-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Nhận được câu hỏi của ban, cho một quẻ tốt! bạn đừng chần chờ gì nữa mà nắm lấy cơ hội. Dù thời gian đầu có làm bạn bỡ ngỡ, chật vật âu lo trong c/việc mới nhưng đường dài bạn có nhiều hướng thuận tiện. Không e ân hận vì thay đổi mà chỉ e mình không biết nắm thời cơ. Chúc bạn may mắn!
-
MẸ! Trong tâm tưởng muộn màng con viết, Lời cầu mong còn Mẹ mãi trên đời! Tôi muốn nói với tất cả những ai đang còn Mẹ, hãy quay về hãy yêu thương không bao giờ đủ vì ngày Mẹ đi xa ta không thể cúi xuống trãi lưng mình ra để cõng Mẹ lên trời. Mẹ đi đâu thế nào ta suốt đời tìm câu hỏi ấy!
-
Một hành động bình thường nhỏ nhoi đôi khi chứa đựng một tấm lòng rộng lớn, ở phía bên kia người nhận sẽ nhận được 1 trái tim vĩ đại vì đã chia sẽ biển yêu thương. Trong cuộc sống tôi đã từng biết có những căn nhà thật to đẹp nhưng không còn đón tiếp họ hàng người thân thuộc cũng chỉ bởi vì nhà to nhưng lòng lại hẹp. Nhà rất gần nhưng lòng thì xa nên chẳng bao giờ còn đến với nhau được nữa! :D
-
Đến nay baotran509 chưa vào được lớp sao? Chỉ trục trặc một ngày thôi mà! Bt có thể cho biết bạn chưa vào lớp được buổi nào phải không?
-
Giảng Giải Chú Đại BiXEM KINH VỚI LÒNG THÀNH Kẻ hậu học khi xem kinh, nên có tâm thái như sau: ba nghiệp tâm, khẩu, ý phải được thanh tịnh. Ba nghiệp trên được lắng trong thì phước huệ tròn đầy. 1. Nên thẳng mình ngồi ngay như ngồi trước đức Phật. Đó là thân nghiệp được thanh tịnh. 2. Miệng không nói lời sai trái, không cười đùa. Đó là khẩu nghiệp được thanh tịnh. 3. ý không tán loạn, dứt sạch tâm phan duyên. Đó là thanh tịnh ý nghiệp. Khi tâm an tịnh thì ngoại cảnh lắng trong, đó là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập pháp lý. Khi nước lắng trong thì vẻ sáng của ngọc tự chiếu soi, mây tan trăng tự hiển bày, đại nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa. Thấu đạt ý kinh cũng chính là đến được đỉnh núi cao trí tuệ. Nếu hành giả muốn dễ thành tựu, phải gieo trồng Đại nguyện. Khi tâm, pháp đều quên, thì mình cùng pháp giới chúng sinh đều chung lợi lạc. Có được như thế mới mong báo đáp ân sâu của Chư Phật. CHÚ ĐẠI BI (Phần kinh văn ) 1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát tả 10. Nam mô tất kiến lật đỏa y mông a lị da 11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà 12. Nam mô na ra cẩn trì 13. Hê rị ma ha bàn đà sa mế 14. Tát bà a tha đậu du bằng 15. A thệ dựng 16. Tát bà tát đá, na ma bà tát đa (*) na ma bà già (*) Các bản hiện đang lưu hành, được trì tụng rộng rãi ở Việt Nam thiếu năm chữ này. 17. Ma phạt thị đậu 18. Đát điệt tha, án 19. A bà lô hê 20. Lô ca đế 21. Ca ra đế 22. Di hê rị 23. Ma ha bồ đế tát đỏa 24. Tát bà tát bà 25. Ma ra ma ra 26. Ha hê ma hê, rị đà dựng 27. Cu lô cu lô yết mông 28. Độ lô độ lô phạt già ra đế 29. Ma ha phạt già ra đế 30. Đà la đà la 31. Địa lỵ ni 32. Thất phật ra da 33. Giá ra giá ra 34. Ma ma phạt ma ma 35. Mục đế lệ 36. Y hê di hê 37. Thất na thất na 38. A ra sam phật ra xá lợi 39. Phạt sa phạt sam 40. Phật ra xá da 41. Hô lô hô lô ma ra 42. Hô lô hô lô hê rị 43. Ta ra ta ra 44. Tất lỵ tất lỵ 45. Tô rô tô rô 46. Bồ đề dạ - bồ đề dạ 47. Bồ đà dạ - bồ đà dạ 48. Di đế rị dạ 49. Na ra cẩn tri 50. Địa lỵ sắt ni na 51. Ba dạ ma na 52. Ta bà ha 53. Tất đà da 54. Ta bà ha 55. Ma ha tất đà dạ 56. Ta bà ha 57. Tất đà du nghệ 58. Thất bàn ra dạ 59. Ta bà