-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Xem danh tính mang số mệnh thế nào có phải không? Câu hỏi trên nhắc nhở bạn đặt câu hỏi ngắn gọn quá không có nội dung.
-
Tìm Phật trong nhà Không chỉ ở trong chùa chúng ta mới có thể tìm thấy Phật - vị thầy đáng kính Pubjeong nói - mà chúng ta có thể tìm thấy Phật ngay trong nhà, ngay trong chính gia đình mình! “Bởi sự đổ vỡ đã khiến cho nhiều ngôi nhà lạnh lẽo như những chiếc vỏ sò, trong khi sự ấm áp của gia đình biến mất”. Pubjeong nhấn mạnh: “Đừng tìm Phật hay Bồ tát ở trong chùa. Chúng ta phải nhận ra suy nghĩ của mình và thông qua sự lắng nghe của trái tim, hướng tất cả về với bản thân và gia đình, và nơi đó, chúng ta tìm thấy Phật”. Ngài Pubjeong nói về điều này trong suốt buổi pháp thoại mùa Xuân tại chùa Gilsang, Seongbuk-dong, Seoul. Buổi thuyết pháp thu hút 1.500 Phật tử tham dự trong quang cảnh rạng rỡ với sắc màu đẹp đẽ của cây lá và sắc hoa anh đào. Ngài kể câu chuyện: “Sau khi người vợ qua đời, một ông lão 70 tuổi nọ đã đến sống với gia đình người con trai. Một hôm, ông lão vào phòng vợ chồng con và tình cờ bắt gặp quyển sổ ghi chép những khoản chi tiêu của gia đình. Trong đó, ông thấy có những dòng ghi: “Khoản chi tiêu cho người nhà quê: W20.000 (US$20)”. Ông bần thần chợt nhận ra rằng: người quê mùa đó, không ai khác, chính là ông. Vậy là, ngay lập tức, ông rời khỏi nhà. Ngài Pubjeong nhận xét: “Một gia đình vắng sự ấm cúng cũng như một cơ thể không có linh hồn”. Ngài cho rằng, lòng ích kỷ và sự cố chấp chính là nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ gia đình. “Ngày nay, chúng ta không được sinh ra trong chính ngôi nhà của mình, kỷ niệm sinh nhật cũng thường được tổ chức ở đâu đó, thậm chí khi chết, chúng ta cũng không được tổ chức tang lễ trong nhà. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta cần nhìn lại sâu sắc về ngôi nhà, mái ấm gia đình, nơi mà chúng ta đang sống cùng người thân, đối với ta thật sự là gì”. Pubjeong nhấn mạnh, khi chúng ta muốn tìm hiểu lý do tại sao gia đình mình đổ vỡ, chúng ta hãy học cách lắng nghe trái tim của chúng ta đang thật sự cần đến điều gì. “Ngày nay, ly dị là một việc dễ dàng, nhưng nếu chúng ta không chuyển hóa được nghiệp lực của mình, thì chúng ta cũng không thể tháo gỡ được những gút mắc, trói buộc”, Pubjeong trích dẫn lời dạy của Đức Phật. “Bởi vì thế giới tràn ngập sự vô minh, ô trọc, tham vọng và đau khổ, con người thiếu sự quan tâm lẫn nhau; nên những gì hiện hữu trong trái tim ta mới thực sự quan trọng. Quả thật, cuộc sống chúng ta như thế nào là hoàn toàn do chúng ta định đoạt. Chúng ta hãy nghĩ về gia đình và những người xung quanh như nghĩ về chính bản thân mình từng giờ, từng phút, họ sẽ luôn hiện diện trong trái tim ta”. Ngài Pubjeong kết thúc thời pháp thoại bằng một một câu nói khôi hài: “Chúng ta phải tìm hiểu trái tim ta để sau này, thay vì viết: chi tiền cho người nhà quê W20.000, thì nên viết là: cúng dường Đức Phật W20.000”. Kim Han-su - Đăng Tâm dịch nguồn giacngovn.online
-
Hàng nghìn người xem 'tượng Phật' nổi lên từ đất Một gò đất giữa vườn cao su bạt ngàn bỗng nhô cao và có hình dáng trông như Phật ngồi đã khiến hàng nghìn người dân tứ xứ đổ xô về chiêm bái. Kích thước gò đất có hình dáng tượng Phật dài khoảng 50 cm, ngang 30 cm được hình thành trong vườn cao su thuộc công ty cao su Bến Cát, ấp Rạch Bắp (An Tây, Bến Cát, Bình Dương). * Ảnh 'tượng Phật' nổi lên từ đất Theo nhiều người dân xung quanh và công nhân cạo mủ cao su, trước đó "tượng Phật" chỉ là gò mối bình thường. Vài ngày gần đây, gò đất này bắt đầu nhô cao. Đến sáng 30/6, hình dáng gò đất càng giống như tượng Phật đang ngồi thiền. Gò đất có hình tượng phật mọc lên giữa vườn cao su. Ảnh: Nguyệt Kiều. Thông tin "tượng Phật" nổi lên từ đất nhanh chóng lan xa, gây sự hiếu kỳ, tò mò trong dư luận. Dòng người đổ xô về xem đông nghịt làm náo loạn cả khu vực. Thậm chí nhiều tín đồ ở các tỉnh thành lân cận cũng lũ lượt thuê xe đến để xem, cúng bái. Chiều 30/6, tại khu vực xuất hiện ‘tượng Phật’ đã có hàng nghìn lượt người từ khắp nơi đổ xô về. Một loạt dịch vụ ăn theo cũng xuất hiện như bán nhang đèn, hoa quả... Để ngăn dòng người đổ xô về ngày một đông làm ảnh hưởng an ninh trật tự trên địa bàn, chiều cùng ngày, chính quyền địa phương đã phối hợp cùng Hội Phật giáo huyện Bến Cát tổ chức di dời gò đất hình "tượng Phật" về chùa Long Hưng Cổ Tự tại xã Tân Định (Bến Cát). Khi lực lượng chức năng di dời gò đất này đi, hàng trăm người dân đã đứng xung quanh chấp tay khấn vái. Dòng người và xe còn bám theo sau để tiễn đưa "tượng Phật" về chùa. Nhiều người cho rằng, rất có thể sau những cơn mưa vừa qua, do lực nước rơi đã làm xói mòn gò đất tạo nên "tượng Phật" đất này. Gò đất có hình tượng Phật mọc lên giữa vườn cao su khiến nhiều người xôn xao đem lễ vật đến cúng. Hàng nghìn người dân hiếu kỳ đổ đến xem, các dịch vụ ăn theo cúng bái gây náo loạn cả khu vực. Dòng xe ôtô từ Tp Hcm và các tỉnh thành cũng kéo về xem cúng bái. khối đất có hình tượng phật được đem về chùa. Nguyệt Kiều nguồn vnexpress.net
-
Quả vải - Thức ăn, vị thuốc ích tâm ôn tỳ Theo Đông y, quả vải đặc tính đại nhiệt (hạt vải còn nhiệt hơn cả cùi vải nên cần thận trọng khi làm thuốc). Cùi vải vị rất ngọt không độc (có tài liệu viết có độc có lẽ do tính quá ngọt nóng của vải). Vải có tác dụng ích tâm, ôn tỳ, tư thận, bổ huyết, dưỡng can, trừ phiền khát, làm tỉnh táo tinh thần, minh mẫn trí óc, tăng sức lực, tăng thân nhiệt, trừ hàn, tráng dương, tiêu thũng, làm đẹp nhan sắc. Quả vải thường được dùng dưới hai dạng tươi và khô. Để ăn dùng cả hai dạng, để làm thuốc thường dùng dạng khô. Cả hai cách dùng để ăn và làm thuốc, tươi hay khô, đều phải có liều lượng. Dùng có chừng mực, thì mới đem lại lợi ích và tránh được điều không mong muốn. Nếu cho thuốc nhiệt (vải) vào bệnh nhiệt, là lửa đỏ đổ dầu thêm, nên có hại! Vải chỉ gây hại cho cơ thể thường là do người khỏe, ăn quá nhiều hoặc không biết tạng mình nhiệt không thể hợp tính nóng của vải và người bệnh không biết kiêng kỵ khi đang có bệnh thuộc dương, có hỏa nhiệt, âm hư hỏa vượng đường huyết cao (thì không nên ăn vải). Quả vải có thế chưa bệnh suy nhược thần kinh và thể lực kể cả liệt dương Như chúng ta đã biết "vải nóng" nếu ăn nhiều sẽ phát ra các bệnh viêm nhiệt như trẻ em ngứa, nhiều rôm sảy, mụn nhọt, trằn trọc khó ngủ, táo. Người dân Trung Quốc có câu ví "Một quả vải bằng 3 bó đuốc". Giới y dược Đông phương nói, vải gây "bốc hỏa", có thể dẫn đến "chứng bệnh lệ chi" (say vải) với các chứng hồi hộp, choáng váng, nhức đầu... thường xảy ra ở những người khỏe mạnh ăn quá nhiều vải một lúc.Có trường hợp co giật. Sách Bản thảo tụng tân đã viết: Ăn vải quá nhiều sẽ bị phát sốt, phiền khát... sưng chân răng, chảy máu mũi... Người tạng nhiệt có bệnh nhiệt không nên ăn vải. Một số công dụng chữa bệnh từ vải: 1. Suy nhược thần kinh và thể lực kể cả liệt dương - Vải tươi 500g-1.000g ngâm vào một lít rượu 7-10 ngày. Uống vào chiều tối, mỗi lần 25-30ml. - Vải khô 10 quả: ăn vào chiều tối trong một thời gian 1-2 tháng. Tốt nhất vào các mùa mát lạnh thu đông. 2. Đau bụng, tiêu chảy cấp mạn, tỳ hư gây ngũ canh tiết tả (đi ngoài lỏng sáng sớm). Nấu cháo vải khô 5-10 quả. Có thể cho thêm các vị như hoài sơn, hạt sen 10g, bạch biển đậu 10g. 3. Sa dạ con. Dùng cùi vải tươi 500g sắc uống, hoặc ngâm rượu uống. Dạ con sau đẻ lâu co: Cùi vải khô 10 quả sắc uống. 4. Đậu, sởi không mọc - cùi vải khô 16g sắc uống. 5. Hôi mồm: Cùi vải khô nhai ngậm. 6. Mụn nhọt sưng tấy: Cùi vải tươi hoặc khô giã nhuyễn với ô mai đắp. 7. Nấc lâu không khỏi: 7 quả vải đốt tồn tính nghiền nát uống với nước nóng (loại trừ nấc hàng tuần trong một số bệnh nan y...). 8. Khô cô khản họng ở ca sĩ, giáo viên: Hàng ngày nhai ngậm vài cùi vải khô để bảo dưỡng thanh đới. Không dùng khi có viêm nhiệt, kèm răng lợi chảy máu. 9. Tim đập nhanh mạnh (hồi hộp) thở nhanh khi gắng sức: ngâm cùi vải khô hoặc vải khô nấu nước để uống. 10. Đau mỏi vai, lưng, đau bụng do lạnh: Sắc vải tươi hoặc vải khô để uống. Chữa các chứng bệnh do ăn vải gây ra: Lấy vỏ quả vải sắc uống hoặc uống cốc nước chanh nóng. Theo BS. Phó Thuần Hương Sức khỏe & Đời sống
-
