-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Vào tháng Güla, Swayambhu đông nghịt người chiêm bái, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Không chỉ Phật tử mà cả người theo đạo Hindu (hoặc Phật giáo cải sang Hindu) cũng đi đến Swayambhu để tỏ lòng kính ngưỡng Đức Phật. Họ leo lên 365 bậc đá của ngọn đồi, vượt qua những khu rừng thưa, những tượng đá của các linh vật, những pho tượng Phật cổ bằng đá to ngoại cỡ, và những con khỉ ngồi dọc theo đường đi để chờ thức ăn… để lên tới đỉnh đồi. Người người chen chúc nhau trong không gian chật hẹp và càng chật hẹp hơn bởi đèn dầu, cờ phướn, tượng Phật và tranh cuộn Thangka trang hoàng các tự viện và bàn thờ, bởi mùi nhang trầm hòa quyện cùng tiếng chuông và tiếng quay của những bánh xe cầu nguyện đặt vòng quanh bảo tháp. Đây đó, những nhóm Tăng Ni ngồi tụng thật lớn những bộ kinh Phật cho mọi người cùng nghe, trong khi những nhóm nhạc tài tử thì tụ tập bên cạnh những tháp đá và chơi những bản nhạc cổ truyền hoặc hát lời ngợi ca chư Phật. Theo truyền tụng, việc chiêm bái trong tháng Güla này đã được thực hiện ở Thung lũng Kathmandu từ nhiều thế kỷ, có lẽ từ 2.500 năm trước. Nghi thức này lặp lại mỗi ngày trong suốt tháng Güla. Những ngày về sau của tháng lễ, số lượng các nhóm nhạc và người cầu nguyện càng đông khi những người ở xa xôi hơn cũng tề tựu về. Vajracharya (Giai cấp tư tế Phật giáo của cộng đồng Newar) đọc kinh Phật nhân mùa Gũla. . Tại Patan (thành phố cổ nhất của Thung lũng Kathmandu, nơi được mệnh danh là thành phố Phật giáo), trong khi mưa thỏa cơn khát của đất đai và vạn vật, Phật tử nhắc nhở nhau nhớ lại những lời Phật dạy. Phật tử Newari ở đây thực hiện một tháng lễ quan trọng bằng cách tỏ lòng tôn kính Đức Phật, nhắc nhở nhau cố gắng thực hiện ngũ giới trong cuộc sống hàng ngày, tối thiểu là một tháng. Những nữ Phật tử tắm gội sạch sẽ và chỉ ăn một bữa mỗi ngày trong suốt tháng Güla. Mỗi ngày, trước khi nấu nướng thức ăn trong ngày, những người phụ nữ nắn những cái tháp nhỏ bằng đất sét (Caitya) và cầu nguyện trước chúng với lòng tin rằng, hành động đó sẽ tích lũy công đức cho chính họ và gia đình. Những cái tháp nhỏ đó được cầu nguyện và giữ cẩn thận cho đến ngày cuối cùng của tháng Güla. Vào ngày cuối cùng của tháng Güla, những người phụ nữ thực hiện một nghi lễ đặc biệt: mặc những bộ trang phục đẹp nhất mà họ có cùng với nữ trang đắt tiền, họ bưng những cái tháp nhỏ trong một cái khay bạc hoặc đồng, theo sau những nhóm nhạc cổ truyền, đi tới một dòng sông gần nhà. Ở đây họ thực hiện nghi lễ cuối cùng trước các caitya rồi đặt chúng xuống nước. Kết thúc mùa Güla, số Caitya có thể lên đến hơn trăm ngàn cái. Vào ngày thứ tám của tháng Güla, Phật tử ở Patan thực hiện lễ "Pancha Dana" - lễ dâng cúng năm thứ vật thực (gạo lức, gạo trắng, đậu, lúa mì và muối). Đó chính là lễ cúng dường cho các chư Tăng Ni theo nghi thức cổ truyền. Huyền thoại truyền rằng đó chính là ngày Siddhartha từ bỏ lối tu khổ hạnh để chọn con đường Trung đạo và sau đó chứng ngộ thành Phật. Trong ngày Pancha Dana, các cửa hiệu và nhà cửa trang hoàng với hoa và các tranh tượng Phật. Phụ nữ ngồi trước cửa nhà với những cái bồn bằng đồng chứa đầy 5 thứ phẩm vật dâng cúng (nguồn gốc của Vu lan bồn(?), và dâng mỗi lần đầy hai tay vào bình bát của các Tăng Ni đi khất thực ngang qua theo phong tục được chính Đức Phật thực hành hơn 2.500 năm trước. Các Tăng Ni ban phước lành cho mỗi thí chủ bằng cách cầm những cuốn kinh Phật chạm vào trán của họ, cầu chúc cho họ nhận được phước duyên và sự bảo hộ của chư Phật. Khi trời chạng vạng tối, một nhà sư đi vòng quanh thành phố và lắc một cái chuông báo hiệu kết thúc ngày Pancha Dana, khi đó các Tăng Ni không nhận thêm lễ vật dâng cúng nữa. Sau đó, vào ngày thứ 28 của tháng Güla, Pancha Dana lại được tổ chức ở hai thành phố khác của Thung lũng Kathmandu là Kathmandu và Bhaktapur. Kinh Phật cổ được trưng bày nhân mùa Güla Bahi Doe Boyegu, sự trưng bày các tượng Phật trong sân chùa, rơi vào ngày thứ 12, và có thể kéo dài vài ngày, tùy thuộc vào quyết định của cộng đồng Sakya của tự viện đó. Trong ngày này, những thánh tích và tượng cổ được trưng bày cho công chúng chiêm bái và cầu nguyện. Đó là những tượng gỗ tuổi đời vài thế kỷ, có tượng đã bị mối mọt làm hư hại. Đó là những bức tranh cuộn Thangka, và những tấm thảm treo tường cổ, thể hiện cuộc đời Đức Phật hoặc các Thánh tăng, đó còn là những hạt gạo ngoại cỡ được cho rằng đã được trồng ở Thung lũng Kathmandu vào thời cổ đại. Mỗi ngày có đến hàng trăm người đến chiêm bái ở mỗi tự viện. Tại một ngôi chùa ở Thamel, những cuốn kinh cổ hơn ngàn năm tuổi, viết bằng mực hoàng kim, được trưng bày một lần duy nhất trong năm cũng vào dịp này. Vào ngày rằm, Phật tử tề tựu tại các bảo tháp Asoka ở Patan để cầu nguyện. Vào ngày thứ 17, diễn ra lễ Mata-Ya, lễ Đèn. Vào ngày ấy, mọi người bưng những cây đèn dầu đi không mệt mỏi vòng quanh khắp các đường lớn, hẻm nhỏ của Patan, để cầu nguyện cho những người thân đã chết. Họ đi chân trần, mặc những bộ đồ đẹp nhất và tụng đọc những bài ngợi ca