VIETHA

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    967
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    4

Everything posted by VIETHA

  1. Báo chí quốc tế liên tiếp đưa tin chính quyền Trung Quốc mổ cướp nội tạng học viên Pháp Luân Công “Hard to Believe” (tạm dịch: Điều khó tin) là bộ phim kể lại cuộc điều tra nghiêm túc về một tội ác đáng sợ nhất trong lĩnh vực y học: mổ cướp nội tạng sống các học viên Pháp Luân Công của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), với câu hỏi: “Tại sao dường như có quá ít người chú ý đến điều này?”. Gần đây, trang báo “Daily Mail” của Anh đã đăng tải bộ phim tài liệu này. Bài báo nói rằng, bộ phim “Hard to Believe” công khai chỉ ra ĐCSTQ đã mổ cướp gan, thận, giác mạc và tim của những học viên Pháp Luân Công đang bị bắt giam phi pháp, thậm chí là mổ lấy nội tạng trong khi những người này vẫn còn sống. Tuy nhiên, xã hội quốc tế lại hoàn toàn không quan tâm đến vấn đề này. Theo “Hard to Believe”, vào năm 2006 thực trạng mổ cướp nội tạng sống tại Trung Quốc đã rất rõ ràng, đồng thời còn có luật sư nhân quyền, các nhân chứng, thậm chí là bác sĩ tham gia phẫu thuật đều đứng ra làm chứng. Tuy nhiên, các nước trên thế giới lại không chú ý đến việc ĐCSTQ lấy nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công và đem bán ra nước ngoài. Bộ phim tài liệu này chỉ ra rằng tại sao thế giới đối với việc xâm phạm nhân quyền nghiêm trọng bậc nhất này, lại coi như chưa từng nghe thấy? Đạo diễn bộ phim, ông Ken Stone được “Daily Mail” phỏng vấn cho biết: “Chúng tôi làm bộ phim này với mục đích là để thăm dò xem tại sao những báo cáo, những bộ phim về tình hình tại Trung Quốc, lại giành được ít sự quan tâm đến thế. Có rất nhiều người cung cấp những bằng chứng hết sức rõ ràng, nhưng họ thường bị mọi người coi nhẹ”. Bộ phim tài liệu “Hard to Believe” nói về điều tra nghiên cứu của nhà báo Ethan Gutmann, cùng với luật sư nhân quyền ông David Matas, người từng được đề cử giải Nobel Hòa bình và cựu Ngoại trưởng Canada, ông David Kilgour. Bộ phim còn có phỏng vấn những học viên Pháp Luân Công từng bị giam giữ trái phép, và các bác sĩ từng đích thân tham gia mổ cướp nội tạng sống học viên Pháp Luân Công. Tuy nhiên, những bằng chứng hết sức thuyết phục từ những người có địa vị cao trong xã hội này, lại không gây được sự chú ý của dư luận, cũng không ai tiến hành điều tra chính quyền Trung Quốc. Phóng viên Ethan được “Daily Mail” phỏng vấn cho biết: “Khi đứng trước những hành vi tàn ác, mọi người thường có thói quen không đối diện thẳng với nó. Chỉ khi đã qua đi thì chúng ta mới thừa nhận sự việc tàn ác này. Cũng giống như để thừa nhận việc thảm sát người Do Thái thì chúng ta phải cần bao nhiêu năm? Việc này cũng tương tự như vậy”. Nhân chứng, bằng chứng thuyết phục Đạo diễn Ken Stone cho biết, bằng chứng có sức thuyết phục nhất là lời thú nhận của vị bác sĩ đến từ Tân Cương. Bác sĩ Enver Tohti trong bộ phim này đã tiết lộ bản thân ông đã trực tiếp tham gia vào việc mổ cướp nội tạng sống. Nhiều năm trước ông đã từng làm tại khoa ngoại của một bệnh viện tại Tân Cương. Năm 1994, ông bị điều động đến một nơi chuyên thi hành án tử hình, khi đó ông nhìn thấy một tù nhân nam do bị trúng đạn đã nằm gục xuống sàn nhà, vết thương hoàn toàn không thể lấy đi tính mạng của tù nhân này, anh hoàn toàn có thể bình phục. Tuy nhiên, cấp trên yêu cầu bác sĩ Tohti mổ lấy nội tạng của anh ta, sau đó cảnh sát nói với ông, “sự việc ngày hôm nay anh hãy coi như chưa từng xảy ra”. Hiện nay Bác sĩ Tohti đang làm tài xế lái xe taxi tại London, ông cũng từng tham gia làm chứng tại Nghị viện châu Âu. Theo Daily Mail, điều tra viên của Canada cho biết, ĐCSTQ muốn tìm mọi cách để che dấu những báo cáo về việc mổ cướp nội tạng, vì đó là những phi vụ buôn bán hàng tỷ đô la. Ông Matas và ông Kilgour phát biểu lần đầu tiên năm 2006 trong báo cáo điều tra về việc mổ cướp nội tạng sống cho biết, bệnh viện của ĐCSTQ thu về từ giác mạc là 30.000 USD, thận là 62.000 USD, đối với gan và tim thu về 130.000 đô. Ông Matas trong bộ phim nói: “Số học viên Pháp Luân Công bị giam giữ là rất nhiều, họ bị đối xử một cách thậm tệ. Họ trở thành lượng lớn những người có thể bị hy sinh cho những ca ghép tạng”. Chứng cứ chủ yếu mà hai ông đưa ra liên quan đến số lượng lớn cơ quan nội tạng tại Trung Quốc không rõ nguồn gốc. Trong khi số ca phẫu thuật cấy ghép của Trung Quốc đứng thứ nhì trên thế giới, nhưng toàn quốc chỉ có 37 người đăng ký tình nguyện hiến tạng tại Hội Chữ thập đỏ. ĐCSTQ thừa nhận rằng, mỗi năm có khoảng 10.000 ca phẫu thuật cấy ghép tạng, đồng thời giải thích rằng, những cơ quan nội tạng đó đến từ những tù nhân bị tử hình. Tuy nhiên, căn cứ theo báo cáo của Tổ chức Nhân quyền tại Mỹ, thì năm 2013, Trung Quốc chỉ có 2.400 trường hợp thi hành án tử hình. Báo cáo của ông Matas và Kilgour cho rằng, có khoảng 40.000 học viên Pháp Luân Công đã chết do bị mổ cướp nội tạng. (Ảnh: chongmocuoptang.com) Nhà báo Ethan cho biết, con số thực tế có thể còn cao hơn, từ năm 2000 đến năm 2008 đã có hơn 65.000 người bị mổ cướp nội tạng sống. Năm 1999, ĐCSTQ bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công, khi đó ông Ethan cũng đang ở Bắc Kinh, do đó ông đã tận mắt chứng kiến cuộc đàn áp này. Năm 2006 ông bắt đầu tiến hành điều tra. Khi phỏng vấn những học viên Pháp Luân Công từng bị bắt giữ, ông đã rất sốc khi họ đề cập đến việc mổ cướp nội tạng sống. Ông Ethan cho biết, ông đã phát hiện điểm đáng nghi trong việc kiểm tra sức khỏe học viên trong trại giam. Vì mục đích của việc kiểm tra này là để kiểm tra cơ quan nội tạng của họ có khỏe mạnh không. Ông nói: “Khi đó tôi cảm thấy lạnh sống lưng, và tự nghĩ: ‘đây chính là sự thật’”. Đới với bài báo này, các độc giả người Anh đã đưa ra rất nhiều bình luận, có người cho rằng: “Hành động của quốc gia này đối với người và động vật, luôn khiến cho người ta cảm thấy sợ“. Có người còn trực tiếp kêu gọi Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborne: “Tại Trung Quốc phát sinh sự việc này, chúng ta còn có thể tiếp tục quan hệ thương mại với họ sao?” “Daily Mail” là tờ báo lớn thứ 2 ở Anh Quốc, theo thống kê vào Tháng 3/2014, lượng phát hành của tờ báo này là hơn 1,7 triệu tờ mỗi ngày. Phiên bản trực tuyến của Daily Mail được cho là phiên bản tin tức được truy cập nhiều nhất trên thế giới, với 100 triệu người truy cập mỗi tháng. Cũng thuận theo ngày càng nhiều đối tượng, quốc gia, và truyền thông quan tâm hơn đến tội ác này, vào ngày 28/9, Thời báo New York, một trong những tờ báo danh tiếng của Mỹ, cũng đã cho đăng tải bức thư ngỏ của Hội Ái Hữu Pháp Luân Công gửi đến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, nhân chuyến công du của ông đến Hoa Kì. Bức thư là thông điệp kêu gọi ông Tập cân nhắc kỹ càng về những thiệt hại mà cuộc đàn áp học viên Pháp Luân Công gây ra, đồng thời cũng nhấn mạnh rằng việc cho phép người dân tự do tập luyện Pháp Luân Công chính là đem lại hy vọng thay da đổi thịt cho Trung Quốc. “Thư ngỏ gửi Chủ tịch Tập Cận Bình” được công bố trên Thời báo New YorkSong song đó, đài PBS của Mỹ trước đó cũng đã công bố một tài liệu điều tra cho biết Trung Quốc đã mổ cắp nội tạng của các tù nhân sau đó tiêu thụ trên thị trường chợ đen, điều mà bấy lâu nay các luật sư và tổ chức nhân quyền trên thế giới vẫn luôn lên án. Truyền thông Mỹ: Trung Quốc mổ cắp nội tạng của tù nhân còn sốngTheo chuyển biến của dòng chảy lịch sử, người dân khắp nơi càng nhận thức rõ ràng hơn về tội ác kinh hoàng mà ĐCSTQ, đứng đầu là Giang Trạch Dân, đã gây ra cho người dân nước họ và cả thế giới. Khi sự thật dần dần được tiếp nhận thì cũng là lúc ánh sáng lương tri chiếu rọi đến tâm hồn bạn, liệu bạn có thể dung thứ cho một chính quyền thẳng tay lấy cắp tim, gan và thận của một người để đem bán chỉ vì anh ta có niềm tin vào Chân Thiện Nhẫn.
  2. NASA thông báo rằng, vào 11h30 phút sáng ngày 28 sẽ mở một cuộc họp báo khẩn cấp, để tuyên bố một phát hiện trọng đại trên sao Hỏa. Giới phân tích cho rằng, rất có thể NASA sẽ thông báo trên sao Hỏa có tồn tại sự sống. Được biết các chuyên gia của NASA, những người trực tiếp phụ trách kế hoạch thám hiểm sao Hỏa đều muốn tham gia cuộc họp báo này, bao gồm chủ nhiệm Khoa học Hành tinh ông Jim Green, nhà khoa học Michael Meyer người đứng đầu kế hoạch thám hiểm sao Hỏa và nhà khoa học Lujendra Ojha tại học viện kỹ thuật Georgia… Ojha chính là nhà khoa học đầu tiên đưa ra lý thuyết, vào giai đoạn ấm áp trên sao Hỏa có dòng chảy nước muối. Giai đoạn đầu Ojha nghiên cứu hình ảnh khe suối, những bức ảnh sau khi được loại bỏ đi bóng ảnh và nguồn sáng, Ojha phát hiện một vết tích giống như ngón tay, mà vết tích này chỉ xuất hiện vào giai đoạn thời tiết ấm áp trên sao Hỏa, khi thời tiết lạnh thì lập tức biến mất. Ojha cho rằng, những vết tích này là do nước chảy dưới bề mặt của sao Hỏa tạo thành, vì thế những vết tích đó mới có thể nổi lên vào những ngày ấm áp. Michael Meyer đã từng đưa ra rất nhiều báo cáo phân tích về sao Hỏa, trong đó có một bài với tiêu đề: “Phát hiện vi sinh vật và nước chảy trên sao Hỏa”. Nước là nguồn gốc của sinh mệnh, do nhiệt độ trên sao Hỏa quá thấp, nên trước đây các nhà khoa học cho rằng trên sao Hỏa không thể có nước, mà chỉ có băng mà thôi. Nhưng tàu thăm dò Curiosity của NASA, vào tháng 4 năm nay đã phát hiện, trong bùn đất trên sao Hỏa có chứa thành phần nước muối giúp hạ thấp điểm đóng băng, do đó các nhà khoa học cho rằng, trên sao Hỏa rất có thể có tồn tại nước. Theo thông lệ thì chỉ khi có phát hiện trọng đại, NASA mới tổ chức họp báo khẩn cấp. Trong lần họp báo này có bao gồm các phóng viên, các nhà khoa học nhiên cứu về sao Hỏa cộng thêm những phát hiện mới nhất của NASA, khiến cho giới phân tích cho rằng, hôm nay NASA sẽ tuyên bố trên sao Hỏa có tồn tại sự sống. Theo NTDTV
  3. Người ngoài hành tinh đã từng nhiều lần ngăn chặn các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Mỹ, theo tiết lộ gây sốc mới đây của một cựu phi hành gia Mỹ. Ông Edgar Mitchell, phi hành gia Mỹ thứ 6 được làm việc trực tiếp trên bề mặt Mặt trăng, khẳng định các tướng lĩnh cấp cao nước này đã tận mắt nhìn thấy phi thuyền của người ngoài hành tinh xuất hiện trong thời gian diễn ra các cuộc thử nghiệm vũ khí hồi thập niên 1940. Các đĩa bay được nhìn thấy bay lượn lờ phía trên các buổi thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên trên thế giới do chính phủ Mỹ tiến hành vào ngày 16/7/1945 tại vùng sa mạc White Sands ở bang New Mexico, ông Mitchell, người có bằng tiến sĩ ngành du hành vũ trụ tại Học viện công nghệ Massachusetts (MIT) tiết lộ. Chuyên viên của NASA này đã thường xuyên tuyên bố các thông tin về sự sống ngoài Trái đất kể từ sau khi ông hoàn thành sứ mệnh đáp xuống Mặt trăng bằng phi thuyền Apollo 14 năm 1971. “Sa mạc White Sands là nơi Mỹ dùng để thử nghiệm vũ khí hạt nhân, và đây cũng là khu vực được người ngoài hành tinh để ý”, cựu phi hành gia 84 tuổi nói với tờ báo Anh. “Chúng dò xét khả năng quân sự của con người, nhiều chi tiết gom lại, tôi khẳng định rằng chúng nhiều lần cố ngăn con người tiến hành chiến tranh và duy trì hòa bình trên Trái đất, các thử nghiệm tên lửa của quân đội Mỹ thường bị đĩa bay bắn hạ”, ông Mitchell kể lại. Tiến sĩ Mitchell cũng khẳng định rằng công nghệ hiện nay của nhân loại vẫn chưa là gì nếu so với người ngoài hành tinh, đồng thời cảnh báo nếu làm chúng phật lòng thì nhân loại có thể gặp huy hiểm. Một đốm sáng màu hồng bí ẩn xuất hiện trên bầu trời bang Arizona vào ngày 25.2.2015 ngay sau khi NASA phóng tên lửa từ vùng sa mạc White Sands ở bang lân cận New Mexico – Ảnh: Reuters Người ngoài hành tinh vì sao nghiên cứu nhân loại? Theo trang mạng Chánh kiến cho biết thì mặc dù sinh vật ngoài hành tinh có khoa học kỹ thuật cao vượt xa con người, chúng vẫn có nỗi khổ không thoát khỏi sinh lão bệnh tử, cũng không thể đảm bảo là không tiêu hao năng lượng. Chúng phát hiện tuy con người yếu kém về mọi mặt nhưng thân thể lại hoàn mỹ hơn của chúng, đặc biệt lại có thể tu luyện, người tu luyện, không dùng đĩa bay mà có thể đi xuyên qua thời-không. Đối với người ngoài hành tinh, thứ “kỹ thuật” này thật quá ư thần thánh. Từng đợt các giống người ngoài hành tinh thi nhau tiến xuống trái đất để giải mã bí ẩn cơ thể người. Do đó họ một mực nghiên cứu, thậm chí nghiên cứu xem có thể khai mở thêm 17% não bộ đang bị đóng băng của con người hay không (con người hiện tại chỉ được phép sử dụng 10% não bộ). Chúng ta thường xem thấy tin tức về rất nhiều người bị mất tích một cách bí ẩn. Trong đó có một bộ phận là bị người ngoài hành tinh bắt cóc để tiến hành các loại thí nghiệm loại này. Người tu luyện đều biết rằng, Thần Phật không cho phép sinh vật ngoài hành tinh không có đạo đức mà chỉ dùng thủ đoạn khoa học kỹ thuật để tiến nhập vào thiên giới, do đó các loại nghiên cứu của người ngoài hành tinh vẫn luôn bị ức chế. Ngay người ngoài hành tinh cũng phát hiện rằng các loại khoa học kỹ thuật mà truyền dạy cho con người đã trở thành vũ khí để loài người hủy diệt lẫn nhau, làm trái đất nhanh chóng ô nhiễm. Theo hồ sơ ghi lại, khi nước Mỹ muốn đưa hai quả bom nguyên tử lên mặt trăng, thì bom nguyên tử đã biến mất tăm giữa không trung không rõ tung tích. Nhiều lần chúng ngăn cản Mỹ phát triển các loại vũ khí hạt nhân tương tự vì không muốn nhân loại nhanh chóng hủy diệt đến mức không còn gì để chúng có thể tiếp tục “khai thác”. Bruce Phan – VietOneRadio
  4. Bí mật phong thủy: Đài Loan được cứu khi đào bỏ “cóc 9 tầng” ở hồ Nhật Nguyệt Có lẽ đây là tin vui cho cả người dân Đài Loan, khi vào ngày 23/3/2015, bè lũ cóc ghẻ ẩn núp dưới hồ Nhật Nguyệt gây họa cho Đài Loan suốt 16 năm trời cuối cùng đã bị đào bỏ. Con cóc khổng lồ màu vàng cao gần 22m tại công viên Ngọc Uyên Đàm, Bắc Kinh với mục đích thu hút du khách, vào Tháng 7/2014. Năm 2015, bức tượng đá lớn của Giang Trạch Dân, Tăng Khánh Hồng đặt ở địa bàn tỉnh Tứ Xuyên của Chu Vĩnh Khang đã bị đào lên, những bức tượng này không mang hình hài con người của họ mà là tượng đá con cóc và con cua. Dân Đài loan vẫn có người không tin chuyện Giang Trạch Dân là con cóc, nhưng Giang Miên Hằng, con trai ông Giang và người em họ là Giang Trạch Huệ lại hoàn toàn tin vào điều đó, còn mạng lưới truyền thông của ông Giang cũng không cần phải nói, họ tuyệt đối tin tưởng. Điển hình phải kể đến là đài truyền hình Phượng Hoàng, bởi họ không ngừng quảng bá mà cổ động cho hình ảnh con cóc thật sự. Nếu không phải là ông chủ của mình, thì Lưu Trường Nhạc, Chủ tịch Đài truyền hình Phượng Hoàng, chẳng dại gì mà lại xem con cóc là tổ tiên để thờ cúng, thỉnh thoảng còn lên tiếng bảo vệ giống vật bị bệnh chốc đầu này. Kết quả mà Lưu Trường Nhạc đã nhận được là gì? Từ một thân người béo phệ đã trở thành “bộ xương di động”, bởi giờ đây ông đang phải đối diện với chứng bệnh nan y tại phòng bệnh cao cấp bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh. Lưu Trường Nhạc, Chủ tịch Đài truyền hình Phượng Hoàng. Người dân có thể không tin chủ tịch Đài truyền hình Phượng Hoàng cho đến các hoa đán Đài Loan đều liên quan đến Giang Trạch Dân rồi lần lượt từng người chịu kết cục thê thảm. Cũng chẳng ai tin nổi, năm 1999, bên bờ hồ Nhật Nguyệt, Nam Đầu vừa đặt “bức tượng con cóc 9 tầng”, thì ngày 21 trong tháng đó, huyện Nam Đầu, khu vực lớn thứ 2 của Đài Loan, đã xảy ra trận động đất 7,6 độ richter, khiến hàng nghìn người thiệt mạng, còn kéo theo các thảm họa trên một phạm vi rộng lớn, lại có hai đỉnh núi bị sạt lở. Tôn Sĩ Hồng, nhân viên của Trung tâm Nghiên cứu Mạng lưới Địa chấn tại Trung Quốc chỉ ra rằng, khu vực Nam Đầu nằm ở dãy núi trung tâm, không phải là nơi có thể xảy ra động đất cường độ mạnh, vùng thường xuyên xảy ra các trận động đất ở Đài Loan là vùng ven biển phía đông là Hoa Liên, Nghi Nam. Từ lúc Nam Đầu đặt bức tượng con cóc 9 tầng bằng đồng thau đè lên nhau xuống đáy hồ Nhật Nguyệt, không chỉ nơi này xảy ra trận động đất, mà còn xuất hiện hiện tượng nước biển dâng cao sau mỗi lần