wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Theo cô thì không phải Lục Tự Đại Minh Chú đâu! Bởi ảnh trên tuy mờ nhưng cũng có thể nhận dạng được khi so sánh!
  2. Có nhận 600,000 đ (sáu trăm ngàn đồng) của Sunnyday81 ủng hộ Quỹ từ thiện. Quỹ hiện có: 8,100,000 đ + 600,000 đ = 8,700,000 đ (tám triệu bảy trăm ngàn đồng)
  3. Tưởng như Clip này được quay tại một đất nước nào đó, nhưng ngay tại VN giữa thành phố hà nội và thực khách là người hà nội, có lẽ họ suy nghĩ đây là cách thưởng thức 1 món ăn tươi chín nhất! Tiếc thay họ không cảm nhận được sự đau đớn của con cá, đôi mắt bi thương môi ngáp như mếu tất cả sự chịu đựng đó của 1 sinh vật sẽ dồn nén lan tỏa xuống toàn thân của nó tạo thành nguồn uất khí rất độc khi ta đưa vào cơ thể của chính mình! âu cũng là nghiệp quả! Comment : Trên bàn tiệc, món cá được trình bày cầu kỳ, đẹp mắt và sống động như đang bơi. Tuy nhiên, điều khiến thực khách ngỡ ngàng chính là những hình ảnh ghê sợ hay đúng hơn là "dã man" của món ăn này.
  4. Cho dù bay vút lưng trời Cho dù đáy biển trốn thời được đâu Cho dù núi thẳm hang sâu Không nơi nào thoát quả sầu được gieo!
  5. Người đàn bà quyền lực sau lưng Năm Cam. Từng là người "hét ra lửa" bên cạnh chồng (trùm giang hồ Năm Cam), những năm tháng cuối đời tại trại giam, Trúc "Mẫu Hậu" phải sống vật vã, chống chọi với nhiều cơn đau bệnh tật. > Vợ Năm Cam chết trong trại giam Hai hôm nay, cái chết của bà Phan Thị Trúc (Trúc "Mẫu Hậu", vợ Năm Cam) gây nhiều chú ý với người dân xung quanh chùa Phước An (đường Tôn Đản, quận 4, TP HCM). Đầu con đường nhỏ dẫn vào chùa, họ đứng bàn tán về người đàn bà từng có quyền lực nhất trong thế giới ngầm của Sài Gòn những năm 90 của thế kỷ trước. Hôm qua, việc đưa quan tài bà Trúc từ trại giam Xuân Lộc (Đồng Nai) về đây đã làm xôn xao cả khu phố nhỏ. Quan tài được đặt tại sảnh hông của chùa Phước An, nơi ni cô Diệu Quang (con gái bà Trúc và Năm Cam) đang tu hành. Khoảnh sân nhỏ phía trước chùa được dựng rạp, kê khoảng 4 bộ bàn ghế để cho con cháu trong nhà tiếp khách đến viếng thăm. Một số phật tử cũng bận rộn chuẩn bị cơm chay để phục vụ cho tang sự. Bà Trúc và trùm xã hội đen Trương Văn Cam (Năm Cam) kết hôn với nhau từ thuở trắng tay. Tuy nhiên, trước khi đám cưới với Trúc, năm 16 tuổi, "anh Năm" từng có con với người đàn bà lớn hơn nhiều tuổi. Năm Cam nổi danh và đạt được vị thế của một ông vua trong thế giới ngầm một phần nhờ vào sự toan tính, quản lý của bà Trúc. Ngôi hậu mà giới giang hồ phong cho bà này đã phần nào nói lên quyền lực của người đứng sau lưng Năm Cam. Vào thời kỳ hoàng kim của Năm Cam, dựa vào thế của chồng là một trùm xã hội đen, bà này đứng ra cho vay với mức lãi cực "khủng". Lúc đầu, Trúc tính lãi 20%/tháng (cao gấp 10 lần lãi suất ngân hàng), nhưng sau đó tăng lên 30-60% mà các con nợ vẫn phải chấp nhận vì "ông trùm" muốn thế. "Lúc đầu tôi vay tiền vì thiếu vốn làm ăn. Nhưng sau đó 2 năm tôi muốn thôi do lãi suất quá cao thì lại không dám. Tôi sợ Năm Cam và vì sự an toàn của bản thân, của gia đình nên vẫn bấm bụng vay tiền của chị Trúc hoài", một con nợ của bà này từng khai trước tòa. Thời gian chung sống, bà Trúc biết toàn bộ việc làm phi pháp của chồng như tổ chức đánh bạc, bảo kê nhà hàng... để có thu nhập bất chính nuôi gia đình và bản thân. Năm 1995, khi Năm Cam bị bắt, Trúc đã gom một số tiền lớn gồm 75.000 USD, 20 triệu đồng và một đồng hồ đeo tay hiệu Rolex trị giá 5.000 USD (tổng cộng 1,3 tỷ đồng) rồi cùng con rể là Dương Ngọc Hiệp (Hiệp "Phò Mã") ra Hà Nội đưa cho Trần Văn Thuyết để chạy án cho ông trùm sớm được tha, không bị truy tố trước pháp luật. Với những hoạt động xã hội đen của Năm Cam, người đàn bà này cũng tỏ ra quan tâm đến những đàn em dưới trướng. Sau khi Bùi Anh Việt (Bảy Việt) cùng đồng bọn sát hại trinh sát hình sự Phan Lê Sơn (Công an TP HCM), tên này được Năm Cam sắp xếp trốn sang Campuchia. Lúc tên sát thủ đang lẩn trốn, Trúc cũng đến gặp mặt và cho một ít tiền làm lộ phí "lặn không sủi tăm", tránh bị phát hiện ảnh hưởng đến chồng. Đến khi Năm Cam và đồng bọn sa lưới, Phan Thị Trúc cũng bị TAND TP HCM tuyên phạt 20 năm tù về các tội Đưa hối lộ, Cho vay nặng lãi và Che giấu tội phạm. Tuy bên ngoài tỏ ra đầy uy quyền nhưng trong gia đình, Trúc "Mẫu Hậu" từng phải uất ức, nín nhịn. Trong cuộc sống đế vương của mình, ngoài bà vợ chính thức, trùm Năm Cam còn ít nhất 4 cô vợ bé và hàng loạt "bóng hồng" ăn chơi qua đường. Trúc "Mẫu Hậu" vốn biết rõ những cuộc tình của chồng nhưng đều phải tự sắp xếp ổn thỏa. “Tôi thương con, thương chồng nên cắn răng nhẫn nhịn, chịu đựng tất cả những điều đó. Vì tôi biết, nếu tôi không khôn ngoan, khéo léo, không cư xử ôn hòa thì gia đình tôi sẽ tan vỡ, con tôi sẽ khổ”, Trúc "Mẫu Hậu" từng chia sẻ trong thời gian ở tù. Có lần Năm Cam chia tay với vợ bé có chung 2 đứa con, bà Trúc đã đón chúng về nuôi, xem như con ruột. Mang cái uy ở ngoài xã hội và cuộc sống gia đình, tất cả những người con của bà Trúc đều rất kiêng nể mẹ, bất luận có phải do bà sinh ra hay không. Có lẽ chính vì vậy mà những đứa con cùng cha khác mẹ trong gia đình Năm Cam đều hòa thuận. Vào trại giam Xuân Lộc (xã Long Khánh, Đồng Nai), Trúc "Mẫu Hậu" chịu án tại phân trại 5. Theo một quản giáo, những ngày đầu mới đến, người đàn bà quyền lực này sống trong tâm trạng hoảng loạn. Bà ta thường xuyên khóc lóc vật vã nhưng sau một thời gian, với sự động viên của cán bộ trại cũng như sự giúp đỡ của các phạm nhân khác, Trúc "Mẫu Hậu" đã dần lấy lại được cân bằng và sống hòa đồng. Khi nhắc về chồng và những đứa con, Trúc "Mẫu Hậu" thường rơm rớm nước mắt bảo rằng muốn quên đi quá khứ đáng buồn của gia đình mình. Người đàn bà ngoài 60 tuổi quyền lực ngày xưa giờ đã thành tâm sám hối, chỉ muốn sớm được trở về đoàn tụ con cái sau đó sẽ theo ni cô Diệu Quang (cô con gái đi tu từ nhỏ) vào chùa quy y, gột rửa tâm hồn. Nhắc đến người con gái rời xa cõi trần tục, nương nhờ cửa Phật từ khi còn là một cô bé, Trúc "Mẫu Hậu" bảo thương cô nhất trong những đứa con của mình. Ni cô đã có lần thuyết phục cha lo tiền học phí cho 7 người bạn của mình đến khi vào đại học. Ngày Năm Cam bị bắt, cô đang theo học ở Học viện Phật giáo Trung Quốc và đã bay ngay về nhà. Những lần vào trại giam thăm bà Trúc, ni cô Diệu Quang khóc rất nhiều, khuyên mẹ cố gắng cải tạo tốt, giữ gìn sức khỏe để sớm được về đoàn tụ gia đình. Chịu án được hơn 10 năm, thời gian gần đây, người đàn bà quyền lực đã yếu đi nhiều. Mỗi ngày trôi qua, Trúc "Mẫu Hậu" sống vật vã chống chọi với những cơn đau bệnh và chết vào sáng 16/8. Quốc Thắng - Hải Duyên vnexpress.net ========================================================================================================= Luật nhân quả trả vay luôn là bộ luật công bằng nhất mà ai ai cũng phải sòng phẳng bởi chúng ta có thể chạy trốn người vay nhưng không thể tránh được nghiệp lực đã gieo.
  6. Vợ Năm Cam chết trong trại giam Sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật trong chốn lao tù, phạm nhân Phan Thị Trúc (tức Trúc “Mẫu Hậu”, vợ trùm xã hội đen Năm Cam) đã chết. > Phải vay tiền Trúc 'Mẫu Hậu' lãi suất cao vì sợ Năm Cam /Những chủ nợ khét tiếng trong tổ chức của Năm Cam Ngày 17/8, xác nhận với VnExpress, một lãnh đạo trại giam Xuân Lộc (xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) cho biết bị án Phan Thị Trúc (66 tuổi) đã chết do bệnh tật vào ngày 16/8. Cùng ngày, trại giam đã cho phép người thân đem xác bà Trúc về an táng. Phan Thị Trúc là vợ cả của Trương Văn Cam tức "Năm Cam", trùm giang hồ tại TP HCM. Người đàn bà này bị kết tội là dựa vào uy thế của chồng trong giới giang hồ để cho vay nặng lãi chuyên nghiệp đối với nhiều người; cùng con rể gom tiền chạy án cho chồng và còn có hành vi che giấu việc trốn chạy của một đệ tử Năm Cam. Với những hành vi trên, năm 2003, bà Trúc đã bị tòa tuyên án 20 năm tù về tội đưa hối lộ, 2 năm tù về tội che giấu tội phạm, 3 năm tù tội cho vay lãi nặng. Tổng hợp hình phạt là 20 năm tù bởi theo quy định, án phạt tù có thời hạn tối đa 20 năm. Theo một quản giáo, những ngày đầu mới nhập trại, Trúc “Mẫu hậu” sống trong tâm trạng hoảng loạn, tuyệt vọng. Bà ta thường xuyên khóc lóc vật vã nhưng sau một thời gian, với sự động viên của cán bộ trại cũng như sự giúp đỡ của các phạm nhân khác, Trúc “Mẫu Hậu” đã dần lấy lại được cân bằng. Bà sống hòa đồng với các phạm nhân. Những năm cuối đời, Trúc “Mẫu Hậu” phải chống chọi với những cơn đau bệnh tật. Người phụ nữ từng lừng lẫy một thời với vai trò vợ của ông trùm Năm Cam ốm yếu, khổ sở với nhiều bệnh trong người. Quốc Thắng vnexpress.net
  7. Chào bạn! Khi khởi tâm ấn tống và điều kiện được gia trì ACE chúng tôi luôn hướng đến mọi Phật Tử trên trái đất này đạt sở đắc bản Linh Phù này Vì thế chúng tôi càng trân trọng những thành viên Post bài thỉnh nhận, trong suốt quá trình thực hiện chúng tôi quyết không bỏ sót một trường hợp nào kể cả trong và ngoài diễn đàn hay các nhà Chùa có tâm phát triển Thần Chú tuy nhiên cũng không ít lần chúng tôi chẳng nhận được sự hồi đáp dù chỉ vỏn vẹn trong 2 từ "đã nhận" từ phía người thỉnh do đó sự phản hồi của bạn hay 1 số bạn khác "chưa nhận" dù vì bất cứ lý do khách quan nào chúng tôi vô cùng biết ơn và sẽ gửi lại lần 2. Vì sự im lặng của 1 số ít không phản hồi gây cho chúng tôi sự áy náy vì hạnh nguyện Bố Thí Pháp chưa tròn. Một lần nữa cám ơn Bạn đã cho chúng tôi tin trên đây để chúng tôi còn có điều kiện khắc phục ! Chúc Bạn và gia đình an lạc kiết tường.
