của giếng Ngọc. Bấy giờ ở vùng núi Kim Lĩnh của làng Diềm còn hoang sơ, có nhiều thú dữ. Hai nàng liền xin phép vua cha cho về đây để diệt trừ thú dữ, giúp dân làng tránh tai họa. Sau này, khi vua cha tận dụng một hang động lớn dưới chân dãy núi Kim Lĩnh để làm “thủ khố ngân sơn” hai nàng liền tự nguyện xin được trông nom, quản lí kho quân lương này. Rồi nhằm ngày tiết Thanh minh (3/3 âm lịch) một năm nọ, hai nàng cùng hướng về kinh thành lạy ba lạy rồi khấn “chúng con xin mãi mãi ở lại chốn này để phù giúp dân lành” rồi cùng hóa. Dân làng tri ân công ơn hai nàng liền lập đền thờ ở ngay chính nền kho “thủ khố ngân sơn” dưới chân núi Kim Lĩnh và đặt tên đền là đền Cùng. Theo một số ngọc phả hiếm hoi còn sót lại trong làng trước đây thì khi dân làng lập đền thờ ở đây, trước đền đã có giếng Ngọc. Giếng lúc đó chưa rộng lớn và sâu như bây giờ nhưng nước ở đó đã rất trong, ngọt và mát nên dân làng Diềm vẫn thường hay dùng nước ở đây ăn uống. Trong dân gian còn truyền tụng rất nhiều huyền thoại về lai lịch, nguồn gốc của giếng Ngọc – chiếc giếng được dân làng Diềm tôn là “bầu sữa mẹ vĩ đại” của cả làng bao đời nay. Nhiều người cho rằng giếng Ngọc chính là hiện thân của hai nàng công chúa Ngọc Dong và Thủy Tiên. Tuy nhiên, đại đa số các cụ cao niên trong làng Diềm cho rằng đây không phải là một chứng cứ thuyết phục. Theo cụ Nguyễn Văn Lợi (còn gọi cụ Việt Linh) – Đại tá công an về hưu thì ông bà của cụ có truyền lại rằng: trước kia, dưới chân hai dãy núi Kim Lĩnh và Kim Sơn có một rừng lim cổ rất rậm rạp. Rừng lim cổ này chính là nơi trú ngụ của rất nhiều loại cầm thú, chim muông, trong đó có loài quạ rừng. Loài quạ rừng này vốn là loài chim ăn thịt nên rất háo nước. Sau những lần chén mồi no say chúng thường đi khắp nơi trong rừng lim để tìm nước uống. Một ngày chúng phát hiện ra một vũng nước sâu, có mạch nước ngầm chảy ra từ lòng núi Kim Lĩnh. Càng ngày các loại chim càng kéo nhau về đây uống nước, rỉa cánh nên hố nước mỗi lúc một rộng ra. Khi rừng lim bị đốn hạ gần hết thì dân làng mới phát hiện ra vũng nước này. Thấy nước trong, mát người dân trong làng lấy về dùng thì quả là nước ngọt và lành hơn so với những giếng họ tự đào. Lâu ngày, người làng Diềm từ già chí trẻ đều dùng nước này để uống và xem đó như là một nguồn nước thiên tạo. Sau này, họ mở rộng vũng nước này thành giếng và đặt tên là giếng Ngọc. Bao đời nay người làng Diềm vẫn dùng nước giếng Ngọc để ăn uống. Đến năm 1940 vẫn còn lại một cây lim cổ thụ duy nhất, rất to lớn thuộc họ mần tước, mọc ngay phía sau đền Cùng là dấu tích còn lại của rừng lim xưa. Bóng của cây lim này tỏa khắp cả khu đền Cùng giếng Ngọc. Nhưng đến năm 1945 do nhu cầu làm đường nên người ta đã đốn hạ cây lim này. Gần chết vẫn đòi uống nước giếng Cụ Nguyễn Văn Lợi còn cho hay, từ hồi còn là cậu bé 5 tuổi, cụ đã nhìn thấy giếng Ngọc trước đền Cùng. Ngay cả bà mẹ vợ của cụ Lợi, 103 tuổi (mới mất) cũng khẳng định cụ thấy giếng Ngọc từ khi còn rất bé. Chính cụ Lợi cũng đã từng dày công mày mò, tìm kiếm các sử liệu để lần ra lai lịch và niên đại của giếng Ngọc nhưng vẫn không thể nào xác định được. Giếng Ngọc hiện nay vẫn nằm nguyên ở vị trí cũ, nghĩa là ngay sát đền Cùng nhưng quy mô của giếng thì đã được mở rộng thành hình bán nguyệt, với diện tích tới 10m2. Từ mặt đất xuống lòng giếng có độ sâu tới 8m. Cũng theo cụ Nguyễn Ngọc Bích – Trưởng ban quản lý khu di tích đền Cùng giếng Ngọc thì xưa kia xung quanh giếng Ngọc được xây một dãy lan can bằng gốm sứ, song mấy trận lụt làm vỡ, nên được xây lại bằng gạch cho chắc chắn. Trong lòng giếng được kiến trúc hết sức đặc biệt với nhiều loại bậc đá, gỗ, gạch khác nhau. Từ mặt giếng xuống sát mép nước có 4 bậc đá và 3 bậc gạch được xây dựng từ hàng trăm năm qua. Những bậc thang cuối cùng tiếp giáp với mặt nước được làm bằng gỗ lim. Mỗi bậc thang gỗ lim có chiều dài 6m. Trải qua hàng trăm năm ngâm mình dưới nước song vẫn không có bậc nào bị mục ải hay thối rữa. Toàn bộ lòng giếng được là đá ong tự nhiên vây quanh. Giữa đáy giếng gồ lên một ụ đá như một pho tượng nhỏ điểm trang cho lòng giếng thêm vẻ kỳ bí, linh thiêng. Gần đáy giếng Ngọc có một cái hang nhỏ, hướng vào phía trong đền Cùng, sâu khoảng 2m, là nơi trú ngụ của ba ông “cá thần” mỗi lúc có lụt lội. “Một điều hiếm thấy là dù hạn hán giếng vẫn không bao giờ cạn nước, dù mưa lụt nước giếng cũng không tràn” – cụ Bích cho biết. Giếng trong đến độ đứng trên mặt đất vẫn nhìn thấy đáy giếng. Nhiều cụ cao niên của làng Diềm khẳng định rằng, từ xa xưa, dân làng Viêm Xá có được giọng hát “vang rền nền nảy” với độ tinh xảo bậc nhất xứ Kinh Bắc chính là nhờ được dung dưỡng từ nguồn nước trong lành, tươi mát của giếng Ngọc. Người dân làng Diềm mê nước giếng Ngọc đến nỗi họ không chịu uống bất kỳ loại nước nào khác mặc dù có nước máy hẳn hòi. Thậm chí trước đây, người ta còn múc nước ở đây về uống mà không đun vì sợ đun sẽ mất đi vị ngọt của nước. “Bà mẹ vợ tôi sống đến 103 tuổi, chị dâu tôi đến 86 tuổi mới mất, suốt cả đời chỉ uống mỗi nước giếng Ngọc. Cho đến khi sắp mất rồi vẫn nhất định đòi con cháu gánh nước giếng về đổ vào chum để uống và tắm rửa mặc dù trong nhà có nước máy hẳn hoi. Không chỉ có mẹ vợ và chị dâu tôi mới thế mà đa số các cụ làng Diềm cũng đều thế hết” – cụ Lợi cho hay. Do nước giếng Ngọc được hình thành từ những mạch nước ngầm chảy ra từ núi đá Kim Lĩnh lại được lắng qua hàng chục lớp đá ong tự nhiên nên nước rất trong. Con gái làng Diềm dùng nước giếng Ngọc để gội đầu thì thấy tóc rất tơi, mềm mượt... chẳng khác gì một loại dầu gội đầu thiên nhiên. Còn đàn ông mỗi khi dùng nước giếng Ngọc để pha trà thì bao giờ nước trà cũng thơm, xanh, ngọt hơn hẳn khi pha với các thứ nước khác. Bởi thế người dân làng Diềm cho đến nay vẫn hay truyền miệng nhau câu ca: “Nước giếng Ngọc, trà Tân Cương/ Như chàng Kim Trọng đẹp duyên Thúy Kiều”. Lạ kỳ trước sự khác biệt của nước giếng Ngọc nên có thời người ta còn đồn nhau rằng nước giếng Ngọc là thuốc tiên có thể chữa bách bệnh. Tuy nhiên, cụ Lợi cho rằng: “Người ta cho nước giếng Ngọc là nước thần kỳ, nước thiên tạo nên quan niệm uống nước giếng Ngọc có thể chữa được bách bệnh là chuyện khó tin. Nhưng một điều có thể tin đó là người làng Diềm sống rất thọ cũng có thể chính nhờ uống nước từ giếng Ngọc”. Còn nữa... Theo Hà Tùng Long Báo Giađinh&xahoi.