chư Phật. Đi đầu luôn luôn là những nhóm nhạc cổ truyền. Bắt đầu từ tờ mờ sáng, những đoàn người kéo đi xuyên qua mê cung của các con đường nhỏ hẹp và hẻm hóc của thành phố cổ Patan, rắc gạo, tiền xu và bột đỏ lên tất cả các khám thờ tượng, tháp, chùa, đền dọc theo đường đi. Họ đi càng nhanh khi trời đã đến giữa trưa, và quan niệm rằng càng khổ nhọc bao nhiêu thì người thân đã khuất của họ sẽ bớt đau khổ bấy nhiều. Họ rắc những đồng xu trên đường đi trong khi gọi tên người thân đã khuất, trong khi những người khác hát vang những bài ca ngợi ca sự chiến thắng của Đức Phật trước ma vương. Đến quá trưa thì hầu hết mọi người gần như kiệt sức, bột đỏ chảy dài trên thân thể thành những dòng mồ hôi đỏ, bám đầy cả trên tóc, trên quần áo. Nhưng họ vẫn không dừng lại. Một số thanh niên và đàn ông của những gia đình có người thân chết trong vòng một năm qua cởi trần và quỳ lạy trong đất bụi trước mỗi khám thờ dọc đường. Jyapu, cộng đồng nông dân bản địa của Thung lũng Kathmandu, tin chắc rằng lễ Đèn là để tưởng niệm người thân đã khuất của họ. Chúng tôi nghĩ rằng Güla chính là từ nguyên của Vu lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Tăng trong ngày Pancha Dana. Một điều thú vị là từ Kathmandu Valley cho đến Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thì ở đâu tinh thần kính ngưỡng chư Phật, chư Tăng và báo hiếu cũng là trọng tâm của lễ Vu lan. n Nguyễn Phú (Nguyệt San Giác Ngộ số 173
-
Nội dung mang màu sắc Phật giáo có thể thấy qua việc thiết lễ cúng dường chư Tăng và cầu nguyện cho người đã khuất. Còn những tập tục như cúng cô hồn, đốt vàng mã là những tập tục còn sót lại của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc. Sau này Mật tông Trung Quốc còn soạn thêm lễ cúng thí ngạ quỷ. Từ đó có thể thấy lễ Vu lan ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung Quốc không còn thuần khiết và bị pha trộn bởi những yếu tố văn hóa địa phương. Việc tìm hiểu nguồn gốc lễ Vu lan tốt nhất nên khảo sát tại quê hương bản quán của nó, tức địa bàn Bắc Ấn. Tuy nhiên, Phật giáo tại vùng Bắc Ấn đã tàn lụi hơn 1.000 năm trước, những lễ tiết Phật giáo cũng đã nhạt nhòa theo thời gian. May mắn thay cho chúng tôi, một địa điểm tại Nepal vẫn còn bảo lưu được lễ Vu lan nguyên thủy: Thung lũng Kathmandu. Phật tử đi kinh hành cầu nguyện vòng quanh bảo tháp Swayambhu Güla - tháng lễ trọng của cộng đồng Newari Güla là một lễ hội đặc biệt của Nepal và chỉ duy nhất có ở Thung lũng Kathmandu (Kathmandu Valley), đây chính là nước Nepal cổ đại với tên gọi Nepal-Mandala vào thời Asoka Đại đế.Xin nói qua một chút về lịch sử của Kathmandu Valley. Về địa lý, Kathmandu Valley nằm cách Kapilavastu của Vương quốc Sakya 400km. Thung lũng này nằm trên độ cao hơn 2.000m trên mực nước biển và được bao bọc bởi những ngọn núi cao. Đặc điểm này đã làm nên cái tên cổ đại nổi tiếng của thung lũng vì những ngọn núi bao bọc xung quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala. Theo huyền sử, Kathmandu chính là một cái hồ lớn vào thời tiền sử (các khảo cứu địa chất mới nhất tại đây đã chứng minh điều này). Những sườn núi xung quanh hồ lớn ấy là nơi cư trú của sắc dân Naga - nhóm chủng tộc Mongoloid của Hymalaya mà địa bàn cư trú kéo dài đến tận Trường Sơn của Việt Nam. Cũng theo huyền sử, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát đã tìm đến đây để chiêm bái Swayambhu (Ánh sáng tự sinh từ một hoa sen do Đức Phật Bipaswi gieo trồng). Ngài Văn Thù đã dùng báu kiếm của mình rạch một lối thoát nước và biến cái hồ ấy trở thành Thung lũng Kathmandu, còn hòn đảo giữa hồ trở thành ngọn đồi Swayambhu ngày nay. Sắc dân Naga sống gần đấy đã quy tụ lại dưới sự lãnh đạo của một đệ tử của ngài Văn Thù, sau này được ghi nhận trong sách sử cổ đại của Ấn Độ là Kirat hay Kiran. Bộ tộc Kiran đã từng tham chiến và giúp đỡ có hiệu quả trong cuộc chiến tranh của liên minh các vương quốc Ấn Độ chống đạo quân viễn chinh của Alexander. Sau này, trong công cuộc thống nhất Ấn Độ của Chandragupta (ông nội của Asoka Đại đế), họ trở thành một đồng minh tin cậy của ông trong việc kiến tạo Đế quốc Maurya. Chính Asoka, sau khi hành hương chiêm bái tất cả các thánh tích Phật giáo của Ấn Độ, đã đi đến Nepal-Mandala vào năm 250 TCN. Ở bốn góc của thành phố cổ Patan (trung tâm quyền lực của Nepal cổ đại) còn tồn tại bốn bảo tháp lớn, được truyền tụng rằng, chúng đã được dựng nên bởi chính vua Asoka khi ông đến thăm Nepal-Mandala. Một huyền sử nữa là vua Asoka đã gã con gái của ông là công chúa Charumati cho một hoàng thân trong triều đình Kiran. Đội nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm đi cầu nguyện Đội nhạc cổ truyền thế hệ trẻ vào mùa Güla Về truyền thống Phật giáo, có lẽ Phật giáo đã du nhập vào Nepal-Mandala từ thời Đức Phật. Huyền sử cũng nói rằng, chính Đức Phật Thích Ca đã viếng thăm một vương tử Sakya tại Nepal-Mandala trước khi Ngài nhập Niết bàn, và sau này ngài A Nan cũng nhiều lần đến Nepal-Mandala thăm viếng và truyền đạo cho các quý tộc Sakya lưu lạc đến đây sau khi vương quốc Sakya ở Kapilavastu bị tận