-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Vị tướng yêu văn hóa dân tộc Chiều ngày 16.10.2010, thượng tướng Phan Trung Kiên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, cùng phu nhân đã về thăm khu di tích lịch sử văn hóa Lệ Chi Viên, nơi cách đây gần 600 năm đã xẩy ra vụ án đen tối cả đất trời Việt Nam. Nguyễn Trãi cùng ba họ và Nguyễn Thị Lộ rơi đầu vì “lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội do chính Nguyễn Trãi đã chiến đấu hơn mười năm gian khổ để góp phần xây dựng nên”. Thượng tướng Phan Trung Kiên không chỉ là vị tướng tài ba, trung kiên, nhân hậu mà còn rất quan tâm đến văn hóa dân tộc, đặc biệt ông thường xuyên tham gia các hoạt động từ thiện. Sau lẽ dâng hương, thượng tướng cùng phu nhân đi thăm khu di tích và nghe nhà giáo Hoàng Đạo Chúc, hội chủ “Hội những người yêu kính Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ”, trưởng ban xây dựng ba ngôi đền thờ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ở Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình; Khuyến Lương, Trần Phú, Hà Nội và Lệ Chi Viên, Gia Bình, Bắc Ninh báo cáo, thượng tướng đã xúc động nói: - Từ lâu tôi đã biết đến nhà giáo Hoàng Đạo Chúc không quản tuổi cao sức yếu, bao năm ròng đi vận động tổ chức minh oan và tôn vinh hai Cụ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Hôm nay được tận mắt chứng kiến sự đoàn kết một lòng của các cấp Đảng và chính quyền cùng nhân dân địa phương, chung tay xây dựng khu di tích Lệ Chi Viên, tôi rất phấn khởi. Bản thân tôi vô cùng yêu kính cụ Nguyễn Trãi, một nhân vật kiệt xuất của lịch sử Việt Nam. Việc làm tốt đẹp của các đồng chí là hành động thiết thực hướng về cội nguồn, tri ân các bậc anh hùng đã xả thân vì nước, có tác dụng giáo dục sâu sắc cho muôn đời sau. Nếu ta không biết tôn trọng lịch sử thì không có hiện tại và tương lai. Hướng về phía bài vị hai cụ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, thượng tướng bộc bạch: - Tôi luôn ghi nhớ lời của cụ Nguyễn Trãi: “Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, không có bạo ngược cường quyền nào ngăn được bước đi của nhân dân, của lịch sử. Chúng ta phải huy động được sức mạnh của lòng dân, được dân ủng hộ thì khó khăn nào cũng vượt qua. Chúng ta phải biết đối xử công bằng với những người có công với nước. Gia đình tôi xin công đức một phần vào việc xây dựng khu di tích Lệ Chi Viên bằng những đồng tiền có được do lao động chính đáng. Đây là nơi trong sạch, thanh cao, các cụ sẽ không bao giờ cho phép ai làm vấy bẩn hương linh hai cụ và trăm họ. Tôi mong rằng các cơ quan có trách nhiệm, các nhà hảo tâm trong cả nước sẽ tiếp tục đóng góp công, của để xây dựng khu di tích, trong một thời gian gần đây, khu di tích Lệ Chi Viên sẽ được công nhận cấp quốc gia cho xứng với tầm vóc của hai cụ. Thượng tướng cùng phu nhân đã trồng cây lưu niệm ở khu dích tích.
-
Xác nhận đã có 1,000,000 đ(một triệu đồng) của Thảo Nguyên góp lễ Cầu siêu.
-
Tôi có theo dõi vụ án này và đêm qua đọc được tin như bài trên "Tôi chợt nghĩ đến hai chữ Nhân Quả..." Nhưng sao vẫn xót xa cho những người còn lại khi họ phải chịu liên tiếp những nghiệt ngã tưởng chừng như không thể nghiệt ngã hơn khi ngày 11/11 tới đây là ngày diễn ra phiên phúc thẩm xét xử Nguyễn đức Nghĩa.
-
Rau cần chữa ho, thiếu máu Rau cần ta khác với rau cần tây. Có hai loại rau cần, một loại sống dưới nước và một loại sống trên cạn, đều có thể dùng làm thuốc được. Theo Đông y, rau cần ta vị thơm, tính bình, không độc, có công hiệu thanh nhiệt, bổ máu, thông đường ruột, giải khát, hạ huyết áp, trị ho. Trị chứng xanh xao, thiếu máu, mất máu: Khi bị mất máu do chấn thương, do phẫu thuật thì lấy hai bó rau cần ta nấu với 200 - 300 gr thịt bò, ăn cả nước lẫn cái. Ăn khoảng 10 - 15 ngày sẽ cho kết quả tốt. Trị chứng tiểu đường: Lấy 500 gr rau cần ta rửa sạch, vò nát, ép lấy nước, uống ngày 1 - 2 lần. Dùng liên tục. Hoặc rau cần ta rửa sạch, chần qua nước sôi, cắt khúc, trộn thêm gia vị, ăn hằng ngày. Trị chứng cao huyết áp: Lấy 10 cây rau cần ta rửa sạch, giã nát, cho thêm 10 quả táo tàu, đun lâu với nước, uống ngày hai lần. Một đợt điều trị 15 - 20 ngày. Hoặc dùng 500 gr rau cần ta, rửa sạch, luộc chín cho thêm đường trắng uống thay trà trong ngày. Hoặc dùng 120 gr rau cần ta cả rễ rửa sạch, cắt nhỏ, cho thêm gạo đủ dùng, nấu cháo ăn thường xuyên. Trị chứng viêm gan mạn tính, đi tiểu ra máu: Lấy 200 gr rau cần ta rửa sạch, vò nát, ép lấy nước, cho thêm 50 gr mật ong, trộn đều, uống nóng. Ngày uống 1 - 2 lần. Dùng liên tục trong nhiều ngày sẽ có hiệu quả. Trị chứng viêm phế quản: Lấy gốc rau cần ta cả rễ 100 gr, vỏ quýt 9 gr, kẹo mạch nha 30 gr. Cho kẹo mạch nha vào nồi đun sôi, cho gốc rau cần và vỏ quýt, sao cháy, đổ thêm nước, sắc uống nóng trong ngày. Trị chứng ho gà: Lấy 500 gr rau cần ta (cả cây) rửa sạch, vắt lấy nước cốt, thêm vài hạt muối, hấp cách thủy, chia uống hai lần vào sáng sớm và tối. Uống liền trong nhiều ngày. Trị chứng nôn mửa, thổ tả ở trẻ em: Rau cần ta tươi rửa sạch đun nước cho trẻ uống. Theo BS Nguyễn Thu Hiền Đất Việt
-
Yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái Tộc Thái là một trong 54 tộc người, trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có tiếng nói và chữ viết rất gần với người Việt. Đặc biệt trong ngôn ngữ Thái hiện nay còn giữ được rất nhiều yếu tố của ngôn ngữ Việt cổ. Ngoài do sự giao thoa giữa các nền văn hóa trong quá trình phát triển của những nhóm cư dân Việt Cổ phát triển lên thành người Kinh, thì chủ yếu là do tộc Thái với những yếu tố khách quan, giữ được nhiều tinh hoa của ngôn ngữ Việt cổ, phát triển hoàn thiện như bây giờ. Theo những nhà nghiên cứu chữ Việt cổ, dân tộc ta có chữ viết và hệ thống giáo dục phát triển từ thời Hùng Vương – (chữ khoa đẩu). Chữ Thái có nguồn gốc từ chữ khoa đẩu. Về mặt nhân chủng học, người Thái, Mường, Tày, Kinh… đều thuộc Mongoloid phương Nam. Đó là di duệ của người Việt cổ bản địa chủng Indonesian và cùng được chuyển hóa sang Mongoloid phương Nam. Cũng như tộc Kinh, tộc Thái là con cháu của Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ. Bởi “sự chuyển hóa từ Việt cổ (đa số Indonesian) sang Việt hiện đại (Mongoloid phương Nam) xảy ra khoảng sau 2600 năm TCN, khi nước Văn Lang thành lập. Tùy hàm lượng máu Mongoloid và sự phân bố địa lý mà người Việt chia ra tới 54 sắc tộc như hiện nay” – (Hà Văn Thùy). Do ở các vùng bán sơn địa, xa trung tâm đô hộ của giặc ngoại xâm, tộc Thái đã bảo tồn được ngôn ngữ Việt cổ trước sự tàn sát, đồng hóa dân tộc bao năm ròng của các thế lực thù địch. Trên cơ sở ngôn ngữ Việt cổ, ngôn ngữ Thái biến đổi hiện đại hóa như ngày nay phù hợp với tiến trình phát triển xã hội. “Địa danh cổ trên đất nước ta phân bố rất rộng, thuộc ngôn ngữ Lạc Việt. Yếu tố tiếng Thái còn tìm thấy khá đậm nét trong đấy. Ngôn ngữ Nam Á trong tiếng Việt cổ là có nguồn gốc chung từ rất xa từ văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn, khi nông nghiệp còn thuộc loại hình nương rẫy. Cơ tầng ngôn ngữ Thái rất gần với ngôn ngữ Việt cổ. Cơ chế ngôn ngữ Thái rất gần với ngôn ngữ Việt cổ… Tiếng Thái chính là tiếng Việt cổ phát triển vào một giai đoạn lịch sử muộn. Mối quan hệ giữa chữ viết Đông Sơn và chữ Thái cổ được xem xét dưới quan điểm nhất quán này. Chữ Thái, bao gồm tất cả hệ thống từ Tây Bắc – Thanh Hóa – Nghệ An và chữ viết trên sách ở người Mường (Thanh Hóa). Sách Mường là bảo lưu chữ viết Đông Sơn và chữ Thái không có thay đổi lớn, như chữ Ai Cập tồn tại 3.000 năm không có thay đổi gì mấy.” – (Lê Trọng