-
http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...amp;#entry74775 Đã trao tặng đến Chị Cao thị Tiết trong Topic "Tha con cầu thực" 2,000,000 đ (hai triệu đồng) vào ngày 27/3/2010. Quỹ hiện có: 4,989,000 đ - 2,000,000 đ = 2,989,000 đ (hai triệu chín trăm tám mươi chín ngàn đồng).
-
Google Maps cung cấp thông tin sai về lãnh thổ Việt Nam Cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang), Tân Thanh (Lạng Sơn) hay một nửa thành phố Lào Cai nằm bên kia biên giới Trung Quốc... là những sai sót được phát hiện trên ứng dụng bản đồ miễn phí của Google. Theo ông Đỗ Viết Thi, Phó giám đốc Trung tâm biên giới và địa giới, truy cập ứng dụng Google Maps, phần lãnh thổ Việt Nam có diện tích ước tính hàng nghìn kilomet vuông đã bị vẽ nằm bên biên giới Trung Quốc. Sự sai lệch này dễ dàng phát hiện bằng mắt thường tại tuyến biên giới phía Bắc từ Điện Biên cho đến thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh). "Rõ nhất là tại 2 thành phố Lào Cai và Móng Cái, đường biên bị vẽ sai, lấn sâu vào địa phận Việt Nam", ông Thi nói. Trên ứng dụng Google Maps, đường biên giới (đường màu đen, ảnh trên) đoạn qua Lào Cai chia đôi thành phố này. Trong khi đó, so sánh hình thế các con sông (màu xanh, ảnh trên) ở lớp bản đồ (map) với ảnh vệ tinh (satellite) bên dưới dễ nhận thấy có sự sai lệch rõ ràng . Ảnh chụp màn hình. Theo vị Phó giám đốc này, từ xưa đường biên giới lịch sử Việt - Trung ở 2 khu vực này dựa theo địa hình, đi theo sông. Bản đồ của 2 nước cũng đều thể hiện giống nhau và không có gì thay đổi. Đường biên đoạn này có từ công ước Pháp - Thanh (cuối thế kỷ 19). Ở Lào Cai, đường biên đi theo sông Hồng, sông Nậm Thi, sông Ba Kết. Còn ở Móng Cái, biên giới theo sông Ka Long, Bắc Luân. "Đường biên này hơn một thế kỷ nay vẫn thế. Đây là nguồn tài liệu chuẩn xác và có giá trị pháp lý, người vẽ bản đồ có trách nhiệm, không ai không biết điều này", ông Thi nói. Đường biên giới Việt - Trung trên ứng dụng Google Maps cũng đẩy hàng loạt cửa khẩu của Việt Nam như Tân Thanh, Thanh Thủy... hàng kilomet sang bên kia biên giới. Không chỉ sai lệch về đường biên, ngay ở 2 lớp bản đồ và ảnh vệ tinh của chính ứng dụng này cũng không trùng khớp. Dễ nhận thấy nhất là hình thế các con sông qua địa phận Lào Cai và Móng Cái. Ông Thi cũng nhận định, sai lệch có trên ứng dụng Google Maps có thể do những người làm bản đồ đã sử dụng bản đồ cỡ nhỏ (tỷ lệ khoảng 1:20.000.000) để phóng lớn. Ngoài ra, ứng dụng này còn nhằm để thu thập thông tin và chỉ mang tính chất tham khảo. "Với những sai lệch rõ ràng như vậy, thì sản phẩm này có đáng tin cậy? Tôi khẳng định Google Maps không có giá trị pháp lý gì", ông Thi nói. Tuy nhiên theo ông Thi, bản đồ này có thể dẫn đến hiểu lầm nhất là những người nước ngoài không được tiếp cận đầy đủ thông tin về biên giới, lãnh thổ Việt Nam. Hiện Việt Nam - Trung Quốc đã hoàn thành việc phân định cắm mốc biên giới trên bộ. Ngày 18/11/2009, Chính phủ 2 nước cũng đã ký nghị định thư phân giới cắm mốc. Theo lộ trình, sau ngày 30/5, nghị định thư sẽ có hiệu lực và được nộp lên Liên Hợp Quốc. Ông Đặng Thái Sơn, Trưởng phòng biên giới phía bắc (Trung tâm Biên giới và địa giới) cho rằng: "Google Maps là một sản phẩm trên mạng, không chịu sự kiểm soát của quốc gia nào nên không có giá trị gì trong việc giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ. Tuy nhiên, với tính chất phổ cập của Internet, chúng ta cần lưu ý để có những hiểu biết chính xác".Nguyễn Hưng vnexpress.net
-
</IMG> Tự che bằng dù của mình. Có một thanh niên đứng tránh mưa dưới mái hiên, nhìn thấy một vị sư đang cầm dù đi qua, bèn gọi: - Thiền sư! Cứu độ chúng sanh một tí đi! Dẫn tôi đi một đoạn có được không… Nhà sư quay lại: - Tôi đang đi trong mưa, ông đang đứng dưới mái hiên, mà dưới mái hiên không có mưa, tôi cần gì giúp ông… Thanh niên lập tức rời khỏi mái hiên, chạy ra đứng dưới mưa rồi nói: - Bây giờ tôi cũng đang đứng trong mưa, ông giúp tôi chứ… Sư đáp: - Tôi đang ở trong mưa, ông cũng đang ở trong mưa. Tôi không bị ướt, vì tôi có dù. Ông bị ướt vì ông không có dù. Cho nên không phải tôi giúp ông mà cái dù giúp ông. Nếu ông muốn được giúp, không cần phải tìm tôi, mà hãy tự đi tìm cái dù. Sư nói xong đi thẳng về phía trước… (Theo Hoa Linh thoại)
-
BÀI HỌC ĐẠO LÝ: Nhà sư trong câu chuyện thoạt nhìn có vẻ khó tính và lạnh lùng, nhưng kỳ thực lòng ông quá đỗi từ bi. Giúp người thì rất cần, tuy nhiên giúp như thế nào, có giá trị tức thời hay dài lâu… mới là chuyện đáng bàn. Người ta đã nói rất nhiều về chuyện giúp người thì nên cho "cơm" hay "cần câu cơm". Rõ ràng thì về lâu về dài và căn bản nhất vẫn là cho "cần câu cơm", tức là trao một phương tiện làm kế sinh nhai để họ tự vực dậy cuộc sống của mình. Bởi lẽ miệng ăn thì núi lở, sự giúp đỡ vật chất từ bên ngoài cũng có giới hạn, nếu tự thân không vận động để vươn lên thì khó cải thiện đói nghèo. Bất cứ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài cũng có tính giai đoạn và tạm thời. Không ai có thể giúp ta mãi mãi, cho dù đó là những người vô cùng thân thiết và rất mực yêu thương. Nói như nhà sư trong câu chuyện, không ai có thể che dù cho anh hoài mà vấn đề là anh phải sắm dù để tự che lấy. Vì thế, phải thay đổi tư duy ngay từ lúc này, tìm cách sắm dù cho riêng mình mới là điều quan yếu, chứ không phải xin người khác che giúp. Chiếc dù của đời mình là tất cả những hành trang cần yếu để bước vào đời như sức khỏe, tri thức, đạo đức và sự khéo léo trong quan hệ, ứng xử v.v… Mưa gió, bất trắc trên đường đời có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nên cần phải tạo dựng chiếc dù để tự che lấy mình trong mọi hoàn cảnh. Dù của mình càng to, bền chắc thì càng dễ dàng bước đến thành công. Về một phương diện khác, nhà sư muốn trao truyền thông điệp về sự thong dong trong mưa bão cuộc đời của mình, bình an nhờ có chiếc dù Chánh pháp. Trong nhiều nỗi biến động và nhiêu khê của cuộc đời, người biết nương tựa Chánh pháp có thể bình an, tự tại. Có điều, để tìm về bến bờ giải thoát, an vui ấy thì "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi", hãy tìm trong kho tàng Chánh pháp một pháp tu để an trú, làm chiếc dù cho riêng mình thì mới có thể thong dong, tự tại được. Cũng như hành trình cuộc sống, hành trình thăng hoa tâm linh cũng đòi hỏi sự nỗ lực cao độ, không hề dựa dẫm hay ỷ lại vào người khác, cho dù đó là các bậc thầy, thì mới có thể tiến xa và thành công viên mãn. TÂM NGUYỄN
-
Vâng Wild đã hướng dẫn Chị Tiết cung cấp các hồ sơ theo yêu cầu và cũng đã giới thiệu Link của Diễn đàn đến Phóng viên phụ trách, họ đã cám ơn và sẽ sử dụng ảnh của chúng ta khi cần đăng bài.