diệt. Nagarjuna (Long Thọ), Buddhaghosa (Phật Âm), Atisa đều đã đến thăm viếng Thung lũng Kathmandu và Swayambhu. Vì thế Phật giáo tại Kathmandu Valley có một truyền thống sâu xa và vững chắc, kéo dài không ngưng nghỉ suốt từ thời Đức Phật còn tại thế cho đến nay. Đến cuối thế kỷ XIX, những nhà khoa học Anh đã ghi nhận rằng, có đến 80% dân số của Kathmandu Valley theo đạo Phật. Chỉ từ sau khi có luật chống lại Phật giáo vào thời Rana những năm 1910-1930 và những hành động quá khích của chính quyền để thiết lập một vương quốc thuần Hindu, số lượng người theo đạo Phật mới bị giảm sút nghiêm trọng, chỉ còn trên dưới 20% vào thời điểm hiện nay. Mặc dù vậy, hầu hết những gia đình đã cải đạo sang Hindu đều giữ những tập tục Phật giáo của mình. Và điều quan trọng hơn, cộng đồng "thuần túy Phật giáo" Sakya vẫn giữ nguồn mạch Phật giáo chảy mãi tại Kathmandu Valley . Phật tử đọc kinh tại Golden Temple Phật tử tựu tập tại "Golden Temple - Patan để đọc kinh Phật cùng Chư Tăng-Ni Đối với Phật tử của Kathmandu Valley, sự kiện quan trọng nhất trong năm là tổ chức một tháng lễ trọng Güla. Güla là tên của tháng thứ 10 trong lịch Newari (Nepal Era Calendar) - một nguyệt lịch được sử dụng từ năm 880 tại Kathmandu Valley. Güla là một từ Newari cổ (Newari là ngôn ngữ của cư dân bản địa ở Thung lũng Kathmandu, có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bhrami, được sử dụng rộng rãi vào thời vua Asoka). Güla cấu thành từ "gun" có nghĩa là điềm lành và từ "la" là một khoảng thời gian (trong trường hợp này là một tháng). Chính vì vậy, Güla có nghĩa "tháng tốt lành". Theo lịch Ấn Độ, Güla bắt đầu từ ngày thứ nhất của tuần trăng Srawan và chấm dứt vào ngày đầu tiên của tháng Bhada (tháng Tám-Chín). Theo dương lịch, tháng Güla thường rơi vào khoảng giữa tháng Tám đến giữa tháng Chín, và hoàn toàn trùng khớp với tháng Bảy âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc. Vào tháng Güla, sau khi lúa đã cấy xong, Phật tử Newari bước vào tháng lễ quan trọng nhất trong năm của họ. Dễ quan sát hơn cả là việc họ chiêm bái ngọn đồi Swayambhu - Thánh địa Phật giáo quan trọng nhất của thung lũng Kathmandu. Suốt cả tháng Güla, Phật tử Newari cầu nguyện, chay tịnh, thiền quán và biểu diễn âm nhạc tôn giáo. Trong tháng Güla, họ không ăn thịt gà và trứng. Từ rất sớm (4-5 giờ sáng) họ đi bộ (đa số đi chân trần) thành từng nhóm đến Swayambhu cùng với những ban nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm để thực hiện những buổi lễ đặc biệt, bất kể thời tiết thế nào. Nhạc cụ chính của tất cả các ban nhạc là Dhah (trống 3 tấc, một nhạc cụ cổ truyền tồn tại hơn 2.000 năm nay ở Thung lũng Kathmandu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy chứng tích của nó từ thời Kiran - Asoka Đại đế). Những chàng trai, cô gái người Newari đeo những cái trống cổ truyển này trên cổ và vỗ bằng tay trái còn tay phải gõ bằng một cái dùi đặc biệt, đầu cuốn tròn như dấu "?". Nhóm nhạc công tài tử này còn có những người thổi kèn và chơi những cái chập chõa nhỏ như chén ăn cơm. Phật tử Tây Phương cũng về Swayambhu cầu nguyện nhân mùa Güla.
-
Xin giới thiệu đến ACE, Anh DongLs là một Luật Sư có uy tín trong danh sách Luật sư Đoàn tại TP HCM nay là thành viên thứ 12,944 của Diễn Đàn có khả năng Tư vấn mọi vấn đề liên quan đến các Thủ Tục Tố Tụng tại tòa án các cấp- Thành lập Doanh Nghiệp-Đại diện theo ủy quyền-Đại Diện ngoài tố tụng- Thực hiện các dịch vụ Nhà Đất, hôn nhân, di chúc, thừa kế, tặng cho, dịch thuật, xuất cảnh... Sự đóng góp của anh trong tương lai sẽ phong phú hơn cho Topic Tư Vấn vốn có của chúng ta về mặt pháp luật.
-
Thế HTH không kể tiếp xem mình(cụ thể là HTH can thiệp thế nào?) để cứu những mãnh đời này?
-
Để có giờ tốt trong hôm nay set Nick Chau vào lớp nhé! Đừng sốt ruột!
-
Bạn vào đây: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...ic=15618&hl=
-
Mèo con 4 tai 13/08/2010 11:31 (GMT +7) Chú mèo con Luntik ở Vladivostok (Nga) đang nổi như cồn nhờ có đến 4 cái tai. Luntik chỉ mới 3 tháng tuổi và chú đang sinh sống trong một garage. Phía trước đôi tai thật, Luntik được “khuyến mãi” thêm một đôi tai bé xíu xiu. Thật ra Luntik không phải là chú mèo duy nhất có “của để dành”. Một con mèo tên Yoda ở Chicago (Mỹ) thậm chí còn có một đôi tai phụ lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, những đôi tai bé nhỏ kiểu này không có chức năng nghe ngóng do không có ống nghe. Theo Hải Ngọc Người lao động
-