động đất, số lần động đất cũng tăng lên, thường xuyên hơn, với cường độ vào khoảng 6 độ richter. Cóc 9 tầng tại hồ Nhật Nguyệt lộ nguyên hình khi nước hồ cạn kiệt, nhưng con cóc cuối vẫn được che dưới lớp bùn. Cụ thể, ngày 27/3/2013, khu vực Nam Đầu xảy ra trận động đất với cường độ trên 6 độ richter. Chưa đến 3 tháng sau, ngày 3/6 một trận động đất khác khoảng 6,7 độ richter lại xảy đến. Điều này chứng tỏ rằng hoạt động địa chấn trong khu vực đang vào cao trào. Dĩ nhiên, ông Tôn Sĩ Hùng sẽ không liên tưởng đến việc hình tượng cóc ghẻ liên quan đến Giang Trạch Dân đang náo loạn Nam Đầu, nhưng ông lại cho rằng trận động đất lần này có liên quan đến trận động đất mạnh 7,6 độ richter năm 1999. Ông nói, tuy cách nhau đến 10 năm, nhưng chúng liên quan đến nhau bởi vì quá trình suy kiệt năng lượng của trận động đất vào năm 1999 rất chậm chạp, trận động đất mạnh 6,7 độ richter lần này cũng có thể được cho là dư chấn thời kỳ cuối của trận động đất trước đó. Theo báo cáo vào ngày 3/4 của Thông tấn xã Trung ương Đài Loan, Công ty Điện lực Đài Loan tại hồ Nhật Nguyệt, khu Oa Đầu huyện Nam Đầu Đài Loan làm một ”bức tượng cóc 9 tầng’ với mục đích là giúp du khách quan sát mực nước trong hồ. Lúc thiết kế giàn khoan và thủy tạ, ý định ban đầu là để bức tượng đồng con cóc 9 tầng ngay giữa hồ, nhưng sau khi tượng hoàn thành, vì không thể đào móng trong hồ nên đành để tượng cóc trên bờ. Điều này đã khiến ông Giang vui mừng, vì người dân có thể thi nhau chụp hình với “cóc” và post lên mạng. Đến năm 2001, thời điểm Giang Trạch Dân trao lại quyền bính cho Hồ Cẩm Đào, “bức tượng cóc 9 tầng mới được dời vào trong hồ”. Một số người cho rằng, con cóc đã không còn chính thức nắm quyền thì không thể “chường mặt” ra cho thiên hạ dòm ngó; nói theo lẽ tâm linh thì lúc mất hết quyền lực là khi nguyên khí bị hao tổn, nguyên khí hao tổn mà không có nước bổ sung thì không còn hơi sức để kêu, vậy nên “cóc ta” phải chui vào trong nước. Kể từ khi con cóc chín tầng cư ngụ tại hồ Nhật Nguyệt, Đài Loan đã xảy ra hai chuyện lớn, một chuyện xảy ra dưới thời Tổng thống Trần Thủy Biển, một chuyện khác vào thời Tổng thống Mã Anh Cửu. Ngày 22/10/2006, Bí thư Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Sơn Tây là Giả Giáp lấy danh nghĩa du lịch đến Đài Loan để thoái đoàn, đề cập đến xu hướng 14 triệu người đã thoái xuất khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và các tổ chức liên đới lúc bấy giờ. Tuy nhiên, chính phủ của Trần Thủy Biển lại không để ông lên tiếng, ba ngày sau đó họ sai người hộ tống ông đến Hồng Kông, chuẩn bị giao nộp cho tay sai của ĐCSTQ. Khi Giả Giáp nhìn thấy cảnh sát Trung Quốc và xe chuẩn bị áp giải ông về đại lục, kì tích đã xuất hiện, hai người học viên tu luyện Pháp Luân Công đến vỗ vào vai ông hỏi: “Ông là Giả Giáp phải không?”, sau khi xác nhận, họ liền dẫn ông đi trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người. Nhiều người cho rằng ông Trần đã bỏ qua cơ hội có thể cứu được sự nghiệp của mình, khi tiếp tay cho ĐCSTQ. Bởi thế, sự nghiệp của ông kết thúc với tội tham ô, rồi bị bị bắt bỏ tù, và vừa được cho tại ngoại vào ngày 6/1/2015 vì sức khỏe suy yếu nghiêm trọng. Đối với làn sóng thoái Đảng tại Trung Quốc, làn sóng có thể giúp người dân có thể từ bỏ điều xấu xa tai hại nhất, rủ bỏ những thứ mang lại điều không may, ông Trần lại thuận theo ĐCSTQ bức hại những người vô tội, tội lỗi này gộp chung với những điều phạm phải trong quá khứ, cuối cùng phải trả giá. Trong khi đó, Tổng thống Mã Anh Cửu đến năm 2011 đột nhiên lại sửa đổi pháp luật, lập pháp để cho ĐCSTQ được thành lập các tổ chức đảng hợp pháp tại Đài Loan, phát triển đội ngũ đảng viên. Những người tu luyện Pháp Luân Công khi giảng rõ chân tướng cho những du khách đến từ đại lục tại tòa nhà cao ốc thương mại 101 ở Đài Loan, ông Mã Cửu Anh lại mặc cho nhóm đặc vụ của Giang tại Đài Loan ngay giữa ban ngày, đánh đập những người tu luyện Phật Pháp, trong khi đó thành viên Quốc Dân đảng ngang nhiên công khai ủng hộ việc làm của những côn đồ này trên các phương tiện truyền thông. Họ được Mã Cửu Anh chống lưng, xem người tu luyện như trò đùa. Một người bất đồng chính kiến với ĐCSTQ là Viên Hồng Băng cho rằng, “ĐCSTQ đầu tư vào giới chính trị, học thuật, công thương, văn hóa, truyền thông (tại Đài Loan) rất có kế hoạch”, điều này khiến dân chúng phần lớn nhìn nhận rằng giới chức Đài Loan bây giờ phần đông đã trở thành băng nhóm thân Trung Quốc, nhóm này sớm muộn cũng mang đến tai họa cho Đài Loan, bởi lẽ tai ương từ Trung Quốc thì không ít quốc gia cũng đã nếm mùi, cụ thể là Việt Nam. Có người ví von rằng: “Xưa kia Đát Kỷ (cáo chín đuôi) loạn triều đình cũng không bằng cóc ghẻ Giang Trạch Dân làm loạn cả thế giới”. Thực tế, kiếp số của Đài Loan chưa tận, nên Tổng thống Mã Anh Cửu hiện nay chỉ còn 9% người dân ủng hộ. Thêm vào đó, năm 2015, Đài Loan hạn hán trầm trọng, lượng nước hồ Nhật Nguyệt chỉ còn khoảng 75%, nhưng bức tượng chín con cóc đã hoàn toàn lộ ra. Ngày 23/3, công ty điện lực Đài Loan cử người đi đến chỗ bức tượng xung quanh con cóc tiến hành đào bới trong ba ngày, con cóc Giang Trạch Dân ở Đài Loan cuối cùng đã bị đào bỏ. Con cóc 9 tầng đã bị đào bỏ vào Tháng 3/2015, tại hồ Nhật Nguyệt của Đài Loan. Thêm nữa, vào ngày 25/4, thông qua phán quyết của tòa án tối cao Đài Loan, Hội trưởng hội Đồng Tâm Ái Quốc là Chu Khánh Tuấn bị buộc phải công khai xin lỗi học viên Pháp Luân Đại Pháp và Chủ tịch Trương Thanh Khê, đồng thời bồi thường 200.000 Đài Tệ (khoảng 6.449 USD) cho tổ chức bị họ lăng mạ và quấy nhiều suốt thời gian qua. Điều này cho thấy giới chức thân Trung Quốc tại Đài Loan đang suy yếu. Như vậy có thể thấy, Đài Loan có lẽ đã được cứu. Có thể nói chuyện tâm linh, nhất là phép phong thủy được sử dụng trong các hoạt động chính trị, xã hội, kinh tế của các quốc gia từ trước đến nay không phải hiếm. Tuy nhiên, phong thủy hay tâm linh cũng không thoát khỏi sự vận động của nhân luân và đạo trời, người hành ác thì thiên địa không dung, sớm muộn đều phải trả giá, yêu quái tác loạn nhân gian rồi cũng bị trừ sạch. Ai còn mê muội, chung tay cũng kẻ chuyên hành ác mong rằng có thể kịp thời tỉnh ngộ để cứu lấy bản thân mình, từ đó mà tạo phúc cho dân. Tiểu Thiện, dịch từ renmingbao
  5. Một người đạp xe trông thấy chùm sáng lạ trên bầu trời… Những gì anh ấy ghi được thật kinh ngạc và kỳ lạ Vào tháng trước, Crown Flash (một hiện tượng tự nhiên) hiếm thấy đã được một người đi xe đạp ghi hình lại và sau đó đăng tải phát hiện này lên trang YouTube. Đây là đoạn video: “Tôi đang đạp xe ngoài trời thì một cơn bão xuất hiện, sau đó chùm sáng kỳ lạ này đập vào mắt tôi, thế là tôi lấy điện thoại ra và ghi hình lại”, người đăng tải đoạn phim lên YouTube chia sẻ. “Sau khi nhận được rất nhiều phản hồi nói rằng đó không phải là HAARP (Chương trình nghiên cứu hoạt động cực quang cao tần của Hoa Kỳ), tôi đã đổi tên nó thành Crown Flash, Crown Flash xuất hiện khi các phân tử nước đá được xếp thẳng hàng dưới tác động của trường điện từ tạo ra từ một cơn bão. Nó không thể nhìn thấy bằng mắt thường nhưng khi mặt trời chiếu vào thì mắt thường cũng có thể thấy được, tương tự như cầu vồng vậy”. Đây là hình ảnh khác được lấy từ đoạn phim: “Crown Flash” còn được gọi là “Leaping Sundog”. Hiện tượng này rất hiếm khi xảy ra. Một bài báo về chủ đề tự nhiên được viết năm 1971 có đoạn: “Ngày 2 tháng 6 năm 1970, vào lúc 19:45′ theo múi giờ Đông Mỹ, một cơn giông bão đã quét qua vài dặm thuộc khu vực phía bắc Ann Arbor, Michigan. Cột mây vũ tích vượt hẳn lên trên vùng sáng của mặt trời đang lặn, cách xa vùng tối bên dưới, chốc một lại sáng lóe lên”. Đây là một đoạn phim khác: Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè
  6. Nhân loại rất khó rút tỉa bài học kinh nghiệm, cho dù luôn chú ý “tổng kết kinh nghiệm”. Những năm Thích Ca truyền Pháp, Bà La Môn đã mạt Pháp dùng đủ mọi phương diện cản trở thậm chí hãm hại ông và đệ tử của ông. Giê-Su giáng trần, những văn sĩ Do Thái giáo đã bại hoại gây ra thù hận xã hội, cuối cùng đóng đinh Cơ Đốc tại thập tự giá. Khổng Tử chu du Lục Quốc giảng Nho Đạo đại thành, bị bao vây tại Khuông, vây hãm hại tại Trần, bị chế giễu như “hoang mang như con chó mất nhà”. Lão Tử nhìn thấu thói đời thay đổi bất thường. Nếu không phải đệ tử Doãn Mật Hi này vướng víu, e ngại rằng Ngũ Thiên Ngôn cũng bằng không để lại người đời sau. Nhưng mà trong thời gian từ từ đi qua, Thích giáo tích lũy thế lực hình thành hai ngàn năm trăm năm, thịnh hành trên thế gian. Cơ Đốc Giáo sau khi trải qua sự bức hại tàn khốc hơn ba trăm năm của đế quốc cổ La Mã, hôm nay trở thành tôn giáo trụ cột trong thế giới Tây Phương, tư tưởng Nho Giáo của Khổng Tử đã trở thành tư tưởng trọng tâm của Trung Quốc mấy ngàn năm, mà Tiên Pháp cao diệu của Đạo gia cũng rất khiến nhiều người say sưa kể lại. Lúc này, con người đại khái đã quên mất quá khứ của họ, càng không biết rút tỉa bài học kinh nghiệm với thái độ hiện giờ. Tại đây cần phá giải chính là Kim Cang Kinh và Tâm Kinh từ xưa đến nay mà môn đồ Phật Giáo tôn như khuôn mẫu. Thật sự mà nói, giải Kinh chẳng phải là nguyện ý của chúng ta, nhưng chúng sinh hôm nay lấy tình cảm chứ không phải lấy lý tính mà si mê những điều luận thuật tự mình không hiểu rõ, thêm vào đó những kẻ có dùng tâm thái khác nhau giải sai luận lầm, đã khiến những thứ ấy trở thành một chướng ngại lớn cho mọi người tiến đến Giác Ngộ, khai mở Chánh Kiến. Nhất là những cư sĩ, nhân sĩ trong giới Phật Giáo, mong có thể tịnh tâm suy xét lập trường của mình, lấy lý tính hằng lượng sự lựa chọn đương thời. Lịch sử cuối cùng sẽ đi qua một trang thời đại rối ren chưa từng có, bắt đầu mở ra Kỷ Nguyên thanh minh và tráng lệ không gì sánh bằng, nhưng trước đó sự mới cũ thay thế và đào thải, lại là một điểm ranh giới liên quan đến vận mệnh cuối cùng của sinh mệnh. Cho nên lấy thơ gợi ý rằng: Chao ôi____ thở dài____ Nguy ơi chúng sinh! Chánh Pháp Lăng trì, tà Sư nói vân vân; Thiên Điạ vô Chánh nhãn, chỉ đem tiền làm căn. Đâu biết sinh mệnh! Đâu biết thăng trầm ! “Nhiều lần” răn dạy đã quên dần, chỉ nhớ hình đầu trọc. Nước suối nhơ bẩn muốn giặt áo, vết bùn không phân rõ. Phật môn đã không tịnh, Lấy gì để thanh tịnh? Lấy gì để tẩy tâm? Đã từng ngàn năm thành đọc sách, nay chỉ còn danh bóng. Hà lai phong vũ gõ lệ minh, ai mà xem rõ rệt? Phong vân phất phơ nói ngàn năm, mấy người biết được Chân? Chẳng lẽ luân hồi ba ngàn kiếp, vẫn còn chưa bình lặng? An đắc thiên phong quét âm la, tái tạo tân địa thân! Thu Sơn thanh thanh gọi Chánh Pháp, Nước đục sóng cả mong thanh minh. Tứ đại phong hoá ai tái tạo? Luân chuyển càn khôn giác [ngộ] mê [hoặc] [trầm] luân. Quy chân, Quy chân, Mãi đến Tam tài thanh thuần ! Ván cờ sắp tàn tận, thang mây chỉ vân tiêu. Khả than thiên hạ vẫn si mê, chỉ biết chơi mê hồn. Người nào mới đào hồ tẩy tâm, tôi đem bích huyết nhẩm quần sinh. đào đi cấu bẩn ra tịnh quang, tái thính thiên nhạc tai tạm rõ ! Chao ôi___ thở dài___ Tĩnh! Tĩnh! Tĩnh! Đệ nhất luận trong Thập luận Kim Cang Kinh 1. Xưa nay Kim Cang Kinh và Tâm Kinh là kinh điển mà Phật Giáo Đại Thừa coi trọng nhất, nghĩa gốc của kinh điển là khai thị chân lý vũ trụ đối với Phật đương thời đã lĩnh ngộ, đối với học giả mà nói, là tiêu chuẩn tham chiếu đọc thường xuyên để tu chánh bản thân, đề cao bản thân, vì bổn nghĩa của kinh như vậy, chẳng phải cho người đọc giải trí, mà là sau khi lý giải và hấp thụ tâm Pháp và thực hành theo. Nếu như đọc không hiểu, mãi mê hoặc không lý giải được, đó không chỉ vô ích, nếu nghe theo lý giải sai mà khiến bản thân đã vào ngục tu “đố mê” còn chưa biết, vậy thì càng đáng bi ai. Bởi vậy, Tần Chính quyết định bắt đầu từ hôm nay đem mười luận giảng Kim Cang Kinh, quyết chí nói hết bổn nghĩa của kinh điển, nối tiếp quá khứ vị lai, chư vị độc giả đừng nên ngông cuồng dựa theo cảm tình, nếu chư vị thực sự cầu chứng chân lý của sinh mệnh, thăm dò chân nghĩa của Phật Pháp, vậy thì hãy bình tĩnh thản nhiên đọc tiếp, nếu chỉ lấy tình huống sở thích để duy hộ người nào, Giáo nào, vậy ở trong mắt của người thực sự tu Đạo, thì bản thân rất là ngu xuẩn ngoan cố đáng cười. Lại đâu đáng kể. 2. Kim Cang Kinh còn gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, xưa nay giáo đồ Phật Giáo giải thích hai chữ Kim Cang là “bất động”, lại có người gọi là “như như bất động”. Thật ra sinh mệnh trong tình mê, giảng “bất động” ấy chỉ là một cách cưỡng ép, không tin thì chư vị quan sát đối chiếu “tâm” của mình. Một người chưa đạt đến hoàn toàn ở trong Pháp đang còn chứng thực viên mãn lại nói mình “bất động tâm”, hoặc là một loại tự lừa dối trông mà không thấy, hoặc là một loại tự nâng cao chính mình. Kim Cang là miêu thuật tỉ dụ cảnh giới chân thật của Phật tính bất biến, lại không phải là người đã cho rằng đặc tính của “đá kim cương” mà có thể đơn giản bao quát , đó là cảnh viên mãn của một chủng vô vi tự tại dung hoà đồng hóa tất cả lại không nhập vào tất cả, đối với người tu luyện mà nói là một chủng tối thượng trí tuệ, nên gọi là “bát nhã”. Lại bởi vì chủng cảnh giới ấy chỉ có tự nhiên mà đạt đến, nếu không có thực tu chân thật làm căn bản, nói một ngàn kể một vạn, rốt cuộc như là giảng mùi vị của trái lê cho người chưa từng ăn trái lê, giảng tuyết là thứ gì cho người chưa từng nhìn thấy cảnh tuyết, giảng mùi thơm say mê và mùi vị ngọt ngào của Ba La Mật (quả mít) cho người chưa từng đích thân thử qua mùi vị Ba La Mật (quả mít). 3. Kim Cang Kinh là một lần khi giải Pháp thông qua Tu Bồ Đề lẫn đại Tỳ Kheo giảng ra cảnh chân thật siêu thoát ngoài Tam giới của tính không tự tại, Phật tính vô lậu. Người trong quá trình tu luyện, thông qua đại Đạo Chính Pháp, kiên định thực tu, chỉ hỏi trao ra, không nói đến thu hoạch, thì tự nhiên có thể minh ngộ đạt đến, đạt đến thì tự nhiên minh bạch, đó không phải đến từ cầu bên ngoài, mà là kết quả tự nhiên mà nên của một chủng viên mãn tu vi Chính đạo. Trong một tầng thứ ấy, hết thảy Phật Đạo Thần đều là đặc tính ấy, là phổ thông như người có sẵn hình tượng con người, cho nên cũng không phải như rất nhiều người không rõ sự thật mà lấy tình người đoán mò vậy. 4. Vì là giải Pháp, chính là giải thích Pháp lý trong khi trả lời, nên tất nhiên là có tính châm đối. Thì giống như một giáo sư tốt giải đáp nghi vấn cho học sinh, khi họ đột phá tầng thứ khiến họ buông bỏ ràng buộc của cái khung cố hữu, giống như khai mở chánh kiến tiến trình mới. Thí dụ, giáo sư Vật lý mới đầu giảng kinh điển lực học Newton, đã giảng rất nhiều định nghĩa, định nghĩa ấy rất quan trọng trong giai đoạn này với học sinh để nắm vững quy luật vật lý cho thế giới mặt phẳng, hơn nữa xác thực có thể giải quyết rất nhiều vấn đề hiện thực. Nhưng bất cứ một loại định nghĩa có hạn ở trong khung của định nghĩa, khi vượt ra khỏi phạm vi định nghĩa, thì ngược lại trở thành chướng ngại to lớn đến việc hướng tới để tìm tòi chân lý. Cho nên thì phải “Phá”, tỉ dụ như “luận tương đối” của Einstein (luôn tiện nói một chút, cách nói này đều rất là không chính xác, không phải luận tương đối của Einstein, chỉ bất quá là ý Thần an bài ông ta khai mở cho người lý luận này, ông ta chỉ bất quá là đem chân lý của tầng diện nhất định vạch mở ra mà thôi). Tương tự, Thích Ca giảng Như Lai Pháp, không phải Như Lai Pháp của Thích Ca Mâu Ni, cũng chỉ bất quá là ý Thần an bài ông ta đến để giảng đạo lý này cho nhân loại, thật ra ở sinh mệnh ở tầng thứ ấy đều biết rõ [Như Lai Pháp] giống như người biết ăn cơm vậy. Thích Ca cũng giảng, Như Lai như số cát của Sông Hằng. Nên người thông minh tuyệt đối sẽ không dùng tình cảm để cản trở chính mình, mà là bình tĩnh lý trí mà phân tích, cầu được chân Đạo, phải như chúng sinh ngu muội bất quá suốt đời đầu óc đầy kinh điển, đến khi chết không một thu hoạch. 