-
Tinh thần tu tập nhìn từ bài sám hối phát nguyện Sám hối phát nguyện là một bài sám quen thuộc bậc nhất mà hầu hết những ai đi chùa cũng đều nằm lòng. Bài viết này giải thích sơ lược ý nghĩa và gợi ý một vài tinh thần tu tập được ẩn chứa trong bài sám ấy. Hy vọng việc làm này sẽ giúp quý Phật tử nhận thức rõ ràng hơn ý nghĩa của bài sám mỗi khi thành kính tụng niệm trong các khóa lễ hàng ngày. Là một thể loại văn học đặc trưng của Phật giáo, sám được sử dụng trong các khóa lễ nhằm mục đích biểu đạt tâm nguyện của những người con Phật trước di ảnh hoặc hình tượng chư Phật, Bồ tát. Đặc biệt, người Phật tử Việt Nam đã sáng tác những bài sám mang ý nghĩa đặc trưng cho từng khóa lễ kỷ niệm quan trọng trong năm. Chẳng hạn, lễ Phật đản không thể thiếu bài sám Khánh đản, lễ Vu lan luôn luôn tụng bài sám Vu lan, lễ Thành đạo cũng có bài sám Thành đạo. Bên cạnh đó, các bài sám bao giờ cũng gắn liền với mục đích của khóa lễ. Lễ cầu an thì tụng sám cầu an, lễ cầu siêu phải tụng sám cầu siêu. Do được cấu thành từ những ngôn từ chọn lọc, xếp theo vần điệu giúp dễ thuộc, dễ nhớ, các bài sám là những tâm ca gởi gắm tình cảm tôn giáo sâu lắng của người Phật tử. Nếu các bài sám Hán Việt thường được viết theo phong cách biền ngẫu hoặc tứ tự (bốn chữ một câu, một vế); thì những bài sám thuần Việt xuất hiện nhiều trong thể thơ tứ ngôn và ngũ ngôn trường thiên hoặc lục bát. Bài Sám hối phát nguyện được viết bằng thể thơ tứ tuyệt phá cách trường thiên. Có thể phân bài sám thành ba đoạn. Mỗi đoạn mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng cả ba đều hỗ trợ cho ý nghĩa toàn bài: thể hiện lòng thành sám hối tội lỗi của mình đã gây ra, đồng thời phát nguyện tu tập trước Tam bảo. Như vậy, chỉ có hai nội dung chủ yếu của bài sám: Sám hối lỗi lầm và Phát nguyện tu hành. Toàn bộ bài sám gồm 30 câu, hầu hết các câu đều 4 chữ, 1 câu 5 chữ và 1 câu 7 chữ. Đoạn 1 gồm 6 câu đầu, mang ý nghĩa quy kính Tam bảo. Đoạn 2 từ câu 7 đến câu 25 là nội dung chính của bài sám, thể hiện tấm lòng thành sám hối và phát nguyện tu tập theo Phật pháp. Đoạn 3 gồm 5 câu cuối, mang âm hưởng hồi hướng và chia sẻ công đức. Đoạn 1: Quy kính Tam bảo Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Thập phương chư Phật, Vô thượng Phật pháp, Cùng Thánh Hiền Tăng. Hai chữ kính lạy thể hiện ý nghĩa quy kính của mỗi người con Phật. Hành động chắp tay kính lạy vừa thể hiện tấm lòng tôn kính, quy y Tam bảo, vừa nhằm mục đích chuyển hóa ý thức hữu ngã. Lục tổ Huệ Năng từng dạy: “Ô lễ bổn chiết mạn tràng, đầu hề bất chí địa, Hữu ngã tội tức sanh, vong công phước vô tỉ”. Ý nghĩa sâu xa của hành vi lễ lạy các bậc tôn kính là bẻ gãy ngọn cờ kiêu mạn. Do đó, khi lạy Phật, chúng ta cần cúi đầu sát đất để thể hiện trọn vẹn ý nghĩa lời bài sám. Khi ý thức hữu ngã có mặt, ngay lúc đó, tội lỗi đã hiện hữu. Cũng y như thế, bao lâu ý thức vô ngã xuất hiện, thì bấy giờ công đức mới hiển lộ. Trước khi muốn bộc bạch sám hối lỗi lầm, chúng ta cần đảnh lễ Tam bảo. Muốn đảnh lễ Tam bảo, phải ý thức chuyển hóa tư duy hữu ngã, đặc biệt phải giảm trừ tính kiêu mạn. Đó là tinh thần tu tập đầu tiên của bài sám. Trong khi đệ tử là chủ thể sám hối và phát nguyện (câu 1); thì Tam bảo là đối tượng lắng nghe và chứng minh hành động của chúng ta (câu 2-6). Tam bảo gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Trong bài sám, Phật bảo gồm Phật Thích Ca và Phật Di Đà (câu 3,4); Pháp bảo là Vô thượng Phật pháp (câu 5) và Tăng bảo gồm Thánh Hiền Tăng (câu 6). Số lượng chư Phật rất nhiều và ở khắp 10 phương, nhưng ở đây chỉ đơn cử hai vị tiêu biểu và liên hệ nhất với chúng sanh trong cõi Sa bà này mà thôi. Đó là Phật Thích Ca - vị Phật Bổn Sư của chúng ta, và Phật A Di Đà - vị Phật giáo chủ thế giới Cực lạc ở phương Tây. Trong hai vị Phật này, Phật Thích Ca chỉ dạy giáo pháp để chúng ta tu hành trong đời hiện tại; Phật Di Đà tiếp dẫn chúng ta ở đời vị lai. Đối với Phật tử Việt Nam, đây là hai vị Phật gần gũi nhất nên phải được nêu ra. Giới thiệu Đức Thích Ca trước, nhằm gián tiếp khuyên chúng ta thực hành Nhẫn nhục; nêu danh ngài Di Đà sau, để nhắc nhở chúng ta tu tập pháp môn Tịnh độ. Đó là tinh thần tu tập thứ hai mà bài sám muốn gởi gắm. Sau khi đảnh lễ Phật bảo, kế tiếp là ca ngợi Pháp bảo: vô thượng Phật pháp. Không gì quý báu hơn những giáo lý Đức Phật đã dạy nên gọi là “vô thượng” - không có gì hơn nữa, tuyệt đỉnh. Lý do vì sao Phật pháp vô thượng thì ngay trong bài sám đã nêu. Đó là vì, Phật pháp rất nhiệm mầu (pháp Phật nhiệm mầu), có công năng khai mở kho giác tánh sáng suốt (minh tâm kiến tánh), phát huy trí tuệ trong sáng và sắc bén để chuyển hóa phiền não (trí tuệ sáng suốt), giúp chúng sanh thoát khỏi luân hồi (để mau ra khỏi luân hồi) và chứng đắc các loại thần thông để cứu độ người khác (thần thông tự tại). Pháp bảo bao gồm ba tạng kinh luật luận, thâu tóm trong Tứ diệu đế và không ngoài Giới - Định - Tuệ. Ca ngợi Pháp bảo không chỉ nhắc nhở chúng ta siêng năng học hỏi kinh luật luận, mà còn nỗ lực thực hành những pháp môn tu tập được Đức Phật chỉ dạy trong đó. Thực hành Chánh pháp mới là sự ca ngợi Pháp bảo chơn chánh và ý nghĩa nhất. Chỉ khi nào thực hành Pháp bảo mới có thể nhận thức trọn vẹn sự vi diệu, nếm trải mùi vị nhiệm mầu và tính chất Vô thượng của Phật pháp. Không thực hành Pháp bảo mà chỉ ca ngợi suông, đó không phải là hành động sám hối phát nguyện của người Phật tử. Đây là tinh thần tu tập thứ ba chúng ta cần ghi nhận. Đức Phật đã nhập diệt gần 3.000 năm, kho tàng Chánh pháp thiên kinh vạn quyển, bao la rộng lớn, Phật tử tại gia thế duyên ràng buộc, làm sao biết rõ để thực hành? Ai đảm trách nhiệm vụ đại diện Phật bảo thực hành Pháp bảo giữa trần gian vàng thau lẫn lộn này? Chư Tăng gánh vác trách nhiệm cao quý ấy: đại diện Phật tuyên dương Chánh pháp. Vì thế, sau khi ca ngợi Pháp bảo, phải tiếp tục xưng tán Tăng bảo (cùng Thánh Hiền Tăng). Tuy lời sám chỉ nhắc đến Thánh tăng và Hiền tăng nhưng trong ấy vẫn bao gồm Phàm tăng. Cần biết rằng, Tăng ở đây chỉ đoàn thể Tăng già, bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng, chứ không phải cá nhân một vị tu sĩ. Phật tử tại gia đảnh lễ Tăng không chỉ thể hiện lòng tôn kính bậc thầy trao truyền giới thân huệ mạng cho mình, mà còn đánh thức ước muốn xuất ly gia đình thế tục đầy phiền não để gia nhập nếp sống xuất gia thanh tịnh. Đây là tinh thần tu tập thứ tư mà mỗi Phật tử phải luôn ôm ấp trong