Lở đất ở Trung Quốc: Thiên tai hay nhân tai? 16/08/2010 09:42 (GMT +7) Khi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng ở Châu Khúc, nhiều người đã đặt ra câu hỏi đâu là nguyên nhân của thảm họa này: “Thiên tai” hay “nhân tai”? Tưởng niệm Ngày 15-8, người dân trên khắp đất nước Trung Quốc đã dành ba phút im lặng để tưởng niệm 1.239 người thiệt mạng do trận lở đất kinh hoàng tại tỉnh Cam Túc. Tại Bắc Kinh, hàng nghìn người tập trung trên quảng trường Thiên An Môn từ sáng sớm để xem lễ kéo cờ và sau đó lá cờ được treo rủ để tưởng nhớ các nạn nhân lở đất. Những hình ảnh đáng thương như thế này có tại nhiều nơi ở Châu Khúc Còn ở làng Dongjie thuộc huyện Châu Khúc, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của trận lở đất, hơn 5.000 nhân viên cứu hộ và người dân làng đứng cúi đầu trước đống đổ nát và bùn đất để tưởng nhớ những người chết trong thảm họa này. Trong khi đó, các lực lượng cứu hộ Trung Quốc vẫn hối hả dẹp bùn đất khỏi dòng sông Bạch Long tại Cam Túc. Công việc này trở nên cấp thiết vì theo dự báo của cơ quan khí tượng, mưa lớn sẽ xảy ra trong vài ngày tới. Đất đá và các đống đổ nát trôi xuống dòng sông khiến nó bị tắc và tạo thành những hồ treo. Khoảng 45.000 người đã rời bỏ nhà cửa vì thiên tai và hàng nghìn người đang trú ẩn trong các túp lều tạm. Giới chức Trung Quốc cho hay đến nay vẫn còn 505 người mất tích. Nỗi lo lớn nhất bây giờ là nước sạch và dịch bệnh bởi hầu hết nguồn nước ở Châu Khúc đã bị ô nhiễm nặng không thể sử dụng. Cả một vùng rộng lớn nồng nặc mùi xác chết trộn lẫn với mùi tanh nồng của bùn đất, khiến quang cảnh Cam Túc trở nên hoang tàn và chết chóc hơn bao giờ hết. Hậu quả của tăng trưởng nóng? Khi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng ở Châu Khúc, nhiều người đã đặt ra câu hỏi đâu là nguyên nhân của thảm họa này: “Thiên tai” hay “nhân tai”? Hàng tấn đất bùn từ sườn núi cuồn cuộn chảy xuống kéo sập và san bằng mọi nhà cửa, dinh thự nằm trên dòng chảy của nó. Trong một thời gian ngắn, mạng sống của cả nghìn người đã bị cướp đi. Đối với chính quyền Trung Quốc, chính thời tiết khắc nghiệt bất thường là nguyên nhân gây ra trận lở đất dữ dội nhất trong vòng 6 thập kỷ qua. Các chuyên gia địa chất sẽ tiến hành điều tra kỹ lưỡng để tìm hiểu căn nguyên vụ lở đất. Nhưng trước mắt, họ cho rằng chính nạn hạn hán kéo dài gần 9 tháng tại Châu Khúc và trận động đất ở Tứ Xuyên năm 2008 đã làm cho nhiều nhánh núi bị giãn nở, gây ra hiện tượng rạn nứt địa chất, và dẫn đến trận lở đất kinh khủng vừa qua ở Châu Khúc. Tuy nhiên, theo các chuyên gia môi trường, thảm kịch ở Châu Khúc cũng như nhiều thiên tai khác xảy ra tại Trung Quốc trong thời gian gần đây là hệ quả của chính sách phát triển kinh tế tràn lan mà không đếm xỉa đến tác hại đối với môi trường. Trong thời gian qua, các nhà hoạt động môi trường đã thường xuyên cảnh báo về hậu quả của việc chặt phá rừng tràn lan, xây dựng đường sá hay các đập thủy điện, thường là chủ trương của các chính quyền địa phương. Nhật báo Kinh doanh Quốc gia ghi nhận: “Việc xây dựng các đập thủy điện nhỏ, khai thác quặng mỏ và xây dựng đường sá đã gây hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái và làm tăng nguy cơ lở đất”. Theo Quang Minh Dân việt
-
Mũ bảo hiểm trở thành một vật bất ly thân của những người đi xe máy ở Việt Nam . Nếu bạn sở hữu một trong những chiếc mũ dưới đây , bảo đảm sẽ có không ít người phải ngoái nhìn . Một công ty quảng cáo ở Nga đã sáng tạo ra những chiếc mũ bảo hiểm vô cùng ấn tượng này . Những trái banh billards cũng được thiết kế cho mũ bảo hiểm. Ai biết chơi golf không? Còn đây banh bowling. Mũ bảo hiểm quả địa cầu. Đội chiếc mũ bằng kim cương này chắc phải " soi " bọn cướp đường Đến mũ bảo hiểm cũng sexy Bạn nghĩ gì về chiếc mũ này ? Mũ bảo hiểm đầu người. Nhìn sợ chưa? Mũ banh nỉ.
-
Thuốc quý từ nhãn Nhãn là một loại quả không những ngon miệng mà còn tốt cho sức khỏe. Từ lâu, với việc xác định long nhãn (vị thuốc chế từ cùi quả nhãn) vị ngọt tính ôn, tác dụng bổ dưỡng tâm tì, dưỡng huyết an thần nên y học cổ truyền đã dùng long nhãn sử dụng trong một số bài thuốc với tác dụng bổ dưỡng an thần. Những bài thuốc tiêu biểu được chế biến từ nhãn, gồm: - Chữa chứng mất ngủ, hồi hộp, hay quên: Dùng 100 g cùi nhãn và 100 g gạo nếp loại ngon, cho thêm nước nấu thành cháo, có thể cho thêm đường phèn hoặc mật ong. Ăn vào buổi sáng hoặc buổi tối. - Chữa suy nhược cơ thể, thiếu máu: 15 g long nhãn, 20 g hạt sen, 15 g hồng táo, 15 g đậu phộng và 50 g gạo nếp loại ngon. Dùng những nguyên liệu trên để nấu cháo, có thể thêm đường phèn hoặc mật ong. - Chữa tâm thận hư nhược: Lấy 250 g long nhãn ngâm vào nửa lít rượu loại ngon. Khoảng 2 tuần là dùng được. Mỗi tối trước khi đi ngủ, dùng một ly nhỏ (30 ml). Ngoài ra, kinh nghiệm điều trị còn cho thấy sử dụng nhãn sẽ rất hiệu quả trong các trường hợp sau: Trị tiêu chảy do tì hư (30 quả long nhãn khô cùng 3 – 5 lát gừng tươi. Dùng hai thứ nấu nước để uống trong ngày); chữa suy nhược thần kinh (long nhãn và khiếm thực, mỗi thứ 20 g, nấu lấy nước uống); chữa chảy máu do chấn thương (dùng hạt long nhãn khô tán mịn rồi đắp lên vết thương); chữa phỏng (lấy vỏ trái nhãn khô tán thành bột rồi trộn với dầu vừng, bôi lên chỗ phỏng). Do hiện có một số người sử dụng lưu huỳnh hoặc hóa chất bảo quản để giữ tươi nên khi mua nhãn, chọn loại có cuống còn xanh, không mua những nhãn có vỏ trắng sạch, đã rụng cành hoặc có dấu hiệu thối nhũn. Mua nhãn về nên hòa muối vào nước sạch để rửa. Khi ăn tuyệt đối không được cho nhãn vào miệng cắn, bởi vỏ nhãn có nhiều nấm, mốc và vi khuẩn, thậm chí có cả hóa chất. Theo NLĐ
-
Bạn vui lòng xem tứ trang 2 về cách thức đăng ký hoặc chuyển tiền.