Kinh doanh là dấn thân, thương trường là cõi Phật? Kinh doanh là một cách dấn thân. Lúc này, thương trường cũng là cõi Phật. Đó cũng là một cách tu, thậm chí tu như thế còn phiền nhiễu gấp mấy trong chùa, nhưng nhờ đó thành quả cũng lớn hơn. Nghe chủ đề buổi thuyết trình "Văn hóa Phật giáo trong kinh doanh", những tưởng sẽ được doanh nhân Tạ Thị Ngọc Thảo chia sẻ về cách thức áp dụng triết lý, văn hóa Phật giáo trong kinh doanh, hay chí ít là kinh nghiệm của bản thân bà - vừa là Phật tử, vừa là doanh nhân. Nhưng bất ngờ, Phật tử Tạ Thị Ngọc Thảo lại chọn một cách tiếp cận hoàn toàn khác: "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?" Đối tượng cụ thể mà bà Tạ Thị Ngọc Thảo hướng đến trong Tuần văn hóa Phật giáo được tổ chức gần đây là chùa Huế, như bà tự nhận: Mong muốn được "khơi dậy tinh thần kinh doanh của một vùng đất văn hiến, đó là tỉnh Thừa Thiên - Huế". Bởi theo bà, Huế có quá nhiều lợi thế. Người Huế luôn tự hào và yêu quý nhất mực mảnh đất này, nhưng Huế còn nghèo quá, mà lý do cụ thể nhất là thu nhập bình quân đầu người thấp - 1.030 USD/ người và tỷ trọng nông nghiệp quá cao 14,5%Tuần Việt Nam đã có cuộc trao đổi với bà Tạ Thị Ngọc Thảo sau buổi thuyết trình có phần gây tranh cãi này. Phật muốn chúng sinh giàu có - Vì sao bà lại chọn nói về đề tài "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?" - Nếu chỉ lo cho đời sống của chùa thì hiện nay hầu như các chùa đều có thể tự túc được, không phải trông cậy nhiều vào nguồn cúng dường. Nhưng để phụng sự xã hội, nhất là các tăng ni dấn thân phụng sự xã hội, thì phải trông vào các nguồn khác, trong đó có nguồn cúng dường, nguồn doanh nghiệp tài trợ... Một trường hợp cụ thể trong hoạt động của giới tu hành hiện nay ở Huế là Phòng khám từ thiện Tuệ Tĩnh đường - nơi khám chữa bệnh cho hơn 250 bệnh nhân nghèo mỗi ngày, thì nguồn thu để duy trì hoạt động luôn là vấn đề đau đầu. Kinh tế phát triển thì không sao, nhưng khi kinh tế suy thoái như hiện nay thì nguồn cúng dường cho chùa bị giảm. Nguồn kinh phí cho công việc phúc lợi xã hội cũng đương nhiên phải giảm. Bác sĩ giám đốc rất lo sẽ đến lúc Tuệ Tĩnh đường phải đóng cửa. Nếu tình huống đó xảy ra thì trước mắt là 250 bệnh nhân nghèo không có nơi để khám bệnh. Để những công trình phúc lợi, từ thiện của Phật giáo hoạt động được bền vững thì nhà chùa phải chủ động được nguồn tài chính, nghĩa là phải có hoạt động kinh doanh để lấy lãi nuôi những hoạt động phúc lợi này. Khi đặt ra vấn đề kinh doanh với giới tu hành thì không chỉ Phật tử, cư sĩ, mà xã hội nói chung cũng dễ phản ứng, trong khi đó kinh doanh như thương gia Lương Văn Can định nghĩa là: "Sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ của mình như phương tiện để giải quyết những vấn đề xã hội và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn", thì kinh doanh có gì là sai trái mà không được làm? Trong cách nhìn của tôi, đó cũng là một cách tu. Nữ doanh nhân - Phật tử Tạ Thị Ngọc Thảo Hơn nữa, trong giới luật có cấm con của Phật tích lũy tài sản, phát sinh lợi nhuận, nhưng con Phật có hai chúng, chúng xuất gia và chúng tại gia. Đức Phật lại rất ủng hộ sự giàu có của chúng sinh. Trong kinh Phật có nói về y báo và chánh báo. Y báo là dựa vào cái mình nương tựa. Nếu bạn được nương tựa vào người chồng làm kinh doanh giàu có lương thiện, cha mẹ là người phúc đức, con của bạn là đứa trẻ thông minh đạo hạnh, thì người ngoài sẽ nhận ra ngay y báo bạn tốt. Bạn đã gieo phúc và bây giờ được nhận.Còn chánh báo thì sao? Đức Phật nói trong khi người ta còn phải ở những căn nhà lụp xụp bên cạnh đống rác hôi hám, thì bạn được ở ngôi nhà khang trang, được thưởng thức những hoa thơm, trái ngọt, ăn những bữa cơm ngon, sống trong không khí trong lành. Đó cũng là do bạn là người trước đó đã gieo phúc rất nhiều và nay được nhận. Nói như thế để thấy quan điểm của Đức Phật là ủng hộ sự giàu có. Với những người xuất gia, Đức Phật khuyên sống thanh bần, vì không muốn con Phật vướng vào những thường tình đó sẽ làm hạn chế sự phụng sự cho đạo pháp, cho chúng sinh. Nhưng những người con Phật có tóc và chúng sinh thì Phật luôn luôn ủng hộ họ giàu có. Văn hóa Phật giáo trong kinh doanh là thế nào? - Bà có nghĩ khi trình bày đề tài này tại Huế sẽ vấp phải những phản ứng không? - Trình bày đề tài chùa làm kinh doanh nơi đất Huế, với tôi là sự thử thách, thậm chí tôi xem đây là một đề tài đột phá tư duy, nhưng không thể không nói. Tôi nghĩ, may mà bây giờ mưa thuận gió hòa, đời sống của tăng ni và của người dân chưa đến nỗi quá khó khăn. Nhưng nếu có một biến cố đột biến xảy ra, chẳng hạn suy thoái kinh tế trầm trọng, thiên tai dịch họa ụp đến bất thường thì mọi chuyện đều thay đổi. Đến lúc này nếu chùa không có cơ sở kinh doanh để chủ động một nguồn thu, duy trì những công trình phúc lợi xã hội mà chùa đang điều hành, thì đời sống của hàng ngàn tăng ni và dân nghèo ở Huế có thể sẽ bị chao đảo. Kinh doanh không hề là vấn đề xấu. Vấn đề là ta sử dụng đồng lợi nhuận đó như thế nào, có đủ sức điều khiển đồng tiền, làm chủ bản thân không? Cái đó thì không phải do tiền, đổ thừa cho đồng tiền là không đúng. Hơn lúc nào hết, trong thời hội nhập hiện nay, chủ động được nguồn thu để làm từ thiện, bớt lệ thuộc vào nguồn cúng dường, thông qua đó tạo việc làm và cơ sở vật chất, thu hút nguồn năng lực trung và cao cấp, góp phần tăng GDP thì chính là văn hóa Phật giáo trong kinh doanh. Trước khi trình bày đề tài "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?" tôi rất lo, vì chỉ cần hai từ kinh doanh giữa Tuần lễ văn hóa Phật giáo thì đã là "nhạy cảm" rồi. Tôi đã thiền 2 tiếng trước buổi thuyết trình, vì tôi chuẩn bị một tinh thần giao lưu căng thẳng hơn. Ngay cả trong lúc trình bày tôi cũng thiền. Sau khi trình bày xong đến phần giao lưu tôi cũng thiền. Tôi hoàn toàn tỉnh thức trong mọi lời nói của mình. Tôi cũng được biết, bài nói chuyện đó gây nhiều sự bàn cãi. Nhưng sau khi thầy Trừng, thầy của rất nhiều tăng ni ở đây. Thầy dạy ở Học viện Phật giáo, vốn là người rất khó tính mà thầy công nhận đây là một đề tài mới, cần thiết, thì tôi nhẹ người, vì đấy chính là tiếng nói phản hồi của Huế. Cũng có lẽ Đức Phật phù hộ nên Huế nhẹ nhàng đón nhận. Tôi mới nhận ra rằng lúc này tôi nói là đúng thời cơ. Nói sớm thì không hay, nói chậm nữa thì qua mất cơ hội. Đưa đề tài này ra lúc này là rất hợp duyên. - Vậy theo bà, những người không phải Phật tử của Huế có thể tiếp nhận điều gì từ buổi thuyết trình của bà? - Tôi lại nghĩ những người chưa phải Phật tử, kể cả Phật tử cũng thấy rằng chùa chủ động kinh doanh là vấn đề cần thiết, nhưng họ không thích những người mặc áo lam lại trực tiếp đứng ra mua bán, đụng chạm với đồng tiền. Nhưng con Phật có hai chúng, chúng xuất gia và cư sĩ tại gia. Bởi thế tôi mới đề xuất giải pháp, nếu trong hàng ngũ cư sĩ có những người có ý tưởng kinh doanh đứng ra thành lập một công ty với HĐQT là các nhà sư thì có làm sao đâu? Những việc gì thật sự đụng đến tiền bạc thì giới cư sĩ làm, còn những việc phụng sự xã hội thì các thầy các sư làm được chứ. Rõ ràng ở đây, những người con Phật cả hai chúng xuất gia và tại gia đều biết rằng đồng lợi nhuận đó sẽ như nước Cam Lồ rưới vào những quãng đời bất hạnh. Kinh doanh cũng là một cách dấn thân. lúc này, thương trường cũng là cõi Phật. Đó cũng là một cách tu, thậm chí tu như thế còn phiền nhiễu gấp mấy trong chùa, do đó thành quả cũng lớn hơn. Muốn làm từ thiện hiệu quả nhà chùa cũng cần tự chủ được về tài chính. Ảnh minh họa Luật nhân - quả luôn ứng nghiệm - Vậy còn những doanh nhân không phải Phật tử, cũng không định kết hợp với nhà chùa làm kinh doanh, thì có thể áp dụng văn hóa Phật giáo như thế nào?- Văn hóa dân tộc ta được xây dựng trên nền tảng văn hóa Phật giáo, nên tất cả những gì lợi cho mình, lợi cho người, đem niềm vui đến cho mình, đem niềm vui đến cho người, hoặc sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà có lợi cho người tiêu dùng; sự giàu có của mình góp thêm vào sự giàu có của đất nước, tiền bạc của số người giàu được chia sẻ lại cho số người còn người nghèo, để khoảng cách giàu nghèo rút ngắn lại, thì đó chính là văn hóa Phật giáo. Bất cứ doanh nghiệp nào áp dụng như thế thì giàu một cách bền vững, vì họ làm chủ "thụ dụng" (hưởng thụ và sử dụng đồng tiền mình làm ra). Ngược lại, nếu sự giàu có của mình xâm phạm đến quyền lợi của người khác, đến môi trường, cào cấu vào thiên nhiên rồi trốn thuế, gian lận thương mại, rút ruột công trình để làm giàu cho mình, thì không có cách gì bền vững, không chóng thì chày sẽ đổ vỡ. Theo đúng thuyết nhân quả, gieo gì sẽ gặt nấy. Là một doanh nhân, không cần phải là doanh nhân Phật tử, nếu ngay bây giờ không nghĩ đến chuyện gieo, nghĩ đến nhân duyên, coi chừng sẽ gặp ác báo. Vì thuyết nhân quả là quy luật khách quan do Đức Phật phát hiện ra, chứ không phải vấn đề tâm linh mơ hồ. - Ngoài những "hậu quả" về mặt vật chất, còn những hậu quả về mặt tinh thần thì sao? - Tôi xin kể một trường hợp cụ thể của một người bạn mà tôi không muốn nhắc tên. Người bạn này có một chuỗi nhà hàng chuyên bán thịt thú rừng, giàu có lắm vì họ mua thú rừng của người dân tộc với giá rất rẻ, rồi bán lại với giá rất đắt. Họ có hai người con, một trai, một gái, 18 tuổi và 19 tuổi. Vậy mà cả hai con liên tục ra đi, một người tháng trước xe đụng chết, người con còn lại tháng sau xe đụng chết. Hai vợ chồng nhận ra ngay vấn đề, dẹp ngay chuỗi hàng quán đó, tức thì sám hối. Đó là nhân quả đồng thời. Tôi có đọc những lá thư của những người tử tù là cán bộ rất lớn bên Trung Quốc. Họ kể rằng khi chỉ một chữ ký của họ để uốn một con đường từ hướng Tây qua hướng Nam là họ có được cả chục triệu đô la, do đó họ không kềm lòng được. Họ cũng có ý trách luật pháp không giúp cho họ ngăn chặn việc làm giàu quá dễ dàng như vậy. Họ có nói giá luật pháp chặt chẽ hơn, họ được giám sát nghiêm ngặt hơn, giá họ không kiếm tiền dễ như thế, thì họ đâu đến nỗi? Khi họ có được đồng tiền dễ dàng như vậy, thì vợ của họ theo trai, con của họ thấy tiền nhiều quá thì xài phí phạm, ăn chơi sa đọa, dẫn đến đứa thì nhiễm bệnh thời đại, đứa thì làm gái... Chính bản thân họ liên tục thấy cô đơn, họ mới đi tìm những người tình nhỏ ở Đài Loan. Để giữ những người tình nhỏ đó họ phải dùng những đồng tiền tham nhũng kiếm được, cho đến một ngày những người tình nhỏ quỵt hết