wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Tôi thay mặt BQT để giải thích hộ bạn, thông thường bài viết nào cũng được chấp nhận nếu không phạm qui định chỉ bị xóa bài khi mang nội dung không phù hợp hoặc chủ đề chinh trị. Ngoài ra bài của bạn bị xóa có thể vì lý do như bạn nêu trên "up bài" để nhận được sự trả lời. Rất nhiều chủ đề học thuật quan trọng hay những thông tin cập nhật cần thiết để người xem luôn nhận được bài mới, việc up bài của bạn để làm mới chủ đề của mình cũng là một vi phạm khi sự việc không mang lại lợi ích cho nhiều người.
  2. Thôi thì "Tận nhân lực mới tri thiên mệnh" biết đâu họ lại có một cảnh khó nào đó mà khước từ cái cần câu?
  3. Rất nhiều công trình nghiên cứu của Sinh viên Phương tây họ thừa nhận vn ta có một nền văn hóa tâm linh rất cao siêu!
  4. Sẵn câu hỏi này của Compack, Wild tường thuật câu chuyện trao đổi với Cụ tối ngày 25/5/10. Sau khi thăm hỏi Cụ, Wild hỏi Cụ có muốn chuyển sang một công việc khác đảm bảo thu nhập để đỡ vất vả đường xa? Cụ nói nguyện vọng muốn có môt máy bơm hơi và dụng cụ vá xe vì nhà Cụ gần khu công nghiệp cụ chỉ có khả năng sữa chữa vá xe đạp nhưng nghe đâu máy đó đắt tiền trên dưới 3 triệu. Wild đã hứa sẽ giúp cụ cùng với đồ nghề và một ít vốn lận lưng, nhưng để giữ liên lạc với Cụ Wild xin số đt liên hệ lại, Cụ không nhớ số? Wild để lại số của mình và căn dặn Cụ gọi lại cho Wild, Wild liên hệ tìm đến Cụ với quà tặng như Cụ muốn. Cụ lại bảo" để tôi đến nhà Cô tôi nhận" và tự vận chuyển về Bình dương. Gút lại câu chuyện Cụ hứa sẽ đến địa chỉ Wild để lại là Văn Phòng Trung Tâm ở Bạch Đằng, Quận Tân Bình. Wild cũng đã liên hệ mua sắm cho Cụ bộ nghề để sinh sống vào khoảng trên dưới 4 tr đồng. Nhưng đến nay Cụ không đến chẳng biết vì sao? Có lẽ một lần nữa Wild tìm Cụ ở chân cầu Thanh Đa và có giải pháp khác tốt hơn! Già quá cũng lẩm cẩm dù biết được trao tặng vẫn không có cách để nhận!
  5. Không đâu Rin ơi! Chỉ vì Wild muốn cập nhật thông tin một câu chuyện nghe đau lòng nhưng lại là sự dối trá vụng về của một đứa trẻ dạt vòm tự làm hỏng đời mình.
  6. Đã nhận được 500,000 đ của nhanqua góp cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 5,789,000 đ + 500,000 đ = 6,289,000 đ(sáu triệu hai trăm tám mươi chín ngàn đồng)
  7. Cháu nên mời Bố mẹ đến xem ông Thầy Thiên Sứ chuyên giải thích về các tuổi vợ chồng một cách khoa học tại số nhà theo địa chỉ Trung tâm ngoài trang chủ và nhớ nói rằng: chỉ có nơi này xem bói có văn phòng có giấy phép hẳn hoi: May ra ông bà vì tò mò mà đi sớm! Đến nới còn bị xếp hàng tranh giành nữa mới kinh!
  8. Ðức Phật đản sanh Tác giả: Thái Kim Lan Bài đã được xuất bản.: 27/05/2010 12:00 GMT Tháng tư âm lịch, trăng tròn, sen nở, Phật tử mừng Ðức Phật ra đời, cách đây 2630 năm, một điểm mốc xa xôi cho con người hôm nay, nếu tính về thời gian, nhưng nếu tính về sức sáng, sức đầy, sức lớn có thể đẩy lùi u minh thì vầng trăng tháng tư vẫn mãi tròn như thế, vành vạnh rỗng thời gian, minh bạch hiện tiền trong đôi mắt nhân gian. >> Loạt bài: Tuần Văn hóa Phật giáo 2010 Tiếp nối hào quang chói lọi của vừng thái dương tháng năm xứ Ấn, "purnima", ngày trăng tròn của Vaisakha, theo kinh chữ Hán là "viên nguyệt", tháng tròn trăng - có tên quốc tế Vesak, ngày Phật Ðản - là ngày mặt trăng nối tiếp mặt trời, là ngày hết đêm, ngày không đêm, một ngày "là đây, bây giờ" không còn đối đãi ngày đêm trong hai tầng ánh sáng: ánh sáng của vũ trụ vật thể bên ngoài và ánh sáng của trí tuệ, tâm thức bên trong, một thứ giao thoa ánh sáng cho thấy suốt cả những cõi trời, cõi người, chuyển động kiếp nhân sinh mà trong kinh Ðại Bổn diễn tả: "... Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng thần diệu ấy thắng xa oai lực của chư Thiên..." [1]. Ngày Phật đến như thế! Mặt trời thái dương hệ chói lọi, nhưng mặt trời đi xuống, nhường cho đêm, mặt trời không bao giờ biết đêm, chỉ có trăng mới thao thức với đêm, trăng cải hóa đêm dày, soi đường, làm cho người đi trong đêm tối không còn sợ hãi, ánh trăng thức tỉnh trong lúc mặt trời có thể làm say. Chẳng ai nhìn được mặt trời lâu hơn một giây, còn trăng sáng mà không lòa. "Ánh sáng phát sanh đến Như Lai, rọi rõ những việc trước kia chưa từng được nghe đến." [2] , những việc còn nằm trong bóng đêm vô minh. "Ánh sáng phát sanh đến Như Lai, rọi rõ những việc trước kia chưa từng được nghe đến." những việc còn nằm trong bóng đêm vô minh. Chẳng phải tình cờ mà ngày trăng tròn tháng tư được các tông phái Phật giáo đồng ý xác định cho 4 sự kiện trong cuộc đời của Ðức Phật - Ðản sinh, Xuất gia, Thành đạo, Niết Bàn - (khởi đầu từ năm 1956 - Phật lịch 2500), sự kiện được gọi là 4 điểm làm cho "động tâm" con người. Ý niệm thời gian lịch sử hầu như được thu lại trong một vầng trăng tròn sáng. Nơi vòng tròn luân lưu ấy điểm khởi đầu cũng là điểm cuối cùng, trong suốt, nhất quán. Ý niệm lịch sử đường thẳng được cởi bỏ để chỉ còn ý niệm về chân lý vượt thời gian, "trỗi mầm nhân vượt qua mọi vầng dương" như nhà thơ R. M. Rilke [3] diễn tả khi nhìn thấy Ðức Phật xuất hiện trong tâm mình: mặt trời, đỉnh cao hực sáng của vũ trụ, cao mấy rồi cũng có lần khuất núi nhưng hạt nhân của quả lành đã được nẩy ra và thực chứng từ khi Phật đến với thế gian, vượt trên mọi vầng dương, bất sanh bất diệt: "Và ngài là vì sao. Và những sao trời khác lạ, mờ mịt mắt trần, lũ lượt về chầu tinh đẩu sáng" [4] (Rilke). Ngôi tinh đẩu trong câu thơ của Rilke cho ta liên tưởng đến ghi chú ở bìa kinh Trường A Hàm: bốn thời điểm của Phật đều vào ngày "thất tinh", ngày sao mai [5] xuất hiện. Như Lai đến thế gian với tấm "Thân này là tối hậu" [6] , quả hạnh nhân viên mãn, một con người (ngã = aham, nhân vật đại danh từ, chứ không phải ngã = atta hay atman) [7] , một Nhân Phật sau cùng nhất (duy) của tất cả các đấng Chánh đẳng giác trong muôn kiếp, với hạnh nguyện và khả năng chấm dứt vòng luân hồi sanh