-
:D :D
-
Bệnh viện Trung Quốc đổ sập vì 'hố địa ngục' Tại phòng khám trong một bệnh viện ở tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, đổ sập vì hai "hố địa ngục" bỗng dưng xuất hiện trên đường sáng qua. "Hố địa ngục" xuất hiện giữa đường phố ở thành phố Thái Nguyên, Sơn Tây. Ảnh: News.china.com Hai hố này sâu tới 8m và rộng tới 15m. Một hố có thể nuốt chửng hai chiếc xe buýt, news.hexun.com cho biết. Ảnh: News.china.com Tòa phòng khám của bệnh viện nhân dân tỉnh Sơn Tây bắt đầu nứt ra và sụt dần. Ảnh: News.china.com. Tòa nhà của bệnh viện nhân dân tỉnh Sơn Tây từ từ sụp xuống lúc 9h20. Rất may, toàn bộ bệnh nhân và nhân viên trong bệnh viện đã sơ tán kịp và không ai bị thương. Ảnh: news.hexun.com. Hiện trường gần vụ sập tòa nhà đã bị phong tỏa. Ảnh: news.hexun.com. Nguyên nhân khiến hai chiếc hố này xuất hiện được cho là rò rỉ đường ống dẫn nước ngầm tại đây. Ảnh: news.hexun.com. nguồn vnexpress.net
-
Hòa nhịp cùng anh linh sông núi 1.000 năm - Kỳ 1: “Lội” ngược dòng 1.000 năm lịch sử… Sự kiện 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội là một sự kiện lớn của đất nước, nên người trẻ Việt Nam cũng có cơ hội để trải nghiệm lịch sử và làm một cái gì đó cho Hà Nội ngày nay, Thăng Long xưa đẹp hơn, rỡ ràng hơn với một niềm tự hào vô biên… Lịch sử ghi rằng: Sông Hồng khi xưa ăn thông với hồ Xác Cáo (còn có các tên là hồ Trâu Vàng, hồ Lãng Bạc, hồ Đạp Hối...), điểm nối kết là ở Cửa Sông - Bãi Sậy (tức hồ Trúc Bạch ngày nay). Năm 1010, Vua Lý Công Uẩn chèo thuyền ngược sông Hồng tới đây thì nhìn thấy một con Rồng bay lên, cho là có điềm tốt. Người ban Chiếu dời đô… "Lội" ngược dòng 1.000 năm để rồi hôm nay nhiều người vẫn chưa hình dung hết lịch sử của ngày dời đô. Chính vì vậy Giác Ngộ đã có những lục lọi, tìm tòi về cội nguồn 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội… Mùa thu năm ấy… Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên nhắc lại lịch sử trên Tuổi Trẻ ngày 29-4 rằng: "Ngày 10-10 được chọn tổ chức Đại lễ kỷ niệm, chứ không phải là ngày kỷ niệm. Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Đại La là vào "mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất, 1010" (Đại Việt sử ký toàn thư). Tôi sợ trước hết, khi đại lễ xong rồi, đồng hồ đếm ngược đã dừng, thì biết đâu ngày 10-10 sẽ vô tình khiến nhiều người, nhất là lớp nhỏ và lớp trẻ, tưởng là ngày Lý Thái Tổ dời đô. Chuyện này khi đồng hồ mới dựng lên cách đây hơn ba năm trước, một số nhà sử học đã lên tiếng nhưng việc đã rồi". Quả thật nỗi lo ấy của ông Phạm Xuân Nguyên là có thật bởi khi phóng viên Giác Ngộ hỏi một số bạn trẻ, thậm chí là những bạn đang học các ngành khoa học xã hội cũng "bó tay" với sự thật của lịch sử là Lý Thái Tổ dời đô vào tháng 7. Bạn T.D. (khoa Địa lý, ĐH KHXH&NV TP.HCM) cho biết: "Theo mình biết thì tháng 10 chúng ta sẽ làm lễ kỷ niệm nghĩa là tháng 10 là tháng mà Lý Thái Tổ dời đô". Suy đoán thông qua ngày được chọn (ngày 10-10) của các bạn trẻ đúng theo logic học bởi chính các cơ quan tuyên truyền về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội có một phần lỗi trong chuyện này: rất hiếm khi nhắc đến sự kiện lịch sử: mùa thu, tháng 7, năm Canh Tuất, 1010, Lý Thái Tổ dời đô. Trở lại mùa thu năm ấy bằng lịch sử, chúng tôi tìm được nội dung một đoạn Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ: "Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Ðại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không đổi dời. Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?". Nhà vua đã "hỏi ý đại thần và muôn dân" trong việc hệ trọng của đất nước và cuối cùng Lý Thái Tổ đã thuyết phục được thần tử và trăm họ. Đô được dời từ Hoa Lư về Đại La và được đổi tên thành Thăng Long. Thành Thăng Long khi ấy chỉ vỏn vẹn có 4km vuông, ở phía Nam và Đông nam hồ Dâm Đàm. Để tránh cho kinh thành khỏi bị lũ lụt uy hiếp hàng năm và để tránh cho các làng mạc thôn xóm vùng hạ lưu sông khỏi bị lũ lụt phá hủy mùa màng, một công trình thủy lợi vĩ đại đã diễn ra trong hai triều đại nhà Lý và nhà Trần. Gần 2.000km đê đã mọc lên, cứu đồng bằng Bắc Bộ thoát khỏi lũ lụt. Tại kinh đô Thăng Long, con đê đã ngăn cách sông Hồng với hồ Dâm Đàm. Sang thời Hậu Lê, đê Mã Canh nối từ Yên Quang tới Yên Phụ (tức đường Cổ Ngư, đường Thanh Niên sau này) đã được tạo ra để ngăn nốt mối liên hệ giữa hồ Dâm Đàm với cửa sông Bãi Sậy, hình thành hồ Trúc Bạch tách hẳn khỏi Hồ Tây như ta thấy ngày nay. Để hậu nhân hiểu hơn về cội nguồn Sau khi nghe chúng tôi tiết lộ rằng vua Lý Thái Tổ dời đô vào tháng 7 thì nhiều bạn trẻ mới giật mình: "Ủa, vậy sao lại làm lễ kỷ niệm vào tháng 10?". Câu hỏi được trả lời như nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên thì đó là ngày được ấn định theo tinh thần chung của quốc gia, không phải là ngày kỷ niệm. Làm sao để người trẻ hôm nay hiểu hơn về cội nguồn như lịch sử? Bạn Nguyễn Vĩ Nhân đề nghị: "Các phương tiện thông tin đại chúng phải "nói thêm cho rõ" lịch sử dời đô của Thăng Long - Hà Nội, nếu không tôi tin nhiều bạn trẻ sẽ nhầm lẫn". Bạn Hoàng Thị Lụa, sinh viên Trường ĐH Tôn Đức Thắng chia sẻ: "Em nghĩ các bạn trẻ cũng cần phải chủ động tìm kho lịch sử trên mạng internet, có rất nhiều thông tin trên các trang web như www.1000namthanglonghanoi.vn, www.thanglong.chinhphu.vn, www.cinet.vn...". Như vậy, để tìm về cội nguồn dân tộc đòi hỏi sự thông tin đủ, đúng từ phía các cơ quan truyền thông, từ Ban Tổ chức Lễ hội 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, đồng thời vai trò cá nhân cũng hết sức quan trọng. Một trong những tờ báo có chuyên mục 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội sớm nhất là tuần báo Giác Ngộ, nhiều tháng qua đã thông tin đến bạn đọc nhiều cứ liệu lịch sử quý báu mà theo nhận xét của bạn đọc Ngô Tùng Châu ở Q.Bình Thạnh, TP.HCM: "Chúng tôi rất hài lòng khi mỗi tuần mở báo Giác Ngộ lại tìm thấy một bài viết thú vị về lịch sử 1.000 năm của dân tộc, những dấu tích còn lại…". Lời khen ấy được Ban Biên tập trang báo đón nhận như một lời khích lệ nhưng cũng cảm thấy chưa hài lòng lắm với những gì mình đã làm được bởi vẫn còn nhiều cứ liệu lịch sử, thông tin, con người… liên quan đến dấu tích Thăng Long - Hà Nội mà Giác Ngộ chưa khai thác hết, chưa có điều kiện tiếp cận. Tất nhiên, hành trình "lội" ngược dòng 1.000 năm để làm sống dậy lịch sử trong thế hệ hôm nay là một việc làm không đơn giản. Nó đòi hỏi sự bền bỉ mà không chỉ làm trong một vài năm, hoặc một vài tháng trước khi diễn ra Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội mà cần làm lâu dài, hậu kỷ niệm… "Lịch sử trong dòng chảy ngồn ngộn của hiện đại với quá nhiều thứ tác động đã làm người ta thường dễ bỏ qua những điều thú vị về quá khứ. Nhắc lại để người trẻ và thế hệ hôm nay hiểu chính xác về tổ tiên cũng là cách nuôi dưỡng tình yêu non sông, đất nước…", TS Đinh Phương Duy bộc bạch!. MẠNH KHÔI nguồn giacngo.vn
-
Không cần kỷ thuật cao, chỉ cần độ chính xác cao!