lòng. Sau khi đảnh lễ Tam bảo - nơi nương tựa vững chắc trong biển khổ luân hồi - việc chính của chúng ta là sám hối và phát nguyện. Do đó, đoạn 2 gồm hai nội dung chủ yếu: Bộc bạch sám hối (câu 7-13) và Chí thành phát nguyện (14-25). Đoạn 2: Sám hối và phát nguyện A. Bộc bạch sám hối: Đệ tử lâu đời lâu kiếp, Nghiệp chướng nặng nề, Tham, giận, kiêu căng, Si mê lầm lạc, Ngày nay nhờ Phật, Biết sự lỗi lầm, Thành tâm sám hối. Kinh Thủy Sám ghi rằng: Sám hối vốn là từ bỏ quá khứ, tu tỉnh tương lai, triệt hạ điều ác, xây dựng điều lành. Do vậy, sám hối là sanh tâm hổ thẹn với những tội lỗi đã gây ra cho bản thân và tha nhân trong quá khứ; đồng thời tẩy rửa lòng dạ, hiện tại quyết không làm lại những lỗi lầm đã phạm. Đối với phàm phu, hình thái tội lỗi được gây là từ rất lâu, tuy là vô lượng (lâu đời lâu kiếp) nhưng không ngoài ba thứ là phiền não chướng, ác nghiệp chướng và khổ báo chướng. Vì chúng làm trở ngại tuệ giác của các vị Thánh giả, ngăn cản quả báo tốt đẹp ở nhân gian nên gọi là ba chướng. Chính bất thiện nghiệp là nguyên nhân gây ra những bất hạnh, những nghịch cảnh trong đời hiện tại nên gọi nghiệp chướng nặng nê. Nghiệp chướng nhiều không những về số lượng; mà còn nghiêm trọng về tính chất. Câu 8, 9, và 10 bao hàm tất cả phiền não, ác nghiệp và khổ báo chướng. Tham lam, sân giận, ngã mạn, ngu si (tham, giận, kiêu căng, si mê) - những phiền não căn bản. Thân bất tịnh cho là sạch sẽ, cuộc đời vô thường cho là thường, thỏa mãn cảm thọ giác quan là khổ mà vọng tưởng cho là vui, đó là những bằng chứng của lầm lạc - nguyên nhân tạo ra quả báo đau khổ. Nhờ đâu chúng ta biết sát sanh là tạo tội, trộm cắp là gây ác nghiệp? Nhờ Phật, nhờ những giáo lý chư Phật chư Tổ đã dạy trong kinh luật luận. Thế là, nhờ Phật mà chúng ta biết cải vãng tu lai, từ bỏ chỗ tối, bước ra chỗ sáng, nên nói ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm. Nhờ Phật chỉ là cách nói khiêm tốn. Thật ra, phải nói là nhờ chính chúng ta. Nhờ chúng ta siêng năng học hỏi và thực hành Phật pháp nên nhận thức được thiện-ác, khổ-lạc, sáng-tối, ràng buộc-giải thoát. Biết sự lỗi lầm đồng nghĩa với việc thấy rõ những tội lỗi mình đã tạo ra do phiền não, ác nghiệp và khổ báo. Thấy rõ rằng ta đang có rất nhiều hạn chế trong tâm thức và hành động. Tâm thì tham lam, cố chấp; hành động thì vội vàng, khinh suất. Khi quỳ trước đài sen sám hối, chúng ta phải kiểm điểm lại những hành vi bất thiện mà chúng ta đã gây ra. Kiểm điểm để nhận thức rõ nguyên nhân và động cơ nào, bằng hành động gì, ở đâu và lúc nào, khiến ta làm những hành động bất thiện. Đây mới gọi là thành tâm sám hối. Đó là tinh thần tu tập thứ năm. Nếu không có sự phát nguyện sau đây thì sám hối chỉ là sự hồi tưởng và gặm nhấm ác nghiệp. Nhờ lòng chí thành phát nguyện, chúng ta mới có thể sửa chữa lỗi lầm, thay đổi tập quán xấu, bỏ ác làm lành, tu thân hành thiện, chuyển hóa khổ báo. Do đó, phát nguyện rất quan trọng trong quá trình sám hối. B. Chí thành phát nguyện: Thề tránh điều dữ, Nguyện làm việc lành, Ngưỡng trông ơn Phật, Từ bi gia hộ: Thân không tật bệnh, Tâm không phiền não, Hàng ngày an vui tu tập. Pháp Phật nhiệm mầu, Để mau ra khỏi luân hồi, Minh tâm kiến tánh, Trí tuệ sáng suốt, Thần thông tự tại. Hai chữ thề và nguyện thể hiện quyết tâm sám hối. Quyết tâm ấy phải được nuôi dưỡng, un đúc mạnh mẽ không chỉ khi đối diện với Tam bảo, mà cần hoạt dụng thường trực tại mọi hành vi sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Một số người chỉ mạnh dạn thề nguyện khi hành lễ, nhưng khi ra khỏi chùa, họ liền quên ngay. Họ vẫn sống theo dòng đời thế tục với nhiều mưu toan, giành giật. Các Phật tử phải lưu ý điều này, vì ở đó tiềm ẩn tinh thần tu tập thứ sáu của bài sám: nuôi dưỡng thề nguyện. Thề và nguyện không chỉ bằng lời nói, mà phải bằng hành động. Nhớ lời thề để biết dừng tay đúng lúc khi tâm nghĩ ác; không quên lời nguyện để tích cực hành thiện mọi lúc mọi nơi. Chí thành phát nguyện chỉ có hai việc nhưng hành trì suốt đời không hết: bỏ ác và làm lành (tránh điều dữ, làm việc lành). Chư Phật không dạy gì ngoài hai nội dung ấy: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo. Từ bỏ tham giận kiêu căng, si mê là tránh điều dữ; thực tập buông xả, từ bi, khiêm nhường, trí tuệ là làm việc lành. Không vi phạm những giới luật Phật chế là tránh dữ, nỗ lực thực hành thập thiện là làm lành. Đây là tinh thần tu tập thứ bảy, tinh thần nổi bật nhất của bài sám. Nhờ sự bỏ ác làm lành mà chúng ta chuyển hóa được nghiệp chướng nặng nê trở thành nhẹ nhàng, đền đáp công ơn chư Phật và mới mong được sự gia hộ của Long thần Hộ pháp (ngưỡng trông ơn Phật, từ bi gia hô). Kết quả tất yếu của sự tránh dữ và làm lành là mang lại đời sống hạnh phúc cả về thể chất lẫn tinh thần (thân không bệnh tật, tâm không phiền não, hàng ngày an vui tu tập). Đừng chờ đợi sự gia hộ của chư Phật khi chúng ta cố tình làm ác. Lúc làm thiện, chính chúng ta đã giúp chúng ta. Do đó, chính chúng ta gia hộ cho chúng ta, chính luật nhân quả hộ trì chúng ta. Miệng cầu Phật phù hộ, tay vẫn cầm dao sát sanh, đừng than trách khổ báo đoanh vây, chướng duyên tràn đầy. Hai câu thứ 18, 19 chỉ ra mối liên hệ giữa thân và tâm. Thân khỏe mạnh thì tinh thần mới tỉnh táo, tu hành mới hiệu quả. Thân tật bệnh vì làm nghiệp ác. Mong ước thân khỏe mạnh (không tật bệnh) để thường vun bồi phước đức bằng cách bố thí cúng dường. Tâm phiền não vì chưa từ bỏ tham lam, sân hận, kiêu căng, chấp ngã. Cầu nguyện tâm an lạc (không phiền não) để mài giũa gươm bén trí tuệ thông qua thiền định quán tưởng. Tu hành phải được thực hiện cả thân và tâm, tư tưởng và hành động, lời nói đến việc làm. Đó là tinh thần tu tập thứ tám. Hàng ngày thực hành lời Phật dạy, chúng ta mới thể nghiệm sự nhiệm mầu của Phật pháp (Pháp Phật nhiệm mầu). Ý nghĩa sâu xa, lợi ích thiết thực và tác dụng cơ bản của sự nhiệm mầu ấy được liệt kê trong 4 câu tiếp theo, câu 22-25 (mau ra khỏi luân hồi, minh tâm kiến tánh, trí tuệ sáng suốt, thần thông tự tại). Ra khỏi luân hồi là nội tâm triệt để không còn tham lam, sân hận, si mê - tam độc. Minh tâm kiến tánh, dụng ngữ Thiền tông, để thấy rõ chúng ta là Phật tương lai. Trí tuệ sáng suốt mới có thể hủy diệt tận gốc mọi thứ phiền não. Thần thông tự tại là phương tiện hiệu quả để hòa quang đồng trần, cứu nhân độ thế. Mục đích cuộc đời tu hành của chúng ta nằm trọn trong bốn câu ấy. Chuyển hóa nội tâm, phát huy trí tuệ, đoạn trừ phiền não, thoát ly ba cõi, đó là những việc cần làm, và làm được, của người Phật tử. Toàn bộ quá trình tu tập Phật giáo gói gọn trong tinh thần tu tập thứ chín này. - Hàng ngày an vui tu tập là tự lợi. Khi bản thân đã được tắm mát trong vị ngọt Phật pháp rồi, người tu hành biết chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người. Đó là phương pháp hồi hướng mang tính chất lợi tha, được đúc kết trong đoạn 3 sau đây: Đoạn 3: Hồi hướng công đức Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng, Cha mẹ anh em, Thân bằng quyến thuộc, Cùng tất cả chúng sinh, Đồng thành Phật đạo. Cứu độ nghĩa là hồi hướng, chia sẻ những phương pháp tu tập mang đến an lạc mà mình đã thực hành để giúp người khác vơi bớt khổ đau. Chỉ khi nào sở hữu niềm vui bên trong, chúng ta mới có thể cứu độ tha nhân. Do đó, cứu đô (cứu giúp và hóa độ) là giúp đỡ, hỗ trợ, tư vấn, gợi mở, hướng dẫn. Quý vị Tăng Ni chia sẻ hiểu biết Phật pháp đến các Phật tử; thầy gợi mở cách thức hóa giải sân hận thù oán cho trò; cha hướng dẫn phương pháp tu tập cho con, đó gọi là cứu độ. Cứu độ gần thì cha mẹ, anh em, bà con, thầy bạn; cứu độ xa thì mọi loài quanh ta, hết thảy chúng sanh. Khi cứu độ được hiểu là hồi hướng, thì đối tượng cứu độ không chỉ có người sống mà bao hàm cả người đã khuất. Đệ tử tu hành thanh tịnh để tiếp nối chí hướng của thầy, con cái thiết lập trai đàn hồi hướng công đức cho cha mẹ, bà con quá vãng, đó cũng gọi là cứu độ. Cứu độ gần/dễ/trên/sống trước; xa/khó/dưới/chết sau. Ở đây toát lên tinh thần tu tập thứ mười mà bài sám giới thiệu: hồi hướng công đức và lợi tha. Các bậc tôn trưởng là cha mẹ, thầy tổ, những người đáng tôn kính và lớn tuổi hơn hành giả. Tất cả chúng sanh gồm các loài hữu tình vô tình, cùng loài khác loài (loài người, loài vật). Nói cứu độ tất cả chúng sanh nhằm khuyến khích chúng ta mở rộng cõi lòng vô cùng trong thời gian, vô tận với không gian để tự giác, giác tha. Thành Phật đạo nghĩa là vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, tâm đã minh, tánh đã kiến, trí cực kỳ sáng suốt, tự tại tuyệt đối với tâm, tự tại với cảnh, tự tại với các pháp. Thành Phật đạo - tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, chỉ cách nói khác để nhắc lại mục đích tu hành đã được nêu trong 4 câu từ 22-25 mà thôi. Tội từ tâm khởi thì đem tâm sám. Khi tâm thanh tịnh thì tội ấy tiêu tan. Do đó, sám hối chân thật là phơi trải tim gan, bộc bạch sám hối tự đáy lòng (tự tánh trung sám hối - chữ của Lục tổ Huệ Năng). Tội do nhân duyên phát sinh (tham, sân, si) thì cũng do nhân duyên (sám hối phát nguyện và tu thân hành thiện) mà tiêu diệt. Tội diệt thì phước sanh, căn lành tăng trưởng, nghiệp chướng tiêu trừ, tu hành thuận lợi, mau chóng giác ngộ. Bài sám tuy chỉ 30 câu, nhưng ẩn chứa không ít tinh thần tu tập. Trong đó, căn bản là tránh điều dữ và làm việc lành (tinh thần thứ bảy). Mong rằng, mỗi lần quỳ trước đài sen và chí thành ngân khúc tâm ca, hòa theo tiếng mõ trầm bổng du dương, chúng ta hãy lắng đọng tâm tư, quán chiếu bản thân mình. Quán chiếu để nỗ lực từ bỏ việc ác quá khứ, khắc sâu thêm lời thệ nguyện đã phát và dũng mãnh thực hành thiện nghiệp trong hiện tại, theo một số tinh thần tu tập được gợi mở trong bài Sám hối phát nguyện này. Thích Chánh Trí ( Nguyệt San Giác Ngộ số 168)
-
Đức Pháp Vương: Hãy chuyển hóa oán hận thành yêu thương! "Tôi khuyên người VN quay trở lại với đời sống tâm linh, thực hành chuyển hóa những giận hờn, oán hận thành yêu thương, thiện hạnh" - Đức Pháp Vương Gyalwang Druk.Việt Nam - nơi con người biết hướng về tâm linh Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Hôm nay là một ngày của hòa bình, ân phúc, của điều gì đó thật kì diệu, khi Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII có mặt tại đây, cùng chia sẻ với độc giả VietNamNet về những điều yêu thương và tốt đẹp. Trong nhiều thư của độc giả gửi về tòa soạn, có rất nhiều người ca ngợi, tỏ lòng tôn kính đối với Ngài. Ngay cả những người không theo một tôn giáo nào, đã tỏ lòng tôn kính và bày tỏ tới Ngài những nồi niềm dày vò trong họ. Có thể, đây là lần đầu tiên họ bày tỏ - trước Ngài, mà có lẽ trước đó họ có thể cũng chưa từng bày tỏ với chính người thân của mình. Và họ mong rằng, những lời chỉ dẫn của Ngài sẽ như một nguồn sáng, lời chia sẻ của người bạn, người thầy dành cho họ. Thay mặt bạn đọc, tôi xin bày tỏ lòng tôn kính đối với Ngài và cảm ơn sự thăm viếng của Ngài. Đức Pháp Vương cùng tăng đoàn và các nhà báo VietNamNet làm lễ trước giờ phỏng vấn Câu hỏi đầu tiên, xin được hỏi Đức Pháp Vương: Đây là lần thứ 3 Ngài đến VN - mảnh đất vốn có quá nhiều đau khổ và chiến tranh, nhưng cũng là mảnh đất của những con người luôn luôn mang khát vọng hòa bình lớn lao, và họ hi sinh tất cả cho hòa bình của dân tộc họ và của con người nói chung trên thế gian. Vậy nhân duyên nào làm cho bước chân của Ngài tới nơi đây? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Xin chân thành cảm ơn VietNamNet đã mời chúng tôi đến đây, để chia sẻ những tình cảm, tri kiến đến với mọi người. Đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều khổ đau, thiệt thòi, nhưng nơi đây, tâm người VN vô cùng khát khao hòa bình, chân hạnh phúc. Trong tâm tư của tôi, có những hình ảnh rất đẹp về người VN. Nơi đây, con người rất để tâm đến vấn đề tâm linh. Và những người lãnh đạo cũng quan tâm đến sự phát triển cả về xã hội và tâm linh. Dù đất nước này đã trải qua nhiều thăng trầm, nhưng chiến tranh đã lùi xa, VN đang trong giai đoạn phát triển. Với quan kiến của tôi, VN sẽ phát triển cả hai chiều về xã hội và tâm linh. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Nhiều bạn đọc của VietNamNet đang nghĩ về đất nước mình, và tin vào những điều mà Đức Pháp Vương đã nhìn thấy qua tuệ nhãn của mình. Vậy trong khoảng thời gian đầy đổi thay giữa lần thứ nhất, thứ hai, và thứ ba đến VN, Ngài có thể nói cho những người đang ở trên mảnh đất này, rằng những điều kì diệu gì đang hiện ra? Và với một đòi hỏi có vẻ thô thiển của tôi, xin Ngài có thể mô tả sự kỳ diệu nào đó mà Ngài tận chứng trên mảnh đất này? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Từ lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba đến đây, tôi nhận thấy người VN đã có phương cách tâm linh hướng cuộc đời mình đi cho có ý nghĩa hơn. Tôi đã nhìn thấy niềm hạnh phúc của họ qua những nụ cười hoan hỉ khi được lắng nghe giáo pháp, những ánh mắt khát khao phát triển tâm linh. Về cuộc sống bên ngoài, tôi cũng thấy sự phát triển xã hội, cuộc sống tốt hơn, no đủ hơn. Phật giáo đã được truyền vào VN hơn 2000 năm. Như vậy, nguồn gốc của người VN là Phật giáo. Người VN nên quay trở lại tìm cội nguồn của chính mình. Niềm vui của tôi là được thấy mọi người cười trong hạnh phúc, tri ân, phát triển tâm linh của mình. "Không có ai mang khổ đau cho mình ngoài chính mình" Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một độc giả đặc biệt gửi thư đến cho Đức Pháp Vương, là bà Đỗ Thị Huệ. Bà đã từng theo con đường tu hành, nhưng cuối cùng giã từ cửa Phật, vì bà chứng kiến người một người bạn thân của mình sống trong chân thành, lao động cần cù, nhưng không thay đổi được đời sống gia đình. Họ vẫn sống trong đói nghèo, bệnh tật và có những lúc không được đối xử công bằng. Trong khi đó, có những người trong đời sống này sống một cuộc sống toan tính, lừa lọc thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác, nhưng lại sung túc và giàu có. Bà Huệ không thể cứu giúp được người bạn của mình, bà Huệ thấy bất lực và đã rời bỏ cửa chùa. Nếu bây giờ người đàn bà bất hạnh đó đến trước Ngài để hỏi "đức tin của tôi sẽ hướng vào đâu, tôi tìm hạnh phúc ở đâu trong hiện thực xã hội này". Ngài có thể nói với bà điều gì, và bằng cách nào Ngài mang lại cho người đàn bà ấy đức tin? "Đối với quy luật nhân quả, không bao giờ quá muộn" Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Đạo Phật, thật ra không phải là một tôn giáo, mà là cách thức, phương tiện giúp con người sống có hạnh phúc ngay trong cuộc sống thực tại. Như vậy, điều quan trọng là các phật tử và mọi người khác, nên làm thế nào để hướng cuộc đời mình theo cách sống có ý nghĩa, tốt đẹp, an vui, hài hòa với mọi người. Trong trường hợp câu hỏi của bà Huệ, đạo Phật có một danh từ gọi là quy luật về "Nghiệp". Đơn giản hơn, là quy luật nhân - quả. Nếu ta gieo trái ngọt, sẽ có trái ngọt. Gieo hạt cay đắng, sẽ nhận quả đắng. Đôi khi, vì chưa biết giáo lý nhân quả nên người ta thường thắc mắc là đời này tôi sống tốt, mà có nhiều khổ đau. Tại sao có người sống quá bất thiện, mà lại có hạnh phúc. Bởi ta chưa biết rằng đời trước, năm trước ta đã gieo nhân bất thiện, nay ta phải nhận quả đắng. Còn những người khác, có thể đời trước họ đã nhân lành, nên bây giờ họ vẫn đang được hưởng quả lành. Tuy thế, tất cả chúng ta đều không biết rằng khi nào quả của mình sẽ chín. Như chúng ta trồng một cái cây, không thể ngồi mong đợi quả chín. Đến mùa, đủ nhân duyên, điều kiện thì trái sẽ chín, ngoài sự kiểm soát. Nhân quả giống như một vòng quay. Nhân tạo quả, quả lại tạo nhân. Như ta gieo một hạt, cho quả, quả lại tạo ra vô số hạt mới. Chúng tôi gọi là vòng luân hồi sinh tử. Trong đó, con người bị dẫn dắt, trôi lăn trong vòng sinh tử. Nhưng chúng ta không quá muộn trong bất kì điều gì. Nếu đời trước chúng ta đã phạm sai lầm, nhưng nay biết tỉnh ngộ, biết tìm một hướng sống mới, ngay bây giờ vẫn có thể loại trừ được Nghiệp. Giống như bệnh ung thư, nếu phát hiện sớm thì vẫn có cách điều trị. Đối với quy luật nhân quả, không bao giờ quá muộn, chúng ta vẫn có thể làm điều gì đó, và nên nỗ lực làm gì đó, để loại trừ bớt khổ đau trong kiếp sống hiện tại bằng cách sống tốt hơn, hòa bình hơn, chia sẻ với mọi người hơn. Đừng vì một bất công, bằng cặp mắt cái nhìn hiện tại, mà từ bỏ tôn giáo, từ bỏ con đường đẹp đẽ mà mình đang theo. Tôi khuyên mọi người hãy tin vào quy luật giữa nhân quả, chấp nhận quả của mình đã chín, dù là quả khổ đang phải chịu đựng. Vẫn còn cách thay đổi cách sống, thay đổi hành động của mình, đừng hủy hoại niềm tin của mình. Sống không có đức tin thì cuộc sống ấy đi vào tăm tối. Tôi khuyên bà Huệ hãy tìm hiểu kĩ về quy luật nhân quả, phát khởi niềm tin, giúp mọi người có hành động tích cực, bằng hài hòa, thương yêu, thiện hạnh, cân bằng với những hạt giống bất hạnh mình đã gieo từ nhiều đời. Hãy tìm cho mình đức tin để chuyển hóa cuộc sống hiện tại. Hãy trở lại với cuộc sống tâm linh, làm những gì mình có thể để loại trừ bớt các bất thiện nghiệp. Đau khổ này không phải do ai đem lại, mà do chính mình đã gây ra có thể từ tháng trước, năm trước, hay vô số đời trước. Có một số người luôn đổ lỗi cho Phật, Trời, Chúa, đã mang lại bất hạnh cho chúng ta. Nhưng sự thực, cách nhìn của triết lý Phật giáo là không bao giờ đổ lỗi cho bất kì ai. Người đáng đổ lỗi nhất chính là bản thân mình, là sự lười biếng, buông trôi của mình. Như khi ta biết mình có bệnh, đến tìm bác sĩ, bác sĩ hướng dẫn một vài phương cách mà vẫn không nghe theo. Khi bệnh nặng thì ta không thể đổ lỗi cho bác sĩ. Không có ai mang khổ đau cho mình ngoài chính mình. Hãy nỗ lực cố gắng, cải thiện cuộc sống hiện tại, vẫn kịp thời chuyển bớt những kết quả xấu mình đã tạo. Tìm về cội nguồn khổ đau, bất an là chính chúng ta. Trở về để cải thiện chính mình. Hạnh phúc sẽ luôn bên chúng ta. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có nhiều bạn đọc bày tỏ rằng, họ tin vào Đức Phật, đức Chúa Trời, các vị Thánh khác có một quyền năng tối thượng. Họ tin các vị có thể biến thế gian từ đời sống ngày thành đời sống khác. Nhưng họ cũng băn khoăn - một băn khoăn hết sức trong sáng - tại sao các Ngài lại cứ để chúng sinh buồn bã mãi, đau khổ mãi, đấu tranh mãi như vậy. Tại sao không có một ngày các Ngài đưa bàn tay của mình trải dài một hạnh phúc bất tận trên thế gian này. Để đến một ngày mới, cả người già, người trẻ, người tin hay không tin, người tốt kẻ xấu đều được hưởng những gì đẹp đẽ nhất. Không chiến tranh, thù hận, đói khát, nguyền rủa. Phải chăng, có một thông điệp, hay bí mật gì đó của đức Phật, Chúa Trời gửi cho con người ở thế gian này, rằng không thể dùng phép thiêng để thay đổi ngay mọi thứ trong khoảnh khắc?Rằng phép thiêng là chính ở các ngươi ? "Không có ai mang khổ đau cho mình ngoài chính mình. Hãy nỗ lực cố gắng, cải thiện cuộc sống hiện tại" Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Đây vẫn là vấn đề nhiều người chưa hiểu tại sao con người đau khổ, tại sao Chúa, Trời, chư Phật cứ để con người đau khổ, trầm chìm mãi, mà không làm cho chúng sinh mở mắt ra đã thấy mọi sự thay đổi lớn, an vui hạnh phúc sẵn đầy đủ. Vì chúng ta chưa hiểu rõ quy luật nhân quả. Không ai tạo khổ đau cho ta ngoài bản thân ta. Có người nói, tôi không làm gì tạo nên nhân khổ đau. Nhưng hãy thiết thực nhìn cách mà ta đang sống, bằng cách ăn thịt chúng sinh, giết hại chúng