những đồng tiền đó, rồi họ bị bắt, và bây giờ thì bị tử hình. Họ kết luận, những đồng tiền kiếm được không trong sạch làm cho lương tâm luôn bị day dứt, không bao giờ có được một giờ vui thật sự trong đời. Họ ao ước nếu cuộc đời còn rộng tay với họ, nhà nước hãy cho họ đến một vùng nào đó xa xôi hiểm trở cũng được, để họ có điều kiện cày cuốc kiếm ra từng mẩu khoai, miếng ăn, để có thời gian họ sám hối. Nhưng một mưu cầu nhỏ nhoi như thế không còn kịp nữa vì vay thì phải trả, đó là luật nhân quả. Vậy thì doanh nhân hãy kinh doanh theo văn hóa Phật giáo, hãy gieo những hạt giống tốt lành, để thu hoạch nhiều quả ngọt. - Trên thế giới đang xuất hiện nhiều doanh nghiệp, với họ mục tiêu quan trọng nhất là phụng sự xã hội, dường như giống triết lý của đạo Phật. Người Việt mình thường tự nhận là theo đạo Phật, nhưng trong kinh doanh lại chưa theo được văn hóa Phật giáo. Vì sao vậy? - Tôi nghĩ rằng hiện nay một số doanh nhân đang gặp khủng hoảng về triết lý sống, vì vậy họ sống theo bản năng, nặng về phần xác, nhẹ về phần hồn. Đã thế pháp luật hiện nay chưa đủ chặt chẽ để buộc những người này phải sống, làm việc và kinh doanh theo pháp luật. Quan sát xã hội tôi thấy không chỉ một số doanh nhân mà đại bộ phận người dân cũng gặp khủng hoảng về triết lý sống. Tại sao xã hội ta hiện nay có quá nhiều người bị khủng hoảng về triết lý sống? Đây là một câu hỏi lớn mà những người có trách nhiệm phải cùng tìm câu trả lời. Khánh Linh (Tuần Việt Nam)
-
Rất cân nhắc khi tường thuật một câu chuyện riêng tư của gia đình tôi đến với các cao nhân và Ace trên diễn đàn, hiện tượng này có thể thường xuyên đến với nhiều người có khi ta vô tình nên không nhận biết? Bố tôi vừa qua đời ngày 3/6/2010 tại tp Marseille (miền nam nước Pháp), sau khi nhận Visa tôi lên đường để lo phần hậu sự vào ngày 7/6/2010 và có mặt tại Pháp ngày 8/6/2010. Nghĩ ngơi 1 ngày, chờ đợi 1 ngày tôi được đưa đến nhìn mặt lần cuối trước khi tiến hành thủ tục hỏa táng vào lúc 14g địa phương ngày 11/6/2010 nhằm vào 19g tại vn. Vòng vo để các bạn hiểu được rằng tuy không chủ động nhưng tôi vẫn tránh được ngày tam nương, ngày nhập và động quan của Bố, và đã có một hiện tượng cực kỳ đáng quan tâm mà tôi đã có cách biện giải của tôi tuy vẫn chưa hết lẽ. Ngày ấy tôi hết sức cẩn thận lo gọi điện về vn để dặn dò người nhà lo phần hoa trái nhang đèn từ sáng, tất nhiên là hoa thật tươi và trái thật ngon! Giờ ra xe tôi lại điện về lần nữa để nhắc nhở vào đúng 19g vn hãy thắp cho tôi 3 nén nhang khấn xin tôi nhận diện Bố như trình Ông ngày tôi đến với Ông, và sẽ đón đưa Bố về với quê hương với dòng họ. Tiếp đó sau hai tiếng là giờ cử hành tưởng niệm đồng thời nhấn nút hỏa thiêu, ở nhà cũng lại thắp nhang cho thật đủ đầy nghi lễ khi đó tương đương 21g vn. Công việc còn lại chúng tôi chờ Nhân Viên hỏa táng báo xong phần việc của họ, chúng tôi ra về. Có lẽ lúc đó là khoảng hơn 22g vn. Mọi người hay đúng hơn là 2 người thân của tôi tại vn đến giờ ngủ. Sẽ không có gì đáng nói nếu không có hiện tượng mà tôi sẽ kể cho các bạn nghe dưới đây. Vào khoảng 3g sáng vn, người thân của tôi chợt thức giấc bởi sự lóe sáng của chiếc điện thoại để bên cạnh do sạc pin báo đầy, và cô ấy cũng thức dậy để thắp tiếp một nén nhang, chợt nhìn thấy bình hoa Lys mới cắm ban sáng đã héo rủ một cách buồn bã cả lá và hoa, nhìn kỹ hơn nữa trong bình khô cạn chẳng còn giọt nước, khô một cách kỳ lạ và rủ một cách đáng thương!! Cô ấy đã gọi điện cho tôi vào đầu giờ sáng của ngày mới để kể câu chuyện này với vẻ hoang mang, nhưng tôi lại có cách lý giải của tôi, vào khoảnh khắc đó lòng tôi cũng xót như ai đốt, thân xác bố tôi đang được thiêu đốt bởi một ngọn lửa của lò thiêu hiện đại với nhiên liệu Gas thì thể nào hoa nơi bàn thờ ông sao chịu nổi với sức nóng? Cảm ứng chăng? Nhưng sâu xa hơn là gì? là một hiện tượng tương tác siêu hình vượt không gian mà khoa học có lý giải được điều này? Khi ấy bên đây tôi trở về căn nhà của Bố vào lúc 22g địa phương, thật nhẹ nhàng mở cửa nhưng Bà mẹ kế tôi vẫn chưa ngủ nên khi bước vào phòng Bà đã bật dậy và nói với tôi "vừa rồi có ai gọi điện thoại cứ ồm ồm không nghe được gì! Má cố hỏi ai đấy nói gì tôi chả nghe gì cả! Tôi cúp máy đây! Thì lại nghe rất rõ câu trả lời "Thôi được rồi" đúng chất giọng câu cửa miệng của Bố khi còn sống. Điều này với tôi không bất ngờ không lạ lẫm nhưng người sống trên 50 năm trên đất pháp như Mẹ kế tôi sẽ không dễ dàng liên tưởng đến mối liên hệ tâm linh hay sự kết nối giữa quan hệ âm dương trong thời khắc này. Là hiện tượng mà chỉ có ở sự tương quan của đông phương chúng ta mới nhận biết được. Còn tiếp
-
Và sáng hôm sau theo lời thuật lại, người nhà tôi cắt cuống châm nước cả bình hoa lại tươi mới như chưa từng héo rủ... nếu như chính các bạn ở trong hoàn cảnh của tôi cũng sẽ hiểu hiện tượng trên là lẽ tự nhiên giao cảm của hương linh người đã khuất.
-
Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn) của smooly_girl đóng góp vào Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 15,099,000 đ + 200,000 đ = 15,299,000 đ (mười lăm triệu hai trăm chín mươi chín ngàn đồng)
-
Thưa chú! Đúng ạ! Không có người phụ nữ Xấu chỉ có người phụ nữ làm đẹp hoài vẫn không đẹp! Hic ! http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/crying.gif
-
Hiện tượng thứ hai có thật từ câu chuyện của thành viên Rừng Nauy. Trấn yểm mộ phần Một học viên lớp Phong Thủy Lạc Việt cơ bản 03 có biệt danh là Rừng Nauy gọi đến Thiên Đồng để kể về một giấc mơ kỳ lạ. Chuyện rằng vị thân phụ của Rừng Nauy mất cách đây đã lâu, nhưng có một đêm, người chị ruột của Rừng Nauy ngủ mơ thấy ông về, cho biết rằng ngay trên đầu mộ tự dưng có ai để một chậu nước và trên chậu nước có một cái cây. Khi tỉnh dậy người chị liền nói với người nhà và sau đó Rừng Nauy cùng chồng tức tốc chạy đến nghĩa trang để xem thực hư ra sao của điềm báo trong mộng. Đến nơi, thật bất ngờ, phía đầu mộ bên trái của cụ là một vật hình trụ tròn bằng xi măng, như ống cống của đường phố, cao hơn 1m, đường kính cỡ 80cm, trong có nước, ở ngay đó, và ở phía trên, cách trụ tròn đó gần 2m là một cây Sứ non, đã cao hơn 1.5m. Hình tượng tương tự như trong giấc mơ mà ông cụ quá cố đã báo. Thật kinh ngạc. Cô bạn Rừng Nauy hỏi Thiên Đồng như thế có sao không và nếu không có cách để di dời hai vật ấy thì làm cách nào, vì sợ động đến chuyện mồ mã. Thiên Đồng bảo cần nên hỏi Sư Phụ Thiên Sứ. Vậy là cô nàng cùng phu quân đến xin sự tư vấn của Sư Phụ Thiên Sứ. Một cuộc hẹn đi đến thực địa thẩm định. Đến ngày, Rừng Nauy đi cùng chồng và một anh bạn là Khôi Nguyên, cũng cùng là học viên lớp Phong Thủy cơ bản 03 đến đón Sư Phụ đi, Thiên Đồng cũng cấp tráp tháp tùng theo đoàn để thẳng tiến nghĩa trang. Băng qua nhiều hàng mộ rồi cũng đến mộ của cụ thân sinh của cô Rừng Nauy. Sư phụ Thiên Sứ, Thiên Đồng, Rừng Nauy và phu quân cùng lễ bái ông cụ xong thì Sư Phụ tiến hành quán xét khu mộ. Sau khi xem xét xung quanh xong và dùng con lắc kiểm tra, Sư Phụ chỉ một chỗ bên trái mộ và bảo: “Trấn nơi đây". Trên đường về, trong xe, Rừng Nauy thắc mắc muốn hỏi rõ vì sao phải làm như vậy? Sư Phụ Thiên Sứ trả lời: -Tôi nói gọn như thế này cho cô nghe, sau khi làm xong thì có hai khả năng xảy ra - Nếu trời hôm đó nắng thì sau khi đặt vật trấn yểm xong thì sẽ có mưa chỉ quanh khu vực nghĩa trang hay rộng hơn tí, hoặc là cả ngày hôm đó mưa (vì Nam Bộ đang trong mùa mưa) thì làm xong trời sẽ nắng ráo. Có nghĩa sẽ có sự thay đổi trái qui luật để nhận biết hiệu ứng của việc trấn yểm hay chính xác hơn thế giới âm chứng thực tác động của vật thể lên âm phần. Mọi sự vận động của con người đều có sự tương tác nhất định theo định luật của vũ trụ mà chúng ta hay giới khoa học đang hướng tới để có sự giải mã ? Nhưng qua công trình nghiên cứu của phong thủy Lạc Việt đã chứng minh một cách khách quan mọi sự kiện không để bị đánh đồng với mê tín hay huyền bí mà người đời thường nghi hoặc. Theo như ngày đã định, người nhà của Rừng Nauy tiến hành việc trấn yểm mộ như tư vấn. Cả ngày đó, từ sáng đến khi bắt đầu làm là 14g00 thì nắng tốt. Đến 14g47 thì Rừng Nauy gọi điện đến Thiên Đồng báo rằng vừa làm xong việc trấn yếm như tư vấn của Sư Phụ, vẩn còn nắng. Nhưng sau đó Rừng Nauy lại gọi đến Thiên Đồng bảo: - Có mưa Thiên Đồng ơi! Thiên Đồng coi xem mấy giờ rồi? - Ba giờ kém năm. (14g55) Nghĩa là ngay sau 8 phút của khi trấn yểm xong thì trời có mưa, mưa rào giữa nắng và hạt hơi to trong khoảng thời gian ngắn rồi tạnh. Tôi kể lại và chờ thêm sự giải thích từ các bậc học giả uyên thâm hay các nhà khoa học ngoại cảm. Đồng thời có lời xin phép Rừng Nauy vì đã đưa câu chuyện riêng này, nhằm khẳng định giá trị của PTLV chúng ta.
-
@ dangthu79 thân mến! Mình có chút ý kiến với bạn, nếu như thật sự bộ răng của bạn mất thẩm mỹ đến mức cần phải can thiệp như bạn kể thì cũng chẳng ảnh hưởng lắm về tướng pháp, nhưng ngược lại nó chỉ mang cho bạn cảm giác không hài lòng vì mất trật tự và vẫn tạo cho bạn nét riêng cho khuôn hình thì không cần thiết phải thô bạo với nó quá, bởi dù sao về mặt sức khỏe cũng ảnh hưởng (do chịu đau) ảnh hưởng thói quen của tầm nhìn v.v...do đó bạn có thể quyết định theo hoàn cảnh thực tế mà đừng động chạm đến nếu cuộc sống hiện nay tạm hài lòng và nhàn nhã. Vài dòng đóng góp!