-
VN cũng có PuTin, bạn không để ý đó thôi! Tác phong nhân cách như một, chỉ có vị trí chưa ngang bằng, Vị này là một giám đốc Sở của Tp HCM.
-
“Sát thủ” ở sông Sài Gòn. – “Nó ăn như hạm đội. Hình như nó không biết no, cứ bỏ con tôm, con cá nào vào là nó liền xé thịt nhai ngấu nghiến” anh Khanh, dân chài trên sông Sài Gòn kinh hãi, kể. Chiều rằm tháng 6/2010, trong đám đông đi viếng chùa Diệu Pháp (phường 13, quận Bình Thạnh, TP.HCM) có một cô gái trẻ, mặt buồn rười rượi ghé điểm bán cá - rùa trước chùa mua mấy con rùa nhỏ xinh rồi thả xuống sông Sài Gòn. Không ngờ, con vật tưởng chừng tội nghiệp mà cô vừa phóng sinh chính là rùa tai đỏ - một loài rùa sát thủ. “Hung thần mặt đỏ” “Dân chài tụi tui gọi rùa tai đỏ là “hung thần mặt đỏ” hoặc “rùa má đỏ”. Loài rùa này giờ ở sông Sài Gòn nhiều lắm. Hình như nó xuất hiện càng nhiều thì tôm cá càng ít đi”, anh Huỳnh Văn Khanh (nhà ở phường An Phú Đông, quận 12) tặc lưỡi. Cô gái vô tình thả rùa tai đỏ ra sông. Ảnh: Thiếu Huyền Anh Khanh kể, cách đây hơn 1 năm, lần đầu tiên bắt được một con rùa tai đỏ thấy đẹp đem về nuôi nhưng chỉ được vài ngày đã phát hoảng nên cho người khác. Sau đó, người này cũng hoảng quá nên thả ra sông Sài Gòn. “Nó ăn như hạm đội. Hình như nó không biết no, cứ bỏ con tôm con cá nào vào là nó liền xé thịt ăn nhai ngấu nghiến", anh Khanh kinh hãi, kể. Rùa tai đỏ (trên đầu có 2 vệt đỏ) rất hung dữ, lúc đói chúng xơi thịt cả đồng loại. (Trong ảnh: rất nhiều rùa tai đỏ ở chùa Ngọc Hoàng). Ảnh: Thiếu Huyền. Gần đây, nhiều hôm, thả lưới từ mờ sáng đến tối mịt nhưng anh Nguyễn Văn Thuận, dân chài ở sông Sài Gòn ( đoạn gần bán đảo Thanh Đa, Q. Bình Thạnh) cũng chỉ bắt được mấy con cá sát. Nhìn lũ con nheo nhóc ngồi đợi cơm trên thuyền, anh thở dài thườn thượt: “Thả lưới giờ thất bát quá. Nước sông càng ngày càng dơ, cá tôm thì biến đi đâu hết sạch. Thả lưới trúng chỗ có rùa má đỏ, cá lau kính, thì coi như công cốc”. Ông Trần Đình Vĩnh, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng và Bảo vệ nguồn lợi Thuỷ sản TP.HCM nói, hiện chưa có đơn vị nào khảo sát, đánh giá về số lượng rùa tai đỏ ở sông Sài Gòn cũng như sự tàn phá của nó. Tuy nhiên, theo ông Vĩnh sự xuất hiện của rùa tai đỏ đang đe dọa đến sự đa dạng sinh học của sông Sài Gòn. Thả lưới cả ngày nhưng anh Thuận, dân chài ở sông Sài Gòn chỉ bắt được mấy con cá sát. Ảnh: Nhật Tân. Theo khảo sát của một nhóm sinh viên trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, hiện tại chùa Quan Âm (Q. 5), chùa Ngọc Hoàng ( Q. 1), chùa Giác Huệ (Q. 7), chùa Một Cột (Q. Thủ Đức) ... đang lưu giữ rất nhiều rùa tai đỏ do người dân mang đến phóng sinh. Chỉ riêng chùa Ngọc Hoàng số rùa tai đỏ đã lên đến hàng ngàn con. Hàng tháng theo âm lịch, vào các ngày rằm, mùng một, rất nhiều người mang rùa tai đỏ thả ra sông Sài Gòn để phóng sinh. “Thuỷ quái” mặt đen Chẳng đắn đo nhiều, ông Ba Kính, dân chài (nhà ở phường Hiệp Bình Chánh, Q. Thủ Đức) quyết định bán chiếc ghe đã gắn bó gần cả đời với ông. “Dân chài bây giờ mạt nghiệp rồi, sông Sài Gòn có còn con tôm, con cá nào đâu mà bắt. Mấy tháng rồi, ngày nào thả lưới ngoài đụng "cá quỷ" cũng chỉ được mấy con cá sát, bán được hơn chục ngàn đồng”, ông Kính ngao ngán. Một người dân chài bắt được cả đống cá lau kính. Giống cá này có hai bọc trứng nên sinh sản rất nhanh. Ảnh: Nhật Tân. Dù đã bỏ nghề, nhưng ông Kính vẫn còn ám ảnh khi nói về cá lau kính trên sông Sài Gòn. Ông gọi loài cá này là “cá quỷ” vì nó đen xì xì trông rất gớm ghiếc. Do bắt được cá lau kính bán cũng chẳng ai mua nên mỗi lần thả lưới trúng lũ cá này, ông Kính thường đập đầu cho đến chết rồi treo lơ lửng trên mấy cây dừa nước trên sông cho hả giận. Ám ảnh lũ cá lau kính nên mỗi khi bắt được, ông Ba Kính (trái) thường đập chết treo lên cành cây cho hả giận. Ảnh: Nhật Tân. Nhiều lần, theo ghe dân chài thả lưới ở sông Sài Gòn ( khu vực từ cầu Bình Lợi đến cửa sông Vàm Thuật) chúng tôi cũng nổi da gà khi thấy “cá quỷ” mắc lưới nhiều vô số kể. Có người, trong một ngày bắt được cả trăm con. TS Nguyễn Tuần, Viện nghiên cứu và nuôi trồng Thuỷ sản II, cho rằng, rùa tai đỏ và cá lau kính là sinh vật ngoại lai cực kỳ nguy hiểm, sự tàn phá của chúng cũng chẳng khác nào ốc bươu vàng. Song! không chỉ có cá lau kính, rùa tai đỏ, trên các con sông ở Sài Gòn còn có nhiều “sát thủ” khác. Không chỉ ăn tôm cá và những sinh vật nhỏ hơn, rùa tai đỏ còn xơi thịt cả đồng loại. Chính bản chất, hung dữ, ăn tạp và sinh sản cực nhanh nên tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế đã đưa loài rùa này vào danh sách 100 loài xâm hại nguy hiểm nhất thế giới. Cá lau kính cũng là loài ăn tạp và sinh sản rất nhanh. Dù không ăn thịt các loài cá khác nhưng chúng thường ăn hết thức ăn ở khu vực chúng sinh sống nên chỗ nào có chúng, những loài cá khác cũng khó tồn tại. Theo Chi cục Quản lý chất lượng và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản TP.HCM, rùa tai đỏ và cá lau kính nhập vào TP.HCM bằng con đường “tiểu ngạch”, chủ yếu do người đi du lịch mang từ các nước về. Ban đầu,chúng được nuôi làm kiểng,nhưng sau đó người dân thấy chán nên thả ra sông. Thiếu Huyền - Nhật Tân nguồn vietnamnet.vn