sinh, phá hoại môi trường, đẩy vào môi trường cả những ô nhiễm vật chất và ô nhiễm tinh thần, những từ trường của sân giận, ganh ghét, để rồi dẫn đến những bệnh dịch không thể chữa được. Chính chúng ta đang tạo nên nhân khổ đau, nhưng ta lại lờ đi, không quan tâm. Nếu có ai đó kêu gọi ta bảo vệ môi trường, ta vờ như không biết hoặc không muốn biết là chính mình đang mang đến tai họa cho thế hệ mình và thế hệ tương lai. Trong lúc chịu đựng các hậu quả, ta vẫn chưa có tinh thần bảo vệ môi trường cho các thế hệ sau. Khổ đau là do ta tạo ra, và ta gánh chịu. Không thể đổ lỗi. Hãy quay lại cải thiện lối sống nơi chính mình. Sống cởi mở, yêu thương, chan hòa vào cộng đồng, tập thể mà ta đang sống. Giáo lý Đức phật đã dạy ra sống bớt hận thù, bớt sân giận. Học giáo lý, ta sẽ cải thiện đời sống của mình. Có người nói đến sự-gia-trì của đức Phật, nhưng thực ra, đức Phật chỉ là người dẫn đạo, còn mọi thứ đều do chính chúng ta làm. Nương vào sự dẫn đạo đó, nếu ta áp dụng, thực hành phát triển lòng từ bi, ta biết yêu thương cởi mở, giúp đỡ, trân trọng người khác, thì ta có hạnh phúc. Ngay cả những người thân quen nhất, đối khi vì quá quen thuộc, mà ta quên mất trang trải biểu lộ tình thương với họ. Hãy học để yêu thương những người mà ta tưởng như ta đã quá nhàm chán. Trải rộng ra là với những người mà mình hạnh ngộ. Trong lúc mà tâm mình thay đổi, hạnh phúc sẽ có mặt, như là một trò ảo thuật như mọi người mơ ước, mà chính chúng ta phô diễn được. "Tự tin nương tựa vào chính mình" Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có một hiện thực làm cho chính bản thân tôi, một hiện hữu trước Ngài, cũng cảm thấy lúng túng khi phải đối diện. Hiện thực đó là mấy nghìn năm lịch sử, đền thờ, chùa chiền mỗi ngày được xây nhiều hơn, sách thánh, giáo lý được in nhiều hơn, nhưng tội ác cũng nhiều hơn, sự ghen tị, lòng vô cảm giá lạnh, nỗi hận thù tăm tối... cũng nhiều hơn. Vậy thưa Pháp Vương, Ngài lý giải gì về điều mâu thuẫn và bất ổn này? Chúng sinh phải đợi chờ đến bao giờ cho sự đổi thay của thế gian khi mà họ đã chứng kiến những điều đau khổ kia kéo dài mãi trong suốt chiều dài lịch sử của con người trên thế gian? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Nhiều tôn giáo hiện nay đang có một vài khó khăn. Một số tôn giáo đang không thực sự thực hành pháp, không đưa con người vào thiện hạnh, cải thiện cuộc sống, mà lại hướng theo bè đảng. Đây là một sai lầm, không đúng theo tôn chỉ của các bậc khai sáng ra tôn giáo ấy. Những điều mà ta cần nương tựa là cải thiện chính mình, trở thành người tốt, thay đổi chính đời sống của mình. Còn nếu ai đó cho rằng có sẵn một nơi nương tựa, che chở, như một số người Hồi giáo cho rằng đã có Chúa Trời che chở, mà dùng súng đạn giết hại người khác, cho rằng tội ấy đã có Thánh chịu - đó là cái nhìn vô cùng lầm lạc. Lịch sử đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu như thế, chỉ vì họ hướng tôn giáo lệch đường. Nhà thờ nhiều hơn, kinh sách nhiều hơn, nhưng con người lại không hướng về thực hành. Tôi khuyên cả những người ở tôn giáo khác, có cái nhìn tức thời trở lại. Tôn giáo xuất hiện không phải để gây thêm đau khổ, chiến tranh ở cuộc đời, không phải để giành giật sự phát triển của tôn giáo mình, mà để mang hạnh phúc cuộc đời mình. Ngay trong Phật giáo, Đức Phật chưa từng nói rằng hãy nương tựa vào ta, ta sẽ bảo vệ các con, đưa các con đến nơi giải thoát an toàn, hay hãy nương tựa, hãy cúng dường. Ngài chưa bao giờ nói thế. Ngài chỉ nói rằng: ta là người hướng đạo, các con phải đi trên đôi chân của mình. Mỗi người phải tự thực hành để cải thiện. Lời khuyên của tôi đến với mọi người, dù ở tôn giáo khác, không tôn giáo, vấn đề là tìm một lối sống. Điều căn bản nằm ở hành động, lời nói, suy nghĩ luôn là an lành, chứ không nên trông đợi ở bất kì ai, cho dù là Chúa, Trời, Phật. Tôi xin nhắc lại lời dạy của Đức Phật: Này các tỳ kheo, các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Ta chỉ là người mở đường, các con phải tự dấn bước. Bước đi bằng đôi chân và ý chí của mình. "Con đường mà tôi theo là tình yêu thương, chia sẻ với mọi người" Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có nhiều người quan tâm đến cuộc đời của Đức Pháp Vương. Con đường từ lúc Ngài sinh ra đến nay, là con đường của khổ hạnh, dâng hiến, đấu tranh, hay chia sẻ, hay là tìm cách tránh xa các tục tằn tội lỗi thế gian quanh Ngài? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Đây là một câu hỏi hay, ai cũng hỏi tôi theo con đường, phương pháp cách sống của tôi là gì. Thực ra cho đến nay, con đường mà tôi theo là tình yêu thương, chia sẻ với mọi người. Cảm thông với những nổi khổ, nhu cầu của mỗi chúng sinh. Dĩ nhiên, tôi chưa phải là người hoàn thiện, mà còn đang trên đường tự xây dựng, tự hoàn thiện mình. Tôi cũng là người bình thường như mọi người khác, đang cố gắng hướng cuộc đời mình, trang trải tình yêu thương cho mọi người. Tôi đang muốn hiểu rằng, mọi người cần gì, muốn gì. Nói về dòng Truyền thừa, cách đây khoảng 1000 năm bên Ấn Độ, có một đại học giả Narapa, được tính là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Bằng nhiều phương tiện thiện xảo, Ngài đã đạt được giác ngộ trong đời, bằng sự chứng ngộ của chính mình, sáng lập ra dòng Truyền thừa. Ân phước gia trì của dòng Truyền thừa được truyền đến ngày nay. Từ khi còn rất nhỏ, mới 2, 3 tuổi tôi đã được mọi người tìm thấy, phát hiện và có những cuộc thử nghiệm về kiến thức để công nhận là hóa thân của đại thành tựu giả Narapa, cách đây 1000 năm về trước. Dòng Truyền Thừa này là dòng luôn sống để hành động, lợi lạc cho mọi người. Ước nguyện của tôi là hiểu mọi loài chúng sinh, đến cả loài động vật - hiểu để cảm thông. Và tôi sẽ làm hết mình để viên mãn mọi ước nguyện của mọi người, mọi loài. Tôi nguyện sẽ trở lại cuộc đời này nhiều lần nữa, để thực hành tiếp công hạnh của mình là cảm thông, chia sẻ tri kiến, niềm vui, con đường tâm linh của mình. Cho đến khi chúng sinh không còn đau khổ, thì tôi mới thực sự được viên mãn. Tôi không nói với mọi người rằng hãy tin tôi, hãy tin dòng Truyền thừa, mà các bạn hãy cố gắng hiểu nhau, cảm thông, chia sẻ với nhau những thiện hạnh, tình thương của mình. "Tôi đi khắp nơi với ước nguyện mang những bài pháp, sự an bình cho mọi người" Chuyển hóa dục vọng thành tình thương Nhà báo Quang Thiều: Thưa Đức Pháp Vương, tôi đang ngồi trước Ngài đây, tôi là một hiện hữu trước Ngài. Trong con