  8. Chẳng qua là nhiều người cảm tính gọi bừa chứ! Chích Bông cũng có trống có mái mừ! Mà hình như Trống bị cột mỏ rùi!
  9. Qua việc này mình được biết vào tháng 3 âl Thanh Minh thực hiện chuyện cải táng xây mộ không cần coi ngày, còn tháng 7 có lẽ nên tham khảo các Chư Tăng Hòa thượng .
  10. Tập Thở Và Vận Động Để Trị Bệnh Đau Nhức Một tờ báo Mỹ có kể một câu chuyện về một người đi ăn trộm, đang mò mẫm trong bóng tối bỗng đụng chạm làm rơi một món đồ gì đó, khiến ông chủ nhà thức giấc. Anh ăn trộm hoảng quá, đứng chết trân tại chỗ, chờ chủ nhà kêu 911. Nhưng bất ngờ, ông chủ nhà chỉ rên rẩm và nói: -Ăn trộm hả? Muốn lấy gì thì lấy đi. Nhưng, trước khi đi, đưa giùm tôi lọ thuốc phong thấp ở trên bàn đó và một ly nước nữa. Tôi đang đau quá, không dậy nổi.Anh trộm chưng hửng một lúc, nhưng rồi cũng đưa lọ thuốc và nước cho chủ nhà xong, rồi chậm rãi nói: -Ông bị đau nhức đầu gối phải không? Tôi cũng bị.. Nhưng uống thuốc này không hết đâu. Tôi dùng thuốc khác. Chủ nhà vừa rên vừa hỏi: -Thuốc gì vậy? Viết tên thuốc được không? Anh trộm viết tên thuốc rồi vừa đưa cho ông chủ vừa nói: -Tôi dùng thuốc này mới hết. Nhưng vì trước đây, đau quá, mất ngủ ban đêm quen rồi, nên bây giờ, hết bệnh, không biết làm gì cho hết đêm, đành đi ăn trộm ....Ông tha cho tôi. Tôi đi về nhé! Nói xong, anh trộm ra mở cửa, đi về. Ông chủ nhà gọi với theo: -Cám ơn nghe. Đêm nào mất ngủ, cứ tới đây, nói chuyện chơi. Bài báo nói lên được một thực trạng về bệnh tật mà bao người Mỹ đang mắc phải: bệnh Đau nhức các khớp xương, hay còn gọi là Phong thấp, mà tiếng Mỹ gọi là Arthritis. Có hai loại Đau nhức: Osteoarthristis, tạm gọi là loại Một (cho các vị cao niên dễ nhớ) và Rheumatoid Arthritis mà ta tạm gọi là loại Hai. Loại Một gây ra những đau nhức ở cổ, vai, bàn tay, ngón tay, đầu gối, xương chậu... Nguyên nhân thường là do tuổi tác (phụ nữ trên 45 tuổi có thể mắc bệnh này), thoái hóa xương, di truyền, bệnh mập phì, hay do những động tác không ngay ngắn được lập đi lập lại lâu ngày như ngồi ghế cong lưng, ngồi lái xe mà thắt lưng bị bẻ cong, nghiêng đầu sang một bên, tay đánh máy suốt ngày không thư dãn, đứng một vị thế cong trong nhiều giờ, nhiều ngày.... Trên nước Mỹ có tới 21 triệu người bị đau loại Một. Loại Hai cũng đau ở các đốt xương, có thể sưng lên, làm biến dạng xương, khó đi đứng, cử động. Loại này có trên 2 triệu nguời mắc bệnh. Nguyên nhân có thể do hệ thống miễn nhiễm không làm việc tốt, bị di truyền, hay vì thời tiết thay đổi đột ngột. Nói chung cả hai loại đều gây đau nhức, nhiều người cảm thấy “khốn khổ, khốn nạn” khi bị các cơn đau hành hạ. Hoặc đi một lúc thì cảm thấy nhức chân, rồi đi lệch lạc. Hoặc ngủ không nổi vì khớp xương đầu gối buốt quá. Hoặc ngồi lâu thì tê hai bả vai... Thường thì có ba (3) cách điều trị các bệnh đau nhức : Thuốc uống (Medication), giải phẫu (Surgery) và Không dùng thuốc (Non-medication). Hai phương pháp đầu tiên, dĩ nhiên, là phải qua Bác sĩ. Phương pháp thứ Ba: Không dùng thuốc lại gồm ba cách: châm cứu, vật lý trị liệu, và tập luyện (exercise). Trong ba cách này, Tập Luyện (Exercise) dễ hơn cả và tác dụng lâu bền hơn cả. Châm cứu có tác dụng tức khắc, nhưng cũng hết tác dụng nhanh lắm. Vật Lý trị liệu cũng thế. Khi được Mát xa, thì thấy rất “đã”, nhưng chỉ một ngày sau là lại đau như cũ. Vậy chỉ còn các TẬP LUYỆN lấy một mình, không tốn tiền, không phải giải phẫu, cũng không phiền ai, nhưng chỉ cần Ý CHÍ tự thắng mà thôi. Người viết bài này, chỉ còn một ít chỗ khớp xương nào còn nguyên vẹn mà chưa lần ...gẫy. Tuổi trẻ, đi tập đủ loại võ nghệ: Nhu Đạo, Thái cực Đạo, Hapkido, Aikido, Thiếu Lâm.. không môn nào mà không mang cho thân thể một lần trật xương, gẫy vỡ. Đấu vật thì cắm đầu xuống đất, lọi cổ tưởng chết. Rồi chống tay xuống đất, vỡ xương cổ tay, lọi cùi chỏ.. Nhẩy qua chướng ngại vật: gẫy vai (2 lần). Đá người thì bị lọi ngón chân. Vật người thì bị gẫy thắt lưng... Bó bột liên miên, hết tay lại chân. Vào nhà thương chích thuốc rồi qua Thầy Cự Thất bó gà, qua Thầy Tầu điểm huyệt, có lần nhờ thầy Cao Miên thổi bùa cho lành vai... Tất cả những lần gẫy vỡ ấy, tuổi thanh niên sung sức chẳng coi nhằm nhò gì, giờ này, mới thấy thấm thía: đau nhức khắp người. Muốn hết đau nhức mà không muốn uống thuốc, không chích Cortisone, không đi Bác sĩ chỉnh xương, thì phải tập luyện hoài hoài, ngưng tập là .. đau! Cho nên, viết bài này để chia xẻ những ai đau đớn vì bệnh phong thấp, nhức xương, mong mọi nguời cùng khỏe. Nguyên lý: Hệ thống thần kinh của con người chạy cùng khắp thân thể, chỗ nào cũng có, từ đầu cho tới ngón tay, ngón chân. Tuy nhiên, theo hình vẽ về hệ thần kinh được treo tại các phòng mạch Tây, Đông Y, ta thấy chùm dây thần kinh đi từ sau ót tỏa ra cánh tay, xuống lưng, qua xương sống, tới hông, đùi, rồi chân (trông như một bó dây điện) là chùm quan trọng nhất. Nếu bị “kẹt” đâu đó, thì đau. “Kẹt” trên cổ có thể gây đau ra cánh tay, bàn tay. “Kẹt” thấp xuống dưới thì đau bắp thịt lưng, đau thắt lưng, “kẹt” ở chỗ thắt lưng lại gây đau ở đùi, chân... Cho nên, khi bị đau quá vì xương thoái hóa hay vì đụng xe, mà phải giải phẫu, bác sĩ sẽ cân nhắc rất kỹ. Mổ ở thắt lưng, nếu “xui”chạm giây thần kinh, có thể bị liệt chân mà thôi, nếu mổ ở cổ mà bị “xui”, có thể liệt cả người! Vì thế, chỉ những trường hợp đau cổ chịu hết nổi, bắt buộc phải giải phẫu thì phải ký giấy chấp nhận 50/50, một là khỏi, hai làđời xe lăn. Hên thì cũng có thể phải ghép một cây sắt vào trong cổ. Đôi khi phải mổ lại.. Chỉ còn cách Tập Luyện, cho thư giãn thần kinh chỗ gây đau, cho mạnh bắp thịt chỗ đau, cho khớp xương được chuyển động dịu dàng trở lại, kích thích chất nhờn đầu khớp xương phục hoạt, điều chỉnh lại những chỗ lệch lạc xương cốt, thì sẽ .. bớt đau (không phải HẾT đau, vì hễ ngưng tập một thời gian, có thể đau lại). A-CHỮA ĐAU CỔ, ĐAU VAI, ĐAU TAY: 1-Xoay cổ trái phải: nhìn thẳng trước mặt, xoay cổ từ trái sang phải chầm chậm, mắt vẫn nhìn ra đằng trước, từ từ hít vào. Từ từ trả cổ trở lại phía trước, rồi xoay sang bên phải, mắt vẫn nhìn ra đằng trước, thở ra. Nhớ xoay cho hết cỡ, tới khi không xoay được nữa thì thôi. Làm 10 lần. 2-Gập cổ: ngửa cổ lên chầm chậm cho tới hết cỡ, từ từ hít vào. Chầm chậm gập cổ xuống ngực, hết cỡ, thở ra. Làm 10 lần. 3-Bẻ cổ: Mắt nhìn thẳng đằng trước, bẻ cổ nghiêng xuống đầu vai trái, hít vào. Từ từ thở ra, bẻ cổ qua đầu vai bên kia. (Khác với xoay cổ trái phải: ở đây, khi bẻ đầu xuống vai thì đầu vai có hơi nhô lên cho chạm với đầu, còn xoay cổ trái phải thì chỉ quay đầu vào khoảng trống sau vai mà thôi). Làm 10 lần. 4-Xoay cổ vòng tròn: Dùng điểm tựa là cổ, xoay vòng đầu chung quanh cổ, từ phải sang trái 10 lần rồi từ trái qua mặt 10 lần. B-CHỮA ĐAU CÁNH TAY, BÀN TAY: 1-Xoay vai: hai tay buông thỏng, dùng đầu vai làm điểm tựa, xoay vai theo một vòng tròn chạy chung quanh đầu vai ( không phải nhô lên, hụp xuống) từ sau ra trước, rồi từ trước ra sau. 10 lần. Trong khi xoay vai, vẫn hít thở đều đặn. 2-Lắc bàn tay: giơ cánh tay ra trước mặt, cùi chỏ ép hai bên thân mình, giữ nguyên cổ tay và cánh tay, hai bàn tay để trước mặt, lòng bàn tay hướng vào phía ngực. Lắc từ trên xuống dưới (như giũ giũ bàn tay) thật mạnh 10 lần. Đổi hướng, cho mu bàn tay lên trên, lòng bàn tay hướng về mặt đất, giũ mạnh bàn tay từ trên xuống dưới. 10 lần. Đổi hướng, hai lòng bàn tay quay vào nhau, giũ mạnh bàn tay từ trái qua phải, từ phải qua trái. Những người thư ký đánh máy, làm “neo”, thợ may.... phải tập bàn tay thường xuyên, nếu không, có thể bị mổ cổ tay vì khớp xương cổ tay bị cứng khô lại. 3-Vẽ vòng trên đất: đứng rộng chân ra, một tay vịn vào mặt bàn, nguời nghiêng xuống cho song song với mặt đất, cánh tay buông thỏng, tưởng tượng như đang cầm một cái que, vẽ một vòng tròn tưởng tượng thật to trên mặt đất . Vẽ nhanh 10 lần rồi đổi tay. Hít thở đều hòa. C-CHỮA ĐAU THẮT LƯNG, ĐÙI, CHÂN: 1-Xoay thắt lưng theo vòng tròn: hai tay chống hông, ngón tay để ra sau lưng, ngón cái phía trước, các ngón tay ấn mạnh vào thắt lưng, dùng thắt lưng làm điểm tựa, xoay vòng bụng ra trước rồi vòng qua bên phải (bên trái) ra sau, rồi vòng tới trước. Làm liên tục không ngừng, khi ra tới trước, thì bụng phải ưỡn ra hết cỡ. Khi ra sau thì thắt lưng cong lại cũng hết cỡ. Hít thở chầm chậm theo vòng. 2-Gập lưng: cũng như gập cổ, ngửa lưng ra, hít vào, gập thắt lưng xuống, thở ra. Khi ngửa lên, ngửa hết cỡ, khi gập xuống, cũng gập hết cỡ. 3-Xoay hông: hai tay buông thõng bên sườn, vặn người qua bên trái thì hai cánh tay cũng “văng” theo bên trái, nghĩa là không dùng sức tay, chỉ để cho hai cánh tay “văng” theo mà thôi. Xong, vặn người qua bên phải. Hai cánh tay lại “văng” theo bên phải. Nhớ khi xoay sang bên nào thì xoay gót chân bên đó, và bàn chân bên đó nhấc lên, nghĩa là xoay trên gót chân mà thôi. Mục đích làm cho vòng xoay rộng thêm, nếu giữ nguyên bàn chân trên mặt đất, vòng xoay sẽ ngắn lại. Hít thở chầm chậm. D-CHỮA ĐAU ĐẦU GỐI: 1-Xoay gối trái phải: đứng vừa phải, hai bàn tay đặt trên đầu gối, thấp người xuống, xoay đầu gối theo một vòng tròn về phía phải (theo vòng kim đồng hồ) 10 lần rồi đổi hướng quay theo bên trái. 2-Xoay gối trong ngoài: đứng rộng chân ra, hai tay đặt trên đầu gối, thấp người xuống, xoay đầu gối từ ngoài vào trong rồi từ trong ra ngoài. Các thế đầu gối này, mới đầu thì chỉ thấp người xuống một chút, sau đó, mỗi ngày càng thấp người xuống hơn, công lực sẽ mạnh hơn. Chỉ cần làm 10 phút, là đã thở mạnh, toát mồ hôi rồi. Người nhức đầu gối ban đêm phải tập trước khi lên giường ngủ. Lưu ý: -Những thế tập này chỉ được áp dụng với người chưa giải phẫu xương lần nào. Nếu đã giải phẫu cổ thì không được tập cổ. Nếu giải phẫu lưng rồi mà muốn tập lưng, phải hỏi bác sĩ, xem phim X-ray có trở ngại gì không.. -Phối hợp vừa châm cứu, vừa mát xa, vừa tập luyện thì rất tốt. -Trường hợp đau kinh niên vì xương rồi, có thể uống thêm Glucosamine có bán tại các tiệm thuốc Tây để kích thích chất nhờn đầu xương và xương. -Mua một cái máy mát-xa nhỏ cầm tay để chà xát chung quanh chỗ bắp thịt đau sẽ hiệu nghiệm nhanh hơn.