-
Người Pháp nói về chọn quốc hoa cho VN Laurent Séverac - chuyên gia mùi hương và Patrice Gautier- doanh nhân, hai người Pháp tỏ quan tâm quanh chọn quốc hoa của Việt Nam. Laurent Séverac: Với tôi, chỉ có hoàng lan Tôi đến Việt Nam được 17 năm, nghề nghiệp chính là chế tạo tinh dầu từ hoa. Hoàng lan, ngọc lan đó là HOA VIỆT NAM đối với tôi. Hoa sen cũng tốt đấy, nhưng với tôi, với nước hoa, thì hoàng lan vẫn là nhất. Hoa sen chỉ mọc ở đầm, hồ, ao còn hoàng lan ở Hà Nội và khắp miền đất nước, trồng nhiều nhất ở các ngôi chùa. Như tôi thấy, người Việt cũng hay đến chùa đấy chứ. Việt Nam là đất nước có nhiều loại hoa đẹp: Mai, đào, hoa nhài… nhưng tôi không thể chọn loài nào khác ngoài hoàng lan, vừa đẹp lại thơm nữa. Laurent Séverac không chỉ là chuyên gia cho chuỗi các khách sạn, bar có tiếng ở Việt Nam: Sofitel Metropole, Sofitel Plaza, Novotel Phan Thiết, Mandarin Nha Trang, Inter Continential và Six Senses Spa mà còn là chuyên gia tư vấn mùi hương cho nhiều doanh nghiệp châu Á và Việt Nam. Laurent dùng mùi hương chế tạo một số loại rượu mang tên mình. Laurent say mê hoàng lan, vì tinh dầu này được dùng trong điều trị bằng xoa bóp dầu thơm. Tinh dầu hoàng lan cũng được dùng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông. Mùi hoàng lan pha trộn khá tốt với phần lớn các loại mùi cây cỏ, hoa quả và gỗ. Patrice Gautier: Không hoa sen thì biết chọn gì Tôi đến Việt Nam 10 năm, biết đến hoa sen, hoa mai, hoa đào. Tôi thích nhất hoa sen vì nó đặc biệt, hương thơm, ướp trà cũng rất ngon. Mai, đào đẹp nhưng thực sự không đặc trưng, ấn tượng. Người nước ngoài thấy ấn tượng nhất với hoa sen, không phải mai, đào. Bản thân tôi là người Pháp, sinh ra ở Bretagne, khi đến Việt Nam ấn tượng nhất với sen-loài hoa mà hầu khắp các nước châu Âu không có. Tám năm nay tôi sống ở Quảng An (Hà Nội), cứ đến dịp lại ra hồ sen ở phủ Tây Hồ thưởng hoa. Tôi còn có anh bạn làm quản lí ở một hồ sen ở đó. Khí hậu Việt Nam khá hợp với tôi, chỉ hơi nóng một chút. Quê hương tôi lạnh quá và mưa nhiều. Tôi chọn hoa mào gà. Tại sao ư? Theo tôi, nếu chọn một con vật tiêu biểu làm biểu tượng cho đất nước ta thì đó là con gà trống. Nó tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta - Giáo sư Vũ Khiêu nêu quan điểm nghiêm túc của ông về quốc hoa, và cả quốc phục. Ảnh minh họa Theo tôi, chọn quốc hoa là việc nên làm. Sớm hay muộn cũng làm, nên không nhất thiết đặt vấn đề đã cần chưa. Nếu bây giờ có thể làm được thì cứ làm. Nhiều người muốn chọn hoa mai hay hoa đào. Tôi thấy những hoa đó không tiêu biểu cho Việt Nam. Hoa mai và hoa đào của Trung Quốc đẹp hơn nhiều. Họ cũng có hàng trăm, hàng ngàn bài thơ vịnh về hai loại hoa này. Đào và mai của chúng ta không thể so sánh được. Không nên lấy nó làm đại diện cho Việt Nam. Hoa sen cũng vậy. Sen có ở rất nhiều nước, đặc biệt là Ấn Độ. Nó không phải là loài hoa đặc trưng của chúng ta. Giáo sư Đặng Vũ Khiêu: Tôi chọn hoa mào gà Tôi chọn hoa mào gà. Tại sao ư? Theo tôi, nếu chọn một con vật tiêu biểu làm biểu tượng cho đất nước ta thì đó là con gà trống. Nó tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta. Trong dân ta có câu “Xưa nay gà trống vẫn anh hùng/ Cất tiếng chào đời thế giới rung”. Gà trống là con vật được quý trọng trên đất nước Việt Nam. Trong một đàn gà thì gà trống bao giờ cũng đứng đầu, săn sóc cả đàn. Nếu có con vật khác đến thì nó sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ đàn gà của mình. Vì vậy, gà trống rất xứng đáng. Từ đó, hoa mào gà- hình tượng của cái mào trên đầu con gà trống cũng có thể được xem là bông hoa của chủ nghĩa anh hùng. Bông hoa đỏ rực lên, như màu của trái tim, của dòng máu, của lý tưởng dân tộc ngàn đời. Thế của hoa mào gà cũng đẹp, luôn luôn vươn cao. Tiêu biểu cho ý chí vươn, thể hiện tấm lòng son sắt, thể hiện trái tim của người Việt với Tổ quốc mình, với cả nhân loại. Thôn quê Việt Nam trước đây, nhà nào cũng trồng cây hoa mào gà nên không thể nói là nó không gần gũi với đại đa số người dân. Chọn quốc phục cũng cần thiết. Nhìn lại trang phục của các thời kì lịch sử, nhiều bộ rất đẹp. Nhưng cũng không nên bê nguyên xi trang phục của thời nào để làm quốc phục. Chỉ nên xem xét lại vẻ đẹp của các trang phục trong lịch sử, từ đó kế thừa, vẽ ra trang phục mới phù hợp với cuộc sống. Quốc phục phải đẹp mắt, gọn gàng, tiện dụng. Đừng nghĩ quốc phục là phải quay về quá khứ. Đừng ăn sẵn của tổ tiên. Tổ tiên chắc cũng phiền lòng nếu con cháu không nghĩ ra được bộ quần áo thích hợp với thời đại của mình, cuộc sống của mình. Nên dũng cảm tìm ra quốc phục mới phù hợp và đẹp mắt. Không phải cứ phục cổ mới là dân tộc đâu. Tính dân tộc cũng chính là tính hiện đại, hai cái đó thống nhất. Quay về quá khứ không có nghĩa là giữ gìn bản sắc dân tộc. Thế là đánh mất mình vào trong quá khứ. Buộc mình quay lại quá khứ hay hòa tan theo bên ngoài đều có thể xem là một sự tha hóa, biến mình thành người khác. Phải tự chọn con đường đi, chọn bộ quần áo phù hợp để mặc. Quan niệm giữ bản sắc dân tộc là phải giữ mọi thứ của cha ông là quan niệm lạc hậu, nệ cổ. Có thể lựa chọn thành tựu chung của thế giới nếu nó phù hợp với chúng ta, biến thành của chúng ta thì đã thành dân tộc rồi. Cái gì phù hợp nhất với sự phát triển của đất nước ta, với hoài bão của con người ta, chí lớn của dân tộc ta bây giờ thì cái đó là dân tộc. Cốt lõi của bản sắc dân tộc ta là lòng yêu nước, sự vươn lên, là tấm lòng bao la với bạn bè thế giới. Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, học giả nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Khoa học Xã hội VN). Tác giả 30 cuốn sách, tham gia biên soạn 30 cuốn sách về nhiều lĩnh vực: Triết học, văn học, nghệ thuật, văn hóa, xã hội. Các tác phẩm của ông về văn hóa bao gồm: Đẹp, Anh hùng và nghệ sĩ, Cách mạng và nghệ thuật…Tác phẩm lớn nhất của ông là bộ sách Bàn về văn hiến Việt Nam ba tập, gần 1.500 trang. Ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt I, năm 1996. Năm 2000, nhận danh hiệu Anh hùng lao động thời kì đổi mới. Năm 2006, ông được trao Huân chương Độc lập hạng Nhất vì thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp phát triển khoa học xã hội và nhân văn. Nhược điểm của một số ứng viên Ngoài các ưu điểm mà ai cũng biết thì hoa đào, sen, mai cũng có nhược điểm, “gây khó khăn” cho người bầu chọn Hoa sen: Không nở quanh năm mà chỉ nở vào mùa hè, tuy nhiên thời gian nở hoa kéo dài hơn so với đào, mai. Trùng lặp với quốc hoa của Ấn Độ và Sri Lanka, là biểu tượng của Phật giáo. Hoa mai: Chỉ nở vào mùa xuân; ở miền Bắc chưa phát triển nhiều. Hoa đào: Nguồn gốc sâu xa từ phía Bắc. Hiện tại hoa đào phía Bắc (Trung Quốc, Nhật Bản...) có chủng loại phong phú và chất lượng cao hơn - hoa to, bền, đẹp hơn. Hoa tre: Không đẹp, ít xuất hiện trên thực tế. Chỉ trồng ở nông thôn. Ít thông dụng trong trang trí (kể cả cắt cành, hoa chậu, trồng làm phong cảnh, trang trí). Hoa gạo: Không đẹp, không có hương thơm. Chỉ nở vào tháng ba. Không phù hợp để trang trí mọi nơi, mọi lúc. Không có giá trị lịch sử. Ít giá trị thẩm mỹ, hội họa. (Đánh giá của Viện Nghiên cứu rau quả, dựa theo dự thảo tiêu chí quốc hoa Việt Nam) Theo Tiền Phong
-
Nếu đúng như bạn mô tả dạng nốt đỏ gọi là nốt ruồi son thì trên cả sự tốt và có quyền bính nếu như màu sắc luôn ửng đỏ, chỉ đến khi mất hoặc nhạt màu sẽ có thay đổi.