Khánh). Điều đó lý giải được lý do tại sao ở những vùng người Thái chưa bao giờ đặt chân đến, thì lại có rất nhiều tên địa danh, đơn vị hành chính… mang tên Thái và trong ngôn ngữ Thái mang nhiều yếu tố ngôn ngữ Việt cổ. Ở đây cần nói rõ, không gian địa danh ngôn ngữ Việt cổ vô cùng rộng lớn, chứ không bó hẹp trong địa bàn Việt Nam như bây giờ. Trước hết trong lao động sản xuất, từ miền Bắc cho đến miền nam Trung bộ có rất nhiều địa danh mang tên: “Pu”, “Pù” – (núi), “Na”, “nà” – ruộng, “Tà” – bến nước mà trong công trình: “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình Khoa đẩu” của giáo sư Lê Trọng Khánh đã thống kê những địa danh đó kéo dài từ vùng Lưỡng Quảng, Hải Nam, đến Nam Á. “Chúng ta gặp rất phong phú ở vùng người Mường – Thái địa danh có thành tố “na”, “nà” (đồng ruộng). Ở những vùng có sự giao thoa văn hóa như Hà Bắc và quanh đền Hùng lớp địa danh này khá dày đặc (Nà Lao, Nà Uy v.v…). Ở vùng người Việt Phú Thọ cũng nhiều nơi gọi ruộng là “na” như ở Tứ Xã, Sơn Vi, Do Nghĩa, Hà Thạch, Thuỵ Vân. Làng Cao Xá có những khu đồng như: Nà Pheo, Nà Giũa, Nà Đỏ v.v… Một tấm bia trên Đền Hùng có 50% số địa danh được ghi là “na” như Na Hưu, Na Dầu, Na Hoàng v.v. Ở khu di tích Đền Hùng có 3 quả núi thiêng, “tam sơn cấm địa”. Trong đó có núi Nỏn, cạnh núi Nghĩa Lĩnh đặt tên theo ngữ hệ Tày – Thái: Nỏn là út vì thế quả núi còn tên nôm thuần Việt một âm tiết là núi Út… Những điều này có thể lý giải được vì dọc bờ hữu ngạn sông Thao – (Nặm Tao) xa xưa là địa vực cư trú của người Tày Thái cổ. Những dòng họ Ma gốc Tày cũng như nhiều họ gốc Mường: Đinh, Quách, Bạch, Hà… là những nhóm cư dân Việt cổ phát triển lên thành người Việt hiện nay. “Các truyền thuyết về Ma Khê và Tản Viên ở vùng Đất Tổ cũng nói đến sự hội nhập của hai nhóm Việt – Mường và Tày – Thái ở Phú Thọ. Tản Viên chính là người Mường. Dù Tản Viên đã được thần thoại hoá đến hoang đường nhưng bóc bỏ lớp huyền thoại ta vẫn tìm được lõi sự thật lịch sử. Ông là con một bà người Mường có tên là Đinh Thị Đen quê ở chân núi Thu Tinh, làng Yên Sơn. Bà lấy chồng rồi về sống, sinh đẻ Tản Viên ở Động Lăng Xương, làng Trung Nghĩa bên bờ sông Đà thuộc Phú Thọ. Ông được dân gian tôn sùng thành một thần tượng cộng đồng, vừa là anh hùng trận mạc vừa là anh hùng văn hoá. Ông đánh giặc tài lại có công chống lại Thuỷ Tinh biểu tượng của thiên tai lũ lụt. Ông là người anh linh nghĩa cử khước từ ngôi báu, khuyên vua cha nhường ngôi cho Thục Phán để muôn dân thái bình. Thục Phán cũng là gốc Tày – Thái quản lĩnh miền rừng núi phía trên nước Lạc Việt của các Vua Hùng” – (Nguyễn Hữu Nhàn). Song ở những vùng các cư dân Tày, Thái, Mường chưa hề đặt chân đến cũng có rất nhiều địa danh “na”. Trên địa bàn Nhật Nam (thuộc Quảng Ngãi) có Nà Lau, Nà Klich, Nà Niêu (địa điểm Tỉnh ủy Quảng Ngãi họp quyết định đồng khởi Trà Bồng), và một điều rất lý thú người Chăm H’rê trong ngôn ngữ của họ cũng gọi “nà” là ruộng. Địa danh có thành tố “nà” vùng Chăm H’rê cũng phổ biến như ở vùng người Mường – Thái. Những từ chỉ phức hợp lúa nước có sự đồng nhất tương đối giữa các ngôn ngữ: Mường – Thái – Chăm H’rê và Việt (Khu IV cũ). Sử liệu này cho phép chúng ta nghĩ rằng từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Lưỡng Việt rất phổ biến địa danh có thành tố “na” (ruộng) người Việt cổ trồng lúa nước rất sớm; và có một lớp ngôn ngữ thống nhất chỉ về phức hệ lúa nước. Và cư dân Nhật Nam là người Việt cổ; phía Nam của họ là cộng đồng người nói tiếng Malayo” – (Lê Trọng Khánh). Chỉ xin trích dẫn một số ví dụ: những từ như “mương”, “phai” chỉ những công trình dẫn thủy nhập điền cho đến nay vẫn phát âm đồng nhất. Có những từ đã biến âm đôi chút hoặc trở thành từ ghép Thái – Việt như “tông” – đồng, “đo đạc” – tạc, “đòn càn” – can, “mưa phùn”, “dao pha”, “cày” – tháy, “chạc” (dây thừng) – chược. Tên địa danh cũng có rất nhiều từ tương đồng hoặc còn giữ nguyên bản như: “Chiềng” là vị trí trung tâm ở một mường lớn, (Chiềng là thủ phủ của một mường, nhiều nơi phát triển thành thành phố lớn hoặc thủ đô của quốc gia) – (tất nhiên trong lịch sử người Thái, ngoài “Chiềng” mang ý nghĩa như trên là phổ biến, nó cũng có ngoại lệ như là: Chiềng Pấc là tên một mường phìa của Châu Mường Muổi, Chiềng Cang là tên một mường phìa của Châu Mường Mụa; trong sử sách, người Thái gọi nước Lào là Chiềng Đông, Chiềng Tòng). Nay còn có nhiều thành tố “Chiềng” ở cả những nơi người Thái chưa bao giờ đặt chân đến như: Hà Nội có Chiềng Lôi (Cổ Loa). Hà Tây: Chiềng Vậy (Hoài Đức). Phú Thọ: Gò Chiềng (Lâm Thao), Chiềng Ninh (Phù Ninh). Hà Nam: Chợ Viềng (Phủ Giầy). Sơn Tây: Chiềng Tăng. Vùng nông thôn miền Bắc còn không ít địa danh có từ Chiềng. Nhưng thưa dần vào phía Nam: Chiềng Giang (O Lâu) Quảng Trị… “Hiện tượng phân bố địa danh có từ Chiềng ở trên, không còn nghi ngờ sự thiên di của một bộ người Việt cổ làm lúa nước, ở vùng bực thềm sông Hồng lên phía tây với văn hóa lúa nước và văn hóa đồ đồng Đông Sơn.” – (Lê Trọng Khánh). Thành tố “Viềng” cũng rất phổ biến, “viềng” có nghĩa là thành luỹ quân sự, nơi bảo vệ “Chiềng” hoặc biên cương, đất nước. Trên viềng thường có các các vị trí quân sự giống như là lô cốt hay chòi canh gọi là “Che”. Ví dụ tại Viềng Lôi (thành Cổ Loa) có ba “che”, có tên là “Che noóc”, “Che tò” và “Che cuông” (tiếng Thái có nghĩa là “Che ngoài”, “Che nối tiếp” và “Che trong”). (“Che”: tiếng Thái cũng có nghĩa là góc, mà các “Che” quân sự này cũng đặt tại các góc như các đồn tiền tiêu). Danh từ “Chiềng”, “Viềng” phát triển rộng khắp ở nhiều nước Đông Nam Á. Như vậy “vào một thời kỳ lịch sử xa xưa, cộng đồng người phân bố rất rộng từ miền Nam Trung Quốc (chủ yếu Lưỡng Việt) đến Nam Đông Dương nói một ngôn ngữ có yếu tố cơ bản thống nhất (từ chỉ: núi, sông)” – (Lê Trọng Khánh). Trong mọi mặt đời sống sinh hoạt, cũng có rất nhiều từ còn giữ nguyên bản, tương đồng hoặc trở thành từ ghép. Trước hết “Vua Hùng” là phiên âm của một từ Việt cổ: Vua – Bua – Bô – Pô = (bố); Hùng – Khun = Cun = Thủ lĩnh. Vua Hùng = Bố của các thủ lĩnh = Thủ lĩnh tối cao. Danh hiệu Hùng Vương chỉ là một sự lắp ghép danh hiệu Bố cái đại vương (Bố cái = Vua lớn = Đại vương) để chỉ Vua Phùng Hưng sau này. Hoặc từ “Thục Phán” (tiếng Thái là Tục Pán) có nghĩa là chiếm đất, là mở mang bờ cõi… Ta tạm chia những yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái ra một số nhóm: nhóm phiên âm trực tiếp, nhóm này chỉ liệt kê các từ thông dụng và không có từ khác thay thế; nhóm nguyên nghĩa đi kèm nhau; nhóm cận nguyên âm và vần; nhóm phụ cận vần và các nhóm khác. Trước hết là nhóm phiên âm trực tiếp, là nhóm những từ thông dụng, không có các từ khác thay thế: “bàn” (bạc) – ban, “bản” – bàn, “chọn” – chọn, “quen” – quẻn, “việc” – việc, “bể” (biển) – pể, “mương” – mương, “phai” – phai, “nàng” – nàng, “ngân” (tiền) – ngân, “an” – yên, “dệt” (vải) – dệt … Những từ trong nhóm nguyên nghĩa đi kèm nhau (những từ này là từ ghép, một từ tiếng Thái với một từ Việt): “áo xống”, “béo múp”, “bừa phứa”, “chim chóc”, “chó má”, “đòn càn”, “hang thẳm”, “quát nạt”, “xin xỏ”, “xa lắc”, “súng ống”, “giá cả”, “mặt nạ”, “dao pha”, “tre pheo”, “chân thật”.