người tôi có những phần tăm tối và những phần ánh sáng của đời sống này. Tôi cảm thấy có một con quỷ dục vọng nằm trong thân xác mình. Nó luôn luôn đi theo tôi, rủ rê tôi, thúc giục tôi, tìm cách làm cho tôi tăm tối để thực hiện những khát muốn của nó. Có lúc tôi đã đuổi được nó ra khỏi mình. Nhưng này sau đó nó lại trở về là lại tìm cách lối kéo tôi. Và tôi nhận ra nếu một khi thân xác tôi còn hiện hữu trong đời sống này thì tôi luôn luôn phải đấu tranh chống lại con quỷ dục vọng đó. Tôi có một câu hỏi mà có thể mắc lỗi trước Ngài, rằng Ngài cũng có một thân xác như tôi và trong thân xác ấy cũng có một con quỷ dục vọng mặc dù trí tuệ, tâm hồn và lòng từ bi bên trong thân xác Ngài là mênh mông vô bờ bến. Vì thế, chắc chắn con quỷ dục vọng cũng làm những gì với Ngài như đã, đang và sẽ làm đối với tôi. Vậy nhưng tôi tin là Ngài có một thân xác giống thân xác của tôi. Vậy Ngài tìm cách nào để trừ tiệt hay cầm giữ nó? Câu trả lời của Ngài sẽ là nguồn sáng cho tôi, và cả những người khác nữa, những người đang ngày ngày phải kìm hãm và trốn chạy trốn con quỷ dục vọng đó nhiều lúc đến tuyệt vọng? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Tôi luôn tin rằng tôi giống như các bạn, chúng ta đều là anh chị em trong thế giới loài người. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôi ở cấp độ cao cấp hơn các bạn. Chỉ có điều, tôi biết phương pháp để thực hành, chiến đấu với những tình cảm sâu ẩn trong lòng. Con người thế gian đều bị "con quỷ dục vọng" chi phối, kêu gọi, và rất khổ sở với nó. Dường như những con quỷ ấy hiện trong tham lam, tật đố, ganh ghét, kiêu căng, chiến tranh, con quỷ ấy cuốn mình đi. Điểm khác biệt giữa tôi với các bạn chỉ là tôi đã có cách và tôi đang thực sự có phương tiện để chuyển hóa những tình cảm, dục vọng xấu thành thiện hơn, tốt hơn. Trong kiếp sống loài người, nếu không có dục vọng, tình cảm, thì con người không tồn tại được. Dục vọng và tình cảm không phải là xấu, mà vấn đề là làm thể nào để chuyển hóa, tự chủ được, chuyển hướng đi xấu, thành hướng đi lợi ích. Chúng ta không phải hủy diệt, đánh đuổi nó, chỉ cần chuyển hóa nó. Chúng tôi dùng những phương tiện thiện xảo để chuyển dục vọng thành đại ái, ước muốn đem đến tình thương cho mọi loài, ham muốn cá nhân thành ham muốn nhân loại. Người VN có tôn giáo nguyên thủy là đạo Phật, tôi khuyên người VN quay trở lại học tôn giáo gốc của mình, đưa vào thực hành chuyển hóa những giận hờn, tham lam, tật đố, ganh ghét, kiêu căng, oán hờn, gây khổ đau cho mình cho người, thành yêu thương, từ bi, để làm cuộc đời này an bình hơn, hạnh phúc hơn. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Con đường của cá nhân Ngài, theo tôi nghĩ là tinh thần của dòng Truyền thừa. Những hành xử, đấu tranh, dâng hiến cho con người của dòng Truyền thừa cũng hiển lộ trong con người Ngài. Bí mật nào làm nên sự lan tỏa và sức mạnh của dòng Truyền thừa, ở nhiều quốc gia, dân tộc, văn hóa, thể chế chính trị khác nhau? Hay đôi khi, bí mật là ở chỗ chẳng có bí mật nào? Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: Bạn nói đúng, chả có gì là bí mật. Rất giản đơn như mặt trời chiếu sáng ở VN, ở Tây phương hay Ấn Độ chỉ là một mặt trời, vẫn là một tia nắng với mục đích đem sự bình an ấm áp cho mọi loài. Nhưng khi xuất hiện ở VN, ta gọi là mặt trời VN. Khi xuất hiện ở Ấn Độ, ta gọi là mặt trời Ấn Độ. Cũng như giáo lý Truyền thừa đi khắp nơi trên thế giới này, nhưng ở mỗi quốc gia, đất nước, giáo lý này lại thâm nhập với văn hóa, phong cách, đời sống của quốc gia. Tôi đi khắp nơi với ước nguyện mang những bài pháp, sự an bình cho mọi người. Hay hướng giúp phương cách sống an lạc, tự chủ, độc lập, tự tin. Con người thường yếu đuổi, không tự tin ở khả năng của chính mình, nên có cảm giác phải nương tựa vào Trời, Phật, thần thánh. Vì chúng ta chưa hiểu được và chưa tin vào tiềm năng của con người. Ước nguyện của tôi là giúp con người có tự tin vào khả năng của mình. Tự tin rằng mình là nguyên nhân chính có thể đem khổ đau hay hạnh phúc cho mình. Khi đó, họ mới sống không ỷ lại vào Chúa, Trời hay đấng thần linh, sống có trách nhiệm với chính mình. Họ là người có trách nhiệm xây dựng cuộc đời họ, trách nhiệm cải thiện chính mình. Mỗi đất nước có nền chính trị khác nhau, nhưng trong sự thực hành tôn giáo, không có rào cản của chính trị, văn hóa, mà chỉ một mục đích duy nhất là con người cải thiện chính mình, nhận ra trách nhiệm chính mình, một cuộc sống bình an hạnh phúc. Đó là bí mật - nếu các bạn có thể gọi đó là bí mật. Còn tôi, gọi rất đơn giản, là thông điệp muốn trao gởi đến các bạn niềm tự tin chính vào bản thân bạn. Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Có những khoảnh khắc nhanh hơn cả một cái chớp mắt nhưng đủ giúp ta nhìn thấy con đường mà đôi khi ta đi hết cả đời vẫn không nhận biết được. Hồi nhỏ, khi sống ở nông thôn, những đêm mưa lớn chúng tôi đi bắt cá, bắt ếch trên cánh đồng. Trong đêm tối đen, tôi đã đi lạc ra khỏi cánh đồng làng mình và không xác định được con đường trở về làng mình nữa. Bất chợt có một tia chớp lóe lên, và trong khoảnh khắc ấy, tôi đã nhìn thấy toàn bộ con đường đi về làng, dù sau đó cả cánh đồng ngập chìm trong bóng tối Tôi tin rằng Đức Pháp Vương đã mang đến VN một trái tim nồng ấm. Tôi tin những gì Ngài cất lời hôm nay trong căn phòng nhỏ bé và giản dị này, căn phòng mà những người có mặt tại đây và những người đang lắng nghe lời ngài qua hệ thống truyền thanh của Vietnamnet sẽ nhận được tia chớp tư tưởng của tình yêu thương vạn vật và cuộc tranh đấu không mệt mỏi cho an bình của thế gian. Và tôi mong và tin Ngài đã và sẽ cầu phúc cho dân tộc này - một dân tộc đã có quá nhiều đau khổ, quá nhiều chiến tranh, một dân tộc xứng đáng được tất cả những vị Thánh trên trời xanh này ban phước cho. Rất đa tạ sự hiện diện của Đức Pháp Vương, với tất cả những điều Ngài đã cất lời hôm nay, lời của Ngài hay lời của một ai đó vô danh nhưng với tình yêu thương chân thành, khtas vọng hoà bình mãnh liệt và sự thấu hiểu hạnh phúc sẽ như hương thơm của bông sen, lan tỏa vào tâm hồn của những con người đang khổ đau, đang đi tìm ý nghĩa đích thực trong cuộc sống. Hi vọng một ngày nào đó, thế gian của chúng ta không cần một ngôi chùa hay một giáo đường, không cần những pho giáo lý mà tất cả những thứ đó đều ở trong chính con người chúng ta. Xin cúi đầu đa tạ. Tác giả: Tuần Việt NamBài đã được xuất bản.: 25/03/2010 13:37 GMT+7