-
Đến chùa Bà Đanh ngắm cảnh... thanh vắng! Chùa Bà Đanh là một danh thắng của đất Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, từ xa xưa vẫn gắn liền với câu thành ngữ nổi tiếng “vắng như chùa Bà Đanh”. Trên đường tìm đến ngôi chùa này, tôi cứ ngẫm nghĩ và tò mò mãi, không biết chùa Bà Đanh vắng vẻ, hiu quạnh thế nào mà dân gian lại lưu truyền như vậy? “Vắng như chùa Bà Đanh” Từ thành phố Phủ Lý rẽ vào quốc lộ 21, đi cầu Quế khoảng hơn 1km, chúng tôi thấy chùa Bà Đanh thấp thoáng hiện ra sau những bóng cây. Ngôi chùa u tịch nhìn ra con sông Đáy trôi chảy hiền hòa. Bến nước của chùa Bà Đanh nằm thoai thoải bên bờ sông, các bậc đá màu xám ngà ngà nổi bật giữa màu xanh của cây cỏ và dòng nước phẳng lặng như gương. Chùa Bà Đanh hiện ra thấp thoáng sau những bóng cây Con đường nhỏ dẫn vào chùa Bà Đanh rợp bóng nhãn, vải Đi qua chiếc cầu treo Cấm Sơn khá bề thế bắc qua sông Đáy, vòng lên một đoạn đường đê vắng vẻ, chúng tôi bắt gặp tấm biển bằng đá ghi “Di tích lịch sử văn hoá chùa Bà Đanh và núi Ngọc”. Chùa Bà Đanh thuộc địa phận thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cách núi Ngọc khoảng 100m. Từ núi Ngọc và từ chân đê, đi qua những đoạn đường nhỏ vắng lặng rợp bóng vải thiều, nhãn..., du khách sẽ thấy tam quan chùa Bà Đanh hướng về phía con sông Đáy thơ mộng. Khoảng sân rộng được lát đá trồng nhiều loại cây như đa, hoàng lan, sứ… Những cây bưởi trĩu quả vỏ vàng tươi tắn, những cây táo ta sai quả gợi nên hình ảnh một cuộc sống thanh đạm mà trù phú. Đặc biệt, ngôi chùa trồng một cây đào tiên tán thấp có quả to, tròn và dẹt dẹt như bưởi nhưng vỏ nhẵn thín màu xanh bóng, chi chít đầy cành. Tam quan ngôi chùa Một góc sân chùa u tịch Chùa Bà Đanh gồm nhiều công trình như: nhà bái đường, nhà thượng điện, nhà rung đường, phủ thờ Mẫu, nhà tổ… Trên các cột và vì kèo chạm khắc tinh vi theo đề tài “Ngũ phúc”, “Tứ linh”, “Tùng mã”, “Mai điểu”… Ngay gần đó là một bến nước lớn uy nghiêm nhưng vắng vẻ, trên các bậc lên xuống của bến nước, lá đa rụng đầy gợi không khí u tịch. Đứng trên bến nước, ngắm nhìn khung cảnh sơn thủy hữu tình, cái lặng yên nhắc cho trái tim mẫn cảm nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Ngôi chùa của những truyền thuyết dân gian Chùa Bà Đanh có tên chữ là Bảo Sơn tự, ngoài thờ Phật còn thờ Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu và Tứ Pháp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (bao gồm Pháp Vân - mẹ Mây, Pháp Vũ - mẹ mưa, Pháp Lôi - mẹ Sấm, Pháp Điện - mẹ Chớp). Lịch sử xây chùa Bà Đanh gắn liền với nhiều truyền thuyết lạ kỳ như tích về mẹ Phật Man Nương – được cho là nguồn gốc của Tứ Pháp – vốn lưu truyền rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Một toà nhà trong tổng thể kiến trúc chùa Bà Đanh Đến chùa Bà Đanh, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo Bến nước chùa Bà Đanh nằm bên con sông Đáy hiền hoà lá đa rụng đầy Con rồng đá nơi Tam quan Tượng Bà Chúa Đanh được thờ trong chùa tương truyền là một người con gái được các Thần phái về để trông coi vùng này. Từ khi nhân dân trong vùng xây xong chùa thì sản xuất thuận lợi, không còn thiên tai mất mùa, đời sống trở nên đầm ấm, trù phú. Do đó, trong tâm thức dân gian Bà Chúa Đanh chính là vị thần mùa màng, phù hộ cho nông nghiệp. Nhiều người kể rằng do chùa Bà Đanh quá linh thiêng nên khách thập phương cũng ít dám ghé qua vì sợ nếu thất lễ sẽ bị trừng phạt. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chùa ở xa khu dân cư, cách trở núi sông, giao thông không thuận tiện nên ít người lui tới. Dù giải thích thế nào thì dường như nguồn gốc câu thành ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh” vẫn là một bí ẩn! Bài và ảnh: NGUYÊN ANH (NLĐ)
-
Người thương mãi nón cổ làng Chuông Từ chiến trường trở về quê nhà khi chỉ còn một chân, ông không ngờ rằng mình lại lao vào một cuộc chiến nữa. Trải qua biết bao gian khổ, nhiều lúc tưởng chừng không đủ sức đi tiếp nhưng rồi sức mạnh của ý chí và tinh thần quả cảm của ông đã giúp cho cuộc khôi phục nghề nón thúng quai thao cổ truyền thắng lợi. Về làng Chuông, người ta nói đến nghệ nhân Phạm Trần Canh với một niềm khâm phục xen lẫn tự hào. Âu có lẽ bởi tình yêu và đôi bàn tay tài hoa khéo léo của nghệ nhân già ấy đã góp phần làm sống lại nét đẹp cho những chiếc nón cổ làng Chuông thủa nào. Rơi nước mắt vì làng nón Chúng tôi cho xe chạy dọc con đê xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội để được ngắm nhìn những nõn lá cọ được phơi nắng trắng triền đê. Làn nắng vàng rọi xuống từng bó lá, một mùi hương dìu dịu lan tỏa khắp không trung, đẩy lùi đi ký ức của một thời nón đau thương. Người làng Chuông không biết ai là ông tổ của nghề nón, chỉ nghe tổ tiên kể lại chiếc nón ra đời và gắn bó với mảnh đất Chuông giàu văn hóa tự thủa nào. Những chiếc nón trắng đặc trưng của làng từ thời phong kiến đã từng được dùng cung tiến hoàng hậu, công chúa trong cung cấm. Nghệ nhân Phạm Trần Canh kể lại rằng, cách đây chừng ba thế kỷ, làng Chuông vẫn làm nón, nhưng là nón cổ. Nón cổ dày, cũng làm bằng lá, nhưng nan và vành rộng, chủ yếu dùng để che nắng cho các bà, các chị khi đi làm công việc đồng áng. Không chỉ có che nắng, mà còn có bộ đôi là nón và tơi để che mưa. Hơn thế nữa, Nón Chuông đẹp dáng lại bền, được dùng là kỷ vật tạo ra vẻ dịu dàng của bao cô gái bước lên xe hoa về làm dâu nhà chồng. Cả xứ Bắc Kỳ không mấy nơi là không biết tới nón làng Chuông. Trong sâu thẳm ký ức của người nghệ nhân già vẫn còn nhớ đến những năm tháng chiến tranh kéo dài làm xóa nhòa trong trí nhớ mọi người về cách làm nón quai thao tinh xảo một thời. Người dân làng Chuông lúc đó, phần thì li tán, phần chết vì bom đạn, đói kém, số còn lại cũng chỉ duy trì cách làm nón thông thường. Ông Canh thủa ấy mới 16 tuổi đã phải nén đau thương cho những chiếc nón cổ đang dần tan biến cùng lửa đạn chiến trường để vác ba lô tham gia vào Vệ quốc đoàn làm liên lạc cho trung đội 27, tiểu đoàn Đống Đa. Khi hòa bình lập lại thì những nghệ nhân già nhất trong làng cũng mất đi, không kịp truyền lại nghề cho con cháu. Từ đó, chẳng ai còn biết cách làm nón cổ truyền ra sao nữa. Miệt mài với đường kim mũi chỉ. Ảnh Tự Lập Một chân đi tìm nón cổ Năm 1954, với thương tật 2/4, cụ Canh trở về nơi đã sinh ra mình cùng người vợ quê gốc Nghệ An. Về làng thấy chẳng còn ai biết làm nón cổ, ông xót xa khi chứng kiến cái nét đẹp của quê hương đang dần mai một, vậy là ý chí không ngại gian khổ của "anh bộ đội Cụ Hồ" đã thôi thúc cụ khôi phục tinh hoa làng nghề. Những dòng ký ức của tuổi ấu thơ tràn về, cái thời lên 9, lên 10, ông đã được người mẹ của mình cho xem làm các mẫu nón cổ truyền sao mà đẹp đến thế. Rồi có ngày, một số đoàn văn công, đoàn quan họ đã tìm về làng để đặt làm những chiếc nón cổ, nón thúng quai thao làm phục trang biểu diễn càng làm cho ông quyết tâm khôi phục lại nghề khâu nón cổ truyền. Từ đó, ông bắt đầu cuộc hành trình làm "sống lại" chiếc nón cổ quê mình. Chỉ còn một chân vậy mà ông đã gắng rong ruổi khắp chốn, đến các vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình... tìm mua những chiếc nón thúng quai thao, nón dân tộc Thái cũ. Vất vả lắm, vì cầu phà nhiều, mỗi khi xuống bến phà khổ lắm. Đi cái chân gỗ lại phải dắt cái xe xuống bến phà khó và khổ vô cùng. Nhưng ngày nào chưa tìm ra, là ngày đó còn ăn không ngon, ngủ không yên. Cả tháng lăn lộn khắp các tỉnh để dò hỏi, nghe ngóng hễ ở đâu có nón là ông Canh lại mày mò đến hỏi mua cho bằng được. Có những đợt thời tiết thay đổi, vết thương tái phát, phần còn lại của chân phải bị thương nhức buốt ông đã nghĩ đến chuyện ra về tay trắng. Nhưng ông lại nhìn cái chân và nghĩ: "chẳng nhẽ mình đã tàn lại còn bị phế ư?". Rồi bàn chân ông lại tiếp tục bước trên những nẻo đường xa quê. Tìm khắp chốn, rồi rui rủi thế nào ông lại về Hà Nội, vào một ngôi chùa ông đã tìm thấy chiếc nón cổ. Sau đó, ông ra chợ Đồng Xuân và nhờ một người phụ nữ mua hộ. Sư chùa biết được tấm lòng của ông nên đã không lấy tiền. Nhưng ông vẫn dấu bà nhà trả 30 ngàn cho người mua hộ nón. Ông vui sướng mang về tháo rời ra để nghiên cứu kích cỡ, kiểu dáng, cách khâu rồi ghi chép lại một cách tỉ mỉ. Bằng trí nhớ của mình, ông hình dung lại cách làm nón mà ngày xưa bà nội từng làm. Ngoài những chiếc nón truyền thống, ông Canh còn khôi phục cả những chiếc nón của người Hoa. Ảnh Tự LậpMang tinh hoa trở lại Những ngày đầu, chưa quen, kim đâm loạn xạ, khắp người chỗ nào cũng có vết trầy xước của tre nứa và kim đâm. Thấy ông đánh vật với những đường kim mũi chỉ, không ăn, không ngủ; lo lắng cho sức khoẻ của bố, các con ông đều khuyên ngăn, nhưng ông một mực không chịu. Ông tự nhủ: "Đời lính Cụ Hồ, đánh giặc khó vậy còn làm được, thì có gì không làm được... Sau một thời gian kiên trì, mày mò, ông cũng hoàn thành được chiếc nón quai thao - nón ba tầm. Cuối cùng cái nghề nón cổ xưa của ông cha đã trở lại. Ông mừng lắm, rồi ông bật khóc như một đứa trẻ. Có lẽ ai cũng nhận ra rằng, những chiếc nón cổ dường như bị "bỏ rơi" do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, làm nón cổ, đòi hỏi nhiều công đoạn công phu tỉ mỉ mà lợi nhuận lại không cao, cho nên nó dần chìm vào quên lãng là điều rất dễ dàng. Làm nón cổ công phu và phức tạp từ khâu làm lá, lắp lá vào rồi khâu nón, cạp nón cho đến trang trí... Tất cả đòi hỏi người thợ phải thật kiên trì, khéo léo để chiếc nón tròn, khít, mịn từ mép lá đến đường kim mũi chỉ. Làm ra được một chiếc nón quai thao phải mất 3 ngày, đòi hỏi người thợ bỏ ra nhiều công sức và thời gian gấp mấy lần những chiếc nón bình thường. Một chiếc nón quai thao muốn hoàn thành phải trải qua 6 công đoạn, mỗi công đoạn có những cái khó khác nhau. Những chiếc lá cọ chở từ Phú Thọ về sẽ được đem đi phơi nắng chừng 3 ngày. Khi lá cọ đã chuyển từ xanh sang trắng và khô lại, chúng sẽ được cắt ra, độ dài tuỳ thuộc vào đường kính vành nón định làm. Trong công đoạn đầu tiên này và cũng khó nhất là việc là lá bằng lưỡi cày nung nóng, làm cho lá thẳng ra. Một chiếc nón quai thao cổ thường ghép bằng 4 lọn lá, phía bên trong mặt nón được ghép bằng những mảnh vải đỏ hoặc vàng trải phẳng, chỗ buộc quai nón được đan bằng những sợi chỉ nhiều màu sắc... Với sự cần mẫn và lòng yêu nghề, cuối cùng, ông đã hoàn thành những chiếc nón quai thao, nón ba tầm đầu tiên. Những chiếc nón cổ được hồi sinh trở thành phục trang quen thuộc của các đoàn nghệ thuật và là một vật dụng trang trí nghệ thuật trong các ngôi nhà. Nhưng ông lại sợ một ngày nào đó khi ông ngã xuống, chiếc nón quai thao ấy lại thất truyền một lần nữa. Vì thế, ông đã mở lớp dạy làm nón miễn phí cho người dân quanh vùng. Không phân biệt nam nữ, già trẻ, chỉ cần có một tấm lòng yêu nghề, muốn giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống là ông dạy liền. Tính đến nay cũng đã có gần 100 người theo học. Giờ đây, ở cái tuổi "cổ lai hy", sức khỏe hạn chế đi nhiều nhưng nghệ nhân Phạm Trần Canh vẫn không ngừng sáng tạo. Ngày ngày, ông vẫn cần mẫn với công việc làm nón. Ông còn phục chế lại nhiều mẫu nón cổ khác như nón dân tộc Thái, nón chóp dứa, nón lá già ghép sóng, nón Hồng Kông... Với nghệ nhân Phạm Trần Canh duy trì nghề làm nón cổ không chỉ góp phần vào việc gìn giữ, bảo tồn những nét văn hóa độc đáo của Việt Nam. Mà ông còn giúp cho giới trẻ nhận ra rằng để tinh hoa làng nghề mai một là có tội với ông cha. Tác giả: Tự LậpBài đã được xuất bản.: 27/06/2010 06:00 GMT+7 Tuànvietnamnet
