wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Con rất gần Trung Tâm nên đến vp để nhận trực tiếp đi nhé!
  2. Cám ơn Quang Nguyen! muộn ư? Có còn hơn không nhé!
  3. Phật Giáo Đã Được Giải Thưởng “Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới” Liên minh Quốc tế Tiến bộ Tôn giáo và Tâm linh đặt ở Geneva, Thụy Sĩ (ICARUS) năm nay đã ban giải thưởng “Tôn giáo Tốt nhất Thế giới” cho Cộng Đồng Phật Giáo. Giải thưởng đặc biệt này đã được bầu chọn trên bàn tròn quốc tế với hơn 200 nhà lãnh đạo tôn giáo. Điều thú vị cần lưu ý là nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đã chọn Phật Giáo thay vì tôn giáo của họ, mặc dầu Phật tử chỉ là một thiểu số rất nhỏ trong số các thành viên ICARUS. Dưới đây là những ý kiến ​​của bốn thành viên có quyền biểu quyết: Jonna Hult, Giám đốc Nghiên cứu của ICARUS nói: Tôi không bất ngờ khi Phật giáo đã thắng giải thưởng “Tôn giáo Tốt nhất Thế giới”, bởi vì thật sự Phật Giáo không chủ trương chiến tranh. Chúng ta hầu như không tìm thấy một Phật tử đã từng ở trong quân đội. Những người này đều thực hành những gì họ nói, đến độ chúng ta không thể làm được bằng các truyền thống tâm linh khác. Một linh mục Công giáo, Cha Ted O’Shaughnessy, đã nói từ Belfast: “Tôi rất yêu thương Giáo Hội Công Giáo. Nhưng điều luôn làm phiền tôi là chúng ta luôn rao giảng tình yêu trong Kinh Thánh, nhưng lại cho đó là ý Chúa mỗi khi nói đến việc giết hại con người. Vì lý do đó, tôi đã phải bỏ phiếu cho Phật Giáo.” Giáo sĩ Đạo Hồi Tal Bin Wassad, nói từ Pakistan qua một thông dịch của ông: “Trong khi tôi là một người Hồi giáo mộ đạo, tôi có thể thấy sự giận dữ và máu đổ được đưa vào trong tôn giáo thay vì chỉ nên ở mức độ cá nhân. Người Phật tử đã thấy rõ điều đó.” Bin Wassad, một thành viên ICARUS bỏ phiếu của cộng đồng Hồi giáo lại tiếp tục nói: “Trong thực tế, một số bạn tốt nhất của tôi lại theo Phật Giáo”. Và Rabbi Shmuel Wasserstein đến từ Jerusalem. “ Tất nhiên, tôi yêu đạo Do Thái, và tôi nghĩ đó là tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Nhưng nói thật, tôi đã thực hành Thiền Định mỗi ngày trước khi minyan (việc cầu nguyện hàng ngày của người Do Thái) từ năm 1993. Vì vậy, tôi hiểu được nó”. Tuy nhiên, có một trở ngại: ICARUS không thể tìm thấy bất cứ ai để ban tặng giải thưởng này. Tất cả các Phật tử mà họ gọi đến lại luôn nói rằng họ không cần giải thưởng. Khi được hỏi lý do tại sao cộng đồng Phật giáo Miến Điện từ chối giải thưởng, Sư Bhante Ghurata Hanta trả lời từ Miến Điện: “Chúng tôi rất biết ơn được quý √ị công nhận, nhưng chúng ta nên ban giải thưởng này cho toàn nhân loại, bởi vì Phật tính có sẵn trong mỗi chúng ta”. Ông Groehlichen nói: “ Chúng tôi sẽ tiếp tục kêu gọi cho đến khi chúng tôi tìm thấy một Phật tử bằng lòng nhận giải thưởng này. Chúng tôi sẽ cho ông biết khi nào chúng tôi làm được điều đó” Buddhism Wins Best Religion in the World AwardAman Singh .
  4. Cám ơn em manhhụngpvn! Nhớ đến Chị là tốt rồi, chúc gđ nhỏ của em tràn ngập lời nũng nịu dễ thương nhé!
  5. Với địa chỉ nêu trên bạn có thể đến trực tiếp Vp Trung Tâm gặp Chị Hoàng Dung Địa chỉ: A2 - Ngõ 30 - Trần Quang Diệu - Đống Đa - Hà Nội SĐT: 043 538 1136 để nhận nhé!
  6. NEPAL KÝ SỰ. ================================================================================Cơ duyên đến với tôi sau dòng thông tin này, các bạn đạo hữu đã tổ chức chuyến đi Nepal vào dịp 49 ngày của Ngài, tôi nhanh chóng quyết định bởi Pháp tu Mật Tông đã mở cánh cửa trí tuệ cho tôi. Các vị RinPoche đã là Đức Bổn Sư của nhiều người có thể chăng tôi đã biết đến các Ngài là điều muộn màng? Chúng tôi lên đường vào ngày 16/10/2011, thật vội vàng và hối hả khi chưa có thông tin gì về nơi tôi sẽ đến, chỉ biết rằng khi đã hội đủ duyên ắt sẽ gặp, còn gặp ai làm gì tôi sẽ tùy cơ biến dịch. Tp Kathmandu là một thung lũng của vương quốc Nepal sẽ là điểm dừng mà tôi chỉ nghe qua tên và chỉ thấy qua hình ảnh Blog của vài người đi trước...ViSa được thị thực tại sân bay, không nhanh chóng bởi họ làm việc còn quá thủ công và cũng bởi đất nước họ quá nghèo Thật khó tưởng tượng bộ mặt của 1 quốc gia là sân bay lại có thể như SB Nepal, vẫn dãy nhà ngói đỏ quạch vẫn tường gạch thẻ và 1 nền lát gạch màu chì, với mùi amoniac nồng nặc và tất nhiên là không có điều hòa. Những dãy xe chờ khách có thể đoán từ 1980 hay xưa hơn nữa tương xứng với mức sống của Nepal. Nơi khách điền thông tin là những chiếc bàn bát giác...bừa bộn (còn nữa)
  7. Phía trước nhà quàn các vị cao tăng thực hiện nghi quỹ cầu siêu Ban nhạc lễ nghi lễ ban lộc Thánh tiền tệ nepali mệnh giá 100 đều khắp các tăng sinh cũng như khách tham dự
  8. Chân thành cám ơn những lời chúc tốt đẹp dành cho Wild nhân dịp Sinh Nhật của mình, Xin gởi lời yêu thương thân ái đến với tất cả mọi người.
  9. Mặt cổng đền nơi đặt nhục thân Ngài ngoài bãi cỏ hàng ngàn người dân cung kính cầu nguyện, dọc hành lang dòng người đến viếng không ngớt mặc cho nắng và gió họ cứ ngồi 1 cách trật tự như thế để cầu nguyện bên trong khuôn viên sãnh chính các tăng sinh chuẩn bị thay lễ Hoàng hôn xuống họ vẫn đều đều cầu nguyện Quà được chất cao tận nóc dòng người vào viếng rất lặng lẽ và thương tiếc Trước đó 1 ngày chúng tôi luôn được gặp gỡ các Vị thánh và được ban phước.
  10. Thân gửi ACE! thời gian vừa qua Nha Khanh đã nhận 100 bản chú được gia trì bởi RinPoche Sonam dịp Ngài qua VN, nay Nha Khanh sẽ trao tặng lại cho các bạn có thành tâm thỉnh nhận.
  11. Dưới đây là hình ảnh hoa mạn đà la xuất hiện vào buổi tối thứ 49 ngày, Ngài nhập niết bàn. Mặt trước có ảnh Ngài rất lớn chụp đêm Ống kính kịp ghi lại hình ảnh hoa mạn đà la xuất hiện khi Ngài Nhập Niết bàn. nơi đây đặt nhục thân của Ngài Hoa được mang từ Vn sang dâng cúng dường bát bảo cúng dường Bên ngoài hàng vạn tăng sĩ thay phiên nhau cầu nguyện cả ngày và đêm
  12. Sắp xếp bàn thờ thần Phật, gia tiên thế nào để gặp nhiều may mắn? Trong quan niệm của người Việt, ban thờ trong mỗi gia đình – nơi thờ cúng gia tiên, tưởng nhớ tổ tiên là nơi trang nghiêm, tôn kính nhất. Thế nhưng phong tục tốt đẹp từ ngàn đời này có những nguyên tắc sắp xếp, trang hoàng riêng mà không phải ai cũng biết. Nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận? Người xưa có câu “ẩm thủy đương tư tuyền nguyên đầu, thực mễ đang tư nông canh khổ, hữu tiền đang tư vô tiền thời, kiện khang đang tư phụ mẫu ân”, dịch nghĩa “khi uống nước thì phải nhớ đầu nguồn suối, ăn cơm phải nhớ lúc cày cấy vất vả, giàu có phải nhớ lúc nghèo khổ, khỏe mạnh phải nhớ đến ân của cha mẹ”. Người ta sinh ra có được sinh mệnh, được sống đến ngày nay là nhờ vào tổ tiên. Tổ tiên giống như gốc cây đại thụ nuôi dưỡng để cành lá khỏe mạnh xanh tươi, tượng trưng cho con cháu phát triển. Vì vậy, nếu không có tổ tiên duy trì nòi giống truyền từ đời này sang đời khác thì cũng không có con cháu ngày nay. Tục thờ cúng tổ tiên chính là sự ghi nhớ công ơn và là cách để chăm chút cho cái gốc của mình, gốc có tốt thì cây mới phát triển ra hoa kết trái. Người ta thường nói, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu là như vậy. Ngoài ra, trong lịch sử tín ngưỡng người Việt, thờ cúng thần linh đã có từ lâu đời, do cuộc sống dựa chủ yếu vào tự nhiên nên người xưa lập đàn kính tế quỷ thần, mong giảm bớt thiên tai đem đến phúc lộc. Dễ dàng nhận thấy ngoài các ngôi đền lớn nhỏ ở khắp các địa phương thì ngày nay trong nhiều gia đình vẫn có bát hương thờ thần Phật để tiêu tai nạp phúc, sự nghiệp thuận lợi, hưng vượng nhân đinh, là nơi gửi gắm niềm tin của cả gia đình. Thần Phật được thờ trong nhà giống như người khách quý nên người ta thường đặt ban thờ thần Phật ở sảnh giữa nhà, áp lưng vào tường vững chắc hoặc để chung với bàn thờ gia tiên. Cho dù đặt riêng hay đặt chung với bàn thờ gia tiên thì cũng đều có những nguyên tắc cần tuân thủ: Gia tiên là chủ nhân, thần minh là khách quý, có thể chấp nhận có chủ nhân nhưng không có khách, không được có khách mà không có chủ. Nếu vừa có chủ vừa có khách cùng chung một bàn thờ là lý tưởng nhất. Nhưng cũng không phải tùy tiện thích đặt thế nào thì đặt vì vậy, người xưa cho rằng chỉ cần nhìn vào nơi thờ cúng của gia đình cũng có thể biết gia chủ có tâm hay không. Cái tâm ở đây không được đo bằng mâm cao cỗ đầy, vàng mã bao nhiêu mà là ở vị trí đặt bàn thờ, cách sắp xếp bàn thờ ra sao cho phù hợp, trang nghiêm và sạch sẽ. Quan niệm phong thủy thì cho rằng bàn thờ là nơi linh khí quy tụ, là chỗ để người trên dương thế liên hệ với người đã khuất, người chết thì thành thần, thần lại là trung gian giữa trời với người. Từ đó có thể thấy, khí trường của ban thờ ảnh hưởng rất lớn đến người trong nhà. Ban thờ sắp đặt đúng cách không chỉ khiến người đã khuất an định mà ở lại coi sóc phù hộ gia đình, nên ban thờ cũng có những quy tắc nhất định. Sắp đặt ban thờ theo quan niệm phong thủy Ban thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái không hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng. Ban thờ thần Phật thì nên đặt ở hướng chính hoặc quay bên trái, bên phải. Ban thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ở tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc. Số lượng thần Phật phải là số dương, do thần Phật thuộc dương vì vậy phải dùng số lẻ, không nên thờ cùng lúc quá nhiều thần Phật, hoặc thờ cùng lúc hai thần xung khắc nhau có thể gây loạn linh khí khiến người trong nhà tinh thần bất an, dễ gặp tai họa. Nếu có đặt tượng thần Phật mà tượng ấy lại bị nứt thì nên nhanh chóng thay mới do tà khí có thể xâm nhập vào. Ban thờ có thờ chung thần Phật và bài vị tổ tiên thì thần Phật đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải, nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Thông thường người ta đặt nơi thờ cúng tổ tiên trước rồi mới đến thần Phật. Tổ tiên được coi là chủ, thần Phật được coi là khách quý, nếu mời thần Phật trước rồi mới mời tổ tiên người xưa cho rằng như vậy khiến tổ tiên nhà mình không dám vào cửa. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của thần Phật. Ban thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát Bát hương thờ tổ tiên nên có tay cầm, bát hương thờ thần không nên có tay cầm. Vật liệu bát hương tốt nhất là dùng bằng sứ, sau đó đến đồng, không nên dùng đá hoa cương. Bóng đèn phía trước không nên xung với ban thờ, không nên dùng đèn chiếu. Ban thờ cũng không đặt ở vị trí dưới xà nhà, nếu không có vị trí tốt hơn thì phải làm trần, ngoài ra bên trên không được có máy móc như máy điều hòa, máy hút mùi, loa đài. Số lượng thờ thần Phật nhiều nhất là 3, không nên quá nhiều dễ gây bất an. Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hàng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ. Bát hương thờ thần Phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên, khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà. Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chỉ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1, 3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số. Những điều cấm kị khi sắp xếp ban thờ Người xưa quan niệm có rất nhiều cấm kị tại vị trí đặt ban thờ: Không được dựa vào trụ nhà, không được có cửa sổ bên cạnh (do không thể tụ được khí). Ban thờ cũng không được áp lưng vào nhà bếp vì có thể khiến chủ nhân dễ bị kích động, tính tình thất thường, nóng nảy, có bệnh về cột sống. Phía sau ban thờ đặc biệt không được có nhà vệ sinh, nhà tắm do có âm khí và xú khí nặng, theo phong thủy dễ khiến “chư thần thoái vị”, chủ nhà dễ bị trúng phong, gặp ác mộng, đau lưng. Sau bàn thờ cũng không được có thang máy, cầu thang, nếu không chủ nhân dễ bị tán tài, thương tật ở lưng. Bàn thờ không được đối diện với lò, bếp, nhà vệ sinh, kể cả hướng lệch sang bên cũng không tốt. Nếu không còn vị trí nào khác để đặt ban thờ thì nên lấy bình phong che lại. Phòng thờ không nên đặt ở nền đất vốn trước đây là nhà bếp, nhà vệ sinh do chất đất không tốt. Trên ban thờ kị đặt các vật linh tinh, dao kéo, thuốc men, không được dùng tủ thờ làm nơi cất giữ đồ đạc hoặc bể cá, vô tuyến, loa đài. Vật liệu làm bàn thờ nên sử dụng gỗ long não, đàn hương và nên điêu khắc thủ công là tốt nhất do các loại gỗ này tránh mối mọt, có thể sử dụng từ đời này sang đời khác. Trên bàn thờ không nên đặt chậu cây cảnh mà chủ yếu dùng hoa tươi để thờ phụng, không nên dùng hoa nhựa. Chủ nhà thường xuyên vệ sinh khu vực xung quanh, nên thắp hương vào sáng và tối. Người xưa quan niệm rằng nếu khói hương bay thẳng lên là tốt, nếu cuốn thành vòng tròn hoặc tản mát là có “ngoại linh đang tranh cướp”. Nếu bát hương bàn thờ thần tự nhiên bốc cháy là may mắn, nếu bát hương thờ tổ tiên cháy là điềm báo hung. Nếu ban thờ của nhà có thờ cả họ nội và họ ngoại thì họ nội đặt bên trái, họ ngoại đặt bên phải, nhưng phải dùng vạch sơn màu đỏ phân chia rõ ràng hoặc dùng tấm vách ngăn sơn đỏ để tránh tranh chấp nhau. Ban thờ không nên treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc trên đường đi. Sở dĩ có quan niệm này vì người xưa cho rằng ban thờ là nơi cần được hội tụ linh khí, khí trường bàn thờ sung mãn có thể khiến toàn gia đình được an lành hạnh phúc. Nếu ban thờ treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc ở nơi đi lại dễ khiến người trong nhà bất an, gia vận trồi sụt khó đoán. Ban thờ không được xung với đường đi: Ban thờ bị đường đi đâm thẳng vào dễ gây bất an tổn hại đến cung tài lộc, nhân đinh của gia đình, dễ gây tai nạn ngoài ý muốn hoặc bệnh tật tấn công. Ban thờ ngược với hướng nhà dễ khiến người trong nhà bất hòa, dễ gặp bất trắc bệnh tật. Nếu đặt ở vị trí quay sang trái hoặc sang phải nhà thì chủ nhân dễ có tâm sự phiền muộn khó nói ra. Nếu ban thờ đối diện với nhà vệ sinh thì người trong nhà gặp nhiều bệnh tật đau đớn. Nếu ban thờ đối diện với nhà bếp dễ khiến nguời trong nhà hay tranh cãi những việc nhỏ, tính tình nóng nảy. Nếu phía trên ban thờ có xà nhà có thể khiến chủ nhân dễ bị đau đầu, cuộc sống vất vả. Nếu đặt đối diện với cầu thang, chủ nhân dễ bị động dao kéo, tai nạn đổ máu. Nếu đặt dưới cầu thang thì người trong nhà khó có cơ hội phát triển. Nếu đặt trên nền đất lồi lõm không bằng phẳng có thể khiến chủ nhân gặp khó khăn trong mọi việc. Nếu phía trên, dưới, trái, phải ban thờ có cửa sổ thì chủ nhân dễ bị tán tài. Ngày Tết là thời điểm quan trọng chuyển giao từ năm cũ sang năm mới, mọi người đều dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đón Tết và cũng không được phép quên trang hoàng nơi thờ cúng. Công việc này thông thường bắt đầu từ ngày 23/12 âm lịch, thời điểm tiễn táo quân lên thiên đình bẩm báo công việc ở hạ giới trong năm theo phong tục Việt Nam... Tập tục thú vị về tiễn – đón Táo quân Người xưa cho rằng ngày Tết hết sức quan trọng do nó quyết định vận thế, sự nghiệp và tài lộc cho cả năm sau: Táo quân cai quản khói lửa ở hạ giới, lại thường ở trong bếp nên biết hết chuyện hay dở của gia đình trong cả năm, sau khi nghe thông báo xong Ngọc hoàng sẽ căn cứ vào đó để định đoạt, có thể là khen thưởng cũng có thể là quở phạt. Vì vậy, trước khi Táo quân lên thiên đình người ta bày lễ cúng để Táo quân “nói tốt” cho nhà mình. Tục xưa thường để bàn thờ, bài vị của Táo công treo trên tường nhà bếp, thần vị làm bằng giấy vẽ hình táo quân và một bát hương, cúng vào buổi sáng và buổi tối, nhưng ngày nay không còn phong tục này nữa. Đồ cúng táo quân thông thường là các loại kẹo bánh có vị ngọt, hi vọng thần ăn đồ ngọt sẽ không bẩm báo những chuyện nhỏ nhặt với Ngọc đế. Sau khi cúng tế xong đem đồ ngọt bôi quanh miệng bếp, tượng trưng miệng thần quân dẻo ngọt không bẩm chuyện xấu của nhà mình với Ngọc hoàng. Nếu nhà có trẻ nhỏ thì cúng thêm một con gà trống để mong đứa trẻ phát triển khỏe mạnh. Khi cúng tiễn thần bếp, người ta thường phải tắm rửa sạch sẽ, dùng muối, hoa, tinh dầu, lá bưởi hoặc các loại lá thơm làm nước tắm, sau khi tắm xong thay quần áo sạch sẽ rồi mới cúng. Có tiễn thần thì cũng có đón thần, ngày nay khi nghe thấy từ “đón thần”, có lẽ nhiều người liên tưởng đến đón thần tài, nhưng thực ra đón thần ở đây lại là tập tục quan trọng hơn so với tiễn thần. Sau khi Táo quân được tiễn lên trời để bẩm báo với Ngọc hoàng, ngày 25/12 là ngày nghỉ, Ngọc hoàng sẽ dẫn quần thần xuống nhân gian thị sát vì vậy ngày này hết sức quan trọng. Người xưa quan niệm do ngày đó Ngọc hoàng xuống hạ giới nên trong mọi người đều rất cẩn trọng về phẩm cách của mình: Không đánh cãi chửi nhau, không nói bậy, không đòi – vay nợ, không phơi quần áo… Tuy vậy đây