  11. Nếu bạn có nhu cầu và tâm thỉnh nhận vui lòng để lại số đt trong hộp thư diễn đàn, Wild sẽ liên hệ và báo đến bạn!
  12. MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY LÀ GIẢ MẠO? MƯỜI BỐN ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT 1.- Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình. 2.- Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá. 3.- Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại. 4.- Bi ai lớn nhất của đời người là ganh tỵ. 5.- Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình. 6.- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu. 7.- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ty. 8.- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã. 9.- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng. 10.- Tài sản lớn nhất của đời người la sức khỏe, Trí Tuệ. 11.- Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm. 12.- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung. 13.- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết. 14.- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí. Trích lời kinh Phật "14 điều răn của Phật" trên là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rõ ràng. Theo Đại đức Thích Nhật Từ, 14 điều này vốn được lưu truyền tại chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. Không có bài kinh nào trong các bộ Kinh tạng Pa-li, A-hàm kinh và kinh Đại Thừa chứa đủ 14 điều này. Tác giả có thể là các nhà sư chùa Thiếu Lâm và họ đã biên tập, trích dẫn ý tưởng từ các bản kinh, và tập hợp lại theo trật tự mình đặt ra. Việc truy tìm lại nguyên gốc các câu riêng lẻ từ kinh Phật là điều rất khó. Các bản dịch tiếng Việt đã có một số điểm lệch so với nguyên tác. Ví dụ, "điều răn" là cách dịch không chính xác từ giới (nguyên ngữ Śīla trong tiếng Phạn với nghĩa "giới" của Phật giáo, hay "điều khoản đạo đức"). (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)Nghiên cứu nội dung cái gọi là "14 điều răn của Phật" này, tác giả Đoàn Đức Thành trong một email phổ biến trên mạng cho biết nó tương tự như bản văn "Nhân Sinh Thập Tứ Tối" (14 Cái Hay Nhất của Đời Người) của Trung Quốc, chỉ khác 2 điều: (1) Điều 6 Trung Quốc viết là: “Tội lỗi lớn nhất của đời người là lừa dối chính mình”; (2) Điều 10, Trung Quốc viết là “tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ". Tác giả cũng đề nghị nên thay tiêu đề "14 ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT" bằng "14 CÁI HAY NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI" và bỏ dòng "TRÍCH LỜI KINH PHẬT". Dưới đây là phóng ảnh bản của Trung Quốc (theo thuvienhoasen.org)
  13. Bí ẩn về sự sống bên trong người chết Sự phát hiện của Tiến sĩ Honglin Zhou là vô cùng quan trọng cho bước đi song hành của khoa học và Phật giáo. Giúp cho con người hiểu rõ hơn về nguyên lý sống, chết, và hỗ trợ thi thể ít nhất là 2 tiếng đồng hồ. Bởi vừa dứt hơi thở, nhưng chưa thật chết hẳn, thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi thể xác. Các nhà nghiên cứu cho biết, những diễn biến quan trọng nằm ở cấp độ tế bào. Mỗi tế bào có một màng bao bọc khá chặt ở bên ngoài để lọc các phân tử không cần thiết cho các chức năng hay sự tồn tại của nó. Khi một tế bào sắp chết, màng bao bọc bắt đầu suy yếu. Tùy thuộc vào từng trạng thái của tế bào chết, một trong ba điều sẽ xảy ra: nó sẽ gửi tín hiệu “hãy tiêu diệt tôi” tới một tế bào làm nhiệm vụ bảo dưỡng để tế bào này “ăn” và tái chế vật chất bên trong nó; nó sẽ tự hủy; nó vỡ tan và phun vật chất ra môi trường xung quanh, gây viêm nhiễm và làm tổn thương mô hơn nữa. Nếu tính toàn vẹn của màng bao ngoài bị phá vỡ, số phận của tế bào sẽ chấm dứt. Khi oxy, dưỡng chất mà tế bào nhận từ máu bị cắt đột ngột, tế bào vẫn có thể duy trì sự tồn tại trong màng của nó trong thời gian khá dài. Sự sống vẫn tồn tại vài ngày sau khi con người rơi vào trạng thái vô thức.[1]. Sự phát hiện của Tiến sĩ Honglin Zhou là vô cùng quan trọng cho bước đi song hành của khoa học và Phật giáo. Giúp cho con người hiểu rõ hơn về nguyên lý sống, chết, và hỗ trợ thi thể ít nhất là 2 tiếng đồng hồ. Bởi vừa dứt hơi thở, nhưng chưa thật chết hẳn, thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi thể xác. Dân Việt mình có câu rất hay “một nhà có việc trăm nhà đều quan tâm lo lắng giúp đỡ”. Vì thế, nên khi hay tin người bạn thân của mình bệnh nặng, thì bạn bè thường hay thăm hỏi. Do đó, hãy thể hiện sự thướng mến của mình trong giờ phút quan trọng bằng cách cùng hiệp lực với những người khác niệm Phật. Nếu không quen niệm, thì chúng ta cũng không nên nói những chuyện gì khác gây ồn ào uyên náo. Vì người đang nằm đó vẫn còn biết mọi chuyện đang xãy ra quanh mình. Họ đang khao khát cần sự giúp đỡ của chúng ta, như người sắp chết đuối mong chúng ta cứu vớt họ vậy! Kinh Báo Hiếu dạy: “cứu đảo huyền” cứu cái khổ của người đang bị treo ngược. Vậy mà có những nơi lúc đang cần thanh tịnh và phước báu thì lại mổ trâu heo gà vịt để thiết đãi thân tộc bạn bè. Thậm chí vừa rồi ở Hải Phòng phát văn bản báo tang đến các doanh nghiệp, kèm theo chức vụ và mộc đỏ nơi mình đang phục vụ? Thử đặt câu hỏi chúng ta đang giúp ai? Tổ chức lình đình chè cháo no say, nhằm làm hài lòng người đến phúng viếng. Hóa ra chúng ta đang vận dụng tình thế người đang nằm đó để khoe với thiên hạ “tôi” hiếu thảo, hoặc thể hiện đẳng cấp qua tang lễ, cách làm đó hoàn toàn không có giá trị về tâm linh. Tham khảo cách tổ chức lễ tang ở Ấn, chúng ta thấy họ dành tất cả những gì thiêng liêng nhất cho người đang nằm đó. Khi hay tin buồn, người thân đến vái chào nhau qua loa đồng thời nói năng rất khẽ, rồi tự tìm cho mình một chỗ ngồi dùng tràng hạt hoặc ngồi tĩnh lặng, phút giây đó nếu nhận cuộc điện thoại, tự thân bước ra ngoài xa. Thời gian khoảng 2 giờ chờ làm sạch thi thể. Tất cả những người có mặt theo sự khởi xướng của một người lớn tuổi chấp tay tụng một thời kinh khoảng 20 phút. Sau đó đưa thi thể đi hỏa táng. Không tổ chức ăn uống hay đàn ca xướng hát trong thời gian tổ chức tang lễ. Sau 49 ngày mới làm cơm thiết đãi, nhưng hoàn toàn chay lạt. Tuyệt đối không có rượu chè say sưa. Cách làm đó của người dân Ấn theo đạo Hindu đã làm và duy trì trên 3.000 năm qua. Đáng để chúng ta quan tâm. Còn những ai có hữu duyên với Phật pháp thì nên tổ chức cho một sự ra đi của người thân nhẹ nhàn trang nghiêm thanh tịnh theo lời chư Tổ dạy: a) Trong lúc hộ niệm cho người bệnh hấp hối sắp lâm chung. Tối kỵ nhứt là gây xáo trộn khóc than trong giờ phút nầy. Những ai không dằn lòng được xúc động, thì tốt hơn hết là nên mời họ bước ra ngoài, đừng để bệnh nhơn nghe tiếng khóc than. B) Thái độ và cung cách, nhứt là lời nói đối với người bệnh phải hiền hòa dịu ngọt, nên khuyến nhắc người bệnh nhớ niệm Phật và cần gợi lại những công hạnh mà người bệnh đã thực hiện. c) Tùy trường hợp, hoàn cảnh nơi bệnh nhơn nằm, mà linh động niệm Phật to tiếng hoặc nhỏ tiếng, tốt hơn hết là chỉ niệm Phật cho bệnh nhơn vừa đủ nghe. Phải niệm chậm rãi và từng chữ cho thật rõ ràng. d) Trong phòng bệnh, ngoài tiếng niệm Phật ra, tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được nói chuyện ồn ào làm loạn tâm người bệnh. e) Khi người bệnh đã thật sự tắt thở, cứ để như vậy mà chí thành niệm Phật liên tục, không nên sửa làm động đậy thi thể, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ. Vì mới tắt thở, thần thức chưa rời khỏi xác thân. Ý thức cảm thọ khổ đau, hoặc sinh lòng quyến luyến, đó sẽ là điểm khởi đầu cho sự hình thành ở tương lai, đối với Phật giáo Tây Tạng gọi là chuyển di tâm thức, gọi với cách nào cũng được bởi “tâm sinh muôn pháp sinh”. Quan điểm trên, những người trong thân quyến đóng vai trò khá quan trọng. Đồng thời có sự gia trì của đạo tràng niệm Phật, lực gia trì của chư tăng nếu có quả là tuyệt vời. Hãy thật sự thương người thân của mình và hãy làm những đều cần thiết trong giờ phút quyết định cuộc đời vui hay khổ cho đời sống kế tiếp. 10.04.2012 Lệ Thọ daophatngaynay.com