5. Bởi vì giải Pháp, đối với đại Tỳ Kheo mà nói, thì không cần phải giảng sự quan trọng của bài cơ bản như chịu khổ, hành thiện, tiêu nghiệp v.v… nữa. Năm xưa Thích Ca truyền Pháp, tất nhiên cũng là “lấy nhân tượng hành tại thế gian, lấy nhân ngôn thị Pháp lý”. Đó là thiên định, nhất định, vì sinh mệnh của nơi người là đã trở nên không tốt rơi xuống, là từ bi của Thần cho người thêm một lần cơ hội, nên đã tạo dựng không gian mê này, cho con người một thân xác, năng lực thấp và phiền não này, Thần Thức đều bị phong tỏa, mong trong mê mà cầu nhất ngộ, có thể ngộ được thì đề cao và trở về, ngộ không ra trở nên càng hư xấu thì tiêu hủy. Nên không có một Sư Phụ chính truyền nào lại lấy phương thức Thần thông đại hiển đến truyền Đạo truyền Pháp. Nếu như vậy thì không tồn tại vấn đề ngộ trong mê, dưới tình huống không còn mê nữa thì kẻ thập ác bất xá cũng muốn đến tu, những ma làm loạn cũng sẽ theo mà tu, ai mà không tu? Nhưng mà, làm như vậy thì trước hết người truyền Đạo truyền Pháp đã phá hoại Pháp lý của vũ trụ, ông ta phải rớt xuống trước tiên, phải chịu hủy diệt, ai dám làm như vậy? Vì quá khứ cho người biết được cảnh giới tối cao của Phật chính là Như lai, cao hơn nữa là không cho phép con người biết được, vũ trụ có nguyên tắc “ẩn” mà, người hậu thế không rõ nguyên nhân thì cho rằng Như lai là “cao nhất”, họ dùng quan niệm đẳng cấp của người, tâm biến dị háo danh để đo lường những việc ấy, mãi muốn truy cầu cảm giác siêu thường hơn người. Kết quả khiến bản thân càng thêm mê hoặc một cách đáng cười. Họ không hỏi: giả sử Như Lai là cao nhất, Như lai là thành tựu như thế nào? Nhất định còn có Pháp thành tựu Như Lai? Cho nên nói, sau này Phật Giáo truyền đến Trung Quốc, mãi có tranh đấu với Nho Giáo nguyên thuỷ và Đạo Giáo, có lúc rất là kịch liệt. Trong lịch sử Tam Võ diệt Phật, chính là lúc rất là cực đoan, đương thời Tam Giáo thường xuyên biện luận, trong cung đình còn có Hoàng Đế đích thân chủ trì, vậy những đồ đệ Thích Giáo soạn ra một số câu chuyện, như là Thích Ca hạ thế khi sanh ra liền đi bảy bước, nói “Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn” đó là phỉ báng Phật Thích Ca Mâu Ni, không phải ca tụng ông, nếu ông làm như vậy, trước tiên ông sẽ rớt xuống. Huống chi phải dùng đến phương thức thông qua đầu thai người chuyển sinh, còn bao gồm nội hàm rất là quan trọng: để hiểu được nỗi khổ con người cho nên từ bi, thông qua đích thân thể nghiệm, “đồng tác” với người, mới có thể hiểu rõ thế giới nội tâm của người, nỗi đau khổ thực sự và tánh tình, đặc điểm, trạng thái của họ. Sau khi khai ngộ mới có thể cứu độ họ một cách châm đối. Chính vì bởi bề ngoài sau khi Phật Đà đắc độ, người thường nhìn không ra, vì con người mê hoặc trong hành thức nhục thân này, năng lực rất là thấp kém, cho dù là tận mắt nhìn thấy Thần thông, đương thời chỉ kích động một chút, qua rồi lại nghi hoặc, chính là lý do như vậy. Khi Thích Ca truyền Pháp, có người tin, có người không tin, thậm chí có kẻ hãm hại ông cũng có. Dù rằng những người tin ông cũng chia làm Thượng, Trung, Hạ sĩ. Những bậc thượng sĩ vừa nghe Phật Đà giảng chứng Chánh Pháp, bản nguyên tâm hội, thì sanh tịnh tín, làm theo yêu cầu của Thích Ca, xuất gia tu hành, theo Phật Đà, cố gắng chuyên tâm tinh tấn cầu Chánh giác viên mãn. Những đệ tử thường xuyên bên cạnh Thích ca, chính là đại Tỳ Kheo đã thường xuyên nói trong sách, chính là đệ tử thượng tọa bộ, còn những bậc trung sĩ hoặc có tín tâm mà vẫn còn lo lắng e ngại hay công danh của thế tục buông không khỏi, chính là đệ tử hạ tọa bộ đương thời, ngoài ra còn có những người ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới theo kiểu nửa tu nửa không. Xưa nay Thánh Giác truyền Pháp phổ độ một cách rộng rãi, cũng đều tránh không khỏi tình huống như vậy. 6. Đã là như vậy, vì Phật Thích Ca đã tọa dưới cây bồ đề bảy bảy bốn mươi chín ngày dứt bỏ phiền não, nhân dục và chấp trước và đạt khai ngộ, chứ không phải một bước thì đạt đến Quả vị Như lai, trong truyền Pháp bốn mươi chín năm sau này, ông cũng là dần dần thăng hoa, mãi đến tuổi già đạt đến cảnh giới Như Lai, bộ kinh này chính là ông giảng khi đến tuổi già, do vậy đối với đồ đệ Phật Giáo mà nói đương nhiên là Như lai giảng Pháp, rất là quan trọng. Rất nhiều người cho rằng Thích Ca chính là thông qua đã tọa bảy bảy bốn mươi chín ngày dưới cây bồ đề mà khai ngộ, nhưng đã quên mất tu hành trước đó và sáu năm khổ hành của ông, thật ra là quá trình hoàn thành tiêu giảm nghiệp lực của sinh mệnh. Sau khi Thích Ca khai ngộ, đầu tiên truyền chính là Pháp La Hán, bài vở trong đó rất cơ bản, con đường trọng tâm của Pháp ông ta chính là “Giới Định Huệ”. Khi Thích Ca tại thế, Ấn Độ còn chưa có văn tự, năm xưa Thích Ca dẫn đệ tử cũng không cần tín đồ đọc kinh sách, vì không có kinh sách mà đọc, mỗi ngày chính là ba sự việc: Thích ca giảng Pháp, sau đó dẫn họ đi khất thực, kế tiếp là đả tọa thực tu, tu thiền định, mỗi ngày đều như vậy. Thời kỳ đầu, Thích ca dẫn đệ tử tu hành trong rừng, trong hang núi, mỗi ngày một bữa ăn, ngủ dưới gốc cây, mỗi ngày chỉ là gần trưa đi xin một bữa cơm. Sau đó thì là trường kỳ đả tọa tập thể nhập thâm định, đó rất là khổ sở. Bởi vì khổ cực, một số đệ tử vẫn chịu không nổi, ban đêm âm thầm cởi bỏ áo cà sa chạy về nhà, đã có lúc xảy ra vậy, bất luận môn Chánh Pháp nào, đều sẽ không ép người ta phải theo, đó cũng tất nhiên trở thành khảo nghiệm và một bộ phận cơ chế của đào thải: Đạo Pháp tự nhiên, chỉ có kiên định thật tu, bền bỉ bất khuất, cuối cùng mới có thể khai ngộ đắc Chánh quả. Lúc ấy bởi vì luyện công tập thể, thực phẩm cần thiết có lúc sẽ rất ít, thêm vào đó Ấn Độ vốn là khí hậu ẩm ướt, người rất thích ăn hành gừng tỏi .v.v… Lúc bình thường con người sinh hoạt thế tục vẫn chưa cảm thấy có vấn đề lớn, chỉ là miệng có mùi lạ (do ăn hành gừng tỏi) mà thôi, cũng vì nhân tâm không tịnh. Học thuyết ngũ hành cổ xưa của Trung Quốc, chú trọng ngũ hành phối hợp ngũ khí, vạn sự vạn vật trong cảnh giới này của thế giới chúng ta là có thể giải thích thông qua lý ấy, người thường cảm thấy hành gừng tỏi sẽ có giúp ích trị liệu cho một số bệnh, là bởi vì bản thân nó bao gồm chút độc tố, thuộc về âm tính, khí của nó rất đục, khi người trong thiền định thâm sâu, mùi vị ấy sẽ khiến người sặc, ảnh hưởng đến người nhập định. Nên năm xưa ngoại trừ ác đạo minh hiển của tham, dâm, sát .v.v… xem hành gừng tỏi là “huân”, không cho phép ăn, huân chính là hỗn. Năm xưa xác thực là không có cấm thịt, thịt cũng không bị coi là “huân”, vì dân số Ấn Độ đương thời không như hiện tại, rất là ít người. Nguyên Ấn Độ Lục địa nhỏ tổng cộng hơn hai trăm quốc gia, rất nhiều nơi đều là rừng rậm nguyên thủy, phương thức canh nông còn chưa phổ cập, thức ăn rất hiếm, thậm chí rất nhiều người nhờ săn thú mà sinh tồn, vì Phật Thích Ca cần để đệ tử buông bỏ tâm niệm của thế tục, dùng phương thức đoạn tuyệt nhanh chóng tham sân si dục trong nhân dục, ông dùng dựng nên chế độ xuất gia, vì phải giải quyết vấn đề thực phẩm, dẫn theo đệ tử khất thực hóa duyên, người khất thực không thể lựa chọn thực phẩm, thì đương nhiên không thể chọn thịt hoặc không phải thịt. 7. Nói đến khất thực. Sau này Phật Giáo gọi là hóa duyên, thật ra khái niệm hoá duyên rất lớn, bởi vì phương thức trạng thái tu luyện bất đắc dĩ đương thời mà chọn lấy phương pháp khất thực, đồng thời trong quá trình khất thực, các đệ tử phải đề cao tâm tính, nối duyên kết duyên, lấy phương thức khác nhau cho chúng sinh kết thiện duyên. Vì đồ đệ Phật Giáo chọn lấy phương thức cứu độ chúng sinh, nhất định sau khi thành tựu có thể lợi ích càng nhiều chúng sinh, trước mắt mượn họ một bữa cơm, sau này báo trả siêu thoát trùng sinh, cũng là một viên dung từ bi của Phật Gia: vừa giải quyết sự cần thiết trên phương thức tu luyện, lại kết nạp thiện duyên sau này cứu độ chúng sinh. Sau này Phật Giáo truyền đến Trung Quốc, bởi vì cao tăng Phật Giáo Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung thổ do Minh Đế Lưu Trang thời Đông Hán mời đến, quan niệm đại đa số nơi Trung Quốc lại cho rằng “khất thực” thế nào cũng không thể nào là người đại đức đại trí, vả lại rất khinh thường, cho rằng là không lao động mà ăn, nên đã xuất hiện vài sự thay đổi trên hình thức tu hành của Phật Giáo. Từ nơi Hoàng tộc mà nói, mời bậc Thánh đến để đi khất thực, cảm thấy không có thể diện, nên do quốc gia xây nơi cư ngụ cho chúng, lẫn do quốc gia ban đất và cung dưỡng, vì đầu tiên nghỉ chân tại Hồng Lư Tự (chính là khách sạn dành cho ngoại giao). Lại vì Lưu Trang trong mộng thấy ngựa trắng mang kinh sách đến từ phía Tây, nên đặt tên “Bạch Mã Tự”, từ đó về sau nơi cư ngụ của hoà thượng đều thêm chữ “Tự”. Vì muốn Phật Pháp được truyền bá tốt hơn nơi Trung Thổ, Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan cũng phải thích nghi với hoàn cảnh đương thời, cầm bát khất thực sau này chỉ là khi vân du mới dùng đến. Nhưng lúc ban đầu chế độ “vân du” rất là nghiêm ngặt, cũng là “một bình một bát”, chẳng có vật khác. Tại viện tự, vì Phật Giáo giảng xuất gia (‘tứ đại giai không’ do Thích ca giảng có nội hàm cao hơn, không phải không có, mà là hoàn toàn không chấp trước, sau này trở thành câu thiền trên miệng của họ). Xuất gia vô gia, viện tự chẳng phải là nhà, cũng không xem như là nhà, mà là phải xem như trường học. Viện tự chính là tùng lâm, đại học của Phật Giáo, chính là học đường của Phật gia, đó mới là thực chất. Đã là trường học thì có một quá trình dạy học và thăng cấp, viện tự thời đó, chế độ rất là nghiêm khắc, cũng chiểu theo ngày ăn một bữa. Thiền đường đọc kinh, Thiền phòng đã tọa, Thiền phòng đều là thông suốt, cùng nhau tinh tấn, vì để mở mang trí óc, hai tôn giả đem bộ phận then chốt trong giáo nghĩa chủ yếu của Phật Đà, thông dịch ra một bản đọc đơn giản chủ yếu, đó chính là: Tứ thập nhị chân kinh, vì nhập Phật môn, thì mục đích rất là minh xác, chính là kiên định dũng mãnh cầu Chính giác, tận sức nhanh chóng phá mê khai ngộ, chịu khổ thực tu, đoạn tuyệt dục, tiêu diệt tục đương nhiên chính là ý nghĩa tất yếu, đối với thực phẩm cho đến nơi cư ngụ, là không lựa chọn. Miếu đường xưa kia, cũng không có tượng khắc nhiều như vậy, chủ yếu là kinh điển. Sau này từ từ từng bước một, vì Phật Giáo đi vào giai đoạn “tướng Pháp” (chính là con người không có ngộ tính linh minh cao vậy, ô nhiễm của hậu thiên càng nặng hơn, phải tìm một gương mẫu, lợi dụng trang nghiêm bề ngoài mà thu hút chúng sinh đến tu học Phật Pháp), do vậy kiểu cách kiến thiết của viện tự, tăng thêm giáo cụ và giới luật tiến thêm bước hoàn chỉnh, các đại đức trong các thời đại đều không ngừng xây dựng hoàn bị. Xưa kia hòa thượng không nấu ăn, sau này dựng nên viện tự, khi nấu ăn mùi thịt thơm bay đến rất hấp dẫn người, vấn đề này cũng nổi cộm lên. Vì để bảo đảm thanh tịnh của định thiền và đọc kinh, sau này đã quy định không cho phép ăn thịt. Thịt dần dần ra khỏi bàn ăn của đồ đệ Phật Giáo, tự nhiên cũng mở rộng ra một số lý luận, đó cũng là khả năng biểu hiện của Phật Pháp viên dung. Nhưng ý nghĩa không cho ăn thịt, là đừng để người khởi chấp trước mạnh mẽ với thịt, chứ không phải là không ăn thịt là đại diện cái gì. Bởi vì bản thân chấp trước đối với thức ăn thế gian chính là một chướng ngại mạnh mẽ, là quan ải thuộc tính ngu muội của thân xác. Sau này có những tín đồ Phật Giáo đã làm món ăn chay nào là “Mãn Hán toàn tịch”, “yêu hoa xào chay”, “thịt nạc hầm chay” .v.v.. còn mạnh dạn mà nói: chúng ta không có ăn thịt, thực sự là hoàn toàn đảo ngược định nghĩa không ăn thịt, chấp trước đối với mùi vị thức ăn còn tệ hại hơn nữa, lại còn cảm thấy tự bản thân “tu được thanh tịnh”. Trong tầm mắt của người thật sự tu Đạo, đó là rất đáng cười, giống như một người nghiền cờ bạc, sau này tuy nhiên vì hạn chế không đánh bạc nữa, nhưng vẫn còn lấy hột bắp hoặc đá nhỏ thay tiền vậy, trong tâm không có thay đổi. Rằng: tôi đã không đánh bạc nữa, nhưng then chốt ở chổ tâm đánh bạc của bạn vẫn còn hay không? Không tính trong thực phẩm, ăn mặc trên thế gian đều là vô chấp mà tự nhiên viên dung, cũng không thể nói mặc áo cà sa màu vàng xám như đất, thì đã là “thanh tịnh”. Phật mặc cà sa màu vàng dịu mắt, Đạo mặc áo bào màu tím hoa lệ, họ chấp trước không? Họ vẫn là Phật Đạo, họ không có những khái niệm của bạn, mà một người tâm phàm không biến đổi, cho dù bạn mặc quần áo thô, ngủ giường đất, ăn cơm thừa, nhưng trong tâm không bỏ danh lợi tình, đó bất quá là trạng thái ngụy tạo, chỉ là giả tu. 8. Tiểu Thừa là căn bản của Đại Thừa, giống như tiểu học là căn bản của đại học, với cách nhìn của những người không hiểu rõ, tiểu thừa “trước tướng”, đại thừa giảng “không”, họ dùng tham lam và tư niệm của con người mà tính toán, đương nhiên tu Đại thừa “cao hơn”, vậy cao ốc năm mươi tầng lầu, bạn hy vọng một bước bay đến nóc, bạn chỉ thích tầng thứ năm mươi, nhưng mà không cần sức để bước lên bốn mươi chín tầng trước đó sao? Đạo lý đơn giản như vậy! Giống như Nho gia đại thành chi học. “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ như chí thiện”, tốt biết mấy, một bước đạt đến Thánh hiền. Nhưng nếu bạn không có căn bản “tiểu học”, huấn luyện dưỡng thành tâm Pháp lễ nghĩa chín chắn và lý tính, hiếu đệ chi đạo hóa trong tự nhiên, bạn bất quá chỉ đọc câu, đọc bài, thực là tiểu nhân ngụy quân tử, cho nên Phật Giáo trong giai đoạn Chính Pháp, tướng Pháp, cũng chính là khi Pháp của Thích Ca chưa bại hoại. Bậc chân tu đều biết rằng Đại thừa phải bắt đầu làm từ Tiểu thừa, chịu khổ hành thiện, khổ tu thiền định, chẳng phải ý bậy bàn luận Thiền. Thiền ấy thực ra chính là tập trung bao quát luận thuật của kết quả của không tính. Nhưng “không” ấy, không phải “giả không”, cảnh chân không là tràn đầy tất cả của viên mãn Pháp tính, đạt đến cảnh giới này thì dưới họ không gì không bao hàm, không gì bị bỏ sót, tự nhiên không gì mà không biết nhưng lại không gì mà chấp trước vào. Tỷ dụ: tại cảnh giới Như Lai, đối với tất cả dưới Như lai, nguyên lý của thế giới Đại Thiên, những suy nghĩ của tất cả chúng sinh, kể cả tư tưởng của trâu ngựa ông đều biết được, nhưng tư tưởng của ông sẽ không vào trong đó, Như Lai cũng không đích thân độ chúng sinh, là Như Lai có nguyện vọng, việc cụ thể Bồ Tát đi làm. 9. Dưới tình huống Pháp của Thích Ca chưa hoại, nếu vũ trụ không phải đang ở thời kỳ Chính Pháp chỉnh thể, vậy chiếu theo Giới Định Huệ của Thích Ca mà tu nghiêm khắc là có thể tu thành đạt. Vì Thích Ca đến từ tầng thứ sáu của vũ trụ, thế giới Cực Lạc mà tín đồ Phật Giáo nói đến, tại trung tâm của tầng thứ hai vũ trụ cho nên sự tu trì của thế giới Cực Lạc, người sau không lý giải được, hình như chiểu theo ông giảng Pháp môn Tịnh Độ Tông của Kinh A-Di-Đà tham ngộ, niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể khai ngộ, thì người ta lý giải như vậy một cách đơn giản, thậm chí có những tín đồ Phật Giáo không hiểu tường tận đem ra gạt người gạt ta. Thật ra tầng thứ của Thích Ca cao vậy, ông trực tiếp xuyên việt sáu tầng vũ trụ mà xuống đây, “thế giới Đại Phạm Thiên” ông sáng tạo từ tầng thứ sáu của vũ trụ đem Pháp rất thâm sâu đến, đồng thời cũng phải khiến rất nhiều chúng sinh trong thế giới Phật từ cảnh giới của ông trở xuống được cứu độ, đó là nguyên nhân ông giảng kinh về những thế giới ấy. Vì người không biết, chúng sinh từ thế giới nào rơi xuống trước kia, đương nhiên cũng khát vọng về lại cố hương, mà thế giới của các Thần Phật khác, với kết cấu bản nguyên của bạn đều khác nhau, như bạn sanh ra là người Đông phương, đã quen với tư duy, sinh hoạt của Đông phương, cố đem bạn để sinh hoạt tại Tây phương, bạn không vừa ý, hơn nữa cha mẹ chân chính ấy của bạn có thể không buông bạn đi, cho dù ý tốt của người khác, để bạn có cuộc sống tốt hơn chút, cha mẹ ấy sẽ không chạy theo họ đòi người sao? Vậy họ rất có thể bị xem như là kẻ bắt cóc, lòng tốt làm việc xấu, Thần Phật là không làm như vậy. Thế thì Thích Ca giúp rất nhiều Phật dưới tầng thứ ấy viên dung thế giới của họ và nguyện vọng của họ, nhưng những Phật ấy khả dĩ không có đích thân đến thế gian làm sự nghiệp phổ độ như Thích ca, như thế thì nguyên con đường hình như là Thích ca tu vậy, tu mãi đến tầng thứ sáu của vũ trụ (chỉ có thể nói như vậy), thuận theo đường thì rẽ qua thế giới Cực Lạc và Lưu ly, vậy thì thuận đường dẫn về, nguyện