-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton ăn chay, tập Thiền Phật giáo Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã chọn cách thể dục cho ông để đạt tới những đỉnh cao tinh thần -- bằng cách học Thiền Phật giáo để giúp ông thư giãn. Mới gần đây, chính khách 65 tuổi này đã chọn một nếp sống lành mạnh hơn, trong đó có việc ăn chay sau một loạt cơn đau tim trong nhiều năm. Và trong nỗ lực mới để cải thiện sức khỏe, vị chính khách Đảng Dân Chủ này đã thuê (hired) một vị sư Phật Giáo riêng để giúp ông học cách Thiền cho đúng cách. (Người dịch ghi chú: phóng viên không hiểu rằng, Phật Pháp phải dạy miễn phí, và theo luật, không ai có thểthuê được một vị sư nào. Lẽ ra nên nói là "cung thỉnh" thay vì "thuê".) Thông tấn Radaronline dẫn một nguồn tin nói rằng: "Từ khi bệnh tim gây ra nỗi kinh hoàng cho ông ta, cựu Tổng thống Bill Clinton đã tìm nhiều cách để giúp ông thư giãn. Ông ta có đời sống bận rộn, đi lại nhiều trong cương vị làm đặc sứ cho Hoa Kỳ, và cần phải giữ đầu óc cho minh mẫn. Thiền tập đã cung ứng cho ông điều đó, ông ta có một câu thần thú (mantra) mà ông thích tụng lên, và sau mỗi thời Thiền tập, ông cảm thấy được chuyển hóa và đầy năng lực tích cực. Thiền hiển nhiên đã cho ông ta một thế giới tốt lành -- ông cảm thấy thích hợp hơn và mạnh mẽ hơn bao giờ hết." Đi tìm Giác ngộ: Cựu Tổng thống Bill Clinton đã tập Thiền để được thư giãn (ND ghi chú: Phóng viên Daily Mail ghi là thần chú, nhưng có lẽ không phải thần chú. Có lẽ là một câu quy y tam bảo, hay lời nguyện khi ngồi Thiền, hay là lời rải Tâm Từ... Chúng ta không biết rõ chỗ này.)Hồi tháng 2/2004, Ông Bill Clinton được chở gấp vào bệnh viện Columbia Presbyterian Hospital ở New York City sau khi nói là bị đau ngực. Ông cần gắn thêm hai ống thông van tim, và vài tháng sau, trong tháng 9/2004 Bill Clinton trải qua giải phẫu thông tim bốn ống. Năm 2010, lại có một van tim bị nghẹt phải mở lại -- lần thứ nhì giải phẫu tim trong chỉ năm năm -- và ông đã loan báo rằng ông từ bỏ thức ăn nhanh kiểu Mỹ, như bánh mì thịt burger, khoai tây chiên và gà chiên ... để rồi ăn chay. Trở về với truyền thống: Những vị sư Phật giáo đã kiện toàn nghệ thuật Thiền tập từ hàng ngàn năm nay Ông Bill Clinton ăn chay nghiêm ngặt, gồm nhiều rau tươi và trái cây tươi, nhưng cũng thú nhận rằng ông đôi khi ăn cá.Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Giác * Bản Anh ngữ: Chill Bill: Clinton turns to the art of Buddhist meditation to relax By Daily Mail Reporter PUBLISHED: 10:17 GMT, 3 August 2012 | UPDATED: 13:33 GMT, 3 August 2012 Former American president Bill Clinton has taken his exercise regime to spiritual heights - by learning the art of Buddhist meditation to help him relax. The politician, 65, has recently taken up a healthier life-style including becoming vegan after a string of heart problems over the years. And in his latest bid to improve his well-being, the Democrat has hired his own personal Buddhist monk to help him learn how to meditate properly.
-
Hé lộ bí ẩn vì sao cô gái chết trước cổng chùa mặc đồ tu 'hiện hình' trên điện thoại Những câu chuyện liên quan đến cái chết của cô gái treo cổ tự vẫn ở cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn đến tai nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, và những điều bí ẩn dần dần được hé mở… Sự trùng hợp kỳ lạ… Ông Đặng Văn Triều, công tác tại tổ chức Unesco Phương Đông, chủ nhân của chiếc điện thoại xuất hiện hình ảnh người con gái kì lạ cho biết: "Sau khi trở về từ chùa Thanh Sơn, tôi đã mang những hiện tượng kỳ lạ như cái chết của con rắn lạ tại sảnh trước lối vào động Thanh sơn; chuyện nhóm thợ xây giết, cắt tiết và treo cổ con vật kỳ quái tại cổng Tam quan trước khi cô gái mất một ngày và việc hình ảnh cô gái ấy xuất hiện trong điện thoại của mình cùng chuyện ông sử dụng "năng lượng tia lửa đất" để cầu siêu cho linh hồn cô gái trẻ ra sao, trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Sau khi nghe xong câu chuyện, lập tức ông Hải đã thuyết phục tôi trở lại chùa Thanh Sơn một lần nữa. Khi tôi cùng nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và một số người khác trong đoàn trở lại chùa Thanh Sơn để nghiên cứu sâu hơn về sự việc thì đã phát hiện ra rất nhiều sự trùng hợp kỳ lạ". Trước thông tin còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn này, PV đã liên hệ và có cuộc trao đổi trực tiếp với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: "Quả thực sau khi nghe ông Triều kể lại toàn bộ những hiện tượng kì lạ xung quanh cái chết của cô gái treo cổ tự vẫn tại cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn, tôi rất tò mò và cho rằng đây là một hiện tượng kỳ lạ, hiếm gặp nên đã đề nghị ông Triều cùng một số người tổ chức một chuyến đi về chùa Thanh Sơn để nghiên cứu rõ hơn về những hiện tượng kì lạ này. Tại đây, khi đối chiếu hình ảnh xuất hiện trong chiếc điện thoại của ông Triều và bức hình nhà chùa thờ vong cô gái xấu số thì có rất nhiều điểm tương đồng, như cùng một người nhưng ở độ tuổi khác nhau. Khi hỏi tên tuổi cô gái, tôi đã hết sức bất ngờ khi phát hiện tên của người đàn bà này trùng khớp hoàn toàn với tên người vợ đã quá cố của tôi: Nguyễn Thị Yến. Điều kỳ lạ hơn, tên chính xác của vợ tôi khi mới sinh ra được bố mẹ đặt là Nguyễn Định Yến, nhưng khi đi làm giấy khai sinh, không hiểu vì lý do gì người ta lại ghi nhầm sang Nguyễn Thị Yến. Thứ hai, ngày mất của cô gái lại trùng với ngày cưới của vợ chồng tôi. Thứ ba, khi chết cô gái treo cổ tự vẫn ở cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn, có đội một chiếc mũ len, mặc bộ quần áo màu nâu trong khi đó lúc thời điểm trước khi vợ tôi qua đời cũng có trùm một chiếc khăn nâu, nhìn tựa giống chiếc mũ mà cô gái kia đội và cũng mặc một bộ quần áo tương tự. Hình dáng lúc cô gái mất, cũng gầy gò, nhỏ bé như vợ tôi vậy. Lúc đó, tôi có linh cảm rằng giữa tôi và cô gái này chắc chắn có một mối liên hệ vô hình nào đó, khó giải thích nổi". Bà NguyễnThị Dận, mẹ của cô Yến. Ảnh: Xuân Thắng. Đi tìm lời giải…Trước những sự trùng hợp hết sức kỳ lạ đó, ông Hải đã gặng hỏi sư thầy Đàm Tịnh, trụ trì chùa Thanh Sơn địa chỉ quê quán nhà cô gái kia. Sau đó, sư thầy Đàm Tịnh đã dùng một mảnh giấy ghi chi tiết những thông tin liên quan, cùng địa chỉ nhà cô gái này để cung cấp cho nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải với nội dung: Tên cô gái là Nguyễn Thị Yến, sinh năm Quý Sửu, thọ 37 tuổi, mất ngày mùng 2 tháng chạp, năm KS (tức ngày 16-1-2010). Địa chỉ quê quán tại xóm Ải, thôn Phí Trạch, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội và còn cho biết thêm, người nhà đến nhận xác cô Yến tại chùa Thanh Sơn là anh trai Nguyễn Văn Doanh. Khi đã có đầy đủ thông tin về quê quán của cô gái, lập tức đoàn nghiên cứu gồm có 4 người: ông Hải, ông Triều, một luật sư, cùng một nhà ngoại cảm lập tức lên đường tìm về địa chỉ nhà cô gái để tìm những câu trả lời cho những vấn đề còn đang bị bỏ ngỏ. Hôm đoàn nghiên cứu do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải dẫn đầu về thăm hỏi gia đình cô Yến và tìm hiểu thêm về những vấn đề xung quanh vụ việc thì lại đúng vào ngày gia đình đang làm cơm cúng 100 ngày cho cô gái. Khi được hỏi về bức ảnh xuất hiện trong máy của ông Triều có phải là cô Yến không, thì phía gia đình xác nhận chính là cô Yến nhưng có điều hình ảnh trong chiếc điện thoại không phải là hình ảnh của cô thời điểm khi mất mà là cách đó 10 năm, tức là vào năm cô 27 tuổi", ông Hải cho biết. Trước những câu chuyện hết sức kỳ lạ trên, nhằm cho bạn đọc có một cái nhìn đa chiều và xác thực, PV đã lặn lội tìm về đúng nhà cô gái bí ẩn để tìm hiểu thêm thông tin xung quanh vụ việc. Trao đổi với PV về đề vấn này, bà Nguyễn Thị Dận, 83 tuổi, mẹ đẻ cô Yến cho biết: "Hôm gia đình tôi đang làm cơm cúng 100 ngày cho cháu Yến thì có một vài người đến hỏi chuyện xung quanh cái chết của con gái tôi. Những người này hỏi rất nhiều như ngày tháng năm sinh của con gái tôi là bao nhiêu, tên chính xác là gì, tại sao lại giúp việc ở chùa Thanh Sơn… Khi họ đưa ra một bức hình trong chiếc điện thoại di động và bảo gia đình chúng tôi xác định xem có phải là cháu Yến không. Khi đó, con trai tôi là Nguyễn Văn Doanh, đã xác định hình ảnh trong chiếc điện thoại của những người này chính là cháu Yến, con gái tôi". Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cùng những người bạn của mình thắp hương trước mộ cô gái trẻ. Ảnh: TL Có duyên với cửa Phật…"Tôi sinh hạ được 5 người con, Yến là con gái út. Khi còn trẻ, nó vẫn phát triển bình thường như bao người khác. Đến năm 20 tuổi cháu Yến vào miền Nam để làm ăn, được 2 năm thì trở về. Sau đó, không hiểu tại sao Yến thường xuyên đi chùa chiền, miếu mạo. Thậm chí còn ở lại giúp việc cho các chùa nơi nó đến, rất ít khi về nhà. Mỗi lần về nhà tôi cùng những người trong gia đình thường động viên cháu nên ít đi chùa và lo chuyện chồng con để làm ăn buôn bán. Tuy vậy, Yến không chịu và còn nói nếu mọi người còn nhắc đến chuyện kết hôn lần nữa thì nó sẽ bỏ hẳn nhà lên chùa, không bao giờ về nữa. Nhiều thầy ở các chùa còn bảo, cháu Yến có căn duyên với cửa Phật nên không sống được tại gia mà phải đi các đền chùa, miếu mạo để ở. Trước thái độ cương quyết của Yến, mọi người trong gia đình tôi đành chấp nhận và không dám nhắc đến chuyện đó nữa. Trước khi treo cổ tự vẫn tại chùa Thanh Sơn, Yến đã đi giúp việc cho rất nhiều chùa, trong quãng thời gian 9 năm", bà Dận cho biết thêm. Cô Nguyễn Thị Yến đã giúp việc ở chùa Thanh Sơn được hơn 1 năm trước khi cô treo cổ tự vẫn tại cổng Tam quan vào ngày 16-1-2010. (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PLXH