  14. Chúc mừng Chiêu Nam & Thanh Trúc ngàn năm hạnh phúc!
  15. Thiệp Mùa Vu lan. NAL – Mùa Vu Lan lại về xin anh xin chị hãy lắng lòng nghe con tim mình trăn trở, hoài niệm, thầm tin yêu,... về cha mẹ, ông bà và nhưng người nuôi nấng cho chính chúng ta qua bao năm tháng. Từ những bước đi đầu tiên cho đến những tiếng bập bẹ à ơ... Sự đắn đo trăng trở băng khoăng hoài niệm đó được thể hiện qua từng nét bút thư pháp, gần gụi mà sâu lắng, sang trọng mà thâm tình. Làm nền cho dòng mực đen là những vệt màu loang lỗ ngẫu nhiên hài hòa. Bộ thư pháp “Màu Sắc Trong Con Tim” được sáng tạo trên nền giấy A4 mực tàu, và màu nước do Minh Hoàng Thư Pháp giới thiệu
  16. Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Thiên Em ủng hộ từ thiện Diễn đàn. Chúc Thiên Em có nhiều chuyến đi thú vị với tay nghề nhiếp ảnh nhé! Quỹ hiện có : 7,800,000 đ + 300,000 đ = 8,100,000 đ (tám triệu một trăm ngàn đồng)
  17. Tôi đang huân tập ... Bạn ơi, Tôi đang huân tập một đức tính: Hễ có ai chửi tôi, nhục mạ, bôi lọ tôi…tôi sẽ nhẫn nhục không trả lời. Nếu buộc phải trả lời tôi sẽ dùng lời lẽ ôn hòa, không dùng lời thô tục, hung dữ… để trình bày rõ sự việc, để mọi người được biết… mà không làm tổn thương đến người đang công kích hay thù hận tôi. Đức Phật dạy rằng “Muôn loài chúng sinh đều bình đẳng”. Nếu con hổ có thể gầm, con sư tử có thể rống… thì con chim cũng có thể hát ca, con suối có thể reo, thậm chí loài côn trùng nhỏ bé cũng có quyền cất lên tiếng nỉ non giữa canh khuya. Ai cũng có quyền cất lên tiếng nói mà không một ai có quyền ngăn cản miễn sao tiếng nói đó không làm tổn hại tới người khác, không làm xáo trộn sự an vui của cộng đồng. Tôi đang huân tập một đức tính: Không coi những phim ảnh, báo chí, video bạo lực bắn giết để giảm bớt những ý nghĩ hung ác, những tư tưởng bất thiện đã từ lâu được nuôi dưỡng, ẩn chứa trong đầu óc tôi… đồng thời gieo trồng những chủng tử lành trong A-lại-da thức. Tôi hiểu rằng khi tôi phóng ra một tin tức gì… với đà tiến bộ vượt bực của kỹ nghệ truyền thông hiện đại, tin tức đó có thể được hằng triệu, hằng tỉ người đọc và tác động ngay tới đầu óc của họ. Tôi nghĩ rằng chuyện cậu sinh viên ban tiến sĩ James Holmes đem đủ các loại súng vào rạp chiếu phim ở Aurora, Colorado bắn giết người xem… như trong ci-nê… là hậu quả của phim ảnh bạo lực Mỹ trong đó có phim Batman. Chuyện Anders Behring Breivik 32 tuổi người Na Uy – nơi được thế giới coi như một quốc gia hiền hòa, thánh thiện, sau khi đánh bom tại một cơ sở chính quyền, đã xách súng tới một hòn đảo nhỏ, thản nhiên bắn giết 69 người, làm bị thương 110 ngườ, năm 2011… mà đa số họ đều là thanh niên thiếu nữ đang hồn nhiên vui chơi trong một buổi sinh hoạt picnic ngoài trời... theo tôi…là kết quả của những tin tức, những bài báo, những bài bình luận, những hình ảnh, những video… mang tính khích động, xúi giục, kỳ thị, ghét bỏ, loại trừ. Rồi ngày hôm qua 5/8/2012, một cựu chiến binh Da Trắng Mỹ đã đem súng vào bắn chết 6 tín đồ Đạo Sikh của Ấn Độ đang hành lễ ở một ngôi đền tại Milwaukee, Tiểu Bang Wisconsin, rồi sau đó bị cảnh sát bắn chết cũng chì vì ông này theo chủ nghĩa “ White Supremacy” (Da Trắng Là Ưu Việt) - một tổ chức cực đoan kỳ thị chủng tộc. Ôi cuộc đời thật vô thường! Đảo nhỏ xinh tươi Utøya của Na Uy nay bỗng dưng biến thành địa ngục. Rạp ci-nê, thánh đường bỗng biến thành phạm trường bắn giết. Nghĩ cho cùng, tất cả đều do con người gây tạo ra với nhau. Vì hiểu rằng hạnh phúc khổ đau trên cõi đời này là do chính con người đem đến cho nhau cho nên muốn những điều ác không xảy ra thì ngay bây giờ chúng ta phải làm điều lành. Cũng giống như để cứu một hồ nước nhiễm ô chúng ta không thể quỳ gối cầu xin mà chinh chúng ta phải ngưng xả rác hoặc ngưng ném những chất độc hại xuống đó, đồng thời đưa vào hồ một dòng nước trong mát. Chân lý muôn đời là không thể diệt trừ bạo lực này bằng một bạo lực khác. Không thể có yên bình nếu con người còn tiếp tục nuôi dưỡng và cổ súy bạo lực, kỳ thị, ghét bỏ, loại trừ. Bạo lực ngày hôm nay chỉ là kết quả của cái nhân xấu của ngày hôm qua. Tôi cũng còn đang huân tập một đức tính: Nhìn vương tôn công tử cũng giống như một kẻ hành khất, cung vàng điện ngọc của vua chúa cũng giống như ngôi nhà tranh vách đất, mối tình của công chúa, hoàng tử chưa chắc đã đẹp hơn mối tình của đôi trai gái ở làng quê, đám cưới của siêu sao, người mẫu chưa chắc đã đẹp hơn đám cưới nghèo ở một thôn bản đìu hiu, ông tỷ phủ thì cũng vậy mà người buôn gánh bán bưng cũng vậy, kẻ tri thức bằng cấp cùng minh chưa chắc đã thiện lương hơn bà già mù chữ, kim cương châu báu cũng giống như sỏi đá ven đường, nữ trang đắt giá cũng giống như vỏ sò vò ốc, quần hàng, áo hiệu cũng giống như lá che thân của con người thời tiền sử… Huân tập như vậy là tôi nương theo lời dạy của Phật trong Kinh Viên Giác. “ Này thiện nam tử! Tất cả chướng ngại là giác hoàn toàn. Chính niệm hay tà niệm đều là giải thoát. Lập được pháp hay phá pháp đều là Niết Bàn. Trí tuệ ngu si đều là Bát Nhã. Bồ Tát hay ngoại đạo thành tựu các pháp đều là Bồ Đề. Vô minh, chân như không giác cảnh giới (Phật). Giới-Định-Huệ và Dâm-Nộ- Si đều là phẩm hạnh. Chúng sinh và quốc độ đồng một pháp tính. Địa ngục, cung trời đều là Tịnh Độ. Có tính hay không tính đều thành Phật đạo. Tất cả phiền não chính là giải thoát hoàn toàn. Bể tuệ pháp giới soi rõ các tướng cũng như hư không. Đấy gọi là tính Viên Giác tùy thuận của Như Lai.” (1) Tuy nhiên trong cuộc huân tập đó, thú thực tôi như người lội dòng nước ngược, như kẻ lên thác xuống ghềnh, như kẻ tự cột mình vào một giây cao-su, một kẻ bị xiềng xích. Có lúc tôi hiu hiu tự đắc tưởng mình đã “đạt đạo” nhưng thực thế thì “trôi lăn”. - Gốc tham-sân-si vẫn còn nguyện vẹn đó. - Lòng căm thù, ý nghĩ ghét bỏ, kỳ thị, loại trừ có từ bao đời nay không sao dứt được. - Sự ngã mạn và “cái tôi” với tuổi đời tưởng như thu nhỏ lại nhưng thực tế lại phình to ra. - Tôi vẫn còn nuôi dưỡng, ấp ủ và vuốt ve những thói hư tật xấu của mình. - Tôi tự an ủi và biện minh cho những lỗi lầm và lơ là với việc sám hối. - Tôi luôn luôn có ý nghĩ cho rằng mình đúng còn người ta thì sai. - Tôi vẫn cho rằng mình luôn đứng ở phía chân lý còn kẻ khác là tà vạy. - Tôi vẫn nhìn đời bằng con mắt nghi kỵ thay vì cảm thông, tha thứ. - Tôi vẫn còn nuôi dưỡng lòng hận thù. Hận thù cả những kẻ mà tôi chưa hề gặp mặt mà chỉ nghe nói trên truyền hình, báo chí, Internet. - Tôi vẫn thích loan truyền những tin tức xấu, hoặc nói xấu người khác hoặc những bài viết xuyên tạc, chia rẽ, đánh phá mà tôi coi đó như một khoái cảm, một thành tích. - Tôi vẫn còn thích thủ đoạn dìm người khác để ngoi lên. Tôi có ý nghĩ sai lầm là “kẻ khác xấu thì đương nhiên mình tốt”. Tôi đâu biết rằng kẻ khác xấu nhưng chưa chắc mình đã tốt. Ai có phận của người đó. - Tôi thường tiết kiệm lời khen vì tôi nghĩ rằng khen ngợi người khác làm giảm giá trị của mình. - Tôi bóp méo sự thực khách quan theo tình cảm yêu ghét của tôi. - Tôi vẫn có ý nghĩ cho rằng đề cao tinh thần vị tha “chín bỏ làm mười” là tiêu cực, là yếu hèn. Phải dùng sức mạnh để chiến thắng. Tôi đâu biết rằng có những chuyện mà người ta chém giết nhau đã vài ngàn năm nhưng có giải quyết được gì đâu. - Những ai có ý nghĩ khác với tôi, lập tức tôi sân hận rồi coi đó như kẻ thù và không hề có ý tưởng bao dung. - Cho dù mái tóc đã điểm sương, “lực bất tòng tâm” nhưng tham vọng của tôi vẫn to lớn, lớn hơn cả như núi Tu Di. Dù ở tuổi “bất hoặc” tôi vẫn còn “ham vui” tham gia vào những cuộc bênh-chống, nay bạn mai thù, nay khen mai chê, nay ngưỡng mộ mai hạ bệ. Tôi như đứa con nít, đúng ra như cái chong chóng quay tít trong dòng đời “vô minh và vọng động” mà không sao chủ động được. Cuộc sống nội tâm của tôi tưởng êm đềm nhưng thật ra như mặt nước dợn sóng, như khỉ truyền trên cành, như ngựa phi trên cánh đồng…hoàn toàn nóng nảy, bất an và vô định. - Dù thế giới văn minh như thế nhưng tôi vẫn thích chém giết, cổ vũ cho sự chém giết và tỏ vẻ vui mừng khi thấy ngàn vạn tấm bom trút lên đầu đất nước mà tôi căm ghét. Tôi không có tư tưởng yêu chuộng hòa bình. Tôi coi cuộc sống, con người của dân xứ đó như những lon đồ hộp, như món đồ chơi. - Tôi vẫn còn say mê tiền bạc, ham thích sự sang cả, phù du, ảo ảnh giống như lòai thiêu thân lao vào ánh đèn rồi tan tác vì ánh điện. - Nói tóm lại, tôi vẫn là một phàm phu tục tử. Chính vì thế mà sự huân tập của tôi chỉ là một “hành giả” rất khiêm tốn, một lữ hành miệt mài trên con đường thiên lý có khi gục ngã giữa đường mà không bao giờ tới đích hay có khi chỉ đi lòng vòng rồi trở lại khởi điểm ban đầu, đâu vẫn hoàn đó trong tiến trình gọi là Luân Hồi. Bạn ơi, Con người mà chúng ta đang sinh sống, cư xử ngày hôm nay là một tổng hợp của thân thế, giáo dục, rèn luyện, hiểu biết…một tích lũy của di sản đúng-sai, yêu thương-hận thù, hoặc sự cọ sát của lịch sử trong quá khứ rồi từng giây từng phút lại bị tác động bởi hiện tại và môi trường chung quanh. Trong một xã hội hay một cộng đồng đầy hận thù và bạo lực, chúng ta có thể bị giết hại nếu chúng ta nói chuyện thương yêu, tha thứ. Trong một công đồng đầy tình nhân ái thì bạo lực cũng có thể không có cơ hội nảy sinh hay lộng hành. Do đó, để có một cuộc sống an lành, chúng ta cần nuôi dưỡng chủng tử lành rồi cùng lúc xây dựng một cộng đồng, một xã hội an lành. Bạn ơi, Tôi chỉ là một phàm phu tục tử xấu xa, đầy tội lỗi, đang cố gắng đi trên con đường thiên lý, có thể không bao giờ tới đích. Nhưng cái đích đó chính là chỗ mong ước và cầu xin hằng ngày của cả tỷ con người trên hành tinh nhỏ bé này: Đó là sự bình an cho cuộc sống của con người. Bạn ơi, xin đừng nhân danh bất cứ cái gì để phá hoại cuộc sống an bình của con người./. Đào Văn Bình (California nhân Mùa Vu Lan 2012) (1) Kinh Viên Giác, bản dịch của Cụ Thích Huyền Cơ ( Hà Nội 1951) do Phật Học Viện Quốc Tế (Hoa Kỳ) tái bản năm 1997. Đây là bộ kinh chỉ dạy cho hàng bồ tát thượng thủ. Nghe kinh này tất cả đại chúng phải nhập chánh định. chuaphuclam.vn