vọng của bạn mãi nhớ Phật A Di Đà, thì A Di Đà cụ thể đến giúp bạn, Pháp thân của họ sẽ hộ Pháp cho bạn, chăm sóc bạn, bảo hộ bạn, giúp bạn diễn hoá công, đến khi đi, tiếp nhận bạn tại thế giới Cực Lạc. Nhưng vì đặc điểm của nguyên con đường, quy tắc là Thích Ca mở: bạn phải chiểu theo Giới Định Huệ mà tu, dù niệm tụng Phật bề ngoài rất đơn giản, nhưng tâm Pháp chân chính và tu vi ắt phải tuân theo Giới Định Huệ, đó cũng là không nói mà tự hiểu. Hơn nữa, một thiên cơ, chính là nói: Phật Đạo Thần chỉ độ người của thế giới họ rơi xuống, đó không phải là Phật Đạo Thần hình như minh triết giữ thân, thật sự là họ giải quyết không được vấn đề của thế giới Phật khác, trên trời tầng ấy của Phật Như Lai. Chúng ta cho thí dụ, như là đại luật sư, nhưng đại luật sư có chia thành công tác, có sở trường, có người giỏi khéo về vụ án loại này, đối với giải quyết những vụ án hiểu biết rất ít hoặc thiếu kinh nghiệm, mà bạn lại tìm sai luật sư, tuy nhiên có tiếng tăm, nhưng không nhất định có hiệu quả với vụ án của bạn so với luật sư tầm thường, chính là ý như vậy. Nên Phật Đạo Thần từ bi, có thể giúp bạn, bạn niệm tụng họ, sùng bái họ một cách chân thành, họ có thể điểm hoá hoặc an bài cơ duyên cho bạn, thật sự giải quyết được tất cả vấn đề, chính là hồng truyền của Pháp vũ trụ. Mà năm xưa trong phạm vi nhỏ, Thích Ca đến từ tầng thứ sáu của vũ trụ, cũng có thể tự nhiên viên dung Cực Lạc, Lưu Ly v.v… 10. Khi năm xưa Thích Ca giảng bộ kinh ấy, ông đã vào tuổi già, giảng sau khi đã chứng ngộ quả vị Như Lai, vì khi giảng bộ kinh ấy ông nhấn mạnh sự quan trọng phi thường của kinh ấy. Năm xưa mười đại đệ tử của ông như Xá Lợi Phất, Đại Già Diệp, Mục Kiền Liên.v.v… thì rất là nắm vững, vì lúc ấy Ấn Độ không có văn tự, chỉ có thể nhờ họ truyền miệng lẫn nhau. Dù trí huệ của họ rất cao, trí nhớ rất tốt, cũng khó tránh có nơi sai biệt trong ký ức, huống chi Thích Giáo sau năm trăm năm Thích Ca không tại thế (qua đời) mới dịch, thời đại A Dục Vương Phật Giáo mới bắt đầu được quốc gia tôn sùng, điều kiện tốt hơn một chút, vậy trong truyền khẩu lẫn nhau dài đến năm trăm năm, có thể có phần nhớ thiếu sót, nhớ sai lệch hoặc nhầm lẫn? Khẳng định là sẽ có. Có bao giờ có những đệ tử sau này đem những điều lý giải của chính mình lẫn lộn vào trong ấy? Khẳng định là sẽ có. Cho dù Phật Giáo giai đoạn “Chính Pháp” đệ tử sẽ rất là thận trọng những sự việc này, nhưng trong quá trình truyền Pháp, tất nhiên sẽ khó tránh những điều ấy. Kim Cang Kinh thể hiển sự việc ấy một cách rõ ràng. Người đời sau đem kinh chia thành ba mươi hai đoạn, từ đoạn thứ mười bảy, bắt đầu xuất hiện lập lại rất nhiều, thật ra chính là có người hồi tưởng ra những điều không giống nhau. Tổ Sư của họ lại đều là đệ tử bộ thượng tọa của Thích Ca, người đời sau phân biệt không rõ tại sao, vậy thì ở sau lại thêm những điều đó để cho tham khảo. Mục đích là đừng để thiếu sót, lỡ may Thích Ca giảng còn có ý nghĩa đó? Sau này khi Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh sách, chữ trong những kinh bối diệp cũng đã xuất hiện tàn khuyết.Trong quá trình phiên dịch, bởi vì Cưu Ma La Thập dịch kinh sách, đa số đều là bản thân truyền thụ bằng miệng, để đệ tử của ông ghi xuống, những lời nguyên là có tên X hồi ức lại, tên X nói như vậy, bị họ một loạt bỏ đi, mà những gì Huyền Trang phiên dịch, cũng tham khảo theo bản dịch của Cưu Ma La Thập, do vậy người đời sau một mặt đọc không hiểu ý nghĩa kinh mà sai lầm mê hoặc trong ấy, mặt khác vì tác dụng của cảm tình, dù nhìn thấy lập đi kể lại cũng không dám nghi ngờ, còn duy hộ bằng cảm tình, tưởng rằng đang duy hộ Phật Thích Ca Mâu Ni. Thật ra Cưu Ma La Thập cũng vậy, Pháp Sư Huyền Trang cũng thế, trong quá trình dịch thuật tất nhiên cũng thêm vào lý giải đối với Phật Pháp của họ. Trong quá trình chép truyền sau này, còn có bởi vì bối cảnh phân tranh duy trì tiếp tục mãi của Tam Giáo từ khi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc, vì giành hơn thua nên lẫn lộn câu văn vào đó. Như vậy, thì khiến bộ kinh ấy vì trong cách dịch có nơi quá đơn giản tóm lược, có nơi thêm vào quan niệm của cá nhân mà không phải là nguyên văn của Phật Đà, có chỗ thêm vào nhân tố phân tranh cầu thắng của Tam Giáo đương thời, có chổ dịch thuật không chính xác, khiến bộ kinh ấy trở thành một trong mấy bộ kinh điển chứng giải khó nhất từ xưa đến nay. Hôm nay, e ngại rằng những văn tự giải kinh ấy không ai nói ra được con số chính xác, nhưng thực sự tìm được ý nghĩa sâu xa thì rất ít, mà có thể hiểu được nguyên nhân, phế bỏ đổi mới lại, hoàn toàn đem sách ấy giảng rõ ràng, đó chỉ có người tu luyện Đại Pháp. Trên căn bản thực sự, chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất rõ ràng, kinh sách có nhân tố ở phía sau, trong thời kỳ chính thường, phía sau là có Thần hộ Pháp, nên xưa kia người cũng biết được tụng niệm bộ kinh ấy đối với người thường cũng có thể được bảo hộ. Nhưng cổ nhân kính Phật, người thông thường không dám khinh rẻ Phật kinh, nên cần phải mời Cao tăng đại đức đến niệm kinh, mà không phải tự mình niệm. Chúng ta nhìn thấy Kinh văn Kim Cang lưu truyền trên thế gian hôm nay, thật là một trạng thái rằn ri, tất cả nơi phù hợp nguyên nghĩa của Thích Ca là ánh quang sáng chói, mà chỗ dịch thuật không chính xác nhưng chưa lẫn lộn sai lầm thì ánh sáng âm u hơn, mà chỗ người đời sau lẫn lộn sai lầm thì là đen tối. Vì nơi đến của Thích Ca tuy rất cao, nhưng trong Pháp lý của cựu vũ trụ, Pháp của ông ta chỉ có thể độ Phó nguyên thần ở bên ngoài tam giới. Đối với chủ thể đệ tử chân chính của ông, ông đã mở một tầng thiên tại tối thượng Tam giới trong giới vô sắc, gọi là Đại Phạm Thiên, mãi tại nơi đó trông chừng đệ tử của ông tích tụ uy đức to lớn trong nhiều kiếp chuyển sinh. Sinh mệnh rơi xuống của tầng thứ khác nhau, có thể mượn dùng nhân thể mà tu, cũng đã giúp viên dung những sự việc của thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly.v.v… Nhưng sinh mệnh của chủ thể, chưa từng nhảy ra khỏi Tam giới, đó cũng là là năm xưa ông từ bi giảng ý nghĩa chân chính của “thật vô chúng sinh đắc diệt Phật giả.” Bởi vì Thích Ca đến là dựng lập văn hoá của Phật để truyền Đại Pháp, ông suốt đời chịu khổ vô số, khi Đại Pháp hồng truyền, ông cũng đã an bài đệ tử chân chính của ông đến để đắc Pháp, sau khi thông qua đồng hoá Pháp của vũ trụ, ông sẽ dẫn họ rời khỏi Tam giới, đệ tử của ông thấp nhất cũng phải tu đến tầng thứ sáu của vũ trụ, đó là năm xưa dưới sự an bài của ông một cách có hệ thống. Đệ tử chân chính của ông đều là thọ ký, trên trán có một phù hiệu chữ . Người thực sự có công năng, liếc qua thì nhìn thấy, cho nên, không phải cạo đầu trọc, niệm hô câu thiền ngoài miệng “A-Di-Đà-Phật”, thì là đệ tử của ông. Đệ nhị luận trong Thập luận Kim Cang Kinh 1. Tiếp theo thì chúng ta cụ thể giảng chứng ‘Kim Cang Kinh’. Giáo đồ thực sự của Phật nhất định phải hiểu rõ. Phật thuyết Pháp giảng kinh, ông đều đã nêu rõ “Tất cả Pháp tôi giảng, ví như chiếc bè, Pháp còn trọng nên xả, huống chi không phải Pháp” chính là phải khiến người thông qua nhận thức chân lý của vũ trụ mà ông giảng, dùng để tu luyện. Thật sự rõ đạo khai ngộ, mà tuyệt đối không phải đem lời ông giảng thờ cúng bằng cảm tình của người, bản thân không hiểu ý nghĩa chân thật ấy, chỉ biết đọc thuộc lòng một cách mù quáng, không cách nào đem nội hàm chân chánh của ông giảng để cho tu thân luyện Đạo (người xưa làm như vậy, vì là tu luyện Phó nguyên thần, chẳng phải biết rõ ràng Chủ Ý Thức tu luyện; trên thực tế trong lịch sử không có người tu thành đạt, tu đạt chỉ là phó nguyên thần không vào Tam Giới mượn nhân thể này mà tu, thành tựu trong lịch sử xưa nay đều là như vậy). Khi thực sự có người có thể khai mở chân kiến, lại do đụng chạm đến danh lợi tình của con người, động đến tâm của người phàm tục mà phản đối một cách không lý tính, thật ra cũng bất quá là dùng nhãn hiệu của Phật, trong thân tâm luôn luôn duy trì bảo hộ lợi ích và hư danh của bản thân, cảm tình và kiêu ngạo ngông cuồng của bản thân mà thôi. Từ xưa đến nay giải chứng bộ kinh ấy đã rất nhiều rồi, nhưng người có trí tuệ cần phải biết, chân lý là bất biến, không vì sự sai biệt thời gian xưa với nay mà khác nhau, người xưa chế tạo ra không nhất định là vàng ngọc tinh xảo, họ cũng chắc chắn có rơm rác đất phân của Lhasa (thủ phủ của Tây Tạng), những điều ấy bạn không thể không thừa nhận. Người thời nay nếu nhìn thấu rõ chân lý của vũ trụ, họ giảng ra cũng giống như là lời thuật đại đạo vạn cổ bất phế. Nên Khổng Tử nói “Thuật mà bất tác, riêng ví tôi với Lão Bàn.” 2. Trước hết chúng ta xem đoạn thứ nhứt: “Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá vệ quốc Kỳ thọ cấp Cô Độc Viên, dữ đại tỳ khưu chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời Thế Tôn thực thời; trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực, ư kỳ thành trung; thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạm thực ngật, thu ý bát, tẫy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.” – (Tôi nghe như vậy: Một hôm đức Phật ở nước Xá Vệ tại rừng Kỳ Đà trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ Kheo là 1250 vị. Khi ấy gần đến giờ ăn của đức Thế Tôn, ngài đắp y mang bát vào Đại Thành Xá Vệ khất thực. Trong thành ấy, ngài theo thứ lớp khất thực xong trở vệ nơi chúng ở. Ăn cơm xong ngài dẹp y bát, rửa chén rồi trái tòa ngồi.) “Như thị ngã văn” ý là bộ kinh này là tôi đương thời từ nơi Phật nghe thấy được. Tại sao phải ở trước đó thêm vào bốn chữ này? Vì năm xưa trong quá trình Thích Ca dẫn đệ tử truyền Pháp, cũng đã phát hiện một vấn đề, chính là các đệ tử khi giúp truyền Pháp độ người, luôn luôn đem những điều Phật giảng thuận miệng nói ra, mà người khác không biết rõ là ai giảng, như vậy một mặt tạo thành sùng bái sai lầm, mặt khác, bởi tu vi của đệ tử có hạn, họ chuyển thuật lời của Phật Thích Ca, lại không có nêu rõ đó là Thầy giảng, thì đã không có nhân tố và lực lượng của Phật Thích Ca trong ấy, cá nhân lại còn bởi vì sùng bái của chúng sinh trong mê mà nẫy sinh tâm lý hiển thị và vui mừng, đó là tâm hướng rất là xấu, đi đến ngược Sư loạn Pháp một cách vô ý. Thậm chí dần dần đem những điều đã ngộ trong cảnh giới tương đối thấp của cá nhân trộn nhau với Pháp của Thích Ca giảng, thì sẽ rối loạn rất nhanh Pháp của Thích Giáo, giống như Nho Giáo sau khi Khổng Tử mất, một số đệ tử đem Hữu Tử thay thế vị trí của Khổng Tử, vì họ cảm thấy lời nói Hữu Tử giống như Khổng Tử. Sau này mới phát hiện sai lầm không đúng, thủy tinh và đá kim cương, ngoại hình giống nhau hình như phản chiếu ánh màu giống nhau, nhưng chất cấu tạo là hoàn toàn không giống nhau. Nên trước khi Thích Ca viên tịch niết bàn đã giảng với đệ tử hầu bên cạnh một bộ kinh điển, cũng là rất quan trọng trong cuối cùng của cuộc đời ông, gọi là Đại Niết Bàn Kinh, trong bộ kinh đối với Thích Giáo truyền như thế nào sau khi ông Niết Bàn, các đệ tử nhận thức vị lai của Thích Giáo như thế nào có khai thị rất là minh bạch (Sau này truyền lại ‘Đại Niết Bàn Kinh’, có những tự viện đã tàn trữ đến ba mươi sáu quyển, thật ra rất nhiều đều là người đời sau ngụy thác ngụy tạo, thử nghĩ Phật Đà trước khi lâm chung giảng nhiều lời như vậy chăng? Đâu có nhiều lời giảng như vậy? Thì như Chu Hy khi lâm chung nói những lời với đệ tử, cũng chỉ là vài chục chữ, đều là giảng chủ yếu nhứt để tu tâm thân thành Thánh. Xưa nay Thánh hiền đều là như vậy). Bộ kinh ấy có ba phương diện lớn cần nêu lên để người đời sau chú trọng. Thứ nhất chính là liên quan đến vấn đề Phật Giáo lưu truyền, Thích Ca biết được Pháp của ông sẽ lưu truyền đến Trung Quốc, đã giảng nơi đông thổ Trung Quốc sẽ là Thánh địa của Pháp ông. Thứ hai là các tăng nhân Phật Giáo rất là quan trọng phải tu như thế nào sau khi ông niết bàn, vấn đề đoàn tăng quản lý như thế nào. Ông đã giảng ba điểm: (1)- Sau khi tôi niết bàn, các đệ tử phải “lấy giới luật làm thầy”, dựa vào Giới Định Huệ cố gắng tu hành; (2)- Phàm dẫn dùng Pháp của tôi giảng, nhứt định phải thêm “Như thị ngã văn” ở trước, để tránh lẫn lộn sai lầm. (3)- Đối với những kẻ loạn Pháp hoại Giáo, một loạt áp dụng “mặc tấn chi” (chính là mặc kệ họ, bài xích họ, không cho họ thị trường). Bởi vì năm xưa Thích Ca không có giảng thể hiện chân thực của Pháp lý vũ trụ tại tầng của ông, nguyên bộ ‘Kinh Kim Cang’, đối với chủ thể bề ngoài của người không rõ nguyên nhân, là hồ đồ không hiểu, vì chỉ có phó nguyên thần bất nhập Tam Giới mới hiểu rõ, mà bề ngoài của người, chỉ có một ít cảm giác, vì con người có tình cảm rất là phong phú, tác dụng của tình cảm sẽ sinh ra thành kiến rất mạnh mẽ, đối với những gì không biết rõ ngược lại vì mọi người bảo sao hay vậy mà trở nên càng thêm Thần Thánh. Thật ra năm xưa Thích Ca cũng bởi vì nhân tố của cựu nên thế lực hạn chế, rất nhiều việc không có biện pháp, nhưng ông để lại cho người Giới Luật, chiếu theo Giới Luật thừa hành, thật ra đã có thể đạt tiêu chuẩn của người tu luyện. Tuy nhiên chủ thể người của các đệ tử trong quá khứ 2500 năm lập đi lập lại chuyển sinh tu luyện, còn chưa chân chính đắc độ, đều là phó nguyên thần đắc độ, nhưng Phật Thích Ca biết được việc của Phật Chủ hạ thế Chính Pháp trong thời kỳ Mạt Pháp, ông đã an bài tất cả cho đệ tử của ông một cách tỉ mĩ cụ thể: đệ tử lập đi lập lại chuyển sanh mà tu, mỗi một đời người đều rất khổ, vì mỗi một đời người đều tại trong thân thể của họ tu ra bậc Đại Giác, vậy thì uy đức đã tích tụ là không thể đo lường, và sau khi ông viên mãn mãi không có rời khỏi Tam Giới, tại tối thượng Giới Vô Sắc của Tam Giới tạo dựng một tầng thiên gọi là Đại Phạm Thiên, luôn luôn trông chừng đệ tử của ông tại nơi ấy. Đệ tử của ông đều có thọ ký, trên trán có một phù hiệu nhà Phật chữ 卍, đến cuối cùng khi Đại Pháp truyền, an bài các đệ tử đồng hoá với Đại Pháp, cuối cùng ông sẽ dẫn đệ tử của ông rời khỏi Tam Giới. Đệ tử của ông thấp nhất cũng phải tu đến thế giới Đại Phạm (ở trên tầng thứ sáu của vũ trụ). Quả vị thành tựu là phi phàm. Bộ phận quan trọng thứ ba, chính là trong bộ kinh ấy đã giảng quá trình Thành Trụ Hoại của bộ Pháp Thích Ca truyền, tức là vấn đề Pháp vận. Trong 500 năm sau khi Thích Ca niết bàn, là thời kỳ “Chính Pháp” của Thích Giáo, đối với Chính Pháp nguyên cả vũ trụ của chúng ta nói hôm nay là hai việc khác nhau, đương thời đó chỉ là một bộ phận của tiểu vũ trụ Quy Chính, vả lại thể hiện tại thế gian, chỉ là Bà La Môn Giáo đã hoại, tại bộ phận ấy của Pháp Giới, do Phật Thích ca truyền ra Phật Pháp của ông để Quy Chính, như là đã đổi bộ áo mới, chỉ có thế thôi. Thí dụ, nếu một người còn là Tây Tử ngay tuổi trẻ, lúc đó đổi bộ áo tốt hơn cho cô, thay thế bộ áo cũ của cô, đó là một việc thật tốt, nhưng nếu như cô đã đi về tuổi đã già, sắp qua đời, lúc ấy, dù đổi áo đẹp như Tiên nữ, cũng là hoàn toàn vô ý nghĩa. Chính Pháp hôm nay sẽ là triệt để thay mới tái tạo, với tất cả của cựu vũ trụ hoàn toàn không có quan hệ, chỉ là phương thức áp dụng. Vì từ bi của Phật Chủ, đã cho sinh mệnh của cựu vũ trụ một cơ hội nhận thức và đồng hoá Pháp mới, mà không phải như quá khứ áp dụng triệt để hủy diệt rồi làm lại, chính là nói dựa vào những gì Thích Ca giảng, Pháp của ông trong thời gian 500 năm sau khi ông niết bàn, là thuộc về thời kỳ “Chính Pháp”, chính là Pháp của ông bị chúng Thần của vũ trụ xác lập là Chính Pháp Chính Đạo của Pháp Giới độ người, giai đoạn ấy, người có căn cơ vừa nghe Pháp của ông giảng, thì có thể nảy sinh tâm tịnh tin, thọ trì tu hành, tinh tấn để cầu Chính Quả, vì thời gian ấy Pháp chưa hoại. Thêm 500 năm, lúc bấy giờ thuộc thời kỳ “Tướng Pháp”, giai đoạn này, trạng thái của chúng sinh đã không như nhau, vì phức tạp của quan niệm và nhân tố khác, nhất định phải nhờ vào những tượng khắc hữu hình, trang nghiêm của Phật Tự, cách dạy hữu hình có thể khiến chúng sinh đắc ý sâu kín của Pháp, để có thể tu hành, giai đoạn này chính là giai đoạn Phật Giáo lưu truyền đến Trung Quốc, được thịnh hành tại Trung Quốc. Lại 500 năm sau, Pháp của ông giảng đi vào thời kỳ “Mạt Pháp”, chúng sinh nghiên