chỉ là quan niệm ngày xưa, ngày nay hầu như không còn nghi thức này nữa. Sau khi tiễn Táo quân xong mọi người mới bắt đầu được quét dọn, tục gọi là “quét tàn tinh” nhưng nếu năm đó nhà có tang ma thì không được quét, kiêng khói bụi bay vào mắt người chết. Việc quét dọn, kê lại đồ đạc lại toàn bộ nhà thường được thực hiện sau khi tiễn ông táo là do lúc này các thần đã về trời bẩm báo công việc, chỉ còn một số thần nhỏ ở lại “trực” để duy trì trật tự, nếu có xê dịch làm đảo lộn đồ đạc thì cũng không mạo phạm đến thần. Sau quét dọn mới đến phần “lau rửa”, ngoài ý nghĩa làm vệ sinh môi trường xung quanh, lau chùi rửa sạch đồ đạc trong gia đình còn có ý nghĩa quan trọng hơn đó là sự thanh tịnh trong thâm tâm, phản tỉnh những sai lầm trong cả năm. Người xưa cho rằng nếu chỉ chăm chút bề ngoài mà không coi trọng sự thay đổi hướng thiện trong tâm hồn thì hiệu quả trừ bỏ những cái xấu của năm cũ có làm cũng như không. Đặc biệt là những người trong năm ấy gặp nhiều sự cố phát sinh khiến công việc và cuộc sống không như ý muốn, tự cho rằng mình gặp đen đủi, muốn tìm cách để thay đổi tương lai, hi vọng năm mới tốt đẹp hơn sẽ nhân cơ hội này phản tỉnh cũng như tổng kết sai lầm trong cả năm, rút ra kinh nghiệm để năm mới thuận lợi hơn. Cách trang hoàng ban thờ trong ngày Tết Phần quan trọng nhất là ban thờ tổ tiên, do đây là nơi được coi là nơi linh thiêng, ngày thường không được tùy ý động chạm di chuyển mà chỉ lau chùi sạch sẽ, người xưa cho rằng nếu xê dịch sẽ làm kinh động đến chỗ của thần, thần không được an vị thì không muốn ở lại lâu, không chăm sóc cho nhà mình được. Ngày nay do thời gian có hạn hoặc một số kiêng kị không được lưu truyền trong dân gian nên không còn nhiều người biết cách dọn ban thờ theo như phong tục cổ nhân. Trước khi dọn ban thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên, sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn ban thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu thực hiện công việc. Sau đó gia chủ chuẩn bị một chiếc bàn bên trên trải vải hoặc giấy đỏ để đặt bài vị, nếu bàn thờ có đặt chung bài vị gia tiên với các thần thì phải để ra hai chỗ khác nhau, không được lẫn lộn. Đợi sau khi hương cháy hết rồi mới bắt đầu công việc. Khi lau rửa bài vị của tổ tiên thì phải dùng nước ấm, không được dùng nước lạnh. Khi làm vệ sinh, nếu có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Người xưa quan niệm như vậy là bất kính, mạo phạm với thần phật, thần phật có ngôi vị cao hơn nên dễ khiến tổ tiên bị chèn ép. Sau khi lau bài vị xong mới đến phần dọn bát hương, công việc này cũng rất quan trọng, ngày nay đa phần mọi người đều rút chân hương rồi cầm bát hương đổ hết tro ra ngoài, theo người xưa như vậy rất dễ gây “tán tài”, vì vậy người ta dùng chiếc thìa nhỏ xúc từng thìa đổ ra ngoài rồi mới rửa sạch bát hương đặt sang một bên. Khi bát hương khô ráo, nếu là bát hương thờ thần phật thì dùng bảy tờ tiền vàng, bát hương của tổ tiên thì dùng ba tờ tiền vàng đốt hơ quanh, cháy một nửa thì bỏ vào trong, đợi tiền vàng cháy hết thì đổ tro vào một lần, như vậy gọi là “ra nhỏ vào lớn”, ý là “tiền ra nhỏ giọt, tiền vào như thác đổ”, nếu lúc đầu đổ ra hết sau đó múc từng ít một vào thì gọi là “vào nhỏ ra lớn”, tức “tiền ra thì nhiều mà tiền vào thì ít”. Ngày nay có nhiều người đem tro bát hương đổ cũ ra sông, thay vào bát hương tro mới, nhưng người xưa thì dùng chiếc rổ mắt nhỏ để lọc tro cũ, lọc xong lại đổ vào bát hương chứ không đổ đi. Việc lọc tro cũng phải bắt đầu từ bát hương thờ thần phật. Sau khi lau rửa sạch sẽ, người ta sẽ đem bài vị thần Phật và tổ tiên đặt lại chỗ cũ và công đoạn này cũng rất phức tạp. Trước hết phải chuẩn bị một chiếc lò nhỏ trong có đốt than hoa, đặt dưới bàn thờ khoảng 15 phút, sau đó đốt bảy tờ tiền vàng làm dấu hơ ở bốn hướng trên dưới trái phải, ý là dùng lửa để khai quang, làm sạch, tiền vàng chưa cháy hết thì bỏ vào lò than hoa. Đốt tiếp bảy tờ tiền vàng làm sạch vị trí muốn đặt tượng/bài vị thần Phật và bát hương sau đó mới đặt các đồ vật vào vị trí cố định. Sau khi đặt xong thì đốt 12 que hương cắm theo thứ tự hướng thời gian, que thứ nhất cắm ở vị trí 1h, khi cắm thì đọc “niên niên thị hảo niên”, tức mỗi năm đều là năm tốt; que thứ hai cắm ở vị trí 2h, khi cắm đọc “nguyệt nguyệt thị hảo nguyệt”, tức mỗi tháng đều là tháng tốt; cây thứ ba cắm ở vị trí 3h, khi cắm đọc “nhật nhật thị hảo nhật”, tức mỗi ngày đều là ngày tốt; cây thứ tư cắm ở vị trí 4h, khi cắm đọc “thời thời vị hảo thời”, tức mỗi giờ đều là giờ tốt; cứ tuần tự như vậy cho đến thời điểm vị trí 12h. Các vị trí bài vị, bát hương của tổ tiên và bà tổ cô cũng làm như vậy. Trên đây là tập tục của người xưa ghi chép lại trong các thư tịch cổ, những công việc tỉ mỉ khi chăm sóc bàn thờ gia tiên cũng là cách để tăng thêm phần không khí ngày Tết. Nhưng ngày nay, do cuộc sống bận rộn nên không hẳn tất cả những tập tục trên còn phù hợp. Xin nêu lại tập tục cổ nhân như một cách để bạn đọc tham khảo, thêm phần hiểu biết về phong tục tập quán của người xưa trong những ngày xuân Nhâm Thìn đang tới với hi vọng mọi người sẽ gặp những may mắn mới, thành công mới. Theo Hùng Bùi - PLVN
  13. Vô Thường " Trong thú vui đã mở đường cho đau khổ ...Trong hội ngộ, đã nẩy mầm chia ly " ... Bạn có từng nghĩ rằng một ngày nào đó những người thương của bạn sẽ không còn sống bên bạn nữa không. Chúng ta không một ai có thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Thậm chí chúng ta cũng không thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào một giờ sắp tới đối với những người thân của chúng ta, hay thậm chí đối với bản thân mình. Có thể bạn ta mới đến thăm ta ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến báo tin với ta rằng “ tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua mà ” , hay “ chị ấy mới đến thăm tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà ”. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều, rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã không còn nữa. Khi chúng ta giao tiếp, cư xử với người xung quanh với ý thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe được giọng nói của người đó nữa.Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn thương cho người đó. Người đó có thể là ba mẹ chúng ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là con cái chúng ta… Chúng ta sống với ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn. Mỗi người trong chúng ta hay có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa. Ta muốn nói những lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy hay ta muốn thể hiện tình thương của mình cho người ấy - nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời. Vì vậy bạn hãy vui lên đi, bạn hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó cho bạn. Và bạn hãy can đảm để nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của mình. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy. Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này nữa.Nều mà tôi khám phá ra trong cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ,điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung.Có thể tôi thực tập yêu thương còn kém, có thể sự tha thứ, bao dung trong tôi còn kém nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày. Tôi tự nói với chính mình “hãy thương yêu khi có thể, hãy tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này sẽ trở thành không thể.” Và điều mà làm cho tôi hạnh phúc nhất không có gì khác hơn sau khi bạn đọc những dòng chữ này, thì sự thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện. Và bạn đến nói với ba bạn, mẹ bạn, những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm. Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn. Rằng bạn sẽ không cần gì hơn những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi. Pháp Nhật
  14. “ Bốn Quy Tắc Tâm Linh” 1. Quy tắc đầu tiên là: “ Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp cả ” Điều này có nghĩa rằng không ai xuất hiện trong cuộc đời chúng ta một cách tình cờ cả. Mỗi người xung quanh chúng ta, bất cứ ai chúng ta giao lưu, đều đại diện cho một điều gì đó, có thể là để dạy chúng ta điều gì đó hoặc giúp chúng ta cải thiện tình hình hiện tại. 2. Quy tắc thứ hai là: “ Bất cứ điều gì xảy thì đó chính là điểu nên xảy ra” Không có điều gì, tuyệt đối không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi cả. Thậm chí cả với những điều nhỏ nhặt ít quan trọng nhất. Không có; Nếu như tôi đã làm điều đó khác đi..., thì nó hẳn đã khác đi. Không. Những gì đã xảy ra chính là những gì nên xảy ra và phải xảy ra giúp chúng ta học ra bài học để tiến về phía trước. Bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời mà chúng ta đối mặt đều tuyệt đối hoàn hảo, thậm chí cả khi nó thách thức sự hiểu biết và bản ngã của chúng ta. Quy tắc thứ ba là: “ Trong mỗi khoảnh khắc, mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm ” Mọi thứ bắt đầu vào đúng thời điểm, không sớm hơn hay muộn hơn. Khi chúng ta sẵn sàng cho nó, cho điều gì đó mới mẻ trong cuộc đời mình, thì nó sẽ có đó, sẵn sàng để bắt đầu. Đây là quy tắc thứ tư, quy tắc cuối cùng: “ Những gì đã qua, cho qua" Quy tắc này rất đơn giản. Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã giúp ích xong cho sự tiến hoá của chúng ta. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, tốt hơn hết là chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình. Hãy đối xử tốt với chính bản thân bạn. Hãy yêu thương với tất cả tâm hồn bạn. Hãy luôn hạnh phúc.
  15. Xác nhận có 1,000,000 đ (một triệu đồng) của Sunnyday ủng hộ Quỹ Từ Thiện, Quỹ hiện có: 5,500,000 đ + 1,000,000 đ = 6,500,000 đ (sáu triệu năm trăm ngàn đồng)
  16. Ngay trong Topic này có thông tin về địa chỉ và đệ tử của Thầy Võ Hoàng Yên cũng đang giúp người đấy! Bạn chịu khó tìm lại nhé!
  17. Xác nhận có 2,000,000 đ (hai triệu đồng) của nhanqua ủng hộ Quỹ từ thiện. Quỹ hiện có: 3,500,000 đ + 2,000,000 đ = 5,500,000 đ (năm triệu năm trăm ngàn đồng)
  18. NGHIỆP Tôi có quen một người Ý Đại Lợi. Người này rất băn khoăn thắc mắc về vấn đề bất đồng của các cá nhân trong xã hội. Ông ta suy nghĩ về vấn đề này rất nhiều. Ông tìm hỏi nhiều người về vấn đề này, nhưng không tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Một ngày nọ ông đọc được một cuốn sách về Phật Giáo trong đó có nói đến luật Nghiệp Báo. Khi đọc về luật Nghiệp Báo ông ta rất thỏa mãn với những lời giải thích của luật Nghiệp Báo. Ông quyết định tìm hiểu thêm về đạo Phật. Ông sang Á Châu trở thành một nhà sư, và mất ở tuổi tám mươi. Luật Nghiệp Báo là động lực đầu tiên khiến ông trở thành một nhà sư Phật Giáo. Bài giảng về Nghiệp Báo hôm nay căn cứ vào Kinh Cūlakamma bhanga trong Trung Bộ Kinh. Đây là bài kinh Đức Phật giảng cho chàng thanh niên Bà La Môn Subha. Chàng thanh niên Bà la Môn Subha hỏi Đức Phật: 1. Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu? 2. Tại sao có những người thường hay bị bịnh, có những người đầy đủ sức khỏe? 3. Tại sao có những người mặt mày xấu xí, có những người đẹp đẽ? 4. Tại sao có những người cô thế, có người đầy quyền uy. 5. Tại sao có người nghèo nàn đói khổ, có người giàu sang sung túc? 6. Tại sao có người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt, trong giai cấp bần cùng, có người sinh ra trong gia đình quyền quí, trong giai cấp cao sang? 7. Tại sao có người ngu dốt (những người thiếu trí tuệ), có người thông minh? Đức Phật đã trả lời cho Subha một cách ngắn gọn về mười bốn hạng người trên. Đức Phật nói:"Này người thanh niên. Chúng sinh có Nghiệp là tài sản của mình. Chúng sinh là kẻ thừa tự của Nghiệp của mình. Chúng sinh có nguồn gốc từ Nghiệp của mình. Chúng sinh sinh ra từ Nghiệp của mình hay chúng sinh là thân bằng quyến thuộc của Nghiệp mà mình đã tạo. Chúng sinh có Nghiệp là nơi nương nhờ. Ḍo Nghiệp mà có sự khác nhau giữa các chúng sinh hay Nghiệp đã tạo ra sự khác nhau giữa chúng sinh, Nghiệp đã tạo ra sự khác nhau giữa người và người" Đức Phật đã trả lời cho Subha một cách ngắn gọn như vậy. Subha bạch với Đức Phật rằng anh ta không hiểu rõ những lời giải thích ngắn gọn của Đức Phật. Subha nói:"Bạch Ngài, con không hiểu rõ những lời giải thích ngắn gọn của Ngài. Xin Ngài giảng giải rộng rãi, nhiều chi tiết hơn."Đức Phật bèn giảng giải cho Subha nhiều chi tiết hơn. Sở dĩ Đức Phật trả lời cho Subha một cách ngắn gọn như vậy bởi vì Ngài biết rằng Subha là một người đầy cao ngạo. Subha nghĩ rằng mình là người thông minh sáng láng có thể hiểu tất cả những gì Đức Phật dạy dầu đó là những lời ngắn gọn. Đức Phật muốn làm cho tâm cao ngạo của Subha giảm xuống để Subha có thể khiêm nhường nghe những lời giảng giải của Ngài nên Đức Phật chỉ trả lời một cách ngắn gọn. Khi Subha thỉnh cầu Đức Phật giảng giải chi tiết, Đức Phật mới giảng giải chi tiết cho ông ta. Mặc dầu, những câu hỏi này được Subha hỏi, nhưng đây là những câu hỏi thường được mọi người thắc mắc và muốn được trả lời, bởi vì họ đã từng gặp những vấn đề này trong cuộc sống của con người. Có những người mặc dầu được sinh ra trong cùng một gia đình, có cùng cha cùng mẹ, được nuôi dưỡng dưới cùng hoàn cảnh và điều kiện giống nhau, nhưng họ khác nhau; có người thông minh, có người ngu đần; có người sống lâu, có người chết sớm, người giàu, kẻ nghèo v.v... Đây là những câu hỏi người ta thường đặt ra và muốn được trả lời thỏa đáng.Nếu bạn đặt những câu hỏi này cho người tin tưởng vào Thượng Đế, vào ông Trời hay vào Đấng Sáng Tạo thì bạn sẽ được trả lời rằng:"Bởi vì Thượng Đế, Chúa Trời đã tạo ra như vậy."Câu trả lời này chắc chắn không làm bạn thỏa mãn. Sẽ có nhiều câu hỏi tiếp theo khi bạn được nghe câu trả lời như vậy. Chỉ có những lời giải đáp của Đức Phật mới làm cho người ta thỏa mãn bởi vì những câu trả lời của Đức Phật không vô lý. Đức Phật trả lời từng câu hỏi một của chàng thanh niên Subha. Mặc dầu được sinh ra cùng cha cùng mẹ, được nuôi dưỡng cùng hoàn cảnh và điều kiện giống nhau, nhưng chúng ta không thể lấy những điều kiện và hoàn cảnh này làm nguyên nhân của sự bất đồng của họ, cũng không thể lấy lý do họ có cùng cha, cùng mẹ nên nói sự di truyền là nguyên nhân. Cùng được nuôi dưỡng dưới những điều kiện và hoàn cảnh giống nhau nhưng họ khác nhau. Như vậy, lý do của sự khác nhau của những người trong cùng một gia đình phải là cái gì nằm ngoài di truyền, và hoàn cảnh. Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng: Có cái gì đó trong quá khứ đã làm cho chúng ta, và đời sống của chúng ta khác nhau. Đức Phật đã giải thích cho Subha từng câu hỏi một: 1. Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu?"Một số người giết hại chúng sinh khác, không phải chỉ giết hại chúng sinh một lần mà nhiều lần họ giết hại chúng sinh. Do hậu quả của sự giết hại này, họ tái sinh vào bốn đường ác. Họ bị tái sinh vào cảnh Súc Sinh, Ngạ Quỷ, A Tu La, Điạ Ngục. Sau khi ở các cảnh khổ này, nếu được tái sinh làm người trong kiếp hiện tại thì họ bị chết yểu (đoản thọ). Bởi vì họ đã giết hại chúng sinh, nghĩa là họ đã có ý muốn làm cho đời sống của chúng sinh bị ngắn lại, muốn chấm dứt mạng sống của chúng sinh sớm hơn, làm cho tuổi thọ của chúng sinh ngắn lại. Thay vì chúng sinh được sống lâu hơn, họ làm cho chúng sinh chết sớm. Do có ý muốn làm cho tuổi thọ của chúng sinh ngắn đi nên họ nhận hậu quả là đời sống của họ cũng bị ngắn đi hay bị chết yểu. Có những người không bao giờ giết hại chúng sinh. Họ giữ giới sát sinh. Họ ngăn ngừa sự giết hại chúng sinh. Những người này sau khi chết sẽ được tái sinh vào cõi trời. Khi họ tái sinh làm người họ sẽ trường thọ. Những người chết sớm là những người đã giết hại chúng sinh trong những kiếp sống trước đây. Và những người trường thọ là những người giữ giới không sát sinh trong những kiếp trước đây. Khi họ ngăn ngừa hành động giết hại chúng sinh thì tâm họ có lòng mong muốn chúng sinh được sống lâu. Lòng mong muốn chúng sinh được sống lâu là nguyên nhân khiến họ được trường thọ khi họ tái sinh làm người. 