… Nhóm cận nguyên âm và vần, (gồm những từ có cách phát âm gần nhau về âm và vần): “Ánh” – xánh, “bánh” – pảnh, “bào” – pao, “bão” – pảo, “bắt” – pắt, “bè” – pe, “bóc” – pọc, “bón” – pòn, “bọt” – pọt, “bố” – pỏ, “bốc” – chốc, “chan” – chán, “cá” – pá, “lôi” – lối, “lo” – ló, “còng” – cỏng, “cây” – mạy, “gốc” – cốc, “han” – hán, “bắn” – bén, “nỏ” – nả, “bó” – pò, “bói” – pòi, “bón” – pòn, “bọt” – pọt, “bốc” – chốc, “gang” – khang, “bá” – pả, “vải” – phải, “mận” – mặn, “nhót” – lót, “bể” – biển, “chống” – chông, “đòi” – toi… Nhóm phụ cận vần và các nhóm khác (nhóm này không tính về thanh điệu, gần nhau về âm và vần): “bát” – pẹt, “bắt” – chặp, “bơi’ – loi, “buộc” – phục, “buông” – vang, “cạp” – cọp, “chấm” – chẳm, “lống” –puống, “chạc” – chược, “đáp” – chắp, “chẻ” – phả, “chích chòe” – chí chọe, “chốn” – chòn, “chủ” – chảu, “đập” – tặp, “cục” – cọc, “dê” – bè, “cửu – càu, “đường” – tang, “giường” – chong, “gắp” – cạp, “buộc” – phục, “buông” – vang, “chẻ” – phả, “đến” – ten, “kẹp” – nịp, “căng” – kếnh, (chim) “cuốc” – cu vắc, “chốn” – chòn, “cổ” – co, “lưng” – lằng, “coi” – moi. “cũ” – cảu… Có thể liệt kê rất nhiều những từ, ngữ mang yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái, bởi theo thống kê của các nhà nghiên cứu, có tới gần 30% vốn từ tiếng Việt cổ trong ngôn ngữ Thái. Nghiên cứu ngôn ngữ Thái ta sẽ tìm được phần nào ngôn ngữ Việt cổ, một dân tộc đa sắc tộc đã làm nên những trống đồng nổi tiếng và nền văn minh lúa nước và công nghiệp đá Hòa Bình phát triển sớm nhất thế giới, đó là sự thật mà khoa khảo cổ học thế giới chứng minh. Chúng ta tự hào vì “Văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc Sơn”. Chính sự hình thành và phát triển nhà nước từ rất sớm, cùng nền văn minh lúa nước, công nghiệp đá, đúc đồng, làm giấy… và hệ thống giao thương rộng khắp với nhiều vùng lãnh thổ đã thúc đẩy quá trình phát triển chữ Việt cổ. Chúng ta vô cùng tự hào vì dân tộc ta là dân tộc duy nhất giữ gìn được con chữ của Bách Việt trước sự hủy diệt tàn bạo bao năm ròng của các thế lực thù địch, mà người Thái góp một phần không nhỏ. Đây cũng đang là một hướng tiếp cận của các nhà nghiên cứu chữ Việt cổ trong và ngoài nước và bước đầu đã thu được những thành công đáng khích lệ. Điều đó càng làm cho ta hiểu thêm về lịch sử dân tộc và tăng cường tình đoàn kết anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tài liệu tham khảo: - “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu” của Lê Trọng Khánh. - “Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt” của Hà Văn Thùy - “Yếu Tố Việt-Mường và Tày-Thái trong nền tảng Văn Hóa Đất Tổ của” Nguyễn Hữu Nhàn. - Cùng sự giúp đỡ của các nhà sưu tầm nghiên cứu văn hóa Thái: Sầm Văn Bình và Cà Văn Chung. Posted by Trần Vân Hạc on Tháng Tám 24, 2010 at 10:06
-
Giáo pháp mênh mông! Ai cho chữ cũng cần ai cho lời cũng nhận! Sao lại không biết chắt lọc để gặt hái đạo pháp? Khởi duyên tu tạo đã buông câu chấp! bản ngã lại vọng tưởng điều xa xôi, tiếc thay cho người mới thấy bọt đã nghĩ mình tạo sóng! Vài lời chuyển ý đến Thiên Đồng xét tâm vọng động.
-
Xác nhận có sự đóng góp của Linh Trang 500,000đ và HoangTrieuHai 500,000đ=1,000,000 đ Quỹ hiện có:33,500,000 đ+1,000,000 đ=34,500,000 đ(ba mươi bốn triệu năm trăm ngàn đồng)
-
Xác nhận có 500,000 đ của Anh Thế Trung, 4,000,000 đ của Mickey, 3,000,000 đ của Anh trần Trọng Hiếu.= 7,500,000 đ(bảy triệu năm trăm ngàn đồng) Quỹ hiện có: 26,000,000 đ+7,500,000 đ= 33,500,000 đ(ba mươi ba triệu năm trăm ngàn đồng)
-
Xác nhận có 1,000,000 đ(một triệu đồng) của Trần Anh đóng góp cho Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có: 25,000,000 đ+1,000,000 =26,000,000 đ(hai mươi sáu triệu đồng)
-
Có nhận của Chị Xuân Định 500,000 đ(năm trăm ngàn đồng) góp lễ cầu Siêu.
-
Câu chuyện có nhiều thành ngữ, tục ngữ nhất. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, đứng núi này trông núi nọ, già kén kẹn hom, ghét của nào trời trao của ấy. Chị nọ phận hẩm duyên ôi, kết tóc xe tơ với một anh chàng mặt nạc đóm dày, xấu ma chê quỷ hờn lại đần độn, ngốc nghếch, vô tâm vô tính, ruột để ngoài da, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, mười tám cũng ừ mười tư cũng gật, học chẳng hay, cày chẳng biết, lúng túng như thợ vụng mất kim, chỉ được cái sáng tai họ điếc tai cày là giỏi! Trăm dâu đổ đầu tằm, giỗ tết cúng bái trong nhà, công to việc lớn ngoài xóm, hai sương một nắng, tất bật quanh năm, một tay chị lo toan định liệu. Anh chồng thì như gà què ăn quẩn cối xay, lừ đừ như ông từ vào đền, như cỗ máy không giật không động. Giàu vì bạn, sang vì vợ, hang xóm láng giềng kháo nhau: ”chàng ngốc thật tốt số, mả táng hàm rồng, như mèo mù vớ được cá rán”. Chị vợ mỏng mày hay hạt, tháo vát đảm đang, hay lam hay làm, vớ phải chàng ngốc đành nước mắt ngắn nước mắt dài, đèo sầu nuốt tủi, ngậm bồ hòn làm ngọt cho qua ngày đoạn tháng. Nhiều lúc tức bầm gan tím ruột, cực chẳng đã, chị định một liều ba bảy cũng liều, lành làm gáo vỡ làm muôi, rồi anh đi đường anh, tôi đi đường tôi cho thoát nợ. Nhưng gái có chồng như gông đeo cổ, chim vào lồng biết thuở nào ra, nên đành ngậm đắng nuốt cay, một điều nhịn chín điều lành, tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại, vợ chồng đóng cửa bảo nhau cho êm cửa êm nhà, sao nỡ vạch áo cho người xem lưng, xấu chàng hổ ai? Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Biết chồng tại gia không trot, liền trổ tài điều binh khiển tướng dạy chồng một phen, những mong mở mày mở mặt với bàn dân thiên hạ, không thua anh kém chị trong họ ngoài làng. Một hôm ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, giữa thanh thiên bạch nhật, chị vợ dỗ ngon dỗ ngọt bảo chồng đi chợ mua bò, không quên dặn đi dặn lại: đến chợ phải tuỳ cơ ứng biến, xem mặt đặt tên, liệu cơm gắp mắm, tiền trao cháo múc, đồng tiền phải liền khúc ruột kẻo lại mất cả chì lẫn chài. Được lời như cởi tấm lòng, ngốc ta mở cờ trong bụng, gật đầu như búa máy, vội khăn gói quả mướp lên đường quyết phen này lập công chuộc tội. Bụng bảo dạ, phải đi đến nơi về đến chốn, một sự bất tín vạn sự bất tin, ngốc quàng chân lên cổ đi như chạy đến chợ. Chợ giữa phiên, người đông như kiến, áo quần như nêm, biết bao của ngon vật lạ, thèm rỏ dãi mà đành nhắm mắt bước qua. Hai tay giữ bọc tiền khư khư như từ giữ oản, ngốc nuốt nước bọt bước đến bãi bán bò. Sau một hồi bới lông tìm vết, cò kè bớt một thêm hai, nài lên ép xuống, cuối cùng ngốc cũng mua được 6 con bò. Thấy mình cũng được việc, không đến nỗi ăn không ngồi rồi báo vợ hại con, ngốc mừng như được của. Hai năm rõ mười, ai dám bảo anh ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Nghĩ vậy, ngốc ung dung leo lên lưng con bò đi đầu, mồm hô miệng hét diễu võ dương oai, lùa đàn bò ra về mà lòng vui như hội. Giữa đường sực nhớ lời vợ dặn, suy đi tính lại, cẩn tắc vô áy náy, ngốc quyết định đếm lại đàn bò cho chắc ăn. Ngoảnh trước ngó sau, đếm đi đếm lại, đếm tái đếm hồi chỉ thấy có 5 con, còn một con không cánh mà bay đi mất. Toát mồ hôi, dựng tóc gáy, mặt cắt không còn giọt máu, ngốc vò đầu gãi tai, sợ về nhà vợ mắng cho mất mặn mất nhạt rồi lại bù lu bù loa kêu làng kêu nước mà than than trách phận, ngốc về nhà với bộ mặt buồn thiu như đưa đám. Thấy chồng về, chị vợ tươi như hoa ra đón, nhưng ngốc vẫn ngồi như bụt mọc trên lưng con bò đi đầu, chắp tay lạy vợ như tế sao: - Mình ơi, tôi đánh mất bò, xin mình tha tội cho tôi… Nhìn chồng mặt như chàm đổ mình dường giẽ run, chị vợ không khỏi lo vốn liếng đi đời nhà ma, liền rít lên như xé lụa: - Đồ ăn hại. Đàn ông con trai mà trói gà không chặt. Làm sao lại để bò sổng? Sợ thót tim vãi đái, nhưng ngốc vẫn lấy hết sức bình tĩnh để phân trần: - Tôi mua tất cả 6 con, họ giao đủ 6, bây giờ đếm mãi vẫn chỉ 5 con. Nhìn ngốc ta vẫn ngồi như đóng đinh trên lưng bò, chị vợ hiểu rõ đầu đuôi cơ sự, dở khóc dở cười bảo chồng: - Thôi xuống đi! Thiếu đâu mà thiếu, có mà thừa một con thì có! St.