-
Cô gái chết trước cửa thiền 'hiện hình' trong điện thoại của vị khách đến chùa ngồi thiền Sau khi cô gái chết được khoảng 1 tháng, vào một ngày đầu năm 2010, có một vị khách cùng người bạn của ông đến chùa Thanh Sơn để ngồi thiền.Trong quá trình ngồi thiền, ông khách này đã tắt nguồn chiếc điện thoại di động mang theo. Khi thiền xong ông này vào chùa ăn cơm, khởi động lại máy thì phát hiện trên màn hình điện thoại của mình xuất hiện hình ảnh một cô gái lạ, đang trong tư thế chắp tay lễ Phật… Điềm báo… "Sau khi nhóm thợ xây dựng giết hại và treo cổ con rắn lạ trên cổng Tam Quan trước lối ra vào, sau đó, có một nhà ngoại cảm đến chùa để làm lễ thấy vậy liền khiển trách những người thợ, rằng tại sao ở chốn cửa Phật linh thiêng lại có những hành động sát sinh như vậy. Người này đã yêu cầu nhóm thợ làm cổng hạ ngay xác con rắn xuống và bảo người mang đi chôn cất cẩn thận. Chỉ sau một ngày, cô Yến, người giúp việc trong chùa ra đúng cổng Tam quan treo cổ tự vẫn. Vị trí cô gái treo cổ lại trùng với vị trí mà trước đó nhóm thợ đã treo con rắn lên. Lúc này, mọi người mới sực nhớ đến lời nói của nhà ngoại cảm phán trước đó. Một người giúp việc trong chùa cho biết: "Vì chùa nằm sát núi, nên việc nhìn thấy rắn là chuyện bình thường. Nhưng trường hợp con bị mắc kẹt và chết trước sảnh động Thanh Sơn và con rắn bị nhóm thợ giết treo trước cổng Tam quan thì chưa bao giờ thấy, vì hình dáng của hai con này rất lớn, màu sắc kì lạ". Hình ảnh kỳ lạ… Nhưng có lẽ câu chuyện kỳ lạ, khó giải thích nhất xung quanh cái chết của cô gái trẻ là việc, sau khi mất được một tháng. Vào một ngày đầu năm 2010, khi có một vị khách đến viếng chùa, ngồi thiền trong động Hương Đài, thiền xong người này về nhà ăn chùa Thanh Sơn nghỉ ngơi, khi khởi động điện thoại thì bất ngờ xuất hiện hình ảnh một cô gái trẻ, đầu đội mũ len, đang chắp tay niệm phật. Trước câu chuyện mang nhiều bí ẩn này, PV đã có cuộc trao đổi với chủ nhân của câu chuyện này. Di ảnh cô Nguyễn Thị Yến Người đàn ông này là ông Đặng Văn Triều, làm việc tại Trung tâm Unesco Phương Đông, đồng thời là cộng tác viên thân thiết của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Trao đổi với PV, ông Triều vẫn nhớ như in cái ngày kỳ lạ đó: Hôm đó là một ngày đầu năm 2010, ông Triều cùng người bạn của mình là ông Nguyễn Đức Chính, có đến chùa Thanh Sơn, thuộc địa phận huyện Mỹ Đức, Hà Nội để ngồi thiền. Do đây là chốn linh thiêng, đặc thù của ngồi thiền cần phải yên tĩnh, nên ông Triều đã tắt điện thoại để tránh bị làm phiền trong quá trình ngồi tĩnh tâm. Hai vị khách ngồi thiền trong chùa Đậu - động Hương Đài, một ngôi chùa cổ nằm sâu bên trong quần thể chùa Thanh Sơn suốt hai, ba tiếng đồng hồ. Ngồi thiền xong, hai vị khách đi ra ngoài nghỉ ngơi và ăn cơm, trên đường đi về nhà ăn của chùa, bất ngờ ông Triều cùng ông Chính nhìn thấy bên vách núi xuất hiện một con rắn màu nâu, hình thù kỳ quái chặn ngang lối đi, lúc đó con rắn còn dựng đứng dậy, mắt nhìn trừng trừng nhìn về phía hai người. Nghĩ chắc là rắn thiêng nên ông Chính đã chắp tay vái còn ông Triều chỉ đứng quan sát, được một lúc con rắn bỏ đi. Thời điểm đó, ông Triều mới lấy điện thoại ra để khởi động lại nguồn, thì lạnh người phát hiện ra trên màn hình điện thoại của mình xuất hiện một cô gái trẻ, đầu đội mũ len, quần áo màu nâu như màu áo của các tăng ni phật tử trong chùa mặc, đang trong tư thế chắp tay niệm Phật. Ông Đặng Văn Triều, chủ nhân của chiếc điện thoại xuất hiện hình ảnh giống với cô Yến. Thấy câu chuyện kỳ lạ, ông Triều đã kể lại với vị trụ trì ở đây thì sư thầy này cũng hết sức kinh ngạc. Lúc đầu, vị trụ trì quan sát rất lâu và có nói với ông Triều rằng, nhìn hình ảnh rất quen không biết đã gặp ở đâu. Sau khi cơm nước xong, ông Triều được trụ trì gọi lên gặp riêng và cho biết, hình ảnh xuất hiện trong điện thoại của ông có rất nhiều nét tương đồng với người con gái đã treo cổ tự vẫn tại chùa trước đó một tháng. Để khẳng định cho những lời nói của mình, trụ trì đã dẫn vị khách đến sảnh trước cửa động Thanh Sơn nơi thờ vong cô gái. Lúc này, khi mang tấm hình xuất hiện trong chiếc điện thoại di động so sánh với bức ảnh cô gái nhà chùa đang thờ thì có rất nhiều nét tương đồng, ông Triều cho biết thêm. Dù gặp phải câu chuyện hết sức kỳ lạ khi đến ngồi thiền tại chùa Thanh Sơn, nhưng đây lại không phải là lĩnh vực ông Triều quan tâm, nghiên cứu nên ông không thật sự để tâm. Cho đến một ngày, ông đem câu chuyện này kể lại với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thì những bí ẩn đằng sau đó dần dần được hé mở… (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH
-
Nghe cụ bà 99 tuổi kể chuyện sống lại sau 7 ngày viếng thăm 'âm phủ' Cụ ngưng thở trong vòng bảy ngày rồi bỗng nhiên tỉnh lại. Sau sự cố đó, cuộc đời của bà có quá nhiều điều đổi thay và kỳ lạ. Khi trở về tỉnh Bến Tre, chúng tôi thực sự bất ngờ câu chuyện về cụ già Phạm Thị Tưởng, ở ấp 1, xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, đã 99 tuổi có mái tóc dài 3,5 m lại từng ngưng thở suốt 7 ngày, rồi sau đó đột nhiên sống lại. Mặc dù đã 99 tuổi, nhưng cụ Tưởng vẫn khỏe mạnh, đi lại không cần dùng đến gậy. Nhắc đến những chuyện trong quá khứ, cụ vẫn còn nhớ rất rõ. Năm 9 tuổi, trong một lần nằm ngủ, cụ Tưởng mơ thấy có người bảo một thời gian ngắn nữa, bà sẽ phải "lên trời". Người trong giấc mơ bảo, nếu cụ vẫn có “căn” với cuộc sống thì sẽ trở về, nếu không thì sẽ ra đi mãi mãi. Sau đêm mơ đó khoảng chừng mười ngày, trong khi sức khỏe đang bình thường, vẫn chơi đùa với lũ bạn hàng xóm, bỗng nhiên sức khỏe của cô bé Tưởng trở nên yếu ớt. Bởi bị ám ảnh bởi giấc mơ và cho rằng đó chính là điềm báo, cô bé bảo với cha mẹ: “Con 'lên trời' đây. Nếu bảy ngày sau, con không trở về thì hãy làm ma chay”. Chỉ mới nói dứt lời, cô bé Tưởng tắt thở. Mặc dù đã 99 tuổi nhưng cụ Tưởng vẫn đi lại một cách bình thường Khi đó, cả gia đình cụ rất đau buồn, dù không dám tin lời của con đã nói trước khi chết, nhưng mọi người trong gia đình vẫn nuôi hy vọng mong manh con mình sẽ sống lại nên không làm ma chay. Hồi đó, cha mẹ cô bé Tưởng đi khắp các chùa chiền để khấn cầu con mình có thể trở về.Bảy ngày trôi qua, thấy cô bé Tưởng bắt đầu cử động một cách yếu ớt, mắt dần dần hé mở. Mọi người lúc này vui mừng khôn xiết, cố gắng đút từng thìa cháo cô bé ăn. Cụ Tưởng chuẩn bị thắp nhang ở miếu của mình Cụ Tưởng chia sẻ, mình không hề biết gì trong bảy ngày ngưng thở. Trí nhớ của cụ trong suốt bảy ngày đó chỉ là một khoảng trống không có bất kỳ hình ảnh nào còn lưu lại.Sau lần chết hụt đó, cô bé Tưởng không thể ăn bất kỳ thứ gì liên quan đến động vật, thức ăn chủ yếu đến nay của cụ là thực vật. “Tui không thể nào ăn sướng được. Cứ mỗi lần ăn thịt là lại nôn thốc nôn tháo”, cụ rành rõ chia sẻ. Về già, bên cạnh ăn hoa quả, cụ còn có thể ăn sống mì tôm chay chay. Cụ không hề cảm thấy cuộc đời của mình là kham khổ. Một điều kỳ lạ là từ sau khi chuyện ngưng thở bảy ngày rồi sống lại, ngoài việc không ăn được thức ăn động vật, thì hễ ai động đến mái tóc hay mái tóc chạm vào nước là đầu của cụ lại bị đau. Ban đầu, vẫn chưa biết chuyện này, cha mẹ cụ vẫn cho con tắm rửa một cách bình thường. Tuy nhiên, sau mỗi lần tắm, họ lại thấy con ốm nặng, phải chừng mười ngày sau mới khỏi. Sau nhiều lần như vậy, cha mẹ mới phát hiện những