2. Tại sao có người thường hay bị bệnh hoạn, có người đầy đủ sức khỏe?Có những người hay bị bệnh hoạn, hết bệnh này lại đến bệnh kia, hoặc sức khỏe họ luôn luôn yếu kém. Những người này, theo lời dạy của Đức Phật, là những người đã làm những chúng sinh khác bị thương. Họ không giết hại người hay chúng sinh khác, nhưng họ hành hạ đánh đập làm cho người khác, chúng sinh khác đau đớn, khổ sở, làm cho cơ thể chúng sinh khác bị tổn thương. Do hành động độc ác, hành hạ, đánh đập, làm hại cơ thể chúng sinh, làm cho chúng sinh bị thương nên họ bị tái sinh vào bốn ác đạo. Khi họ tái sinh làm người, họ luôn luôn bị đau ốm, bị tật nguyền, sức khỏe yếu kém.Có những người thân thể cường tráng, sức khỏe đầy đủ. Có người chẳng bao giờ đau ốm, chẳng bao giờ đến gặp bác sĩ, chẳng bao giờ vào nhà thương, chẳng bao giờ uống một viên thuốc nào. Họ có một cơ thể khỏe mạnh. Tại sao vậy? Trong kiếp sống này, họ có cơ thể khỏe mạnh, bởi vì trong những kiếp sống quá khứ họ không bao giờ hành hạ kẻ khác, không làm kẻ khác bị thương tật, không làm tổn thương thân thể kẻ khác. Họ đã có lòng bi mẫn đối với chúng sinh khác. Do những hành động thiện họ đã làm nên khi tái sinh làm người họ có đầy đủ sức khỏe. 3. Tại sao có người mặt mày xấu xí khó coi, có người mặt mày đẹp đẽ dễ nhìn. Một số người thường hay giận dữ. Người ta chỉ chỉ trích một tí thôi là đã nỗi sân lên. Với bản chất sân hận, giận dữ như thế nên họ phải tái sinh vào bốn đường ác. Khi họ được tái sinh làm người, do Nghiệp giận dữ mà họ đã tạo, mặt mày họ trở nên xấu xí.Như vậy, nóng giận, sân si là nguyên nhân làm cho người xấu xí. Chúng ta có thể dễ dàng để hiểu điều này. Ngay cả khi chúng ta đang sống trong đời sống hiện tại này, khi giận dữ thì mặt mày chúng ta thật là xấu xí; khi giận dữ mặt mày hung dữ, dễ sợ. Nếu chúng ta muốn biết khi giận dữ mặt mày chúng ta xấu xí như thế nào thì mỗi lần giận dữ hãy nhìn vào gương soi, lúc đó, chúng ta sẽ thấy chúng ta xấu xí?Những người đẹp đẽ có bản chất không giận dữ. Họ là những người luôn luôn đối xử tốt với người khác, và họ không dễ dàng giận dữ. Bởi vậy, nếu bạn muốn đẹp đẽ ngay cả trong kiếp sống này thì đừng giận. Một trong những nguyên nhân giúp bạn có gương mặt đẹp đẻ là cố gắng hành thiền từ ái. Như vậy, nguyên nhân của sự xấu xí là giận dữ, và nguyên nhân của đẹp đẽ là không giận dữ, có lòng từ ái. Điều này chứng tỏ cho ta thấy rằng: Nếu chúng ta muốn đẹp đẽ, nếu chúng ta muốn gương mặt chúng ta vui vẻ dễ thương thì chúng ta đừng bao giờ dễ dàng giận dữ. 4. Tại sao có người cô thế, có người đầy quyền uy. Đôi khi bạn gặp những người đầy quyền uy, lời họ nói ra đầy uy quyền, và họ ảnh hưởng đến người khác, khiến người khác phải nghe theo, đi theo họ. Cũng có những người không có quyền uy, họ không có uy quyền để làm việc gì. Có nhiều người, mặc dầu có chức vụ lớn, địa vị cao, có tiền của nhiều, nhưng họ nói không ai nghe. Nguyên nhân tại sao?Có những người có quyền cao, chức trọng nhưng không làm người khác nể phục, không ảnh hưởng đến người khác bởi vì kiếp trước họ có tánh hay ganh tỵ: Thấy ai được lợi, được danh, được người khác tôn trọng, kính nể thì họ cảm thấy khó chịu và ganh ghét. Người nào hay ganh tỵ, đố kỵ, ganh ghét khi thấy người khác được lợi lộc, được vinh dự v.v... thì chắc chắn người đó sẽ bị cô thế, không có thẩm quyền hay năng lực ảnh hưởng tới ngưòi khác trong kiếp sống tương lai. Những người có thẩm quyền được mọi người tùng phục nghe theo trong đời sống này là những người không ganh tỵ trước những thành công, lợi lộc, sự tôn trọng, hay sự kính nể của người khác. Ganh tỵ là nguyên nhân khiến trong kiếp sống này chúng ta trở thành người không có uy quyền, không ảnh hưởng đến người khác. Ngược lại, không ganh tỵ, không đố kỵ là nguyên nhân khiến trong kiếp sống này chúng ta có uy quyền, có ảnh hưởng đến người khác. 5. Tại sao có người nghèo nàn đói khổ, có người giàu sang sung túc?Những người nghèo khổ trong kiếp sống này là những người kiếp trước không biết bố thí, giúp đỡ thực phẩm, áo quần, vật dụng khác cho Sa Môn, Bà La Môn và những người khác. Họ là những người không thực hành hạnh bố thí. Những người giàu có trong kiếp sống này là những người thực hành hạnh bố thí trong những kiếp trước. Họ đã bố thí cúng dường thức ăn, thức uống, áo quần, thuốc men, và những vật dụng khác cho mọi người. Thực hành hạnh bố thí là nguyên nhân của sự giàu có, và không thực hành hạnh bố thí hay bủn xỉn, keo kiệt là nguyên nhân của sự nghèo nàn. Như vậy, bủn xỉn, keo kiệt, không dám cho ai thứ gì là nguyên nhân của sự nghèo khổ. 6. Tại sao có người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt, trong giai cấp bần cùng, có người sinh ra trong gia đình quuyền quí, trong giai cấp cao sang? Những người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt vì kiếp trước họ tự cao, ngã mạn, kiêu căng, tự phụ. Họ chẳng hề tôn kính lễ bái những bậc đáng tôn kính. Họ không đứng dậy, tỏ vẻ kính trọng những người đáng được đứng dậy, đáng được kính trọng. Họ không biết nhường chỗ ngồi cho những người đáng được nhường chỗ. Họ không nhường lối đi cho những bậc đáng được nhường lối đi. Họ không tôn kính, lễ độ đối với những bậc đáng được tôn kính, lễ độ. Không biết tôn trọng, kính nhường là nguyên nhân của sự tái sinh vào giai cấp thấp kém. Nguyên nhân được sinh vào gia đình quyền quí, giai cấp cao sang thì do những nguyên nhân ngược lại. Những người này kiếp trước không kiêu hãnh, tự cao, tự đại. Họ thường tôn kính lễ bái những bậc đáng tôn kính lễ bái. Họ đứng dậy, tỏ vẻ tôn trọng những người đáng được đứng dậy tỏ vẻ tôn trọng. Họ biết nhường chỗ ngồi cho những người đáng được nhường chỗ ngồi. Họ nhường lối đi cho những bậc đáng được nhường lối đi. Họ tôn kính, lễ độ đối với những bậc đáng được tôn kính, lễ độ. Tóm lại, tự cao, tự đại là nguyên nhân của sự sinh trưởng trong gia đình thấp kém, và không tự cao tự đại, biết tôn kính là nguyên nhân được sinh ra ở những gia đình cao sang. 7. Tại sao có người ngu dốt, thiếu trí tuệ, có người thông minh sáng suốt?Nguyên nhân của sư thiếu trí tuệ, ngu dốt, trì độn, và nguyên nhân của sự thông minh sáng suốt, trí tuệ minh mẫn là biết đặt câu hỏi hay không đặt câu hỏi. Những người không chịu gần bậc thiện trí thức để học hỏi. Không chịu đặt câu hỏi để biết thế nào là thiện, thế nào là ác, những gì cần phải làm, những gì không nên làm v.v... Những người không chịu tìm tòi học hỏi, đặt câu hỏi thì sẽ tái sinh thành người chậm lụt, thiếu trí tuệ hoặc dễ trở thành ngu đần. Những người nào luôn luôn tìm tòi, học hỏi, biết hỏi han thế nào là hành động thiện, thế nào là hành động ác, điều gì thích nghi và điều gì không thích nghi, việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Những người đó tái sinh làm người thông minh sáng suốt, bậc trí tuệ. Như vậy, đặt câu hỏi, tìm hiểu giáo pháp là nguyên nhân của sự thông minh trí tuệ, không đặt câu hỏi, là nguyên nhân của sự kém trí tuệ. Như vậy, bây giờ các bạn đã biết, đã hiểu do nguyên nhân gì, do thực hành điều gì đưa đến kết quả gì? - Giết hại chúng sinh đưa đến chết yểu hay có đời sống ngắn ngủi. Thực hành giới không sát sinh sẽ đưa đến sự trường thọ. Như vậy, có hai sự lựa chọn: - Nếu bạn muốn sống lâu thì đừng giết hại chúng sinh khác. Nếu bạn không cần sống lâu; cho rằng sống lâu hay chết sớm cũng không thành vấn đề thì đừng giữ giới này. - Nếu bạn muốn được khỏe mạnh trong tương lai thì đừng đánh đập hay làm tổn thương đến thân thể người khác. - Nếu bạn muốn đẹp đẽ thì đừng sân hận.- Nếu bạn muốn có uy quyền, ảnh hưởng đến người khác và được người khác tôn trọng thì đừng ganh tỵ hay đố kỵ. - Nếu bạn muốn giàu có thì hãy bố thí. - Nếu bạn muốn sinh trưởng trong gia đình quyền quí, cao sang thì phải biết khiêm nhường, không tự cao, tự đại.- Nếu bạn muốn thông minh, trí tuệ thì hãy đặt câu hỏi.Đó là những nguyên nhân đã tạo ra sự chênh lệch, sự bất đồng giữa người này và người khác. Đức Phật đã trả lời câu hỏi do chàng thanh niên Subha đặt ra và cuối bài giảng, một lần nữa, Đức Phật dạy rằng: Tất cả chúng sinh đều có Nghiệp là gia tài của họ. Họ là kẻ thừa kế của Nghiệp mà họ đã tạo. Chính Nghiệp đã làm cho người này khác với người kia. Như vậy, Đức Phật đã trả lời cho chàng thanh niên Shuba hiểu rằng: Tất cả sự bất đồng của con người không phải được tạo ra bởi Thượng Đế, Chúa Trời, Thần Thánh hay một cái gì cả. Do Nghiệp hay những hành vi tạo tác bởi thân, khẩu, ý của mỗi người mà họ sẽ nhận chịu những kết quả khác nhau. Do Nghiệp của chính họ trong quá khứ khiến họ sống lâu hay chết yểu, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay ngu dốt. Chính Nghiệp đã tạo ra sự bất đồng trong kiếp hiện tại này. Và Nghiệp là gì mà nó tạo ra sự bất đồng của chúng sinh?Kamma (Nghiệp) thường được dịch là hành động. Thật ra, nghĩa chính xác của Nghiệp là tâm sở “cố ý” (Cetana) - Sự cố ý là một tâm sở hay một yếu tố - có nghĩa là muốn hay cố ý để làm một chuyện gì đó qua thân, khẩu, ý. Nghiệp chính thật là sự cố ý để làm một việc gì. Do “sự cố ý” này, người ta thực hiện hành động, lời nói hay ý nghĩ. Bởi vì mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ đều được đi kèm với “sự cố ý” hay Nghiệp. Do đó, chữ Kamma hay Nghiệp nên dịch là sự “cố ý”, chứ không nên dịch là hành động. Chúng ta phải thận trọng về nghĩa của chữ Nghiệp, nếu không khi nói đến Nghiệp, chúng ta lại nghĩ đó là hành động.Nếu chúng ta muốn dùng chữ cho chính xác thì chúng ta phải nói Nghiệp là sự cố ý.Như vậy, Nghiệp hay sự cố ý là một tâm sở khởi sinh trong các loại tâm của chúng ta. Bởi vì, là một tâm sở nên nó có đặc tính: “khởi sinh rồi lại hoại diệt ngay”. Đặc tính sinh, diệt là đặc tánh chung của mọi sự vật trên thế gian. Mọi sự vật trên thế gian là Vô thường. Mọi sự vật đều có đặc tính khởi sinh rồi hoại diệt, đến rồi đi. Tâm sở cố ý cũng sinh và diệt như các tâm sở khác. Nhưng một điều cần lưu ý ở đây là: các tâm sở khác khởi sinh rồi hoại diệt ngay và chẳng để lại một chút ảnh hưởng nào cả. Nhưng tâm sở cố ý khi hoại diệt vẫn còn để lại tiềm năng đưa đến những hậu quả sau này. Tiềm năng của Nghiệp này nằm trong 'luồng tồn sinh' (hộ kiếp) của Tâm. Đó là lý do tại sao khi có điều kiện thuận lợi thì Nghiệp trổ quả. Một lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức Nāgasena rằng:"Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?".Ngài Nagasana trả lời: "Không thể nào, nói một cách chính xác, Nghiệp được tồn trữ ở đâu. Nhưng Nghiệp tùy thuộc vào luồng bhavanga (luồng tồn sinh, luồng hộ kiếp), tùy thuộc vào Vật Chất và Tâm. Khi luồng tồn sinh gặp những điều kiện thuận lợi thì Nghiệp sẽ trổ quả". Mặc dầu chúng ta không thể nói một cách chính xác Nghiệp đã được tích chứa ở đâu, nhưng khi có điều kiện thuận tiện để cho Nghiệp tốt trổ sinh thì sẽ có quả. Như vậy, Nghiệp này, sự cố ý này, khi biến mất thì nó còn để lại một cái gì đó, để lại tiềm năng trong luồng tồn sinh (bhavanga) của chúng sinh, khi có điều kiện thuận tiện thì chúng sinh sẽ nhận chịu hậu quả.Ngài Nāgasena đã đưa ra một ví dụ về cây xoài: “Chúng ta không thể nào nói rằng trái xoài đã chứa ở đâu trong cây xoài: ở trong rễ, trong thân, hay trong cành, nhưng khi khi đến mùa, khi có đủ độ ẩm, khi có thời tiết thích hợp, khi có điều kiện thuận lợi… thì quả sẽ hình thành và cây sẽ trổ quả. Cũng vậy, mặc dầu không thể nói Nghiệp cất chứa ở đâu, nhưng khi có đủ điều kiện thuận tiện thì chúng ta sẽ nhận được quả của Nghiệp.Sau khi đã hiểu thế nào là Nghiệp, chúng ta cũng cần nên hiểu những gì không phải là Nghiệp. Một số học thuyết quan niệm rằng con người bị chi phối bởi Số Phận hay Tiền Định. Và Số Phận hay Tiền Định là cái gì được áp đặt lên chúng sinh bởi quyền lực kỳ diệu khó biết được, hoặc bởi thần thánh, bởi Thượng Đế, bởi Phạm Thiên… Nghiệp không phải là số phận hay Tiền Định theo quan niệm đó. Mỗi khi chúng ta đau khổ về chuyện gì hay mỗi khi chúng ta đạt được cái gì ta muốn, chúng ta nói:"Đây là quả của Nghiệp"Hay là chúng ta chỉ đơn giản nói:"Đây là Nghiệp của ta".Nhưng nếu gọi hay định nghĩa Nghiệp là số phận hay là tiền định đã được đặt định lên kẻ khác thì Nghiệp ta nói đây không phải là số phận hay tiền định đó. Kamma (Nghiệp) là những gì chúng ta đã cố ý làm trong quá khứ, và ta nhận chịu hậu quả của Nghiệp mà ta đã tạo, nhưng quả của Nghiêp đã tạo có thể xảy ra trong hiện tại hay trong tương lai.- Quả của Nghiệp là hậu quả đương nhiên của Nghiệp. - Quả của Nghiệp tốt hay xấu không phải do Thánh Thần, Thượng Đế, Phạm Thiên tạo ra. - Quả của Nghiệp, không phải là sự ban thưởng hay sự trừng phạt của Thần Linh, Thượng Đế v.v... - Quả tốt chúng ta gặt được không phải là phần thưởng của Thánh Thần, Thượng Đế. - Quả xấu chúng ta gặt được không phải là hình phạt của Thánh Thần, Thượng Đế. Những gì chúng ta gặt được đó là quả của những gì chúng ta đã làm. Quả của Nghiệp là của chính chúng ta, là kết quả của những gì chúng ta đã làm với sự cố ý. Như vậy, Nghiệp không phải là số phận hay tiền định do một quyền năng nào đó đặt định lên chúng ta mà Nghiệp là của sở hữu của chúng ta. Chúng ta nhận quả tốt hay quả xấu đều do chúng ta làm. Tóm lại, quả của Nghiệp không do ai tạo ra mà là kết quả đương nhiên của Nghiệp mà ta đã tạo.Có người nghĩ rằng chấp nhận Nghiệp chẳng khác nào "chủ bại" hay Nghiệp là chủ thuyết "chủ bại". Người theo chủ nghĩa "chủ bại" chấp nhận tất cả những gì đến với họ, và không thể làm gì để cải thiện chính mình. Đây là một quan niệm sai lầm. Nghiệp không phải như thế. Do tạo Nghiệp tốt ta sẽ nhận quả tốt ngay trong kiếp sống hiện tại. Như vậy, Nghiệp không phải là lý thuyết chủ bại. Nghiệp không phải là chủ bại, chấp nhận hay cam chịu với những gì xảy đến cho mình, mà không tìm cách tránh né hay cải thiện. Chúng ta chấp nhận rằng những gì tốt xấu xảy ra cho ta là do quả của Nghiệp, nhưng chúng ta cải thiện hoàn cảnh của chúng ta bằng cách tạo ra những Nghiệp thiện mới. Như vậy, Kamma không phải là thuyết "chủ bại" như một số người hiểu lầm. Một câu hỏi kế tiếp là: Chúng ta có thể biến đổi hay cải thiện các tác động hay hậu quả hay của Nghiệp không? Ngay chính Đức Phật cũng không can thiệp vào sự tác động của Nghiệp. Khi hoàng tử Vidūdabha quyết ý giết hại thân quyến của Đức Phật. Đức Phật không thể can thiệp được bởi vì đây là quả của Nghiệp mà thân quyến của Đức Phật đã tạo ra trước đây nên họ phải bị hoàng tử Vidūdabha tiêu diệt. Như vậy, Đức Phật không thể ngăn chặn quả khổ mà thân bằng quyến thuộc Ngài phải trả. Lý do là vì luật Nghiệp báo là một luật tự nhiên. Luật Nghiệp báo không do ai tạo ra. Luật Nghiệp báo không do Thượng Đế, ông trời hay thánh thần nào tạo ra cả. Đây là một luật tự nhiên. Bởi vì Nghiệp là luật tự nhiên, do đó không ai có thể can thiệp vào tác động của Nghiệp. Mặc dầu không thể can thiệp vào tác động của Nghiệp, nhưng chúng ta có thể biến đổi được phần nào tác động của Nghiệp. Đó là chúng ta có thể tạo ra những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp bất thiện trổ quả. Nghĩa là chúng ta có thể hay làm cho Nghiệp bất thiện chậm trỗ quả hơn. Bởi vì, như tôi đã nói trước đây, Nghiệp chỉ trỗ quả khi có điều kiện thuận lợi. Khi không có điều kiện thuận lợi thì Nghiệp sẽ ở đó chờ. Nếu chúng ta tạo những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp bất thiện trổ quả thì chúng ta có thể không nhận chịu hậu quả của Nghiệp bất thiện. Mặc dầu, không thể can thiệp vào luật Nghiệp báo, không thể thay đổi luật Nghiệp báo, nhưng chúng ta có thể tạo ra những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp trổ quả. Ít nhất chúng ta có thể đình hoãn được sự trổ quả của Nghiệp trong một thời gian.Ngay Đức Phật cũng phải nhận chịu những quả xấu do những Nghiệp bất thiện mà Ngài đã tạo ra trước đây. Đức Phật thường bị đau đầu và đau lưng, và đôi khi bị cảm. Khi Devadatta xô một tảng đá lớn từ trên cao xuống để hại Đức Phật. Mặc dầu tảng đá lớn không rơi trúng Ngài, nhưng một mãnh đá nhỏ vỡ ra từ tảng đá lớn làm Ngài bị bầm máu nơi chân, Ngài phải chịu đau đớn, và vết bầm phải được mỗ để máu ứ đọng chảy ra. Ngay Đức Phật cũng không tránh khỏi hậu quả của những Nghiệp ác đã tạo trong quá khứ. Có rất nhiều câu chuyện cho ta thấy không ai có thể thoát khỏi hậu quả của các Nghiệp ác. Chúng ta không thể can thiệp vào những tác động của Nghiệp. Chúng ta không thể thay đổi dòng Nghiệp, nhưng chúng ta có thể làm cho hiệu quả của Nghiệp xấu triển hạn một thời gian - trong một số trường hợp hay trong một giới hạn nào đó. Không ai có thể xóa tan tất cả Nghiệp lực hay xóa tan toàn thể một Nghiệp lực nào mà mình đã tạo. Có nghĩa là không ai có thể tiêu trừ tất cả Nghiệp hay tất cả những quả của Nghiệp đã tạo, như vậy mọi người phải nhận chịu những hậu quả của Nghiệp mà mình đã tạo trong quá khứ. Tuy nhiên, vào lúc Giác Ngộ đạo quả A La Hán tất cả các Nghiệp đều bị tiêu diệt. Tâm Đạo vào lúc Giác Ngộ tầng thánh thứ tư được gọi là "tâm đã hoàn thành trách nhiệm tiêu diệt