ha 60. Na ra cẩn trì 61. Ta bà ha 62. Ma ra na ra 63. Ta bà ha 64. Tất ra tăng a mục khư da 65. Ta bà ha 66. Ta bà ma ha a tất đà dạ 67. Ta bà ha 68. Giả cát ra a tất đà dạ 69. Ta bà ha 70. Ba đà ma yết tất đà dạ 71. Ta bà ha 72. Na ra cẩn trì bàn đà ra da 73. Ta bà ha 74. Ma bà lợi thắng yết ra dạ 75. Ta bà ha 76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 77. Nam mô a lị da 78. Bà lô kiết đế 79. Thước bàn ra dạ 80. Ta bà ha 81. Án tất điện đô 82. Mạn đà ra 83. Bạt đà dạ 84. Ta bà ha KỆ TỤNG CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUYÊN HÓA Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì Chấn động tam thiên thế giới thì Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa Từ bi phổ độ Diêm phù đề http://tinhdo.net/luangiaikinhsach/47-gian...bi.html?start=1
-
Vãng sanh quyết định chơn ngôn. Vãng sanh quyết định chơn ngôn hay Vãng sanh Tịnh độ thần chú là mật ngôn được trì niệm phổ biến trong các khóa lễ Tịnh độ, cầu siêu. Thần chú này có tên đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ Đà la ni. Cứ vào tên của Đà la ni (Tổng trì, thâu nhiếp vạn pháp, tạm gọi là chơn ngôn hoặc thần chú) cho biết thần chú này có công năng phá trừ tất cả nghiệp chướng căn bản, để được vãng sanh về Cực lạc. Theo kinh Niệm Phật Ba la mật, phẩm thứ 7 (HT.Thích Thiền Tâm dịch), Bồ tát Phổ Hiền vì thương xót chúng sanh thời mạt pháp nên nói Đà la ni này để trợ duyên được mau vãng sanh về Tịnh độ: “Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà la ni này để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực lạc, gọi là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ Đà la ni. Liền nói chú rằng: Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha Đức Phật A Di Đà - Ảnh tư liệu Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh tịnh. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng 21 biến. Như vậy, diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng Chánh pháp. Thường được Phật A Di Đà hiện trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Khi trút hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sanh. Trì tụng đến ba chục ngàn biến liền thấy Phật ngay trước mặt”. Xưa nay, phần lớn những hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ thường trì niệm thần chú Vãng sanh theo phiên âm tiếng Hán. Chúng ta có thể trì niệm theo nguyên văn tiếng Phạn (đã phiên âm) và tìm hiểu đôi chút về “ý nghĩa” của thần chú này. - Namo Amitàbhàya (Na-mô A-mi-ta-pha-gia) Nam mô A di đa bà dạ Quy mạng Vô Lượng Quang (A Di Đà) - Tathàgatàya (Ta-tha-ga-ta-gia) Đa tha già đa dạ Như Lai - Tadyathà (Ta-di-gia-tha) Đa điệt dạ tha Nên nói thần chú - Amrto dbhave (A-mờ-rật-tô đờ-pha-vê) A di rị đô bà tỳ Cam lộ hiện lên - Amrta sambhave (A-mờ-rật-ta sam-pha-vê) A di rị đa tất đam bà tỳ Cam lộ phát sinh - Amrta vikrànte (A-mờ-rật-ta vi-kờ-răm-tê) A di rị đa tỳ ca lan đế Cam lộ dũng mãnh - Amrta vikrànta gamini (A-mờ-rật-ta vi-kờ-răm-ta ga-mi-ni) A di rị đa tỳ ca lan đa già di nị Đạt đến Cam lộ dũng mãnh - Gagana kìrtti kare (Ga-ga-na kít-ti ka-rê) Già già na, chỉ đa ca lệ Rải đầy hư không - Svàhà (Sờ-va-ha) Ta bà ha Thành tựu cát tường. Như vậy, Bồ tát Phổ Hiền trong pháp hội tại Linh Sơn đã vì chúng sanh đời mạt pháp về sau mà xin phép Thế Tôn tuyên thuyết thần chú Vãng sanh. Theo lời dạy của Bồ tát, nếu có người nào phát nguyện sanh về Cực lạc nhưng