cơn ốm "thập tử nhất sinh" của con là do động đến nước. Cũng từ đó, bé Tưởng “cạch” nước. Cụ Tưởng lau nước mắt khi nhớ lại những chuyện đã qua Trên cơ thể cụ Tưởng, chỉ có hai tay và hai chân là có thể tiếp xúc với nước, còn những bộ phận khác thì không. Đã gần 90 năm trôi qua, cụ không hề tắm gội. Hàng ngày, cụ chỉ dùng khăn lau cơ thể và thay áo quần rồi giặt. Nhưng cơ thể của cụ vẫn không hề bị "bốc mùi".Cũng chừng đó năm, mái tóc của cụ Tưởng cũng không được cắt. Sau khi hồi sinh, mỗi khi cắt tóc là cụ đau đầu đến mức không chịu đựng nổi. Đến năm mười tuổi, mái tóc của cụ bỗng nhiên bết dính lại với nhau. Không được tắm gội, cắt tỉa, nên đến nay, mái tóc ấy đã dài 3,5 m. Để mái tóc không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình, cụ Tưởng may một túi màu nâu để đựng tóc rồi quấn xung quanh cổ của mình. Chúng tôi ngỏ ý muốn tận mắt chứng kiến mái tóc kì lạ thì cụ từ chối và cho rằng: “Đã mấy chục năm rồi không ai có thể nhìn thấy mái tóc của tui. Đến những người bà con cũng không được”. Theo lời cụ, mặc dù sắp bước sang tuổi 100 nhưng mái tóc của cụ chỉ có một vài sợi bạc, còn lại có màu nâu hạt dẻ. Khi hỏi về bí quyết sống trường thọ mà vẫn khỏe mạnh, cụ từ tốn chia sẻ: “Tui không có bất kỳ bí quyết gì. Có lẽ do tui không ăn thức ăn động vật mà chỉ ăn thức ăn thực vật và thường xuyên đi lại, nên mới có sức khỏe như thế này. Không chỉ thế, tui vẫn thường đọc kinh Phật để ngẫm về cuộc sống”. Theo ông Phạm Văn Lâm (người cháu gọi cụ Tưởng bằng cô ruột, 62 tuổi) cho biết, cụ Tưởng luôn bảo cháu chắt trong gia đình phải thường xuyên đọc kinh Phật. Điều cụ dạy con cái không có gì cao xa mà chỉ bảo cuộc đời chỉ có một chữ không. Cứ lấy chữ “không” trong kinh phật mà sống. Bởi con người đến với cuộc đời từ một con số không và khi trở về cát bụi cũng chỉ là một con số không. Do đó, không nên chạy theo danh lợi hay để lòng mọi chuyện, không suy nghĩ quá nhiều để khiến tâm não không được yên bình. Đến nay, cả gia đình cụ đều theo đạo Phật. Mặc dù không lên chùa để tu, nhưng cháu chắt cụ luôn tâm niệm nghe theo lời dạy của cụ để sống tốt với mọi người. Như ông Tâm, thường xuyên ăn chay tịnh, đọc sách Phật… mặc dù đã bước sang tuổi lục tuần nhưng nhìn cứ ngỡ chưa tới năm mươi. Không chỉ thế, cụ Tưởng rất vui khi kể về khoảng thời gian mình vẫn còn trẻ. Lúc bước vào độ tuổi trăng tròn, cụ phải quấn mái tóc lên cổ ra đồng để giúp bố mẹ cấy, cắt lúa. Với tính nết hiền lành lại xinh đẹp nên cụ có khá nhiều người thanh niên chọc ghẹo và tán tỉnh. Chính cụ cũng không thể nào hiểu được tại sao mỗi lần bị những người thanh niên này chọc ghẹo về chuyện trai gái thì đầu cụ rất đau. Những điều này chỉ kết thúc khi cụ quyết định lên chùa đi tu. Cụ Tưởng luôn giữ cho mình giấc ngủ trưa mỗi ngày Được biết, trước đây, cụ tu ở chùa Phước Huệ. Cách đây hai năm, do nhận thấy mình đã già nên cụ xin trụ trì được trở về gia đình để thờ phụng Phật. Khi cụ trở về, các phật tử yêu mến, góp tiền và đã xây cho cụ một ngôi miếu khang trang trong mảnh đất của chính gia đình để cụ tụng kinh. Chính vì vậy, người dân ở địa phương gọi cụ với một cái tên thân thương là cụ Tư Miễu.Mặc dù xin trụ trì chùa Huệ Phước được về gia đình để cháu chắt của mình chăm sóc, nhưng cụ luôn muốn tự làm tất cả mọi chuyện. Đồng thời, do sức vẫn còn khỏe mạnh nên việc vệ sinh thân thể, cụ vẫn có thể tự làm không cần sự giúp đỡ của người thân. Không chỉ thế, việc cơm nước, thờ phụng, hương khói, cúng bái trong ngôi miếu của mình, cụ đều tự lo cho mình. “Tui không muốn phụ thuộc vào mọi người. Dù già, nhưng vẫn còn chút sức lực nên tui vẫn tự làm việc. Tui chỉ chấp nhận ngồi không khi không thể nhúc nhích. Các cháu có việc của các cháu, tui có việc của tui”, cụ hóm hỉnh, cười tươi tâm sự. Cụ Tưởng chia sẻ, mình từng được đi rất nhiều nơi như Hà Nội, Huế, Tây Ninh… Mỗi chuyến đi với cụ là cả một niềm vui. Cụ có thể kể hết những nơi mình đã đi qua, những kỉ niệm có được trong chuyến đi đó. Tuy nhiên, nơi cụ thích đến nhất là Hà Nội vì ở đó là thủ đô của đất nước. Mỗi lần cụ ra Hà Nội, nơi cụ đến sớm nhất là lăng Hồ Chủ Tịch. Bên cạnh đó, cụ có thể kể chi tiết từng lăng tẩm ở Huế như thế nào… Cụ Tưởng men theo con đường nhỏ ra đường lớn tiễn chúng tôi trở về thành phố Cụ Tưởng cho biết mình rất thì rất thích đi leo núi. Cách đây hai năm, tức 97 tuổi, cụ đã cùng cháu của mình tự leo lên núi ở Tây Ninh để lên thăm chùa Bà. Trong lần đi này, các cháu sợ cụ đã già nên khẩn khoản xin được cõng, nhưng cụ vẫn một mực không đồng ý, leo một mình và cuối cùng lên được đỉnh.Chúng tôi chia tay cụ Tưởng sau một khoảng thời gian nói chuyện. Cụ tiễn chúng tôi ra đến đường đi rồi cầm tay nói “lúc nào có cơ hội về Bến Tre, các con nhớ trở lại miễu để thăm bà nhé!”. Theo Duy Ca - Xzone/TTTĐ
-
@ Chim Chích Bông ! Đổi tên nick đi con nhiều bạn nhầm lẫn quá! Cô Chị cứ loạn cả lên! Hi hi! Cô xin phép được tường minh 1 số công đức đã gieo với Sư Thầy ở đây, đã có 1 số bạn bè đạo hữu thân quen cũng đã thực hành pháp cúng dường xây dựng chùa thông qua TK cô thông báo, Sư Thầy thường cảm niệm phương danh các phật tử trong Nam qua đt cho Cô, thật sự cô rất xúc động trước những người con Phật khởi tâm thầm lặng góp viên gạch xây nên bức tường đạo pháp về với quê nghèo. Còn lại nhiều bàn tay để chùa hoàn thành viên mãn chúng ta cần nổ lực hơn nưã bằng tâm cầu nguyện tạo nên năng lực cộng hưởng.
-
Những năng lực và cảm giác của người lúc lâm chung Kính gửi đến quí vị liên hữu đồng tu: Mọi người đều có một năng lực tiềm tàng để có thể giúp chính mình vượt qua khó khăn trắc trở vào lúc lâm chung. Phật, Bồ-tát và các Chư Tổ Sư thông rõ việc này nên các Ngài bày ra pháp môn niệm Phật để làm phương tiện giúp chúng sanh khai mở và sử dụng năng lực tiềm tàng vô biên, vốn có sẵn ở trong mỗi chúng sanh. Phương tiện của các Ngài là gì? Thật đơn giản, gọn gàng và dễ hiểu: chính là Tín-Nguyện-Hạnhniệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Tuy là đơn giản như vậy, nhưng công năng của nó có thể giúp độ trọn cả ba căn (Thượng, Trung và Hạ), mới thấy thật vô cùng thù thắng. Một giáo pháp viên đốn bậc nhất, đến ngay chính các bậc Đẳng Giác Bồ-tát như Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… cũng đã áp dụng để sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, để có thể thành Phật. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Hoa Nghiêm, Đức Thế Tôn đã khai thị rất rõ ràng, nên không cần phải nói rộng ra thêm. Vậy cái công năng của Tín-Nguyện-Hạnh là gì? Nó chính là cách thức giúp quy động năng lực sẵn có của bạn để đạt đến trạng thái thiền định ở trong bất cứ sinh hoạt nào (đi, đứng, nằm, ngồi và ngay trong khi đang ngủ). Vì vậy, pháp môn niệm Phật còn gọi là “Thâm Diệu Thiền”. Dưới đây tôi sẽ xin trình bày cho bạn, Vì sao Tín-Nguyện-Hạnh có thể giúp bạn quy động được toàn bộ năng lực Thiền Định của bạn để lúc lâm chung bạn có thể liễu sanh thoát tử, vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật. Năng lực của Tự Lực qui động từ Tín-Nguyện-Hạnh * Tâm tín thành nơi Phật A Di Đà và cõi nước Cực Lạc chính là năng lực vô biên giúp bạn vượt qua tất cả khó khăn trở ngại trong việc thực hành chí thiết niệm Phật, để đạt thành tâm nguyện vãng sanh. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật có dạy rằng “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Khi bạn đặt một niềm tin mãnh liệt tuyệt đối vào điều gì, điều đó sẽ thành. Nên Tín có năng lực không thể nghĩ bàn; ví dụ như nếu bạn tin rằng bạn có thể học để trở thành một bác sĩ, niềm tự tin này chính là năng lực thúc đẩy bạn chăm học, chăm làm, vượt qua mọi trở ngại khó khăn để đạt thành tâm nguyện. * Nguyện lực tha thiết muốn sanh về nước Cực Lạc là nguồn năng lực vô lượng thúc đẩy bạn nhất tâm niệm Phật chí thiết ngày đêm không ngừng dứt. Cũng giống như một học sinh hiếu học vì muốn (nguyện) đạt thành công danh nên ngày đêm phải miệt mài bên đèn sách. * Hạnh: Hạnh là năng lực kết tụ do công phu tu tập từ trong quá khứ cho đến nay; quá khứ có thể là từ nhiều đời nhiều kiếp về trước hay chỉ là quá khứ ở hiện đời. Người có công phu tu tập, phải đoạn trừ được tất cả các tật đố tham lam, sân si, mạn, nghi. Vì đây là cội nguồn của chướng ngại, sẽ làm cho tâm bạn bị dính mắc, không thể buông xả. Nó cũng là nguyên nhân, là yếu tố đưa bạn rơi vào trong trạng thái u minh, mất chánh giác, rồi sau đó nó dẫn dắt bạn đi vào tam ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh). Nếu muốn cho tâm của bạn an trú không dính mắc, thanh tịnh, thư thái, bạn nên thực hiện các pháp như sau: (a) Đoạn trừ bất cứ nghi hoặc, hối hận hay do dự trong lòng. Ngay cả những việc làm bất thiện đã phạm trong quá khứ cũng không cho vướng mắc, bận tâm bạn. Biết mình đã làm lỗi là “giác”, biết lỗi rồi, sửa lỗi và quyết không phạm lại nữa, như vậy là làm xong công việc sám hối. Làm xong rồi phải buông xả nó ra một cách rốt ráo, không nên để chút gì sót lại, hay dính mắc trong tâm của bạn. (B) Ngay cả những việc thiện lành, khi làm xong cũng phải xả, chẳng để cho nó dính mắc trong tâm. Những suy nghĩ này là vọng tâm làm cho tâm bạn không được rỗng lặng, thanh tịnh. Đừng để những việc thiện này làm cho tâm bạn đắc ý, rồi sanh ra cái niệm hay hành động cống cao ngã mạn làm luống uổng công phu và công đức bạn đã tạo được. © Buông bỏ tất cả những sự dính mắc đối với bất cứ ai mà bạn có mối liên quan mạnh mẽ nhất trong đời này, kể cả những sự quan hệ thương hay ghét, thân hay oán. (d) Nhiếp tâm niệm Phật không tán loạn, không vọng tưởng. Lấy danh hiệu Phật A Di Đà làm công cụ phá vọng, phá mê để đạt và giữ được trạng thái thanh tịnh, thư thả của tâm. Nếu bạn làm được như thế, mặc dầu thân bạn tuy vẫn ở trong hình tướng con người, nhưng tâm bạn thì bình đẳng với Phật A Di Đà – rỗng lặng như hư không. Muốn làm được như vậy, lúc niệm Phật nên dừng tất cả chuyện nói, làm người bị câm mà niệm. Niệm theo từng nhịp thở, từng cơn đau, từng cơn lạnh buốt giá, ngay cả lúc vui hay buồn v.v… Khi bạn đang được an trụ vào trong câu Phật hiệu cũng chính là bạn đang được an trụ vào trong tự tánh của chính mình, không dính mắc và thư thái, không vọng tưởng. Lúc đó, bạn hãy cố giữ cho tâm của bạn ở trong trạng thái vắng lặng, trống rỗng, chỉ còn lại một niệm “A Di Đà Phật” ở trong tâm. Bạn phải hiểu Tâm không có màu sắc hoặc hình tướng để nhận biết ra được nó, nhưng tự nó tuyệt đối trống rỗng và nhận biết hoàn toàn sáng tỏ thấu suốt (viên minh), vì đó chính là tự tánh của tâm bạn. Nhận biết tâm như thế, trở thành chắc chắn về tâm, đó là kiến (thấy biết). Để duy trì tâm không bị tán loạn trong trạng thái tịnh chỉ, không vọng niệm hoặc chấp thủ đó là trạng thái thiền định. Ở trong trạng thái đó không bị dính mắc vào chấp thủ hoặc tham luyến, chấp nhận hoặc đối kháng, mong cầu hoặc sợ hãi, đối với bất cứ vọng thức nào nữa cả. (e) Đừng gửi lòng cư trú ở các nơi của người sống bình thường; chỉ gửi lòng mình nơi cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà mà thôi. Vào thời điểm chết, bạn nên biết là bạn sẽ phải trải qua những cảm giác thế nào? Vào lúc sắp lâm chung bạn phải trải qua nhiều cảm giác khổ đau cùng cực, những cảm giác này gây ra bởi những nguyên nhân như sau: 1. Vào lúc địa đại hòa nhập hay tan biến vào trong thủy đại, thân thể trở nên nặng nề và thân không thể tự nương nhờ thân. 2. Vào lúc thủy đại hòa nhập vào trong hỏa đại, miệng và mũi khô khan, ngưng nói bí lời. 3. Vào lúc hỏa đại hòa nhập vào trong phong đại, thân nhiệt biến mất. 4. Vào lúc phong đại hòa nhập vào trong thức đại, bạn chỉ có thể thở ra khò khè và hít vào nấc nghẹn. Vào lúc đó, bạn sẽ có cái cảm giác như đương bị đè nặng bởi một ngọn núi rất lớn, đương bị sập bẫy trong bóng tối, đương bị buông rơi vào vô tận của hư không. Nếu tâm bạn nghe nhận và niệm được câu Phật hiệu một cách thanh tịnh, toàn thể bầu trời sẽ tự nhiên tươi sáng rực rỡ như một tấm gấm trải rộng. Những bóng tối và sự đè nặng trong tâm tức khắc liền tan biến. Hơn thế nữa, hình tướng của Phật A Di Đà tự nhiên hiện ra ở trong tâm của bạn, cùng với những ánh quang minh sáng diệu vô thượng như trăm nghìn ánh mặt trời chiếu sáng cùng một lúc. Quang minh sáng rực, nhưng minh diệu lạ thường, nó không làm bạn chói mắt khó chịu; ngược lại, nó làm cho bạn tươi tỉnh, sáng suốt và rỗng lặng lạ thường. Tự nhiên bạn không còn cái cảm giác khổ đau gây ra bởi do thân tứ đại của bạn đang phân ly nữa. Đây chính là thành quả của năng lực niệm Phật của bạn (Tự lực) cùng năng lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà (Tha lực). Vào lúc này tính giác viên minh của bạn sẽ nhắc nhở bạn: Đừng bị tán loạn! Đừng xúc động! Không lâu nữa Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn bạn về cõi Cực Lạc. Bạn phải ráng giữ cho tâm của bạn luôn rỗng lặng, thanh thản và tiếp tục niệm Phật không ngừng, ngay cả khi gặp được Đức Phật A Di Đà xuất hiện. Tại sao vậy? Vì nếu bạn giữ được tâm rỗng lặng như hư không, không xúc động vì vui mừng theo thói tục của thế gian chúng sanh, khi gặp Phật, bạn sẽ sanh về cõi Cực Lạc với phẩm vị rất là cao. Vì ngay lúc này với sự trợ lực của Phật A Di Đà, bạn đã đạt được Niệm Phật Tam Muội hay Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu bạn còn có cái niệm vui mừng xúc động khi gặp Phật, phẩm vị vãng sanh của bạn bị hạ thấp xuống, vì tâm bạn vẫn còn dính mắc vọng niệm của người phàm phu. Khi bạn thấy Phật A Di Đà xuất hiện, bạn cũng đồng thấy vô số Phật, Bồ-tát và Thánh Chúng đồng xuất hiện để nhiếp thọ tiếp dẫn bạn. Hình tướng và dung mạo của các vị Phật ở cõi Tây Phương, cũng giống hệt như Phật A Di Đà. Hình tướng và dung mạo của các Bồ-tát cũng đồng giống hệt như Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, không có tướng sai khác. Bạn cũng được nghe tiếng của thánh chúng niệm Phật vang động cả bầu trời với những âm thanh vi diệu hòa nhã và tùy hỷ. Nên lưu ý, trước khi gặp Phật, ma chướng (nghiệp chướng) cùng sinh của bạn sẽ loạn động cái tâm của bạn làm cho chánh niệm của bạn bị sụp đổ, bạn muốn niệm Phật cũng rất là khó khăn hay chẳng thể niệm được; nó phát ra những âm thanh chói tai, uy mãnh và làm mê mờ bạn. Ở vào thời điểm này, bạn hãy tuệ tri điều này: 1. Cái cảm giác đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi, không phải là bạn đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi. Đó là khi các đại của bạn đang hòa nhập. Hãy đừng sợ hãi chuyện đó! 2. Cái cảm giác đương bị sập bẫy trong bóng tối, không phải là đang bị sập bẫy trong bóng tối. Đó là khi năm quan năng của bạn đang hoà nhập! 3. Cái cảm giác đương bị buông rơi vào trong vô tận của hư không, không phải là bạn đương bị buông rơi. Đó là tâm của bạn không có cái gì để nương nhờ, bởi thân và tâm của bạn đã ly biệt và hơi thở của bạn đã ngừng lại. Vậy bạn phải cố gắng nương vào câu Phật hiệu không gián đoạn để tâm của bạn không bị mê mờ bởi những cảm giác hư vọng này. Tất cả những quang cảnh, các hình tướng, các âm thanh, ánh sáng đều là của chính bạn, đều là do tâm của bạn ảnh hiện bởi do nghiệp lực chiêu cảm. Hãy đừng nghi hoặc gì về điều đó. Nếu bạn cứ cảm thấy nghi hoặc, bạn sẽ bị ném trở vào trong sinh tử luân chuyển. Hãy quyết định sáng tỏ hơn để thấy đó chỉ là chuyện tự diễn-hiện, và nếu bạn nương nhờ an trú vào câu Phật hiệu (nó cũng chính là tính viên minh trong chân không diệu hữu quang minh biến chiếu), trong tính chân không diệu hữu quang minh biến chiếu đó bạn sẽ chứng đạt ba thân – Pháp thân, Báo thân, Ứng Hoá thân – và trở thành giác ngộ. Ngay lúc đó dù nếu bạn có bị ném vào trong sinh tử luân chuyển, bạn cũng sẽ không đi vào đó. Bạn nên biết rằng A Di Đà Phật chính là vị Phật bảo hộ và cũng là tự tánh hiện hữu của bạn để duy trì tâm bạn với chánh niệm không bị tán loạn. Từ thời điểm này, điều rất quan trọng là ở trạng thái không mong cầu và sợ hãi gì cả, không chấp và thủ đối với tất cả các đối tượng và quan năng của sáu thức, cũng như đối với những dẫn dụ mê đắm, hạnh phúc và sầu muộn. Và từ bây giờ trở đi, nếu bạn đã đạt “tịnh chỉ an định”, bạn sẽ có thể bắt đầu có khả năng đảm lĩnh bản tính ở trong trung hữu và trở thành giác ngộ. Thế nên điểm tối yếu cho sinh mệnh của tuệ mệnh là chấp trì câu hồng danh A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn, không tán loạn từ chính thời điểm này. Ma chướng cùng sinh là tập khí hiện tại đưa đến vô minh, nghi hoặc và do dự của bạn. Nên vào lúc ở tử địa, bất cứ hiện tượng dễ sợ nào xuất hiện, thí dụ như những âm thanh, những màu sắc và những ánh sáng, hãy đừng bị mê đắm dẫn dụ, hãy đừng nghi hoặc và hãy đừng sợ hãi. Nếu bạn bị rơi vào nghi hoặc dù chỉ một thời điểm, bạn sẽ lang thang trong cõi sinh tử luân chuyển, vì thế nên hãy đạt được “tịnh chỉ an định” hoàn toàn, không thay đổi và không bị chấm dứt bất thình lình. Ở thời điểm này, những lối dẫn vào tử cung (cửa ngõ tái sinh) hiện ra như những cung điện cõi trời. Hãy đừng bị tham luyến đối với chúng. Hãy tin chắc chắn vào điều nhận biết sáng tỏ thấu