-
Có nhận của Công Minh 500,000 đ(năm trăm ngàn đồng) góp lễ Cầu siêu.
-
Ngôi đền thờ thầy giáo cổ nhất Việt Nam. Đó là một ngôi miếu cổ trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa, nơi tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Thiên Cổ Miếu nằm trong một quần thể di tích: Đình Hương Lan, Lăng mộ ba đô sĩ thời Hùng Duệ Vương và đền Thiên Cổ, đã được UBND tỉnh Phú Thọ cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử. Xưa để bảo vệ ngôi đền khỏi sự tàn phá của các thế lực xâm lược ngoại bang đã ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, tìm mọi cách khiến người Việt quên đi truyền thống, gốc tích và bản sắc văn hoá dân tộc và một thời ấu trĩ, nhân dân gọi chệch đi là Miếu Hai Cô. Ngôi miếu cổ nằm hiền hòa dưới bóng hai cây táu cổ thụ, gốc to bốn, năm người ôm không xuể, có tuổi hàng ngàn năm. Điều thú vị là một cây cho hoa mầu vàng, một cây cho hoa mầu bạc. Hè năm 1978, Ban lãnh đạo hợp tác xã Động Lực quyết định cho chặt hai cây táu làm củi nung gạch. Biết hung tin, các cụ già của thôn Hương Lan đồng lòng kéo nhau ra miếu. Cụ Nguyễn Hữu Bồng (bố đẻ của ông Nguyễn Hữu Yết, thủ từ hiện nay) thét lớn: “Không được phá nơi thờ thầy cô giáo. Nếu chúng mày định chặt cây thì hãy chặt xác tao luôn thể!”. Bấy giờ người ta mới biết đây là nơi thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, vốn quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên đây dậy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai thầy cô tạ thế cùng một giờ, một ngày 2.2. năm Quí dậu ( 228 trước công nguyên). Đến nay, ngôi mộ của vợ chồng thầy cô giáo Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục vẫn còn ở trong điện và chưa bị dịch chuyển một lần nào. Ngôi miếu được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ. Năm 1990 ngôi miếu bị cháy, trong lúc cố cứu những vật thờ, người dân Hương Lan đã phát hiện ra cuốn ngọc phả của miếu và cả sắc phong vua ban. Dù bị cháy lẹm một phần, nhưng nội dung ghi chép trong đó thì không bị mất. Hiện nay vẫn còn giữ được một bản ngọc phả quý được viết lần đầu vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn. Ngọc phả này đã ghi chép lại nguồn gốc của ngôi miếu cổ: “Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm về người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn – Kinh Bắc. Nguyễn Công đã gả cho Thê Lang người con gái của mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên ông giáo Vũ Thê được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa”. Hoành phi và câu đối trong đền Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Trong đền, ngoài ba lư hương cổ bằng gốm từ thời nhà Lý, nhà Lê, còn có một số đồ thờ bằng gỗ như ống hương, hai cây nến… Đặc biệt là các pho tượng: Phụ vương, Mẫu vương và hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa cùng hai thị nữ, đã có trên 70 năm. Trên bàn thờ có tượng của thầy cô và hai thị nữ theo hầu, đó là Tiên Dung và Ngọc Hoa (được dùng để ngụy trang). Ngoài ra còn có một bức Hoành phi nhỏ ghi: “Thiên Cổ Miếu” và hai câu đối bằng gỗ mộc dài chừng một mét, đều viết bằng chữ Hán: “Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chích khí linh từ” nghĩa là: “Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời Nam”, Nay những hoành phi câu đối này đều được viết bằng chữ Việt cổ, tức là chữ “Khoa đẩu”, chữ của dân tộc ta có từ thời Hùng Vương và trưng bầy phiên bản trống đồng Lũng Cú -Lạng Sơn, trên trống có chữ khoa đẩu. Theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta – tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Chính từ những chứng tích của Thiên Cổ Miếu, các nhà nghiên cứu, mà tiên phong là ông Đỗ Văn Xuyền đã tìm được một danh sách 18 thầy giáo thời Hùng Vương, những người đã đào tạo ra hiền tài cho các Vua Hùng như: Thầy Lý Đường Hiên, thời Hùng Vương thứ 6, dạy ở Yên Vĩ, huyện Hoài Nam, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (nay là Ứng Hòa, Hà Nội); thầy Lỗ Công, thời Hùng Vương thứ 9, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương, dạy ở kinh thành Văn Lang… Đến nay vẫn còn đền thờ của các thầy giáo và học trò của họ ở khắp miền Bắc nước ta như đền thờ thầy Hải Đường tiên sinh ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; đền thờ Trương Sơn Nhạc – học trò thầy Lỗ Đường tiên sinh, ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh… Thậm chí cả những vùng đất xa xôi, hiểm trở như ở Quỳnh Nhai, Sơn La, cũng có đền thờ thầy cô giáo và những học trò rạng danh thời đó. Dẫu có phải ngụy trang, thì những ngôi đền, những chứng tích quí báu ấy đã khẳng định sự cố gắng hết lòng của ông cha ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cố gắng bảo vệ những giá trị văn hoá của dân tộc cho muôn đời con cháu. Thiên Cổ Miếu cùng những chứng tích quí báu ấy đã minh chứng thêm bộ chữ “Khoa đẩu” của dân tộc ta có từ trước công nguyên, được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ Đông Sơn tìm được ở nhiều nơi thuộc lãnh thổ nước ta theo một sự phát triển logic từ thấp đến cao, khẳng định hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển từ thời Hùng Vương, khẳng định bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm. Cũng chính tại nơi đây, đúng 10g sáng ngày 29.3.2009, tức ngày 4.3 âm lịch đã long trọng khánh thành Thần Qui bằng đá nguyên khối, nặng 4 tấn, mô phỏng, Thần Qui xưa đời Nghiêu, người Việt ta tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ “Khoa đẩu” (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Sự kiện này đã được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh… Ngày nay, Thiên Cổ Miếu không chỉ là điểm đến của những người “Tôn sư trọng đạo”, yêu kính cội nguồn dân tộc, mà còn là điểm đến của không biết bao nhà nghiên cứu và du khách trong và ngoài nước. Tất cả đều vô cùng khâm phục truyền thống văn hóa, truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Gần đây nhất, ngày 7.7.2009 âm, tức ngày 26.8.2009, một đoàn nghiên cứu tâm linh gồm 50 người từ Braxin, Chi Lê, Tây Ban Nha, Pháp, Hung Ga Ri, Ý, Ma Xê Đoan, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ đã đến thăm viếng Đền Hùng, họ dâng lên 18 cặp bánh chưng, bánh dầy, xôi, mâm ngũ quả tỏ ý tôn trọng cội nguồn văn hóa Việt Nam, sau đó đã đến thăm Thiên Cổ Miếu. Khi được ông Đỗ Văn Xuyền giới thiệu lịch sử ngôi đền, hệ thống giáo dục của nước ta từ thời Hùng Vương, chữ Việt cổ, sự hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ trên cơ sở chữ Việt cổ… tất cả đều không dấu được sự khâm phục. Thiên Cổ Miếu là ngôi đền thờ thầy cô giáo cổ nhất Việt Nam, đây là một minh chứng hùng hồn cho truyền thống giáo dục của dân tộc ta, một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Trần Vân Hạc. nguồn vanhac.org
-
Lá sen chữa bệnh. Lá sen tính mát,vị cay, lợi về các kinh can, tỳ, vị. Ngoài ra, loại lá này còn giúp hạ nhiệt, làm tan những ứ tụ và cầm máu.Lá sen được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian với tên thuốc là liên diệp hoặc hà diệp, được thu hái quanh năm, thường dùng lá non (hoặc lá còn cuộn lại chưa mở) và lá bánh tẻ, bỏ cuống. Dùng tươi hoặc phơi, sấy khô, đôi khi sao thơm. Dược liệu là nguyên lá to, khô, màu lục, không bị sâu, không có vết thủng, có vị đắng, hơi chát, mùi thơm nhẹ, tính mát bình, không độc, vào ba kinh can, tỳ, thận, có tác dụng thanh nhiệt, cầm máu, tán ứ, an thần, lợi thấp. Sau đây là một số bài thuốc có dùng lá sen. Chữa máu hôi không ra hết sau khi sinh: Lá sen sao thơm 30g tán nhỏ, uống với nước hoặc sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày. Chữa mất ngủ: Lá sen loại bánh tẻ 30g rửa sạch,thái nhỏ, phơi khô sắc hoặc hãm uống. Chữa sốt xuất huyết: Lá sen 40g, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi 40g, rau má 30g, hạt mã đề 20g, sắc uống ngày một thang. Nếu xuất huyết nhiều có thể tăng liều của lá và ngó sen lên 60g. Chữa chảy máu não và các biến chứng kèm theo ở bệnh nhân tăng huyết áp: Lá sen 15g, cam thảo 15g, đỗ trọng 12g; sinh địa, mạch môn, tang ký sinh, bạch thược mỗi vị 10g. Sắc uống ngày một thang. Chữa băng huyết, chảy máu cam, tiêu chảy ra máu: Lá sen 40g để sống, rau má 12g sao vàng, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. Chữa di tinh: Lá sen nghiền bột mịn. Uống ngày 2 lần sớm, tối với nước sôi, mỗi lần 5g. Chữa tăng huyết áp: Đẳng sâm 6g, bán hạ 10g, tuyền phúc hoa 10g, thiên ma 6g, lá sen 10g, trần bì 6g, thạch quyết minh 10g, uống ngày 1 thang chia hai lần sớm, tối. Dùng cho người cao huyết áp, mắt hoa tai ù, mơ nhiều mất ngủ. Giảm béo: Bài 1: Lá sen 10g, gạo lức 60g. Sắc lá sen làm thang, cho gạo lức vào nấu cháo, cháo được đánh thêm ít đường phèn cho ngọt, chia hai lần sớm, tối. Dùng để tiêu phù, giảm mỡ, giải nhiệt, khoan trung, tăng nước bọt, giảm khát, giảm béo. Bài 2: Lá sen 60g, hạt ý dĩ 10g, sơn tra tươi 10g, vỏ quýt (trần bì) 5g. Nghiền chung thành bột, bỏ vào phích, rót nước sôi vào hãm, uống thay trà ngày 1 thang uống liền 100 ngày. Bài 3: Để lý khí, hành thuỷ, giảm béo. Vỏ quất (trần bì) 10g, mạch nha 15g, lá sen 15g, sơn tra 10g. Bài 4: Để bổ tỳ, tiêu ứ, giảm mỡ, giảm béo. Vỏ quất, lá sen thái sợi, cho nước vào sắc chung với mạch nha, sơn tra 30 phút, lọc lấy nước pha với đường trắng, uống nóng 1 thang. Chữa chảy máu cam: Lá sen 15g, hoàng liên 2g, thanh hao 6g, lá tre 10g, mộc thông 10g, đan bì 10g, liên kiều 5g, hoàng cầm 3g, sơn chi 6g, rễ cỏ tranh 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng cho người bị đổ máu cam, lượng nhiều, máu đỏ tươi hoặc sẫm, mũi khịt khô, miệng hôi, đại tiện táo, tiểu dắt. Chữa váng đầu: Hạch đào nhân 6g, lá sen 10g, đỗ trọng tươi 10g. Hạch đào nhân sao vàng giã nát, sắc chung với lá sen, đỗ trọng, bỏ bã lấy nước uống. Dùng cho người đầu váng, mắt hoa, tai ù, tai điếc. Những cấm kỵ khi dùng thuốc: Vị thuốc này có công dụng thăng tán tiêu hao, người hư nhược kiêng dùng. Theo Lương y Vũ Quốc Trung SKĐS
-
Hãy hành động trước khi mọi việc trở nên quá muộn! Tin về lũ hoành hành các tỉnh miền Trung mấy ngày này được đưa lên các trang nhất của hầu hết các tờ báo, ít nhiều ảnh hưởng đến niềm vui Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang diễn ra tại thủ đô. Thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ. Trong những ngày đầu tháng 10-2010 này, những hình ảnh mưa lũ hoành hành ở các tỉnh Bắc Trung Bộ làm lòng người xốn xang, lo lắng. Nhiều người chết và mất tích, hàng chục xã bị lũ cô lập, mùa màng bị hư hại, nhà cửa, của cải tích lũy được trong gian khó bị cuốn trôi… Cảnh đói, khó khăn chồng chất hiện ra trước mắt của nhiều hộ gia đình, của hàng ngàn con người. Tin về lũ hoành hành các tỉnh miền Trung mấy ngày này được đưa lên các trang nhất của hầu hết các tờ báo, ít nhiều ảnh hưởng đến niềm vui Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang diễn ra tại thủ đô. Thế giới dường như ngày càng thu hẹp lại, con người ngày càng có ý thức hơn mối tương quan giữa các châu lục với nhau, ý thức rằng trái đất là ngôi nhà chung, một biến cố xảy ra ở một đất nước bên này bán cầu cũng liên quan đến vùng đất bên kia bán cầu. Nhớ cách đây chưa lâu, báo chí nước ta liên tục cập nhật những thông tin động đất - mà nếu như trước đây, có lẽ chẳng mấy ai quan tâm vì nghĩ đó là "chuyện tận đâu đâu": "Khoảng 10 giờ 20 phút tối 1-9, một vụ lở đất đã xảy ra tại làng Wama, quận Long Dương, phía Tây nam tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và chôn vùi 20 nhà cửa. Hiện đã có 4 người chết và 44 người mất tích. Chính quyền địa phương Vân Nam cho biết đến 10 giờ sáng 2-9, đội cứu hộ đã giải thoát cho 23 người nhưng vẫn còn khoảng 44 người mất tích. Các chuyên gia cho rằng hạn hán kéo dài từ tháng 9 năm ngoái đến nay kèm theo mưa trong hè 2010 làm tăng nguy cơ lở đất trong khu vực. Trong khi đó, theo báo cáo hôm 1-9 của Cơ quan Cứu nạn Trung Quốc, số người chết trong trận lở đất lớn hôm 8-8 ở Châu Khúc, tỉnh Cam Túc đã lên đến 1.471 người, 294 người khác vẫn còn mất tích". …"Bộ Tình trạng khẩn cấp Nga cho hay những trận cháy lớn xuất hiện trở lại ở vùng Volgagrad và Saratov tối 2-9 đến 3-9 làm 8 người chết, 14 người bị thương. Cơ quan này thông báo hơn 500 tòa nhà đã bị phá hủy ở hai khu vực nói trên, khoảng 750 người đã được sơ tán khỏi vùng nguy hiểm. Gió mạnh là tác nhân khiến cháy rừng lan rộng và nhanh chóng. Tuy nhiên, Bộ Tình trạng khẩn cấp cũng cho rằng một số người bất cẩn khi dùng lửa nhóm bếp, thói quen vứt rác bừa bãi, cộng thêm nhiệt độ đang ở mức 40 độ C đã góp phần làm các đám cháy lớn bùng phát trở lại" … Thảm họa tồi tệ Chúng ta không thể quên ba thảm họa tồi tệ nhất được báo chí ghi nhận là sự biến đổi khí hậu làm Nga trở thành chảo lửa với nhiệt độ cao chưa từng thấy, Trung Quốc thì lụt lội, lở đất và Pakistan thì bị nhấn chìm trong biển nước do lũ! "Lý giải về hiện tượng thời tiết nóng bất thường ở Nga, các nhà khoa học về biến đổi khí hậu cho rằng thủ phạm là do hiện tượng El Nino vào năm ngoái. Theo nhà khoa học người Anh Andrew Watson, mỗi khi xuất hiện El Nino, dòng hải lưu chảy trên Thái Bình Dương, thì năm tiếp theo sẽ là một năm nóng kỷ lục trên toàn cầu. Nhiệt độ trái đất trong sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt mức kỷ lục chưa từng thấy, theo báo cáo của Cơ quan Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ. Ngược lại dòng hải lưu La Nina, theo sau El Nino và mang đặc tính trái ngược, được cho là nguyên nhân gây nên hiện tượng lũ lụt nghiêm trọng chưa từng thấy ở Pakistan. Chuyên gia Omar Baddour thuộc Tổ chức Khí tượng Thủy văn thế giới cho biết La Nina khiến nhiệt độ vùng biển trung Thái Bình Dương mát mẻ hơn và gây mưa lũ". Trong một bài phân tích trên Tuổi Trẻ cuối tuần, nhà báo Danh Đức đã đặt vấn đề "Lở đất ở Trung Quốc: Thiên tai hay nhân họa?" và câu trả lời nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thảm họa trên chính là nạn phá rừng và làm thủy điện một cách tùy tiện, xâm phạm thiên nhiên một cách thô bạo và trầm trọng. Vậy là, qua những hiện tượng cùng những lý giải như trên cho chúng ta nhận diện một sự thật rằng: thiên nhiên đang "phẫn nộ" bởi sự quá tay của con người. Do tham lam, do ích kỷ và bất chấp mà con người đã tác động quá thô bạo lên thế giới tự nhiên. Điều đó cũng không nằm ngoài quy luật nhân quả, bởi một khi chúng ta dùng một lực bất thiện tác động vào thiên nhiên để thỏa mãn những nhu cầu hiện tại và ngày một lớn của mình thì chắc chắn sẽ bị một phản lực bất thiện từ thiên nhiên. Có lẽ nhận ra được điều này nên trong hơn một thập niên qua, những hoạt động vì môi trường, hội thảo về tự nhiên, giảm khí thải nhà kính… được các nước và cộng đồng quan tâm. Việc kêu gọi ăn chay, sống xanh, bảo vệ môi trường… được các nhà hoạt động nhân đạo, xã hội và môi trường đề cập thường xuyên! Những giá trị ấy đã được lan đi trong khuôn khổ toàn thế giới, nhất là khi mạng internet đã trở thành công cụ đắc lực cho cuộc sống con người. Từ những thảm họa của các nước, hẳn Việt Nam cũng rùng mình và rút ra được nhiều điều? Nhất là đất nước chúng ta vốn là nước nông nghiệp, sống hài hòa với thiên nhiên và dựa vào tự nhiên thì việc bảo vệ tự nhiên là việc cần kíp. Hành động ấy chính là bảo vệ bản thân và chung tay bảo vệ màu xanh của nhân loại. Thế nhưng, đọc báo mỗi ngày chúng ta dễ dàng thấy rằng đâu đó hiện tượng phá rừng vẫn còn, rồi hàng loạt các công ty liên doanh như Vedan, Vinamit, VietStar… đã xả nước thải công nghiệp làm ô nhiễm môi sinh, giết chết những dòng sông hiền hòa trên quê hương. Bão lũ đi vào miền Trung ngày càng dữ dội hơn và mùa bão năm nay cũng đến với các với cơn bão số 1, 2, 3… đổ bộ vào Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế… Một tiếng chuông nữa lại được gióng lên, khiến người viết liên tưởng đến những thảm họa đau lòng ở Nga, Pakistan và Trung Quốc! Mong rằng những người có trách nhiệm hãy nghiêm khắc hơn với những hành động phá hoại, xâm phạm thô bạo đến hệ sinh thái, đến môi trường tự nhiên. Và mong mỗi người hãy làm một việc thật ích lợi, dù nhỏ và bình thường, trong đời sống hàng ngày. Đó là hành động tích cực trước khi mọi việc đã quá muộn màng. Lưu Đình Long. nguồn giacngovn Qua nhiều nhà hảo tâm đóng góp Quỹ Từ Thiện Diễn Đàn sẽ dành tặng đến đồng bào Quảng Bình 10,000,000 đ (mười triệu đồng) vào thứ hai.