vì phước mỏng nghiệp dày, niệm Phật chưa đạt đến nhất tâm thì có thể nương nhờ công đức của thần chú Vãng sanh để được như nguyện. Hành giả thực hành trai giới, giữ ba nghiệp: thân, miệng, ý thanh tịnh; mỗi ngày trì niệm 6 thời, mỗi thời 21 biến thì chắc chắn tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, cho dù là ngũ nghịch hay thập ác tội chướng. Thần chú Vãng sanh có tầm quan trọng như thế, nên người tu pháp môn Tịnh độ luôn trì niệm nhằm thú hướng Lạc bang. Nhiên Tự nguồn giacngo.vn
-
Đây cũng là một sự đóng góp đáng quan tâm, đề nghị BQT lưu ý những yêu cầu trên của Redhat và ACE Hv khác, có thể Ban Điều hành Lớp nên nghiên cứu phương án tốt nhất và thuận lợi tạo điều kiện cho các trường hợp nhiều chiện ở trên.
-
-
Lễ hội của trái Tim. Thêm một lần nữa mùa Báo hiếu Vu lan lại về! Vu lan về là dịp để cho toàn thể mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, trí thức, nông dân, thắp sáng ngọn đèn yêu thương đang âm ỉ cháy trong trái tim của mỗi người. Chúng ta có thể gọi Vu lan là "Lễ hội của trái tim"; bởi lẽ, trong giờ phút thiêng liêng này con tim của mọi người cùng đập chung một nhịp, đôi mắt cùng nhìn về một hướng, tâm tư cùng nhớ nghĩ về những bậc ân nhân lớn nhất trong cuộc đời mình: Mẹ và cha! Nhớ nghĩ về mẹ cha là để yêu thương và để được yêu thương! Yêu thương mẹ cha bởi vì người đã ban tặng cho chúng ta sự sống thiêng liêng để được hiện hữu trong cuộc đời này! Yêu thương mẹ cha, vì người đã trao cho chúng ta một gia tài trí tuệ để nhận chân được giá trị của cuộc đời! Yêu thương mẹ cha, vì người đã tặng chúng ta một trái tim nhân ái để nuôi dưỡng mạch nguồn của sự sống! Chúng ta cũng có thể gọi Vu lan là lễ hội tình người, vì hiếu tâm là gốc rễ của tất cả tình cảm tốt đẹp trong cuộc đời, là căn bản của mọi điều thiện. Dường như thi hào Nguyễn Du - danh nhân văn hóa thế giới - cũng quan niệm như thế nên đã viết rằng: " Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay " 1 Có thể nói rằng Vu lan là một trong những hoạt động quan trọng và có ý nghĩa nhất trong các lễ hội của loài người, bởi lẽ không có nền văn hóa, văn minh nào của nhân loại không ca ngợi tình cha, nghĩa mẹ! Không có quốc gia, xứ sở nào lại không giáo dục công dân của mình phải nhớ đến ân nghĩa sinh thành. Đối với người Á Đông, đặc biệt là người Việt Nam, hiếu đạo hay tinh thần tri ân báo ân này đã trở thành đức tính tự nhiên, lưu chuyển trong mạch sống người Việt. Hiếu đạo đã ăn sâu vào tâm khảm của mỗi con người, từ lúc cất tiếng chào đời cho đến khi trăm tuổi. Dĩ nhiên, phẩm chất cao đẹp và thiêng liêng ấy không phải tự nhiên mà có, mà chính là sự kết tinh của một truyền thống văn hóa được un đúc từ lâu đời, và được truyền trao lại con cháu, xứng hợp với phong tục tập quán, bản tính của người Việt. Do vậy, cái gì đi ngược lại với nghĩa sống này, sẽ bị mọi người chối bỏ. Mặc dù thế, có rất ít tôn giáo trên hành tinh này đề cập đến đạo hiếu; thậm chí một số tôn giáo còn cấm thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Vì lý do này, nhiều tôn giáo ngoại nhập đã gặp không ít trở ngại khi truyền bá sang châu Á, cụ thể là Trung Quốc, Việt Nam... Trái lại, từ lúc xuất hiện cho đến nay, đạo Phật du nhập vào xứ sở nào cũng được nhiều người chấp nhận. Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XX trở đi, đạo Phật đang được con người của nhiều dân tộc trên thế giới hân hoan chào đón và xem như là một lý tưởng sống cao đẹp, hội đủ cả hai yếu tố vật chất và tâm linh. Nguyên nhân chủ yếu là giáo lý Phật giáo được xây dựng trên nền tảng nhân bản, gắn liền đời sống vật chất với tinh thần, đời với đạo, cá nhân với gia đình, tôn giáo và quốc gia xã hội. Tại Việt Nam, trải qua hơn 2.000 năm cùng tồn tại và phát triển, giáo lý Phật giáo và tư tưởng Việt Nam đã có sự gặp gỡ và tương đồng trong nhiều lãnh vực liên hệ đến triết lý sống, đặc biệt là quan niệm về hiếu đạo. Nếu người Việt cho rằng cha mẹ còn sống như Phật còn sống 2, thờ quỷ thần, trời đất không bằng thờ cha mẹ; Phật giáo cũng dạy cha mẹ là đấng thần linh cao nhất trong các loại thần linh 3. Cả Phật giáo và văn hóa Việt cùng chủ trương rằng ân cha nghĩa mẹ như là núi cao biển rộng, khó có thể nghĩ bàn, khó có thể so sánh. Chín tháng cưu mang, ba năm nhũ bộ, thức khuya, dậy sớm, tảo tần nắng mưa để lo lắng cho con từ khi con lọt lòng đến lúc cha mẹ nhắm mắt là công ơn khó đền trả. Sự hy sinh một cách thầm lặng từ vật chất đến tinh thần để đàn con trẻ có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, thành đạt là một việc làm khó ai có thể kham chịu được, ngoại trừ hai đấng sinh thành. Vì lý do này, Đức Phật tuyên bố rằng có hai hạng người không thể trả ơn: Đó là mẹ và cha 4. Do vậy, hiện thực hóa tâm hiếu, đạo hiếu trong cuộc sống hàng ngày chính là cách tốt nhất để mọi người đáp đền ơn nghĩa muôn một của mẹ cha. Qua việc làm này người ta còn có thể từng bước hoàn thiện được phẩm chất tốt đẹp của một con người chân chính như lời kinh sau đây: "Này các Tỷ kheo, thế nào là chân nhân? Đó người biết tri ân và báo ân" 5. Thêm vào đó, không một ai trong tất cả chúng ta lại không mong ước con cái mình sẽ là những người hiếu thảo. Muốn được như thế, tự thân mỗi chúng ta phải là những người con có hiếu, là những người luôn thể hiện được tinh thần báo hiếu - tri ân, bởi lẽ theo lý nhân quả của Phật giáo và kinh nghiệm của tổ tiên chúng ta: "… Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận, ngỗ nghịch con nào có khác chi Xem thử trước thềm mưa xối nước, Giọt sau giọt trước có sai gì" 6 Càng có ý nghĩa hơn nữa khi đạo Phật chủ trương rằng người nào muốn học đạo giải thoát, giác ngộ, muốn trở thành một Phật tử thì không thể không hiếu với mẹ cha, vì tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Với những ý nghĩa như thế, lễ hội trái tim này có lẽ đã chuyên chở đầy đủ những chất liệu sống cần thiết mà một nền văn hóa tốt đẹp cần phải hội đủ. Đây là lý do tại sao Lễ hội Vu lan Báo hiếu của Phật giáo đã được đại đa số người Việt chấp nhận và đã từng bước xã hội hóa trở thành một ngày lễ trọng đại, thiêng liêng của dân tộc. Bởi vì, việc làm đầy ý nghĩa này đã và đang làm cho lòng người ấm lại, có thể hàn gắn được những khoảng cách tâm lý giữa cha mẹ và con cái do lối sống vật chất thực dụng mang lại, sẽ xóa tan được những mặc cảm tội lỗi do vô tình hay không biết mà người ta đã phạm phải. Hy vọng nghệ thuật sống đạo đức, nhân văn này sẽ mãi lưu chuyển trong nếp tư duy, suy nghĩ của con dân nước Việt, sẽ thắp sáng mãi ngọn lửa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa cho đến ngàn sau! Thiền thất Từ Mãn Củ Chi- TP.HCM, tháng 8-2010 Viên Trí nguồn giacngo.vn
-
Thanhphuc có thể giải thích lý do tại sao đĩa CD không được treo trong nhà không? Vậy có thể treo ngoài sân vườn, lan can?