suốt đó. Hãy tự tại, không mong cầu và sợ hãi! Vào thời điểm đó, tính giác viên minh trong sáng thấu suốt của chính bạn (tự lực) cùng với quang minh tiếp dẫn của Phật A Di Đà (tha lực) sẽ là cộng lực cứu độ bạn. Khi đạt được Pháp thân giống như hư không cho lợi ích chính mình, bạn sẽ thành tựu lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới. Bạn có thể hoá hiện các thứ báo thân và ứng hoá thân làm lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới, và lúc ấy tâm của bạn sẽ lan tỏa vạn hữu vô tận xứ. Kết Luận: Do vì tâm của chúng ta quá xa rời với giác ngộ và tỉnh thức, do vì nghiệp chướng và tội ác của chúng ta quá nhiều đến không thể tính kể, phước báu thì quá nhỏ bé như hạt mè. Do vì tập khí tham, sân, si, mạn, nghi của chúng ta quá nặng nề tạo thành một màn vô minh dầy đặc bao trùm che phủ Như Lai tánh thường chiếu. Cho nên, ngay trong cuộc sống hiện tại chúng ta phải gặp nhiều ngang trái khổ đau, gặp nhiễm các thứ hồ đồ lộn xộn; cho đến lúc lâm chung, chúng ta không biết nơi nào để đi, chỗ nào để đến, phó mặc cho nghiệp lực dẫn dắt tiếp tục lang thang trôi trong sáu nẻo luân hồi sanh tử. Nay nhờ chút phước mọn sót lại, chúng ta gặp được pháp môn niệm Phật quảng đại thù thắng của Phật A Di Đà do Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tự trao truyền chỉ dạy. Những người có đại tín thành, đại nguyện lực, tinh tấn dõng mãnh, và thông tuệ, những người luôn nhớ đến thầy của họ là Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, những người luôn tín nhiệm vào Phật A Di Đà, những người thân tâm nỗ lực trong thực hành, những người có tâm an tịnh, và có khả năng buông bỏ các mối quan tâm đối với thế giới này. Ðây là những người được tất cả các Đức Như Lai đồng thanh khen ngợi; vì họ, ở trong đời trước, đã từng gặp Phật quá khứ quy y, chiêm bái, cúng dường và họ cũng đã từng được Phật thọ ký Bồ Đề. Những người tin nhận và chân thật tinh tấn tu tập giáo pháp này là những người được thừa hưởng của cải vô tận của các Đức Như Lai trong mười phương ba đời. Tại sao? Vì giáo pháp này đều được tất cả các Đức Như Lai trong mười Phương Thế Giới, mà mỗi Thế Giới lại có vô số vô lượng các Đức Như Lai nhiều như cát của sông Hằng, đồng thanh khen ngợi và tán thán không thể nghĩ bàn, không có sai khác. Lưu Minh Trí - Diệu Âm Trí Thành chuaphuclam.vn
-
Suy ngẫm lời Phật dạy về đạo đức gia đình. Điểm qua tình hình của đời sống xã hội hiện nay, ngoài những việc chúng ta làm được, cũng không ít những điều đáng đau buồn. Ta thấy nhan nhản những tệ nạn xã hội được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Từ việc phát ngôn vô văn hóa, đến những hành vi trộm cướp, những vụ tai tiếng… chung quy là băng hoại lối sống và đạo đức. Khảo cứu những hiện tượng mất đạo đức trong xã hội, dù gián tiếp hay trực tiếp, người ta thấy có mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội, xem chừng chúng có mầm mống từ gia đình mà ra. Do vậy, phải bắt đầu nghiên cứu từ gia đình. Gia đình đóng vai trò là tế bào của xã hội, nhưng bản thân nó lại giống như một xã hội thu nhỏ. Do vậy, quan hệ đạo đức trong gia đình là cái khởi đầu cho quan hệ đạo đức trong xã hội. Trong kinh Thi Ca La Việt (Sìgalovàda sùttra), Phật dạy bổn phận làm chồng có 5 điều đối với vợ và làm vợ cũng có 5 điều đối với chồng; bổn phận làm cha mẹ có 5 điều với con cái và con cái cũng có 5 điều với cha mẹ. Chẳng hạn: “Vợ thờ chồng có năm việc: Một là chồng đi đâu về phải đứng dậy nghênh tiếp; Hai là khi chồng đi khỏi phải lo mọi việc nấu nướng, quét dọn chờ chồng về; Ba là không được có lòng dâm dục với người khác, chồng có trách mắng cũng không được có thái độ trách mắng lại; Bốn là hãy làm theo lời chồng răn dạy, có nhặt được vật gì cũng không được che giấu; Năm là khi chồng ngủ nghỉ, phải lo sắp xếp xong rồi mới ngủ. Chồng đối với vợ cũng có năm điều: Một là đi đâu phải cho vợ biết; Hai là việc ăn uống đúng giờ, cung cấp áo quần cho vợ;Ba là phải cung cấp vàng bạc châu báu; Bốn là những vật ở trong nhà nhiều ít đều phải giao phó cho vợ; Năm là không được ngoại tình, bằng cách nuôi dưỡng, hầu hạ, chuyển tài sản”. Đây là mối quan hệ hai chiều sòng phẳng, nó khác hẳn với tư tưởng quan hệ một phía: Quân, Thần, Phụ, Tử và coi khinh phụ nữ (không có Mẫu) của Nho giáo. Ngẫm ra, người ta chỉ cần thực hiện đúng những lời dạy của Phật, thì thiết nghĩ gia đình trong thiên hạ hạnh phúc hơn rất nhiều. Trong gia đình, quan hệ vợ chồng là điểm xuất phát, làm cơ sở cho các mối quan hệ khác, vì thế nó rất quan trọng. Thực tế không ít trường hợp gia đình hạnh phúc, hoặc bất hạnh và điều đó để lại di chứng cho thế hệ sau cũng xuất phát từ mối quan hệ này. Nhân tiện cần nói thêm, ngay những đứa trẻ sinh ra trong một gia đình bất hạnh thì những thiệt thòi của chúng đã ghi vào tâm khảm - những thiệt thòi ấy, những mặc cảm ấy thường có khi cả đời chúng cũng không thể xóa được và cũng không có gì để bù đắp được! Tác giả đã từng đi tìm hiểu về số phận của những con người hư hỏng... thì thấy rằng, phần lớn đều xuất phát từ những gia đình bất hạnh. Mọi người cũng biết rằng, tình yêu là mơ mộng, nhưng hôn nhân là trách nhiệm và đây thực sự là việc chiến lược của một đời người… Với tầm quan trọng như vậy, nên Phật có dạy về 4 loại sống chung: “Đê tiện nam sống chung với đê tiện nữ. Đê tiện nam sống chung với Thiên nữ. Thiên nam sống chung với đê tiện nữ. Thiên nam sống chung với Thiên nữ” (Kinh Tăng chi I) Khi đưa ra 4 loại sống chung, Phật giảng cả một đoạn dài về vấn đề này, chủ yếu Ngài lấy Ngũ giới để làm tiêu chí cho chúng. Cuối cùng Ngài khẳng định một cuộc sống lý tưởng (Thiên nam sống chung với Thiên nữ) là cả hai người đều phải có đạo đức tốt và sống lương thiện. Một điều đặt ra là, không phải ngay từ đầu người ta đã có phẩm chất của một Thiên nam hay Thiên nữ, mà cái này phải tu luyện, nhiều khi phải tu luyện gian khổ để trở thành lối sống và nếp sống. Như vậy, ngay trong một gia đình, tất cả mọi người chí ít cũng phải lấy Ngũ giới là tiêu chí để giữ mình. Chỉ đơn cử, không ít những trường hợp vì say rượu sinh ra những hậu quả không lường trước được như cha giết con, chồng hại vợ..., anh em chia lìa, kiện cáo lẫn nhau để rồi gia đình tan nát. Phổ quát hơn, con người nói riêng (không phải là chúng sinh nói chung), phải biết chế ngự và đi đến từ bỏ tập khí sinh tử. Đó là tham, sân, si, nó bắt nguồn từ ái dục, cho nên ái dục là nguồn gốc của mọi đau khổ. Khái quát thì tất cả những hiện tượng gây rắc rối cho xã hội hiện nay, suy cho cùng nó từ cái tâmhữu ngã mà ra. Từ quan hệ vợ chồng, chúng ta có thể mở rộng đến quan hệ ông bà và cháu chắt, đồng thời nếu giữ được các giới đó thì rõ ràng, ít ra cũng có thể gọi là một gia đình hạnh phúc. Tuy chưa có điều kiện thống kê, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, những gia đình có đạo (bất kể là đạo nào), thường có nếp sống đạo đức, văn hóa tốt hơn, đồng thời những vụ ly hôn, đổ vỡ... (nếu có) cũng ít hơn gấp nhiều lần so với những gia đình không có đạo. Đây là một điều cũng đáng để chúng ta suy ngẫm, phải chăng Trần Tế Xương đã hơn một lần nhận xét: “nhà kia lỗi đạo...”. Một điều thực tế cho thấy, hiện nay các gia đình Phật tử, ít nhiều người ta đã thực hiện có hiệu quả và thiết thực những điều Phật dạy về hạnh phúc gia đình. Tiến sĩ Tạ Chí Hồng (Đại học Đà Lạt)giacngo.0nline
-
Như đã trao đổi với con qua đt, cô bận ít việc riêng trong 3 ngày có thể vào thứ ba 7/8 cô sẽ liên hệ trao tặng con vật phẩm mang năng lượng chữa bệnh.
-
Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Nguyên Anh ủng hộ Quỹ từ thiện. Đã nhận của Hồng Minh 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Tổng là : 800.000 đ (tám trăm ngàn đồng) Quỹ hiện có : 7,000,000 đ + 800,000 đ = 7,800,000 đ (bảy triệu tám trăm ngàn đồng)
-
Ngay bản chú đã có công năng tịnh hóa cho các chúng sinh hữu tình rồi con ah! Cát mạn đà la không dễ có chỉ để dành cho trường hợp sinh tử thôi con !
-
Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của manhhungjpvn ủng hộ từ thiện. Quỹ hiện có : 6,500,000 đ + 500,000 đ = 7,000,000 đ (bảy triệu đồng)
-
Nếu ở Tp HCM bạn có thể liên hệ với tôi qua PM, Tôi sẽ hướng dẫn bạn đến nơi thỉnh cát mandala nhé!
-
Bạn vui lòng xem lại các trang trước đã có vài bạn phát tâm ấn tống và phát triển giống bạn, mặc dù rất khuyến khích nhưng vẫn cần điều kiện để thực hiện và tôi cũng đã lý giải ở vài bài trong topic này. Tuy nhiên bạn Nha Khanh cũng sẽ gởi tặng bạn 21 linh phù qua đường bưu điện nhé!