-
Trị liệu mệt mỏi tâm thần và thể xác BS. Trương Thìn (ảnh) (Giám đốc Trung tâm Y học cổ truyền hiện đại Hồng Bàng) thường xuyên có những buổi chia sẻ về những liệu pháp để giữ gìn sức khỏe. Rất nhiều người đã đến nghe ông nói để giải tỏa mệt mỏi, được ông hướng dẫn cho bí quyết trị liệu mệt mỏi tâm thần và thể xác. Dưới đây là buổi nói chuyện về sức khỏe của BS.Trương Thìn. Con người khi làm việc quá nhiều, cứ suốt ngày suy nghĩ, tính toán thì sức sống, năng lượng được huy động tối đa (lao lực), dẫn đến suy nhược cơ thể. Đồng thời con người có những tính khí nóng nảy, lo lắng, sợ hãi, dễ gây gỗ thì đó là biểu hiện của suy nhược về tâm thần (lao tâm). Để sống khỏe thì không nên quá lao tâm, lao lực. Vậy liệu pháp nào để “làm việc nhiều mà… ít mệt”? Theo tôi chúng ta không nên làm cho não mệt, chỉ nên tập trung làm những công việc mình yêu thích. Khi tập trung làm công việc mình yêu thích thì vùng não (tương đương với việc đó) hoạt động còn các vùng não khác sẽ được nghỉ ngơi. Đồng thời cũng không nên cố sức làm tới cùng một công việc nào đó mà làm đến một mức độ vưa phải rồi làm một việc khác để cho vùng não chú ý vào việc trước đó được nghỉ ngơi và kích hoạt vùng não khác (khi ta chú ý vào việc khác) hoạt động. Và cứ thế xoay vần từ việc này qua việc khác để các vùng não đươc làm việc, nghỉ ngơi… như thế sẽ không căng thẳng mà lại làm được nhiều việc. Tất nhiên khi làm một việc gì chúng ta chỉ nên để tâm đến việc mình đang làm, chỉ biết việc ấy chứ đừng suy nghĩ tùm lum, đó là trạng thái “thiền định”. Còn với một người không làm việc gì thì có thể tập thiền theo cách biết hơi thở, bước đi nghĩa là chúng ta hướng duy nhất một vùng não hoạt động (hô hấp hay cử động đi) chứ không kích hoạt toàn bộ bộ não nghĩ lung tung. Do vậy tôi cho rằng người trí thức khi làm việc chú tâm, biết việc mình làm thì cũng giống như… thiền sinh. Nhân đây tôi cũng xin nói thêm liệu pháp để giảm căng thẳng là không nên suy nghĩ nhiều. Theo tôi người càng suy nghĩ nhiều, càng đăm chiêu là người càng yếu về tinh thần. Chính vì vậy khi gặp những việc khó khăn chúng ta không nên cố ép mình phải nghĩ rồi bế tắc, lo sợ mà nên ngủ nghỉ, đi chơi. Sau khi ngủ nghỉ xong chúng ta sẽ có cách giải quyết hay hơn là cố bắt bộ não phải nghĩ. Hãy thương bộ não của mình, đó là điều mà tôi muốn chia sẻ. Các bạn đừng bắt bộ não chứa nhiều, đừng ham thu thập, nhận tất cả những cái xung quanh mà hãy nhận những cái mình thích và cần thôi. Phải học cách biết quên để không nhớ quá nhiều vì nhớ đủ thứ chuyện, thu thập đủ thứ chuyện thì toàn bộ não phải làm việc. Điều này dễ dẫn đến căng thẳng. Có những chuyện chẳng hay ho gì, những chuyện ở đâu đâu chúng ta cũng hay vơ vào mình, “save”(lưu) vào trong não, đó là những “chất độc” và hóa ra chúng ta đang đầu độc bộ não của mình. Bộ não của con người cũng giống như các ổ đĩa trong máy tính, nếu chúng ta lưu nhiều thì nó sẽ đầy, sẽ mệt mỏi, chậm chạp, đến lúc bệnh. “Lưu” mà không biết chọn lọc thì sẽ gặp phải… virus vào phá hỏng bộ não. Do vậy mọi người không nên ôm đồm nhiều thứ từ việc học đến việc làm cũng vậy vì làm não mệt moi dẫn đến thể xác và tâm thần đều bệnh! Thêm một vấn đề nữa đó là buồn, giận, yêu thương, lo lắng, sợ sệt… đều có lợi cho sức khỏe. Lâu nay chắc các bạn nghĩ rằng chỉ có vui mới có lợi cho sức khỏe? Tuy nhiên phải lưu ý là những trạng thái tinh thần trên chỉ có lợi khi những yếu tố đó loãng, nếu nó đậm đặc thì sẽ có hại. Ví dụ như khi các bạn vui vui thì sẽ cảm thấy hạnh phúc nhưng nếu quá vui mà không có điểm dừng thì lại có hại. Tương tự, lo lo thì được nhưng nếu quá lo thì sẽ làm bấn loạn tinh thần. Và sợ, buồn… cũng vậy! Khi vui, buồn, lo, giận, sợ… tất cả những thứ này đều cần phải được biểu hiện, không được nén những thứ đó lại vì như thế sẽ sinh bệnh. Khi ai đó buồn muốn khóc tôi luôn để họ khóc, thậm chí khóc theo, bảo họ khóc nữa đi…, bởi khóc là con đường giải tỏa buồn bực. Nén khóc là bệnh đó. Đồng thời người bên cạnh (bạn bè, người thân,…) cũng cần có sư đồng thuận với những cảm xúc của người đang vui, lo, buồn… để làm cho tình trạng tâm lý đang có không kết dính và trở nên đậm đặc. Cuối cùng, điều tôi muốn gửi gắm đến các bạn là nghệ thuật chính là vị thuốc quý của tâm hồn, nó chuyển nỗi đau thành hạnh phúc. Vì vậy thưởng thức thơ, nhạc, họa là cần thiết, đặc biệt là khi thơ, nhạc, họa ấy phù hợp với tâm trạng sẽ làm cho con người vơi bớt ưu tư, lo lắng, hay mệt mỏi, muộn phiền. Chúc Tiệu ghi giacngovn.online
-
Có thể quan điểm của Thầy cũng theo thuyết nhà Phật 1 cách tuần tự " ĐẠI HÙNG - ĐẠI LỰC - ĐẠI TỪ BI" chăng?
-
Gia vị giúp chống bệnh tật 16/06/2010 17:51 Gừng - Ảnh: T.Nguyên Báo The Times of India dẫn thông tin từ các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ cho biết một số loại gia vị bảo vệ sức khỏe của bạn: - Bột ớt giúp giảm đau khớp. Nghiên cứu cho thấy capsaicin có trong ớt có đặc tính chống viêm, qua đó giảm đau và sưng phồng do viêm khớp. - Quế có tác dụng ngừa tiểu đường týp 2 và bệnh tim. Một cuộc nghiên cứu cho thấy khoảng một nửa muỗng cà phê bột quế giảm hàm lượng đường glucose, giảm cholesterol và triglyceride trong máu. - Tỏi cải thiện sức khỏe bệnh tim. Ăn tỏi giúp giảm hàm lượng cholesterol và triglyceride trong máu khoảng 10%. - Gừng chứa nhiều chất chống ô-xy hóa và có thể giúp chống nhiều bệnh tật. Gừng giảm các cơn đau thắt cũng như đầy hơi trong hệ tiêu hóa. Gừng cũng là liệu pháp tuyệt vời điều trị cơn buồn nôn do say xe, mang thai hoặc say rượu. H.Y thanhnienonline
-
Vụ Ngôi sao điện ảnh giá 200 triệu?: Thí sinh tố cáo bị hành hung 27/06/2010 23:55 Mắt Vũ Lâm bầm tím do bị đánh - Ảnh: N.S Sau khi lên tiếng tố cáo đạo diễn Thanh Quỳnh “ra giá” 200 triệu và đã nhận trước 180 triệu đồng nhưng không “sắp xếp” được giải cao nhất trong cuộc thi Ngôi sao điện ảnh triển vọng 2010 cho mình, thí sinh Vũ Lâm đã bị đánh sưng mặt. “Mày có dừng việc này lại không” Tiếp xúc với Thanh Niên hôm qua, Vũ Lâm vẫn chưa hết lo sợ, cô kể: “Lúc đó là khoảng 5 giờ 45 chiều ngày 25.6, sau khi đi từ nhà mẹ tôi ở Q.7 về nhà tôi ở chung cư Vạn Đô, Q.4, tôi đang đi trên hành lang tầng 11 để vào nhà thì bất ngờ bị một ai đó vỗ vào vai. Khi quay lại thì thấy một thanh niên lạ mặt và nhanh như chớp, anh ta đã đấm thẳng vào mặt tôi với lời đe dọa: “Mày có dừng việc này lại không”. Tôi bị choáng váng và té xuống sàn. Sau khi mở mắt ra la lên thì người đó đã chạy mất”. Đến hôm qua, mặt Vũ Lâm vẫn còn bầm tím, tay chân cũng bị nhiều vết xây xát do té xuống sàn. Tuy nhiên khi được hỏi vì sao ngay lúc đó không báo cho cơ quan bảo vệ pháp luật mà đến hôm nay mới lên tiếng, cô thành thật: “Tôi ngại phải mất nhiều thời gian lên ngồi tường trình sự việc”. * Nói vậy sao cô lại báo cho chúng tôi biết? - Vì gia đình thấy mắt tôi bầm tím mới bảo nên đưa sự việc này ra ánh sáng. Ban đầu tôi cũng không nghĩ cho báo biết vì bản thân tôi thấy mặt mày bị đánh thế này nếu đưa lên báo không tiện. Nhưng tôi nghĩ người ta làm chuyện xấu rồi còn hại người khác nên cần phải lên tiếng. Hiện tại tôi đi đâu cũng có người nhà đi kèm và tôi cũng đã chuyển chỗ ở để an toàn cho bản thân. “Tôi tức là mình không có bằng chứng” * Nếu như phải ra công an tường trình sự việc, cô có thể tả hình dáng người đã đánh mình? - Vì quá bất ngờ nên tôi chỉ nhớ anh ta mặc áo trắng, da trắng, cao hơn tôi một chút. Anh ta đi từ thang máy ra. Vì quá bất ngờ và bị đánh vào mắt nên tôi không nhìn thấy nhiều. Tôi chỉ nhớ như vậy thôi. * Lúc đó có ai nhìn thấy không? - Trên hành lang lúc đó chỉ có mình tôi, không có ai nữa. Khi tôi tri hô lên cũng không có ai nghe thấy. * Hiện cô có xích mích với ai để dẫn đến việc mình bị đánh không? - Tính tôi không tiếp xúc nhiều với xã hội và tôi cũng không hận thù với ai. Tôi đi học chỉ với 1 thầy, 1 cô, và ít tiếp xúc bên ngoài. Từ hôm xảy ra chuyện đến giờ, tôi chỉ tiếp xúc với những người có liên quan đến sự việc này. Tôi tức là mình không có bằng chứng nếu không tôi có thể biết được người hại mình. Đây là lần đầu tôi gặp trường hợp này nên bức xúc rất muốn làm sáng tỏ. Dạ Ly nguồn Thanhnienonline
-
Nhà sư có nên kinh doanh Tác giả: Đại đức Thích Thanh Thắng Bài đã được xuất bản.: 28/06/2010 06:00 GMT+7 Người Phật tử muốn đặt chân vào lĩnh vực kinh doanh thì cần phải được định hướng bằng những giá trị xuyên suốt của Phật giáo để không đi chệch mục đích tốt đẹp ban đầu. LTS: Ngay sau khi đăng tải bài viết của doanh nhân Tạ thị Ngọc Thảo: "Kinh doanh là dấn thân, thương trường là cõi Phật?", Tuần Việt Nam chúng tôi nhận được bài viết của Đại đức Thích Thanh Thắng bàn xung quanh chủ đề này. Tuần Việt Nam xin trân trọng đăng tải. 5 loại bất thiện sinh kế không nên làm Người Phật tử quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế, bởi lẽ chất lượng cuộc sống cần phải được nhìn nhận thẳng thắn và khách quan trên cả hai bình diện vật chất và tinh thần. Sự giàu có của người Phật tử trong một quốc gia mà dân số chủ yếu theo Phật giáo không chỉ đánh giá chất lượng phát triển của một nền kinh tế mà còn chỉ ra những mục tiêu, đích hướng làm giàu thông qua những việc làm ích mình, lợi người và ích lợi cho cả hai. "Nhà sư có nên làm giàu hay không?" luôn luôn là một đề tài nóng hổi, thu hút nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, cũng cần xét đến quan niệm về việc "làm giàu" khi xã hội Việt Nam thời trung cận đại chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo. Và trong những thời điểm lịch sử cụ thể, xã hội cũng từng xem nhẹ vai trò của thương gia, thậm chí có cái nhìn không mấy thiện cảm về người giàu. Có người viện giải "cái giàu" luôn kéo theo nó những hệ quả của tệ nạn, bất công, hay do quá đầy đủ về hưởng thụ vật chất mà làm tiêu mòn những giá trị tinh thần. Song thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Nếu