-
Vẫn còn đăng ký được vì học online và cũng còn nguyên bài vỡ HN à!
-
Có nghĩa là các HV đã lên lớp nâng cao sẽ vẫn được vào Lớp PTCB III để ôn tập và xem lại những bài học phải không ạ?
-
Na - vị thuốc hạ khí tiêu đờm. Cây na tùy thuộc vào từng địa phương còn gọi là mãng cầu, mãng cầu ta, màng cầu dai, tên khoa học Annona squamosa L. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ, lá, quả và hạt. Đông y cho rằng quả na vị ngọt, chua, tính ấm; có tác dụng hạ khí tiêu đờm. Quả xanh làm săn da, tiêu sưng. Hạt na có vị đắng, hơi hôi, tính lạnh, có tác dụng thanh can, giải nhiệt, tiêu độc, sát trùng. Lá cũng có tác dụng kháng sinh tiêu viêm, sát trùng. Rễ cầm ỉa chảy. Có công dụng chữa kiết lỵ, tiết tinh, đái tháo, bệnh tiêu khát. Quả xanh dùng chữa lỵ và tiêu chảy. Quả na điếc dùng trị mụn nhọt, đắp lên vú bị sưng. Hạt thường được dùng diệt côn trùng, trừ chấy rận. Lá na dùng trị sốt rét cơn lâu ngày, mụn nhọt sưng tấy, ghẻ. Rễ và vỏ cây dùng trị ỉa chảy và trục giun.Để tham khảo và áp dụng, dưới đây là những gợi ý những phương thuốc trị liệu từ cây na. Đi lỵ ra nước không dứt: 10 quả na ương (chín nửa chừng) lấy thịt ra, còn vỏ và hạt cho vào hai bát nước, sắc còn một bát, ăn thịt quả và uống nước sắc. Nhọt ở vú: Quả na điếc mài với dấm bôi nhiều lần. Trị mụn nhọt sưng tấy: Lá na, lá bồ công anh, cùng giã đắp. Sốt rét cơn lâu ngày: Vò một nắm lá (20-30g) giã nhỏ, chế thêm nước sôi vào vắt lấy một bát nước cốt, lọc qua vải, phơi sương, sáng hôm sau thêm tí rượu quấy uống trước lúc lên cơn hai giờ. Mỗi ngày uống một lần, uống liền 5-7 ngày. Trị giun đũa chòi lên ợ ra nước trong: Dùng một nắm rễ na mọc về hướng Đông, rửa sạch, sao qua, sắc uống thì giun ra. BS. Hoàng Xuân Đại (Sức Khỏe & đời sống)
-
Đợi Wild 10' nhé! Wild vác đơn đi khiếu nại cho baotran509 nhé!
-
Đã hoạt động bình thường rồi baotran509 ạ! Nhưng chưa được vào lớp có thể liên hệ với BQT.
-
Bạn là Hv lớp PTCB 4 và bạn nên theo dõi bài học bắt đầu từ ngày 25/08. danh sách của Bạn nằm ở PTCB4. Khi bạn vào được lớp có nghĩa là các bài trong đó phù hợp cho trình độ của bạn.