-
Mời xem xiếc ! http://www.flixxy.com/worlds-fastest-magician.htm
-
Chuyện vặt ở đám tắc đường Tắc đường cũng hệt như tắc một cái cống nước. Dòng người đang “chảy” từ từ trên đường, như một thứ chất lỏng mà càng đến gần giờ tan tầm càng đặc sánh lại. Thế rồi bất đồ, chỉ vì một thứ hết sức bé nhỏ ngáng qua đường thôi - tương tự như một chùm tóc rối mắc vào miệng cống - có thể là một chiếc xe máy vượt ẩu, một chiếc xe sọt thồ lấn đường, hay tệ hơn là một vụ va quệt nho nhỏ..., thế là cả khối chất lỏng ấy đông cứng lại thành một cái nút kinh hoàng. Hôm nay cũng thế. Tất cả chỉ vì một chiếc xe máy từ trong ngõ nhao ra tạo thành một mũi “đột phá khẩu” vào giữa dòng xe khổng lồ đang lừ lừ chuyển dịch. Tất cả đều bị kẹt cứng. Cả tuyến đường đều kẹt cứng. Không ai có thể nhúc nhắc được. Cũng như một nhúm tóc trên miệng cống, nếu được gỡ ngay ra thì dòng nước lại chảy bình thường. Tắc đường cũng thế, phải gỡ từ chiếc xe máy đầu tiên gây tắc ấy. Mỗi người nhường một tí sẽ tống khứ được nó sang làn đường bên kia, tự nhiên đường sẽ thông ngay và ai cũng được về nhà sớm. Nhưng ai sẽ là người gỡ? Mọi người đều cau có nhăn nhó, đều cố nhích lên, đều bóp còi inh ỏi. Và kết cục là đường đã tắc lại càng tắc. Phải chờ cảnh sát giao thông thôi. Nhưng cảnh sát giao thông chưa đến, và có thể không đến. Đúng lúc đó vị cứu tinh trên đường phố xuất hiện. Đó là một bác già, mặt đen nhẻm, quần áo xốc xếch, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chẳng hiểu sao bác ta kiếm đâu được một cái còi. Thổi toét một cái thị uy, bác ta nhảy ra giữa dòng đường, hô to: - Nhường nhau một tí nào, bà con ơi. Bà sọt thồ kia, bà lui xe xuống một tí nào. Cô Attila kia, xin cô đừng nhích lên nữa. Cả anh kia - bác ta chỉ thẳng vào mặt tôi - anh nhấc cái đuôi xe anh dẹp hẳn về bên này. Thế nhé, để cho cái cậu tóc vàng này đi trước đi. Cả cậu ở phía sau nữa, sang hết bên kia đường đi. Thế thế... “Nhúm tóc” đã được gỡ, và đã “trôi” được sang được làn đường bên kia. Bác ta lại chạy theo, hô hào mọi người không nống sang làn trái để cho chiếc xe ấy thoát hẳn. Một tay lái xe tải hùng hùng hổ hổ không chịu nhường đường, nhưng thấy bác ta tả xung hữu đột, xông lên tận cửa cabin cũng đành phải cho xe lui lại. Dòng xe cộ bắt đầu nhúc nhích được. Cảm thấy công việc của mình có hiệu quả, lại được mấy cô học trò trong đám kẹt xe vỗ tay hoan hô ầm ĩ, bác ta càng hăng hái muốn thể hiện hơn. Đứng giữa khoảng trống ngã ba, bác ta dang tay, dang chân tuýt còi điều khiển cả dòng xe. Hết làn này đến làn khác. Lúc đầu mọi người còn trật tự nghe theo lời bác ta, sau thấy đi lại đã thuận tiện hơn, họ lại chen lấn, xô đẩy. Mấy cô học trò đi xe đạp yếu thế, bị bẹp vào một góc không sao lách ra được. Tuýt còi chặn dòng xe lại không xong, bác ta lại xông lên dang hay tay chắn cả dòng xe để “giải cứu” cho đám học trò. Như cởi tấm lòng, đám học trò vừa đạp xe thoát ra vừa ngoái lại hô to nửa đùa nửa thật: Hoan hô vị cứu tinh xa lộ! Hoan hô! Chúng cháu cảm ơn bác nhiều! Tôi là người thoát ra gần như cuối cùng trong đám tắc đường hôm ấy, đơn giản vì tôi muốn nán lại quan sát người “thổi tù và hàng tổng” đáng kính này. Khi dòng xe cộ đã trở lại bình thường, bác ta mới kéo vạt áo đẫm mồ hôi trở lại chiếc xe máy của mình. Chiếc xe máy của bác đỗ trên lề đường, trên xe lỉnh kỉnh đồ đạc, ngồi phía sau xe là một cô bé bịt mặt kín mít, vai khoác cặp học sinh, chắc là con gái bác. Hẳn là bác ta đi đón con gái về đến đây, gặp cảnh tắc đường, mới xông ra làm “người hùng”. Bất ngờ, cô bé bỏ bịt mặt ra, chau mày nhìn bố, nói chỏng lỏn: - Bố vừa làm cái trò gì thế, như cái thằng hề giữa đường. Con thật xấu hổ với đám bạn! Bác ta lặng lẽ trèo lên xe, nhẫn nại nổ máy. - Đưa con về đi, muộn hết cả giờ học rồi! - cô bé gắt. Chiếc xe lặng lẽ đi trong buổi chiều nhập nhoạng. Phố xá vừa lên đèn. * * * Cuộc đời là như thế. Đôi khi xả thân vì việc nghĩa, được cộng đồng ủng hộ, nhưng về nhà lại bị chính thân thích mình cười chê. Theo Thể thao Văn hóa
-
Thời này mà có Lục Vân Tiên thì được xem là hăm!