-
Vâng! Của đóng góp ít nhưng tấm lòng và công sức của Anh ra tận nơi đã là nhiều, như bài trên đã nói ra thăm hỏi động viên cũng đủ Tình ấm áp với bà con.
-
Mỗi người trong chúng ta là một vị y sĩ : Đức Phật Dược Sư và Nghiệp chữa bệnh Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Một nhà cố vấn về thời trang thẩm mỹ bị bệnh ung thư. Đây là cách mà bà ta sử dụng để làm giảm nỗi đau : Bà ta gửi một tin nhắn đến người bạn đang là học viên ở Viện Vajrapani ở California, để hỏi về cách thực tập chữa bệnh. Bà được người bạn chỉ dẫn nên mua lại các sinh vật sắp sửa bị giết và phóng sanh chúng ở một nơi an toàn, giúp cho chúng có thể sống lâu hơn. Người phụ nữ dễ thương nầy đã cứu rất nhiều súc vật sắp sửa bị giết. Bà đã phóng sanh hai hoặc ba ngàn con vật, đa số là gà, cá, và giun trùng. Bà đem gà đến một nông trại gia súc, và thả cá xuống sông. Bà mua hai ngàn con trùng vì chúng rẻ và dễ tìm, và bà thả trùng trong khu vườn của bà. Phóng sanh trùng là một ý rất hay vì trùng khi được thả ra sẽ lẹ làng chui xuống đất. Chúng sống trong khu vườn nhà thì không bị sát hại bởi các sinh vật khác và như vậy chúng sẽ sống lâu hơn. Các con vật khác được phóng sanh trong rừng, hồ, hoặc biển không chắc sẽ sống lâu hơn vì chúng luôn có những kẻ thù trong thiên nhiên. Nghe nói rằng sau khi đã thực tập phóng sanh, bà ấy vào nhà thương để chẩn đoán lại, và các bác sĩ đã không tìm thấy dấu vết nào của căn bệnh ung thư . Thật hay giả, chuyện nầy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những ai tin tưởng thuyết nghiệp quả. Đây là những lời của ông Deepak Chopra : « Không có món nợ nào trong vũ trụ mà không phải trả. Vũ trụ có một hệ thống tính toán sổ sách rất hoàn hảo, và tất cả mọi thứ là sự trao đổi tới lui. » Như vậy, nhờ giúp đỡ sinh mạng các con vật yếu đuối, người phụ nữ đã xác định niềm tin của bà trong tính xác thật của luật nhân quả, gọi là « nghiệp vừa là hành động vưà là kết quả của hành động đó. » Hành động của bà không phải là ảo thuật hay phép lạ mà là gieo trồng những hạt giống thích hợp để chúng đơm hoa kết trái thành sức khỏe và niềm hạnh phúc. Thật vậy, nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc trong cuộc sống, chúng ta phải học gieo trồng các hạt giống hạnh phúc cho người khác. Cũng như với các thực tập của người Phật tử thông thường, kết quả mà một người đang nhận lãnh là nghiệp của quá khứ. Tất cả mọi thứ đang xảy ra vào lúc nầy là kết quả của những hành động mà ta đã làm trước đó. Đây là một minh họa cho thành ngữ « gieo nhân nào gặt quả nấy » . Nếu chúng ta có lòng từ bi và tử tế, chúng ta sẽ luôn luôn không có ý gây tổn hại đến người khác, và việc nầy chính nó đã là một phương pháp chữa bệnh. Theo niềm tin Phật giáo, một người có từ tâm là vị thầy chữa bệnh thần kỳ nhất, không những chỉ chữa lành bệnh hay giải quyết được các nan đề cho chính họ, mà còn là vị thầy chữa bệnh cho những người khác. Đa số chúng ta đều xác nhận rằng trong nhà thương, nơi căn bệnh đang hoành hành và bệnh nhân đang chịu đựng nỗi đau, với nụ cười thân thiện và lời khích lệ của vị y sĩ, bệnh nhân sẽ đỡ đau và mau khỏe hơn. Thật ra chính là do tình thương mà bệnh được chữa lành. Một khi tình thương được lan tỏa ra từ nơi sâu thẳm của một người, chính tình thương yêu đã tạo nên sức khỏe tốt. Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Tất cả y thuật của Phật giáo đều bắt nguồn từ bộ kinh thiêng liêng nầy. Như đã giải thích trong bài đầu tiên của các bài kinh nầy, đức Phật Dược Sư một lần đã ngồi thiền định, và xung quanh các vị đệ tử gồm có các vị y sĩ, các vị thông thái, thiên vương và các vị Bố Tát, tất cả đều ước muốn học hỏi về phương pháp chữa bệnh. Tất cả đều lặng người bởi hào quang sáng rỡ trang nghiêm của đức Phật, mà không dám mở lời. Biết được nguyện vọng của họ, đức Phật Dược Sư đã phát ra hai ánh hào quang, ánh hào quang thứ nhất là lời thỉnh cầu học pháp, và ánh hào quang thứ hai giảng giải về pháp nầy. Nhờ vậy, bài kinh nầy được nói ra, và đức Phật Dược Sư giải thích những chứng bệnh khác nhau về thân cũng như tâm, giảng về nguyên nhân của chúng, sự chẩn đoán bệnh tình, và cách chữa trị. Mặt khác, đức Phật hiểu rõ nguyện vọng của các đệ tử mà không cần họ phải nói ra, việc nầy cho thấy lòng từ bi vô hạn của đức Phật đối với các đệ tử. Thật vậy, các thầy chữa bệnh như đức Phật được gọi là những vị đại y sĩ không những chỉ vì khả năng chữa lành bệnh – mà còn là vì lòng từ bi và trí tuệ để chẩn đoán và chữa trị tận gốc rễ của căn bệnh, dù là thân bệnh hay tâm bệnh. Trong nghệ thuật tranh ảnh, hình đức Phật Dược Sư được vẽ với màu vàng hoàng kim, dù các đặc điểm khác vẫn là màu xanh dương. Trong bất cứ hình ảnh nào, bàn tay trái của đức Phật Dược Sư đều để trên đùi trong tư thế bắt ấn của thiền định, với một cái bát bằng sắt. Tay phải ngửa lên, như đang ban phát, một cử chỉ thể hiện sự rộng lượng, một nhánh myrobalan (một loại thảo dược trong y học Tây Tạng). Đây là một loại trái cây có thể chữa bệnh rất phổ biến trong y học Tây Tạng và ở đây là biểu tượng của sự phục hồi mạnh mẽ của thế giới thực vật, nhắc nhở chúng ta là trái đất cung cấp miễn phí cho chúng ta, và không đòi hỏi gì hơn là gìn giữ sự mầu mỡ của nó với sự chăm sóc nhẹ nhàng, nâng niu. Tuy nhiên, y học Phật giáo chỉ áp dụng thuốc men một cách có giới hạn. Việc sử dụng thuốc chỉ được áp dụng vừa phải để chữa các triệu chứng ngoại tại của căn bệnh. Việc chữa trị căn bệnh cho con người tận gốc rễ cần phải nương vào sự chứng ngộ tâm linh, mỗi người chúng ta đều có thể tự chữa trị bằng cách nầy. Đức Phật Dược sư thường được vẽ với đủ loại dược thảo thơm tho bao quanh, trong y dược Tây Tạng, với vô số thiên vương, và Bố Tát. Hình vẽ như thế nầy được gọi là « Thiên đàng của đức Dược Sư » . Thiên đàng nầy tượng trưng cho một vũ trụ lý tưởng, nơi tất cả các thuốc giải cho mỗi chứng bệnh đều hiện hữu. Đức Phật Dược Sư cũng đã nói như sau, « Bao nhiêu chúng sinh hiện hữu trong hệ thống thế giới, đều có một con đường giải thoát. » Theo lời Romio Shrestha « « Đức Phật Dược Sư là nhà bào chế thuốc tâm linh. Để khám phá ra sức mạnh chữa bệnh tiềm tàng ngay trong con người chúng ta, là lối vào thiên đàng của « Bậc thầy về thuốc giải. » . Cũng có nghĩa là thiên đàng nầy nằm ngay trong lòng mỗi chúng ta, chỉ cần tâm thức sáng suốt để nhận diện và sử dụng nó. Romio Shrestha còn nói thêm, « Thân thể chúng ta có khả năng tự chữa bất cứ căn bệnh nào. Mỗi một cây, mỗi một dược thảo, mỗi thuốc giải đều có vật bổ sung của nó nằm trong cốt lõi tinh tế của thân thể con người. » Chúng ta