cứu đến bạc đầu cũng rất khó mà thành tựu. Nguyên nhân căn bản đó là Pháp của ông đi vào giai đoạn hoại diệt, vậy đến hôm nay, thật ra đã là thời kỳ “Mạt kiếp” của Mạt Pháp, cho nên nơi nào cũng thấy đều là “hòa thượng” đeo lần chuỗi âm thanh màu sắc mùi vị ngũ độc câu toàn. Năm xưa Ma cũng minh xác báo cho Thích Ca, đến lúc Pháp của ông đi vào thời kỳ Mạt Pháp, họ sẽ phái đồ tử đồ tôn xuất gia trong Miếu, họa loạn Pháp của ông, đương thời Thích Ca đã rơi lệ, đã Mạt Pháp, ông cũng không có biện pháp. Nhưng ông biết được thời kỳ Mạt Pháp, Phật Tôn Di lạc sẽ hạ thế truyền Pháp mới. Bởi vì Phật gần Tam Giới là mười năm thay đổi một lần, năm xưa một trong các đệ tử của ông sắp tu thành Di Lạc, vậy trong Phật Giáo đồ đã làm hồ đồ, vì Di Lạc bổn là Thừa Phật, nhưng trong Phật Giáo lại luôn luôn xem ông là Bồ Tác, vậy là việc như thế nào? Thật ra chính là thời kỳ Mạt Pháp, Vô Thượng Vương vĩ đại của Vạn Vương Chi Vương, Phật Chủ của vũ trụ sẽ lấy danh hiệu Di-Lạc hạ thế truyền Pháp mới, đó là Pháp Giới có thể biết được, là “chức gọi” của ngài tại Pháp Giới, chính là “Chuyển Luân Thánh Vương” của “Vạn Vương Chi Vương”, cũng được gọi “Pháp Luân Thánh Vương”. Lịch sử chính là như vậy, Pháp Giới thì là như luân phiên canh gác, nhưng hôm nay không phải là bản sao của quá khứ, mà là nguyên cả vũ trụ đang Chính Pháp, người tu luyện chân chính là đang tu luyện trong Chính Pháp, đã vượt rất xa vấn đề một cá nhân tu luyện. Hơn nữa nhân tố liên hệ của mỗi người tu luyện, đã không phải là vấn đề của cá thể viên mãn nữa, những điều ấy thật ra đều có cho biết trước trong ‘Kim Cang Kinh’ của Thích Ca, chỉ là người ngày nay rất khó hiểu rõ, tiếp theo chúng ta đều cần giảng đến. 3. “Như thị ngã văn”, nguyên nhân đã là như vậy, vậy thì không chỉ nói ý kinh, nguyên ý để dẫn dùng lời ngữ của Phật Đà, mà còn minh thị cho người đời sau một sự thực rất minh hiển. Mọi người biết rằng, trong lịch sử ngoài Lão tử đã viết trực tiếp ‘Đạo Đức’ ngũ thiên ngôn, Trang Tử đã viết hàng loạt văn chương Thể Phú để minh Đạo ra, Pháp của Thích Ca, Giê-Su, Khổng Tử giảng. Thật ra đều là đệ tử của họ sau này ghi thuật lại, nhờ hồi ức mà ghi chép lại. Nên Thích Giáo là “Như thị ngã văn”, Giê-Su Cơ Đốc Giáo lấy “Phúc âm thư” của các đệ tử để ghi chép sự tích truyền Pháp và lời nói vụn vặt, Đại Thành Nhà Nho là lấy “Tử nói” để hồi ức thuật nói. Vậy thì đem đến một vấn đề, kinh điển ghi chép thuật lại của phương thức Thể [ngôn] Ngữ [ký] Lục, ngoại trừ “Tân Ước” đối với tình cảnh miêu thuật hơi tường tận, ‘Luận Ngữ’ của Khổng Tử đa số thuần tuý là một câu nói, hoàn toàn không có ngữ cảnh và ghi thuật tình hình đương thời, mà rất nhiều bộ phận của kinh sách Thích Giáo cũng là như vậy. Vậy thì sẽ dẫn đến người đời sau rất nhiều hiểu lầm, nhất là người đời sau, khi đọc mang theo chấp trước mạnh mẽ và tình cảm của người càng như thế.Vậy tôi cần nói là ngữ cảnh rất là quan trọng. Thí dụ giảng với học sinh với toán học rất giỏi, có thể trực tiếp đem vi tích phân coi như thuật ngữ thông thường mà chỉ nói sơ qua, nhưng đối với một học sinh không có tri thức toán học cao đẳng nhưng nắm vững lịch sử rất phong phú, tất có thể phải phí thời gian nhiều hơn để giải thích nguyên lý vi tích phân. Vậy chẳng phải bởi vì trước đó không có giải thích vi tích phân thì thể hiện vi tích phân không quan trọng, cũng không phải kẻ sau vì đã giải thích vi tích phân tường tận thì thể hiện vi tích phân quan trọng hơn tất cả thứ khác. Là tu Bồ Đề và rất nhiều đại đệ tử, những đệ tử Thượng Tọa Bộ ấy luôn theo bên cạnh Thích Ca. Trong quá trình truyền Pháp bảy lần bảy bốn mươi chín năm, rất nhiều người đều là mấy mươi năm theo bên cạnh Phật Đà, họ đã nghe rất nhiều giảng Pháp của Phật Đà tại tầng thứ khác nhau. Vì Thích Ca cũng là từ dưới cây bồ đề bắt đầu “Kim Cang Tọa” khai ngộ, đều luôn luôn thăng hoa, đến tuổi già mới chứng được Quả Vị Như Lai, thế thì trong quá trình sau này ông không ngừng giảng Pháp, không ngừng tiến bộ, ông phát hiện Pháp của ông giảng trước kia là có tính hạn buộc, càng đến sau này càng thể hiện ra, thậm chí lấy tiêu chuẩn của Pháp cao tầng mà xét là Pháp giảng năm xưa, rất nhiều điều đểu là sai, nhưng trong tầng thứ ấy, Pháp ấy lại có tác dụng chỉ đạo. Vì các đệ tử ấy đều là mấy mươi năm theo Phật Đà, nghe ông giảng Pháp rất nhiều, thì khó tránh chấp trước với Pháp giảng trước kia mà đối với Pháp giảng sau này sinh ra nghi hoặc. Lại bởi vì trong giai đoạn tu bồ đề và các đại đệ tử đã sớm đi qua những bài học căn bản năm xưa, những thứ ấy đều đã học được rất là vững chắc, nên Thích ca không còn nhấn mạnh sự quan trọng của Giới Định, đó không thể nói Giới Định Huệ không quan trọng! Những người cả cuộc đời đọc tụng ‘Kim Cang Kinh’, mà không chiếu theo Giới Định Huệ nghiêm khắc yêu cầu bản thân, tu luyện khổ hành, đọc một vạn lần cũng không hiểu ý trong đó. Vì Phật Đà giảng Pháp tất nhiên là có tính châm đối mà giảng, chính như một danh y trị bệnh, sẽ không đối với mỗi một bệnh nhân đều mang ra tất cả toa thuốc, hoặc chuyên dùng một toa thuốc vậy, trên trí tuệ tính không của viên mãn, hoàn toàn là lợi tha, là tính không, là hoàn toàn rút khỏi, hoàn toàn vì người khác phá mê khai ngộ mà giảng Đạo thuyết Pháp, cho nên bối cảnh, nguyên nhân giảng ‘Kim Cang Kinh’ năm xưa nhất định phải minh bạch, mới có thể thật sự hiểu được duyên khởi của bộ kinh ấy. Người sau này đem bộ kinh ấy phân (chia) thành 32 phẩm (đoạn), thật ra cũng chỉ là lý giải của người đời sau đã thêm vào đó. Thật ra đây chính là một bộ giảng Pháp có tính châm đối, chủ yếu là nhắm vào các Bồ Tát, La Hán đạt đến xuất thế gian Pháp mà giảng tâm Pháp chân thực của cảnh giới cao hơn, là khóa trình giai tầng cao. Còn về người đời sau giảng tụng niệm kinh ấy có thể được sự phù hộ của Phật Đà, đương nhiên trong thời kỳ Phật Giáo chính thường, vì sau lưng Pháp của Thích Ca là có Thần đang lo, đương nhiên là có sức mạnh. Nhưng một người tu luyện chân chính không phải được một chút bảo hộ, mà là cần chân tu, vậy thì nhứt định cần phải hiểu rõ ý nghĩa thực sự trong đó, dùng để tu hành minh ngộ, mà không phải cầu được một chút tín tức, một phù hộ thông thường. 4.Vì kinh điển của Phật Giáo là sau khi 500 năm Thích Ca qua đời mới do người đời sau chỉnh lý ra, đã trải qua lịch sử 3 lần tập kết thì đã nêu rõ năm xưa rất nhiều chổ đã có chút hỗn loạn không rõ. Không cần nói 500 năm, trong sinh hoạt ngày thường, tất cả đều biết để mười người lần lượt truyền một câu chuyện, truyền đến cuối cùng có thể diện mục toàn phi. Tuy nhiên người cổ xưa tâm tịnh hơn so với người hiện nay, những đồ đệ Phật Giáo với căn cơ rất tốt có thể hiểu rộng nhớ giỏi, nhưng cũng là có hạn, do tầng thứ tu hành có hạng, giai đoạn của tu hành và can nhiễu của nhân tố phức tạp, ba phương diện ấy khiến lời của Thích Ca giảng lưu truyền đến hôm nay đã xảy ra biến hoá rất lớn, rất nhiều nơi đều đã không phải là nguyên nghĩa của Thích Ca giảng nữa. Thứ nhất là ghi chép lúc ban đầu bởi vì chúng đệ tử lý giải khác nhau đối với ý nghĩa chân chính của Phật giảng Pháp mà biểu hiện sai biệt, đó thể hiện đặc biệt nỗi cộm nơi thường trùng lặp từ phẩm (đoạn) thứ mười bảy. Thật ra lúc ấy chính là không rõ ràng Thích Ca nói như thế nào, mà đem cách nói khác có tính đại biểu kèm ở sau, nhằm ý tham khảo. Cho nên, lúc ban đầu khi chỉnh lý thành văn bộ kinh ấy, thật ra đã thiếu sót không đầy đủ, thứ hai chính là trong quá trình lưu truyền, xảy ra thiếu sót lầm lẫn và người truyền đem lý giải của bản thân mình phụ thêm vào. Thứ ba là quá trình phiên dịch, trước tiên do Cưu Ma La Thập phiên dịch ra ‘Kim Cang Kinh’ thì đã tồn tại sai sót nhiều nơi, Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh, thường xuyên dùng nói bằng miệng rồi do người khác ghi chép, quá trình ấy cũng rất dễ xãy ra sai lẫn lộn hoặc giảm bớt của câu. Đến thời nhà Đường, Huyền Trang đến Ấn Độ nơi cuối cùng huy hoàng của Phật Giáo Lan Đà Tự thỉnh Kinh, ‘Kim Cang Kinh’ ấy cũng đã không phải là hình dạng thời tập kết nữa, cũng chính là nơi giai đoạn phát triển hậu kỳ của Phật Giáo tại Ấn Độ, nhiều tăng nhân vì không buông bỏ được tâm lý của danh lợi, hiển thị .v.v… thêm vào những lời luận của bản thân trong kinh điển đều đã là chuyện thường tình.Cho dù Pháp Sư Huyền Trang rất uyên bác, kiểm tra đính chính rất tinh vi, cũng khó tránh phân biệt thiếu sót, không lâu sau khi ông về, Phật Giáo Ấn Độ thêm một bước biến dị, khiến cho diện mục toàn phi, hợp lưu với Bà La Môn Giáo, hình thành một chủng tôn giáo không ra giống gì cả. Phật Giáo đã tan mất tại Ấn Độ. Vậy trong quá trình phiên dịch lại thêm vào lý giải của người phiên dịch, nhân tố của tầng thứ và hoàn cảnh lịch sử đương thời, khiến Pháp của Thích Ca lưu truyền đến hôm nay, lời nói chân chính trong ấy không đến mười phần trăm. Người thực sự có công năng vừa nhìn vào kinh điển Phật Giáo, rất nhiều thứ gọi là ‘kinh điển’ hoàn toàn không phải Thích Ca giảng, mà là người đời sau phụ thêm, lấy sai lầm lẫn lộn ít nhất của ‘Kim Cang Kinh’ và ‘Tâm Kinh’ mà xét, cũng là vô cùng rằn rì. Văn tự chân chính của Phật giảng là chói sáng màu vàng, và trong quá trình phiên dịch tuy rằng tâm rất chính nhưng không có phiên ra ý nghĩa cảnh giới nguyên lai thì ánh màu của những văn tự ấy sẽ mờ nhạt, và những nơi sai lẫn lộn thì là rất đen. Thế thì làm sao tu? Có bao nhiêu người càng đọc càng hồ đồ, ngoại trừ không hiểu rõ ý văn, lực lượng pha trộn của kinh văn bản thân sai lầm lẫn lộn cũng là một nguyên nhân. 5. Nhất thời, là nói ngày ấy. Ngày nào? Chính là ngày giảng bộ kinh ấy. Lúc ấy Thích Ca ở nơi nào? Phật tại Vườn Cấp Cô Độc rừng Kỳ Đà Xá Vệ Quốc, cùng với 2500 đại Tỳ Kheo. Lúc ấy Ấn Độ giống như thời đại Xuân Thu của Trung Quốc, có hơn 270 quốc gia, nước Xá Vệ là một nước chư hầu tương đối lớn, trưỏng lão Cấp Cô Độc là một trợ pháp hành giả rất nổi tiếng trong lịch sử Phật Giáo, thật ra ông là đại bàng kim sí điểu (chim đại bàng cánh vàng) tọa tiền hộ Pháp của Phật Đà chuyển thế, chính là cần hiệp trợ Phật Đà truyền Pháp. Đương thời ông ở nước Xá Vệ, biết được Phật Thích Ca Mâu Ni khai ngộ truyền Pháp, sơ chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển (vườn Lộc Dã). Sau khi độ sáu người Kiêu Trần Như.v.v… kế tiếp đến các nước bắt đầu quảng truyền Pháp của ông, thì rất khát vọng Phật có thể đến nước Xá Vệ truyền Pháp, vì năm xưa rất nhiều quốc gia đối với Phật Thích Ca Mâu Ni và Pháp của ông còn không mấy hiểu rõ, chỉ là nhiều lúc nghe được thân phận của hoàng tử Thích Ca và truyền kỳ của ông, rất nhiều nơi vẫn là thiên hạ của Bà La Môn Giáo đã bại hoại. Trưởng lão Cấp Cô Độc nghĩ nếu có thể mời được Phật Đà Thần thánh đến, đó là một vinh dự lớn biết mấy, thì muốn tìm một nơi cư ngụ rất tốt làm Pháp Đàn, tìm mãi vẫn chính là vườn sau của Thái tử nước Xá Vệ – vườn Kỳ Đà, ngôi nhà xinh đẹp thanh nhã nhất, thì đến gặp Thái tử, thỉnh cầu trang viện ấy. Thái tử đương nhiên tiếc rẽ, nhưng lại không muốn người ta nói rằng ông không kính Phật Pháp, không hướng thiện Đạo, thì đã nêu ra một điều khó khăn cho Trưởng Lão Cấp Cô Độc, rằng anh cần phải trong vòng ba tháng có thể vận chuyển vàng khối đến lót đầy các vườn ấy, thì tôi đem vườn ấy bán cho anh.Trưởng Lão Cấp Cô Đôc ưng thuận ngay. Đó thực sự là một niệm tịnh tín, lực lượng ấy giỏi phi thường, chính như Đại Lực Thần La Củ Nặc trong năm trăm La Hán, theo lời Sư Phụ vân du đến núi Nhạn Đãng, hỏi tiều phu rằng: “núi này tên gì”, trả lời “Nhạn Đãng”; “làng này tên gì”, trả lời “Phù Dung”. Thế là vui mừng nói: “đúng là Sư Phụ đã chỉ thị”. Liền xây nhà nơi đây, khổ tu giảng đạo. Vì khi ông rời khỏi, Sư Phụ từng bảo ông: “đi về hướng Đông, đến núi có tên chim, làng có tên hoa, liền trú nơi đó, giảng Phật Pháp của ta. Sau này thơ tăng nhà Đường Quán Hưu làm thơ khen rằng “Nhạn Đãng kinh hành vân mạc mạc, vân tưu yến toạ vũ mông mông”. Người đời sau hầu như chỉ để ý vẻ đẹp của ý cảnh, thanh nhã của sơn thủy, đâu biết năm xưa cô đơn cực khổ của khổ tu. Một bình một bát, không áo không ăn, trong tâm chỉ có Pháp, chỉ có Sư Phụ, những điều Sư dặn, dù gian nan hiểm nghèo, nhất định tôn theo, tâm như vậy, thực sự là bậc Kim Cang. Vì Trưởng lão Cấp Cô Độc có một chủng Thần thông, có thể nhìn thấy những bảo vật chôn dưới đất, trong vòng ba tháng, đã gom đủ số khối vàng, đến để mua vườn Kỳ Đà của Thái Tử. Thái Tử kinh ngạc, con người đều có Phật tính, thần thông của Trưởng Lão Cấp Cô Độc và tôn kính chính tín với Phật Đà khiến Thái Tử cảm động bội phục, nên đã quyên tặng vườn hoa. Sau này vườn ấy tức là “Bố Kim Lâm” của Phật Giáo đồ truyền tụng. 6. Người của thời đại chủ nghĩa vật dục rất khó lý giải những việc làm hành vi của cảnh giới thực hiện của sinh mệnh cao hơn và giá trị cách chọn lựa của họ, thì như Trưởng Lão Cấp Cô Độc, có người nghĩ, nếu như tôi có năng lực ấy, vậy tôi không phải đã thành phú ông sao? Tại thế giới hôm nay, có người biện giải vì ích kỷ của bản thân rằng, nếu như tôi đã giàu có, thì tôi làm sự nghiệp từ thiện. Thật ra những lời ngu xuẩn ấy, chính là đi ngược lại đặc tính của vũ trụ, một sinh mệnh sở dĩ có năng lực siêu thường, là bởi vì họ có tâm tính siêu thường. Vì vật chất tài phú của vũ trụ, vốn cũng đều là một loại hiện thị của ý Thần, trong thời kỳ chính thường, những thứ ấy nên phục vụ cho Chính Pháp. Thái tử Xá Vệ nhất niệm động Phật tính, hiến ra vườn hoa này. Sau này ông nghe Phật Đà giảng Pháp, lập tức chứng A La Hán Quả, thật ra từ khía cạnh “xả đắc”, chúng sinh nên biết rằng quả báo chân chính của việc dùng đúng tài phú trợ Pháp, là vô lượng. Nhưng mà, Phật Đà là không để ý những thứ ấy. Cho dù ở trong cung điện đẹp như vậy, cũng chỉ bất quá lợi dụng nơi nhân gian làm giảng đường, để đệ tử và chúng sinh có một trường sở tốt để nghe Pháp mà thôi. Ông quyết sẽ không như người mà sanh bất cứ niệm tham đối với những thứ của không gian này, luôn luôn ở một thời gian rồi đến nơi khác, tiếp tục giảng Pháp truyền Đạo. Pháp của ông ta truyền là quyết sẽ không động, nên ở trong cung điện đẹp đẽ, hay là bưng bát khất thực hoá duyên, vẫn duy trì Pháp Giới Luật nguyên thủy khi khổ tu trong rừng rậm, hang núi là ngày ăn một bữa, dưới đây sẽ nhìn thấy rất rõ rệt. “dữ đại Tỳ Khưu chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu”, nêu rõ ngày ấy Phật Đà với đệ tử Thượng Tọa Bộ đang mở “Pháp hội” chứng giải Pháp lý. Mà một chữ “Câu”, nói lên giản dị gần người của Phật Đà và được đệ tử yêu chuộng với phần không có ngăn cách ấy. Thật ra chính là các đại hoà thượng trao dồi lẫn nhau, trước tiên Phật Đà chủ yếu là nghe, đang xét các đệ tử ở phương diện nào tồn tại vấn đề nổi cộm chung, vì đều là đệ tử Thượng Tọa Bộ, rất nhiều đều có thành tựu trước kia của bậc Sơ Thành La Hán, Bồ Tát, nên nhắm vào họ, giảng ‘Kim Cang Kinh’ cũng chính là việc tự nhiên. 