-
Số phận thị nữ trong hậu cung Hồi giáo (kỳ 2) Việc có nhiều thê thiếp xuất hiện dưới sự cai trị của đế chế Caliphate, khi người Hồi giáo coi việc một người đàn ông có nhiều vợ đẹp là thước đo của sự giàu có cũng như quyền lực. Còn về mặt tôn giáo, nhà tiên tri Mohammed không cho phép đàn ông có quá 4 vợ để giảm thiểu chế độ đa thê. >> Chuyện "hậu cung" trong thế giới đạo Hồi Các thị nữ sống trong hậu cung ở Thổ Nhĩ Kỳ thường được mua từ những khu chợ nô lệ Hoàng gia rồi sau đó được đưa vào Hoàng cung. Tuy nhiên, chỉ những người con gái còn trinh tiết mới xứng đáng được bước chân vào khu vực này. Trong số các Odalik cũng có rất nhiều người xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Họ được dạy cách để trở thành người nổi bật trong đám đông như cách nháy mắt gợi tình hay có những cử chỉ lời nói thu hút được sự chú ý giữa hàng ngàn phụ nữ, vì Sultan sẽ không thể nhận ra một ai đó nếu họ không đặc biệt. Trong thế kỷ 19, hình ảnh các Odalik ở trong các hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ là một đề tài khá phổ biến đối với các họa sĩ châu Âu Sultan cũng có thể nhận những cô gái đẹp như một món quà bày tỏ lòng kính trọng đối với mình. Trong đó có trường hợp lãnh chúa Algeria Mohammed bin Osman đã dâng lên Sultan Selim III một phụ nữ người Pháp tên là Emma de Beauharnais, bà chính là em họ của vợ Napoleon Bonaparte đã bị những kẻ cướp biển bắt cóc. Để được đặt chân vào hoàng cung của Thổ Nhĩ Kỳ, một nữ nô lệ buộc phải hoàn thành một bài kiểm tra sự trong trắng ngây thơ bằng cách bị bắt buộc phải ôm hôn một người đàn ông Hồi giáo. Các thị nữ (Odalik) được tuyển chọn từ tuổi 13, độ tuổi những bé gái bắt đầu dậy thì, trở nên xinh đẹp và đã đủ sức thu hút sự chú ý của các Sultan. Chính từ các Odalik mà người chủ hậu cung sẽ chọn ra 7 người làm vợ (gọi là Kadin). Họ sẽ là người gánh trọng trách sinh con trai nối dõi. Ở khía cạnh nào đó có thể hiểu việc bước chân vào một hậu cung cũng giống như trở thành một nữ tu, nơi những người phụ nữ sẽ dồn hết tâm trí trong quãng đời còn lại để phục vụ cho người người đàn ông của mình. Họ thường được miêu tả là những cô gái trẻ đẹp ở trong tư thế nửa trần, ngả mình trên đệm hoặc múa bụng biểu diễn trước các chủ nhân. Các Kadin và Odalik buộc phải cắt đứt mọi mối liên hệ với thế giới bên ngoài, được đặt tên mới và học cách sống biết vâng lời. Họ sẽ sống và sẽ chết ở chính nơi này. Các Odalik còn lại không có nhiều đặc ân từ Sultan và mỗi người trong số họ đều có ước vọng được trở thành Kadin. Để đạt được điều đó cũng không phải là không thể. Tất cả đều phụ thuộc vào tài năng và tính cách của các cô gái để giúp họ có thể leo lên bậc thang quyền lực cao hơn trong hệ thống phân cấp thứ bậc ở hậu cung. Nó không chỉ cần tới diện mạo đẹp đẽ mà còn cần tới trí thông minh, sự quyết tâm và sự khôn ngoan của các Odalik. Tuy nhiên, sự cạnh tranh ở mọi nơi đều giống nhau, ở hậu cung Hồi giáo cũng vậy. Những người phụ nữ Hồi giáo cũng bước vào một cuộc cạnh tranh với nhau một cách nghiêm túc và họ có thể dùng bất kỳ một thủ đoạn nào giúp họ đạt chiến thắng. Họa sĩ Jean Auguste Dominique Ingres của Pháp đã có hơn 100 bức tranh với chủ đề này. Mặc dù các Odalik là cấp bậc cao hơn một nô lệ nhưng họ vẫn chỉ được là phương tiện giải trí của các Sultan. Mọi chuyện chỉ thay đổi kể từ triều đại của Sultan Bayezid II (1481-1512) là người đã đưa một trong số các Odalik của mình lên hàng Kadin. Tuy nhiên trên thực tế, người phụ nữ này vẫn không có nhiều quyền lực so với 7 người Kadin (vợ) chính thức. Về mặt lý thuyết, một Odalik cũng không khác với một nô lệ nhưng họ có cơ hội được leo lên bậc thang danh vọng nếu sinh được một đứa con trai. Với đứa con, các Odalik sẽ được hưởng những đặc quyền cao quý khác. Nhưng cơ hội như thế cũng không phải là nhiều. Bởi nguyên nhân đầu tiên là, nếu sống trong hậu cung cùng 1.000 Odalik khác thì cơ hội được chú ý và được quan hệ với Sultan không phải là nhiều. Thứ hai, một khi nếu Sultan có đoái hoài tới họ thì xác xuất mang thai chỉ trong một lần quan hệ cũng không lớn và hơn nữa cũng không tránh khỏi khả năng có thể bị sảy thai. Tranh của Jean Auguste Dominique Ingres giống như vẽ về một Ba Tư thu nhỏ với những màu sắc mang đậm phong cách phương Đông Và dù nếu may mắn có con trai đi ữa thì những "hòn máu" của các thị nữ sẽ rất khó được lên ngôi bởi chúng phải xếp hàng sau so với những hoàng tử chính thất khác. Ngoài ra, còn có một bảng xếp hạng dành riêng cho các Odalik nữa và nó có thể thay đổi bất kỳ lúc nào phụ thuộc vào tâm trạng của Sultan. Hậu cung lớn nhất trong lịch sử Hồi giáo là hậu cung Dar-ul-Seadet ở Istanbul nơi từng có tới hơn 1.000 cung tần mỹ nữ cùng sinh sống. Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều âm mưu, nhưng những Odalik mang thai sẽ được bảo vệ cho tới khi sinh nở thành công. Họ sẽ nhận được sự phục vụ tốt nhất bởi những người nô lệ là "thái giám" và những kẻ hầu cận khác. Tuy nhiên, đối với những người phụ nữ ở bậc dưới trong hậu cung họ rất ít được hưởng hạnh phúc. Ví dụ như họ chỉ có rất ít quyền hạn và sau nhiều năm phục vụ cũng như tôn thờ chồng một số rất ít có thể được trả tự do với một số tiền chỉ tạm đủ sống. Khi Sultan chết, tất cả các phi tần sẽ được sắp xếp lại vị trí theo giới tính của con cái họ. Mẹ của một công chúa có thể tái giá nhưng mẹ của hoàng từ thì nhất quyết sẽ được giữ lại để tiếp tục phục vụ cho chủ nhân mới của gia đình Sultan. Vì vậy nó lại nảy sinh một cuộc chiến mới. Các bà mẹ có thể dùng thuốc độc trộn vào thức ăn để hạ gục đối thủ cũng như con trai của họ. Theo Đức Thành VTC
-
Các nước họ có truyền thống duy trì và trùng tu di tích là quan tâm hàng đầu, chỉ có con người và thế hệ thay đổi. Có thể đây là di tích cũ còn lại?
-
Đấy là lý do: Phàm ở đời làm việc gì lớn nhỏ cũng cần một chữ Duyên và hai chữ Mệnh Trời.
-
Thưa SP! ý Wild nói 100,000 usd là mưa vừa và nhỏ, không ảnh hưởng Đại Lễ thôi, cũng đủ cho thế giới quan tâm và báo chí tròn xoe trước điều này đưa vào chuyện lạ thì chỉ có ngồi một chỗ mà kiểm tra TK với những hợp đồng béo ngậy thừa tiền đi hết chiều dài đất nước làm Từ Thiện.
-
Xác nhận có 500,000 đ(năm trăm ngàn đồng) của nhanqua đóng góp cho QTT. Quỹ hiện có: 5,429,000 đ+500,000 đ= 5,929,000 đ( năm triệu chín trăm hai mươi chín ngàn đồng)