tử mà chính Phật cũng đã trải qua. Vượt luân hồi sanh tử là mục đích cao nhất của bước đến Như Lai, đó là ý nghĩa của câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã (aham) độc tôn, vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ" [8] nói lên hạnh nguyện của Phật đến với nhân loại. "Duy ngã độc tôn ư tư sanh tử dĩ tận" đi ngược với mọi tư duy về khái niệm bắt đầu có tính nguyên nhân tối thượng, đánh dấu một bước chuyển rốt ráo trong vòng quay luân hồi: không là nguyên nhân cuối cùng mà "ta là người duy nhất" lấy sự chấm dứt luân hồi sanh tử làm điểm khởi đầu. Như con tằm cựa mình nhả tơ, sợi tơ có một điểm bắt đầu. Mỗi sự bắt đầu trong vũ trụ đều vướng vất một chút siêu hình, nhất là điểm bắt đầu của mọi bắt đầu, vượt khỏi thường nghiệm giác quan, nó bao hàm nghịch lý, đầy chất huyền thoại sáng thế. Bởi vì điểm bắt đầu của mọi bắt đầu cũng cần có một bắt đầu, như con tằm còn nằm trong cái kén u minh, phải chăng lại thêm một nghịch lý khi nói điểm chưa bắt đầu là nguồn gốc của mọi bắt đầu? Ðọc kinh Ðại Bổn của Phật tự thuyết về sự đến thế gian của Phật, ta thấy những câu hỏi siêu hình về điểm "trước nhất" được thay thế bằng sự nhớ về 91 kiếp trước, như một chuyện "đời xưa", một câu chuyện truyền kiếp, nó không đòi một giá trị tuyệt đối như những tín lý giáo điều về một nguyên nhân rốt cùng. Cái không khí "nhớ về" ấy thật ấm cúng nhân tình, giống như mỗi một người từ hơn hai nghìn năm nhớ về thời thơ ấu, trong chùa, trong đình, trong nhà, trong làng xóm, trong rừng, dưới gốc cây đa hay cây bồ đề, đã có lần ngồi nghe bổn sư hay cha mẹ kể chuyện Phật đản sinh: "Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành, Vua Tịnh Phạn phước sanh con thảo". Ðức Phật chỉ con đường (bát chánh đạo) cho mỗi người, mà khi thực hành, con người có thể tìm thấy giác ngộ bất tử ngay trong chính cuộc đời hiện tại, bởi vì mỗi người đều mang chủng tử Phật tính, mỗi một con người là vị Phật đang thành. Thuở ấy cách đây hơn 2550 năm, 1250 vị Tỳ kheo cũng đã ngồi nghe Phật kể về sự rong ruỗi 91 kiếp với bảy đời Phật Tỳ Bà Thi (Vipassi) như thế. Như Lai, Cồ Ðàm, vị Phật lịch sử đang ngồi kể chuyện cho 1250 vị tỳ kheo về tiền kiếp của Như Lai, là vị Phật "tối hậu" [9] , đến sau cùng. Như Lai không phải là người sáng thế, Như Lai không đưa một yêu sách như thế, Như Lai có tiền kiếp và có cha mẹ, nhưng Như Lai là vị Phật sau rốt (tối hậu) với hạnh nguyện duy nhất: chấm dứt khổ não sanh tử luân hồi. Chỉ có Như Lai, vị Bồ tát duy nhất tuyên bố giải phóng ràng buộc sanh tử, hay nói cách khác, sự xuất hiện của Như Lai là sự xuất hiện của hạnh nguyện giải thoát, của ý chí tự do vượt khỏi trói buộc luân hồi: "Này các Tỷ-kheo, nay phụ vương của Ta tên là Suddhodana (Tịnh Phạn); mẫu hậu của Ta tên là Mãyã (Ma-da); kinh thành tên là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ). "Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời ! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa" [10]. Bài kệ trong Kinh Trường A Hàm [11] đã ghi: "Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Ngài từ hông phải ra, vừa đến đất, không cần người đỡ, liền đi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đưa tay lên nói rằng: 'Trên trời dưới đất, duy Ta là tôn quý', Ta sẽ cứu độ chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết. Ấy là thường pháp của chư Phật." Giống như sư tử bước, Ngó khắp cả bốn phương; Nhân sư tử khi sanh, Đi bảy bước cũng thế Lại như rồng lớn đi, Khắp ngó cả bốn phương, Đấng nhân long khi sanh, Đi bảy bước cũng thế Khi đấng Lưỡng túc sanh, Đi thong thả bảy bước, Ngó bốn phương rồi nói. Sẽ dứt khổ sinh tử. Ngay lúc mới sanh ra, Đã không ai sánh bằng, Tự xét gốc sinh tử, Thân này thân tối hậu. Dứt khổ não sinh tử là mục đích của Ðức Phật đến thế gian với "thân tối hậu", tấm thân cuối cùng thực hiện tự do và bất tử.Từ "Pháp nhĩ" bảy bước hoa sen [12] đầu tiên trên trái đất báo hiệu ý nguyện giải phóng luân hồi sanh tử, như một hạt mầm, chủng tử Như Lai, chủng tử [13] Phật tính từ muôn kiếp, gặp đất, thái tử Gotama Siddhattha (Cồ Ðàm Tất Ðạt Ða) xuất hiện trong lịch sử nhân loại với ứng thân gồm 32 tướng tốt [14] . "Ðức Phật lịch sử" của giòng họ Sakya (Thích Ca) đã trở nên tấm gương tối hảo cho thực chứng giải thoát. Với tuổi 29, thái tử Tất Ðạt Ða rời khỏi thành Ca-tỳ-la-vệ lên đường "tìm điều lành chữa khổ đau" [15] cho nhân loại, bởi vì con người ai ai cũng sợ già, bệnh, chết. Dưới cội Bồ đề, theo phương pháp nhập định của chính Người tìm ra, Thái tử Tất Ðạt Ða giác ngộ thành Phật [16] . "Thế tôn giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát- đa-la)" [17] . "Amatam adgigatam" đó là lời đầu tiên Phật thốt ra sau khi giác ngộ: "sự bất tử đã được tìm thấy!" Những chữ ấy tuyên báo cả nội dung giáo lý của Phật Cồ Ðàm. Chính sự thực chứng "bất tử" này cho ta hiểu sâu hơn câu tuyên ngôn ý chí tự do, giải phóng sanh tử luân hồi của bảy bước hoa sen. Nếu muốn hiểu toàn bộ giáo lý của Phật, cần hiểu khái niệm "bất tử", và năm vị đệ tử đầu tiên [18] của ngài đã hiểu, bởi vì họ được Phật chỉ cho thấy lý duyên khởi trong tương quan với giác ngộ bất tử: sự bất tử nằm trong thực chứng ""tất cả những gì sanh khởi đều hoại diệt" (kinci samudhayadhamman sabbam tam nirodhadhammam). Những gì do duyên sinh Phật chỉ rõ nguyên nhân Chúng hủy diệt thế nào Ðại hiền sư giảng rõ Bốn câu kinh ngắn tóm tắt giáo lý Ðức Phật mà Assaji, vị đệ tử thứ năm, trên đường đi khất thực đã đọc lên và làm cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên giác ngộ, trở nên những đại đệ tử của Phật, trong lúc hai vị đang ở trên đường đi tìm "sự bất tử" [19]. Theo đó "Amatam", "bất tử" không phải là "đời sống vĩnh cửu", bởi vì tất cả những gì thuộc về "đời sống" đều nằm trong qui luật sanh-diệt. Sống và chết thuộc vào nhau, chúng không thể phân cách nhau. Hễ sanh thì diệt, diệt rồi