-
Ngày 21/4/2012 nhằm ngày mùng 1 tháng 4 năm Nhâm Thìn, Trung tâm NC LHĐP đã có chuyến đi thực tế nghiên cứu và tìm hiểu về Cây đa với nhiều đồn thổi .... Nhân duyên từ Thần Chú Giải Thoát, một ngôi chùa tại huyện Định Quán Tỉnh Đồng Nai đã cung cấp cho chúng tôi câu chuyện về cây đa đối diện nhà Chùa đã có nhiều hiện tượng kỳ bí mà mọi người quanh vùng bất an. Cạnh cây đa là Điện Thủy Lâm động. Phía trái là cây đa với sự phát triển tán lá phía trên thưa nhỏ Và Sư Phụ đã tiến hành thực nghiệm quả lắc, sự thay đổi có phần bất ngờ với tôi nhưng với SP dù cẩn trọng vẫn ko ngoài dự báo và điều gì Sp cũng giãi thích cho chúng tôi trước phần kết quả. Câu chuyện đưa chúng tôi đến tham quan nơi đây bởi người dân quanh vùng khẳng định cây Đa này nhiều hiện tượng mà họ kết luận " Ở dây ko có ma nhưng có quỷ!" (sẽ tường thuật tiếp)
-
"Ranh" ngôn *Chân dài phải khôn thì mới dồn được đại gia vào chỗ dại. *Mọi dối trá đều chung một gốc nhưng lại ra những hoa trái khác nhau. * Thực phẩm dành cho trí tuệ thường là thứ không ăn được. * Một số người lầm tưởng rằng, dân chủ, đó là khi tổng thống có thể nói trên truyền hình mọi điều ông ấy muốn. * Khó nhất là chứng minh những điều hiển nhiên đúng. * Nếu các chân dài thích bạn thì có nghĩa bạn là đại gia hoặc bạn đang làm ra vẻ bạn là đại gia. * Càng lắm tội, càng vội lên chùa. * Hạnh phúc nhất không phải là người phụ nữ có đức ông chồng tuyệt nhất mà là người phụ nữ nghĩ rằng mình đang có một ông chồng tuyệt nhất. * Tình dục không phải thứ quan trọng nhất trong cuộc sống. Quan trọng nhất là làm sao để nó không trở nên nhàm chán. * Với người khôn thì trót dại cùng cũng thích. * Người chồng tồi là người không bao giờ thích bồ bịch. * Bạn càng thành công thì ở gần bạn càng ít người vui vì sự thành công của bạn. * Thông minh không phải là người đọc nhiều mà là người suy nghĩ nhiều về những điều đã đọc. * Hôn nhân không phải cách tốt nhất để gìn giữ tình yêu, nhưng tình yêu là cách tốt nhất để gìn giữ hôn nhân. * Những người thông minh và những người xinh đẹp đều mắc chung một tật: cứ tưởng như thế là mãi mãi. * Nghi lễ phổ biến nhất ở một số nơi chính là giả lễ chúa Mường. * Mức độ thành công được xác định không phải bởi những gì ta đã đạt được, mà bởi những trở ngại ta đã vượt qua. * Người đàng mình mới hay bội tình. * Hạnh phúc, đó là thứ duy nhất càng san sẻ càng gia tăng. * Trong tình yêu không ai nợ ai cả. Tình yêu, đó là khi không thể nào sống khác. * Đã là chân dài thì phải oai vòng một. * Người thông minh biết tận dụng những điều kiện thuận lợi, người anh minh biết tạo ra chúng. * Thủ lĩnh đích thực thường đứng ở phía sau. Giống như người chăn gia súc. * Con chó ngoan nhất là con chó bông. * Quan trọng không phải là kiếm to hay dài, mà là kiếm pháp. * Khi bạn chỉ có búa thì mọi sự đều chẳng là cái đinh gì
-
Rờn rợn rắn thần đêm đêm bò về bàn thờ người phụ nữ tự vẫn Dù đã nhiều ngày trôi qua kể từ khi xảy ra sự việc, anh Trần Thạnh (SN 1959, ngụ thôn Phú Tân 2, xã An Cư, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) vẫn không sao lý giải được sự việc vì sao sau ngày vợ mất, cứ đêm đêm lại có một con rắn cực độc bò vào chân bàn thờ nằm cuộn tròn và “hiền như nai tơ”. Vùng quê xôn xao Sự việc được người dân đồn thổi, thêu dệt thêm nhiều tình tiết xôn xao dư luận cả một vùng. Người ta kể rằng sau ngày người vợ tự vẫn chết vì bệnh đãng trí, ông rất thương bà và đám ma chay được ông lo chu tất đàng hoàng. Sau đó vài ngày, một hôm lúc ông đang nằm ngủ trong nhà giữa đêm khuya thì bỗng dưng có một con rắn hổ to xuất hiện nằm khoanh từ lúc nào ở trong quần ông. Con rắn nằm trong quần người chồng nhưng không hề cắn mà chỉ cựa qua lại. Khi phát hiện, ông đốt nhang khấn vái thì con rắn này bò ra khỏi quần và loanh quanh trên sàn nhà ở lại với ông suốt đêm hôm đó rồi ra đi khi trời sáng. Liên tiếp những đêm hôm sau, ông Thạnh thấy những con rắn lạ khác nhau xuất hiện trong nhà mình, có khi nó ở nhà trên, có khi luẩn quẩn dưới bàn thờ rồi xuống nhà dưới. Ghê sợ nhất là một hôm ông đang nằm trên chiếc chiếu trải dưới nền nhà, bỗng đâu nghe phía dưới chiếu có vật gì cộm cộm mà lại cựa quậy, ông Thạnh ngồi bật dậy giở chiếc chiếu lên thì thấy một con rắn hổ to màu đen đang nằm khoanh tròn. Đuổi kiểu gì nó cũng không đi, ông phải thắp nhang khấn vài lời thì con rắn mới nhẹ nhàng trườn đi. Cứ như vậy, vài ba đêm rắn lạ lại xuất hiện một lần, những con rắn có màu sắc khác nhau nhưng hình thù thì lại giống nhau. Phải đến khi làm xong tuần 49 ngày cho vợ, những con rắn mới không xuất hiện nữa. Chuyện những con rắn độc xuất hiện liên tiếp trong nhà ông Thạnh làm nhiều người hàng xóm bán tín bán nghi, đem câu chuyện ra khắp nơi “bình loạn”. Người thì cho rằng: “Sao tôi ở gần bên mà không hay biết chuyện gì hết”; người thì nói: “Chuyện xảy ra vậy mà ông ấy gan thật, sáng nào tôi cũng thấy ông đi lên rẫy tới chiều tối mới về, cứ như không có chuyện gì xảy ra”; người lại “đoán già đón non”: “Vì chị vợ chết trẻ, còn vương vấn cuộc sống trần gian, thương nhớ chồng con nên đã hiện hồn về luẩn luẩn đâu đó chứ chưa thể đi về thế giới bên kia hẳn”; người thì lại ác mồm ác miệng: “Do nó chết tức tưởi, còn nhiều chuyện ở đời chưa vừa ý nên ấm ức trở về coi thử chồng con đối xử với nó như thế nào”… Mỗi người một ý, song những người mê tín đều khẳng định rằng những con rắn đó chính là “hồn” của vợ anh hiện về. Rắn độc “ngự” trên… đùi Tiếp chúng tôi trong căn nhà xây khá khang trang nhưng không khí buồn quạnh quẽ vì vợ anh vừa mới qua đời, trong nhà chỉ còn có anh chủ nhà Trần Thạnh, cô con gái út đang học lớp 12 và chiếc bàn thờ suốt ngày nghi ngút khói hương. Khi được hỏi về thực hư của những chuyện người ta đồn đại như trên, chủ nhà không ngần ngại thuật lại tường tận câu chuyện. Được biết vợ chồng anh cưới nhau hàng chục năm nay, sinh được hai đứa con, thằng lớn tốt nghiệp Đại học rồi làm việc, lập gia đình ở Sài Gòn; đứa em gái đang học lớp 12. Gia đình anh sống bằng nghề nông. Cách đây một năm, vợ anh mắc chứng suy nhược thần kinh rồi mất ngủ kéo dài, anh đã đưa vợ đi khám bệnh khắp nơi rồi lấy thuốc về nhà uống. Tuy nhiên bệnh của chị không giảm mà mỗi ngày càng nặng thêm. Hồi đầu năm, anh dự định khi sắp xếp công việc nhà nông xong thì anh sẽ đưa vợ vào Sài Gòn thăm khám điều trị. Rạng sáng một ngày giữa tháng 9 vừa qua, như mọi ngày anh lên rẫy bỏ cỏ cho bò ăn. Trước khi đi, chị Đỗ Thị Số vợ anh có nói: “Ba nó sao bữa nay đi sớm vậy”, anh trả lời: “Tranh thủ đi đặng về sớm chiều nay tui đưa bà đi Sài Gòn khám bệnh, bây giờ bà ở nhà với con út”. Nhưng không ngờ, khi vừa đến rẫy thì có người gọi điện thoại bảo anh về gấp, nhà có chuyện rồi. Linh tính chẳng lành, anh vội chạy về nhà thì sự việc đã xong xuôi, vợ anh đã tự vẫn chết trong nhà. Anh Thạnh kể lại giọng buồn tủi: “Nếu không có con, tôi cũng sẵn sàng đi theo má nó chứ không thiết sống làm gì nữa khi chỉ còn lại một mình”. Một mình anh lo chu toàn đám tang cho vợ. Mấy ngày đầu, anh em bà con hàng xóm tối còn đến chơi chia buồn, sau đó cha con anh cũng quen dần. Từ ngày vợ mất, buổi tối hai cha con anh Thạnh không ngủ mỗi người một phòng như trước kia mà cả cha con đem chiếu trải trước chiếc bàn thờ nằm, vì anh cho rằng: “Không thể bỏ má nó một mình, lên đây nằm cho vui, nhà còn có ai đâu”. Chuyện lạ bắt đầu xảy ra khoảng hai tuần sau ngày chị vợ mất, một đêm anh và con út đang nằm ngủ trước bàn thờ, nửa đêm bỗng thấy trên đùi lạnh lạnh, anh ngồi dậy giở chăn ra thì hết hồn thấy một con rắn hổ mang lớn cỡ cán dao, màu đen nằm trên đùi mình. Ban thờ nơi những con rắn lạ hay lui tớiAnh gọi con ngồi dậy rồi hất rắn xuống chiếu, giũ cái chăn nhưng con rắn không bò đi mà cứ nằm lì trên chiếc chiếu. Hai cha con lấy cái que nhỏ lùa đi thì rắn ngóc cái đầu phù mang hiện rõ hai vệt màu hồng trên mang. “Nó cứ luẩn quẩn bò qua bò lại, sau đó bò vào xó nhà rồi chui vào một cái thùng giấy. Tôi mở cửa, bưng cái thùng giấy này ra bỏ ngoài sân rồi đóng cử ngủ bình thường, sáng hôm sau ra xem con rắn đó đã đi mất”, anh thuật lại. Một tuần sau, chuyện lạ lặp lại khi khoảng 7 giờ tối, trong lúc nhà đang tụng kinh làm tuần 21 ngày thì cũng dưới chiếc chiếu trước bàn thờ lại có một con rắn sọc dưa cũng lớn bằng con rắn bữa trước loanh quanh bò trong nhà. Chủ nhà thuật lại: “Khi bị phát hiện, con rắn này bò lại chân bàn thờ má nó rồi bò tiếp vào bàn thờ chính trong nhà, mọi người sợ quá bỏ xuống nhà dưới hết. Riêng tôi không sợ, khi tôi lục tìm trong ban thờ thì không rõ nó bò đi chỗ nào tôi không biết”. Anh Thạnh nhấn mạnh: “Có sao tôi nói vậy, sự thật là như thế, còn chuyện 2 con rắn là rắn thật hay rắn do mẹ nó “hiện hồn” về thì tôi không biết”. Chỉ nhớ vợ, không sợ rắn Theo nhận định của một số người, có thể đó là những con rắn ban đêm đi bắt chuột, do anh nằm dưới nền nhà, đắp mền có hơi ấm nên ngẫu nhiên nó bò vào tìm hơi ấm. Nhiều người khuyên anh ban đêm nên ngủ trên giường để tránh những điều không may tương tự có thể xảy ra. Anh thì một mực cho rằng: “Biết vậy nhưng tôi không thể ngủ trong phòng, bỏ má nó một mình, và chẳng lẽ đem cái giường để trước bàn thờ”. Tuy nhiên từ đó đến nay, buổi tối cha con anh vẫn ngủ chỗ này nhưng chẳng thấy con rắn nào nữa. Khi kể xong câu chuyện, anh Thạnh thấy lòng mình nhẹ hẳn vì có người muốn tìm hiểu và chính anh cũng có nguyện vọng muốn chia sẻ chuyện thực hư rõ ràng với mọi người. Qua đây, anh cũng muốn nhắn gửi đến mọi người đôi điều rất cần thiết nếu ai chẳng may gặp phải chứng bệnh suy nhược thần kinh như người vợ anh. “Ban đầu là bệnh suy nhược thần kinh, dần dần dẫn đến mất ngủ rồi trầm cảm, mất trí nhớ. Người bị bệnh này hay tủi thân, dễ xúc động và nghĩ quẩn, nếu mình không quan tâm chăm sóc cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng tự vẫn”, anh cho biết. Trường hợp vợ anh cũng vậy. Anh thấy mình như có lỗi với vợ vì suốt ngày mình lo công việc rẫy rừng, bò nghé nên không có thời gian quan tâm chăm sóc cho vợ nhiều. “Bao nhiêu thuốc mua về má nó bảo cũng uống hết rồi, không ngờ khi sự việc xảy ra tôi mới biết má nó giấu hết, phần đem ra hiệu thuốc tây bán lại. Phải như mình quan tâm hơn thì không đến nông nỗi này”, người chồng tội nghiệp thở dài. Theo Pháp luật & Thời đại
-
Bài #681 có trả lời câu hỏi này.