  18. Từ cái chết ly kỳ của cô gái trẻ đến chuyện 'rắn thần' xuất hiện trước cổng chùa Thấy một con rắn bị treo cổ, cắt tiết trước cổng Tam quan của ngôi chùa Thanh Sơn, cô gái thương xót bèn đem con rắn đi chôn cất, nhang khói tử tế. Vào một buổi sáng không lâu sau đó, người nhà chùa phát hiện cô gái nọ trong tư thế treo cổ ở đúng vị trí mà trước đây con rắn bị "hành hình". Từ cái chết của cô gái trẻ… Trước hàng trăm câu chuyện mang tính ly kỳ, kiểu "liêu trai chí dị" xung quanh cái chết của cô gái tại chùa Thanh Sơn, thuộc địa phận thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, chúng tôi đã về đây để tìm hiểu. Trao đổi với PV, sư thầy Đàm Tịnh (trụ trì chùa Thanh Sơn) với giọng nói chậm rãi, thái độ điềm tĩnh, kể lại: Thời điểm đó, nhà chùa đang khởi công xây dựng cổng Tam quan (lối vào chính của chùa). Để đảm bảo cho công việc được diễn ra suôn sẻ, nhà chùa đã khoán cho một nhóm thợ đến làm. Do đường sá đi lại khó khăn, nên nhà chùa đề nghị nhóm thợ ăn ở ngay tại chùa trong quá trình xây dựng. Sáng 17-1-2010, khi sương mù vẫn còn bao phủ, tốp thợ ra cổng Tam quan thì kinh hãi phát hiện xác một cô gái treo lơ lửng ở đó. Lập tức, những người thợ này hô hoán, cấp báo mọi người xung quanh. Khi tôi cùng những người khác trong chùa chạy ra tháo dây và hạ thi thể cô gái xuống thì ngỡ ngàng phát hiện xác chết chính là một người giúp việc trong chùa". Sự việc ngay lập tức được cấp báo lên chính quyền địa phương đến để giải quyết. Theo lời kể của một người trong chùa: "Cô gái chết trong tư thế rất nhẹ nhàng, tay chân duỗi thẳng theo thân hình. Loại dây buộc vào cổ cô gái là dây thừng. Sau đó nhà chùa và chính quyền sở tại báo cho gia đình cô gái đến để lo hậu sự. Theo nguyện vọng của gia đình, do cô đã sống ở chùa Thanh Sơn được một năm nên gia đình xin nhà chùa cho phép chôn thi thể cô gái ngay tại đây để gần cửa Phật, đúng với tâm nguyện khi còn sống của cô. Đáp ứng nguyện vọng đó của gia đình, nhà chùa đã tiến hành ma chay cho cô gái theo đúng phong tục của địa phương và thờ cúng trong chùa. Cổng Tam quan, nơi cô gái treo cổ tự vẫn. Đến chuyện rắn lạ xuất hiện…Những tưởng vụ việc sẽ dần lắng xuống theo thời gian, nhưng sau cái chết bí ẩn của cô gái trẻ, nhiều sự kiện kì lạ trước đó được mọi người nhớ lại và chắp nối tạo nên những câu chuyện mang màu sắc huyền bí rất khó giải thích. Tâm sự với PV, một sư thầy trong chùa Thanh Sơn nói nhỏ: "Các chú không biết đấy thôi! Khoảng 1 tháng trước thời điểm cô gái mất, tại sảnh cửa động Thanh Sơn, nơi thờ cúng linh hồn những người có duyên với cửa Phật bất ngờ xuất hiện một con rắn rất lớn, có độ dài khoảng 2m, màu sắc kì lạ. Vì nghĩ là con vật thiêng nên mọi người không dám xua đuổi mà để cho nó di chuyển tự do. Vài ngày sau đó, nhà chùa phát hiện có mùi lạ bốc lên từ phía sảnh trước động Thanh Sơn, khi mọi người đến kiểm tra thì bất ngờ phát hiện ra con rắn nọ đã chết tự khi nào và đang trong quá trình phân hủy. Tuy vậy, điều kỳ lạ ở đây là không hiểu bằng cách nào con rắn chui vào một sợi dây điện sau đó phần cổ bị xiết chặt không thoát ra được cho đến lúc chết tựa như bị thắt cổ. Sau đó, chính tay cô giúp việc trong chùa đã mang con rắn đi chôn cất cẩn thận tại khu đất phía sau chùa". Tiền sảnh động Thanh Sơn, nơi con rắn mắc kẹt và chết trước cô gái một tháng. Ảnh: Xuân Thắng "Kì lạ hơn nữa là trước ngày cô gái kia treo cổ ở cổng Tam quan, nhóm thợ đào móng phát hiện một con rắn rất lớn, thấy vậy những người này đã cắt tiết, treo cổ con rắn trước cổng Tam quan. Về kích thước, con rắn dài khoảng 1,2m, hình thù rất kì quái, không giống loại rắn bình thường. Sau đó, khi có một người đến chùa làm lễ thấy sự việc như vậy nên đã bảo mọi người tháo ngay con rắn xuống và mang đi chôn cất vì cho rằng đây là rắn thiêng thường cư trú tại các chùa chiền, miếu mạo. Người này còn nói những câu rất kì lạ, mọi người lúc đầu nghe đều thấy rất sợ hãi" - sư thầy này cho biết thêm.Nhà chùa đã mời thầy cúng về làm lễ để linh hồn cô gái được siêu thoát, một con rắn bỗng dưng xuất hiện mới chịu rời khỏi cổng Tam quan (!?). Một người dân bán hàng ở khu vực trước cổng Tam quan cũng xác nhận, trước khi cô gái này mất thì có chuyện nhóm thợ xây cổng chùa bắt và giết một con rắn. Xung quanh cái chết của cô gái này PV còn nghe được rất nhiều câu chuyện lạ kỳ khác. (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH Kỳ 2 Cô gái chết trước cửa thiền 'hiện hình' trong điện thoại của vị khách đến chùa ngồi thiền
  19. Chuyện kỳ lạ trước và sau cái chết của cô gái 'hiện hình' trên điện thoại Khi xem xét kĩ, đoàn của ông Triều phát hiện dưới nền nhà của gia đình này có linh hồn của một người con gái xưa kia bị chôn sống chưa được siêu thoát, nên thường xuyên nhập vào những người trong gia đình để hành tội. Vị khách có khả năng đặc biệt… Những ai lúc đầu mới nghe câu chuyện hình ảnh cô gái treo cổ tự vẫn ở chùa Thanh Sơn xuất hiện trong chiếc máy điện thoại của một ông khách đến chùa để ngồi thiền sẽ không thể tin nổi. Để xác minh thông tin, PV đã có cuộc gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với người đàn ông đang nắm giữ câu chuyện hết sức đặc biệt này. Ông tên là Đặng Văn Triều, hiện công tác tại Trung tâm Unesco Phương Đông. Trao đổi với PV, ông Triều cho biết: "Trong suốt cuộc đời tôi, chưa bao giờ gặp một hiện tượng kì lạ đến vậy. Hình ảnh cô gái cứ luôn ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ. Tôi vốn không phải là một chuyên gia nghiên cứu về các hiện tượng tâm linh, nên đã mang câu chuyện kỳ lạ này kể cho nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người". Nói về chuyện tại sao hình ảnh cô gái treo cổ ở chùa Thanh Sơn lại hiện trong máy điện thoại của ông, chứ không phải là một ai khác, ông Triều cho biết: "Hiện tượng này thực sự tôi cũng không thể giải thích nổi, nếu giải thích dưới góc độ tâm linh, có thể là do tôi và cô gái kia có duyên hoặc có mối liên hệ nào đó, không thể nói một cách rõ ràng được". Ông Triều, người đang nắm giữ câu chuyện kỳ bí trên đã khiến cho PV đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Ông cho biết bản thân có một khả năng đặc biệt là chữa bệnh từ xa bằng cách sử dụng năng lượng để diệt trừ "tia đất" xấu, giúp người khác có thể khỏi bệnh. Hôm PV đến gặp ông, cũng là lúc có rất nhiều bệnh nhân đến nhờ ông chữa bệnh. Theo tìm hiểu của PV, thuật ngữ chuyên ngành gọi là "tia đất", chính xác hơn là "Đại bức xạ". "Tia đất" là tổng hợp các tia phát ra từ vỏ cứng của trái đất, bức xạ lên mặt đất dưới dạng sóng điện từ và từ trường. Chúng vừa có lợi, vừa có hại cho sức khỏe của con người. Cụ thể hơn, "tia đất" là các loại tia từ vỏ trái đất phát ra, lan tỏa trên mặt đất dưới dạng trường, bao gồm các trường: Bức xạ điện từ, bức xạ phân rã phóng xạ, phát tán chất độc hóa học, dao động từ trường của các khoáng vật thuộc các tầng hệ đất đá khác nhau, từ các mạch nước ngầm và đặc biệt là mồ mả hài cốt. "Tia đất" xấu có ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của con người không hề thua kém các tác nhân gây bệnh khác. Theo ông Triều, để nhận biết những nơi có "tia đất" xấu không hề khó, cách đơn giản nhất là quan sát giấc ngủ hàng ngày của chính mình (không ngủ sâu, chập chờn, trằn trọc, đứt quãng, hồi hộp, khó thở, ác mộng…) trong người luôn cảm thấy mệt mỏi, tính tình không ổn định, sức khỏe giảm sút mà không tìm ra nguyên nhân. Quay trở lại với câu chuyện cô gái treo cổ tự vẫn ở chùa Thanh Sơn, ông Triều cho biết: Khi được trụ trì xác nhận hình ảnh cô gái trong máy điện thoại của ông có rất nhiều nét tương đồng với cô gái đã treo cổ tự vẫn ở chùa trước đó một tháng, ông đã rùng mình, lạnh sống lưng. Để chứng minh cho những câu nói của mình, đích thân vị trụ trì chùa Thanh Sơn đã dẫn ông Triều tới nơi thờ vong cô gái để so sánh với bức ảnh nhà chùa đang thờ cúng, thì quả thực có rất nhiều nét tương đồng, dường như là 1 người nhưng là ở những thời điểm khác nhau. Sau đó, ông Triều đã được nghe nhà chùa kể rất nhiều câu chuyện kỳ lạ trước và sau cái chết của cô gái này. Lúc đó, do quá tò mò trước hiện tượng kỳ lạ trên, ông Triều đã đề nghị nhà chùa dẫn ra cổng Tam quan, nơi cô gái đã treo cổ tự vẫn để xem xét. Tại đây, ông Triều phát hiện ra "tia đất" rất xấu, linh hồn người chết không thể siêu thoát và vẫn còn quanh quẩn nơi đây. Sau đó, đích thân vị khách này đã dùng khả năng của mình, giúp nhà chùa xử lý "tia đất" xấu, tiếp đó, vào động Hương Đài, một ngôi chùa cổ nằm sâu bên trong quần thể chùa Thanh Sơn, để làm lễ cầu cho linh hồn cô gái kia được siêu thoát. Trong quá trình làm lễ tại động Hương Đài, linh hồn cô gái đã hiện về thông qua một dấu hiệu đặc biệt, đó là một vòng tròn trắng. Theo những nhà nghiên cứu tâm linh, mỗi khi gọi hồn một người đã khuất, nếu thấy xuất hiện một vòng tròn trắng tức là linh hồn người chết đang hiển hiện tại đó. Sau đó thông qua linh cảm của mình, ông Triều đã rước vong cô gái đến nơi thờ cúng của chùa để cho linh hồn cô được siêu thoát. Kể từ đó, những chuyện kỳ lạ đã không còn xảy ra. Ông Triều, người đàn ông sở hữu chiếc điện thoại, đang làm lễ trong động Hương Đài, bỗng dưng xuất hiện một vòng tròn trắng trên đỉnh đầu. Ảnh: TL Những câu chuyện chưa kể… Để minh chứng cho khả năng của mình, ông Triều đã kể ra một vài trường hợp. Trường hợp làm cho ông nhớ nhất là của một người phụ nữ tên P. ở Thái Nguyên đang sống, ăn nói bình thường, vào một ngày tự dưng không thể nói được, đi khám, chữa trị khắp nơi các bác sỹ vẫn không chẩn đoán được nguyên nhân là gì. Gia đình họ đã liên hệ và nhờ ông Triều giúp đỡ. Khi ông đến tận nơi thì phát hiện, mảnh đất gia đình cô này đang sống bị bao phủ bởi nhiều "tia đất" xấu. Theo một nhà ngoại cảm đi cùng ông Triều hôm đó, âm khí ngôi nhà này rất nặng. Khi xem xét kĩ, đoàn của ông Triều phát hiện dưới nền nhà của gia đình này có linh hồn của một người con gái xưa kia bị chôn sống chưa được siêu thoát, nên thường xuyên nhập vào những người trong gia đình để hành tội. Ngoài người phụ nữ tên P. bị câm mà không rõ nguyên nhân, còn có cậu em trai, tính cách không được bình thường, thường xuyên đau đầu. Cậu ta có thói quen đi chùa ăn chay, niệm Phật, Mỗi lần đến chùa tự dưng người này hết đau đầu, nhưng khi trở về nhà thì đâu lại vào đấy. Sau khi ông Triều sử dụng khả năng đặc biệt của mình, người phụ nữ kia lập tức nói lại bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy ra, chứng bệnh đau đầu của cậu em trai cũng bỗng dưng biến mất. Một trường hợp khác cũng được ông Triều sử dụng năng lượng đặc biệt của mình để chữa bệnh, đó là ông N. trú tại đường Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, Hà Nội từng mắc phải bệnh dạ dày đã nhiều năm chữa trị khắp nơi bằng đủ loại thuốc nhưng không khỏi. Khi ông Triều đến thăm khám cũng phát hiện địa lý của ngôi nhà này có "tia đất" xấu, đã ảnh hưởng tới sức khỏe của ông N. Sau khi làm lễ diệt trừ "tia đất" xấu và sử dụng năng lượng của mình để chữa bệnh, điều kỳ diệu là ông N. hiện tại đã hoàn toàn khỏi bệnh. Kết quả đi khám tại các BV đều cho thấy bệnh dạ dày đã không còn. Ông N. cho biết: Thật kỳ lạ, bệnh tình của tôi trước đây vốn rất xấu, đi chữa trị khắp nơi mà không khỏi, cho đến khi được ông Triều sử dụng khả năng đặc biệt để điều trị, bệnh tình của tôi hiện tại đã hoàn toàn hồi phục. Ông Triều tâm sự thêm: "Nếu là những người hợp khí, thì tôi có thể chữa được rất nhiều bệnh". (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH
  20. Mẩu truyện Thiền số 1 KHÔNG NƯỚC - KHÔNG TRĂNG Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm, nhưng vẫn chưa đạt được gì cả. Một đêm, cô quẩy đôi thùng xuống suối múc nước. Khi cô gánh nước trở về tu viện, cô vừa đi vừa ngắm ánh trăng soi rọi xuống mặt nước trong thùng. Bất thình lình, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến, không còn gì nữa và Chiyono hoát nhiên giác ngộ tâm linh. Cô đã viết bài thơ: Bằng cách này hay cách khác, tôi đã kềm giữ đôi thùng nước, Mong rằng chiếc đòn gánh giòn yếu kia sẽ không gãy Bất chợt, dây đứt thùng văng, Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước, Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì, Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì!".