-
Xác nhận có 1,200,000 đ(một triệu hai trăm ngàn đồng)/03 tháng/PTCB của Viethung.
-
Lớp PTCB sẽ mở vào ngày 25/08 tới đây. Khi đã được xác nhận ghi danh và đóng học phí đương nhiên Bạn sẽ thấy lớp có nghĩa bạn đã được add nick mình vào Topic có bài giảng, bạn theo dõi bài và thảo luận cùng ace đồng khóa về những gì mình tiếp thu.
-
Chúng ta đều là khách trọ. Có một người lỡ đường trong đêm tối tìm đến gõ cửa một nhà nọ để xin ngủ nhờ qua đêm. Người chủ nhà không chấp thuận cho người khách lạ tá túc. Hết sức nhẫn nại, người khách cố gắng thuyết phục chủ nhà: - Ông có thể trả lời tôi ba câu hỏi không? Tôi tin chắc là sau khi trả lời ba câu hỏi này, ông sẽ vui lòng giúp tôi. Người chủ nhà tỏ ra tò mò và có hứng thú trước thái độ của người khách lạ: - Ông muốn hỏi điều gì? Người khách nói: - Xin ông cho hỏi, trước đây ai ở căn nhà này? Chủ nhà đáp: - Bố mẹ của tôi. Người khách hỏi tiếp: - Xin cho hỏi, trước bố mẹ ông thì ai ở? - Ông bà của tôi. Người khách lại hỏi: - Vậy sau ông thì ai sẽ ở đây? Chủ nhà tỏ ra bực bội: - Sau tôi là con cháu của tôi ở chứ ai! Lúc bấy giờ vị khách mới nói: - Thưa ông, vậy thì ông cũng là người ở nhờ như mọi người, nhưng ông là người ở nhờ lâu hơn tôi vậy thôi. Sao ông nỡ lòng nào không giúp tôi ở nhờ một đêm chứ? Sau một lúc trầm ngâm suy nghĩ, người chủ nhà như chợt nhận ra điều gì, ông tỏ ra cởi mở, niềm nở mời người khách vào nhà. Suốt đêm hai người còn vui vẻ trò chuyện với nhau rất tâm đắc. (Theo Thế giới trong ta). BÀI HỌC ĐẠO LÝ: Đức Phật thường dạy các đệ tử rằng, tài sản của cải là của chung năm nhà: vua quan sung công hoặc chiếm đoạt, nạn nước trôi, lửa cháy, trộm cướp, vợ con phá tán. Tài sản của cải không là của riêng ai, nay trong tay người này, mai về tay kẻ khác. Đức Phật cũng dạy vạn pháp vô ngã, vô thường. Thân con người còn không thật có (vô ngã, do duyên sinh), huống chi là tài sản của cải là vật ngoài thân. Người khách lỡ đường trong câu chuyện trên rất chí lý khi thấy rằng không có ngôi nhà nào là tài sản vĩnh viễn của một người, mà trải qua nhiều thời kỳ nó thuộc sở hữu của nhiều người. Như vậy không ai là ông chủ thật sự cả, tất cả chỉ là những khách trọ mà thôi. Người thì trọ trong thời gian ngắn, người thì trọ trong thời gian dài. Cho nên ông Bàng Uẩn sau khi ngộ đạo đã đem tất cả của cải đổ xuống sông, có lẽ ông muốn khai thị rằng mọi thứ ở đời chỉ là giả huyễn. Phật hoàng Trần Nhân Tông đã xem ngai vàng như đôi dép bỏ, xả ly hết thảy một cách nhẹ nhàng. Trong khi ai cũng khư khư bám giữ những gì thuộc về mình, không ai chấp nhận sự vô thường dù sự thật đổi thay luôn hiển hiện. Cũng chính vì thế mà người ta luôn đau khổ. Không có ta (ngã), không có cái của ta (ngã sở), nhưng ai cũng thấy có ta, có cái của ta nên mới chịu nhiều đau khổ. Nếu thấy được vạn vật đều là duyên sinh vô ngã, không cố chấp bám víu, thuận theo lẽ vô thường, biết chấp nhận sự đổi thay, thịnh suy, được mất thì lòng thanh thản, không khổ não lo buồn. Muốn được tâm bình thản như thế thật không dễ, nhưng nếu nỗ lực tu tập thì sẽ thành tựu. Thực tập thiền quán về vô thường, vô ngã để có thể buông bỏ xả ly, thì dẫu phải đối mặt với nhiều biến động trong đời lòng cũng bớt giận dỗi, muộn phiền và tâm không chao đảo. Sống với từ bi, vô ngã, vị tha thì tấm lòng rộng mở, tự tại thong dong và lợi đạo ích đời. Phan Minh Đức. nguồn giacngo.vn
-
Cám ơn bạn! Bạn có thể chụp thêm 1 ảnh nữa nhìn từ phía sau, và từ trên nhìn xuống.