Nghiệp". Như vậy vào lúc đạt đạo quả A La Hán tất cả các Nghiệp đều diệt. Điều này không có nghĩa là tất cả các Nghiệp trong quá khứ đều bị diệt và vị A La Hán không còn nhận chịu các quả của Nghiệp quá khứ. Nhưng điều xảy ra là vào lúc Giác Ngộ A La Hán là tất cả các phiền não đều bị diệt ngay vào lúc ấy. Khi tâm không còn phiền não thì những gì vị đó làm thì chỉ đơn thuần là làm thôi mà không tạo nên Nghiệp nào nữa bởi vì vị A La Hán không còn dính mắc vào đời sống nào cả hay không còn dính mắc vào sự hiện hữu nào cả. Vị A La Hán không còn vô minh. Bởi thế, những gì vị A La Hán làm thì chỉ là tác động thôi mà không tạo ra Nghiệp. Nói cách khác, Vị A La Hán hay Đức Phật không còn tích lũy những Nghiệp mới nữa. Các Ngài không tạo nên Nghiệp mới nào dầu các Ngài có làm điều thiện đi nữa. Đức Phật đã dạy cho nhiều chúng sinh, Đức Phật đã giúp cho nhiều người thoát khỏi đau khổ. Những vị A La Hán cũng làm nhiều điều thiện lành cho các nhà sư khác và mọi người, nhưng các Ngài không gặt hái quả tốt khi các Ngài làm việc tốt. Những tác động của các Ngài hay Nghiệp của các Ngài được gọi là "Kiriya" (Duy tác) nghĩa là chỉ có tác động, chỉ có hành động xảy ra. Tất cả các Nghiệp đều hoàn toàn bị tiêu diệt ở tầng thánh thứ tư có nghĩa là sau khi vị này đạt tầng thánh thứ tư thì không còn tạo tác các Nghiệp nào nữa, và bởi vì không có Nghiệp nên sẽ không có quả của Nghiệp trong tương lai.Như vậy những Nghiệp các Ngài đã tạo trong quá khứ hay những Nghiệp cũ thì như thế nào? Các Ngài vẫn còn nhận chịu quả của những Nghiệp cũ, như Đức Phật vẫn còn đau khổ vì bị nhức đầu v.v... Những vị A La Hán khác vẫn còn bị đau khổ bởi bệnh tật và còn nhận chịu những quả của Nghiệp quá khứ. Các bạn còn nhớ chuyện Ngài Moggallāna đã bị 500 tên cướp giết chết v.v... Như vậy mặc dầu Phật và các vị A La Hán không tạo những Nghiệp mới, nhưng các Ngài vẫn còn những Nghiệp cũ nên các Ngài vẫn còn hưởng thụ hay nhận chịu hậu quả của những Nghiệp các Ngài đã làm trong quá khứ. Nhưng sau khi các Ngài nhập diệt, các Ngài không còn tái sinh nữa, nên những Nghiệp các Ngài đã tích tụ trong quá khứ không thể trả quả sau khi các Ngài chết. Các bạn đã biết câu chuyện của Ngài Anguli-māla. Angulimāla đã giết cả ngàn người. Đức Phật đến gặp ông ta và dạy đạo cho ông, sau đó ông trở thành một nhà sư và đắc quả A La Hán. Là một vị A La Hán, nhưng trước khi chết Ngài Angulimāla còn phải chịu đau khổ vì hậu quả của những Nghiệp bất thiện Ngài đã làm. Trước khi trở thành một nhà sư, Ngài đã tạo nhiều Nghiệp bất thiện. Nếu không trở thành một vị A La Hán, những Nghiệp bất thiện này sẽ trả cho Ngài rất nhiều kiếp. Nhưng sau khi đã đắc quả A La Hán, Ngài Angulimāla không còn tái sinh nữa nên những Nghiệp ác mà Ngài đã làm không thể cho quả. Như vậy, đối với Ngài Angulimāla, Nghiệp bất thiện đã trở thành vô hiệu. Giống như trường hợp một người sau khi phạm tội đại hình thì bị chết, và vì người này đã chết rồi nên quan tòa không thể xử phạt y nữa. Cũng vậy, khi một vị A La Hán tịch diệt, các Ngài không còn tái sinh nữa. Bởi vì không còn tái sinh nên những Nghiệp cũ không thể trả quả cho các Ngài sau khi các Ngài chết. Nghiệp của các Ngài đã trở thành vô hiệu. Khi ta nói những vị A La Hán đã hoàn thành việc tiêu diệt Nghiệp, điều này có nghĩa là các Ngài không còn tạo các Nghiệp mới nữa, nhưng các Ngài vẫn còn nhận chịu quả của các Nghiệp mà các Ngài đã tạo trong quá khứ. Nhiều Nghiệp trở thành vô hiệu có nghĩa là những Nghiệp này không còn trả quả cho Chư Phật và Chư A La Hán khi các Ngài đã mất; bởi vì Phật và A La Hán không còn tái sinh nữa.Chúng ta không muốn nhận chịu quả của những Nghiệp dữ, nếu vậy thì chúng ta đừng làm những Nghiệp dữ nữa. Nếu chúng ta đã làm Nghiệp dữ rồi thì sao? Đối với những Nghiệp dữ đã làm bây giờ chúng ta phải làm thế nào đây? Đức Phật dạy: "Dầu chúng ta có ăn năn hối hận về những Nghiệp xấu đã làm trong quá khứ thì Nghiệp xấu cũ đó cũng không thể nào sữa chữa lại". Những việc chúng ta đã làm rồi thì chúng ta không thể trở lại quá khứ để làm lại. Cái gì đã làm thì đã làm rồi, bởi thế ăn năn hối hận càng làm cho tình thế tệ hại hơn, và càng tích lũy nhiều hành vi bất thiện hơn. Càng ăn năn hối hận bao nhiêu, càng tiếc nuối bao nhiêu thì càng tăng thêm các Nghiệp ác đã tạo bấy nhiêu. Như vậy, ý Đức Phật muốn nói: "Quên nó đi". Đừng nhớ đến những Nghiệp quá khứ, vì càng nhớ thì càng tạo thêm Nghiệp bất thiện. Quên đi những Nghiệp bất thiện được gọi là "từ bỏ những Nghiệp bất thiện này và trong tương lai nguyện tránh xa các hành vi bất thiện đó".Như vậy, đối với những Nghiệp quá khứ đã tạo, trước tiên chúng ta đừng nghĩ đến chúng nữa, đừng hối hận vì đã làm những Nghiệp xấu đó nữa đồng thời cố gắng tránh xa hay tự chế không làm các hành vi hay Nghiệp xấu đó trong tương lai. Điều này được gọi là "loại trừ các Nghiệp xấu" hay "vượt qua các Nghiệp xấu". Như vậy, nếu chúng ta đã làm Nghiệp xấu trong quá khứ thì chúng ta đừng nhớ đến chúng nhiều lần, đừng ăn năn hối hận về chúng nhiều lần nữa, hãy để chúng sang một bên, cho chúng về quá khứ và từ nay tự chế, ngăn ngừa không làm những hành vi bất thiện tương tự trong tương lai. Bằng cách này, chúng ta đã để lại đàng sau tất cả những Nghiệp bất thiện. NHỮNG HIỂU BIẾT SAI LẦM HAY TÀ KIẾN VỀ KAMMA (Nghiệp). 1. Tà kiến hay sự hiểu biết sai lầm thứ nhất:"Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến".Bạn có đồng ý như vậy chăng? Tôi xin lập lại "Những cảm thọ mà một người nhận chịu: Lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, ai quan niệm như vậy là tà kiến".Muốn hiểu câu nói này thì bạn phải hiểu về những cảm thọ hay hiểu tất cả những tâm quả đi kèm với tâm sở thọ, chúng đi kèm với những tâm thiện và bất thiện, và chúng đi kèm với tâm Kiriya (tâm duy tác), khởi sinh trong tâm vị A La Hán Đối với những cảm thọ đi kèm với tâm quả thì câu này đúng, phải không? Đúng vậy. Bởi vì, giả sử tôi đau ở đây. Kinh nghiệm về sự đau là kết quả của Nghiệp quá khứ. Đó là tâm quả; điều này đúng. Nhưng ngay trong khi chúng ta làm các hành vi thiện hay bất thiện trong hiện tại thì chúng ta có "tâm thiện" và "tâm bất thiện". Trong tâm thiện và bất thiện đó có sẵn lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Những thọ này đâu phải là kết quả của Nghiệp quá khứ, những thọ này là những gì ta tạo trong hiện tại. Tâm khởi sinh trong các vị Phật và các vị A La Hán cũng vậy. Các Ngài cũng có lạc thọ, khổ thọ (về thân) hay vô ký thọ. Những cảm thọ của các Ngài hay những kinh nghiệm về những cảm thọ của các Ngài không phải là kết quả của Nghiệp. Như vậy, nếu bạn nói rằng những cảm thọ: lạc khổ hay vô ký mà một người đã nhận chịu là quả của Nghiệp trong quá khứ thì đó là quan niệm sai lầm. 2. Một loại tà kiến hay hiểu biết sai lầm khác là: "Những cảm thọ lạc, khổ và vô ký mà ta kinh nghiệm được tạo ra bởi đấng sáng tạo hay Thượng Đế." Điều này có nghĩa là những cảm thọ mà một người có thể kinh nghiệm được do Thượng Đế tạo ra. Thượng Đế tạo ra niềm vui, tạo ra sự khổ cho họ. Nếu bạn quan niệm như vậy thì đó cũng là tà kiến hay sự hiểu biết sai lầm về Kamma. Thật vậy, cho rằng Thượng Đế tạo ra niềm vui, tạo ra sự khổ là một quan niệm thật sai lầm! 3. Một loại tà kiến khác là: “Tất cả các cảm thọ: lạc, khổ, vô ký mà một người nhận chịu chẳng có nguyên nhân, chẳng có điều kiện gì cả”. Chẳng có cảm thọ nào khởi sinh mà không có nhân duyên. Mọi cảm thọ đều tùy thuộc vào nhân duyên. Không có nguyên nhân (nhân), không có điều kiện (duyên) thì cảm thọ không thể khởi sinh. Nói rằng: "Hạnh phúc hay đau khổ của người này... chẳng có nhân duyên gì cả” Đó là câu nói sai lầm".Nói rằng: “Lạc thọ, khổ thọ được tạo ra bởi Chúa Trời hay Thượng Đế” thì cũng sai lầm. Bởi vì tất cả mọi sự vật đều phát sinh do một số điều kiện nào đó chứ không phải được sáng tạo bởi Trời hay Thượng Đế. Nói rằng: “Những cảm thọ khởi sinh chẳng do nguyên nhân hay điều kiện nào cả”. Đó cũng là một câu nói sai lầm bởi vì “tất cả mọi sự vật đều phát sinh do một số điều kiện nào đó chứ không phải tự nhiên phát sinh”. Quan niệm sai lầm thứ hai: “Cảm thọ được tạo ra bởi Chúa Trời” và quan niệm sai lầm thứ ba: “Cảm thọ khởi sinh chẳng do nhân duyên nào cả”, Hai quan niệm này thật dễ hiểu, nhưng quan niệm sai lầm đầu tiên: "Những cảm thọ mà một người nhận chịu đều là kết quả của Nghiệp quá khứ” hơi khó hiểu một chút. Muốn hiểu quan niệm đầu tiên này bạn phải hiểu Abhidhamma. Có một đoạn văn rất quan trọng, nhưng cũng rất khó hiểu là: "Ta không hề dạy rằng Nghiệp đã làm có thể bị tiêu diệt mà không phải trả các quả trong đời sống này, trong đời sống kế tiếp hay trong đời sống kế tiếp nữa". Tôi nghĩ rằng câu này cũng không khó hiểu lắm, chúng ta có thể hiểu như vầy: “Nghiệp sẽ không bị tiêu diệt nếu chưa trả quả”, có nghĩa là “khi Nghiệp chưa trả quả thì Nghiệp chưa diệt” và “sau khi đã trả quả thì Nghiệp diệt mất”, đại khái như vậy. Điều này không khó hiểu.Nhưng câu kế tiếp rất khó hiểu: "Ta không dạy rằng: Có thể làm cho Nghiệp đã tạo chấm dứt mà không cần phải trả". Câu này có nghĩa là: “Ta không dạy rằng có thể chấm dứt đau khổ mà không cần phải trả quả của các Nghiệp đã tạo”. Có nghĩa là trước khi chấm dứt sự đau khổ bạn phải nhận chịu những hậu quả của nó.Câu này khiến tôi suy nghĩ nhiều. Thật là khổ cho tôi: "Trước khi chấm dứt sự đau khổ bạn phải nhận chịu những hậu quả của nó". Nghĩa là: “Nếu bạn chưa nhận chịu quả của các Nghiệp đã tạo thì bạn không thể chấm dứt đau khổ”. Như vậy, nếu bạn muốn chấm dứt đau khổ thì bạn phải trả hết các quả của Nghiệp đã tạo? Không phải vậy? Thế thì câu này có nghĩa như thế nào? Tôi cũng không biết nữa! Tôi muốn các bạn suy nghĩ về điều đó. Nhưng đừng suy nghĩ trong khóa thiền này. Sau khóa thiền này các bạn hãy suy nghĩ nhiều lần và tôi sẽ cho biết ý kiến của tôi trong khóa thiền tới. Khi tôi đọc câu trên, tôi không hiểu, tôi bèn đọc chú giải. Nhưng chú giải chẳng giải thích tý nào về câu này. Chú giải giữ im lặng. Tôi bèn giở phụ chú giải ra để xem. Nhưng phụ chú giải cũng chẳng nói gì. Cả hai chú giải và phụ chú giải đều làm tôi đau khổ. Như vậy, khi hỏi câu hỏi này, tôi cũng làm các bạn đau khổ. Các bạn hãy suy nghĩ về điều này và chúng ta sẽ gặp lại trong kỳ tới...***** Trong khóa thiền vừa rồi, khi nói về luật Nghiệp báo tôi đã gởi đến các bạn một đoạn văn về Nghiệp báo. Đoạn văn này nói: "Ta không hề dạy rằng Nghiệp đã tạo có thể bị tiêu diệt không phải trả các quả trong đời sống này, trong đời sống kế tiếp hay trong đời sống kế tiếp nữa".Những điều Đức Phật dạy là: "Ta không dạy rằng có thể chấm dứt Nghiệp đã tạo, đã tích lũy, mà không phải nhận chịu hậu quả của chúng”, điều này có nghĩa là “Nghiệp sẽ không bị tiêu diệt khi chưa được trả quả trong đời sống này, trong đời sống kế tiếp, hay trong các đời sống kế tiếp nữa”. Đức Phật tiếp tục dạy rằng: "Ta không dạy rằng sự đau khổ có thể chấm dứt mà không cần phải nhận chịu hậu quả của các Nghiệp đã tạo". Câu này có nghĩa là: “Không thể chấm dứt sự đau khổ nếu không nhận chịu hậu quả của Nghiệp đã tạo” hay: “Phải nhận chịu hết hậu quả của Nghiệp đã tạo đau khổ mới chấm dứt”. Trước tiên khi đọc câu này, chúng ta cảm thấy hơi kỳ lạ, câu đầu tiên nói rằng: "Nghiệp sẽ không chấm dứt nếu quả của chúng chưa được trả. Quả của các Nghiệp có thể trả trong kiếp sống này, trong kiếp sống kế tiếp hay trong các đời sống tiếp theo nữa. Nhưng theo luật về Nghiệp báo thì Nghiệp sẽ vô hiệu nếu nó không trả quả vào lúc nó phải trả quả. Có những Nghiệp trả quả trong kiếp sống này, có những Nghiệp trả quả trong kiếp sống tới, có những Nghiệp trả quả trong những kiếp sống kế tiếp kiếp tới và vô số kiếp sau đó nữa cho đến khi chúng ta trở thành một vị A La Hán và chết.Nếu Nghiệp phải trả quả trong kiếp sống này mà không trả quả được bởi vì thiếu điều kiện thuận lợi thì Nghiệp này vô hiệu. Những Nghiệp phải trả quả trong kiếp này, nhưng nếu Nghiệp đó không trả quả vì lý do nào đó thì chúng trở thành vô hiệu và chúng sẽ không trả quả trong kiếp tới hay trong những kiếp sau nữa. Cũng vậy, những Nghiệp phải trả quả trong kiếp kế tiếp, nhưng nếu Nghiệp đó không trả quả trong kiếp kế tiếp vì lý do nào đó thì chúng trở thành vô hiệu và chúng sẽ không trả quả trong những kiếp sau nữa, cho đến khi chấm dứt vòng sinh tử luân hồi. Cũng vậy, những Nghiệp trả quả bắt đầu trong kiếp sống này và kéo dài cho đến các kiếp sau nữa cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi sẽ trở thành vô hiệu khi chúng ta trở thành A La Hán và chết. Những Nghiệp cho quả trong kiếp này, sẽ không bị tiêu diệt hay vô hiệu nếu chưa trả quả trong kiếp sống này. Nhưng sau kiếp sống này chúng sẽ không trả quả nữa và trở thành vô hiệu. Loại Nghiệp thứ hai cho quả trong kiếp sống tới. Bao lâu chúng trưa trả quả trong kiếp sống tới và bao lâu mà kiếp sống tới còn hiện hữu thì Nghiệp đó không trở thành vô hiệu. Khi thời gian cho quả đã trôi qua, có nghĩa là khi người tạo nghiệp đã tái sinh trong kiếp tới, thì Nghiệp này trở thành vô hiệu. Loại Nghiệp thứ ba cho quả trong kiếp thứ ba và các kiếp sống tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi, những Nghiệp này sẽ không vô hiệu bao lâu chúng ta còn ở trong vòng sinh tử luân hồi. Ở đây, chú giải giải thích rằng chúng ta không thể nào thoát khỏi hậu quả của Nghiệp khi chúng ta còn ở trong vòng sinh tử luân hồi.Câu thứ hai nói rằng không thể chấm dứt sự đau khổ nếu không trả các Nghiệp đã tạo. Câu này có nghĩa là nếu chưa trả hết quả của Nghiệp đã tạo thì chúng ta không thể chấm dứt đau khổ. Chúng ta không thể vứt bỏ loại Nghiệp này. Nếu vứt bỏ nghiệp này, có nghĩa là không nhận chịu hậu quả của nó, thì đau khổ của chúng ta không thể chấm dứt. Trong thực tế, làm sao có thể trả hết các Nghiệp quá khứ được, bởi vì Nghiệp quá khứ quá nhiều, một khối Nghiệp khổng lồ mà chúng ta đã tạo trong nhiều kiếp quá khứ. Nếu chúng ta phải nhận chịu tất cả quả của Nghiệp tốt xấu mới có thể chấm dứt được đau khổ thì chẳng bao giờ chúng ta hết đau khổ được. Câu trên hàm ý rằng: "Trước khi chúng ta trở thành A La Hán hay rời bỏ vòng luân hồi sinh tử này thì chúng ta phải nhận chịu các hậu quả của các Nghiệp đã tạo". Như vậy, tất cả chúng sinh đều phải nhận chịu hậu quả của Nghiệp đã tạo. Không chúng sinh nào không nhận chịu hậu quả của các Nghiệp tốt xấu mình đã tạo. Như vậy, những gì hàm ý trong câu này, theo ý kiến của tôi, là tất cả chúng ta phải nhận chịu hậu quả của các Nghiệp tốt xấu đã tạo. Nếu chúng ta không trả hết hay nhận chịu hết các Nghiệp tốt xấu mà mình đã tạo trong quá khứ thì sẽ không chấm dứt được đau khổ.Hãy lấy trường hợp Trưởng lão Angulimāla. Như các bạn đã biết, Trưởng lão Angulimāla trước đây là một tên cướp đã giết cả ngàn người. Khi được gặp Đức Phật, được nghe những lời giáo hóa của Ngài, Trưởng lão Angulimāla vứt bỏ vũ khí trở thành học trò của Đức Phật. Sau khi trở thành một nhà sư, Trưởng lão Angulimāla tinh tấn hành thiền và trở thành một vị A La Hán.Trong thời gian làm tên cướp, trưởng lão Angulimāla giết cả ngàn người, và đã tạo nhiều ác Nghiệp. Những Nghiệp này sẽ trả quả trong kiếp sống này, sẽ trả quả trong kiếp tới, và sẽ trả quả trong các kiếp sống sau nữa. Những Nghiệp phải trả quả trong kiếp tới và phải trả quả trong các kiếp sống sau nữa sẽ vô hiệu bởi vì Ngài không còn tái sinh nữa, nhưng Ngài phải nhận chịu hậu quả của Nghiệp trả trong kiếp sống hiện tại. Bởi thế trong những ngày làm nhà sư Ngài đã nhận chịu nhiều quả đau khổ như bị đánh đập, ném đá và đói khát vì không ai dâng cúng cho Ngài... Sau khi Trưởng Lão trở thành một nhà sư rồi, nhưng mọi người vẫn còn sợ Ngài. Mỗi khi thấy Trưởng Lão, họ sợ hãi bỏ chạy, vào nhà đóng chặt cửa lại, bởi vậy Ngài rất khó có được đầy đủ thức ăn. Đôi lúc người ta ném đá Ngài, đá trúng đầu Ngài làm bể đầu chảy máu. Ngài đau khổ bởi vì phải nhận chịu quả của các Nghiệp xấu mà Ngài đã tạo và các Nghiệp này đã cho quả trong kiếp hiện tại, nhưng với các quả sẽ trả trong kiếp kế tiếp và trong các kiếp sau nữa sẽ trở thành vô hiệu bởi vì Ngài đã ra khỏi vòng luân hồi và khi chết Ngài chết với tư cách là một vị A La Hán. Như vậy trong trường hợp của Trưởng Lão Angulimāla thì Trưởng Lão đã thành tựu trong việc làm chấm dứt đau khổ mà không cần phải nhận chịu tất cả các hậu quả của Nghiệp đã tạo. Ngài chỉ nhận chịu các quả của Nghiệp trả trong kiếp hiện tại mà thôi. MỘT SỐ CÂU HỎI LIÊN QUAN ĐẾN NGHIỆP: Cây cỏ, cát đá có Nghiệp không? Một số người nghĩ rằng đây là câu hỏi khờ dại, nhưng có một số người, hy vọng là không có các bạn ở đây, nghĩ rằng: Cây cỏ, cát đá có Nghiệp. Theo Phật Giáo cây cỏ, cát đá không phải là chúng sinh mặc dầu chúng có đời sống, nhưng không phải là sinh vật, theo Vi Diệu Pháp thì gọi chúng là không có đời sống, điều này có nghĩa chúng không phải là chúng sinh. Và vì không phải là chúng sinh cho nên chúng không có Nghiệp. Tuy không có Nghiệp, nhưng cây cỏ, cát đá cũng tùy thuộc vào một số điều kiện vật chất như độ ẩm, khí hậu, chất bổ dưỡng v.v... Mặc dầu không có Nghiệp, nhưng chúng cần có những điều kiện để khởi sinh và sống còn. Như vậy, cây cỏ cát đá cũng cần một số điều kiện mặc dầu chúng không có Nghiệp. Sự liên hệ nhân quả giữa những vật vô tri này sẽ được giảng giải sau này với những dẫn chứng về Paṭṭhāna (Duyên hệ duyên).