  21. THA hay BẮT? Có tiếng ồn ào ở phía trên rẫy, nhà sư vừa bước ra khỏi thiền thất thì chú Liễu Minh cũng vừa đi tới. - Bạch thầy! Rẫy mình vừa bị mất trộm, sáng nay lên nhổ sắn chúng con mới biết.- Thế à!- Dạ mất đâu khoảng chừng vài vồng.Nhà sư dừng lại, chậm rãi nói:- Con ạ! Mất sắn và trộm sắn không phải là vấn đề của chúng ta! Là kẻ tu hành, vấn đề của chúng ta là, nhân đó, ta thử lắng nghe lại lòng mình một cách trung thực hơn. Ta sẽ lắng nghe rằng: ta có thể rộng lượng tha thứ được cho người chăng? Ta có móng khởi một tiếc rẻ nào khi mất đi một ít vật chất, của cải? Ta có thể san sẻ cho người bằng cách nhịn ăn một vài bữa! Và, sau hết, trong ta có dậy mối bất bình, phiền não chăng? Chúng ta là người học hạnh giải thoát, có gì phải giải quyết ngoài những vấn đề tương tự? Liễu Minh sững lại, nhà sư mỉm cười nắm tay chú theo lối mòn lên rẫy.Liễu Minh nói:- Bạch thầy! Hồi nãy, con với chú Bất Đạt cãi nhau. Con thì nói tha. Chú Bất Đạt lại nói bắt. Con và chú ấy thường có quan niệm bất đồng.Bất Đạt và Bất Ác từ trong những lùm sắn bước ra, mỗi người tay xách mấy chùm sắn vụn. Thấy nhà sư, Bất Đạt cất giọng oang oang:- Bạch thầy! Cái lũ ăn trộm này, gặp con, chúng sẽ biết tay! Liễu Minh cãi lại:- Biết tay như thế nào? Chú bắt chăng? Ý thầy là thầy sẽ tha cho phù hợp tâm từ!Nhà sư nói:- Không, Liễu Minh con! Thầy không tha! Vì tâm từ nên thầy không tha! Bất Đạt reo lên:- Đó, chú Liễu Minh thấy chưa? Vì tâm từ nên thầy không tha, thầy sẽ bắt.">Nhà sư cười:- Không, Bất Đạt con! Thầy không bắt! Vì tâm từ nên thầy sẽ không bắt.Cả ba chú đều ngơ ngác:- Bạch thầy thế thì...Thấy vầng trán và cặp chân mày của Liễu Minh cau lại, nhà sư dịu dàng nói:- Liễu Minh! Con hiểu về tâm từ như thế nào mà bảo nên tha? Vì tâm từ là thương người, yêu chúng sanh, mong chúng sanh thảy đều yên vui, hạnh phúc!- Như vậy, vì tình thương mù quáng, con sẽ dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian! Bất Đạt góp lời:- Vì không muốn dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian, cho nên, con sẽ bắt mới đúng nghĩa tâm từ!- Như vậy, vì tâm từ nóng vội con sẽ nuôi dưỡng hận thù giữa cuộc đời! Im lặng một lúc, nhà sư tiếp:- Các con ạ! Tâm từ là vậy mà không phải vậy. Thật ra, trong các con, chưa ai hiểu tâm từ là gì! Biết là cả hai chú đều rơi vào hoài nghi to lớn, nhưng nhà sư vẫn chưa trả lời vội, người dẫn cả ba chú đến một lùm cây rậm, chỉ vào đám cỏ rạp.- Đêm kia, thầy thấy cậu ăn trộm rình núp ở đây. Người bạn ăn đêm kiên nhẫn đợi thầy tắt đèn và đi nghỉ, nên thầy đã tắt đèn và đi nghỉ! Không cưỡng được ý mình, Liễu Minh buột miệng:- Thế là thầy đã tha!- Ừ! Thầy đã tha nhưng cái tha của thầy khác với cái tha của con. Thầy tha mà không dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian. Rồi con sẽ hiểu điều ấy. Im lặng một lúc, chú Liễu Minh lại nói:- Thế là con sai ít mà chú Bất Đạt sai nhiều. Thầy đã không bắt! - Không, không phải thế đâu con! Thầy có bắt, nhưng không nuôi dưỡng hận thù, nên cái bắt của thầy khác với cái bắt của Bất Đạt!Đầu óc của các đệ tử rối loạn như một mớ bòng bong, như tổ chim, chẳng biết đạo lý câu chuyện nó nằm ở đâu nữa! Buổi chiều, trong giờ học Đạo, nhà sư lấy trong túi ra một lá thư bằng giấy học trò, nét chữ cứng cáp, không thẳng hàng thẳng lối, chẳng có chấm phết, sai chính tả lung tung. Liễu Minh và Bất Đạt chăm chú đọc:"Thưa thầy,Thầy biết con là thằng ăn cắp không những hai vòng sắn mà còn ăn cắp một tượng Phật nhỏ bằng đồng đen, ăn cắp 10 giò phong lan trước đây nữa. Thầy biết mà thầy lặng lẽ không nói với ai, cũng không hề trả lời một câu khi lính lệ qua tra hỏi! Bây giờ thầy lại còn giúp con vốn liếng, tiền ăn tiêu mười ngày để con lên "đá bạc" khai thác đá là nghề cũ trước đây của con. Tiền thầy cho, con còn dư dả để sắm dụng cụ hành nghề. Ơn đức thầy thật là kể sao cho xiết. Con hứa từ nay cho đến trọn đời, con thề làm người lương thiện để khỏi phụ tấm lòng cao cả của thầy.Con...Lá thư bên dưới có ký tên nhưng nhà sư đã lấy kéo cắt đi rồi. Bất Ác bây giờ mới cất giọng nói:- Con nhận nhiệm vụ bí mật của thầy, con biết cả. Con nghe hai chú Liễu Minh và Bất Đạt cãi nhau, con chỉ cười. Nhà sư hỏi:- Con cười sao? Con cười vì cả hai chú đều sai!- Không đâu con! Cả hai chú đều không sai! Câu trả lời của nhà sư thật bất ngờ. Nhà sư lại phải giải thích:- Cả hai không sai, nhưng cả hai chú đều không đúng! Tại sao vậy? Vì trên sự tướng, tha hay bắt không quan trọng. Tha hay bắt chỉ quan trọng là khi tha để làm gì và bắt để làm gì? Tha rồi có giáo hóa được người và bắt thì có giáo hóa được người? Trên tất cả, đối với chúng ta, tha hay bắt là để học bài học giác ngộ mà thôi! Bất Đạt chợt nói:- Ý con cũng có thể là vậy lắm! Con bắt rồi con sẽ tìm cách giáo dục người ta nữa chứ!Liễu Minh nhíu mày:- Chú mà giáo dục! Chú thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì có! Rồi chú còn bắt trói người ta mà giải qua huyện! Cái bắt đó là cái bắt của người đời, chỉ tăng thêm oán thù chứ không được tích sự gì! Bất Đạt không giận mà cười khì khì:- Còn chú thì sao hử? Chú tha rồi chú giáo dục người ta làm sao nào, nói đi? Tha trống không cái kiểu của chú thì chi bằng kêu ba thằng ăn trộm vô khiêng chùa chiền đi hết cho khỏe! Vậy là tha theo hạnh bố thí ba-la-mật đấy! Nhà sư khoát tay:- Các con tranh cãi hay tranh luận đấy? Các con đừng nghĩ rằng giải pháp của thầy là tối ưu, từ đó, lấy làm thước đo để xử sự ở đời! Các con có biết rằng, tha hay bắt chỉ là sự thể hiện bên ngoài? Tha hay bắt rồi sau đó tìm cách giáo hóa, cũng chỉ là sự khôn ngoan của sự thể hiện bên ngoài ấy mà thôi. Có một cái tâm, các con ạ! Khi biết cái tâm ấy, trú nơi cái tâm ấy, thì tha hay bắt đều trở nên đúng cả vậy. Tâm ấy là tâm gì, ai biết? Cả ba chú đồng đáp:- Dạ, tâm từ! Đúng thế! Vậy thì từ rày về sau, khi gặp bất cứ tình huống nào cũng phải sáng suốt, bình tĩnh. Sáng suốt là Tuệ, bình tĩnh là Định. Từ Tuệ, từ Định mà khởi tâm từ thì mọi hành động của các con đều phù hợp với giáo pháp cả, không sợ sai lầm đâu!- Chúng con đã hiểu cả rồi. Ôi! Thật tuyệt vời thay cái bài học hôm nay! Nhà sư từ bi nhìn ba chú, tủm tỉm cười, thầm nghĩ: "Chỉ nên dẫn cho chúng lên ngang chỗ đó thôi! Chúng đâu có hiểu rằng, tâm từ còn có trước ý, dụng ý, còn vấn đề lợi và hại, hay và dở, tốt và xấu thì tâm từ ấy đâu đã được gọi là từ vô lượng?