7. “Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung, thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bỗn xứ. Phạm thực ngật, thu y bát, tẫy túc dĩ, phu toà nhi tọa”. Nhĩ thời, cũng chính là đến lúc quy định của ăn cơm hóa chay, mời xem xét “Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực”, thuật ghi ấy nói lên gì? Thứ nhất, Thích Ca rất chú trọng hình tượng công chúng của bản thân, mặc lên cà sa. để biểu thị sự khác biệt với tục gia, cũng đang tuyên truyền Phật Giáo. Lúc ấy cà sa của Phật Giáo là màu vàng rất là tươi đẹp sáng lệ, điểm này với sau này truyền đến Trung Thổ, đến hôm nay với màu vàng đất của hoà thượng mặc sai biệt rất là lớn. Là bởi vì người đời sau buông bỏ không được đối với chấp trước của trang sức y phục. Sau này mới cải thành màu sắc ấy. Thứ hai, Thích Ca dùng gương mẫu bản thân dạy đệ tử, bản thân không như một số người xuất gia sau này, đem một chút chức vụ của Tự viện coi là quan chức, không có để đệ tử gíup ông đi khất thực, mà là bản thân đi làm. Từng là hoàng tử của bộ lạc, Thích Ca dẫn đệ tử khất thực, khổ hành và Sư đạo như vậy, thật là khiến người cảm thấy từ bi của Phật Đà năm xưa đã trao ra. Khất thực, chính là ăn xin. Vậy thời ấy, một mặt là vì mức sinh hoạt của con người còn tương đối thấp, mặc khác, thế lực của Bà La Môn Giáo còn rất lớn, người ta còn chưa hiểu rõ sâu sắc đối với Phật Giáo, có thể tưởng tượng được với tôn nghiêm của Phật Đà, cũng tất nhiên đương đầu với rất nhiều cự tuyệt, không hiểu thậm chí chỉ trích, những điều ấy, trong truyện Phật Giáo thời kỳ đầu đều có ghi thuật lại, nhưng Phật Đà tạo ra khuôn mẫu là gì? Một câu “Thứ đệ khất dĩ”, nêu rõ Thích ca khất thực là đi từng nhà mà xin, mỗi nhà có thể cho ra chỉ là một chút, có lẽ một số nhà hoàn toàn không cho bạn cơm ăn, vậy cũng không phải mỗi ngày đều xin được đủ thức ăn, bữa no bữa đói cũng là việc thường tình. “Thứ đệ khất nhĩ”, từ góc độ của Phật Đà kết duyên với chúng sinh, cũng là biểu đạt không phân biệt của không tính Phật tính. Xin được vừa đủ ăn một bữa cơm, thì “hoàn chí bổn xứ”, vật gì trên thế gian có thể động đến tâm của Phật? Không phải nơi nào náo nhiệt đi nhìn xem, nơi đâu có hiếm lạ, đã dắt động nhân tâm. Xuất gia chính là đoạn tuyệt thế duyên, nổ lực tinh tấn, viên mãn mới thôi, Phật Đà lấy đó làm gương mẫu cho đệ tử , thời ấy là làm đệ tử phải nghiêm chỉnh tuân theo không được trái. Còn về hôm nay những người cho là xuất gia, làm thành cấp bậc thứ cấp, khoa cấp, có người còn có xe cá nhân, ra cửa cố chọn nơi náo nhiệt mà ghé, thậm chí đem Thánh địa Phật Giáo làm “thương mại kinh doanh”, đã hoàn toàn bỏ rơi Phật Thích ca Mâu Ni, lại còn lấy danh tiếng của ông để bại hoại, và Mạt thế tà Sư thuyết Pháp như cát trong Sông Hằng, cũng là năm xưa khi Thích ca sắp niết bàn tiên đoán thấy trạng thái của thời kỳ Mạt Pháp. Hòa thượng hôm nay, có mấy người thực sự bỏ tuyệt danh lợi tình trên đời mà nhứt tâm tu thành chứng ngộ? Tiếp theo “Phạm thực ngật, thu y bát, tẫy túc dĩ, phu tòa nhi tọa” – Phật đã dùng cơm chung với đệ tử, đương nhiên đều là có từ hóa duyên, dùng cơm xong, thu dọn chén bát, xếp lại cà sa mặc ra cửa, đều là đích thân làm việc ấy. Phật không có bảo ai, con là đệ tử của ta, con phải rửa chén xếp áo cho ta. So sánh sự biến dị của các tăng chức vụ sau này, đã một mạch sáng tỏ. Vì ra ngoài đi đường rất nhiều, lấy nước rửa chân xong, rồi ngồi xếp bằng xuống, chuẩn bị giảng Pháp cho các đệ tử, trang mở đầu của đoạn thứ nhất, tuy chỉ ngắn gọn mấy mươi chữ, đem trí tuệ không tính viên mãn và từ bi vô lượng của Phật Đà thuật ra bình thường, người ta không phải rất hiếu kỳ Phật nghĩ như thế nào, làm việc thế nào chăng? Từ bi bình đẳng là gi? Từ trong ấy là có thể lĩnh ngộ được. Cho nên đặc biệt đơn giản chú thích rằng: Từ bi, bình đẳng, viên dung, không tính của tâm tính luôn rực rỡ mà là để tùy tự nhiên. Đạt đến cảnh giới Phật, đi đứng ngồi nằm của ông đều là Pháp. (Còn tiếp theo chanhkien.org
  7. Đệ tam luận trong Thập luận Kim Cang Kinh 1. Chúng ta đến xem “đệ nhị phẩm thiện hiện khải thỉnh phân”, bài trước đã từng nói đem kinh văn phân (chia) thành nhiều “phẩm” (đoạn), đó là người đời sau phụ thêm vào, trong đó đã biểu đạt lý giải đối với kinh văn của người đời sau, xem ra hình như cung cấp phương tiện cho người đời sau đọc kinh, thật ra cũng đã thêm khuôn khổ cho người đời sau lý giải kinh nghĩa. Nếu hạn cuộc bởi lý giải ấy,thế thì người đời sau vĩnh viễn bị hạn chế bởi khung ấy. Nên những phẩm phân (chia đoạn) ấy, thật ra là không nên. 2. Chúng ta xem kinh văn: Thời Trưởng Lão Tu Bồ Đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn: “Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát! thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, ưng vân hà trụ,vân hà hàng phục kỳ tâm? ”, chính là Phật Đà đã chuẩn bị giải Pháp cho chúng đệ tử, Trưởng Lão Tu Bồ Đề đứng lên trong đám đệ tử, đến trước Phật Đà, vì đệ tử của Phật mặc cà-sa là một miếng vải màu vàng dài khoảng một trượng, quấn lên thân thể, lộ vai có, không lộ vai cũng có, động tác ấy nơi đây cho thấy Trưởng Lão Tu Bồ Đề mặc cà-sa không có lộ vai, nhưng vì cần dễ dàng hành lễ với Phật, trước hết đã đem cánh vai phải trong cà-sa tháo xuống, sau đó đầu gối bên phải đụng đất, một chân qùy bái, dùng lễ nghĩa kính Sư của đệ tử nhà Phật, song thủ hợp thập cung kính thưa với Phật Đà: “Bậc Tôn giác ngộ vĩ đại trong thế gian, Sư Tôn, Ông vì độ chúng con đã đến thế giới Diêm Phù Đề này, đó là duyên phận hiếm có của chúng sinh, là cơ duyên nên vô cùng quý mến, đúng như chúng con xem ra vậy, Ngài có Pháp vô lượng giỏi về căn cứ trạng thái đặc điểm của chúng đệ tử, chỉ đạo chúng con tu hành, khai thị chân lý của chúng con. Sư Tôn! Hiện con có một vấn đề cảm thấy khó hiểu, chính là trong quá trình giúp Sư truyền Đạo truyền Pháp, gặp phải các thiện nam tín nữ phát niệm thiện muốn tu luyện, có thể phát tâm phải tu luyện thành Giác, vậy tâm của họ nên lấy nơi nào làm căn trụ, lại dựa theo căn cứ điều gì để hành phục phiền não nhân dục? nơi đây rõ ràng điều Tu Bồ Đề hỏi là tâm “thuật”. Lấy thí dụ, tôi phát tâm phải nghiên cứu vật lý thế giới vi quan, vậy tôi dựa vào điều gì làm căn cứ lý luận cơ bản? Đại khái chính là ý như vậy. 3. Phật Thích Ca nghe xong câu hỏi của Trưởng Lão Tu Bồ Đề, trả lời rằng: “Thiện tai, thiện tai! Tu Bồ Đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm”. Đây nhứt định phải giảng rõ ràng, chính là tu luyện trước kia, bất cứ Đạo Gia Phật Gia, cũng đều độ Phó nguyên Thần của người. Phó Nguyên Thần không vào tam giới, [mà] ở ngoài tam giới thao túng thân thể ấy của người mà tu luyện, nhưng vì rời không khỏi sự phối hợp của chủ thể ấy của người, đương nhiên trong giảng Pháp cũng cần cho bề ngoài ấy của người ấy [mà] giảng nguyên tắc cơ bản, đều giảng là cần người đi vào Thiền định im lìm, thật ra cũng chính là để chủ ý thức bề ngoài của người không khởi tác dụng, bên kia có thể lợi dụng thân thể của bạn mà tiến hành tu luyện.Thế thì “nhữ kim đế thính”, thật ra toàn bộ của cảnh giới chân thực đã giảng hết cho Trưởng Lão Tu Bồ Đề. Tại sao thế? Vì câu thông giữa Phật và Bồ Tát hoàn toàn là một chủng tư duy truyền cảm, lẫn mang theo âm thanh lập thể, trong một nụ cười [đã chứa] một niệm, thì hoàn toàn đã minh bạch ý cần diễn đạt. Vì Trưởng Lão Tu Bồ Đề là đệ tử đạt đến quả vị La Hán tinh tấn hướng đến cảnh giới Bồ Tát, khi lúc Phật Đà nói câu ấy, ở không gian khác đã hiện thị chân thực cho họ nên làm thế nào. Vì vấn đề này đã biểu đạt Tu Bồ Đề tìm xét trên tầng diện đối với Phật Pháp, chú trọng đến tâm tính của căn bản, Phật Đà rất vui mừng câu hỏi như vậy, đó không phải chú trọng đến câu hỏi nhỏ “ Thế giới Cực Lạc như thế nào?” “Thế giới của Phật ra sao? ” mà là trực chỉ tâm Pháp Phật tính, đó là nền tảng căn bản của một người tu luyện chân chính, tức tâm Phật là như thế nào? Đó chính là một câu hỏi rất khá, đã hỏi đến thực chất. Bởi vậy Phật khen ngợi họ rằng: “thiện tai, thiện tai! Tu Bồ Đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hành phục kỳ tâm”. Ý là như con đã nói, Như Lai giỏi về căn cứ theo căn cơ đặc điểm của các đệ tử [mà] dạy theo năng khiếu khiến con minh bạch Pháp Lý, hiện giờ con cần dùng hết tinh thần để nghe! Tôi đương nhiên trình bày rõ Pháp Lý ấy một cách toàn diện cho con, người phát tâm tu Phật, nên trụ tâm như vậy, nên hàng phục phiền não của nhân dục như vậy, thì giống như hiện tại chúng ta biểu thuật thông thường như vậy: Nên phải là như vậy như vậy…… 4. Tu Bồ Đề đã hoàn toàn minh bạch, nhưng người khác minh bạch chưa? vẫn không nhất định. Nên Tu Bồ Đề vì để người khác cũng có thể minh bạch, và để người sau có thể nghe Kinh điển như vậy, đã thỉnh cầu Phật Đà “Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn” (Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con nguyện thích được nghe). Ý là: Sư Tôn, con đã minh bạch. Nhưng mà con hy vọng Ông có thể lấy ngôn ngữ khai thị diệu Pháp ấy, con nghĩ không chỉ riêng con, chúng sinh đều sẽ nguyện ý rất mừng nghe được Kinh điển như vậy. Thật ra lúc này dùng tư duy truyền cảm đã giảng xong, vì Tu Bồ Đề mời Phật Đà dùng ngôn ngữ thị hiện, nên mới có câu sau. Bởi vì dùng ngôn ngữ của người để biểu đạt Pháp Lý cao thâm vốn rất khó, con người là dùng cái gọi là suy xét tự cho rằng tỉ mỉ để hằng lượng vấn đề, quyết định thị phi, Phật lại là nhiều phương vị đồng thời suy xét và hành sự. Hơn nữa một sự việc sẽ nhìn thấu từ đầu đến cuối. Cho nên, Bậc trí giả biết được điểm này, đem tình tự tư duy của nhân loại xưng là “Tiểu Lôgíc”. 5. Chúng ta xem tiếp “đệ tam phẩm (đoạn thứ ba) Đại Thừa Chánh Tông Phân” khái quát này có chút khiến người ta chẳng hiểu gì cả, theo tôi xét, có chút đem Lý của hệ Ngân Hà khai thác rộng ra trở thành như “Lý cùng nhau có thể được” của Lý phổ thông vũ trụ. Khái quát như vậy rất dễ dàng hạn cuộc người đời sau, là không thể áp dụng. 6. Phật cáo Tu Bồ Đề: “Chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hoá sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, nhược phi vô tưởng, ngã giai linh nhập vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát”. Bắt đầu từ nơi đây, tiến vào bộ phận của {Kim Cang Kinh} khiến người mê hoặc nhất từ xưa đến nay, có biết bao lý giải điên điên cuồng cuồng, biết bao giả tưởng tự cao hư vô, đều là miễn cưỡng lấy ngôn ngữ con người để biểu thuật danh pháp triển khai không rõ ràng mà làm ra. Năm xưa Lão Tử nói: “có vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh, vô thanh vô hình, độc lập mà không thay đổi, tôi không biết tên đó, miễn cưỡng gọi tên là Đạo, miễn cưỡng đo lường là lớn”. Thật ra với lúc đó cảnh giới chân thực của Thích Ca giảng là cùng một sự việc. Chính là miễn cưỡng dùng ngôn ngữ con người mà chí (đo lường) Đạo danh Pháp. Vì là giảng Pháp với các đệ tử thượng tọa bộ đã đạt đến quả vị Bồ Tát La Hán, trạng thái nghe Pháp của họ cũng đã quyết định hình thức giảng Pháp của Thích Ca, thật ra là lập thể lẫn có hiện thị. Giảng Pháp của bậc Đại Giác khai ngộ, thật ra là tại tầng tầng tầng tầng dưới cảnh giới của Ông đều đang giảng, nhất là hình thức phổ độ quảng truyền như vậy, đều là như thế, sau này Phật Giáo Tạng truyền thượng sư Mật Tông truyền Pháp, lấy hình thức khẩu khuyết và đàn thành hiện thị v.v…, cũng đều là từ nơi đó cùng một dòng truyền lại. Cho nên, câu thứ nhất chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm! Phàm là đệ tử của cảnh giới [có] quả vị cũng đều đã hiểu rõ. Sở dĩ còn có luận giảng, là vì ưng thuận thỉnh cầu của trưởng lão Tu Bồ Đề, miễn cưỡng lấy ngôn ngữ con người mà nói rõ Pháp Lý ấy. Nhưng vì quá khứ Phật Giáo cũng chỉ là vì hôm nay truyền Đại Pháp mà đặt định văn hóa, đồng thời vào thời kỳ ấy cũng không để chúng sinh biết được nhiều vậy, vì là chú trọng tu luyện Phó Nguyên Thần, còn Chủ Nguyên thần chân chính của người biết được rất ít, tuy nhiên đọc được mờ mờ ảo ảo, rất nhiều người vẫn thích đọc, càng đọc càng cảm thấy khá, thật ra cũng chỉ là một ít cảm giác tin tức của người, mà ý nghĩa chân chính là ở chỗ Phó Nguyên Thần có thể tu luyện một cách thuận lợi. Phật Pháp là viên dung, tất cả chúng sinh dưới cảnh giới của Ông trở xuống, nghe được Phật Pháp, cũng đều là phước phận vô lượng, đều có thể đem cho họ giác ngộ đề cao thăng lên, mà năm xưa Thích Ca khai sáng con đường tu luyện khai ngộ, chính là Niết Bàn, chiếu theo cách Ông nói, là một chủng diệt độ. 7. Diệt độ là gì? Chúng ta cho thí dụ thì sẽ rất rõ ràng. Vì sinh mệnh là sản sinh trong không gian vũ trụ. Ban đầu sản sinh là hợp với đặc tính của vũ trụ, chính là đồng hóa đặc tính của vũ trụ, là bởi vì sau khi thể sinh mệnh đã sản sinh nhiều, đã xảy ra giống như quan hệ giữa người với người, trong đó những sinh mệnh trở thành không tốt, đã ích kỷ, thì rơi xuống, tình huống ấy xuất hiện số lượng lớn, Thần tầng cao đã sáng tạo một không gian tương đối thấp hơn, đem những sinh mệnh ấy phong tỏa vào trong không gian với vật chất và năng lực tương đối thấp, vì sự từ bi của Thần, cũng cho họ một cơ hội trở về, chính như vậy, theo đà diễn biến không ngưng của vũ trụ, trụy lạc bại hoại của sinh mệnh, tầng thứ không gian càng ngày càng nhiều, đến cuối cùng rớt đến nơi người, Tam Giới này từ trên một tầng diện mà nói, chính là trường rơm rác của vũ trụ, tại vũ trụ diện tầng thứ bề ngoài nhất, thô cạn nhất, sinh mệnh rơi đến nơi đây, lúc xưa thì là triệt để tiêu hủy không lấy. Nhưng sau này Thần lại phát từ bi, quyết định thêm một cơ hội cho những sinh mệnh ấy, cho nên đã tạo ra không gian của con người, lúc ban đầu cũng không có cách nghĩ khác, chính là tạo một không gian mê nhất khổ nhất. Sinh mệnh bị phong tỏa vào nhục thân thấp kém này, khả năng rất là thấp, người đáng thương xót tại nơi đây, tự bản thân của người từ khi sinh ra đều là sinh hoạt như vậy, mọi người như nhau, khả năng thấp của mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý khiến người không cách nào nhìn thấy không gian khác, việc gì thì đều dùng phương thức thấp nhất để làm, dùng phương thức khả năng thấp nối tiếp đời sau, thần đã cho người cơ hội cuối cùng, mong mỏi trong mê mà ngộ, ngộ được thì có thể trở về, ngộ không được thì rơi xuống và tiêu hủy. Bản thân người rất khó biết được tình trạng ấy, nhưng Bậc Giác Ngộ biết rất rõ ràng và thương xót người . Trang Tử từng viết ngụ ngôn rằng cá mất nước trong ao nhỏ, trước mắt thì phải chết, nhờ miệng lẫn nhau thổi ra một chút hơi ẩm để thấp nhuần vảy cá, Ông nói lấy “hơi ẩm để thấp lẫn nhau, nước bọt để ướt lẫn nhau” cho là đạo đức và tốt đẹp, chẳng thà thực sự thăng hoa trở về, “đã quên mất nhau tại giang hồ”. Sông hồ đối với cá có hàm ý gì? Có nghĩa là tư nguyên vô hạn và không gian tự tại. Người cũng như vậy, thực sự thông qua tu luyện Chính Pháp phản bổn quy chân, đó mới là hạnh phúc thật sự. Như vậy cũng chính là nói bản chất của người trong quá trình rơi xuống, thì giống như đá kim cương rớt vào những vật ô nhiễm khác nhau, cho là dính lên một lớp bơ sửa, thêm vào một lớp ô mực, lại thấm một lớp bùn lầy, cuối cùng dính lên một lớp đất phân, ô nhiễm của mỗi một tầng, thực ra chính là cho linh tính tiên thiên chí thiện viên mãn của bản thân thêm vào một tầng phong tỏa, vậy Thích Ca áp dụng phương thức nào khiến bạn đi về? Chính là diệt độ Niết Bàn, chính là tẩy sạch bạn, tầng thứ khác nhau dùng cách tẩy khác nhau, đó là rất tốt để lý giải ‘Pháp Vô Định Pháp’. Phương pháp tẩy đất phân dùng để tẩy bơ sửa ngại không có hiệu quả, mà dùng phương pháp tẩy bơ sửa trước để tẩy đất phân cũng sẽ không có công dụng. Cũng chính là nói tại sao Đại Giác xưa nay dạy người, cảnh giới nào dạy họ Pháp nấy, cũng là rất quan trọng. người sau này tại sao rất khó có thành tựu? Rất nhiều người tham cao ngưỡng mộ xa, vừa vào thì dùng tâm danh lợi của người muốn tu cao đến nhường nào, Tiểu Thừa còn chưa tham tu được khá, đã nhắm mắt suốt ngày tụng kinh điển Đại Thừa, kết quả là uổng phí công lao, không việc gì thành. Một người cả nghi lễ của tiểu học đều chưa trở thành thói quen, một người tâm pháp nhân lễ chưa khắc chế thành tự nhiên, đã ngông luận trị quốc bình thiên hạ, bất quá là khoa trương ngông cuồng vô chi mà thôi. Thì như một người luôn cả cửu chương cộng trừ nhân chia còn chưa hiểu, mới biết được vài chữ nghĩa, thì muốn vừa vào đã thông suốt hàm số tích phân, viết ra bài văn chương tuyệt diệu vậy, là không làm được, rất nhiều người còn vô tri vô giác giảng nào là “buông bỏ xuống”, thật ra họ đâu từng đã cầm lên? Nói chi buông bỏ xuống? 