sanh, tất yếu trong chuỗi luân hồi bất tận, cho nên "bất tử" không phải là sự hứa hẹn một cuộc sống trên thiên đường vĩnh cửu sau khi chết, mà là sự chấm dứt chuỗi luân hồi này bằng con đường tu chứng thực hiện giải phóng ngay trong hiện tại, trên trần gian. Từ đó có thể hiểu "duy ngã độc tôn" qua ý nghĩa thực hiện bất tử như là trạng thái siêu vượt, đứng trên hai cực đối đãi sanh tử. Là vị Phật đã thành do chính giác ngộ "nguồn gốc sanh tử", Ðức Phật chỉ con đường (bát chánh đạo) cho mỗi người, mà khi thực hành, con người có thể tìm thấy giác ngộ bất tử ngay trong chính cuộc đời hiện tại, bởi vì mỗi người đều mang chủng tử Phật tính, mỗi một con người là vị Phật đang thành. "Amatam adgigatam" đó là lời đầu tiên Phật thốt ra sau khi giác ngộ: "sự bất tử đã được tìm thấy!" Những chữ ấy tuyên báo cả nội dung giáo lý của Phật Cồ Ðàm. Có thể nói yếu tính giáo lý của Ðức Phật nằm trong chữ "chuyển": chuyển bánh xe sanh tử tạo cơ hội giác ngộ bất tử thành Phật. Khả năng chuyển đổi, cải hóa nằm trong tay mỗi người: "... trong tấm thân cao 6 trượng này - với tri giác và ý thức của nó, cả thế giới đều bao hàm trong ấy cùng với sự hình thành và chấm dứt thế giới cũng như con đường dẫn đến đoạn diệt" [20]. Ðó là hình ảnh con người với những điều kiện hiện sinh giới hạn và khả thể vượt giới hạn của nó: con người tạo khổ và con người có thể diệt khổ (tứ diệu đế). Ðức Phật cho rằng con người là thực thể có cơ hội và khả năng ưu việt hơn tất cả những sinh thể (ngay cả thiên nhân) khác trong quá trình giải phóng thực hiện tự do và giác ngộ bất tử. Ðược làm người là một hạnh ngộ trong viễn tượng giác ngộ thành Phật. Quá trình "chuyển nghiệp", đổi mới con người từ hiện trạng đau khổ, bị ràng buộc bởi những điều kiện hiện sinh trở nên con người tự tại, tự do, giải tỏa mọi trói buộc là một quá trình tu chứng gồm cả ba lãnh vực: tri thức (prajna= Tuệ), đạo đức (sila = Giới) và hội nhập ý thức nhất thể hay nhập định (sammadha= Ðịnh). Hội nhập tu chứng đòi hỏi một cái nhìn đúng đắn về bản chất mọi sự vật. Chìa khóa mở ra chân trời nhân sinh mới không ở đâu khác hơn là ý chí thay đổi cái "ngã" chấp chặt vào những định kiến, nhất là chấp chặt vào chính cái "ngã" của nó như một khái niệm bản thể thường còn, cố định, vô điều kiện và không khổ não. Trên bình diện tri thức luận, đó là một khái niệm mâu thuẫn với chính nó và với thực tại vô thường. Một khái niệm "ngã" cố định, đóng kín tất cả cửa khai thông, không tạo được điều kiện chuyển đổi cho chính nó, là nguyên nhân tạo nên ảo tưởng và khổ não. Tri kiến như thật cho thấy khi phân tích khái niệm "ngã" ta chỉ thấy những nhóm tập hợp "năm uẩn" (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) nằm trong tương quan điều kiện duyên khởi "cái này có thì cái kia có", chúng vô thường và không có một bản thể tự sinh, chúng "vô ngã". Vô ngã là bản chất của ngã trong dòng duyên khởi của thập nhị nhân duyên. Với khái niệm "vô ngã" Ðức Phật không phủ nhận hiện sinh, hủy diệt nhân cách hay hạ thấp con người, ngược lại chính cái nhìn "vô ngã" trả lại cho con người khả năng cải đổi (chuyển nghiệp) sống động, mà nó đánh mất trong lúc mê muội giữ chặt cái tôi, khả năng có thể tự nâng con người từ bình diện giới hạn ràng buộc hiện sinh lên bình diện tự do, khai phóng, có phẩm chất nhân tính cao quí. Trên bình diện tri thức luận, cái nhìn vô ngã linh động hóa vai trò của chủ thể trong tương quan điều kiện với thế giới khách thể. Nhìn đúng tương quan ấy trong dòng thể tính biến chuyển (werden) là đến gần chân lý, phá vỡ vô minh và sai lầm, nguyên nhân của khổ trạng. Trên bình diện đạo đức học, cái nhìn "vô ngã" là điều kiện cho hành động đạo đức, bởi vì nó khai thông khả năng chuyển đổi con người, tạo điều kiện xả bỏ vị kỷ, phá chấp ngã, chuẩn bị tâm linh hòa nhập và cảm thông với tha nhân, mở rộng tình thương, từ bi với muôn loài. Trên bình diện hội nhập ý thức nhất thể, cái nhìn "vô ngã" đưa ta thâm nhập Niết bàn, không còn vướng mắc, mọi phân biệt được giải tỏa, tự do và bình đẳng được thực hiện trong tâm vô phân biệt: sống và để cho người khác cùng sống, sự sống mới chan hòa. Sự bất tử không nẩy mầm trên mảnh đất khô cứng của cái ngã vị kỷ, chỉ biết có "tôi", chính trên mảnh đất của "tôi và người", của "chúng ta", "bất tử" hiện thực như con sông đổ vào đại dương trở nên vô bờ. Ngài Xá Lợi Phất đã trình bày cho Phật thực chứng "bất tử", mà ngài đã không tìm được ở những đạo sư khác trước khi đến học Phật, căn cứ vào lời dạy vô thường vô ngã của Phật như sau: Nếu có ai hỏi Xá Lợi Phất đã thực hành như thế nào trong khi căn cứ vào sự giải phóng để đạt được liễu tri là ngài không còn ở trong qui luật sanh tử (tái sinh) nữa: "Ðệ tử sẽ trả lời: căn cứ vào sự giải phóng nội tâm, bởi vì đệ tử đã chấm dứt mọi thủ và chấp, nên đệ tử sống thường xuyên trong sự vững tâm tự chủ, không để những thâm nhập, những ảnh hưởng trần thế chế ngự. Ðồng thời đệ tử không chối bỏ cái ngã" [21] . Chấm dứt cái ngã hủ hóa để chuyển cái ngã vào hội nhập thực chứng siêu việt sinh tử, kinh nghiệm này của ngài Xá Lợi Phất làm rõ ý niệm "bất tử" của Ðức Phật: muốn "bất tử" cần phải chính mình sửa đổi nội dung "sanh tử" như qui luật đè nặng con người đã xem" sống" như một tiến trình đường thẳng đến cái "chết" (duyên sanh lão tử sanh [22] ). Sống trong sợ hãi cái chết, sống trong viễn tượng để chết, sống trong tùy thuộc ảo ảnh vĩnh cửu, chẳng khác gì đang chết trong từng phút từng giây, con người sống mà chết trong sự vô minh của chính mình. Ý niệm "Bất tử" của Ðức Phật trả lại định nghĩa đích thực cho khái niệm sống: sống là không chết (bất tử), là sống trong từng phút từng giây, không một giây buông thả để thần chết có thể "nhìn thấy ta", đó là kinh nghiệm của Phật trong khi quán tưởng dưới gốc cây Bồ Ðề, và cũng là kinh nghiệm của đại đệ tử Xá Lợi Phất. Ý niệm "bất tử" không kéo dài thời gian vật lý của chuỗi "sống chết" mà đổi phẩm chất, ý nghĩa sống lên trên một cấp bực khác, ở đó sức sống chan hòa trong mỗi sát na thức tỉnh, sáng tạo, không sợ hãi. Xá Lợi Phất là mẫu con người mới, được Ðức Phật truy nhận là một trong những đệ tử đắc đạo nhất về giác ngộ bất tử. Sự chuyển đổi tình trạng "sống trong sợ hãi cái chết" sang "sống không sợ chết" hay sống trong tự do sáng tạo là một quá trình tu chứng. Giác ngộ bất tử nằm trong thực chứng rốt ráo nguyên nhân của khổ đến từ vô minh và ảo tưởng nhầm lẫn bản chất sự vật vốn vô thường, biến đổi như những thực thể thường còn, bất biến, nằm ở sự dứt bỏ tham sân si, chấp ngã, nằm trong sự thực chứng khổ não, vô thường, vô ngã, thực hiện hạnh từ bi không làm hại chúng sanh (ahimsa) [23] từ đó đạt được trạng thái Niết Bàn, một trạng thái vượt trên đối đãi sanh tử, tự do trong nghĩa cởi bỏ mọi ràng buộc, nhất là mọi ham muốn thế lực đến từ sự chấp ngã, nguyên do của mọi tranh chấp thế lực. Lòng ham muốn thế lực là điều mà Ðức Phật khuyên cần phải hủy diệt để thực hiện hòa bình nội tâm. Trong suốt 45 năm thuyết giảng độ sinh, Ðức Phật đã là vị sứ giả hòa bình tối hảo với giáo lý giác ngộ bao dung căn cứ trên "như thật tri kiến" và bất bạo động [24]: Khi thức không âu lo Khi ngủ chẳng sợ hãi Ngày đêm không khởi lên Phiền não bận lòng Ta. Ta không thấy tai hại, Một chỗ nào trên đời. Do vậy, ta nằm nghỉ, Tâm từ, thương chúng sanh [25]. Chân lý mà Ðức Phật muốn chúng sanh đạt được như Ngài là một chân lý do trí tuệ khai mở và mỗi người có thể tự mình chứng nghiệm chứ không do một thế lực hay uy quyền ngoại tại, ngay cả uy quyền của Thượng đế hay của chính Ðức Phật, bắt buộc hay ban phát, đồng thời chân lý này không phải chỉ để thoả mãn tò mò tri thức ngay cả tri thức khoa học. Theo Ðức Phật, chân lý chỉ là chân lý trong nghĩa vừa đúng thật vừa giúp con người giải thoát mọi phiền não trói buộc, phục vụ nhân loại, thực hiện quân bình nội tâm, tự tại, hóa giải sợ hãi và tuyệt vọng: Với tâm trong sáng, hãy nhìn cõi đời biến đổi như không, Dứt sạch ngã điên rồ, thoát khỏi tử thần người giải phóng, Thần chết chẳng thấy ta, kẻ nhìn thế gian như nhà rỗng[26]Một khi thấy rõ được lý duyên khởi, nguyên lý của vô thường, nắm vững qui luật sanh diệt, con người trở nên tự chủ, tự do, thức tỉnh và tinh tấn, chuyển đổi hướng đi bánh xe luân hồi về hướng bánh xe chánh pháp [27] , phát triển quân bình tâm trí, sự sợ chết biến mất, bất tử được thực chứng, trạng thái hòa bình tịch tịnh - Niết bàn - được hội nhập. Tự mình, điều ác làm, Tự mình, làm nhiễm ô. Tự mình, ác không làm, Tự mình, làm thanh tịnh. Tịnh, không tịnh tự mình. Không ai thanh tịnh ai! [28] Như Lai đến thế gian này, nói như S. Radhakrishnan, "... để thực hiện chứ không phải để hủy diệt", trong một chừng mực cũng đồng nghĩa với nhận định" [29]. Thế tôn lấy sự chấm dứt sanh tử luân hồi" làm khởi điểm cho ý chí tự do thực hiện hội nhập tâm linh siêu việt sanh tử, hay nói cách khác, Như Lai đến thế gian nhằm thực chứng sự sống xứng đáng (bất tử) của con người trong hiện tại. Thế tôn lấy sự chấm dứt sanh tử luân hồi" làm khởi điểm cho ý chí tự do thực hiện hội nhập tâm linh siêu việt sanh tử, hay nói cách khác, Như Lai đến thế gian nhằm thực chứng sự sống xứng đáng (bất tử) của con người trong hiện tại. Ðã 50 năm từ khi ngày lễ Vesak được thế giới công nhận là ngày lễ quốc tế, nhận xét của S. Radhakrishnan về Ðức Phật và giáo lý của Ngài trong ngày Phật đản năm 1956 vẫn còn thời sự, chứng tỏ giáo lý của Ngài vượt trên vô thường, biến chuyển, vì sự sống của con người: "Sau vô số những tìm kiếm, có khi loài người biết xác lập chính mình, giác ngộ mục đích sự hiện hữu của mình một cách cao thượng, để rồi lại làm mất chính mình trong tiến trình phân hóa rất chậm chạp. Ðức Phật nhắm tới việc gây dựng một hạng người tự do mới, thoát khỏi những thành kiến, quyết tâm xây dựng tương lai, và chỉ trông cậy vào chính mình. Giáo lý nhân bản của ngài vượt lên trên những hàng rào chủng tộc và quốc gia. Nhưng tình trạng hỗn loạn của thế giới phản chiếu sự xao động trong tâm trí con người. Lịch sử đã trở thành tính cách hoàn cầu. Ðề tài của lịch sử không còn là Âu hay Á, Ðông hay Tây, mà là nhân loại ở mọi xứ và mọi thời đại. Thế giới là một thực thể độc nhất, dù người ta muốn hay không muốn, và dù có sự chia rẽ về chính trị. Vận mệnh của mỗi người có liên quan tới vận mệnh của người khác. Nhưng chúng ta đang chịu sự mệt mỏi của tâm linh và sự gia tăng tâm vị kỷ cá nhân cũng như tập thể, làm cho ý niệm thế giới đại đồng khó có tính cách hấp dẫn, cái mà chúng ta đang cần là một quan kiến tâm linh về vũ trụ mà xứ Ấn độ này đã có, để lại thổi vào cuộc đời, mở tung những cánh cửa đang đóng kín đời người. Chúng ta phải tái lập lý tưởng tự do tâm linh. Nếu muốn có hòa bình, chúng ta phải duy trì sự hòa hợp nội tâm đó, sự thăng bằng tâm linh đó, vốn là những thành tố thiết yếu cho hòa bình. Chúng ta phải thủ đắc chính mình, dù phải mất tất cả những thứ khác. Tinh thần tự do sẽ không hạn chế lòng từ ái của mình, sẽ nhận ra điểm linh quang trong mỗi con người, và sẽ cống hiến chính mình cho lợi ích của nhân loại. Nó sẽ liệng bỏ mọi sự lo âu, trừ sự sợ mình làm điều xấu, sẽ vượt lên trên hàng rào thời gian và sự chết để tìm năng lực vô tận trong bất tử." Giác ngộ trong tự do, hoà bình và hòa hợp, đó là thông điệp bất tử mà Ðức Phật Thích Ca đã để lại cho chúng ta hôm nay trong thế kỷ toàn cầu hóa, sau khi nhập diệt với lời căn dặn mỗi người "hãy tự thắp đuốc lên mà đi". Với tuổi thọ 80, mà Ngài tự cho là ngắn ngủi "tuổi thọ của Ta không bao nhiêu, ít ỏi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút" [30] so với tuổi thọ loài người là tám vạn năm thời A la hán Tỳ Bà Thi (Vipassi). 