Đối với súc vật thì chúng có Nghiệp không? Tất cả súc vật đều có ngũ uẩn như con người bởi thế chúng là sinh vật hay chúng sinh, bởi vì là chúng sinh nên chúng có Nghiệp. Chúng sinh tạo Nghiệp và tích tụ Nghiệp. Loài vật sinh ra làm con vật cũng là kết quả của Nghiệp ác đã tạo trong quá khứ, như vậy loài vật cũng có Nghiệp và cũng có làm hay tạo ra Nghiệp, nhưng cây cỏ, đất đá và những vật vô tri khác không có Nghiệp. Một vài đoạn trong sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đề cập đến Nghiệp và quả đây là những đoạn văn rất quan trọng chúng ta cần phải ghi nhớ: "Nghiệp và quả liên hệ làm thành một cái vòng giống như hạt giống và cây, cái này sinh ra cái kia, rồi cái kia sinh ra cái này, khó biết đâu là đầu, đâu là cái bắt đầu". Nghiệp và quả cái này theo cái kia. Đây là Nghiệp thiện hay Nghiệp ác và do hậu quả của Nghiệp thiện và Nghiệp ác nên có tái sinh vào bốn đường dữ hoặc tái sinh làm người hay trời trong suốt thời gian chúng sinh đang hiện hữu, chúng sinh tạo nên các Nghiệp mới. Vì tạo nên các Nghiệp mới nên phải nhận quả của Nghiệp trong tương lai. Như vậy Nghiệp và quả của Nghiệp diễn biến, diễn biến… như vậy.Cũng như hạt và cây, hạt mọc thành cây rồi cây lại có hạt, rồi do hạt này lại có cây mới, cây mới lại sinh ra hạt, hạt mới này lại sinh ra cây... cũng giống như trường hợp chúng ta nói gà đẻ trứng, khó nói cái gì đầu tiên. Chúng tiếp tục diễn biến không có cái gì đầu tiên. Không thể nào cho ta thấy cái gì khởi đầu. Chúng ta có thể trở về quá khứ tìm nhân của nó, dầu ta có trở về bao xa đi nữa, chúng ta cũng không bao giờ thấy được cái khởi đầu. Như vậy, không có cái khởi đầu của Nghiệp và quả của nó mặc dầu có cái vòng luân lưu của Nghiệp và quả trong vòng luân hồi tái sinh. Không thể nào chỉ ra được trong tương lai vòng tái sinh. Trong tương lai chúng chắc chắn sẽ khởi sinh bởi vì hể có Nghiệp hiện tại thì sẽ có quả trong tương lai. Trong triết học của Hindu có lý thuyết Samkhya là một trong sáu lý thuyết triết học của đạo này tin tưởng rằng quả có sẵn trong nhân, nhưng dưới trạng thái không hiển lộ, khi nhân hiển lộ thì nó thành quả. Theo lý thuyết triết học này thì quả đã có sẵn trong nhân. Khi nhân chín muồi và khi nhân đạt đến tầng mức cao nhất của sự chín muồi thì biến thành quả. Trong triết thuyết này Nghiệp hay nhân và quả đều là một.Phật Giáo không chấp nhận triết thuyết đó, trong Phật Giáo được dạy rằng: Nghiệp là một chuyện và quả là một chuyện khác. Thanh Tịnh Đạo nói: "Không có Nghiệp trong quả và không có quả hiện hữu trong Nghiệp". Như vậy, không có Nghiệp trong quả và không có quả trong Nghiệp. Nghiệp và quả là hai thứ khác nhau, mặc dầu trong cái này không có cái kia, mặc dầu chúng khác nhau, nhưng không thể nào có quả mà không có Nghiệp và chẳng bao giờ có trường hợp có quả mà không có Nghiệp. Như vậy, quả và Nghiệp có sự liên hệ nhân và quả, nhưng quả là một chuyện và nhân là một chuyện khác. Chúng không đồng hóa với nhau. Muốn tạo nên lửa người ta có thể dùng một kính khuyếch đại để dưới ánh nắng mặt trời rồi dưới kiếng để một mãnh giấy hay một miếng bông. Ánh nắng mặt trời xuyên qua kính, hội tụ tại một điểm tạo ra sức nóng làm cháy tờ giấy hay miếng bông và tạo ra lửa. Lửa không nằm sẵn trong ánh mặt trời, không nằm sẵn trong giấy hay bông gòn, lửa cũng không nằm ngoài ánh nắng mặt trời, giấy hay bông gòn, nhưng khi phối hợp ba nhóm yếu tố này lại theo điều kiện nào đó thì lửa phát sinh. Chúng đã phối hợp theo điều kiện. Như vậy, lửa không hiện hữu trong ánh nắng mặt trời, không hiện hữu trong giấy, không hiện hữu trong miếng bông. Nếu lửa hiện hữu trong những tia sáng của mặt trời, trong giấy hay trong bông thì chúng đã cháy rồi, và luôn luôn lúc nào chúng cũng sẽ cháy. Lửa không ở trong chúng bởi vậy khi đặt chúng riêng rẽ chúng không thể cháy được, nhưng khi đặt chúng với nhau trong một số điều kiện nào đó thì lửa sẽ phát sinh. Vậy do đâu mà lửa hiện hữu chúng hiện hữu bên trong hay bên ngoài chúng? Chúng ta không thể nói rằng: lửa hiện hữu nơi đâu ngoài những vất đó, lửa chỉ khởi sinh khi có sự phối hợp của nhiều thành phần bằng phương tiện điều kiện hay tạo duyên. Điều kiện hay duyên ở đây là mặt trời, giấy và bông gòn. Khi đặt các thứ ấy với nhau trong một điều kiện nào đó thì sẽ có lửa, nhưng lửa không hiện hữu trong tia nắng mắt trời, trong kiếng, trong giấy hay trong bông, nhưng không có những thứ này thì thể tạo nên lửa.Tương tự như vậy, không có quả trong Nghiệp và không có Nghiệp trong quả. "Không thể nào tìm được quả trong Nghiệp, không thể nào tìm được quả ngoài Nghiệp. Không có Nghiệp nào còn duy trì trong quả mà nó đã tạo". Như vậy không thể nào tìm được quả trong Nghiệp cũng thể nào tìm được quả ngoài Nghiệp. Không có Nghiệp nào còn duy trì trong quả mà nó đã tạo. Như vậy Nghiệp không duy trì trong quả. Có nghĩa là Nghiệp không không nằm trong quả mà nó đã tạo. "Nghiệp của 'quả của Nghiệp' đã tạo bị hủy diệt", nghĩa là trong Nghiệp không có quả của Nghiệp. Không có quả hiện diện trong Nghiệp, không có quả nào ở trong Nghiệp, nhưng quả vẫn còn sinh ra từ Nghiệp đó. Quả sinh ra từ Nghiệp và hoàn toàn tùy thuộc vào Nghiệp. Như vậy, tất cả tùy thuộc vào Nghiệp, hoàn toàn tùy thuộc vào Nghiệp mà quả của Nghiệp phát sinh.Không chỗ nào trong vòng luân hồi tái sinh có thể tìm thấy chúa trời, Thượng Đế hay đấng sáng tạo. "Thật vậy, vòng luân hồi tái sinh không phải do đấng sáng tạo, chúa trời hay Thượng Đế tạo ra. Chúng là kết quả tự nhiên của luật Nghiệp báo". Chỉ có hiện tượng của Nghiệp và quả của Nghiệp trôi chảy mà thôi. Chúng tiếp tục trôi chảy. Sự trôi chảy của hiện tượng Vật Chất và Tâm này được gọi là vòng tái sinh. Chẳng có Chúa Trời, Đấng sáng tạo hay Thượng Đế hiện diện, chỉ có hiện tượng tâm vật lý tùy thuộc vào các điều kiện tiếp tục trôi chảy thôi. MỘT VÀI LỢI ÍCH CỦA SỰ HIỂU BIẾT LUẬT NGHIỆP BÁO. Là những người Phật Tử chúng ta hiểu luật Nghiệp báo theo những lời dạy của Đức Phật. Sự hiểu biết về luật Nghiệp báo này mang lại nhiều lợi ích. Sau đây là một vài lợi ích. 1. Hiểu biết luật Nghiệp báo làm thoả mãn óc tìm tòi hiểu biết của chúng ta về sự bất bình đẳng của người, của chúng sinh. Chúng ta muốn biết tại sao chúng sinh khác nhau, tại sao chúng sinh không giống nhau, mặc dầu chúng đều là chúng sinh. Tại sao có sự bất đồng giữa người với người giữa loài vật với loài vật. Sự bất đồng giữa các chúng sinh đã được giải thích một cách hữu lý theo luật Nghiệp báo. Sự hiểu biết về luật Nghiệp báo thỏa mãn lòng mong mỏi hiểu biết của chúng ta về sự bất đồng giữa các chúng sinh. Chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng nhờ hiểu biết luật Nghiệp báo mà nhiều người đã trở thành Phật tử. 2. Hiểu biết luật Nghiệp báo mang lại niềm hy vọng cho chúng ta. Chúng ta luôn luôn hy vọng mình sẽ khá hơn, tốt hơn trong tương lai. Chúng ta không thỏa mãn với những gì mà chúng ta đang có trong hiện tại. Chúng ta có thể luôn luôn cải thiện điều kiện và hoàn cảnh chúng ta bằng cách tạo những Nghiệp lành. Như vậy hiểu biết luật Nghiệp báo mang lại cho ta niềm hy vọng. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ mất niềm hy vọng. 3. Hiểu biết luật Nghiệp báo sẽ an ủi chúng ta những khi chúng ta gặp nghịch cảnh. Hiện nay con người gặp rất nhiều nghịch cảnh và gặp nghịch cảnh nhiều lần trong cuộc sống của họ: mất của cải, tài sản, buôn bán lỗ lã, mất bạn bè, mất người thân yêu. Những người không hiểu biết luật Nghiệp báo khi gặp những nghịch cảnh như thế họ sẽ không có niềm an ủi, họ có thể trở nên thất vọng, xuống tinh thần nhiều khi hủy cả mạng sống của mình, nhưng những người hiểu biết luật Nghiệp báo có thể hiểu rằng những nghịch cảnh này là kết quả của những Nghiệp mà họ đã làm trong quá khứ, họ sẽ thấy chẳng có ai để trách cứ ngay cả trách cứ chính mình. Như vậy, người hiểu luật Nghiệp báo sẽ có được niềm an ủi lớn lao khi gặp cảnh không toại ý hay nghịch lòng. 4. Hiểu biết luật Nghiệp báo giúp ta có đủ sức mạnh tinh thần, không bị chao đảo trước mọi thăng trầm của cuộc sống. Sống trong cuộc đời này, nhiều lúc chúng ta phải chịu cảnh thăng trầm theo cuộc sống. Chúng ta không thể nào tránh khỏi thành công và thất bại, được danh, mất danh, được lợi, mất lợi, được khen bị chê, đau khổ, hạnh phúc trong cuộc sống này. Khi hiểu biết luật Nghiệp báo thì dầu gặp cảnh thành công hay thất bại, hanh phúc hay đau khổ chúng ta vẫn bình tâm. Đứng trước mọi hoàn cảnh tốt xấu chúng ta sẽ không bị chao đảo, lay động. Không bị giao động trước sự thành công hay thất bại là một điều rất quan trọng. Khi thành công hạnh phúc người ta cảm thấy hân hoan thỏa mãn, nhưng khi gặp thất bại người ta sẽ âu sầu buồn nản xuống tinh thần. Bởi vậy, cuộc sống của họ mang nhiều nỗi khốn cùng đau khổ. Nếu chúng ta hiểu biết luật Nghiệp báo, chúng ta có thể đối diện với chúng một cách bình thản không bị chúng ảnh hưởng. 5. Hiểu biết luật Nghiệp báo giúp chúng ta biết được tiềm năng to lớn của chính mình; đó là chính chúng ta có thể tạo nên tương lai cho chúng ta. Chúng ta phải nhận hậu quả của các Nghiệp mà chúng ta đã tạo, bởi thế chúng ta có thể tạo tương lai cho chính mình bằng cách tạo nên những nghiệp thiện trong hiện tại. Chúng ta có đủ năng lực để tạo tương lai cho chính chúng ta nếu chúng ta có sự hiểu biết về luật Nghiệp báo. Không những biết đến năng lực tiềm tàng của mình, chúng ta còn biết rằng: chính năng lực này sẽ tạo dựng cho đời sống tương lai của chúng ta. Chúng ta có năng lực để tạo cho đời sống tương lai của chúng ta tốt hơn đời sống hiện tại. Như vậy, sự hiểu biết luật Nghiệp báo đã giúp cho chúng ta hiểu rằng chúng sinh có năng lực tiềm tàng để tạo nên tương lai này. Chúng ta không cần tìm kiếm năng lực bên ngoài cũng không cần tìm kiếm năng lực của các vị thánh thần để tạo nên tương lai của chúng ta. Thực vậy, chỉ một mình chúng ta mới có thể tạo nên tương lai cho chúng ta. 6. Hiểu biết luật Nghiệp báo giúp cho chúng ta hiểu biết trách nhiệm của mình. Bởi vì quả của Nghiệp mà ta đang nhận chịu có nguyên nhân là Nghiệp của chính chúng ta. Bởi vậy, chúng ta an vui hạnh phúc hay đau khổ chính chúng ta chịu trách nhiệm. Bởi vì chúng ta chịu trách nhiệm về những hạnh phúc và đau khổ của chúng ta nên chúng ta không trách cứ kẻ khác hoặc trách cứ hoàn cảnh hay điều kiện bên ngoài. Như vậy, nhờ hiểu biết luật Nghiệp báo mà chúng ta có trách nhiệm về chính mình. Nếu chúng ta muốn tốt đẹp hơn trong tương lai thì chúng ta phải tạo các Thiện Nghiệp ngay bây giờ. Tóm lại, nhờ hiểu biết luật Nghiệp báo, chúng ta sẽ trở thành người có trách nhiệm về chính mình. 7. Hiểu biết luật Nghiệp báo cũng giúp chúng ta tránh xa hành vi xâm hại kẻ khác và trở thành người có lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Nếu chúng ta làm hại kẻ khác thì chúng ta sẽ nhận chịu các hậu quả đau thương do Nghiệp của chúng ta đã tạo. Vì chúng ta không muốn tự mình làm mình đau khổ nên chúng ta sẽ không làm kẻ khác đau khổ. Như vậy, hiểu biết luật Nghiệp báo giúp chúng ta tránh được những hành vi xâm hại hay gây thương tích cho chúng sinh. Tại sao hiểu biết luật Nghiệp báo giúp chúng ta có lòng bi mẫn đối với chúng sinh khác? Bởi vì chúng ta hiểu biết rằng: khi có lòng bi mẫn đối với chúng sinh khác là chúng ta đã tạo các Nghiệp thiện lành, và các Nghiệp thiện lành này sẽ trả quả tốt đẹp trong tương lai. 8. Nhờ hiểu biết luật Nghiệp báo nên chúng ta có thể giúp cho xã hội này sống an vui hạnh phúc, có tình thương, có hiểu biết, có sự sống chung hài hòa. Còn nhiều lợi ích của sự hiểu biết luật Nghiệp báo nữa. Tôi mong muốn các bạn tự suy nghĩ và cho thêm vào. CÁC LOẠI NGHIỆP Sau khi đã tìm hiểu Nghiệp một cách tổng quát, bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu các loại Nghiệp. Trước tiên, Nghiệp có thể chia làm hai loại: Thiện Nghiệp và Bất Thiện Nghiệp. Một cách phân loại khác là phân loại theo chức năng. Tôi không thể giảng giải ở đây về chi tiết ở các loại Nghiệp khác nhau này. Nếu các bạn muốn biết nhiều chi tiết hơn về các loại Nghiệp này thì các bạn hãy đọc trong Abhidhammatha sangaha (Vi Diệu Pháp Lược Giải). Nghiệp được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm gồm bốn Nghiệp. Nhóm đầu tiên phân loại theo chức năng. Nhóm thứ hai phân loại theo cách thức cho quả. Nhóm thứ ba phân loại theo thời gian trả quả: Nhóm thứ tư phân loại theo nơi chốn cho quả. 1. Khi phân loại theo chức năng chúng ta có bốn loại Nghiệp. a. Đầu tiên là Nghiệp Tạo Tác, có nghĩa là Nghiệp tạo ra hậu quả. b. Thứ hai là Nghiệp Hỗ Trợ. Nghiệp Hỗ Trợ chính nó không tạo ra quả, nhưng Nghiệp này hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác. c. Thứ ba là Nghiệp Cản Trở. Nghiệp này, cũng vậy, chính nó không tạo ra quả, nhưng nó làm cản trở cho Nghiệp Tạo Tác. d. Thứ tư là Nghiệp Hủy Diệt. Nghiệp Hủy Diệt, hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác. Như vậy tùy theo chức năng của các Nghiệp mà Nghiệp được chia làm bốn.Chẳng hạn Nghiệp tạo tác giúp cho một người sinh ra làm người. Như vậy kết quả của Nghiệp Tạo Tác là một người ra đời. Trong suốt cuộc sống của người này, y hưởng thụ sức khỏe tốt, giàu có, sống lâu, sắc đẹp v.v... Những điều mà người này có được là hậu quả của Nghiệp Hỗ Trợ. Nếu người này không mạnh khỏe, nếu người này nghèo, nếu người này không sống lâu thì đó là do Nghiệp Cản Trở phát sinh. Nếu người này chết vì tai nạn hay chết ngay tức khắc bởi một bệnh nào đó thì đó là Nghiệp Hủy Diệt đã phát sinh. Nghiệp Tạo Tác cho kết quả vào lúc hoài thai cũng như trong suốt đời sống. Và Nghiệp Hỗ Trợ đã hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác này. Nghiệp Cản Trở đã cản trở Nghiệp Tạo Tác và Nghiệp Hủy Diệt đã hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác này. 2. Nghiệp cũng được phân chia làm bốn loại theo cách thức mà nó cho quả. Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây: Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp, Tập Quán Nghiệp, Bảo Lưu Nghiệp. a. Loại thứ nhất là Cực Trọng Nghiệp. Cực Trọng Nghiệp nghĩa là Nghiệp có năng lực mạnh mẽ, cho quả vượt trội hơn các Nghiệp khác. Nếu Cực Trọng Nghiệp là Nghiệp thiện thì đó là các tầng thiền, nếu bất Thiện Nghiệp thì đó là năm trọng tội: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, làm Phật bị thương và chia rẽ Tăng. Chấp thủ tà kiến cũng bao gồm trong đó. Chấp thủ tà kiến có nghĩa là cho rằng không có nhân, không có quả v.v... b. Loại Nghiệp thứ hai là Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là Nghiệp mà một người tạo ra ngay trước khi chết. Mặc dầu người này có thể thường xuyên làm các Nghiệp thiện hay Nghiệp ác trong đời sống, nhưng Nghiệp thiện hay ác họ tạo ra ngay trước khi chết có năng lực mạnh mẽ hay ưu tiên để trả quả. Nghĩa là Cận Tử Nghiệp hay Nghiệp làm ngay trước khi chết có năng lực trả quả ưu tiên hơn "Tập Quán Nghiệp" và "Bảo Lưu Nghiệp". c. Tập Quán Nghiệp: là Nghiệp chúng ta thường xuyên làm hằng ngày theo thói quen hay tập quán. Một người thường tạo cả hai loại Nghiệp ác hay Nghiệp thiện hằng ngày tạo thành thói quen hay tập quán.d. Bảo Lưu Nghiệp: Là Nghiệp không nằm trong ba loại Nghiệp trên. Nếu không có Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp hoặc Tập Quán Nghiệp thì Nghiệp Bảo Lưu có cơ hội trả quả. 3. Nghiệp phân biệt theo thời gian trả quả: Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây: Nghiệp trả quả tức khắc, Nghiệp trả trong kiếp tới, Nghiệp trả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi, và Nghiệp vô hiệu a. Nghiệp trả tức khắc còn gọi là Hiện Nghiệp: là Nghiệp trả quả ngay trong kiếp sống này. b. Nghiệp trả quả tiếp theo: là Nghiệp trả quả trong kiếp tới sau khi ta lìa bỏ kiếp sống hiện tại. c. Nghiệp vô tận: là Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi. d. Nghiệp vô hiệu: thật ra không phải là một loại Nghiệp riêng biệt. Nếu Nghiệp tức khắc không thể cho quả trong kiếp sống này thì trở thành vô hiệu. Nếu Nghiệp cho quả trong kiếp sau không đủ điều kiện thuận lợi để trả quả thì trở thành vô hiệu, nhưng Nghiệp vô tận thì không thể vô hiệu được; Nghiệp này tồn tại cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi. Chỉ tới lúc chấm dứt vòng luân hồi Nghiệp này mới chấm dứt. Khi Nghiệp thứ nhất, thứ hai, và thứ ba này không thể cho quả trong thời gian trả quả thì chúng trở thành vô hiệu.Trong bốn loại Nghiệp trên thì Nghiệp vô tận tức Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi là Nghiệp quan trọng nhất đối với chúng ta. Khi Nghiệp trả quả tức khắc và Nghiệp trả qua trong kiếp tới không đủ điều kiện thì chúng trở thành vô hiệu, nhưng Nghiệp vô tận giúp chúng sinh ở trong các cảnh khổ có cơ hội tái sinh làm người và làm trời sẽ theo ta cho đến lúc chấm dứt vòng luân hồi. Tất cả chúng sinh có kho chứa Nghiệp vô tận này, khi có hoàn cảnh hay cơ hội thuận tiện chúng ta sẽ nhận quả của các Nghiệp này. 4. Nghiệp phân biệt theo nơi chốn trả quả. Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây: Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp, Dục Giới Thiện Nghiệp, Sắc Giới Thiện Nghiệp, Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp. a. Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp: là những Nghiệp cho quả trong bốn ác đạo, và cũng cho quả trong dục giới và sắc giới. b. Dục Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp thiện cho quả ở dục giới; và cũng cho quả ở sắc giới và vô sắc giới. c. Sắc Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi sắc giới. d. Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi sắc giới.Muốn hiểu rõ Nghiệp ở các cõi bạn phải hiểu ba mươi mốt cõi, và phải hiểu mỗi cõi cho quả như thế nào, bạn phải tìm kiếm học hỏi chi tiết về các quả của các Nghiệp này trong sách Vi Diệu Pháp. Tôi chỉ cho các bạn biết một số căn bản về các loại Nghiệp, đồng thời kích thích óc tò mò, mong muốn tìm hiểu của các bạn để các bạn thích thú trong việc tìm hiểu, học hỏi nhiều hơn. Nếu các bạn muốn tìm hiểu nhiều hơn các bạn nên đọc cuốn A Comprehensive Manual of Abhidhamma (Vi Diệu Pháp Tập Yếu) do Tỳ khưu Bodhi hiệu đính.Bây giờ chúng ta hãy trở về với việc phân loại các loại Nghiệp một cách thực tiễn hơn. Khi chúng ta hiểu thế nào bất Thiện Nghiệp, thế nào là Thiện Nghiệp thì chúng ta sẽ tránh làm các việc bất thiện, và chúng ta sẽ thực hành các Thiện Nghiệp. Bất Thiện Nghiệp chia làm mười loại: Ba Nghiệp bất thiện thuộc về thân, bốn Nghiệp bất thiện thuộc về khẩu, và ba Nghiệp bất thiện thuộc về ý. Ba thân Nghiệp bất thiện gồm: Sát sinh, trộm cắp, và tà hạnh. Sát sinh là sát hại hay chấm dứt mạng sống chúng sinh. Sát hại chúng sinh bao gồm giết người, giết súc vật, và ngay cả những côn trùng bé nhỏ. Những gì gọi là chúng sinh đều không được giết hại. Người giết hại một chúng sinh nào là người ấy tạo Nghiệp ác. Trộm cắp là lấy của ai vật gì mà không được chủ nhân của vật đó cho mình. Tà hạnh là thông dâm với kẻ khác không phải là vợ hay chồng mình. Ngoài hành vi tà dâm, tà hạnh còn có nghĩa là làm bất cứ hành vi tà vạy nào. Bốn khẩu Nghiệp bất thiện gồm: Nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời nói dữ, nói lời vô ích. a. Nói dối: là nói điều không thật. Nói dối chỉ thật sự trở thành Nghiệp bất thiện khi nói dối với chủ tâm làm hại và làm mất sự an toàn của kẻ khác. b. Nói lời đâm thọc: là nói những lời nói nhằm mục đích gây ra sự chia rẽ người khác. c. Nói lời nói dữ: là mắng nhiếc chửi rủa, nói những lời cộc cằn thô lỗ. d. Nói lời vô ích: là nói những lời vô bổ, làm mất thời giờ mà không đem đến lợi ích tinh thần .Ba ý Nghiệp bất thiện gồm: a. Tham lam: Mong muốn chiếm đoạt của cải người khác. Đó là khi thấy vật gì thuộc quyền sở hữu của kẻ khác mà khởi tâm ham muốn lấy làm của mình như vậy mới gọi là tham lam. Tham lam không phải chỉ là thích thú, dính mắc vào vật gì của kẻ khác mà là có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình. b. Sân hận: là giận dữ, chán ghét, mong muốn kẻ khác bị hại, bị thương tích, bị chết. c. Tà kiến: cho rằng không có Nghiệp, không có quả của Nghiệp v.v…Ba hành vi này không phải thực hiện bởi thân hay khẩu, nhưng chỉ là những ý nghĩ trong tâm. Do đó, tham, sân, và tà kiến được gọi là ba hành vi chỉ phát khởi trong tâm.Trên đây là mười Nghiệp bất thiện. Một khi đã biết đây là những Nghiệp bất thiện thì nên tránh chúng. Trong mười bất hiện Nghiệp trên, chúng ta không thấy đề cập đến giới uống rượu. Chú giải giải thích là giới uống rượu nằm trong bất Thiện Nghiệp thứ ba, thân bất thiện. Tiếng Pāḷi về giới thứ ba là kāmesu micchācārā. 'Kāmesu' có nghĩa là dục lạc thế gian hay năm dục lạc giác quan (dục lạc về sắc, dục lạc về thinh, dục lạc về hương, dục lạc về vị, dục lạc về xúc, dục lạc về pháp) chứ không phải chỉ là dục lạc nam nữ. Như vậy uống rượu và dùng chất say là một hành vi bất thiện thuộc về dục lạc thế gian, đó là vị trần. Như vậy, uống rượu và dùng chất say nằm trong hành vi bất thiện thuộc về thân, nằm trong giới thứ ba: tà hạnh.Bây giờ chúng ta nói đến Nghiệp thiện. Có hai nhóm Thập Thiện Nghiệp thuộc dục giới. Nhóm thứ nhất chỉ là mười Thiện Nghiệp đối nghịch với mười Nghiệp bất thiện ta đã nói trên. Đó là: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cắp, 3. Không tà hạnh, 4. Không nói dối, 5. Không nói lời đâm thọc, 6. Không nói lời nói dữ, 7. Không nói lời vô ích, 8. Không tham (không có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình), 9. Không sân (có từ tâm), 10. Không tà kiến (có chánh kiến) nghĩa là biết nhân biết quả, và biết mọi việc trên thế gian đều tùy thuộc vào một số các việc khác. Mười Thiện Nghiệp Dục Giới này chỉ là mười Nghiệp đối nghịch với mười Bất Thiện Nghiệp mà thôi. Nhóm mười Thiện Nghiệp thứ hai là: 1. Bố thí: Giúp đỡ người nghèo khó hay dâng cúng thực phẩm và vật dụng đến chư tăng. 2. Trì giới: Giữ giới luật trong sạch: không sát sinh, trộm cắp, tà hạnh... 3. Tham thiền: Luyện tâm, Phát triển tinh thần 4. Cung kính: Tôn kính người lớn tuổi, tôn kính người đáng tôn kính, nhường chỗ cho người đáng nhường. 5. Phục vụ: giúp đỡ người khác, làm các công việc cho cộng đồng, làm công quả cho chùa, giúp người khác làm việc thiện. 6. Hồi hướng công đức: Trước hết, đi làm phước rồi hồi hướng hay chia phước lành đến mọi người. Chia phước là giúp mọi người có cơ hội được hưởng phước báu qua hành vi phước thiện của mình. Chia phước không có nghĩa là cho người khác hay tặng hoặc bố thí phước báu của mình cho người khác và mình không còn phước báu nữa. Chia phước báu khiến cho phước mình được gia tăng vì chính hành vi chia phước báu là hành vi phước thiện tạo thành Nghiệp tốt. 7. Tùy hỉ: Hoan hỉ với phước báu của người khác, nghĩa là khi được người khác chia phước báu cho ta thì ta nói: Sādhu, sādhu, sādhu (lành thay, lành thay, lành thay). Có nghĩa là ta hoan hỉ, hạnh phúc với phước báu người khác đã tạo. Khi bạn hoan hỉ với phước báu của người khác thì chính bạn cũng được phước báu. Đó là vì khi bạn hoan hỉ, vui mừng thì sự hoan hỉ, vui mừng này đã lấy phước báu của người khác làm đối tượng. Đây là một thiện tâm. Chú giải nói rằng: Dù cho người làm việc phước thiện có chia phước cho bạn hay không, thì bạn cũng có thể hoan hỉ với việc phước thiện của họ đã làm. Như vậy, nếu được người khác chia phước thì bạn hãy nói: "Sādhu, sādhu, sādhu". Nếu họ không chia phước báu cho bạn, nhưng nếu bạn thấy hay bạn nghe rằng người đó đã làm việc phước thiện thì bạn cũng có thể thực hành việc hoan hỉ phước báu của người khác bằng cách vui mừng hoan hỉ với phước bau này. 8. Nghe pháp: Là nghe giáo pháp của Đức Phật. Việc học các các loại nghệ thuật, điêu khắc, các học thuật chuyên môn để mở mang kiến thức mà không làm hại hay gây thương tổn cho ai cũng bao gồm trong phần nghe pháp. 9. Thuyết pháp: Giảng dạy giáo pháp. Phần này cũng bao gồm cả việc giảng dạy Phật pháp và một vài loại ngành nghề, học thuật không xâm hại hay tổn thương đến kẻ khác và không chống trái những lời dạy của Đức Phật. 10. Có chánh kiến: Có quan kiến đúng đắn, nghĩa là có kiến thức đúng đắn về nhân quả v.v... Quan kiến đúng đắn hay chánh kiến thật ra chỉ là ngược lại với tà kiến. Có quan kiến đúng đắn rất quan trọng, nếu có quan kiến sai lầm thì mọi việc làm của ta đều không phải là Thiện Nghiệp. Chúng ta phải có quan kiến đúng đắn hay chánh kiến về nhân, về quả, và những gì liên quan đến nhân quả. Ba Thiện Nghiệp đầu tiên: bố thí, trì giới, và tham thiền là ba bước đầu tiên mà người Phật tử phải thực hành. Bố thí: Trong mười Ba La Mật hay mười phẩm hạnh cao thượng mà một vị Bồ Tát phải thực hành trọn vẹn thì bố thí là pháp đầu tiên. Bố thí (dāna) ở đây có nghĩa là cho ra, giúp đỡ hay cúng dường v.v... Bố thí (dāna) rất quan trọng vì bố thí giúp cho tâm của chúng ta êm dịu, và mềm dẽo. Bố thí còn tạo cơ hội cho chúng ta loại trừ tham ái, dính mắc. Mỗi khi chúng ta cho ra vật gì, không những ta cho ra vật đó mà còn dứt trừ tâm tham ái, dính mắc vào vật đó nữa. Như vậy khi thực hành hạnh bố thí, ta cũng đồng thời thực hành hạnh dứt bỏ, tham ái dính mắc vào vật ta cho ra. Trì giới: còn được gọi là giữ phẩm hạnh đạo đức. Giữ giới là kiểm soát thân khẩu. Khi giữ giới là ta giữ phẩm hạnh trong sạch, ta không để cho thân và khẩu ô nhiểm bởi hành động và lời nói bất thiện. Là cư sĩ, bạn có thể giữ năm giới hay tám giới như các bạn đang thực hành trong khóa thiền này, nếu bạn muốn thực hành giới luật nhiều hơn bạn có thể giữ mười giới.Tham thiền: giúp cho tâm thanh tịnh, an lạc hay đưa đến những tiến bộ tinh thần cao, khai mở trí tuệ. Bạn có thể hành Thiền Định hay Thiền Minh Sát. Do hành Thiền Định bạn có thể đạt được định tâm cao. Nếu bạn thành công trong việc thực hành một trong bốn mươi đề mục thiền Định bạn có thể thực hành thêm để có thần thông. Qua hành Thiền Minh Sát bạn sẽ đạt đến chỗ dứt sạch mọi ô nhiểm trong tâm hay đạt cứu cánh Niết Bàn.Cung kính và phục vụ, Thiện Nghiệp thứ tư và thứ năm: cung kính những người đáng cung kính và phục vụ giúp đỡ mọi người, hai điều này có thể bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ hai, giới luật trong sạch, bởi vì khi bạn thực hành giới bạn kiểm soát hành động và lời nói. Cung kính và phục vụ là một biểu hiện của sự kiểm soát thân và khẩu, do đó được bao gồm trong giới luật, Thiện Nghiệp thứ hai.Hồi hướng chia phước bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ nhất, bố thí. Tùy hỉ hay hoan hỉ với phước báu của người khác cũng bao gồm trong bố thí bởi vì liên hệ đến sự bố thí, không phải mình cho ra, nhưng người khác cho ra.Nghe pháp, thuyết pháp, và có quan kiến đúng đắn đều nằm trong Thiện Nghiệp thứ ba là tham thiền. Nghe pháp là một loại phát triển tinh thần. Thuyết pháp cũng thuộc phát triển tinh thần bởi vì bạn đang phát triển tâm mình. Có quan kiến đúng đắn hay có chánh kiến cũng thuộc về phát triển tinh thần.Như vậy, chúng ta có thể thu gọn mười Thiện Nghiệp còn lại ba Thiện Nghiệp: Bố thí, trì giới, tham thiền nếu ta gộp yếu tố bốn và năm vào yếu tố thứ hai; sáu và bảy vào yếu tố một; tám, chín và mười vào yếu tố ba. (1) Bố thí, hồi hướng, tùy hỉ, (2) Trì giới, cung kính, phục vụ, (3) Tham thiền, nghe pháp, thuyết pháp, chánh kiến Bây giờ chúng ta đã hiểu Bất Thiện Nghiệp và Thiện Nghiệp, chúng ta có thể theo lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: "Không làm điều ác nào, làm các hạnh lành, thanh lọc tâm ý‎, đó là lời dạy của chư Phật." Không làm tất cả các điều ác, tiếng pāḷi là "sabbapāpassa". "sabba" là tất cả, và "pāpa" là điều ác, như vậy "sabbapāpassa" có nghĩa là tất cả điều ác. Người ta có thể tranh biện: Nếu bạn nói "không làm tất cả những điều ác", như vậy có nghĩa là "có thể làm ít điều ác". Bởi thế, ở đây ta phải dịch là "không làm điều ác nào" tức là không làm điều bất thiện, không tạo các ác Nghiệp. Sau đó là "hoàn thành những việc thiện" có nghĩa là vun bồi Thiện Nghiệp hay làm những việc thiện; tiếp theo là thanh lọc ‎tâm ý. Trong tâm chúng ta có nhiều phiền não hay ô nhiễm, bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta hãy thanh lọc tâm. Câu kệ Pháp cú trên Đức Phật dạy chúng ta tránh xa điều ác, vun bồi hạnh lành, và thanh lọc tâm ý. Chú giải Kinh Pháp Cú giải thích câu đầu của bài kệ này, sabbapāpassa akaraṇaṁ là không làm những hành vi bất thiện, điều này dễ hiểu. Câu thứ hai, kusalassa upasampadā là làm khởi sinh các hành vi thiện lành, và phát triển những gì cần phải phát triển. Như vậy, ở đây câu: "vun bồi thiện tâm" hay "hoàn thành những việc thiện" là làm phát sinh Thiện Nghiệp, và tiếp tục, tiếp tục làm phát sinh Thiện Nghiệp, nghĩa là liên tục tạo Thiện Nghiệp. Câu này có nghĩa không phải chỉ làm việc thiện một lần mà phải tiếp tục làm việc thiện nhiều lần cho đến khi Thiện Nghiệp phát triển. Chú giải cũng nói rằng phải làm việc thiện cho đến khi đạt A La Hán đạo (Arahatta Magga) nghĩa là cho đến khi Giác Ngộ. Tôi nghĩ rằng chú giải liên kết điều này với cuộc đời của Đức Phật. Là một hoàng tử, Đức Phật từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia tu hành. Và trong sáu năm Ngài thực hành khổ hạnh trong rừng, cuối cùng Ngài bỏ lối tu khổ hạnh, thực hành trung đạo và thành chánh quả. Từ lúc xuất gia cho đến khi Giác Ngộ Ngài đã thực hành và phát triển Thiện Nghiệp. Thứ ba sacittapariyodapanaṁ (Thanh lọc tâm ‎ý , có nghĩa là làm cho tâm trong sạch, thoát khỏi năm chướng ngại. Thanh lọc tâm khỏi năm chướng ngại (phiền não) là một việc làm quan trọng bởi vì bao lâu vẫn còn chướng ngại trong tâm thì vẫn chưa thể hi vọng Giác Ngộ. Hòa thượng Silānanda giảngSư Khánh Hỷ soạn dịch
  19. Đồng thời và Dị thời Nhân quả đồng thời Nhân quả đồng thời", nghe qua tưởng chừng có mâu thuẫn, bởi vì nói đồng thời tức phủ định luật nhân quả dị thời. Nhưng ở đây nên hiểu "nhân quả đồng thời" có nghĩa là "thức chuyển biến". Thức (vijnàna) là một trong những cái duyên cho các hiện hữu, nhưng là cái duyên đặc biệt. Nó là chủ lực ở ngay trong mỗi mỗi chúng sinh, có năng lực phân biệt biết được cái khác và tự biết được mình. và có chủng tử tại A lại da. Trong Tam thập tụng sớ giải (Trimsikà-bhàsya) của An Huệ (Sthiramati), thuận hợp với hai trong sáu đặc tính của chủng tử (nhân) là sát na diệt và quả câu hữu, chữ "chuyển biến" (parinàma) được giải thích là: (1) sự biến chuyển nhân diệt quả sinh do đó mà có sự khác biệt; (2) sự biến chuyển nhân diệt quả sinh xảy ra trong sát na hiện tại, tức sinh diệt đồng thời.Lưu ý nhân và quả ở đây tiếng Phạn là kàrana và kàrya chứ không phải hetu và phala. Kàrana có nghĩa là tác động (chẳng hạn, thấy, nghe, ...) và kàrya là tác quả hay cái bị tác động (cái bị thấy, được nghe, ...). Theo An Huệ, đối với một tác động nào đó thời tác dụng và tác quả hiện tại của nó, cả hai đồng thời hiện khởi, mặc dầu nhân kàrana và quả kàrya có tướng trạng sai biệt. Khác với hetu và phala cũng dịch là nhân và quả, nhất định nhân hetu luôn luôn đến trước quả phala, kàrana có khi xem là nhân thời kàrya là quả, nhưng có khi kàrya là nhân thời kàrana là quả. Quan hệ giữa kàrana và kàrya là quan hệ hai chiều, khác hẳn quan hệ một chiều giữa hetu và phala.Trong thức chuyển, An Huệ phân biệt hai tầng chuyển biến xảy ra đồng thời và nghịch chiều: nhân chuyển (hetu parinàma) còn gọi là huân tập (vàsanà) tức các pháp làm nhân tố cho A lại da (hiện hành sinh chủng tử) và quả chuyển (phala parinàma) tức A lại da làm nhân tố cho các pháp (chủng tử sinh hiện hành). Trong nhân chuyển hiện tượng (phala) bây giờ là kàrana và chủng tử (hetu) là kàrya. Trong quả chuyển, chủng tử là kàrana và hiện tượng là kàrya. Như vậy, kàrana và kàrya có thể chuyển từ cái này qua cái kia và ngược lại. Nhân chuyển và quả chuyển phát sinh dị biệt và xảy ra đồng thời, kàrana <==> kàrya, đó là ý nghĩa của thức chuyển theo An Huệ và cũng là chủ trương của Pháp tướng tông: "Tam pháp triển chuyển, Nhân quả đồng thời".Thế giới hiện tượng nương trên cơ sở thức chuyển mà giả lập. Tánh đồng thời tức phi thời của thức chuyển trở thành nguồn gốc của thời gian và không gian. Như vậy, cái thế giới mà khoa học tìm cách miêu tả như thực tại, trong đó mọi tiến trình tuân theo luật nhân quả và luật xác suất chính là cái thế giới tự thiết lập và hình thành do biến dịch sinh diệt từng sát na.