  22. Và cũng bởi "anh ấy chỉ yêu con nông nổi 1 thời, mà yêu Mẹ suốt 1 đời tần tảo" Cô chấp bút 2 câu này nhé!
  23. Nhập từ Tam muội phóng sinh Sông nước mênh mông… Thả cá ở đây thật tuyệt! Tha hồ bơi lội sau khoảng ngột ngạt trong bao ny-lông. Giăng lưới bắt cá cũng tuyệt(1). Tha hồ rộng rãi… Bên thả. Bên giăng. Trước thả. Sau giăng. Nhìn hai cảnh ấy cũng thấy ngồ ngộ. Thế gian là thế. Ai thả thì thả. Ai bắt thì bắt. Gieo quả nào gặt quả đó. Rồi cứ theo nghiệp mà đi. Còn chúng sinh sống hay chết là do phước đức của chúng. Tôi không chú tâm với việc phóng sinh. Là không chú tâm bỏ tiền mua cá mua chim về thả. Đủ duyên thì làm. Chú tâm và tập thành thói thì không. Có lẽ quá khứ không huân tập nhiều. Hiện đời, có những nghi ngại khiến mình không thấy hứng thú. Cá ếch ngoài chợ không có người thả, chúng vẫn bị bắt ăn thịt, mình thả còn thấy có chút lợi ích cho vật cho người. Nhưng mấy chú chim, không vì nhờ mình cầu phước cho mình, chắc không có chim bị bắt, cũng không có người tạo nghiệp bắt chim. Thả nhiều, bị bắt càng nhiều, người tạo nghiệp bắt chim càng mạnh? Đại sư Trí Giả ngày xưa làm đầm phóng sinh, thuyết pháp cứu vật, cứu luôn nghiệp sát cho người. Người nghe thuyết pháp, chuyển nghề chài lưới khá nhiều. Cho nên, tập trung cho việc chuyển tâm trước đã. Còn việc phóng sinh, khi nào có duyên mới làm. Mấy chục năm trước, chị em chồng tôi bị bắt vì bán vàng chui. Thiên hạ bày mua chim thả. Ừ thì mua chim về thả. Trong cơn hoạn nạn bày gì làm đó, mong sự may mắn xảy ra. Niệm Phật mở lồng, chim bay hết còn lại hai con. Vỗ mấy cũng không ra. Phải cho tay vào bắt. Cái điềm khiến mình suy ngẫm nhân quả ở đời. Nhân gieo một khi đủ duyên thành quả, có phóng cũng chẳng chịu ra. Mà thiệt! Ở hết một năm. Lần hai là vào tháng Bảy năm ngoái. Ngồi mua nấm mà con cá ở hàng bên cứ phóng vào mình. Quá ba bận, không thể không bận tâm. Mấy bà chung quanh không cho phóng sinh, nói chết. Nhảy dữ vậy mà chết? Nhảy vậy nhưng chết giờ. Phóng sinh không phải là nghiệp của mình, lại nghe phóng rồi cũng chết không sinh, lại càng không thấy hứng thú. Niệm Phật và nhủ với nó vài lời rồi đi. Nhưng đi một đoạn lại thấy hối hận: “Chuyện sống hay chết chưa biết. Nhưng nó đã nhảy qua mình mấy bận... Dù gì, không do chặt đầu làm vẩy mà chết, đỡ đau đớn hơn”. Nghĩ rồi, trở lui mua cá, thả ở cái cầu gì đó không biết. Vừa đi vừa niệm. Tha thiết mà niệm cho chúng sống sót, cho chúng an bình. Có chết cũng được một câu niệm Phật hồi hướng gieo duyên. Thiên hạ vẫn nói: “Dân thường tụng niệm phóng sinh không linh, phải có Tăng Ni mới linh”. Cũng biết, dân thường tụng niệm phóng sinh không linh, do tâm dân thường không tịnh. Là do thân tâm, không do đầu áo nhãn mác. Nhưng trong cái duyên lóp ngóp của chúng bấy giờ, mạng treo chỉ mành, gặp được Tăng chúng thanh tịnh, biết còn để hưởng phước không? Thôi thì dồn tâm tụng niệm cho chúng. Quan trọng ở chỗ hữu duyên, có duyên liền ứng. Quan trọng ở chỗ nhất tâm, có tâm liền cảm. Hết lòng niệm Phật nhất tâm hồi hướng cho chúng trước đã. Tôi tu thiền đâu có niệm Phật. Chỉ niệm khi cầu gia bị hồi hướng cho ai. Bởi nghĩ lực mình không đủ, phải cầu các Ngài gia bị cho chắc. Tôi thấy tha thiết và có lòng thành, niệm Phật sẽ được nhất tâm. Ít nhất là vào lúc đó. “Năng lễ, sở lễ tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”. Tôi tin như thế và đã làm như thế. Tới đây, không biết có còn duyên nào khiến làm những việc đó không. Không thì chắc cũng không làm. Không làm, nhưng không phản đối khi thấy người làm. Nói “ít” thì chính xác hơn là “không”. Với những cái duyên mình thấy chỉ còn hình thức, trở thành tệ nạn cho chính người đó quá rõ, thì cũng lên tiếng ít nhiều. Còn nghe hay không là việc của người. Nói không phản đối vì nhiều lý do: 1. Thế giới này rộng lớn và còn rất nhiều bí ẩn mà với cái trí hiện nay của tôi, tôi không dám chắc là đã thấy đúng bản chất của mọi hiện tượng để mà phản đối. Quá khứ bản thân lầm lẫn đã có. Người hiểu không đúng về mình cũng nhiều. Đâu thể y cứ một vài hiện tượng nào đó để mà thị phi. Cho nên, duyên nào thiện ác đã phân rõ rồi thì nói, không thì cũng tránh khởi tâm, khỏi tổn đức, mình cũng tránh hại người. 2. Chim cá thả rồi, có thể bị bắt lại liền sau đó, nhưng được một lần chú nguyện, cũng là duyên tốt về sau cho chúng. 3. Sáng nào tôi cũng đi chợ. Chợ đời lắm nỗi nhiêu khê. Ếch bị đập đầu vẫn còn chắp tay lại lạy, cá bị chà đất văng bọt tung tóe… Bao nhiêu oan khiên xảy ra trước mắt như chuyện thường ngày ở huyện. Khoanh một vùng nhỏ, đã thấy chúng sinh khổ nạn rất nhiều. Vật đau hiện tại. Người khổ tương lai. Phóng sinh để chúng thoát khỏi những cảnh đau đớn lầm than, thấy cũng nên làm. Với kẻ đồng lương ba đồng ba cọc lương thiện, dành dụm ít tiền phóng sinh, cho dù mục đích quy ngã vẫn là đáng quý. 4. Chúng sinh cang cường, không phải dạy cho điều hay lẽ phải là đã chịu nghe. Hòa thượng ngày trước, vì lòng bi mẫn, khuyên người bạn tôi hãy thôi quyên tiền cúng chùa làm phước, để tâm cho việc tu hành. Vậy mà bực bội bỏ đi. Trong tâm còn sinh oán giận. Đi cho đủ hết Ta-bà khổ nạn, người đuổi, người chê, mới tỉnh quay về sám hối cạo đầu. Mới thấy, đâu phải nói đúng là đã chịu nghe. Cho nên, Đức Phật ngày trước, còn phải lập bày phương tiện, không thể chỉ thẳng con đường thẳng tắt. Huống thời mạt pháp, chúng sinh mê muội càng dữ, cố chấp tự mãn càng kinh, sơ tâm nếu không thuận theo tính dục của họ, khó mà gần gũi độ họ dài lâu. Cho nên, có khi thấy chim chưa thả đã chết, thấy cá thả rồi có cơ bắt lại tức thì… cũng không có ý phê bình các bậc tôn đức vì sao chú nguyện mà không khuyên người đừng thả? Phương tiện độ sinh không thể nghĩ bàn, kẻ ngoài làm sao biết được. 5. Có khi thấy việc phóng sinh đi quá cái mức bình thường, không còn mang nghĩa phóng sinh, hoặc cầu hết bệnh, an lành, thoát nạn, tức vì tự ngã mà làm, không vì thương tưởng chúng sinh… đúng lý thì thấy không hay cho lắm, nhưng xét trên sự, với kẻ sơ tâm vẫn có mặt hơn. Điều đó cho thấy chư vị đã tin nhân quả, không còn nương tựa tháp miếu cô cậu, van lạy cầu xin mê tín dị đoan. Đã biết xả của, mở lòng… Đó là cái nhân tốt đẹp mở đường cho những suy nghĩ, hành động mang tính nhân quả, phước thiện sau này. Nghĩ vậy, tôi ít khởi tâm phê bình, cản trở khi thấy người muốn phóng sinh. Nhưng làm thì tùy. Tôi chú tâm hơn với việc không giết sinh vật quanh mình. Con rết có cắn, không tâm sát hại đã đành, cũng không khởi tâm oán hận bực bội. Con chuột phá phách cũng không có tâm giết nó. Muỗi mòng các thứ… Tập không khởi tâm bực bội để rồi phải giết. Bạn nói bệnh tật? Tại mình có tâm giết hại mới sinh tai họa bệnh tật. Không tâm, duyên tụ vào đâu để sinh? Nếu sinh, là do nghiệp cũ đủ duyên. Phải trả thì trả, không thích tạo thêm nhân mới. Có khi nhờ vậy lại xóa nghiệp cũ cũng nên. Tôi tin như thế và tập làm dần những việc như thế. Cũng là một cách giải nghiệp cho mình. Nghiệp tịnh thanh rồi, ứng duyên, lợi vật sẽ có lợi ích thiết thực cho đời. Hình thức cần có nội dung Người người thích việc phóng sinh là có nhân duyên. Có người do huân cái nghiệp phóng sinh từ đời quá khứ, giờ đã thành tập, cứ nghe phóng sinh là thích rồi làm, không cần lý do. Có người nghe nói phóng sinh có thể sống lâu, hết bệnh, thoát nạn… nên thích phóng sinh. Tính ra, không phải tu thân, tịnh tâm, giữ miệng mà được cái quả như thế còn gì khỏe bằng. Hiện đời lỡ gieo cái nhân bất thiện cũng thoát tù tội thì sao không làm? Có khi phóng sinh cả mấy trăm triệu cũng vì lý đó. Phóng sinh chỉ vì thương vật, không vì cầu phước, cầu lợi cho mình, chỉ có Thánh nhân làm được. Vì phần tự lợi tương đối hoàn chỉnh, thân tâm như hóa như huyễn cầu chi? Chỉ do bi tâm xuất hiện ở đời độ sinh, vì người vì vật là chính. Còn lại đa phần chúng ta, những việc vị tha đều có vị ngã ít nhiều trong đó. Thành nếu mua cá, thả chim để cầu phước lợi cho mình hay cho người thân là việc tự nhiên. Vẫn là đáng quý, vì mình đã tin nhân quả. Có điều, nên nhìn vấn đề đúng như những gì kinh dạy. Có vậy việc làm mới không hư vọng. Chỉ có hình thức, không đúng bản chất, đến khi cái quả nghịch ý xảy ra, lại trách Phật Tổ nói sai, dang dở niềm tin đối với Tam bảo, không còn hành thiện, đọa ba đường dữ nhanh chóng, uổng phí cho mình. Cho nên, cần hiểu cái lý cho đúng, trên sự làm được đến đâu thì làm. Có làm, dù chỉ chút ít cũng là rất quý. Không nên phương tiện đến nỗi chỉ còn hình thức, trở thành dối mình gạt người. Tôi thấy một đoạn, không biết tác giả là ai, ghi vầy: “Dược Sư Lưu Ly Bổn Nguyện Công Đức dạy rằng cứu thả các sinh mạng, tiêu trừ được bệnh tật, thoát khỏi các nạn tai”. Nói vậy, chỉ cần hình thức phóng sinh, sẽ được cái quả tiêu trừ tật bệnh… Phật tử cũng truyền miệng nhau như vậy. Nhưng khi đọc vào bản kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Ðức,(2) những phần liên quan đến việc phóng sinh, thì thấy không hẳn như vậy. Kinh ghi: “Nếu có người muốn thoát bệnh khổ, nên vì người đó 7 ngày 7 đêm thọ trì 8 phần trai giới. Tùy lực làm được, sắm sửa đồ ăn, thức uống cùng các vật dụng cúng dường chư Tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng kinh này 49 biến…(3) cũng cần phóng đến 49 tạp loại chúng sinh, thì người bệnh có thể qua khỏi ách nạn, không bị các quỷ ngang ác nhiễu hại”. Hoặc “Nếu các quốc vương dòng Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh mà gặp nạn tai, như dân chúng bị dịch, nước khác xâm lăng, nội loạn, quá thời chẳng mưa... thì lúc ấy các vị phải đem lòng từ thương xót tất cả hữu tình, ân xá tội nhân, y theo pháp cúng dường đã nói mà cúng dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Do thiện căn đó cộng với lực bản nguyện của Như Lai, trong nước liền được an ổn, mưa gió thuận thời, lúa thóc được mùa, tất cả chúng hữu tình đều vui vẻ, không bịnh hoạn, không bị thần Dược Xoa bạo ác não hại. Tất cả tướng ác đều ẩn. Các vị quốc vương sống lâu, không bịnh, tự tại, mọi việc đều thêm lợi ích”. Theo đó thì thấy, phóng sinh súc vật chỉ là duyên phụ giúp cho yên ổn, hết bệnh, thoát nạn. Duyên chính vẫn là giữ giới, trì tụng kinh điển, niệm danh chư Phật như lời thệ nguyện mà hàng Dược Xoa nói ở cuối kinh: “Nơi làng, xóm, thành, nước, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu có lưu bố kinh này hoặc lại có người thọ trì danh hiệu Dược Sư Lưu Ly, cung kính cúng dường, quyến thuộc chúng con nguyện đều hộ vệ thoát khỏi khổ nạn, các việc mong cầu khiến được thành tựu. Có ai bịnh hoạn khổ ách muốn cầu cho khỏi, cũng nên đọc tụng kinh này, lấy chỉ ngũ sắc kết tên chúng con, sau như ý rồi thì mở kết ra”. Cái chính của việc thoát khổ hết nạn là nhờ từ tâm, không chỉ nằm trên hình thức phóng sinh. Tuy nhờ từ tâm, nhưng sao lại phải trì tụng kinh điển…? Từ tâm là thứ có sẵn trong mỗi chúng sinh, vì bị cái tôi chất đầy phân biệt, ái dục che đậy mà ẩn. Giữ giới, niệm Phật, ngồi thiền, trì chú, hồi hướng tất cả chúng sinh đều được an vui, đều thành Phật đạo, chính là phương tiện giúp xóa cái tôi, hiển phát lòng từ. Ngày xưa, khi Phật ở nước Câu-viêm-di. Vua nước ấy