người giàu có được sự dẫn dắt của một lý thuyết nhân bản mà không vướng bận quá nhiều vào những "quan điểm" làm giàu thì sẽ tạo ra những phương thức quản trị mới nhắm đến hạnh phúc của con người nhiều hơn. Chính từ trong bản chất, Phật giáo cho rằng kinh tế cần phải được nhìn nhận như lĩnh vực mang lại sự ấm no, hạnh phúc, mà ấm no và hạnh phúc không bao giờ tách rời nhau ở bất kỳ mô hình kinh tế nào. Dung hoà giữa phát triển kinh tế và văn hoá, tâm linh đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ và cả lòng từ bi nữa. Người Phật tử muốn đặt chân vào lĩnh vực kinh doanh thì cần phải được định hướng bằng những giá trị xuyên suốt của Phật giáo để không đi chệch mục đích tốt đẹp ban đầu. Có nghĩa rằng sản phẩm nào được cung cấp ra thị trường cũng cần phải đáp ứng những tiêu chí cơ bản về giá trị nhân đạo, nhân văn và phải bảo đảm tối đa cho môi trường sống. Và chính vì dựa trên những giá trị nhân bản của Phật giáo mà việc quản lý kinh tế được đi theo đích hướng hạnh phúc và an lạc trong việc tạo ra của cải, gìn giữ của cải và sử dụng của cải. Những người mang danh là Phật tử không thể thực hiện những mục tiêu kinh doanh xa rời những nguyên tắc đạo đức Phật giáo. Ảnh minh họa Có năm loại bất thiện sinh kế mà Đức Phật khuyên người Phật tử không nên làm đó là: Kinh doanh vũ khí; buôn bán người; bán động vật đến các lò mổ; buôn bán rượu và các chất gây nghiện, gây say; kinh doanh chất độc hại. Bên cạnh đó, Ðức Phật cũng nói rất rõ về vấn đề hạnh phúc vật chất, hạnh phúc tinh thần qua việc làm giàu, tiết kiệm, sử dụng của cải một cách hợp lý và thực hành thiện pháp. Cụ thể trong kinh Trường A Hàm, Ðức Phật dạy thanh niên Sigàla nên bỏ ra 1/4 tiền lời để tiêu dùng hàng ngày, dành 1/2 tiền lời để mở rộng đầu tư kinh doanh, và 1/4 còn lại để phòng ngừa sự bất trắc. Kinh Tăng Nhất A Hàm chép lại sự kiện Ðức Phật giảng pháp cho trưởng giả Cấp Cô Ðộc về bốn điều hạnh phúc của người cư sĩ: 1) Hạnh phúc khi toại hưởng một nền kinh tế vững chắc, hoặc một tài sản dồi dào được tạo ra bằng những phương kế công minh chính trực. 2) Hạnh phúc khi được tiêu dùng tự do cho mình, cho gia đình, cho bằng hữu thân quyến và cho những việc phước thiện. 3) Hạnh phúc khi không có nợ nần. 4) Hạnh phúc được sống một cuộc đời ngay thẳng, trong sạch, không tạo ác bằng tư tưởng, lời nói và hành động. Ðức Phật cũng không quên nhắc nhở Đại trưởng giả Cấp Cô Độc rằng hạnh phúc vật chất không bằng 1/16 của hạnh phúc tinh thần do đời sống lương thiện mang lại. Thực tế, "kinh tế nhà chùa" được hình thành (tự giác hay tự phát) cũng không nằm ngoài sự chung sức của cả hai chúng tại gia và xuất gia. Vì vậy, trí tuệ của những người Phật tử cần phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Nhưng mục tiêu kinh doanh luôn phải dựa trên tinh thần của Bát chánh đạo. Cụ thể là Chánh nghiệp cũng như thực hành lời dạy của Đức Phật về những việc làm ích mình, lợi người và ích lợi cho cả hai. Một số nhà kinh tế học đã đánh giá sự phát triển của một quốc gia không chỉ dựa trên chỉ số GDP mà còn dựa trên chỉ số hạnh phúc, sự thỏa mãn tinh thần, và đã có những nhà nghiên cứu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế thông qua những nguyên tắc cơ bản của Phật giáo. Đức Phật hiểu rất rõ về giá trị của việc đảm bảo đời sống vật chất. Kinh Cakkavattisìhanàda Sutta có nói: Nghèo khổ là kết quả của sự bại hoại luân thường đạo lý và tội ác như trộm cắp, gian tham, hiếp dâm, thù oán, hung ác. Trong kinh Kùtadanta-Sutta, thuộc Trường A Hàm, Ðức Phật khuyến cáo rằng, muốn cho con người từ bỏ ác nghiệp thì phải cải thiện kinh tế xã hội. Nên giúp giống và mọi vật liệu cần thiết về canh nông cho tá điền, cho dân cày; giúp vốn cho các thương gia và nghiệp đoàn; trả tiền thù lao thích đáng cho lao công. Khi dân chúng được giúp phương tiện để làm ra hoa lợi đủ xài, thì họ vừa lòng, không âu lo phiền muộn. Dĩ nhiên xứ sở sẽ được thanh bình và không còn trộm cướp, án mạng nữa. Từ những tư liệu chỉ ra ấy, không ít những bài nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực "kinh tế học Phật giáo" và vai trò của các nhà sư trước xu thế chung của thời đại. Và có người đã đặt ra câu hỏi: Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có thể, tại sao không? Vấn đề nhấn mạnh ở đây chính là "phạm vi có thể", tức những phạm vi phù hợp với giáo luật và năng lực của các nhà sư. Không xa rời nguyên tắc đạo đức Phật giáo Làm kinh tế để có nhiều điều kiện hơn đóng góp cho phúc lợi xã hội. Đó là những điều đã được đặt ra từ rất lâu trong đời sống tu viện ở một số truyền thống Phật giáo trên thế giới. Thực tế người Phật tử đã, đang và vẫn sẽ làm kinh tế dựa trên những mục tiêu tốt đẹp đó. Nếu đặt vấn đề người Phật tử làm kinh tế thì Đức Phật đã đặt ra cách đây hơn 2.500 năm. Vấn đề ở đây là vai trò chủ động của các nhà sư trong nền kinh tế. Các nhà sư làm kinh tế, dĩ nhiên đòi hỏi phải thoát ra ngoài tiêu chí "có nhiều tiền". Bằng không hãy để điều đó cho những người tại gia làm, và họ có thể làm tốt hơn các nhà sư. Vậy phải chăng, thực tế xã hội đang có những khuyến khích nhà sư làm kinh tế như một sự hướng tâm cho xã hội bằng các dự án phát triển lối sống cộng đồng, tác động đến những mục tiêu kinh tế đang có nguy cơ làm tổn hại đến các giá trị nhân đạo, nhân văn và môi trường sống? Những người mang danh là Phật tử không thể thực hiện những mục tiêu kinh doanh mà xa rời những nguyên tắc đạo đức Phật giáo. Phật giáo tồn tại dựa trên tinh thần cơ bản là "khế lý, khế cơ", tức khả năng "nhập thế", thích ứng cao với những đòi hỏi của thời đại, nên không thể đơn thuần xem các giá trị Phật giáo là tĩnh tại, bất biến, bởi vốn dĩ những giá trị gì mất đi hay còn lại luôn cho người ta những trải nghiệm quý báu. Hầu hết mọi người đều có thể nói một cách dễ dàng điều ước của mình: Ước gì lúc này tôi có thật nhiều tiền để giúp đỡ người khác. Nhưng có thực khi có nhiều tiền thì người ấy sẽ giúp đỡ người khác không? Người Phật tử chắc chắn không thể thất hứa với chính mình nếu trong tâm anh ta luôn luôn nuôi dưỡng chí nguyện làm giàu để cứu giúp người. Đó không phải là "vận may" do một đấng tối cao nào ban phát mà là tinh thần nhân đạo đã được nuôi dưỡng một cách thường xuyên, liên tục để đến lúc nào đó, nó mới trổ quả. Điều đó khác với một người giàu "muốn" trở thành một nhà nhân đạo hay muốn lấy tiếng cho thương hiệu của mình một cách phù phiếm. Sự giàu có của anh ta phải trải qua một giai đoạn đổi thay (thậm chí đấu tranh) trong nhận thức khi tiếp cận những lời dạy cao cả của Đức Phật về lòng từ bi, vị tha, để anh ta có thể sử dụng của cải của mình một cách hữu ích nhất cho cộng đồng. Anh ta cần phải hiểu, chừng nào xã hội còn làm giàu cho anh ta nhiều hơn cái anh bỏ ra để trợ giúp cho người khác thì anh vẫn chưa thực sự trở thành "người giàu" đúng nghĩa. Đó là chưa kể nhiều người trở nên giàu có do làm ăn phi pháp, gây nhiều tổn hại cho con người và môi trường sinh thái. Sự giàu có về tiền bạc cần trải qua một quá trình kinh doanh chính đáng, và đồng tiền không thể được sử dụng một cách tuỳ tiện, lãng phí. Một nhà sư có thể làm kinh tế? Sẽ là quá sớm để nói đến vấn đề hiệu quả khi guồng quay "tiền bạc" luôn luôn đi về phía tha hoá, và liệu các nguồn lực kinh tế có được do uy tín đạo đức có đủ sức cạnh tranh với những khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường? Những lĩnh vực như "trà đạo", "hoa đạo"... các nhà sư có thể làm hiệu quả, lại quảng bá được hình ảnh Việt Nam. Ảnh minh họa, nguồn: rfviet.com Lúc đó "sản phẩm" mà các nhà sư đưa ra phải là những sản phẩm đáp ứng tất cả những nhu cầu tối thiểu của thị trường, tức sản phẩm thiết thực và hữu ích cho cộng đồng. Có thể lập một ngân hàng nhà chùa dành cho người nghèo, mà trước tiên việc hỗ trợ vốn vay cho những Phật tử nghèo trên căn bản của những ràng buộc về mặt đạo đức và niền tin, cũng như tư vấn đầy đủ cho những việc làm ngắn và dài hạn của người Phật tử, để đồng tiền có thể sinh lời đủ sức nuôi sống họ. Xin ví dụ về việc phát triển "đài hoá thân" (hỏa thiêu) trên diện rộng, vừa phải đưa vào đó những lý thuyết, phong tục của Phật giáo, vừa tuyên truyền cho những lợi ích về việc hoả thiêu bằng điện rất có lợi cho môi trường sống, giảm chặt gỗ trên rừng, giảm ô nhiễm nguồn nước ngầm, giảm chi phí tang ma... Hay đơn giản như các lĩnh vực như "trà đạo", "hoa đạo"... với những sản phẩm nông nghiệp có giá trị thương hiệu. Những lĩnh vực này, các nhà sư hoàn toàn có thể làm một cách hiệu quả, song song với việc quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam. Không có biểu tượng thuộc về của riêng ai trong tinh thần phục vụ con người và làm thăng hoa cái đẹp. Nếu một nhà sư có thể làm tốt vấn đề chăm sóc môi trường thì bản thân công việc kinh doanh đó là một trong những hiệu quả của nhận thức tu hành khi có thể đưa những giá trị xuyên suốt và giá trị thời điểm của Phật giáo đi vào cuộc sống, chứ không phải là những lý thuyết khô khan mà mỗi khi nói ra người ta chỉ biết lắc đầu "nói thì hay" nhưng không thấy làm. Các lý thuyết kinh tế luôn luôn thay đổi và bổ sung những lý luận mới. Duy chỉ mục đích làm giàu được soi sáng bởi một định hướng giá trị Phật giáo là không thay đổi trong ý nghĩa làm lợi cho cuộc sống của chính con người. Và mối quan tâm chính của kinh tế Phật giáo chính là hạnh phúc hay an lạc (an lạc thụ dụng, an lạc sở hữu), song song với những hoạt động kinh tế phù hợp luật pháp quốc gia. Nhà sư có bổn phận và trách nhiệm hướng dẫn đúng đắn cho người Phật tử về mục đích làm giàu và hiểu được giá trị đích thực của hạnh phúc. Nhà sư có thể trở thành những nhà tư vấn phát triển trên tinh thần đạo đức học Phật giáo, cùng với với quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Một sản phẩm do một người Phật tử kinh doanh mà dựa trên những thang giá trị của Phật giáo chắc chắn phải là một sản phẩm hữu ích. Và rõ ràng trong mối tương quan, phụ thuộc lẫn nhau giữa các mối quan hệ xã hội, không thể nói rằng nhà sư đang không làm kinh tế. Vì đỉnh cao của sự phát triển kinh tế vật chất cũng gắn với những nhu cầu cơ bản của con người trong một đích hướng hạnh phúc. Nếu chỉ nhìn đơn thuần "làm kinh tế" giống như một sự mặc cả mua bán theo kiểu cạnh tranh "ta sống, nó chết" trong thương trường thì không thể hiểu hết được những giá trị mà Phật giáo hướng đến. (Còn nữa)
-
Chân thành cảm ơn sự tham dự cùng lễ vật dâng cúng của vợ chồng Sư Phụ cùng Achau, Hatgaolang, Thiên Đồng, Công Minh để tưởng niệm ngày Tiểu Trường của Thân Mẫu Wild. Sự có mặt của các thân hữu gần xa đã đến chia sẽ là niềm an ủi lớn lao rất nhiều cho gia đình Wild.