không những có khả năng chữa trị cho chính bản thân, mà còn có thể chữa bệnh cho những người xung quanh chúng ta như câu chuyện sau đây : Ngày xưa đó, có một tăng sĩ sống trong một làng nhỏ ở Tây Tạng. Ông ta rất là tầm thường, và hằng ngày chăm lo nhiệm vụ tu sĩ của mình. Năm đó làng xảy ra một cơn dịch đậu mùa, giết chết vô số người trong vùng, vị tăng sĩ cũng bị đậu mùa và chết đi. Đó là vào giữa mùa đông, mặt đất bị đóng băng và củi thì khan hiếm, vì vậy xác của vị ấy được khiêng thả xuống một cái hồ đang đóng băng. Một thời gian sau đó, cơn dịch đậu mùa chấm dứt. Vào mùa xuân, mặt băng tan đi, và người ta nhận thấy một cầu vòng phía trên mặt hồ nơi họ thả xuống xác của vị tu sĩ. Người ta liền đến nơi đó và thấy xác của vị tu sĩ đang nổi lên, hoàn toàn nguyên vẹn. Xác của ông được đưa về tu viện và được làm lễ hỏa táng theo nghi thức tăng sĩ. Khi xác thân của ông biến mất trong ngọn lửa, nơi dàn hỏa xuất hiện nhiều cầu vồng bay thẳng lên bầu trời, sau đó người ta tìm được các xá lợi trong đống tro tàn. Lúc ấy, mọi người đồng công nhận vị tăng sĩ là một người xuất chúng trong cái vỏ ngoài rất « tầm thường », và người ta khen tặng ông đã nhận lãnh căn bệnh hiểm nguy để thanh tịnh hóa các nghiệp xấu tạo nên cơn dịch. Trong Phật giáo Tây Tạng, bệnh hoạn có thể là một biểu hiện của sự thành công về mặt tâm linh, và sự hy sinh chính mình để cứu những người khác. Một người mẹ có thể hiểu được điều nầy, bà mẹ có thể cho đi sự sống của mình để nuôi nấng các con. Thật như vậy có thể chứng minh sự ép xác, khổ hạnh là đúng, xem bệnh hoạn như một cây chổi quét sạch hết nghiệp xấu, và như vậy chứng tỏ con đường tâm linh cao nhất để thanh tịnh hóa bản thân là sự chịu đựng khổ hạnh. Một người tầm thường có khả năng trị bệnh xuất phàm. Khả năng nầy chỉ đạt được khi chúng ta chấp nhận về mình sự đau khổ của kẻ khác, chịu đau khổ như kẻ khác, bằng cảm nhận lấy nỗi khổ của họ. Trau dồi những cảm giác tương thông nầy sẽ làm tăng trưởng lòng từ bi, sự xót thương. Chỉ có như vậy mới có thể huy động được năng lực chữa bệnh không giới hạn đã tìm tàng sâu thẳm trong tâm thức vô biên của chúng ta. Thật sự bệnh tật và đau khổ được xem là cách giải thoát đặc thù, cho ta cơ hội để trải nghiệm sự liên hệ chặt chẽ giữa ta và những chúng sinh khác, và cho ta thấy rõ bản chất tử vong của kiếp con người. Có một câu chuyện về một vị trụ trì thiền viện đã đạt được năng lực chữa bệnh bằng lòng từ bi. Một ngày trong khi ông ta đang dạy dỗ đệ tử, bất thần ông ta la đau. Khi các đại sư hỏi ông bị gì, ông nói rằng có một con chó đang bị đánh đập bên ngoài. Khi họ ra ngoài, họ nhìn thấy một người đàn ông đang giận dữ và dùng gậy để đánh một con chó. Khi người đàn ông được gọi vào bên trong thiền viện, vị trù trì kéo áo xuống cho ông ta thấy những vết bầm và cắt trên lưng đúng ngay chỗ con chó bị đánh đập. Đây là tính chất hợp nhất mà một vị thầy chữa bệnh lý tưởng cần phải có. Truyền thống Phật giáo nhận diện Đức Dược Sư là vị thầy chữa bệnh lý tưởng, và nhấn mạnh rằng năng lực chữa bệnh mạnh mẽ nhất nằm trong lòng chúng ta. Theo ông Deepak Chopra "Chúng ta có một dược phòng nội tại thật sự thanh nhã. Dược phòng nầy chế tạo thuốc có hiệu quả trong thời gian với mục tiêu chính xác về bộ phận được chữa trị, và không bị ảnh hưởng phụ của thuốc.." Như vậy, chúng ta hiểu rằng đức Phật Dược Sư đang ở trong lòng mỗi chúng ta. Con đường đi đến giải thoát phải xuyên qua việc thiền định, đặc biệt là thiền định mường tượng. Bằng cách thiền về đức Dược Sư và mường tượng về Ngài trước mặt chúng ta, chúng ta có thể đối diện với đức Phật Dược Sư, và trông thấy được nụ cười từ bi sáng rỡ đối với vũ trụ, và cặp mắt hiền dịu đầy ắp tình thương yêu đối với tất cả chúng sinh. Kế đó, từ nơi trái tim đức Phật phóng ra một luồng hào quang sáng chói và làn ánh sáng nầy ngấm dần vào trái tim của chúng ta một cách dịu dàng. (Trái tim ở đây có nghĩa là « trung tâm » - cốt lõi của bản chất nằm ngay trọng tâm ngực của chúng ta, không phải chỉ là một cơ cấu máy móc vật chất chỉ để bơm máu). Trọng tâm nầy được định nghĩa như sau : "Ngay trong bản thân anh, đã có sự tĩnh lặng và một ngôi đền thiêng liêng mà anh có thể lui vào bất cứ lúc nào để nghỉ ngơi và yên tịnh một mình. Ngôi đền thiêng liêng nầy chính là nhận thức đơn giản về sự tiện nghi không bị bất cứ rối loạn nào có thể xâm phạm được. Nơi đây không có sự sợ hãi và không có đau thương. Một thiền sinh cần phải tìm ra không gian tâm thức nầy để có thể chữa được các bệnh." --- Deepak Chopra Chứng nghiệm nầy đến với chúng ta như một ánh chớp sáng suốt, và đây không phải bằng lời nói, hoặc bằng ngôn ngữ học. Đây là cảm giác thật bất ngờ, một sự hiểu biết tự do, khi mà chúng ta trải nghiệm chân lý không cần từ ngữ. Chân lý lọc qua từ ngữ sẽ bị gò bó, bởi vì chúng ta cần một thời gian nhất định để chuyên chú về ý nghĩa của nó. Xuyên qua trải nghiệm biểu tượng và sáng tạo tâm linh mà những chúng sinh « tầm thường » được chuyển hóa để trở thành những vị thầy chữa bệnh xuất chúng. Đây là cách giao tiếp với đức Phật Dược Sư, vị y sĩ chữa bệnh vĩ đại nhất. Cũng vì vậy các y sĩ tin tưởng vào những lý tưởng nói trên sẽ thực tập thiền định và cầu khẩn đức Phật Dược Sư trước khi ra toa xắt thuốc, và trước khi đưa cho bệnh nhân sử dụng. Khi bắt đầu làm những công việc nầy, họ đọc thần chú của đức Dược Sư. Câu thần chú ấy là OM BEKANDZE BEKHANDZE MAHA BEKANDZE RANDZE SAUNGATE SOHA. Khi đọc thần chú thiêng liêng nầy, họ tưởng tượng đến hình ảnh mật hoa rơi xuống, từ những âm tiết của thần chú, rớt vào chén thuốc. Những âm tiết nầy hoàn toàn tan hòa vào chén thuốc và làm cho thuốc ấy trở nên có hiệu lực và có khả năng trị bệnh. Biểu tượng hành động nầy nhắm vào sự thực hành và các âm tiết thiêng liêng đã tạo nên câu thần chú, làm cho chén thuốc có khả năng trị bệnh, cũng như vậy, do ý thức được việc bước đi trên con đường nghiệp đúng đắn, chúng ta có thể thấm nhuần cuộc sống của chúng ta với mật hoa chảy ra từ những hành động tốt đẹp xuyên qua việc trau dồi phẩm hạnh
-
Wild đã liên hệ Vị Trụ trì Chùa Diệu Pháp, Cơ bản Thầy đã nhận lời chủ lễ cho chúng ta vào ngày thứ bảy 6/11/2010. Do đó chúng tôi cần các bạn có mặt dù có đóng góp tài vật hay không thì các bạn hãy góp với chúng tôi 1 phẩm kinh Cầu Siêu cho Vong Linh thiệt mạng trong chuyến xe định mệnh cũng như nạn nhân bị lũ cuốn vì thiên tai. Chúng tôi rất cần các bạn đăng ký danh sách để tiện việc tổ chức và tham dự đầy đủ để tăng phần trang trọng cho buổi lễ. (Sẽ thông báo giờ và địa chỉ đến các bạn sau ngày thứ hai 1/11/2010.)