45 năm thuyết Pháp không ngừng nghỉ đã là 45 năm thực chứng Niết Bàn của Ðức Phật. Là một Ðấng Toàn Hảo, hành động của Ngài không bị động lực của tham sân si chi phối và do đấy không có hậu quả luân hồi. Ðộc lập với những năng lực bản năng tái sinh (chấp thủ) nhưng "tấm thân tối hậu" ấy cũng nằm trong định luật sinh diệt, như Ngài đã nhắn nhủ người đại đệ tử cận kề nhất Ananda không nên bi lụy, hãy lấy Chánh Pháp của Phật để thấy Phật. Thiên kinh vạn quyển đã viết về sự tích của Phật. Giữa tất cả những huyền thoại, ca ngợi, tôn sùng, như kẻ đi tìm và gặp: những người thợ tạc tượng có thể (cũng như đã) lấy ra được khối ngọc trong suốt qua lời nói của chính Phật về Người để tạc tượng: "Này Sariputta, những ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: "Một vị hữu tình không bị chi phối đã sanh ra ở đời vì hạnh phúc của số đông, vì an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người"" [31]. Một cách đơn giản, sau khi giác ngộ, Ðức Phật tự xưng là Như Lai, Tathagata, có nghĩa người đã đi đến chân lý, như thế, tự tại thong dong, cứu độ chúng sinh. Vui thay Phật ra đời! Vui thay Pháp được giảng! [32] München, ngày Phật Ðản, 2630, PL 2550 (12. 05. 2006) tuanvietnamnet.vn
  9. Đúng là đàn ông không nên lập gia đình vào năm tam tai, chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm có thể bạn tìm cách hóa giải bằng một lễ hỏi để hai bên gia đình có sự đi lại với nhau hoặc thêm thời gian tìm hiểu.
  10. Không hẳn phải đứng trước bàn thờ trong điều kiện nguy kịch, bạn có thể niệm bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Miễn lòng thành chú nguyện. "Năng cứu trọng bênh" "năng cứu tam tai bá nạn khổ". Vô luợng công đức Phật mà bạn.
  11. Vụ "thiếu nữ bị bắt cóc và hành hạ đến câm điếc": Không câm điếc, cũng không bị bắt cóc (PL)- Cô khai vì mình lấy điện thoại của chị, sợ bị la rầy nên bỏ nhà ra đi. Chủ quán cà phê: Tôi đọc báo và rất bức xúc. Trước đó, suốt ngày 25-5, Phương vẫn cho rằng mình bị bắt cóc, bị nhốt và bắt phân chia heroin. Cô gái bịa chuyện bắt cóc và hành hạ đáng bị lên án Từ bất hợp tác... Cô bất hợp tác với điều tra viên. Điều này là bất thường bởi thông thường các nạn nhân khi trốn thoát khỏi nơi giam cầm về luôn hợp tác rất tốt với cơ quan điều tra để vạch mặt những kẻ đã hành hạ mình và thường khóc rất nhiều, Phương thì ngược lại. Theo Thượng tá Nguyễn Đắc Minh, Trưởng Phòng PC14 Công an Bình Thuận, cơ quan này đã phối hợp với Công an TP.HCM và Cục Điều tra tội phạm công nghệ cao Bộ Công an để xác minh. Bước đầu có thể khẳng định không có việc bắt cóc, không có việc giam giữ, tra tấn như lời khai trước đây của Phương. PC14 Bình Thuận cũng gửi công văn đề nghị báo Pháp Luật TP.HCM phối hợp điều tra bởi những thông tin vừa qua của báo rất có giá trị. PV đã cùng các trinh sát lấy lời khai của anh H., người sinh viên có nick trong friend list của Phương. Anh chỉ ngay vào tấm ảnh của Phương khi được các trinh sát cho xem bản ảnh để nhận dạng: “Đây chính là người đã xưng tên Trà My”. Anh cho biết một tháng trước anh vẫn còn gặp cô và cô không hề có biểu hiện câm điếc. Tiếp xúc với trinh sát và phóng viên, anh H. nhận ngay ra Phương (ảnh số 2) và nói: “Cô ấy xưng tên là Trà My và cách đây một tháng thì không hề câm điếc!”. Ảnh: ĐỨC HIỂN Theo một người dân ở khu phố Phú Mỹ, thị trấn Phú Long (nơi cư ngụ của gia đình Phương), những thông tin trên báo chí về vụ việc này gia đình đọc rất kỹ, trong đó đặc biệt là hai bài báo trên Pháp Luật TP.HCM “Bất ngờ từ Yahoo! Messenger” và “Nạn nhân” phản xạ được với âm thanh”. Sau khi đọc báo, chính bà Ngọc, mẹ Phương, thừa nhận với điều tra viên con mình có thể nghe được chứ không hề điếc! Đến nghe, nói được nhưng… không thích nói 9 giờ sáng 26-5, Phương bút đàm với điều tra viên Nguyễn Thị Bích Luận và cho biết mình có thể nghe và nói được nhưng hiện không thích nói chuyện với ai! Từ lúc này, việc lấy lời khai được thực hiện bằng cách điều tra viên hỏi còn Phương trả lời bằng cách viết ra giấy. Phương thú nhận toàn bộ những thông tin trước đây là do mình nói dối. Theo đó, Phương đã lấy điện thoại của chị ruột và sợ chị mình la rầy nên đã bán chiếc nhẫn ba phân vàng được 100.000 đồng, đón xe từ Phan Thiết vào TP.HCM. Khi đến Bến xe Miền Đông, đang không biết đi đâu thì được một người xe ôm đến làm quen và chở đến một quán cà phê trên đường Phạm Thế Hiển, quận 8 để bán cà phê với lương 800.000 đồng/tháng, ăn ở tại quán. Sau đó do lương thấp, Phương đến Long An bán cà phê và lên mạng chơi game, chat. Làm quen với một nhóm bạn cùng tuổi sống lang thang ở Công viên 23-9 và cầu Calmette, Phương quay về TP.HCM gia nhập nhóm này. Báo cáo nhanh của tổ trinh sát làm việc tại TP.HCM cho biết tại quán cà phê trên đường Phạm Thế Hiển vẫn còn quần áo của Phương và 20 ngày lương Phương chưa nhận. Thượng tá Minh cho biết cơ quan điều tra sẽ tiếp tục làm rõ thêm một số tình tiết để sớm kết thúc vụ việc. Phương cũng hứa trong ngày hôm nay, 27-5 sẽ khai hết những sự thật còn lại trong hành trình bỏ nhà sống lang thang của mình. Thượng tá Minh cho biết ông rất trăn trở sau khi Phương từ một đứa bé ngoan hiền, khỏe mạnh trở thành tàn tạ và dựng cả kịch bản để nói dối mọi người. Theo ông, đây một bài học về việc quản lý, dạy dỗ con cái cũng như những tác động khó lường của game online. Chủ quán cà phê: Tôi đọc báo và rất bức xúc Anh Lương Diệu Hòa, ngụ phường 15, quận 10, nguyên chủ quán cà phê Thu Tuyền trên đường Phạm Thế Hiển, cho biết: “Tôi là người đã từng nhận Phương vào làm việc. Khi đó cô xưng tên là My. Cô không siêng năng chăm chỉ, mỗi năm xin làm vài tháng rồi lại nghỉ, sau đó bỏ đi một thời gian rồi quay lại xin vào làm. Quán có chỗ ở nhưng cô không nghỉ lại mà hết giờ làm là đi chơi game hoặc chat đến gần sáng thì ra công viên ngủ, đến trưa mới về quán. Tới ngày 26 tết vừa rồi cô ấy vẫn còn làm chỗ tôi nhưng rồi sau đó bỏ đi. Tôi đọc báo thấy cô ấy khai là bị bắt cóc nên rất bức xúc!”. PHƯƠNG NAM - NGUYỄN ĐỨC HIỂN Báo Pháp luật Tp HCM