-
Vp mở cửa cả ngày chủ nhật và lễ, lúc nào cũng được con ah!
-
Thân mến gửi tặng những bạn trẻ sắp lập gia đình riêng Phật Dạy Về Tình Yêu Từ ngàn đời xưa đến nay, chủ đề tình yêu luôn được con người quan tâm. Nhưng hàng ngàn năm sau người ta vẫn chưa hết quan tâm nó. Tuy nhiên để yêu thương thế nào cho có hạnh phúc dài lâu thì không phải ai cũng hiểu được. Bạn hãy một lần suy ngẫm về những lời Phật dạy dưới đây để có thể chọn cho mình một cuộc sống hạnh phúc trong tình yêu nhé. Phật dạy rằng: "Có hiểu mới có thương. Tình yêu phải được xây dựng trên cơ sở của sự hiểu biết". Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu. Mỗi con người đều có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời. Trong cõi đời này, nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thưòng xảy ra. Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó. Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình. Vì vậy, chọn người hiểu và thương mình - hãy nhớ - đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời. Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả. “Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày. “Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời. Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian, để quan sát, để lắng nghe, để thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc. “Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công. “Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/ anh, em/ anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc. An Bình ( Sưu tầm )
-
Lời Phật dạy về giá trị đạo đức cho một xã hội, quốc gia Thứ Năm, 19/07/2012 | 05:07 Mọi người đều biết, hiện nay, ngoài những việc chúng ta đã làm được, bên cạnh đó còn để lại một xã hội lộn xộn. Tham nhũng tràn lan, ngày càng tinh vi, mà xem chừng khó đẩy lùi. Phải khẳng định, đây là căn bệnh của công quyền. Trong xã hội loài người, tham nhũng xuất hiện từ khi có giai cấp và nhà nước. Ngoài ra, còn kéo theo hàng loạt những hiện trạng khác như vô cảm, bất công, gian dối, băng hoại lối sống và đạo đức. Ðiều này không nói thì mọi người cũng thấy quá rõ… Từ thực trạng của xã hội như trên, trong kinh, Phật đã dạy về đạo đức cho một quốc gia hưng thịnh, một xã hội thái bình, mà ngẫm ra, đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Phật quan niệm quốc gia bao gồm dân chúng và quốc vương. Ðiều này, chí ít, Phật giáo quan niệm quốc gia không phải của ông vua như Nho giáo và những tư tưởng bị ảnh hưởng Nho giáo. Rất tiếc, ngày nay, nhất là các cấp cơ sở, không ít người hiểu về cơ quan, đơn vị mình theo tinh thần như vậy![/font] Trước hết, nói về dân. Một trong những chuẩn mực đạo đức để cho một xã hội, một quốc gia hưng thịnh là dân chúng phải đoàn kết, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, đồng thời tôn trọng truyền thống và luật pháp. Vấn đề này, trong kinh Ðại bát Niết bàn (kinh Trường bộ), nhân chuyện vua nước Magadha là Ajatasattu muốn xâm lược nước Vajjì, nên cho đại thần Vassakara đến hỏi Phật. ]Phật đưa ra 7 điều và hỏi Ananda trước mặt Vassakara, nội dung như sau: 1. Ngày nào mà dân chúng thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau. 2. Ngày nào mà dân chúng thường hay tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết. 3. Ngày nào mà không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống đã được ban hành thuở xưa. 4. Ngày nào mà dân chúng tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão. 5. Ngày nào mà dân chúng không cướp bóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ. 6. Ngày nào mà dân chúng còn tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các miếu tự ở trong và ngoài tỉnh thành, không bỏ lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp. 7. Ngày nào mà dân chúng bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp với các vị A-la-hán ở tại nơi mình, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến sẽ sống an lạc. Cuối cùng Phật kết luận: “Này Vassakara, khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân Vajjì, khi nào dân chúng Vajjì được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời dân Vajjì sẽ cường thịnh, không bị suy giảm”(1). Nghe xong, Vassakara chắp tay bạch Phật rằng: Chỉ cần dân chúng Vajjì giữ trọn một điều thôi thì nước Magadha cũng không dễ gì xâm lược được! Như vậy, người ta thấy ngay rằng, sức mạnh của một đất nước bắt nguồn từ sự tôn trọng công lý và đoàn kết thành một khối thống nhất. Ðây cũng là điều mà Nguyễn Trãi nhận xét về sự thất bại của nhà Hồ, cho nên: “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa” (Thuận cơ trời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng thuận lòng dân)(2). Thứ đến, muốn cho một xã hội an bình, cường thịnh còn phải có vai trò của người đứng đầu. Ðương thời, Phật nhìn thấy rất rõ về bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và Ngài chứng minh rằng: Toàn thể xứ sở có thể trở thành đồi trụy, thối nát và bất hạnh, nếu vua quan đều thối nát và bất công. Theo Phật, muốn cho một quốc gia hạnh phúc phải có nền chính trị công bằng, mà phần cốt tử đóng góp cho sự công bằng là từ đời sống đạo đức, sống thiện của người cầm đầu. Do vậy, Ngài thuyết Thập vương pháp với nội dung: 1. Là sự rộng rãi, bố thí, bác ái. Người cai trị không được thèm khát và bám víu vào tài sản, tiền của mà phải bố thí cho dân tộc no ấm. 2. Phải có một đức tính cao đẹp. Làm vua không bao giờ được sát hại, lừa bịp và bóc lột kẻ khác, tà dâm, nói lời sai quấy, rượu chè. Ðiều này có nghĩa là, chí ít ông vua cũng phải giữ năm giới của nhà Phật. 3. Hy sinh tất cả vì hạnh phúc của dân chúng. Ông vua phải sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cho cá nhân mình, tên tuổi danh vọng và ngay cả sự sống của mình vì lợi ích của dân. 4. Trực hạnh. Ông vua phải xa lìa sự sợ hãi và thiên vị khi thi hành công vụ, phải thật trong ý định và không được lừa bịp dân chúng. 5. Khổ hạnh. Ông vua phải sống một cuộc đời giản dị, không được xa hoa, đồng thời phải biết chế ngự bản thân mình. 6. Nhu hòa. Ông vua phải có tính tình hòa nhã. 7. Không thù hằn ác độc. Ông vua không được có tư thù và tâm địa độc ác với bất cứ ai. 8. Bất hại. Ông vua không làm hại ai mà còn phải cố tạo hòa bình bằng cách tránh và ngăn ngừa chiến tranh hay sự dính dáng đến bạo động, sát hại chúng sinh. 9. Nhẫn nại. Ông vua phải chịu đựng khó khăn, khổ cực và những sự nhục mạ mà không mất bình tĩnh. 10. Không đối lập, không ngăn cản. Ông vua không được đi ngược với ý chí của toàn dân, không được ngăn cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi lộc cho toàn dân. Nói cách khác là ông vua phải cai trị thuận với ý chí của dân tộc(3). Ngoài ra, trong kinh Kùtadanta (kinh Trường bộ, tập III), Phật còn dạy rằng, các hình phạt sẽ không hữu hiệu, không thành công, không công bằng và lợi ích bằng việc cải thiện kinh tế…[/font] Như vậy, nội dung chủ yếu của Thập vương pháp là Phật muốn ông vua phải sống có đạo đức ít ra là với tinh thần vô ngã. Ðiều này cũng giống như muốn cho quốc thái dân an thì ông vua, mà mở rộng ra là người cai trị phải công minh, chính trực. Ðó cũng là ý tứ câu “chính giả, chính dã” (người làm chính trị thì mình phải chính) của Khổng Tử, câu “dĩ chính trị quốc” (lấy ngay thẳng mà trị nước) của Lão Tử. Nếu người cai trị mà tâm địa hẹp hòi, đố kỵ, tư lợi, thiên vị, sống không công bằng, hưởng lạc, trác táng... thì đó là nguy cho nước.[/font] Thâu tóm những tư tưởng trên, Thiền sư Pháp Thuận (?