8. Vậy “Vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi”, giảng cách đơn giản chính là tẩy sạch bản thân, hiện ra tiên thiên bổn lai Phật tính, quá trình Tự Nhiên Viên Mãn. Mà con đường hạch tâm, nơi Thích Ca chính là truyền ra Pháp “Giới Định Huệ”. Thời kỳ tu luyện chính thường tại vũ trụ, là một đại lộ Chính Pháp, nhưng phương pháp ấy không cách nào đem thân thể của tầng thứ hậu thiên khác nhau chuyển hóa đề thăng thành những thứ tốt nhất mang đi, đó là Thích Ca tiếp theo giảng rõ ràng “thực vô chúng sinh đắc diệt độ giả.” Chúng ta vừa đưa thí dụ ô nhiễm bởi bơ sửa, ô nhiễm bởi cát bùn, thật ra đối với sinh mệnh mà nói, không phải khái niệm của người giảng rằng ở bề ngoài sinh mệnh bôi thêm một lớp, mà là những thứ ấy đều sẽ hình thành thân thể tồn tại của tầng thứ khác nhau, là như tế bào cấu thành con người, tầng diện nguyên tử, tầng diện trung tử v.v…Thí dụ như con người, người Giác Ngộ cho rằng thì sẽ hình thành “cái xác thối”, công Pháp không tu mệnh (cũng chính là không chuyển hóa bản thể), cũng đều áp dụng vứt bỏ, trong giây phút khai công khai ngộ, tức thì bỏ rơi thân thể diễn ra của hậu thiên và Nguyên Thần mang theo Công đi lên. Vậy Hòa Thượng khai ngộ thì có “Xá Lợi Tử”, trên thực chất là sau khi đơn ấy nổ, khiến khóa và trăm khiếu của thân thể toàn bộ tung mở, tức thì bỏ đi bản thể mà Viên Mãn, phương pháp ấy cũng chỉ là khai ngộ của cá thể nhảy ra khỏi Tam Giới, bản thân ấy không mang được triệt để đổi mới của vật chất vũ trụ và rèn luyện đề cao thăng hoa của cảnh giới tầng thứ khác nhau. 9. “Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát.” Phật Đà tiếp tục giải thích rằng, tại sao như vậy? Vì con người thông thường phân biệt tướng, tại thế gian con người tự nhiên để ý phân biệt tướng này, thì như Trang Tử đã nói: lấy người mà quan sát, vạn vật tự xem quý trọng nhưng khinh bỉ lẫn nhau, lấy Đạo mà quan sát, thì vạn vật không có phân biệt quý trọng hay hèn tiện. Gọi là vật vô phi bỉ, vật vô phi thử chi Đạo (không có phân biệt cái này (thử) với cái kia (bỉ)) , mà là nhìn thấu suốt toàn tri và hoàn nhiên (hoàn toàn) của cảnh giới đã thấy. Bồ Tát chân chính, đã là Giác Giả cứu cánh không tính (*) viên mãn tự tại, chẳng phải nói họ không có hiện tướng, mà là họ đồng hóa tiêu chuẩn Pháp Lý của vũ trụ tầng ấy, không còn quan niệm của người và cách nhìn tính quan niệm của tầng thứ ấy. Thí dụ rằng, nếu có ngã tướng, nhất định tự nhiên chấp vào cái ngã. Nếu chấp với nhân tướng, sẽ với bảy khổ, sinh lão bệnh tử của người đều có sở cảm mà chấp trước, vẫn chưa minh Đạo. Đều có thể đem đến cảm nhận cho ta trong phiền não vào cảnh ngộ thế gian, nếu còn chấp với phân biệt tướng chúng sinh, thì có phân biệt diện mạo, thái độ của người này với người kia cũng sẽ do đó mà sinh ra dị biệt trong tâm. Chấp với thọ giả tướng, tất không minh bạch rằng tất cả chỉ là biểu đạt trình tự diễn tiến của Pháp trong tầng thứ khác nhau mà thôi, cứu cánh không tính viên mãn của Bồ Tát tuyệt đối không có những dây dưa ấy. Vậy bạn phải dùng ngôn ngữ của người ráng nói là nên có một “trụ” ở trong tâm gì, thì như Lão Tử đối diện với “Đạo” vậy, chỉ có thể miễn cưỡng đặt tên là “Không”. Nhưng Không ấy hiển nhiên hoàn toàn là hai sự việc khác nhau với người gọi là “không có”, nếu như miễn cưỡng giải thích thì là vô chấp trước. Hơn nữa là “Vô lậu” (không có xót). Tỷ dụ một người rửa sạch một tầng đến tầng thứ cao hơn, như vậy bất cứ thứ gì của tầng dưới đều nên không còn nữa, những gì của tầng dưới chính là “không” đi, hoàn toàn triệt để không còn, nhưng lại là “có” của tầng cao hơn và tồn tại. 10. Tiếp theo giảng “Đệ tứ phẩm diệu hạnh vô trụ phân”. Tại đây tôi dẫn dùng cách phân ấy, không phải thừa nhận nó, mà là vì phương tiện, bởi mọi người đều thói quen như vậy rồi. “Phục thứ, Tu Bồ Đề, Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí, bất trụ thinh hương vị xúc pháp bố thí. Tu Bồ Đề, Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng. Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lương phủ? Phất dã, Thế Tôn! Tu Bồ Đề! Nam tây bắc phương tứ duy thượng hạ hư không, khả tư lương phủ? Phất dã Thế Tôn!” “ Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị bất khả tư lương. Tu Bồ Đề, Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ”. Nhìn thấy trưởng lão Tu Bồ Đề đã sơ bộ lãnh hội Pháp Lý đã giảng, tiếp theo Phật Đà giảng thâm sâu hơn, nên có lờ “phục thứ”. Có thể hiểu được tất cả Đại Đức Đại Giác chân chính như Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, Giê-su cũng đều là cứu cánh không tính viên mãn trí tuệ phi thường, khéo dạy dỗ từng bước, hoàn toàn là không vào trong ấy mà châm đối tình huống cụ thể của chúng sinh mà thích nghi giảng Pháp. Hiện nay xuất hiện tổng kết của “kỹ thuật giáo luyện” từ Tây phương, thật ra chẳng phải là một sáng tác mới, trong ấy đã giảng “Rút khỏi, Lợi tha, Mở mang” của lý niệm hạch tâm, là pháp đã dùng tự nhiên của các bậc Đại Giác trước đó, nhưng thế nào là Lợi tha? Mở mang trí óc thế nào, nếu người ‘Giáo luyện” không có thật sự ngộ Đạo, chỉ là giảng thứ ấy trên lợi lộc và lợi ích trước mắt, vận dụng kỹ thuật ấy, thật ra khả năng cũng rất thấp. Thì như thật sự của Yoga vốn là danh từ tu luyện của xã hội nhân loại kỳ trước, mà trong kỳ này đến hiện tại, bị rất nhiều người làm đến diện mục toàn phi, thế tục còn đều cho rằng Yoga là để khoẻ thân giảm mập. Chân Pháp là phân bố khắp nơi tất cả của nguyên thủy của bậc sáng tạo, tại nguồn gốc vật chất của mỗi một tầng thứ và trạng thái tồn tại của Pháp, thật ra là “bao gồm tất cả, không bỏ xót thứ gì”. Đạt đến tầng ấy, thật sự cũng chính là đồng hóa Pháp Lý với tầng ấy, lực lượng vũ trụ và trí tuệ của tầng ấy sẽ mở ra cho bạn, để cho bạn dùng. Đó chính là thực chất. vậy đạt đến cảnh giới Pháp của Bồ Tát, đối với Pháp, nên vô sở trụ là ý gì đây? Chúng ta dùng lời giảng của Khổng Tử trong tuổi già “ba mươi rồi lập (đứng dậy trên Đạo), bốn mươi rồi bất hoặc, năm mươi rồi chi thiên mệnh, sáu mươi rồi tai thuận, bảy mươi rồi tùy theo ý muốn không vượt ra ngoài khuôn pháp.” để đối ứng mà giảng, thật ra chính là một loại chân thực của đồng hóa tự tại viên mãn, đối với tất cả thứ gì dưới họ đều biết, đều có thể làm, cũng đều biết được làm thế nào mới là tốt nhất. Pháp, không còn là nguyên tắc quy định của ngoại tại nữa, mà là tồn tại tự tính của nội hoá, thì như nước vậy, vô hình nhưng gặp hình khớp vật, có thể chứa tất cả vật, cũng có thể viên dung trong tất cả. Đạt đến cảnh giới như thế, thật là không gì mà chấp trước, ở dưới cảnh giới ấy, thì thể hiện khả năng rất lớn, cái gì cũng làm được, cái gì cũng hài hòa. Tại đây, Phật Đà lấy hư không mà nói, thực ra không chỉ là hình dung, cũng là nhân cơ hội nói rõ, chính là không nhưng chứa đựng tất cả hữu hình. Trạng thái ấy, cũng là Phật Giáo giảng xã đắc bất trước tướng, thông thường “trước tướng” nhiều người giảng họ không lý giải được, thậm chí có những người với những vật trông thấy cũng không luận nó, thực chất những gì giảng chính là chấp trước. Bất trước tướng chính là không chấp trước, vậy giảng đến đây, đối với “Dung thiên dung địa vu nhân hà sở bất dung” thì cũng đã rõ ràng, ở trên cảnh giới Tự Tính Không Minh của Viên Mãn để phán xét tất cả, thì tự nhiên sẽ nhìn thấy trong tướng phân biệt của chúng sinh ngu si và đáng thương, đương nhiên cứu cánh viên mãn của Phật Đà sẽ có siêu nhiên với “tiếu cổ tiếu kim tiếu nhân gian khả tiếu chi nhân”. Ngạn ngữ của Tây phương giảng rằng: nhân loại vừa suy xét, Thượng Đế lập tức phát cười, cũng là nói ý này. Tại toàn nhiên không tính và cảnh giới của hoàn toàn hiểu biết, với bất cứ cách nghĩ nhận thức của cục bộ là hoàn toàn khác nhau. Lúc ấy thì sẽ biết thực sự của thiên ý vận chuyển biến hóa, là Phật Bồ tát cũng tất nhiên phải hành sự theo ý trời, bản thân họ cũng là sản vật của vũ trụ Đại Pháp và kẻ bảo vệ. Nhìn từ cảnh giới cao hơn, họ cũng chỉ là lạp tử tồn tại của tầng thứ khác nhau trong Pháp vũ trụ, giống như cách nghĩ của biển lớn khác với cách nghĩ của cá voi trong biển lớn, cá voi tuy là sinh vật lớn nhứt trong biển, nhưng sự tồn tại của nó là sống nhờ vào biển lớn, nó rất có thể cho rằng cách nghĩ của bản thân chính là cách nghĩ của biển lớn, thật ra không phải, đó là cách nhìn không tính của tầng diện cao hơn. Không tính, không phải là thứ gì đều không có, mà là thứ gì đều không chấp trước, bấy giờ có thể lý giải một chút ý nghĩa của Phật Chủ giảng “Chấp trước vô toàn vi chân không”, “Xã tận mới là pháp Lý cao nhất của vô lậu”. Nhưng Pháp của quá khứ là giảng cho Phó Nguyên thần, hôm nay chúng ta giải kinh ấy, không phải vì giải kinh mà giải kinh, chính là trở lại nguyên mục đích chân chính của Phật Giáo truyền ra, tại khía cạnh văn hoá quy chính nhận thức của các người, nhằm mở ra cái khóa gài sai của lịch sử, khiến chúng sinh được thức tỉnh lại. Bố thí, đây cũng chính là giúp Phật truyền Pháp độ người. 11. Thế nào là “Bất trụ tướng bố thí”? Chúng ta có thể đưa vài thí dụ để nói rõ, ví rằng người không ăn cơm sẽ đói chết, nhưng bạn yêu cầu họ một bữa ăn một tấn lương thực, cho dù toàn là nhân sâm, sơn trân hải vị, cũng sẽ bị no chết. Một chiếc tàu buồm nhỏ chỉ có thể chở năm ngưòi, bạn lại nói tàu không phải dùng để chở người sao? Tại sao không thể chở năm mươi người? Vì có thể xảy ra tai nạn. Một cái ly nhỏ đưa đến xin một ly nước, bạn lại nói: tôi sẽ dẫn nước trong biển Đông để giúp họ. Tủ lạnh là tốt, có thể đem thực phẩm bảo tồn lâu hơn một cách có hiệu quả, nhưng bạn đem những thứ không thích nghi đông lạnh mà tất cả đông lạnh một cách sai lầm, kết quả sẽ phát hiện ớt trái, cải trắng hư hỏng rất nhanh vì bạn đã đem nó đông đá, còn hư nhanh hơn so với nhiệt độ bình thường, bạn cũng không thể cho rằng đông lạnh sẽ bảo tồn tốt hơn, đều đem trứng gà đông lạnh, vậy có thể hoàn toàn hư hỏng, không cách nào ăn được. Trí tuệ ấy, thật ra Nho Gia Đại Thành gọi là “Trung Dung”, trung dung thực sự tuyệt đối không phải đơn giản ở ngay giữa, thậm chí là trung lập không thiên về phía nào, mà là không tính vô chấp trước. Vậy trí tuệ ấy thật sự mọi người đều có sẳn. Thí dụ nói về phương diện sinh hoạt hàng ngày, rất nhiều người hiểu được đúng mức và thích nghi, làm việc biết tuỳ nơi mà vận dụng linh hoạt, sẽ không rập khuôn, lấy cái gọi là dầu gió xanh thoa tất cả bệnh, hoặc nhận định nhân sâm chính là thuốc tốt nhứt, lấy để trị tất cả chứng bệnh, đó đều là cổ hủ cứng đơ không rõ.Thật ra trị bệnh cảm, có lẽ Sài Hồ không đáng giá có hiệu quả hơn nhân sâm. Trong việc làm, trí tuệ của Trung Quốc xưa nay đều giảng “nhập hương tuỳ tục”, giảng “áp dụng thích hợp theo từng nơi” và “Đạo pháp Tự Nhiên”, thật ra là cùng một nội hàm với “Bất trụ tướng bố thí”, mà tâm thái của bố thí, chính là hoàn toàn mở rộng ra, Trung Quốc cổ xưa xưng là “Công” (của chung). Đạo pháp tự nhiên mà pháp dùng tự nhiên, thân tâm đại công vô tư, chính là tâm thái ấy. Đã hiểu rõ điểm này thì sẽ không cố hủ cứng đơ và dùng cảm tình của người để xem xét đối đãi trí tuệ chân chính. Đại Giác đối với không tính viên minh, trí tuệ của Ông chính là vô hạn, dùng lời của Khổng Tử giảng, chinh là “Quân tử vô sở bất dụng kỳ cực”. Tất cả hiện ra đều có cách dùng của nó, đều có thể đem nó dùng đến mức tốt đa với “Tham ngộ tạo hoá của Thiên Địa”, khiến sinh mệnh giác ngộ thăng hoa. 12. Hiểu rõ điểm này vậy thì chúng ta xem lại “Đệ ngũ phẩm như lý thực kiến phân”. “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng. Phật cáo Tu Bồ Đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai.” Giác Giả giảng Pháp, khéo dạy dỗ từng bước, “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?” Ý là: Tu Bồ Đề, con đã hiểu rõ chưa? Có nghi vấn gì không? Thấy họ đã không có nghi hoặc, tiếp theo lại nêu vấn đề, thật ra quá trình triễn khai của {Kinh Kim Cang}, trên phương pháp trí tuệ chính là rất hoàn mỹ của “Kỹ thuật giáo huấn”, Phật Đà lấy đó để giúp đỡ Tu Bồ Đề chỉnh lý rõ ràng hướng tư tưởng và cách nghĩ của bản thân họ, hỏi thêm “khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ? ”. Đây có hai ý, thứ nhứt là người tu luyện, nếu bản thân còn chưa đạt đến Không Tính Cứu Cánh của Viên Mãn, luôn luôn sẽ dùng cách nghĩ của người (thông thường là tình cảm tôn kính của người) để nghĩ Phật Đà, đồng thời hy vọng có thể nhìn thấy hoặc được gia trì, thật ra cũng đều là hữu cầu, là một loại vọng tâm, nhưng bản thân luôn luôn không phát giác. Đó là một chướng ngại. Mặt khác, Như Lai tại Pháp giới là một trạng thái tồn tại thực ra như thế nào? Là người nhìn thấy giống như tượng khắc vậy chăng? Vậy Pháp của Ông chẳng lẽ có thể lấy phương thức hữu hình khung định sao? Đó cũng là một chướng ngại lý giải Phật Pháp của người tu luyện. Bởi vì “Lấy Đạo mà quan sát, vật vô quý tiện” Phật Chủ giảng: “không phải nói sinh mệnh lớn mới khả quý, nhỏ thì không khả quý”. Thật ra tất cả sinh mệnh, tất cả vật đều là biểu hiện trạng thái tồn tại của Pháp vũ trụ, diễn tiến của chúng tuân theo nguyên tắc của Pháp. Nhưng mà, vì hạn chế bởi tầng thứ và cảnh giới của Tu Bồ Đề, đối với giảng Pháp của Phật đương thời, chỉ có thể là một chủng lĩnh hội ý và lý giải, còn chưa kịp chứng thực, cho nên họ nói như vậy “Như Lai sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng” là ý gì? Chẳng lẽ nói thân tướng của Như Lai là giả sao? Thật ra đó có thể từ bài kệ của Di Lạc trước khi Niết Bàn viên tịch để lĩnh hội, Di Lạc nói: “Di Lạc chân Di Lạc, hóa thân trăm ngàn ức, thời thời đem thị người, thế nhân tự không [nhận] biết” ở trong tất cả đều có thể thị hiện, tất cả hình thức biểu hiện đều có thể vận dụng mà không gì chấp, Pháp của Như lai dưới Ông cũng là tất cả không gì không bao gồm, không gì mà bỏ xót, Ông có thể ở dưới cảnh giới của Ông triển hiện tầng tầng tầng tầng đều là Ông, cũng có thể không triển hiện, cũng có thể lựa chọn triển hiện, Ông là Tự Tại Không Tính Viên Dung. Thân tướng của Ông là gì? Chân thân tướng của Ông, người thông thường rất khó nhìn thấu. Cho nên Phật Đà bảo với Tu Bồ Đề rằng: “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai”. Hư vọng, là vì ý vọng của nhân tâm mà hình tượng biến hóa, nếu có thể thấy đại mỹ của thiên địa, đại toàn của cổ kim, lẫn không gì mà bỏ xót, lúc ấy mới biết chân thực tướng của Như Lai. Đó là một chứng thực, tuyệt đối không phải một cuộc nói chuyện, cũng tuyệt đối không phải hư không vọng tưởng của người. Vì thành tựu cảnh giới của Phật Đà, thân thể cấu thành của Ông là vật chất tốt nhất của vũ trụ, vũ trụ bất hoại Ông bất hoại. Phật Chủ giảng; “Như Lai là bước theo chân lý như ý mà đến của người đời xưng hô”, mà chân chính của Phật, Ông là bậc bảo vệ vũ trụ, ông sẽ phụ trách tất cả nhân tố Chính trong vũ trụ”. Ông là năng lực vô hạn, đồng thời cũng là Pháp Vương trông nom, điều khiển Pháp Lý chân thật như ý của tầng của Ông ấy, mà cảnh giới ấy, lại không phải người cho rằng là hư không, mà lại là cảnh giới của Giác Giả đối với tất cả cảnh giới phía dưới vô chấp mà Viên Dung. (Còn tiếp)
  8. Sự trở lại của “con tàu ma” sau gần 100 năm mất tích Chiếc tàu chạy bằng hơi nước chính là tàu chở hàng “SS Cotopaxi” của Mỹ từng mất tích một cách bí ẩn tại khu vực “tam giác quỷ” Bermuda, nay lại bất ngờ xuất hiện. Chiếc tàu được xác định là SS Cotopaxi xuất hiện sau gần 100 năm mất tích. (Ảnh: segnidalcielo.it) Theo tờ Rossiyskaya Gazeta (Nga), các chuyên gia của Cuba đã xác định tên của con tàu trên sau khi nó được lực lượng cảnh sát biển nước này phát hiện trên biển Caribe. Thông tin được trang điện tử về khoa học Segnidalcielo cung cấp. Tuy nhiên, chưa có nhà khoa học và tạp chí về biển uy tín nào lên tiếng khẳng định những kết luận nói trên của các chuyên gia Cuba. Hôm 16/5/2015, lực lượng cảnh sát biển của Cuba đã phát hiện tại khu lãnh hải gần phía tây thủ đô La Habana, khu vực cấm tàu thuyền đi lại, một chiếc tàu không xác định được danh tính và không trả lời tín hiệu điện đàm. Các tàu cao tốc của cảnh sát biển được cử đi chặn chiếc tàu bí hiểm này đã báo cáo về rằng trên tàu không có một bóng người. Khi trèo lên boong, lực lượng cảnh sát biển phát hiện được cuốn nhật ký của thuyền trưởng Meyer, người từng làm việc cho công ty vận tải tàu biển Clinchfield Navigation Company vào thập niên 1920 của thế kỷ trước. Cuốn nhật ký này đã giúp xác định được tên của chiếc tàu, nhưng không giải thích lý do biến mất bí ẩn của nó. Dấu vết của thuỷ thủ đoàn không được tìm thấy trên tàu. Ảnh tư liệu tàu SS Cotopaxi (Ảnh: segnidalcielo.it) Rossiyskaya Gazeta cho biết, ngày 29/11/1926, chiếc tàu chở hàng chạy bằng hơi nước SS Cotopaxi dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Meyer đã rời cảng Charlestone (Nam Carolina) để vận chuyển than đá tới thủ đô La Havana, Cuba. Ngày 1/12/1926, chiếc tàu nói trên phát đi tín hiệu báo nguy SOS tại vùng biển Caribe. Thuyền trưởng Meyer đã thông báo qua điện đàm rằng chiếc tàu bị thủng và nước tràn vào trong khoang. Sau đó tín hiệu liên lạc bị gián đoạn. Công tác tìm kiếm chiếc tàu và thuỷ thủ đoàn không mang lại kết quả. Ngày 31/12/1926 chiếc tàu được chính thức công nhận là bị mất tích. Từ đó đến nay, SS Cotopaxi luôn có tên trong danh sách các tàu gặp nạn tại vùng “tam giác quỷ” Bermuda. Tam giác Bermuda hay còn được biết đến với tên gọi “tam giác quỷ” là một khu vực không xác định nằm ở phía tây của Bắc Đại Tây Dương, vùng biển Florida, Puerto-Rico và quần đảo Bermuda. Tam giác Bermuda là nơi ghi nhận sự mất tích một cách bí ẩn của nhiều tàu bè qua lại cũng như máy bay khi đi vào khu vực này. (Ảnh: Internet) Những câu chuyện thêu dệt xung quanh khu vực này đã khiến nhiều người tin rằng sẽ không ai có thể trở về nếu lỡ đến đây. Các nguyên nhân gây ra những vụ mất tích bí ẩn được cho là núi lửa ngầm dưới biển, sóng thần, sóng siêu tần khiến các thuỷ thủ đoàn phải rời tàu trong hoảng loạn… Thậm chí, có tài liệu cho rằng “tam giác quỷ” do người ngoài hành tinh kiểm soát. Tuy nhiên, lực lượng bảo vệ bờ biển của Mỹ và công ty bảo hiểm Lloyd tuyên bố rằng số lượng các vụ tai nạn xảy ra tại khu vực này không vượt quá mức trung bình và các nguyên nhân đều hết sức tự nhiên. Theo Trí Thức Trẻ