  12. Cách luận của HungNguyen vừa có Đạo vừa có Lý rất hợp tình.
  13. Ghi nhận sự đóng góp của gia đình Compack . http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...=360#entry82131
  14. Xác nhận có 300,000 đ(ba trăm ngàn) của phu nhân Compack gởi tặng Quỹ từ Thiện diễn đàn. Quỹ hiện có: 5,489,000 đ + 300,000 đ = 5,789,000 đ (năm triệu bảy trăm tám mươi chín ngàn đồng)
  15. Thằng Bờm đổi quạt Mấy bữa nay, làng của phú ông nhốn nháo hẳn lên. Mọi người ùn ùn kéo nhau đi mua đèn cầy, quạt giấy… Nguyên nhân chỉ vì lịch cúp điện vô tội vạ của mấy ông nhà đèn. Đang ăn cơm: cúp, đang tắm: cúp, thậm chí đang “hú hí” cũng cúp ráo. Ngôi nhà của phú ông đầy đủ tiện nghi, giờ đồ dùng kim khí điện máy đều thành ve chai hết. Bực mình, phú ông la toáng: - Khu vực này toàn là dân lao động, vậy mà nhà đèn không thương, cứ đè đầu mà cúp. Người ta đi làm cả ngày mệt chết, tối về muốn thắp đèn cho sáng nhà sáng cửa, bật tivi xem tí ca nhạc cũng không được. Giỏi thì cúp những khu ăn chơi ở trung tâm thành phố đi! Minh họa: Nguyễn Tài Đang phành phạch quạt giấy, chợt phú ông thấy Bờm cầm cái quạt mo “gia bảo” phe phẩy đi qua. Phú ông mừng rỡ, gọi:- Này Bờm, vào đây ông bảo. Mày đổi quạt cho ông được không? Ông đổi một thùng sữa và một thùng kẹo cho mày đấy! - Thôi, để dành ông ăn đi. Con sợ uống phải sữa bị nhiễm melamine, ăn nhằm kẹo trộn bột đá lắm. - Vậy ông đổi một mẫu đất để lấy quạt, mày có chịu không? - Ông cho một ngàn mẫu con cũng không ưng. Đất ông gần bờ sông bị ô nhiễm, lại đang bị quy hoạch “treo”, ai mà đồng ý chứ! - Cái gì mày cũng không thích. Thôi thì tao đổi cho mày một con sao la, con báo hoa mai, con cá sấu hoa cà. Toàn là động vật quý hiếm đó con. - Trời! Những con thú đó được liệt vào Sách đỏ. Chắc là ông săn bắt, mua bán thú rừng trái phép rồi. Con không muốn gỡ lịch trong nhà đá ông ơi! - Suỵt! Mày đừng có la lớn chứ! Thôi để tao gả con gái rượu cho mày. Nghe đến đây, Bờm khoái chí, la to: - Hoan hô! Con cảm ơn ông! Bờm vừa nói dứt câu thì có điện trở lại. Phú ông “trở mặt”: - Có điện rồi, tao xài máy lạnh sướng hơn cái quạt mo rách của mày. Bờm tiu nghỉu, nhưng lại đĩnh đạc phán: - Ông không gả con gái cho con cũng không sao. Bởi vì chúng con đã... “ăn cơm trước kẻng” rồi, cúp điện hoài trời tối mà chẳng biết làm gì ông ơi! Phú ông thất thanh: - Trời, thanh niên thời nay đáng sợ thiệt. Mới từng tuổi đầu đã “tiền trảm hậu tấu” rồi. Thôi thôi để tao gả! Theo Nhất Quỳnh