-
Wild sẽ xác nhận phần đóng góp từ thiện của N.H.G, sau khi kiểm tra tk báo Có.
-
http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...c=15718&hl= Xem ở đây nè Viethq!
-
Chuyện của bạn thật đáng chia sẽ, bạn có thể cho biết bạn đang ở đâu? TP HCM hay Hà Nội.? Có thể Wild sẽ đề đạt chuyện này đến SP và có hướng can thiệp, bạn hãy sớm cho chúng tôi thông tin.
-
Bạn cần gì cứ nêu ra đây, các ACE vẫn sẵn sàng giúp đỡ bạn nếu vượt sức sẽ chuyển thông tin đến Bác.
-
Khảo sát về nguồn gốc Lễ Vu lan ở Kathmandu, Nepal. Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương. Một trong những lễ quan trọng trong năm, cũng có thể nói là quan trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu lan. Lễ Vu lan của Nepal có gì khác với lễ Vu lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy? Trước tiên chúng ta hãy nhìn lại nguồn gốc của lễ Vu lan ở Trung Quốc. Nguồn gốc Lễ Vu lan tại Trung Quốc Phần này chúng tôi không đi sâu vào chi tiết về từ nguyên, lịch sử hoặc cách thức thực hành nghi lễ. Chỉ điểm qua một số nét chính để có cơ sở so sánh với lễ Vu lan tại Nepal. Tượng Phật được trưng bày cho Phật tử chiêm bái và cúng dường nhân mùa Güla. Có lẽ bị ảnh hưởng từ Phật giáo Trung hoa, Phật giáo của Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên cũng tổ chức lễ Vu lan gần giống như của Trung Hoa. Nói chung, tất cả các nước trên đều tổ chức lễ Vu lan dựa theo bài kinh Phật thuyết kinh Vu lan do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316). Kinh này nói về sự tích Phật dạy ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ khi mẹ bị đọa ở địa ngục. Và tất cả đều thống nhất ở một điểm theo truyền thống Phật giáo: ngày rằm tháng Bảy (theo âm lịch Trung Hoa) là ngày chư Phật hoan hỷ, oai lực chư Tăng được tăng trưởng sau ba tháng an cư, và là ngày tự tứ, do đó chư Tăng hội họp đầy đủ. "…Rằm tháng Bảy là ngày tự tứ Mười phương Tăng đều dự lễ này Phải toan sắm sửa chớ chầy Thức ăn trăm món, trái cây năm màu…".(Phật thuyết Kinh Vu lan) Thật ra, tập tục cúng bái tổ tiên và tẩy trừ ma quỷ vào dịp rằm tháng Bảy tại Trung Quốc đã xuất hiện từ rất lâu đời (ít nhất là từ đời Hán). Còn Tết Trung nguyên của Đạo giáo thì cũng có trước thế kỷ thứ VII. Khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, có lẽ trùng hợp về thời điểm và quan niệm báo hiếu nên người Trung Quốc đã hấp thụ lễ Vu lan của Phật giáo và biến lễ Vu lan tại Trung Quốc trở thành một lễ dân gian mang tính tổng hòa của: Tập tục thờ cúng tổ tiên + Tết Trung nguyên của Đạo giáo + Lễ báo hiếu của Phật giáo. Chư Ni tụng kinh trên đỉnh đồi Swayambhu vào mùa Güla.