  20. Xá lợi – Một bí ẩn chưa được khám phá - Đó là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy. Chúng được tìm thấy trong đống tro tàn sau khi hỏa thiêu hài cốt của một nhà tu hành nào đó. Cho đến nay, khi nền khoa học kỹ thuật của nhân loại đã phát triển ở trình độ cao, chúng vẫn tồn tại như một bí ẩn chưa được khám phá. Bảo vật của nhà Phật Xá lị là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn: sarira – nghĩa đen là “những hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã đem xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lị, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo.Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như:Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, hạt to cỡ như hạt đỗ tương, hạt nhỏ cỡ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như những hạt kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng, đó chính là thứ gọi là xá lị.Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn – ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lị, đạt kỷ lục thế giới từ trước đến nay về những trường hợp xá lị được ghi nhận một cách chính thức.Viên xá lị có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của Pháp sư Khoan Năng, vị chủ trì Tây Sơn Tẩy Thạch Am ở huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch thọ 93 tuổi. Sau khi hỏa thiêu người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lị màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3-4cm, tựa như những viên ngọc lục bảo.Lại có một số trường hợp, xá lị chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch.Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lị to nhỏ khác nhau. Có viên thì hình tròn (xá lị tử), có viên lại nở xòe ra như những bông hoa (xá lị hoa). Những bông xá lị hoa trông rất đẹp, lóng lánh như những bông hoa tuyết, chung quanh còn được giát bằng những hạt xá lị nhỏ cỡ hạt gạo, sắc đỏ, vàng, lam, nâu… hết sức kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lị lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó. Theo kể lại, Pháp sư Viên Chiếu là người từ bi, tính tình điềm đạm và ôn hòa, thường ngày bà chỉ ăn rất ít. Chùa Pháp Hoa đã cho người mang những viên xá lị đó đến giao lại cho Hội Phật giáo tỉnh Thiểm Tây. Khoa học bó tay? Vài chục năm trở lại đây, giới khoa học bắt đầu tìm cách giải thích những hiện tượng huyền bí được nhà Phật nói đến trong kinh điển như họ đã từng nghiên cứu lý giải các hiện tượng trong thiên nhiên, vũ trụ và con người. Thế nhưng, khi bắt tay vào nghiên cứu hiện tượng xá lị, họ đã gặp phải không ít khó khăn, trở ngại.Trước đây người ta không tin là có xá lị Phật tổ. Mãi đến năm 1997, ông W.C Peppé, người Pháp, khi tiến hành khảo cổ tại vùng Piprava, phía Nam Népal đã tìm thấy những viên xá lị đựng trong một chiếc hộp bằng đá. Trên hộp có khắc những văn tự Brahmi, và người ta đã đọc được nội dung của nó như sau: “Đây là xá lị của đức Phật. Phần xá lị này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi phụng thờ” (Theo Phật quang từ điển). Sự khám phá này đã chứng minh những gì được ghi lại trong Kinh Trường A Hàm và rải rác ở những sách kinh điển của Phật khác về việc phân chia xá lị đức Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại khi Phật nhập Niết bàn là có thật. Điều kỳ lạ là trải qua hơn 25 thế kỷ, xá lị đức Phật vẫn còn nguyên vẹn, lấp lánh màu sắc.Về sự hình thành của những viên xá lị, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Các nhà xã hội học cho rằng, do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, trong quá trình tiêu hóa và hấp thụ, rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lị. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ số người ăn chay trên thế giới có tới hàng trăm vạn, nhưng tại sao không phải ai khi bị hỏa táng cũng sinh xá lị. Số người theo đạo Phật cũng nhiều vô kể, thế nhưng tại sao trong cơ thể của những tín đồ bình thường lại không có xá lị?Các nhà khoa học lại cho rằng, có thể xá lị là một loại hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật… giả thuyết này cũng khó đứng vững. Bởi vì, sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên, không hề phát hiện thấy có xá lị. Mặt khác, những cao tăng có xá lị thường là những người lúc sinh thời thân thể rất khỏe mạnh và tuổi thọ cũng rất cao.Nhà Phật cũng có những quan điểm riêng về vấn đề xá lị. Quan điểm thứ nhất cho rằng xá lị là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện. Quan điểm thứ hai cho rằng: xá lị là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện thì sau khi viên tịch mới có thể sinh xá lị.Tuy nhiên, cuối cùng thì xá lị đã được hình thành như thế nào? Thành phần của nó ra sao? Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương, lục bảo, chỉ là tro cốt còn lại của người tu hành sau khi hỏa táng, vậy mà sao đốt nó hoài cũng không cháy, thậm chí vẫn sáng lấp lánh màu sắc, thách thức với thời gian, chẳng mảy may hư hỏng… Hàng loạt câu hỏi như vậy cho đến nay vẫn là những câu đố chưa có lời giải đáp! Phật Thích Ca Mâu Ni 02 XÁ LỢI TÔN GIẢ LA HẦU LA XÁ LỢI RĂNG PHẬT THÍCH CA MÂU NI Phật Thích Ca Mâu Ni Xá Lợi Ðầu, XÁ LỢI NGÓN TAY PHẬT THÍCH CA MÂU NI Phật Thích Ca Mâu Ni Xá Lợi Huyết Phật Thích Ca Mâu Ni 01
  21. Xá Lợi Chư Phật, Các Vị Bồ Tát và Thánh Tăng Xá-lợi là từ ngữ phiên âm từ tiếng Phạn: Sarira, nghĩa là tro tàn của sự hỏa thiêu hài cốt của một vị Thánh, vị Bồ Tát hay vị Phật. Xá lợi là những Thánh thể linh hiển của các bậc đại sư đã đạt được những chứng đắc phi thường trong suốt quãng đời tu hành. Nền tảng của sự chứng đắc là sự huấn tu giới luật thanh tịnh và công hạnh xã ly , một tâm thái hoàn toàn đoạn diệt với mọi ái dục thế gian . Do nhờ vào tâm tuyệt đối thanh tịnh của các bậc Thánh tăng mà từng hạt rất nhỏ , tựa như các viên ngọc trai đã kết tụ lại gọi là ringsel ( xá lợi ) ; và xá lợi đã được tìm thấy lẫn lộn trong nhục thân đã biến thành tro của các Ngài khi thiêu hỏa. Thông thường xá lợi được cất giữ và canh chừng rất cẩn mật trong các bảo tháp và điện thờ. Chúng ta phải xin phép mới được chiêm bái vì không phải ai cũng đủ thuận duyên..Kinh Phật dạy rằng chiêm bái và đảnh lễ những xá lợi như thế này sẽ tạo được vô lượng công đức. Do diệu lực mầu nhiệm của các pháp bảo , ví dụ như ngọc xá lợi chẳng hạn , nên mọi sự cầu nguyện hoặc mọi nghi thức kính tin cúng dường đối với pháp bảo đều tức khắc gây tạo được nhiều thiện duyên an lạc , đưa đến giác ngộ giải thoát. Pháp bảo thường dễ dàng tạo nên cơ duyên rất hữu ích cho đời sống tâm linh. Xá lợi quả thật đã mang đến vô số lợi lạc không thể nghĩ bàn đối với những ai mà có duyên được chiêm ngưỡng kính bái.Theo truyền thuyết, sau khi hỏa táng thi hài của Đức Phật Thích Ca, trong tro tàn, người ta thấy có những hạt nhỏ sáng như ngọc, được gọi là Ngọc Xá lợi. Xá lợi của Đức Phật Thích Ca được đựng trong 8 hộc 4 đấu. Giáo hội đem phân phát cho các vua lúc bấy giờ và các chùa trong toàn nước Ấn Độ để xây tháp thờ cúng. Sau đây là bài của Thượng Tọa Thích Như Điển, Viện chủ chùa Viên Giác Đức quốc, nói về những đặc tính của Ngọc Xá lợi của Đức Phật Thích Ca. "Hiện nay tại một cung điện cũ của Tích Lan ở Kandy có thờ một chiếc Răng Xá lợi của Phật. Cả một cung điện của vua Tích Lan được dành để thờ một chiếc Răng Phật. Sau nầy nhà vua tặng cung điện ấy cho Phật giáo Tích Lan, biến thành một ngôi chùa. Cung điện có 10 từng, và chiếc Răng Xá lợi được thờ ở từng thứ 10. Tất cả du khách đều có thể viếng thăm các từng dưới, còn muốn vào từng thứ 10 thì phải đợi các dịp lễ đặc biệt, vì muốn vào từng thứ 10, phải có đủ 4 chiếc chìa khóa do: Thủ Tướng Tích Lan, Tăng Thống Tích Lan, Chủ Tịch Quốc Hội và vị Sư trụ trì, mỗi người giữ một chiếc, bên tăng có hai vị, bên tục có hai vị. Tương truyền, Răng Xá lợi của Phật hiện còn ba chiếc: một chiếc ở Tích Lan, một chiếc đang ở Trung quốc, và chiếc thứ ba từ Thái Lan vừa đem qua Đài Loan. Theo Thượng Tọa Như Điển, khi chiếc Răng Xá lợi được đưa đến Đài Loan, thì hằng triệu người đều quì xuống để đón tiếp. Cả Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các Tổng Trưởng đều ra phi trường đón tiếp chiếc Răng nầy, chứng tỏ người Trung hoa tin tưởng Phật pháp rất nhiều. Theo Thượng Tọa Như Điển, Xá lợi của Phật một phần lớn di chuyển về Thiên cung, một phần di chuyển về Long cung. Xá lợi Phật còn ba phần: - một loại lớn bằng mút đũa, - một loại bằng hạt gạo, - một loại bằng hạt mè. Xá lợi bằng mút đũa hiện không còn nữa, Xá lợi bằng hạt gạo cũng không còn, bây giờ còn Xá lợi bằng hạt mè. Xá lợi Phật có ba đặc tính. Hiện chùa Viên Giác có 8 viên Xá lợi. Không phải ai cũng thấy được Xá lợi. Có người phải đảnh lễ đủ ba ngàn lạy, trừ người có phước duyên từ trước. Muốn biết thế nào là một viên Xá lợi, phải làm bằng cách thế nầy: 1. Đem hai bát nước để hai bên. Một bên để gạo, một bên để mè. Đầu tiên để gạo vào nước thì gạo sẽ chìm, rồi lấy Xá lợi để vào nước, Xá lợi cũng chìm. 2. Lần thứ hai, lấy gạo ra và bỏ lại một nửa vào chén nước, gạo vẫn chìm, nhưng lần thứ hai lấy Xá lợi bỏ vào nước thì Xá lợi không chìm. 3. Bây giờ lấy mè bỏ vào nước, ta thấy mè nổi trên nước như Xá lợi, nhưng nếu để Xá lợi cách nhau khoảng 10 ly thì Xá lợi tự động di chuyển. Điều nầy chứng tỏ pháp thân thanh tịnh Tỳ- lô-giá-na Phật vẫn còn tồn tại trong cõi nầy. Cho nên người nào có phước thờ Xá lợi thì Xá lợi sẽ lớn lên; còn người nào vô phước mà thờ Xá lợi thì Xá lợi bỗng bay bổng đi nơi khác, mặc dù đang được cất giữ trong một cái tháp. Đó là sự linh thiêng của Xá lợi và cũng là đặc tính thứ nhứt.Còn đặc tính thứ hai là Xá lợi tự động di chuyển. Nội thấy đặc tính nầy thì quí vị cũng đủ đảnh lễ rồi. Không có một vật gì ở thế gian nầy khi đã chìm rồi mà lại nổi, không có một vật gì tự động di chuyển hết..Đặc tính thứ ba là Xá lơi có năm màu. Đây là màu hào quang của Đức Phật. Đó cũng chính là màu lá cờ Phật giáo do một Đại Tá Mỹ tên là Henri S. Olcott đề nghị (ông là sáng lập viên của Hội Thông Thiên Học thế giới). Ông nầy khi qua Tích Lan thấy hào quang năm màu của Phật, mới đề nghị lấy năm màu đó làm màu cờ Phật giáo. Năm màu nầy là: - Màu xanh tượng trưng cho niềm tin là Tín. - Màu vàng tượng trưng cho Tinh tấn - Màu đỏ tượng trưng cho sự nhớ nghĩ, tức là Niệm - Màu trắng tượng trưng cho Định. - Màu cam tượng trưng cho Trí tuệ. Tại rừng Câu Thi Na, nơi Đức Phật nhập Niết Bàn, có một ngôi chùa tên là Song Lâm, trước đây do một Ni sư người Trung hoa dựng lên, sau nầy Ni sư hiến lại cho Hội Phật giáo Linh sơn của Hòa Thượng Huyền Vi, do Sư cô Trí Thuận trụ trì chùa nầy. Chùa có được 3 viên Ngọc Xá lợi của Đức Phật. Sau đó, Sư cô qua Mỹ, đến Houston, Texas, có mang theo một viên Xá lợi cúng dường cho một chùa ở đây, cũng mang tên Linh sơn. Vị trụ trì vì bận việc nên đem viên Xá lợi bỏ vào tủ khóa lại, nhưng sau đó mở khóa ra xem thì viên Xá lợi biến mất, tìm mãi không ra. Ba tháng sau, Sư cô Trí Thuận từ nước ngoài trở về Ấn Độ thì thấy viên Xá lợi đã nằm sẵn trong tháp. Tóm lại, Xá lợi rất quí, nhưng nếu không biết cách gìn giữ thì Xá lợi sẽ tự động giã từ mà trở về chốn cũ .Bí mật của cái gọi là Xá lợi. Một sự thật được tìm ra là tại sao đa số những người tu niệm Phật và đa số các vị cao Tăng khi chết để lại Xá lợi. Thật ra ai cũng có thể có Xá lợi. Đó là phần tinh túy của thể xác hữu cơ sau khi được thiêu đốt ở nhiệt độ cao. Khi một người thường xuyên sống trong sự nhất tâm hay bớt đi vọng tưởng thì cơ thể họ sẽ tạo ra một dung dịch gọi là tủy sống tồn trử trong cơ thể người đó luôn luôn. Chính dung dịch nầy là chất xúc tác để phần xương tủy bị cháy kết tinh thành xá lợi dù chỉ được thiêu đốt dưới một nhiệt độ thấp đủ để thành tro. - Riêng những người không tu tập gì hết nếu được nung đốt với một nhiệt độ cao nhất (có thể làm chảy nước phần vật chất) thì phần cơ thể của họ lập tức sẽ chảy ra thành nước và kết tinh thành những viên ngọc óng ánh rất đẹp.Vì theo nguyên tắc khoa học. Tất cả vật chất dù rắn chắc cỡ nào nếu được đốt với nhiệt độ cao nó đều có khuynh hướng chảy thành nước. Cũng giống núi lữa đốt cháy đá thành nham thạch hay cảnh luyện kim khí thành đồ vật dụng thôi. Áp dụng nguyên tác nầy Chúng ta có thể biến cơ thể của bất cứ người chết nào thành ra những viên ngọc tuyệt đẹp với điều kiện chúng ta phải có một hệ thống máy móc đốt cơ thể với nhiệt độ cao nhất. Máy này đã có bán trên thị trường do Nhật sản xuất. Vậy từ nay nếu muốn được khỏi chôn cất thi hài người chết ta cứ việc cho vào máy để biến thi thể thành « Xá lợi ». Đây là việc làm ứng dụng nguyên tắc tự nhiên khoa học hoàn toàn không có xảo thuật hay hóa chất nào khác thêm vào. Chỉ có nhiệt độ cao và cơ thể con người. Đó là phần kỳ diệu nhất mà thiên nhiên dành cho chúng ta. Máy thiêu người chết thành Xá lợi hay Ngọc Kim cương giá thành khoảng 250 ngàn USA. (135 ngàn bản Anh) .Máy được chế tạo với hệ thống đốt cháy cơ thể và cho ra thành những viên ngọc cứng như đá và lóng lánh như Kim cương trong vòng 90 phút. Thích Trí Như
  22. Hoá giải trùng tang Trong dân gian việc tang ma xuất hiện nỗi lo sợ quá mức khi người chết đúng vào giờ "trùng rơi vào kiếp sát" (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) và sau đó, trong thời gian ngắn gia đình, người thân lại có người qua đời. Nỗi ám ảnh này được lưu truyền dai dẳng trong nhân gian. Tuy nhiên, trên thực tế đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hoặc lý giải được bằng những chứng cứ hết sức khoa học. Sự trùng hợp ngẫu nhiên Vốn là một võ sư, một người lính đã từng trải qua thời khắc giữa cái chết và sự sống, ông L.C không có sự mê tín nhưng hôm tôi gọi điện hẹn gặp để hỏi chuyện công việc thì ông từ chối. Ông giãi bày mới hay: "Bà mẹ tôi (hơn 90 tuổi) ốm nặng nằm trong bệnh viện mấy tháng nay rồi. Nhưng ông anh, sinh năm Dần (62 tuổi) lại đột ngột qua đời đúng vào ngày, tháng, năm Dần. Vậy là thầy phán trùng tang. Cả nhà lo cúng lễ. Tôi thì chẳng tin đâu, cũng chẳng sợ gì cả nhưng cũng đành theo mọi người cho phải lẽ". Câu chuyện như ở nhà võ sư này không phải hiếm. Tôi đã từng biết đến một gia đình họ hàng trong vòng 5 tháng mất liền 3 người có quan hệ thân thiết. Đầu tiên là ông anh cả, vẫn còn đang bơm vá xe đạp, bỗng thấy tức ngực, khó thở được đưa đi viện cấp cứu. Ông anh cả này đã từng được đặt ống nối trong phổi. Đến viện bác sĩ chẩn đoán, lao lực, bật ống nối, dịch phổi tràn... và ông đã qua đời ở tuổi 53. Chưa qua 49 ngày thì người em dâu đi nằm cữ sinh đứa thứ hai. Không ngờ bị băng huyết, ở trạm xá xã, y tá, bác sĩ kém về nghiệp vụ không phát hiện sớm để chuyển lên bệnh viện tuyến trên. Mất máu quá nhiều, người em dâu mất đúng vào ngày con trai chào đời, năm ấy cô 37 tuổi. Hơn một tháng sau, một bà già hơn 80 tuổi mà hai người đã mất gọi là thím dâu qua đời vì ốm bệnh lâu ngày. Quá lo sợ ba cái tang liên tiếp, một số người trong gia đình có dấu hiệu mất ngủ, hoảng hốt... Đi xem bói, gia đình được phán là trùng tang. Tuy nhiên, khi về được một thầy phong thuỷ có tiếng trong vùng khẳng định: Lương Văn Nhã, một người chuyên: "Nghiên cứu kỹ về "Thọ mai gia lễ", soi vào cách tính được truyền trong nhiều sách ta, sách Tàu thì trùng tang thường ứng với người cùng huyết thống. Trùng không "bắt" người có quan hệ dâu, rể. Đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên của những người đã mất". Nghe được lời khuyên ấy, nhiều người trấn tĩnh lại, sau thời gian ngắn mọi chuyện lại trở lại bình thường và cũng chẳng còn đám ma nào xuất hiện trong gia đình họ hàng của tôi nữa. Một trường hợp nữa, trong chuyến đưa người nhà của võ sư L.C lên chùa Hàm Long (Bắc Ninh), tôi biết chuyện đau lòng nhà chị Hường. Chồng chị là Vương Duy Quang, đi làm xây dựng bị cảm mất ở Tuyên Quang. Sau đưa về ma chay, thì hơn tháng sau, bố chồng khi đi thăm chùa Bái Đính về, đêm mệt quá lên cơn hen co thắt phế quản không kịp lấy thuốc đã qua đời. Cho là trùng tang, nên thầy cúng đến làm lễ và gia đình chị Hường "gửi vong" lên chùa Hàm Long, nơi được xem là địa chỉ "nhốt trùng" lớn nhất nước để nhờ các sư chăm sóc. Chùa Hàm Long, được đồn đoán là nơi “nhốt trùng” lớn nhất Hà Nội. Đồn đoán về nơi "nhốt trùng" lớn nhất Dân gian vẫn truyền nhau những trường hợp chết "trùng tang liên táng" rất thương tâm, coi như một thảm hoạ. Cứ thế, người ta lưu truyền về một nơi "nhốt trùng" an toàn nhất là chùa Hàm Long (Quế Võ-Bắc Ninh). Đặt chân đến chùa mới thấy hết cái cảm giác rờn rợn được đồn là nơi "nhốt vong chết trùng" lớn nhất cả nước. Ngôi chùa u tịch, nằm gối đầu vào núi, xa là dòng sông. Tương truyền, chùa được xây dựng từ thời nhà Lý, là nơi tu hành của Thiền sư Dương Không Lộ, một chân tu đắc đạo gắn với nhiều truyền thuyết ly kỳ. Từ ngàn xưa ấy, đồn rằng nơi đây những vị cao tăng đã có phương pháp trấn yểm trùng huyền bí mà hiệu quả. Nơi đây còn có bộ ván in khắc phù giải "trùng tang liên táng" từ mấy trăm năm nay. Người nhà đưa di ảnh của người quá cố lên chùa sẽ được các sư hướng dẫn cụ thể cách kiêng kỵ. Những người sống trong gia đình được giữ lá bùa trong ba năm để đề phòng tai hoạ. Chuyện ly kỳ tại chùa Hàm Long được người dân lan truyền mà chẳng biết kiểm trứng thực hư như thế nào. Họ đồn đoán rằng, mỗi buổi những nhà sư phải nấu một nồi cháo to cúng thí, nếu hôm nào quên là gà vịt của người dân quanh vùng bị chết hàng loạt (!!!). Trước những chuyện này, GS Trần Lâm Biền (Cục di sản văn hoá) cho rằng: "Những chuyện như vậy, xét tính chân thật thì khó nói. Nhưng đó là tín ngưỡng dân gian, là niềm tin nên mặc nhiên người dân cứ người sau làm theo người trước và thành nếp như vậy. Và đã là tín ngưỡng thì không ai xem xét đến chuyện đúng sai, thực hư. Chỉ biết rằng, chùa Hàm Long là ngôi chùa cổ có giá trị văn hoá tâm linh được đông đảo người dân chiêm bái". "Giải mã" và hoá giải Từ những năm trước đây, nhiều nhà khoa học đã tìm cách tiếp cận, lý giải hiện tượng dân gian này. Các nhà vật lý ngày nay cho biết, khi còn sống GS Nguyễn Hoàng Phương (Hội Vật lý Việt Nam) đã đưa khoa học vào nghiên cứu bước đầu vén bức màn bí mật về hiện tượng này. Theo kiến giải của cố GS Nguyễn Hoàng Phương: "Vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và tần số của trùng nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên khác nhau nhiều, nên theo lý thuyết về nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (tần số này là bội số của tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống". Chính điều này, các nhà vật lý hiện tại như GS.VS Đào Vọng Đức, PGS.TS Hà Vĩnh Tân người bỏ nhiều thời gian nghiên cứu, lý giải các hiện tượng tâm linh huyền bí cũng giải thích trên lý thuyết sóng điện từ và trường năng lượng. Điều này cũng xuất phát từ những kiến giải của GS Hoàng Phương. Lý giải vì sao khi lo tang ma cho người quá cố, mọi thành viên trong gia đình thấy mệt mỏi và sau đó có người ngã bệnh, lương y Trần Bình (Thanh Xuân- Hà Nội) cho rằng: "Khi con người chết đi đều để lại tử khí. Khí này cộng hưởng với mùi khói hương, sự đông đúc của người sống khiến không khí ngột ngạt. Vì vậy, với người có sức đề kháng kém sẽ dễ bị nhiễm tử khí kéo theo các bệnh như: Chướng khí, ăn không tiêu, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn... Nhiễm tử khí lâu ngày sẽ có hiện tượng giống như bệnh nan y khiến không ít người hoang mang". "Tôi đã gặp vài trường hợp như vậy. Sau khi gia đình có người mất, vài người nhiễm bệnh. Họ cũng tốn đến 30 triệu đồng để cúng giải trùng tang. Nhưng khi đến tôi chỉ hướng dẫn lấy lá đinh lăng và lá nhãn tươi sắc lấy nước uống vậy là tứ chứng tiêu tan," ông Bình kể. Theo lương y Trần Bình, với những người khi thân nhân qua đời đã sẵn nỗi đau buồn, nếu lo trùng tang gặp được thầy tốt khuyên nhủ thì tinh thần vững vàng mà qua khỏi. Nhưng trái lại, gặp thầy bói tham tiền, hù doạ thêm đủ điều để cốt sao hành nghề cúng bái thu tiền thì bệnh thêm nặng. Đó là bệnh trong tâm tưởng. Còn chuyện hoá giải trùng tang cũng là gỡ đi sự lo lắng trong tâm tưởng của con người mà thôi. Theo Vương Hà - ĐS&PL
  23. Trích dịch vài danh ngôn để đời của Đức Dalai Lama Ngày 14-5-2012, Đức Dalai Lama, lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng được trao giải thưởng Templeton, một giải thưởng uy tín trên thế giới trong một buổi lễ trang trọng được tổ chức tại thánh đường St Paul ở thủ đô Luân Đôn. Giải thưởng nhằm ghi nhận những đóng góp không mệt mỏi của ngài trong lĩnh vực tâm linh vì cuộc sống bình yên của nhân loại. Nhân sự kiện này, Chùa Phúc Lâm online xin trích dịch vài danh ngôn để đời của ngài giới thiệu bạn đọc cùng suy ngẫm: 1. Happiness is not something ready made. It comes from your own actions. Hạnh phúc không phải là cái gì đó đã được tạo ra sẵn, mà nó đến từ chính hành động của chúng ta. 2. If you think you are too small to make a difference, try sleeping with a mosquito. Nếu bạn cho rằng mình quá nhỏ bé để có thể tạo nên sự khác biệt, xin hãy thử ngủ với một con muỗi. 3. Love is the absence of judgment. Tình yêu là sự vắng bóng trừng phạt. 4) My religion is very simple. My religion is kindness. Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó là sự tử tế. 5. Remember that the best relationship is one in which your love for each other exceeds your need for each other. Hãy nhớ rằng mối quan hệ tốt đẹp nhất là mối quan hệ mà trong đó tình yêu của bạn dành cho nhau vượt qua nhu cầu của bạn dành cho nhau. 6. “Silence is sometimes the best answer” Sự im lặng đôi khi là câu trả lời hay nhất. 7. This is my simple religion. There is no need for temples; no need for complicated philosophy. Our own brain, our own heart is our temple; the philosophy is kindness. Đây là tôn giáo đơn giản của tôi: không có nhu cầu đối với chùa chiền và những triết lý phức tạp. Khối óc ta, trái tim ta là ngôi chùa của chúng ta; triết lý là sự tử tế. 8. Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them. Mục đích quan trọng nhất trên đời này của chúng ta là giúp đỡ người khác. Nếu bạn không thể giúp người, chí ít cũng đừng làm thương tổn họ. 9. Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive. Tình yêu và lòng từ là nhu cầu cần thiết, không phải là xa xỉ phẩm. Không có nó nhân loại không thể tồn tại được. 10. We can live without religion and meditation, but we cannot survive without human affection. Chúng ta có thể sống không có tôn giáo và thiền định, nhưng chúng ta không thể tồn tại mà không có tình cảm của con người. 11. If you want others to be happy, practice compassion. If you want to be happy, practice compassion. Nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy tu tập lòng từ. Nếu bạn muốn hạnh phúc, hãy tu tập lòng từ. 12. Remember that not getting what you want is sometimes a wonderful stroke of luck. Nên nhớ rằng không đạt được cái mà bạn mong muốn đôi khi lại là một điều may mắn tuyệt vời. 13. The ultimate authority must always rest with the individual’s own reason and critical analysis. Quyền lực tối hậu luôn phải dựa vào chính lý trí và sự phân tích mang tính phê bình của cá nhân. 14. We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves. Chừng nào chúng ta chưa tạo được hòa bình trong chính chúng ta thì chừng đó chúng ta không thể đạt được hòa bình trên thế giới xa hơn nữa. 15. Be kind whenever possible. It is always possible. Hãy sống tử tế với nhau bất cứ khi nào có thế. Đó là cái luôn luôn có thể. 16. If you have fear of some pain or suffering, you should examine whether there is anything you can do about it. If you can, there is no need to worry about it; if you cannot do anything, then there is also no need to worry. Nếu bạn có sự lo sợ về sự đau đớn hay đau khổ, bạn nên kiểm tra xem có bất cứ điều gì mà bạn có thể làm để vượt qua nỗi lo sợ đó hay không. Nếu có thì bạn không cần lo lắng; nếu không thì bạn cũng không nên để tâm đến nó làm gì. 17. If you don’t love yourself, you cannot love others. You will not be able to love others. If you have no compassion for yourself then you are not able of developing compassion for others. Nếu không thương mình, bạn không thể thương người và cũng sẽ không thể yêu người. Nếu bản thân bạn không có lòng từ thì bạn cũng không thể giúp người khác phát triển nó. 18. Human potential is the same for all. Your feeling, “I am of no value”, is wrong. Absolutely wrong. You are deceiving yourself. We all have the power of thought – so what are you lacking? If you have willpower, then you can change anything. It is usually said that you are your own master. Tiềm năng của con người tất cả đều như nhau. Bạn cảm thấy “tôi không có giá trị” là sai lầm, sai lầm tuyệt đối và bạn đang lừa dối chính mình. Tất cả chúng ta đều có khả năng tư duy. Vậy bạn đang thiếu cái gì? Nếu bạn có sức mạnh ý chí, bạn có thể thay đổi bất cứ cái gì. Người ta thường nói rằng bạn là đạo sư của chính mình. 19. We must recognize that the suffering of one person or one nation is the suffering of humanity. That the happiness of one person or nation is the happiness of humanity. Chúng ta phải thừa nhận, rằng sự đau khổ của một người hay của một quốc gia là sự đau khổ của nhân loại; rằng hạnh phúc của một người hay của một quốc gia là hạnh phúc của nhân loại. 20. Through violence, you may ‘solve’ one problem, but you sow the seeds for another. Bạn có thể giải quyết một vấn đề bằng bạo lực, nhưng bạn sẽ gieo rắc những hạt giống bất thiện đó cho người khác. 21. To conquer oneself is a greater victory than to conquer thousands in a battle. Tự thắng mình là chiến thắng vĩ đại, hơn cả chiến thắng hàng ngàn quân địch trong một trận chiến. 22. There is a saying in Tibetan, “Tragedy should be utilized as a source of strength.” No matter what sort of difficulties, how painful experience is, if we lose our hope, that’s our real disaster. Người Tây Tạng có một câu nói: “Bi kịch nên được tận dụng như là một nguồn sức mạnh.” Cho dù đó là khó khăn gì đi chăng nữa, sự trải qua khổ đau như thế nào, nếu mất hy vọng thì đó mới chính là thảm họa thật sự của chúng ta. 23. The creatures that inhabit this earth-be they human beings or animals-are here to contribute, each in its own particular way, to the beauty and prosperity of the world. Các chúng sinh sống trên hành tinh này – dù là người hay vật, mỗi mỗi đều có cách đóng góp riêng của bản thân chúng để làm đẹp và làm giàu cho thế giới. 24. In our struggle for freedom, truth is the only weapon we possess. Trong cuộc đấu tranh vì tự do của chúng ta, sự thật là vũ khi duy nhất chúng ta có. Quần Anh chuyển ngữ.
  24. Phát ngôn gây sốc của thí sinh khoác áo tu đi thi Vietnam Idol: Hiện tượng không bình thường Những phát ngôn gây sốc của thí sinh khoác áo tu đi thi Vietnam Idol Trần Thị Thanh Hà (pháp danh: Nữ Trúc Lâm Diệp Hạ Trần) đã “chọc giận” khắp các diễn đàn, mạng xã hội. Cư dân mạng ầm ĩ lên tiếng phê phán thí sinh này đã “làm trái với điều răn của Phật” để “tư lợi cá nhân”. Thí sinh mặc áo tu tuyên bố sẽ trở thành Vietnam Idol 2012 Đây là hiện tượng không bình thường. 1/ Thí sinh tham dự chương trình tuyển giọng của thế tục lại mặc áo đạo (không phải áo nhà tu như báo vừa nêu) 2/ Tự xưng là đạo Mẫu thì không thể là một phật tử hay một ni cô 3/ Một phật tử bình thường không tự tin quá đáng trên sàn thi bằng những ngôn từ quá sốc như vậy 4/ Tự tin khả năng đến độ đổ lỗi thất bại cho ban giám khảo và quần chúng (vì tin rằng quần chúng phật tử không thể không ủng hộ - nghĩa là không ủng hộ cô ta thì đó là không phải Phật tử) 5/ Chưa đổ ông Nghè đã đe hàng Tổng - chưa biết chắc đậu đã mơ lấn sân Showbiz và điện ảnh. 6/ Phong cách nói chuyện không phải là một ứng viên có tư cách nghiêm túc, càng không xứng là một Phật tử, có lẽ quen cách lắc lư của Tứ phủ nên Nữ Trúc Lâm Diệp Hạ Trần (chiếc lá rừng trúc rơi xuống thế) cũng lí la lí lắc không bình thường 7/ Tốt hơn nếu thí sinh lấy tư cách cá nhân để dự thi hơn là mượn danh người tu Phật để tham gia việc đời, càng làm ô uế đạo Phật. 8/ Nếu đây là thí sinh không bình thường thì cũng là hiện tượng lăng-xê gây chú ý cho quần chúng 9/ Người tu Phật chân chính thường khiêm tốn và thầm lặng, không ồn ào phô trương 10/ Ai là thầy của cô ta nên hướng dẫn đệ tử nầy vào đúng lộ trình tâm linh của nhà Phật. 11/ Tại sao sử dụng chiếc áo nâu và xưng là ni cô (không cạo tóc) để lên sàn diễn? Phải chăng muốn mượn đạo tạo đời (muốn có sự ủng hộ của quần chúng Phật giáo?) cho dù chính trị, văn nghệ hay bất cứ lãnh vực nào mượn uy danh tôn giáo để mưu đồ giành chiến thắng mà không có tâm thật sự đều nhận thất bại và bôi bác đạo Phật. Hậu quả bất chính sẽ không tránh khỏi. 12/ Nếu Ban tổ chức mượn Nữ Trúc Lâm Diệp Hạ Trần để gây chú ý dư luận khán thính giả về sự kiện Vietnam Idol 2012 thì xin nhường quyền quyết định đánh giá cho những ai có thẩm quyền. Tóm lại, gần đây xã hội ta có quá nhiều chuyện không bình thường, cứ như trong mơ, phải chăng bệnh thần kinh đang phát triển trong cuộc sống??? Pó tay!!! Minh Mẫn (16/7/2012) Thí sinh khoác áo tu thi Vietnam-Idol bị cộng đồng "ném đá" Những phát ngôn gây sốc của thí sinh khoác áo tu đi thi Vietnam Idol Trần Thị Thanh Hà (pháp danh: Nữ Trúc Lâm Diệp Hạ Trần) đã “chọc giận” khắp các diễn đàn, mạng xã hội. Cư dân mạng ầm ĩ lên tiếng phê phán thí sinh này đã “làm trái với điều răn của Phật” để “tư lợi cá nhân”. Trên mạng xã hội Facebook, clip “thể hiện mình” của Thanh Hà đã lập kỷ lục với hàng nghìn lượt chia sẻ và hàng vạn ý kiến bình luận. Hầu hết các ý kiến đều ngỡ ngàng, sốc và bức xúc. Thành viên có tên Quân Anh nhận định: “Phàm là phật tử không ai ủng hộ em sau khi xem clip này!”. Thành viên Thanh Sam Phong Lưu thì quy kết: “Lôi phật pháp ra để đề cao bản thân”. Còn thành viên Phương Linh Phùng thì đặt câu hỏi: “Phật dạy chị không đi tu mà đi hát à?”. Nặng nề hơn, người có nickname Hoang Thai Vu cho rằng đây là một hành động “lợi dụng thánh thần một cách rẻ tiền” và thành viên Bảo Linh thì khẳng định: “Người này lợi dụng niềm tin tôn giáo để tư lợi cá nhân, thật đáng thương, đáng buồn thay”, thậm chí có ý kiến còn nhiếc móc: “Thế mà cũng mang danh pháp mất mặt các phật tử khác”. Thí sinh Trần Thị Thanh Hà (ngồi giữa) tuyên bố: "Có thể là một Chương Tử Di thứ hai của Việt Nam". Trên trang chia sẻ hình ảnh YouTube, clip này cũng trở thành đề tài nóng với bất cứ lần chia sẻ nào là lượng dislike (không thích) tăng nhanh chóng. Tại chia sẻ của thành viên VietNamTodayNews, chỉ trong vòng chưa đầy một ngày đã có đến hơn 400 người “bày tỏ thái độ” bằng dislike. Thành viên Chino Capu còn bình luận: “Hơn 400 dislike là xứng đáng…, phát ngôn coi thường người khác mà đòi làm từ thiện, xây 100 cái chùa cũng không bù được những phát ngôn mất đạo đức như vậy đâu”. Tuy nhiên cũng có những người hiếm hoi thông cảm với Thanh Hà. Lẻ loi giữa hàng ngàn ý kiến chê bai, phê phán, trên Facebook, thành viên QA Spectrum Azure đánh giá: “Đã đi thi Idol là đã vượt qua tự ti cộng với vượt qua mặc cảm rồi, nên có phát ngôn nổ tí và mặt có dầy, có chai hơn một chút cũng ko sao”. Đáng chú ý là bên cạnh việc lên án thí sinh Thanh Hà, rất nhiều người cũng tranh thủ “ném đá” chương trình Vietnam Idol. Thành viên Kan Nguyễn chia sẻ quan điểm trên Facebook: “Mấy cái Vietnam Idol và Vietnam Got Talent tạp nham, dựa vào mấy cái scandal để thở thôi”. Còn thành viên Hanaily19 của YouTube thẳng thừng đưa ra ý kiến: “Một là BTC dàn dựng, hai là chị này có vấn đề. Chỉ một trong hai thứ này mà thôi”. Được biết, ngay trong vòng thử giọng vừa diễn ra, Thanh Hà đã bị loại. Ấn tượng để lại của thí sinh này đó chính là tuyên bố đầy tự tin: “Với khả năng, tâm nguyện lớn lao của mình và sự phù hộ của phật tiên thánh thần, em tin chắc chắn mình phải được giải nhất. Nếu như không thì phải xem lại ban giám khảo. Em nghĩ rằng khi em lên hình thì tất cả thí sinh phàm là phật tử, phàm là những người yêu thương con người đều ủng hộ em". Theo Vũ Chương - KTO