  16. Rin oi, dùng proxy của google là như thế nào? hướng dẫn cho cách dùng proxy của google.
  17. Hạt thóc nảy mầm sau 3.000 năm: Nhiều câu hỏi lớn cần làm rõ Những hạt thóc được tìm thấy tại khu khai quật (ảnh trên) và một số đã nảy mầm Hạt thóc cách đây 3.000 năm nảy mầm sẽ có một ý nghĩa cực kỳ to lớn về lịch sử, khảo cổ và chọn tạo giống. Tuy nhiên... Hạt thóc nảy mầm có từ cách đây 3.000 năm, một phát hiện vô tiền khoáng hậu, có ý nghĩa cực kỳ to lớn về lịch sử, khảo cổ và chọn tạo giống. Tuy nhiên, một loạt các câu hỏi hóc búa xung quanh phát hiện này đang làm đau đầu các nhà khoa học. Những cơ sở khoa học đầu tiên PGS-TS Lâm Thị Mỹ Dung kể lại, từ cách đây hơn 1 tháng, trường ĐH KHXH-NV (ĐH QG Hà Nội) kết hợp với Bảo tàng Hà Nội tiến hành khai quật Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội) trên diện tích 300m2. Trong quá trình khai quật đã xuất lộ 5 - 7 vết tích bếp cổ, tạm gọi là hố rác bếp. Đoàn khai quật đã tìm thấy những hạt thóc và gạo cháy xém tại 4 hố rác bếp. Chúng đều nằm trong một mặt bằng là lớp 8, tức là so với mặt đất thì sâu độ gần 1m. Đất ở lớp 8 có nước rỉ ra, xung quanh có rất nhiều than tro, các tàn tích thức ăn như xương cá, vỏ ốc... Những hạt thóc này có màu đen xám, chứng tỏ nó đã được ngâm trong bùn đất một khoảng thời gian rất dài. Theo TS Dung, sự phát hiện những hạt thóc và hạt cơm cháy xém không phải là đặc biệt, nhưng điều làm bà và các cộng sự hết sức ngỡ ngàng là sau khi ngâm trong nước để bảo quản khoảng 2 ngày thì có tới 10 hạt thóc đã nảy mầm đâm lá. “Không ai có thể tin được là hạt thóc nằm sâu dưới lòng đất hàng ngàn năm trời lại có thể nảy mầm được. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên và không thể lý giải tại sao nó lại có sức sống mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế”, TS chia sẻ. Những hạt thóc được cho là đã nảy mầm sau 3.000 năm “Với tư cách là một người phụ trách khai quật ở đây, theo dõi sát từ đầu chí cuối, và là người trực tiếp làm hiện vật, tôi khẳng định rằng những hạt thóc này được lấy ra từ các hố rác bếp thuộc văn hóa Đồng Đậu, tiền Đông Sơn, cách ngày nay 3.000 - 3.500 năm”, TS Dung nhấn mạnh. Bà cho rằng có rất nhiều cơ sở để đưa ra khẳng định những hạt thóc nảy mầm có từ cách đây 3.000 năm. Thứ nhất, Thành Dền là một địa điểm khảo cổ học nổi tiếng ở VN, ít nhất đã trải qua 7 lần khảo cổ tại đây và do nhiều cơ quan khác nhau tiến hành, trong đó có Viện Khảo cổ học VN. Dựa vào các phương pháp khảo cổ như địa tầng, loại hình học, lấy 20 mẫu than và xương hiện vật để tính hàm lượng carbon phóng xạ C14 và tất cả đều xác định niên đại một cách chắc chắn là thuộc giai đoạn phát triển chính của văn hóa Đồng Đậu (tiền Đông Sơn). Chứng cứ về thóc gạo trong văn hóa Đồng Đậu thì đã phát hiện ở khá nhiều nơi, ngay cả tại Thành Dền, năm 2001 cũng đã tìm thấy dấu tích trấu trong đồ gốm. Thứ hai, nếu phát hiện đơn lẻ thì là ngẫu nhiên nhưng đây là phát hiện tại nhiều hố khảo cổ khác nhau, những hạt thóc và gạo cháy được tìm thấy cùng nhau, ngoài ra còn có cả xương cá, vỏ ốc, xương gà và xương chim bị cháy. Thứ ba, sau khi phát hiện hạt thóc nảy mầm, TS Dung và các cộng sự đã lập tức xem lại hiện trường, quan sát trực tiếp, kiểm tra lại băng ghi hình, và những tấm ảnh đã chụp một cách kỹ lưỡng để loại trừ tất cả các khả năng: thóc ở đâu đó trong khi mình khai quật lẫn vào vì gần đấy cũng có những ruộng lúa chưa chín phải 15 ngày nữa mới thu hoạch được, hố chuột đưa xuống, hoặc đất đá đã bị xáo trộn từ trước... Những hạt thóc được tìm thấy tại khu khai quật - Ảnh do PGS-TS Lâm Thị Mỹ Dung cung cấp Cần sự hợp sức của các nhà khoa học Để có câu trả lời chính xác và thuyết phục nhất về niên đại của những hạt thóc nảy mầm, nhiều người cho rằng cần phải lấy mẫu đi phân tích hàm lượng carbon. Theo TS Dung, việc này sẽ được tiến hành ngay sau khi đoàn hoàn thành công tác khai quật hiện trường, khoảng 1 - 2 tuần nữa và kết quả cũng sẽ có sau đó một vài tháng. Bà Dung cho biết, việc phát hiện hạt thóc nảy mầm sau 3.000 năm có ý nghĩa rất to lớn, nó là một trong những chứng cứ để nói về nền văn minh lúa nước của tổ tiên chúng ta, trước hết cho thấy thêm một chứng cứ về sự tồn tại, hiện diện của nghề trồng lúa nước trong văn hóa Đồng Đậu mà trước nay chúng ta đã nói rất nhiều rồi. Đây cũng là một sự phát hiện độc đáo, vô tiền khoáng hậu, đặt ra những vấn đề mới cần phải nghiên cứu để trả lời chính xác nhất cho các câu hỏi: đó là giống lúa gì, tại sao nó lại nảy mầm được sau chừng ấy năm, hạt lúa đã được bảo quản trong môi trường như thế nào, có nguồn gen quý không và liệu chúng ta có phục hồi được không?... Theo TS Dung, các nhà khoa học trong và ngoài nước phải hợp sức nhau lại mới mong sớm tìm ra câu trả lời. Nạo mặt bằng hố khảo cổ Ảnh do PGS-TS Lâm Thị Mỹ Dung cung cấp Hiện nay 8 hạt thóc nảy mầm đã được đưa đến Viện Di truyền nông nghiệp để nuôi cấy, chăm sóc và nghiên cứu. 2 hạt nảy mầm khác cũng sẽ sớm được đưa tới Viện lúa của Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Ông Lê Duy Hàm, Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp cho biết, hiện mầm lúa đã cao hơn 10 cm nhưng quan sát bằng mắt thường có thể nhận thấy “sức khỏe” của cây lúa hơi yếu. “Chúng tôi chưa lý giải được vì sao cây lúa lại yếu vì không được tiếp nhận hạt giống ngay từ đầu mà chỉ tiếp cận hạt thóc khi nó đã nảy mầm. Hiện chưa nhận thấy sự khác thường của những mầm lúa này so với các giống lúa đương đại”, ông Hàm nói. 8 hạt thóc nảy mầm, đang được trồng trong nhà lưới, sẽ được chăm sóc cẩn thận và theo dõi kỹ lưỡng về kích thước, hình dáng, nhánh lúa, khóm lúa trong suốt cả quá trình, cho đến khi nó làm đòng, trổ bông và cho thu hoạch. Theo ông Hàm, trong thời gian đó, quan sát quá trình sinh trưởng, phát triển của những hạt mầm này, về hình thái học có thể nhận biết được tương đối chính xác nó có phải là lúa cổ hay không. Nếu đúng là giống lúa cổ phải mất ít nhất 5 tháng trời, vì vòng đời của lúa cổ dài. Tiếp đó, ông Hàm và các cộng sự sẽ tiến hành giải trình tự gen của hạt thóc, đối chiếu với trình tự gen của giống lúa hiện đại, thì sẽ khẳng định một cách chắc chắn đó có phải là lúa cổ hay không. Hiếu Dũng nguồn thanhnienonline
  18. Thế Trung khá nhạy cảm khi liên hệ đến việc minh chứng nền văn hiến 5000 năm, chắc không hề ngẩu nhiên đâu nhỉ?
  19. Thêm hàng trăm 'hạt gạo 3.000 năm' được phát hiện Sáng 26/5, hàng trăm hạt gạo cháy ở tầng đất có niên đại 3.000 năm tiếp tục được đoàn khai quật tìm thấy tại khu di chỉ Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội). Tất cả số gạo cháy (hóa thành than) này đều được tìm thấy ở độ sâu 1,2 mét ở hố khai quật số 3, khu di chỉ Thành Dền. Theo thạc sĩ Bùi Hữu Tiến (ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia HN), thành viên đoàn khảo cổ, sau khi đãi 6 xô đất, đoàn thu được rất nhiều hạt gạo cháy. Hàng trăm hạt gạo cháy được tìm thấy sáng 25/5 (hộp nhựa phía trên), đi kèm là vỏ trấu, xương động vật, mảnh gốm. Ảnh: Đoàn khai quật cung cấp. Ngoài ra, nhóm khai quật còn phát hiện một số mảnh vỏ trấu, nhiều xương động vật và một số mảnh gốm. Tuy nhiên, trong số di vật được phát hiện, không có hạt thóc (hạt có khả năng nảy mầm) nào. Theo các thành viên đoàn khảo cổ, hơn một tháng nay trong quá trình khai quật tại 3 hố ở di chỉ Thành Dền, đoàn đã phát hiện được nhiều hố đất đen (hố rác bếp) nằm ở tầng văn hóa Đồng Đậu (3.000-3.5000 năm trước). Tại các hố có nhiều mảnh xương động vật, gạo cháy và các hạt thóc... Trong số các hạt thóc thu được chỉ có 10 hạt nảy mầm và đang được nuôi cấy, chăm sóc ở Viện Di truyền nông nghiệp. Tại khu di chỉ Thành Dền, tầng đất cái nằm độ sâu 1,2-1,3 mét. Ảnh: Nguyễn Hưng. Bốn hạt phát triển tốt thành lúa non đã cấy ngày 25/5 để tiếp tục theo dõi. Vỏ trấu của các cây này đã được thu lại và dự kiến mang ra nước ngoài để xác định niên đại. Nguyễn Hưng vnexpress.net
  20. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...=360#entry81975 ghi nhận sự đóng góp của bạn dành tặng Cụ.
  21. Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Cachua góp cho quỹ từ thiện. Quỹ hiện có: 5,189,000 đ + 300,000 đ = 5,489,000 đ( năm triệu bốn trăm tám mươi chín ngàn đồng)
  22. Chú TS rất bận, ghé thăm topic của bạn và có nhận định như thế, bạn yên tâm sẽ có ae khác tư vấn và hóa giải chuyện này nhỏ thôi mà.
  23. Trình tử vi Lạc Việt ở đây đã có công trình nghiên cứu chuyển đổi THỦY & HỎA, đấy là sự khác biệt của mệnh (theo cách tính truyền thống) và cách tính khoa học của Lạc Việt, nên chỉ riêng hai mệnh này có sự hoán đổi.
  24. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...showtopic=13106 Niệm 9 biến mỗi ngày cho 9 ngày danh tính và tuổi ta của chồng haiphuong nhé! http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...p;st=0#entry101 CHÚC BẠN VÀ GIA ĐÌNH SỚM VƯỢT QUA HẠN NÀY. Nhiều lời cầu chúc nhiều tâm phát nguyện lòng thành trở thành sức mạnh tâm linh trợ duyên đến chồng bạn. tôi tin rằng như thế!
  25. Kỳ thú Cửu Hương Truyền thuyết kể rằng, vào dịp thượng thọ ngàn tuổi của Tây Vương Mẫu, Ngọc Hoàng Thượng đế đã tặng bà chuỗi ngọc quý. Trong buổi yến tiệc cung đình, các vị thần tiên chuyền tay nhau thưởng thức vẻ đẹp của món quà, vô ý làm rơi chuỗi ngọc. Những viên ngọc quý rơi xuống trần gian, biến thành hàng trăm hang động lộng lẫy, còn sợi dây vàng xâu chuỗi ngọc trở thành dòng suối tuôn chảy nối liền các hang. Khu hang động đó ngày nay được gọi là Cửu Hương, nằm trong Khu tự trị dân tộc Di thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (TQ). Du khách đi thuyền vào hẻm núi Âm Thúy xanh mát Là một trong những vùng du lịch trọng điểm của TQ, tỉnh Vân Nam sở hữu tới ba di sản thế giới là thành cổ Lệ Giang, rừng đá Thạch Lâm và khu bảo tồn thiên nhiên Tam Giang. Có lẽ vì vậy mà Cửu Hương, dù được đánh giá là hệ thống hang động lớn và đẹp nhất TQ, vẫn chưa được đầu tư nhiều về du lịch. Không có xe buýt tới Cửu Hương nên chúng tôi phải lên một chiếc xe đi Thạch Lâm và xuống ở giữa đường. Từ đây, chúng tôi phải hỏi thăm mới tìm được một ngã ba đường, nơi dân địa phương đón các xe khách nhỏ chạy ngang để tới Cửu Hương. Chiếc xe chở chúng tôi đi hơn một tiếng đồng hồ nữa thì tới khu thắng cảnh Cửu Hương. Khu vực đang khai thác du lịch, với chín điểm tham quan chỉ là một phần nhỏ trong quần thể hang động rộng tới 200km2. Cùng hai du khách TQ, chúng tôi xuôi thuyền dọc theo hẻm núi Âm Thúy (nghĩa là “bóng râm xanh mát”), hai bên là những vách núi dựng đứng, phủ đầy cây cối xanh tươi. Những vách đá âm u ở hẻm Kinh Hồn Trái ngược với vẻ yên bình của hẻm núi lộ thiên đầu tiên, hẻm núi tiếp theo lại nằm sâu trong một động đá lớn với những bức tường đá phủ rêu xanh. Đúng như tên gọi, hẻm Kinh Hồn này tạo cảm giác mờ ảo huyền bí với khung cảnh tranh tối tranh sáng và những tiếng âm âm vọng ra từ lòng núi.Men theo cây cầu đá chênh vênh bên vách núi, chúng tôi tiến vào khu thạch động với rất nhiều thạch nhũ đủ hình dáng và kích thước. Nơi đây có vô số hang nhỏ nối liền nhau, đưa du khách đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thiên nhiên trải qua hàng trăm triệu năm đã kiến tạo nên một cảnh quan tuyệt mỹ dưới lòng đất. Người TQ cũng khéo đặt tên cho các cảnh quan, khiến cho các khối đá trở nên có hồn và sinh động. Hang Dơi với những chú "dơi" bằng đá treo mình trên vòm hang Động đầu tiên có tên là hang Dơi với rất nhiều thạch nhũ lơ lửng, như hàng trăm con dơi đang treo ngược mình trên vòm hang. Động tiếp theo lại đầy các cột thạch nhũ đủ kích cỡ, vươn lên từ lòng đất. Băng qua một cây cầu, chúng tôi tới thác Uyên Ương. Đó là hai thác nước ngầm trong lòng núi, ào ào đổ xuống dòng sông ngầm bên dưới.Bên cạnh ngọn thác đôi này là bãi thạch nhũ có tên Thần Điền, nghĩa là “ruộng thần”, gồm nhiều tầng nằm thoai thoải xếp lên nhau. Mỗi tầng lại được tạo bởi các ô đá vôi uốn lượn, chứa đầy nước giống như những thửa ruộng bậc thang. Động lớn nhất trong quần thể Cửu Hương được đặt tên là sảnh Sư Tử với bề mặt bằng phẳng và vòm hang cao như một đại sảnh. Tại đây có một bảo tàng nhỏ trưng bày các loại đá quý và giới thiệu quá trình hình thành địa chất của quần thể hang động có niên đại lên tới 600 triệu năm này. "Ruộng thần" được tạo nên bởi những lớp thạch nhũ Dọc đường đi, chúng tôi dừng lại để xem một buổi biểu diễn văn nghệ trong lòng động của người Di bản địa. Theo các nhà khảo cổ, khu vực Cửu Hương còn là một di chỉ khảo cổ quan trọng với rất nhiều hóa thạch của thời kỳ Đồ đá cũ, đã được khai quật và nghiên cứu. Theo Hạnh Liên