-
Tính cho đến nay, Chú Thiên Sứ đã có điều kiện ra Miền Trung để trao tận tay tổng số tiền 26,000,000 đ(hai mươi sáu triệu đồng) chúng ta hãy chờ tường thuật sau chuyến đi. ================================================================================ == Về thăm vùng lũ đi qua thấy thương tâm dâng trào nước mắt! Giác Ngộ - Trong những ngày miền Trung lũ lụt, người dân cả nước như đã “đứt từng khúc ruột” và đỏ mắt trông ngóng về bà con ruột thịt đang quằn quại trong nỗi đau xé lòng. Chỉ cầu mong sao cho nước chóng rút để sớm trở về chia sẻ... Và đúng, chỉ một ngày sau nước rút, lập tức mọi sự cảm thông chia sẻ sâu sắc nhất của người dân trong mọi miền đất nước đã đổ dồn về vùng lũ. Chúng tôi, đoàn từ thiện của Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên Huế là một trong những đoàn đến với bà con rất sớm. Càng vui hơn khi đi trên đường thấy có rất nhiều đoàn xe của nhiều tổ chức xã hội, và nhất là nhiều đoàn xe có dán cờ Phật giáo từ Bắc vào, Nam ra có treo băng rôn “Cứu trợ đồng bào miền Trung”, “Chia sẻ tình thương với đồng bào lũ lụt”... mà mừng cho bà con vùng lũ. Tan nát sau lũ tại Quảng Trạch (Quảng Bình) Một ngôi nhà đã bị sập hoàn toàn tại Sơn Bằng (Hà Tĩnh) Chị Hoa và các con tại mái lều tạm bợ Anh Lâm ở Sơn Bình trước cảnh tan nát của ngôi nhà mà mình đã sống Nơi cơn lũ đi qua Khi chúng tôi đến, các vùng lũ nước đã rút gần như hoàn toàn, ruộng vườn, đường sá chỉ còn lại dấu vết bùn bám trên lá, trên tường nhà và bốc lên một mùi hôi hăng hắc. Mọi người đang tất bật khắc phục lũ lụt; các quán sửa chữa ô tô, xe máy xếp đầy những xe hơi, xe gắn máy hỏng. Trên các hàng giậu, áo quần chăn màn người dân đem ra phơi như ngày hội. Hai bên lề đường và trong sân nhà dân, củi mục, gỗ to gỗ nhỏ chất thành từng đống cao, thi thoảng một vài ngôi nhà xiêu vẹo, có cái thì sập chỉ còn trơ lại cái nền… cảnh vật còn rất ngổn ngang. Trên nét mặt của mọi người dân biểu hiện những sự chán chường, mệt mỏi. Bác Hoài, một nông dân năm nay đã hơn 60 tuổi ở xã Quảng Tân (Quảng Bình) cho chúng tôi biết “làng này chết thì không có ai chết, nhưng mà tan nát hết cả rồi, quý vị thấy đó, còn chi mô, nhà cửa, lúa gạo ướt sạch, bốc mùi hôi thối hết cả rồi, còn chi mà ăn”. Trong những căn nhà lụp xụp, đơn sơ, tạm bợ giờ đã không còn nguyên vẹn, cái thì xiêu ngã ngược cái thì sập ngã xuôi, nhiều người đang chèn chống lại nhưng cứ chống cái này thì cái kia sập, ai nấy đều đã mệt lả người. Nhiều bà con nói như than với trời "lụt lội kiểu chi lạ, vừa rút ra, chưa hoàn hồn thì nước lại ập vô, hết sức chịu đựng rồi”. Anh Lâm ở xã Sơn Bình (Hà Tĩnh) trong bộ dạng buồn rười rượi vừa dẫn chúng tôi đi thăm những ngôi nhà sập và xiêu vẹo vừa nói trỏng: “Hết lụt rồi, nước rút hết rồi, nỗi lo người chết và mất tích đã qua rồi nhưng trời cũng đã “rút” hết sức lực của bà con rồi, chừ thì còn lại sự tan nát như ri đây”. Nghe bà con “kể chuyện lũ lụt”, ai cũng rươm rướm nước mắt mà thấy nao lòng... Nơi đây đang cần lắm những tấm lòng của mọi người Các huyện Hương Sơn, Hương Khê là những huyện của tỉnh Hà Tĩnh được xem là "rốn" của cơn lũ lịch sử vừa qua, đời sống của người dân từ già cho đến trẻ em, ai ai cũng trông mệt lả người. Mọi người chưa hết bàng hoàng kể lại: khi dòng nước lũ ập đến, khắp nơi trong làng ngõ xóm tiếng kêu cứu của dân làng cùng với tiếng gia súc, gia cầm và tiếng nước chảy lùa trôi cây cối, nhà cửa rất rợn người. Chúng tôi được bà con dẫn đến một khu vườn chuối đã nằm rạp sát đất, nhìn quanh chẳng thấy nhà cửa đâu, chỉ có một túp lều che bằng tấm bạt xanh, trống tuênh, chị Hoa và các con ngồi nhìn chúng tôi buồn rười rượi mà không nói nổi một lời chào. Nhà cửa chị đã nát tan, sạch trơn chẳng còn gì để ăn, các con đang học thì sách vở cũng đã trôi hết rồi, chị nghẹn ngào nói với chúng tôi “một đời phấn đấu đấy thầy, giờ thế này đây", nói xong chị chụi chụi nước mắt... Cần lắm tình thương Thường ngày thì một hai gói mì tôm có thấm vào đâu, thế nhưng trong khi biển nước mênh mông, trong những ngôi nhà, những mái ngói được tháo đi vài tấm để làm cửa liên lạc với bên ngoài, khi chúng tôi cập thuyền đến và đôi vào hai gói mì tôm thôi thế nhưng bà con mừng ríu rít, các cháu nhỏ mừng đến chảy nước mắt, vì đã gần 2 ngày không có cái chi cho vào bụng, bọn chúng đói lả người. Anh chủ tịch xã Quảng Tân kể chuyện tình người trong lũ lụt với chúng tôi mà vẫn còn đượm nét buồn. Cụ Thiện, ở xã Sơn Bình (Hương Sơn) cho chúng tôi biết, “chừ thì hết lụt rồi, phải tập trung sức lực khắc phục thôi, nhưng nhà cửa trôi, sập thì từ từ che chắn ở tạm còn cái đói thì đang rất cấp thiết, bà con ở đây đã bị trôi hết rồi, các đoàn đến cho đồng bào con gạo, mì, chăn màn là mừng hơn chi hết, thiết thực hơn hết". Và khi chúng tôi thông báo đang có rất nhiều đoàn từ thiện của các tổ chức xã hội, của các tôn giáo và nhất là Phật giáo đang trên đường về với bà con. Trước mắt đoàn Phật giáo Thừa Thiên Huế sẽ tặng bà con mỗi người mỗi phần quà gồm 1 cái chăn, mấy bộ áo quần, 1 thùng mì ăn liền và 100.000đ thì có nhiều bà con vui mừng lắm. Các cụ các bà tay run run nhận những phần quà từ quý Ni trưởng, Ni sư... mà mắt như ngấn lệ, hồn nhiên nói "đồng bào cám ơn nhiều lắm và đồng bào cần lắm những tấm lòng của các nhà hảo tâm, các đoàn từ thiện…". Với tâm niệm có thì cho nhiều, không thì cho ít, và thậm chí chỉ cần đến với bà con thôi, hỏi thăm động viên bà con sau khi cơn lũ cũng đã thấy bà con mừng lắm. Bởi hơn khi nào hết, tình nhân ái đang rất cần cho bà con nơi vùng lũ lụt. “Hãy về với bà con, thương bà con với”, cụ Ba tại xã Hương Trà (Hà Tĩnh) nói vọng theo khi đoàn xe của chúng tôi lăn bánh trở vào Huế… Bài, ảnh Trí Năngnguồn giacngo.vn
-
Có nhận của gia đình Anh Huỳnh văn Phúc 500,000 đ(năm trăm ngàn đồng) góp lễ Cầu siêu.
-
Tâm không vọng thì lòng không động! Rubi à !
-
Đố Trà. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi khi cụ tôi cùng các bạn đồng niên uống trà, tôi chỉ dám đứng xa nhìn với một sự tò mò lạ lẫm. Cái cách pha trà, thưởng trà toát lên vẻ cao sang lịch lãm đến mức thánh thiện. Bên bàn trà các cụ luận về cách thưởng trà, bàn bạc về thế sự… Có một lần cụ đồ Hân trong lúc cao hứng đã kể một câu chuyện về nghệ thuật thưởng trà, khiến các cụ cứ gật gù tán thưởng mãi. Cụ đồ Hân nhấp một chén trà, khoan thai vuốt chòm râu dài trắng như cước rồi nói: - Hôm nay đầu xuân năm mới, tôi xin kể hầu các cụ một chuyện vui mà tôi có duyên may là người trong cuộc. Mùa xuân năm ấy, khi đến thăm người bạn cố tri ở Sơn Tây, bạn tôi là người sành trà có tiếng. Nhưng có cái lạ là ông chỉ uống trà ta chứ không dùng trà tàu như mọi người lúc ấy. Ông cụ lại có biệt tài ướp hương cho trà. Trong nhà ông lúc nào cũng có trà ướp hương sen, nhài, cúc, ngâu… Ông cho rằng thưởng trà ướp hương chính là được thưởng thức cái tinh túy của trà và hương hoa làm cho tinh thần nhẹ nhàng thư thái, gần với sự thoát tục hơn. Hôm ấy ông cụ mời hai người bạn nữa tới cùng chúng tôi thưởng trà và đàm đạo. Sau khi tự tay quạt than, đun nước, pha trà, cụ chủ nhà hóm hỉnh nói: Thưa các cụ, ngày xuân, lại may mắn có bạn cố tri đến chơi, kẻ hèn này xin mời các cụ thưởng thức chén trà do tự tay tôi chọn lựa và sao ướp. Vẫn biết các cụ là những người sành trà, nhưng cho phép tôi được đố vui một chút. Xin các cụ cho biết trà được ướp bằng hương hoa nào vậy. Chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng rồi cúi đầu lĩnh ý chủ nhà, Đến lúc ấy cụ chủ nhà mới nhẹ nhàng lật từng chiếc chén cổ men rạn vẫn úp trên đĩa rồi nhẹ tay rót trà, một mùi hương nhẹ nhàng lan tỏa khắp phòng. Chờ mọi người cạn tuần trà đầu tiên, cụ chủ nhà mời tôi cho ý kiến. Không ngần ngại tôi nói ngay: - Thưa các cụ, trà này được ướp hương sen, chỉ có điều hương sen này tinh diệu chưa từng thấy. Tôi vừa dứt lời, cụ thứ hai đã mỉm cười nói: - Thưa các cụ, theo ngu ý của tôi thì đây đích thị là hương ngâu, cái thứ hương hoa dân dã mà không kém phần cao sang ấy thực không thể nào lầm được. Cụ thứ ba lắc đầu: - Xin lỗi các cụ, theo thiển ý của tôi thì đây là hương cúc, tôi đã được thưởng thức nhiều lần nên quyết không lầm được, Xưa vua chúa cũng hay dùng loại này, tỉnh thần và sáng mắt lắm các cụ ạ. Chúng tôi bối rối nhìn nhau, cả đời thưởng trà mà chỉ một ấm trà mà mỗi người một ý. Lúc ấy cụ chủ nhà mới vui vẻ gỡ rối: - Thưa các cụ, các cụ đều là những người sành trà cả. Chỉ có điều kẻ hèn này đã dùng một mẹo nhỏ khác với cách ướp hương thông thường, nên nhất thời làm cho các cụ bối rối, ngàn lần xin được tạ lỗi cùng các cụ. Từ chiều hôm qua tôi đã cho người nhà lấy hoa sen, ngâu, cúc đặt vào đĩa, úp chén lên rồi hâm nóng đĩa. Hương hoa tỏa ra và được chiếc chén giam hãm. Hôm nay rót trà vào là đã có mùi hương như ý đấy ạ. Chúng tôi cùng ồ lên thán phục. St.
-
-
Xác nhận có 200,000 đ(hai trăm ngàn đồng) của Lan Anh góp lễ Cầu siêu.
-
Blog Cô gái đồ long này chỉ có họ Lê thị La vào xem "Tám" chứ giới văn phòng, công chức, Trí thức có vào Hiểu cũng không tiếp thu nổi. Giờ lại có người quan tâm hỏi quẻ để làm gì nhỉ? Chuyện này để Pháp Luật lo!