-
Xác nhận có 210,000 đ (hai trăm mười ngàn đồng) của sunnyday81 đóng góp cho Quỹ từ Thiện. Quỹ hiện có: 14,889,000 đ + 210,000 đ = 15,099,000 đ (mười lăm triệu không trăm chín mươi chín ngàn đồng)
-
Cần biết và cần nghĩ. SGTT - Môn gì cũng cần giải lao huống hồ triết học! Xin bạn đọc tham dự giờ ra chơi của “người kể chuyện” Bùi Văn Nam Sơn, nhân tiện ông sẽ có đôi lời trao đổi cùng “người hâm mộ” về những ý kiến đã nhận được. Thưa bạn đọc quý mến, Mục Chuyện xưa chuyện nay mới chập chững đã được khá nhiều bạn đọc quan tâm, khuyến khích, góp ý, trao đổi. Một sự an ủi cho người viết, nhưng cũng buộc người viết có trách nhiệm thưa rõ hơn nữa mục đích để không lạm dụng thì giờ và sự rộng lượng của bạn đọc. Thật thích thú và biết ơn bạn Nguyễn Văn Hà đã làm hộ cho điều ấy: “Tôi nghĩ đây là một mục hay một “món nhậu” mới (…) Công chúng bây giờ đâu chỉ cần “biết” mà họ cần “nghĩ” nữa”. Vâng, “biết” thì không cùng, và không rõ ta phải sống bao nhiêu kiếp nữa để học hết chữ nghĩa trong thiên hạ? “Biết” là bữa cơm hằng ngày. Nhưng, “nhậu” làm đời vui hơn! Ta không sống để triết lý mà triết lý để sống, hay ít ra, để sống vui hơn, có hương vị hơn. Bữa cơm và món nhậu, đời sống và triết học đều là… những phần tất yếu của cuộc sống: làm sao để triết học vui sống với cuộc đời, và cuộc đời cũng ngẫm nghĩ, ưu tư cùng với triết học? “Nghĩ” để nhận ra rằng mọi việc không đơn giản như mới thoạt nhìn. Và “nghĩ” sẽ buộc ta tìm ra con đường mới, cách đặt vấn đề khác, hy vọng đến gần cái “biết” hơn chăng. Ở phương Tây, bài học vỡ lòng triết học là mấy “Đối thoại” của Platon, được viết theo phong cách của Socrates mà ta mới làm quen. Toàn những câu hỏi tưởng như giản dị: Dũng cảm là gì? Tình bạn là gì? v.v.. Những câu hỏi “là gì” này càng “nghĩ”, càng rối! Laches, một tướng quân (vì thế, đối thoại mang tên ông), trả lời: dũng cảm là xông lên trong chiến trận. Hẹp quá! Rút lui có khi cũng dũng cảm chứ? Thử nhớ đến cuộc “hồi binh Tam Điệp” của Ngô Thì Nhậm và “kéo pháo ra” ở trận Điện Biên Phủ! Vả lại, đâu phải chỉ trong chiến trận mới có sự dũng cảm? Vậy, vấn đề không phải là kể ra những hình thức biểu hiện của nó mà phải định nghĩa bản thân sự dũng cảm! Thử xem nào: dũng cảm là sự kiên định trong tinh thần chăng? Chưa chắc, vì hay ho gì sự kiên định trong mê muội và bảo thủ! Là kiên định trong sự sáng suốt chăng? Ít ai gọi một thầy thuốc tuân theo phác đồ điều trị là “dũng cảm” cả! Là sự sáng suốt khi lường trước được nguy cơ chăng? Nguy cơ là chuyện nhất thời, trong khi cái biết đích thực phải vượt thời gian chứ? Vậy nó là sự tường minh về điều thiện và điều ác? Nếu thế, lấy gì để phân biệt nó với những đức tính khác? Cuộc đối thoại lâm vào bế tắc. Hoạ chăng, phải tìm cho được một cách đặt vấn đề kiểu khác: không thể hiểu được sự dũng cảm nếu xét nó như một đức tính cô lập, và trước khi đặt được câu hỏi mới, rắc rối hơn nữa: đức hạnh là gì? Đối thoại Lysis cũng thú vị không kém. Trong một giai thoại, cụ Khổng từng phải than “hậu sinh khả uý!” khi bị cậu bé Hạng Thác bắt bẻ. Ở đây, Socrates lại chịu khó đối thoại rất dài và rất sòng phẳng với hai bạn trẻ mới mười hai tuổi: Menesenos và Lysis. Ba ông cháu xoay quanh câu hỏi: “Làm sao để gọi ai đó là một người bạn?”. Theo định nghĩa, Socrates chỉ thấy có ba khả năng: thứ nhất, “bạn” là kẻ yêu thích một ai hay một điều gì đó (ví dụ: yêu bóng đá thì gọi là bạn của bóng đá). Thứ hai, “bạn” là người yêu và được yêu, ta gọi đó là tình bạn hay tình yêu giữa hai con người. Thứ ba, “bạn” là kẻ được yêu. Nhưng rồi Socrates tìm mọi cách chứng minh rằng cả ba trường hợp đều không ổn. Rút cục, Menesenos đành đồng ý với kết luận của Socrates: không thể có cái gì được gọi là “người bạn” hay “tình bạn” cả! Bấy giờ Lysis mới can thiệp vào cuộc đối thoại. Cậu phản đối: Làm sao có thể vô lý thế được khi bảo rằng không có tình bạn? Rõ ràng có sai lầm gì đây ở trong lập luận. Socrates khen ngợi Lysis có năng khiếu triết học và biểu đồng tình với Lysis. Nhưng, đối thoại kết thúc ở đó, và ông lẫn Lysis không cho ta biết sai lầm nằm ở đâu. Vui nhất là khi ông bảo: Thôi, tụi mình bàn chuyện khác chơi đi, làm việc ấy mệt quá! Ông đùn công việc ấy lại cho người đọc chúng ta: phân tích lập luận và phát hiện sai lầm không phải dễ, nhưng ai đảm nhận việc ấy là tự mình thực sự làm triết học! Chính sự bế tắc và nan đề khiêu khích và thách thức người đọc để tự họ đi tìm giải pháp. Bạn TT Nha (Hà Nội) “bực mình” trước sự lằng nhằng của “cha con ông chủ quán phở” (SGTT, 2.6.2010) và lại thấy người tường thuật cứ bỏ lửng, không đưa ra “một kết luận rốt ráo và rõ nghĩa” nào cả, bạn đã tự đặt lại vấn đề để thử tìm lấy một cách giải quyết cho mình. Thưa bạn, bạn đã “triết lý” đúng theo tinh thần và sự chờ đợi của Socrates! “Một kết luận rốt ráo và rõ nghĩa” là lý do tồn tại của triết học. Nhưng, nó cũng là một chân trời, càng đến gần, càng lùi xa. Thần thánh thì không thế. Họ không làm nghệ thuật, vì họ đâu biết cái xấu là gì để thấy cần thiết tạo nên cái đẹp? Họ càng không cần đến triết học, vì bản thân họ không thấy “có vấn đề” gì cả! Chỉ có chúng ta, con người hữu hạn và bất toàn, mới làm triết học, đúng theo nghĩa… yêu sự minh triết (philo-sophia). Yêu, vì ta không có sẵn nó nơi mình. Thưa bạn thân mến, Loạt bài này sẽ lần lượt xoay quanh mấy vấn đề thiết thực đã nêu lần trước: hiểu hậu cảnh, quyết định có cơ sở, hành động có trách nhiệm, truyền thông rõ ràng, sống thanh thản, hạnh phúc. Trong khả năng và khuôn khổ cho phép, chúng ta cũng sẽ chỉ cố tiếp cận chúng như một… người yêu, hơn là một kẻ biết. Tại sao yêu? Yêu thế nào? Xin dành cho mấy bài kế tiếp, vào tuần sau. Còn về khuyết điểm trong cách trình bày, đôi khi “có phần cứng nhắc và nhồi nhét” như bạn Lê Thanh Toàn lưu ý, thì quả là một cố tật khó sửa, bởi “quen mất nết đi rồi”. Chỉ xin bắt chước cô Kiều và hứa: Lời vàng vâng lĩnh ý cao Hoạ dần dần bớt chút nào được không! Xin cảm tạ các bạn. Bùi Văn Nam Sơn. nguồn Sgtt.com
-
Tối mai, Việt Nam thấy nguyệt thực một phần Người dân Việt Nam sẽ được chứng kiến nguyệt thực một phần vào tối mai, khi mặt trăng chuyển sang màu đỏ thẫm Dân chúng ở một số nước Đông Nam Á, Australia, châu Mỹ sẽ quan sát được một mặt trăng khác thường khi có tới hơn 50% diện tích của mặt trăng đi vào vùng tối của bóng trái đất trở nên tối và đỏ sẫm. Song ở Việt Nam, người dân khó quan sát được nguyệt thực trọn vẹn bằng mắt thường, vì hiện tượng này xảy ra vào lúc 18 giờ 15, đạt cực đại vào lúc 18 giờ 39 là lúc trăng mới mọc và có thể trời nhiều mây ảnh hưởng đến tầm nhìn. Theo ông Trần Tiến Bình, Phòng nghiên cứu Lịch thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, vào tối mai, Việt Nam sẽ có nguyệt thực một phần đến 53%. Hiện tượng nguyệt thực là do trái đất được mặt trời chiếu sáng, đồng thời cũng cản các tia sáng từ mặt trời tạo ra một vùng bóng tối trải dài trong không gian. Mặt trăng chuyển động tròn quanh trái đất nên có thể sẽ đi vào vùng tối này. Lúc này mặt trăng không còn được mặt trời chiếu sáng trực tiếp và sẽ không còn sáng như bình thường. Mặt trăng không sáng như bình thường gọi là nguyệt thực bán dạ, khi mặt trăng trở nên đỏ tối thì gọi là nguyệt thực một phần hoặc toàn phần. Theo dự báo, từ 19h 45 đến 21h31 ngày 10/12/2011, người dân Việt Nam sẽ lại được chiêm ngưỡng nguyệt thực toàn phần. (Vietnam+)
-
Và "chiếc áo không làm nên Thầy Tu" ?