tên Ưu-dà-diên. Đệ nhất phu nhân tên là Xá-ma, là một tín nữ trung thành của Phật và hàng Thánh chúng. Bà thường thân cận cúng dường Như Lai, ca ngợi công đức của Ngài hết mực. Đệ nhị phu nhân thì không. Một lần bà tâu với vua: “Như Lai và hàng đệ tử có chỗ không chánh đối với phu nhân Xá-ma”. Nhà vua nghe xong, nổi giận, lấy cung bắn vào Xá-ma. Vì thương xót vua, Xá-ma nhập Từ tam muội. Mũi tên bắn ra, quay lại dừng trước trán vua. Tên ấy cháy đỏ như một khối lửa trong rất đáng sợ. Vua bắn ba phát, thảy đều như vậy(4). Nói “Từ tam muội” là nói tâm từ bình đẳng. Mong muốn người thân cũng như người oán đều được an vui, vui rồi càng vui thêm nữa. Chính nhờ phát được tâm Từ tam muội nói đó mà mọi nạn tai thoát hết, ngục tù cũng không. Không phải chỉ có hình thức phóng sinh mà thành tựu được. Kinh Phạm Võng nói: “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm phóng sinh…”. Đại sư Phật Ấn cũng nói: “Giới sát, niệm Phật kiêm phóng sinh…”. Mọi việc đều cần “từ tâm”. Không với từ tâm, cái quả nhận được chưa hẳn như kinh đã nói. Nếu có từ tâm không cần phóng sinh, bệnh tật, tai ương, hoạn nạn cũng tiêu. Song, có từ tâm cũng không từ chối làm việc phóng sinh. Phóng sinh với một tâm từ, mọi thứ sẽ được chăm chút, sẽ vì sự sống muôn loài phóng sinh đàng hoàng, cũng không sinh tâm ngã mạn thấy mình hơn người… Phóng sinh, phương tiện giúp ta hiển phát tâm từ, cũng là hệ quả tất yếu khi tâm từ hiển phát. Phóng tâm bất thiện đừng để nó sinh Từ tâm, thể hiện qua việc giữ gìn 5 giới của người tại gia. 1. Không vì một miếng ăn ngon mà giết mạng sống của vật. Chẳng qua vì nghiệp huân tập quá lâu, ừ thì chưa thể ăn chay, nhưng bỏ cái tâm sát hại muốn ăn cho tươi, cho bổ. Bỏ được là đã phóng sinh. Phóng đi cái tâm vì mình hại người hại vật. Bỏ rồi, từ từ hướng tới ăn chay. Tập tháng 2 bữa, 3 bữa… cứ thế dần lên. Một lúc nào đó chay tịnh thành nghiệp, thói quen ăn mặn liền lùi. Giữ được không giết dù với vật nhỏ là đang làm việc phóng sinh. Bỏ tiền phóng sinh thêm nữa càng quý. 2. Không vì cái lợi của mình mà nói gian dối, nói lời đâm thọc, chia rẻ, nguyền rủa, phá nát gia cang nhà người. Giữ gìn khẩu nghiệp, không phạm những lỗi như vậy là đang phóng sinh. Phóng đi cái tâm nói dối, gian tham hại người, không để nó sinh. 3. Không vì lợi lộc cho mình mà sinh thu gom, trộm cắp, tham nhũng, nhiễu nhương, khiến người khổ sở vô vàn, rồi đi phóng sinh cầu phước cho mình thoát nạn thoát khổ. Phước vật không bằng phước người. “Cung dưỡng cho hàng súc sinh được phước trăm lần, cho người phạm giới được phước ngàn lần, cho người trì giới được phước vạn lần…”(5). Làm sao phóng sinh cứu vật với tâm vị ngã mà đủ phước đức trả được cái nghiệp mình đã gây khổ cho người? Cho nên, vì do vô minh từ đời quá khứ, không biết mới làm. Giờ đã biết rồi, phóng sinh với tâm hối lỗi vẫn là cái phước gỡ bớt oan khiên, nhưng nhớ chừng đó chưa đủ. Cần phải có tâm ngừa lỗi. Những gì vì tiền mà khiến người khổ, nhất định không làm. Bố thí, xây chùa cho chúng Tăng ở, phước vẫn không bằng chính mình quy y, giữ giới đầy đủ(6). Đừng bán cái đức mà mua cái phước. Vất vả vô ngần! Cố gắng phát huy thiện nghiệp, hồi hướng ác nghiệp tiêu bớt. Đó là phóng đi cái tâm trộm cắp, là giới mà người Phật tử tại gia phải giữ. 4. Không vì tham ái của mình mà làm khổ người. Cái chuyện một vợ một chồng mà vẫn duyên thừa duyên thiếu là chuyện thường tình. Trôi lăn sinh tử bao đời, kết ân, kết oán cũng nhiều, duyên thừa sao mà tránh khỏi. Nhưng có lòng từ, không vì vui riêng mà làm khổ chồng, khổ vợ, khổ con. Ngưng được là đang phóng sinh. Phóng đi cái tâm tham ái tà dâm không để nó sinh cái nhân đau khổ cho người hiện tại, cho mình tương lai. Cái chuyện tà dâm, trong kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phật nói: “Hai thứ khiến người tham đắm, đó là dâm ái rượu chè”. Vì thế cần tỉnh ngay từ lúc đầu. Đừng vì một chút lao xao, hồn xiêu phách tán mà bước chân vào, để phải dính chùm với nhau rồi dừng không được. 5. Phật nói: “Ta không thấy một pháp nào đã thực hành, thực hành nhiều mà chịu quả báo súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, còn nếu sinh trong loài người thì bị cuồng si, ngu hoặc, không biết chân ngụy… như là uống rượu. Tâm thích uống rượu thì chỗ sinh ra không có trí tuệ, thường chịu ngu si. Vì thế cẩn thận, chớ có uống rượu”(7). Phật nêu cái nhân, nói luôn cái quả, và khuyên đừng có uống rượu. Uống rượu được… ngu. Ở đời không gì thê thảm bằng “được cái ngu”. Đầu mối của mọi khổ nạn. Cứ nhìn tình trạng uống rượu của toàn thế giới hiện nay, có thể kết luận tương lai thế giới sẽ như thế nào. Không tin nhân quả chính là hệ quả của ngu. Châm ngòi mở rộng kho tàng khổ nạn không dứt. Sống không nghiện rượu, không làm khổ mình khổ người là có từ tâm. Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh. Nếu thêm niệm Phật, tham thiền, bố thí… thì không gì bằng. Làm rồi hồi hướng. Nguyện cho tất cả người thân kẻ oán đều được an vui, nghĩ thiện làm thiện để tránh khổ đau. Hồi hướng được vậy, từ tâm đang hiển, sở nguyện đều thành. Không kiếp này thì những kiếp sau cũng thành. Cho nên, không tiền phóng sinh mà chịu giữ giới, niệm Phật, hành thiền, tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, lợi ích cho đời, rồi đem hồi hướng cho mình và người, sở nguyện sẽ thành, nghiệp cũ sẽ tiêu (dù là định nghiệp, tuy vẫn xảy ra, nhưng chuyển ít nhiều)(8). Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức cũng nói đến mặt lợi ích của việc thọ trì tụng niệm như sau: “Nếu có người nam người nữ với niềm tin thanh tịnh, nghe được danh hiệu Phật kia, chí tâm lễ kính, ân cần cúng dường, thọ trì, niệm, tụng … nghiệp chướng trừ diệt, được tâm Bồ-đề bất thối chuyển, đầy đủ trí túc mạng, chỗ sinh ra thường được thấy Phật, không bệnh, trường thọ, sau khi mạng chung sinh vào nước đó…”(9). Cho nên, phương tiện chư Phật đưa ra có rất nhiều đường. Quan trọng là hợp với căn cơ mình. Hợp rồi, chịu hành, liền ứng. Nhưng nhớ, thế gian duyên khởi, tùy cơ ứng pháp. Có khi niệm Phật lợi ích cho mình, nhưng phải tham thiền, trì chú… mới lợi cho người. Không phải mình lợi thì người cũng lợi. Mọi thứ tùy duyên. Bố thí, phóng sinh… cũng vậy. Song dù ứng dụng pháp nào, nên tránh tình trạng chỉ có hình thức. Cần rõ nội dung chính xác. Đừng như nhân vật trong kinh Bách Dụ, khổ nhọc cất công đi tìm kho báu. Tìm ra, chỉ lấy tấm chăn phủ ngoài, kho tàng bỏ lại. Nhưng lại không biết, dương dương tự đắc, thỏa mãn cho đã đủ rồi. Chăn ngoài, có thể giúp ta ít nhiều qua cơn lạnh giá, nhưng không cứu nỗi những việc lớn hơn. Cái chính vẫn là làm sao khai phát kho báu trong mỗi chúng ta. Chú thích (1) Chỉ là một câu nói bông đùa. Nó không có giá trị nếu được tách ra khỏi bài viết này. (2)Đại Tạng Kinh, tập 14, kinh hiệu 450, Ngài Huyền Trang dịch sang Hán văn. (3) Còn nhiều thứ khác. (4) Kinh Đại Bảo Tích quyển 6, phẩm Pháp Hội Vua Ưu-đà-diên. (5) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phẩm Địa Chủ. (6) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển II, Phẩm Tứ Đế. (7) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phẩm Ngũ Giới. (8) Kinh Đại Bát Niết Bàn, hệ A-hàm cũng nói đến tu tâm, tu giới, tu thân, tu tuệ chuyển nghiệp. (9)Đại Tạng Kinh, tập 14, kinh hiệu 451, Ngài Nghĩa Tịnh dịch sang Hán văn. Chân Hiền Tâm
  24. PHỤ NỮ THỰC SỰ MUỐN GÌ? Vua Arthur vị vua trẻ tuổi của nước Anh, bị quân Pháp phục kích và bắt giữ. Lẽ ra vua nước Pháp sẽ giết ngài, nhưng vẻ trẻ trung dễ mến của Arthur đã làm cho vua Pháp cảm động. Ông ta hứa sẽ trả tự do cho Arthur nếu ngài giải được một câu đố cực khó. Thời hạn để Arthur đưa ra câu trả lời là một năm. Nếu sau một năm không tìm ra lời giải, Arthur sẽ phải chết. Câu đố là: Phụ nữ thật sự muốn gì? Đó là câu đố mà có lẽ đến nhà thông thái nhất thế gian này cũng phải bó tay. Và với Arthur câu đố này quả là một thử thách quá lớn. Nhưng dù sao nó vẫn tốt hơn là cái chết. Arthur đành chấp nhận mạo hiểm. Khi trở về Anh Quốc, ngài hỏi tất cả mọi người từ các công chúa, các cô gái mại dâm, các vị cha xứ đến cả các quan toà, nhưng không ai có thể đưa ra một câu trả lời hoàn hảo. Điều mọi người khuyên vua là đến hỏi bà phù thuỷ già bởi vì có lẽ chỉ còn bà ta mới giải được câu đố hóc búa này. Những ngày cuối năm cũng đã tới gần. Arthur không còn cách nào khác là đến xin ý kiến của mụ phù thuỷ. Bà ta đồng ý sẽ đưa câu trả lời nhưng với một điều kiện. Đó là bà ta muốn lấy Garwain hiệp sĩ dũng cảm của Hội bàn tròn, người bạn thân nhất của vua.Arthur thất kinh. Bà ta vừa xấu vừa bẩn thỉu. Ngài chưa từng bao giờ thấy một ai đáng tởm như mụ ta. Không, ngài sẽ không để bạn thân của mình phải chịu thiệt thòi như vậy. Khi biết chuyện, Garwain nói với Arthur rằng sự hi sinh đó của chàng làm sao có thể so sánh được với sự sống của vua, sự tồn tại của hội bàn tròn và vương quốc Anh. Và chàng hiệp sĩ quyết định hy sinh. Cuộc hôn nhân được chấp thuận và vua Arthur cũng nhận được câu trả lời. Điều phụ nữ thật sự muốn đó là “Có toàn quyền quyết định mọi việc trong cuộc sống của mình”. Ngay lập tức ai cũng nhận ra rằng mụ ta vừa thốt ra một chân lý. Vua của họ nhất định sẽ được cứu. Quả thật vua nước láng giềng rất hài lòng với lời giải đáp và cho Arthur khỏi cái án tử hình. Lại nói về đám cưới của mụ phù thuỷ và chàng hiệp sĩ. Tưởng chừng như không có gì có thể khiến Arthur hối hận và đau khổ hơn nữa. Tuy nhiên chàng hiệp sĩ Garwain của chúng ta vẫn cư xử hết sức chừng mực và lịch sự. Mụ phù thuỷ thì trái lại, trong tiệc cưới, mụ ta làm nháo nhào mọi thứ lên. Thỉnh thoảng mụ lại lấy bàn tay bẩn thỉu của mụ nhón cái này một chút, bốc cái kia một tý. Thật chẳng ra làm sao cả. Mọi người thì hết sức khó chịu.Đêm tân hôn, Garwain thu hết can đảm bước vào động phòng hoa chúc. Nhưng, gì thế này? Trên giường không phải là mụ phù thuỷ già nua xấu xí mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp đợi chàng tự bao giờ. Nhận thấy sự ngạc nhiên trên nét mặt chàng hiệp sĩ, cô gái từ tốn giải thích là vì chàng rất tốt với cô lúc cô là phù thuỷ, nên để thưởng cho chàng hiệp sĩ, cô sẽ trở thành một người xinh đẹp dễ thương đối với chàng trong một nửa thời gian của 24 giờ một ngày. Vấn đề là chàng phải lựa chọn hình ảnh đẹp của nàng vào ban ngày hay là ban đêm. Chao ôi sao mà khó thế? Garwain bắt đầu cân nhắc: Ban ngày nếu nàng là một cô gái xinh đẹp thì ta có thể tự hào cùng nàng đi khắp nơi, nhưng ban đêm làm sao mà ta chịu cho nổi? Hay là ngược lại nhỉ, ta đâu cần sỹ diện với bạn bè cơ chứ, cứ để nàng ta xấu xí trước mặt mọi người đi, nhưng khi màn đêm buông xuống, ta sẽ được tận hưởng những giây phút chồng vợ với thiên thần này. Sau đó Garwain đã trả lời “Nàng hãy tự quyết định lấy số phận của mình. Nàng muốn đẹp hay xấu vào lúc nào cũng được”. Tất nhiên câu trả lời này đã làm cho mụ phù thuỷ đội lốt cô gái xinh đẹp kia hài lòng và nàng nói với chàng rằng nàng sẽ hóa thân thành một cô gái xinh đẹp suốt đời cho chàng. Đó là phần thưởng cho người biết tôn trọng ý kiến của phụ nữ.....khà ...khà ...