-990) có hiến kế cho vua Lê Ðại Hành một phép trị nước lừng danh trong lịch sử Việt Nam. Ðó là, “vô vi cư điện các; xứ xứ tức đao binh” (tạm dịch: ông vua cai trị phải sống với tinh thần vô tư, vô vi, thực chất là vô ngã thì khắp nơi không có cảnh đao binh, loạn lạc). Ðây là bài học cho những người cầm cân nảy mực ở các cấp công quyền suy ngẫm![/font] Với tinh thần nhân bản lớn, Phật giáo còn đóng góp cho một nền hòa bình trên trái đất, Niết-bàn giữa trần gian. Theo Phật, tất cả những cuộc chiến tranh, tất cả những điều nhiễu nhương… trong xã hội, suy cho cùng đều do cái tâm hữu ngã của con người loạn động từ tham, sân, si mà ra, đồng thời không bao giờ hận thù có thể xóa được hận thù. Nếu con người hữu minh từ bỏ tam độc đó bằng cách dứt trừ tâm ác, tinh tấn tâm thiện, tâm vô ngã thì sẽ góp phần đem lại hòa bình cho dân tộc và trên trái đất. Từ lẽ đó, cũng có thể rút ra nhận xét rằng: cái tâm của con người bẩn và loạn là tác nhân cho một xã hội bẩn và loạn, cái tâm của con người an tịnh và trong sạch thì xã hội sẽ yên bình, lành mạnh và trong sáng. Do vậy, con đường đạo đức của Phật giáo là xây dựng cái tâm ổn định, bất hại, an lạc và từ bi cho từng người, từng loại người, cho nên tự thân giáo lý Phật giáo nổi bật sắc thái của từ bi, bất hại, bất sát, bất đạo. Ðó cũng là sắc thái của giáo lý hòa bình, an lạc và điều này được gói gọn trong lời dạy của Ðức Phật: Từ bỏ mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý trong sạch (kinh Pháp cú, kệ 183).[/font] Có một điều phải bàn thêm, luật pháp và đạo đức, cả hai đều trực tiếp tác động đến hành vi của con người; chỗ khác nhau cơ bản là: sức mạnh của luật pháp nằm ở việc thực thi các điều luật do nhà nước thống trị ban hành, còn sức mạnh của đạo đức nằm ở dư luận xã hội. Thông thường, cứ chỗ nào, khi nào đạo đức bất lực thì luật pháp lên tiếng. Nhưng, luật pháp bất lực thì sao? Trong xã hội, đây là cái mầm của loạn![/font] Bàn về vấn đề này, Phật giáo dựa vào một trong những cơ sở rất vững chắc để xây dựng một hệ thống đạo đức. Ðó là thuyết Nghiệp, nó được triển khai từ luật Nhân-quả của cùng học thuyết. Theo Phật giáo, luậtNhân-quả là một luật hiển nhiên trong cuộc sống, đồng thời, không ít các hệ tư tưởng khác cũng thừa nhận.[/font] Cũng theo Phật giáo, thuyết Nghiệp giải thích tất cả từ cấu tạo thân thể cho đến hạnh phúc, bất hạnh... của từng chúng sinh cụ thể. Quan tòa của mỗi chúng sinh là do cái nghiệp của mình, bắt đầu từ sự tác ý của mình. Ðây là quy luật có giá trị khách quan và công bằng. Do vậy, con người hay cái ta của Phật giáo, thực chất là Nghiệp báo, cho nên con người của Phật giáo là con người của hành động - hành thế nào nhận thế ấy. Theo tinh thần đó, Phật tuyên bố: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”(4). Rõ ràng, đây là một luật nghiêm khắc và sòng phẳng, cho nên Lão Tử nói: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt”. Con người để lại đằng sau những hành động của mình, dấu ấn được ghi hết sức tỉ mỉ, không có chuyện nhầm lẫn và sai sót. Người ta gieo nhân nào, sẽ gặp quả ấy, còn thời gian vay trả phụ thuộc vào quả dị thục (chín), nhưng trước sau cũng không thoát được. Cũng vì lẽ này, Phật có nói: “Kẻ phàm phu không tri giác nên đi chung với cừu địch một đường. Cũng thế, những người tạo ác nghiệp nhất định cùng ác nghiệp chịu khổ báo”(5).[/font] Chính đây là sức mạnh, một lời cảnh báo, là quan tòa cho chính mình và thực tế đã chứng minh rằng: ngày càng có nhiều trường hợp nhân quả nhãn tiền, cho nên Bồ tát thì sợ nhân, chúng sinh thì sợ quả! Ðây là giá trị đáng trân trọng của tư tưởng Phật giáo. [/font] Như vậy, trên cơ sở của thuyết nghiệp, Phật muốn trước hết con người phải làm thiện từ tâm, thân, khẩu, chính cái này đem lại hạnh phúc cho mình, cho người và cho xã hội. Rồi sau đó, hành giả buông xả tất cả theo tinh thần vô ngã để tiến tới bờ mé của sự giải thoát viên mãn. Tiến sĩ TẠ CHÍ HỒNG (Ðại học Ðà Lạt) todinhlongkhanh.com
-
Lời Phật Dạy Về Tình Yêu Đêm khuya, trong một ngôi Chùa, một Người một Phật, Phật ngồi Người đứng.. Người: Thưa Đức Phật thánh minh, con là một người đã có vợ, con hiện đang yêu say đắm 1 người đàn bà khác, con thật không biết nên làm thế nào? Phật: Con có thể xác định người đàn bà con đang yêu hiện nay là người đàn bà cuối cùng và duy nhất trong cuộc đời con không? Người: Thưa vâng. Phật: Con ly hôn, sau đó lấy cô ấy ? Người: Nhưng vợ con hiện nay dịu dàng, lương thiện, thảo hiền. Con bỏ cô ấy liệu có phần tàn nhẫn không, có mất đạo đức không, thưa Đức Phật? Phật: Trong hôn nhân không có tình yêu mới là tàn nhẫn và mất đạo đức. Con hiện giờ đã yêu người khác, không yêu vợ nữa. Con làm như thế là đúng. Người: Nhưng vợ con vẫn rất yêu con, quả thật yêu con lắm, thưa Đức Phật Phật: Vậy thì vợ con hạnh phúc Người: Sau khi con chia tay vợ để lấy người khác, vợ con sẽ rất đau khổ, tại sao lại hạnh phúc, thưa Đức Phật? Phật: Trong hôn nhân, vợ con vẫn có tình yêu đối với con, còn con đã mất đi 1 tình yêu đối với vợ con. Bởi vì con đã yêu người khác, chính vì có hạnh phúc, mất đi mới đau khổ, cho nên người đau khổ là con. Người: Nhưng con cắt đứt vợ, sau đó cưới người khác, vậy là cô ấy đã mất con, cô ấy mãi là người đau khổ. Phật: Con nhầm rồi, con chỉ là người vợ con yêu thật sự trong hôn nhân. Khi một người như con không tồn tại, thì tình yêu thật sự của vợ con sẽ tiếp nối sang 1 người khác, bởi vì tình yêu thực sự của vợ con trong hôn nhân xưa nay chưa từng mất, cho nên vợ con mới là người hạnh phúc, con mới là người đau khổ. Người: Vợ con đã từng nói kiếp này chỉ yêu mình con thôi. Cô ấy sẽ không yêu ai khác Phật: Con cũng đã từng nói thế phải không? Người: Con…con…con… Phật: Bây giờ con nhìn 3 ngọn nến trong lư hương trước mặt, xem ngọn nào sáng nhất? Người: Quả thật con không biết, hình như đều sáng giống nhau. Phật: Ba ngọn nến ví như 3 người đàn bà. 1 ngọn trong đó là người đàn bà hiện giờ con đang yêu. Đông đảo chúng sinh, đàn bà đâu chỉ là mười triệu trăm triệu…Ngay đến 1 trong 3 ngọn nến, ngọn nào sáng nhất con cũng không biết, cũng không t́ìm được người con hiện đang yêu, thì làm sao con xác định được người đàn bà hiện nay là người đàn bà cuối cùng và duy nhất trong cuộc đời con? Người: Con…con…con… Phật: Bây giờ con cầm 1 cây nến đặt trước mắt để tâm nhìn xem ngọn nào sáng nhất? Người: Đương nhiên ngọn trước mặt sáng nhất. Phật: Bây giờ con đặt nó vô chỗ cũ, lại xem xem ngọn nào sáng nhất Người: Quả thật con vẫn không nhìn ra ngọn nào sáng nhất. Phật: Thật ra cây nến con vừa cầm giống như người đàn bà cuối cùng con đang yêu hiện nay, tình yêu nảy sinh từ trái tim, khi con cảm thấy yêu nó, để tâm ngắm nghía, con sẽ thấy nó sáng nhất. Khi con để nó vô chỗ cũ, con lại không tìm được 1 chút cảm giác sáng nhất. Thứ gọi là tình yêu cuối cùng và duy nhất của con chỉ là hoa trong gương trăng dưới nước, suy cho cùng chỉ là con số không, một cuộc tình trống rỗng. Người: Con hiểu rồi, không phải Đức phật bảo con phải ly hôn vội vã, Đức Phật đang niệm chú làm cho con ngộ đạo. Phật: Nhìn thấu sẽ không nói trắng ra, con đi đi! Người: Bây giờ con đã biết thật sự con yêu ai, người đó chính là vợ con hiện nay, thưa Đức Phật. Phật: A di đà phật… Chúng ta là những người trần mắt thịt, chúng ta không tránh khỏi những sai lầm trong cuộc sống, đôi khi những gì diễn ra trước mắt chúng ta cứ ngỡ đó là tầm thường… nhưng khi mất đi chúng ta mới cảm thấy quý giá, tiếc nuối. Vì chúng ta là những con người nên những phút xao lòng ngoài chồng ngoài vợ là đều không tránh khỏi, nhưng mỗi chúng ta biết kiềm chế và biết dừng lại để không xảy ra những điều đáng tiếc. Xin chúng ta hãy cân nhắc kỹ đừng để khi mất đi và tìm mãi tìm suốt không ra được những điều chúng ta cho là tầm thường nhất. Hãy cẩn trọng khi chưa quá muộn. “Quay đầu là bờ”… Bài học rất quý giá mong gởi đến tất cả mọi người cùng đọc và cùng suy ngẫm… Còn cứu vãn là còn xây dựng tiếp cuộc sống tương lai… nguoibinhphuoc.vn
-
Khi nào nhận được bạn sẽ biết cách đọc! chờ nhé! thuộc thì tốt nhưng không thuộc cũng chả sao bởi đây là linh phù thông qua sự thấy!
-
Ngày mai Cô sẽ gởi đến con 4 bản chú nhé!
-
Cô cám ơn QTV 10 về lời chúc tốt đẹp nha ! Chúc con vạn sự an lành.
-
Vậy con ghé VP trung tâm A75/6F/14 Đường Bạch Đằng P.2 Q, Tân Bình nhận đi nhé! Số đt 08 38486867.