  9. Nhìn thử theo khía cạnh khác ??? Dù bạn tin hay không nguyên lỹ vũ trụ vẫn hoạt động , ác hữu ác báo là phép tắc vĩnh hằng Truyền thông chính quy mấy hôm nay đã chính thức đăng tin về đại dịch Ebola, và gần đây là căn bệnh lạ khiến người bị mắc chết trong vòng 24h, cùng bùng phát dịch Mers-CoV, Trung Quốc láng giềng Việt Nam cũng đã ghi nhân có ca nhiễm bệnh v..v.. Công trình nghiên cứu tổng hợp dưới đây sẽ khiến bạn rất chấn động về nhiều điểm trùng hợp và đã được kiểm tra một cách minh xác. Nhiều điều tiết lộ dưới đây cũng thuộc nhiều bí mật trong những bí mật mà truyền thông che dấu. Chúng ta không còn nghi ngờ về một đại dịch toàn cầu sẽ xãy ra và làm sao để vượt qua, khi khoa học không thể giúp đỡ con người. (Hình Internet) Qua thời gian tìm hiểu, nghiên cứu sâu về khoa học vũ trụ, Chu Dịch,Kinh Dịch, Sưu tầm các nghiên cứu của các giáo sư, tiến sĩ, tài liệu của người tu luyện trên thế giới; Các Kinh điển trong tôn giáo, cũng như vô số tiên tri, dự ngôn nổi tiếng và kiểm tra tính chân thật của lời tiên tri này. Có một kết luận rất đáng ngạc nhiên? Thấy một điểm chung lớn qua đa số cáclời tiên tri chính là sẽ có sự thanh lọc và đào thải các sinh mệnh trong thời gian sắp tới thông qua những đại nạn lớn như thiên tai, động đất, dịch bệnh lớn,…. và tiếp sau sự “tịnh hóa” đó con người sẽ tiến sang một chu kỳ mới. Cơ quan vũ trụ Nasa gần đây đã quan sát thấy sự trùng tổ biến đổi kinh ngạc trong hệ ngân hà, và nhiều bí ẩn đều che giấu. Văn hóa truyền thống Trung Quốc cho rằng “thiên nhân hợp nhất”, vũ trụ và con người là một chỉnh thể, thời-không của thiên thể vũ trụ và thời-không của địa cầu là có quan hệ đối ứng. Hành vi của nhân loại có thể ảnh hưởng đến thiên tượng. Con người thuận theo trời mà hành xử, trời sẽ có điềm lành, báo hiệu nhân gian mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an; trái lại trời hiển lộ điềm xấu, nhân gian sẽ có điềm báo khác thường cảnh báo về tai họa. Tra cứu lại thời gian hơn 15 năm gần đây, thế giới có 1 sự kiện chấn động lương tri loài người xãy ra tại Trung Quốc, được che dấu 15 năm qua. Tội ác đàn áp đức tin và mổ sống cướp nội tạng kinh doanh của chính quyền Trung Quốc. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều lần đạo đức của nhân loại đã trượt dốc đến một mức độ đáng sợ và lại phải đối mặt với thảm họa. Trận đại hồng thủy trong quá khứ hầu như đã quét sạch toàn bộ thế giới. Hai nghìn năm trước, đế chế La Mã đã bức hại tàn khốc các tín đồ Cơ Đốc, một chuỗi dịch bệnh đã lần lượt giết chết gần một nửa dân số. Thật đáng buồn thay, lịch sử dường như đang lặp lại. Ngày nay, giá trị đạo đức nhân loại lại một lần nữa trượt dốc đến một mức độ nguy hiểm. Việc đảng cộng sản trung quốc đàn áp môn tu luyện ôn hòa Pháp Luân Công, mổ sống cướp nội tạng học viên Pháp Luân Công đã đẩy thế giới và nhân loại tới 1 thảm cảnh đáng sợ. Rất nhiều tiên tri dự ngôn, tôn giáo Đông và Tây đều chỉ minh xác giai đoạn đắc biệt này. (Tra tấn dã man , kèm theo mổ sống cướp nội tạng ) Trong lịch sử nhân loại, rất nhiều chính giáo khi phổ truyền tại thế gian đều gặp phải đối xử bất công. Ví dụ: Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp tại Ấn Độ đã khiến Bà La Môn giáo tức giận (khi ấy Bà Là Môn giáo đã đi vào mạt pháp và xuất hiện tình huống giết người, hiến tế). Đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni chịu bức hại từ Bà La Môn giáo; họ bị bắt một lượng lớn, bị buộc từ bỏ tín ngưỡng. Rất nhiều người bị cung tên bắn chết, có người bị lửa thiêu chết…Sự xuất hiện của Chúa Jesus cũng làm rúng động Do Thái giáo thời bấy giờ. Các tư tế và trưởng lão Do Thái giáo cho rằng người tin Chúa Jesus ngày càng nhiều, và lo rằng sau này sẽ không còn ai cung dưỡng họ nữa. Bởi vậy họ ngụy tạo “lý do”, bày ra “tội danh”, cuối cùng đóng đinh Chúa Jesus trên thập tự giá.Tại La Mã cổ đại, các đồ đệ Cơ Đốc chịu bức hại cực kỳ nghiêm trọng,trải qua bức hại của nhiều đời Hoàng Đế La Mã, trở thành một ví dụ điển hình về bức hại tôn giáo, đồng thời lưu lại cho người đời sau một bài học sâu sắc. Cuộc bức hại trực tiếp dẫn tới ôn dịch bùng phát, khiến hơn 1/3, thậm chí 1 nửa người La Mã chết vì ôn dịch, hàng triệu người tử vong, một con số rất lớn thời bấy giờ. Đế quốc La Mã hùng mạnh bởi vậy sụp đổ và tan rã. (Đại dịch hạch Justinianic Plague diễn ra từ năm 541-542 sau Công nguyên tại Đế quốc La Mã. Với đặc điểm nhận diện là bàn tay của bệnh nhân dần hoại tử.) Bức hại tôn giáo, tín ngưỡng vì sao dẫn khởi ôn dịch phát sinh? Đây là nan đề mà khoa học hiện đại không cách nào giải thích, tuy nhiên đối với người có tín ngưỡng, điều này không phải là không giải thích được. Lịch sử đã tới ngày hôm nay, và cuộc bức hại lại một lần nữa phát sinh. Cuộc bức hại này diện tích lớn hơn, liên quan tới nhiều người hơn, thủ đoạn bức hại cũng càng thâm hiểm và giảo hoạt hơn. Do đó, nó khiến toàn nhân loại rơi vào nguy cơ trầm trọng hơn nữa. Đây chính là điều bài viết này phải chỉ ra, điều khiến người ta lo lắng — nhân loại đang đối diện một cuộc khiêu chiến cự đại! Trong quá trình nghiên cứu virus cảm cúm, các nhà khoa học đã phát hiện ra một vấn đề. Họ phát hiện rằng loại virus cảm cúm biến dị này thật là đáng sợ, và thậm chí không dám đối diện với kết quả nghiên cứu của chính mình. Tháng 7 năm 1999, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công. Tuyên truyền bịa đặt rợp trời dậy đất thông qua truyền thông hiện đại đã lan khắp mọi ngõ ngách trên thế giới; chỉ tính riêng tại Trung Quốc, đã có hàng trăm triệu người chịu độc hại từ lừa dối, trên phạm vi thế giới số người bị đầu độc còn lớn hơn nữa.Và đỉnh điểm là mổ cướp sống lấy nội tạng bán kiếm lợi nhuận. Trong lời tiên tri nổi tiếng về “tháng 7 năm 1999″ Cuộc đàn áp, đỉnh điểm là mổ sống cướp nội tạng chấn động toàn cầu (Video): Vào năm 1999, tháng 7, Để Đại vương Angoulmois phục sinh, Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống, Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ, Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Khi ấy, người ta quan sát thấy trong Thái Dương hệ, trật tự sắp xếp các hành tinh có hình cây thập tự. Đối với con người ngày nay, thì gần như không ai biết rốt cuộc là sự việc gì. Mười lăm năm đã trôi qua,con người dường như đã quên mất rồi, có người cho rằng chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp thiên văn mà thôi. Tuy nhiên, đứng từ góc độ chiêm tinh học mà xét, hàm nghĩa chân chính của nó lại là tử vong! Vào thời Châu Âu cổ đại, thập tự giá là một loại dụng cụ tra tấn. Ngày xưa người ta đem tội nhân trói vào thập tự giá, đóng đinh hoặc thiêu chết, coi như hình phạt tử hình. Do đó hàm nghĩa thực sự của nó chính là “tử vong”. Xét từ lý niệm chiêm tinh học, sự xuất hiện cây thập tự giá lớn trong Thái Dương hệ đại biểu sự tử vong vĩ đại. Đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa, sự thật chắc chắn Nhân loại đang đối diện một tai họa lớn chưa từng có. (Hình minh họa Thập Tự Giá xuất hiện) Trong triết học từng phát biểu con người phải trải qua Sinh – Lão –Bệnh – Tử, còn vũ trụ thì trải qua chu kỳThành – Trụ -Hoại – Diệt. Trong vật lý chúng ta cũng đã biết không có một vật chất nào tồn tại vĩnh viễn, vậy thì trái đất cũng có chu kỳ tồn tại của nó. Để giúp loài người biết được thời điểm đó và chỉ ra một lối thoát từ xưa đến nay các bậc Giác giả, thánh nhân, các nhà tiên tri và kể cả các nhà khoa học luôn để lại cho con người những thông tin cần thiết. Khoa học tìm hiểu được đến đâu: Các giả thuyết khoa học cho rằng quả địa cầu sẽ rơi vào các thảm họa “Địa cầu bị hành tinh khác tấn công”,”Các hành tinh xếp thẳng hàng”,”Bão mặt trời”,”Từ trường địa cầu đảo ngược”,”Thiên thạch lớn đâm vào trái đất” sự phá hủy cũng như gây ra “chết chóc” cho nhân loại. Đây mới chỉ là bước đầu cũng như khả năng hiểu biết của con người về vũ trụ đến đó mà thôi. Tuy nhiên người ta chưa tìm ra cách nào để chống chọi với các hiện tượng này. (Hình minh họa) Người Maya tiết lộ điều gì: Phát hiện kỳ thú nhất bộ phận thần bí nhất trong văn minh Maya là ghi chép về 13 hộp sọ pha lê, nhưng nó không hề cô lập. Ở bên kia Đại Tây Dương mênh mông, sau khi văn minh Maya biến mất mấy trăm năm, nhưng trước khi văn minh hiện đại xuất hiện mấy trăm năm, nhà tiên tri đại tài người Pháp Nostradamus đã viết trong cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» nổi tiếng của ông như sau: “…mười ba hộp sọ pha lê, Sẽ dẫn bạn tìm đến ‘đại lục thứ 6′ bị thất lạc…” . Trong sách nói tới năm 1999, chín đại hành tinh sẽ xếp thành hình chữ thập; sau đó đến năm 1999, lời tiên tri quả nhiên trở thành sự thực, khiến các học giả vô cùng chấn động. Nhưng sau đó cuốn sách này bị cấm, chỉ trong một đêm biến mất khỏi các hiệu sách ở Trung Quốc Đại Lục, nghe nói là vì trong sách có lời tiên đoán về tháng 7 năm 1999 Đảng Cộng sản Trung Quốc đàn áp Pháp Luân Công. (Bản đồ lịch sử văn minh của khu vực Trung Mỹ. Phần màu xanh lá cây chính là nơi phát triển của nền văn minh Maya) Mặt trăng máu xuất hiện nhiều lần trên thế giới : (Hình ảnh mặt trăng máu gần đây xuất hiện nhiều nơi trên thế giới) Trong kinh Phật, cuốn “Đại Chính Tàng Kinh” cũng có đoạn: “Nếu có nhật nguyệt bạc thực, hoặc ngũ tinh hình sắc biến dị, hoặc sao chổi bùng phát thì đó là dấu hiệu của tai họa, dịch bệnh hoành hành, quỷ thần bạo loạn, quân giặc dị quốc xâm lược”. “Khải Huyền” của Thánh Kinh, tiết 12 chương 6 cũng mô tả: “Khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, tôi thấy một trận động đất khủng khiếp xảy ra, mặt trời trở nên tối đen như một bao tải làm bằng lông đen, cả mặt trăng trở nên đỏ như máu”. “Cựu Ước” của Thánh Kinh, tiết 1 chương 7 cũng nói: “Trước ngày tận thế là mặt trăng đỏ máu…” Địa cầu sẽ có các biến hóa mới nữa, động đất, sóng thần, hồng thủy, sấm chớp, mưa bão, núi lửa, cuồng phong, các loại ôn dịch, tai họa, v.v. Giữa các quốc gia, giữa con người với nhau sẽ chinh chiến bất đoạn. Mặt trăng nguyên là thuộc Âm, chính là chủ sát, màu đỏ đại biểu tia máu ngút trời, tương lai mới rõ là chết bao nhiêu người. «Khai Nguyên Chiêm Kinh» cũng đề cập: “Mặt trăng đỏ” đại biểu chiến tranh và việc binh, lại có người lớn trong nước tử vong. Cũng là nói “Quốc gia đổi chủ, đại thần tương vong, khi ấy tất có binh họa phát sinh”. Hiện tượng ‘mặt trăng máu’ xuất hiện lần này trùng hợp với thời điểm các bất ổn xảy ra và lên thành cao trào trên khắp thế giới như: sự xuất hiện của dịch bệnh Ebola khiến hơn 3.000 người thiệt mạng, cuộc tàn sát đẫm máu của phiến quân ISIS lấy đi sinh mạng của hàng chục nghìn người dân vô tội và vụ bạo loạn phản đối chính quyền Bắc Kinh tại Hồng Kông vẫn chưa có hồi kết Bộ tộc KOGI gửi thông điệp gì: “Chúng tôi nói bằng trái tim, những lời nói chân thành nhất rằng: nhân loại đang sắp bước vào một thảm hoạ rất lớn mà từ trước tới nay chưa từng xảy ra. Loài người cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà, đều là con cùng một mẹ. Dù chúng ta có màu da khác nhau, có những truyền thống khác nhau, tuân theo những quan niệm khác nhau, sống trong những điều kiện khác nhau, nhưng tất cả chỉ là bề ngoài mà thôi. Bên trong chúng ta đâu có khác biệt: khi đói chúng ta đều đói như nhau, chúng ta đều có cảm giác vui buồn như nhau. Hiển nhiên đúng như vậy rồi vì chúng ta đều là con cùng một mẹ, nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này vì các em đã quên mất nguồn gốc thiêng liêng của các em rồi…” Kinh Phật tiết lộ thiên cơ : Theo kinh Phật ghi lại, đến thời kỳ mạt pháp (cũng là ngày nay, khi đạo đức nhân loại đã bại hoại), nhân loại tất sẽ có đại kiếp nạn. Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng vào thời mạt pháp, tăng nhân trong chùa tự độ đã là rất khó. Cũng là nói Pháp của Ngài đến thời này đã không thể cứu độ con người được nữa. Phật Thích Ca Mâu Ni khi giảng Pháp năm xưa đã từng nói đến “Chuyển Luân Thánh Vương” (trên thiên thượng gọi là “Pháp Luân Thánh Vương”, cũng xưng là “Di Lặc”), một vị Như Lai với thần thông tối quảng đại, năng lực lớn nhất trong vũ trụ, rồi sẽ hạ thế truyền Pháp độ nhân. Kinh Phật cũng ghi lại rằng, Ưu Đàm Bà La hoa là một loài hoa rất hy hữu, 3.000 năm mới nở một lần. Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa đã từng giảng qua: Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, ý là “Chuyển Luân Thánh Vương” đã hạ thế. Đầu năm 2005, các bức tượng Phật tại chùa Thanh Khê, chùa Long Châu ở núi Quan Nhạc, am Luyến Chủ, thiền viện Tu Di Sơn tại Hàn Quốc đua nhau xuất hiện kỳ quan Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, khiến dân chúng Hàn Quốc mừng rỡ, cũng gây tiếng vang lớn trong giới Phật giáo. Hoa Ưu Đàm nở tại Việt Nam , Quảng Bình (Video) : Kinh “Phật Vô Lượng Thọ” cũng ghi lại rằng “con người sẽ phát hiện ra rằng hoa Ưu Đàm là một dấu hiệu tiên tri”. Sự khai nở của hoa Ưu Đàm, một sự kiện hy hữu chỉ xảy ra 3.000 một lần, là một dấu hiệu cho thấy thời kỳ Phật Pháp hồng truyền tại nhân gian để độ nhân đã bắt đầu. Những bông Hoa Ưu Đàm được phát hiện trên mặt tượng Bồ Tát tại thiền viện Tu Di Sơn ở Suncheon, Hàn Quốc. (Ảnh: Minh Huệ) Kinh Thiên Chúa giáo tiết lộ thiên cơ ( Giải Mã Khải Huyền ) Chúa Jesus căn dặn thế nhân: “Trời diệt Trung Cộng” và Đại đào thải: Tại bờ biển miền Nam bang Victoria, Australia có cụm đá “12 tông đồ” cao chót vót, hình dạng rất giống 12 tông đồ của Chúa Jesus. Sau khi chờ đợi hơn 2.000 năm, vào năm 2004, cụm đá bỗng sụp đổ ầm ầm, khiến người ta chấn động. Chưa được bao lâu, ngay sau Lễ Giáng Sinh ngày 25 tháng 12, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, Trận động đất 9,2 độ Richter ở Ấn Độ Dương tạo ra trận sóng thần cao 30 m đánh vào bờ biển của hơn 10 quốc gia, cướp đi sinh mạng của hơn 225.000 người trong chớp mắt. Trong nỗi bàng hoàng, người ta dần dần ngộ ra rằng: Chúa Jesus đã dùng hai sự kiện kinh thiên động địa này để cảnh tỉnh thế nhân, lời tiên tri trong «Khải Huyền» đã trở thành hiện thực rồi! Đồng thời, nó cũng nhắc nhở người ta rằng Đại đào thải của nhân loại là có quan hệ với ĐCSTQ (bởi vì sóng thần Nam Á phát sinh vào ngày 26 tháng 12, chính là ngày sinh nhật của Mao Trạch Đông, thủ lĩnh ĐCSTQ). (Ở Victoria, Úc, có một quần thế đá vôi kì bí được tôn vinh với cái tên: 12 tông đồ.) Các nhà tiên tri tiết lộ thiên cơ: Các nhà tiên tri từ nhiều quốc gia khác nhau đã dự đoán chính xác về những sự kiện đang diễn ra ngày hôm nay. Tinh hoa trong tất cả các dự ngôn này đều nằm tại Pháp Luân Đại Pháp và điều mà họ đang trải qua. Thần và tổ tiên của nhiều dân tộc khác nhau đã lo lắng rằng con cháu họ sẽ đi đến hủy diệt nếu tin vào những lời phỉ báng chống lại chân lý vũ trụ. Họ đã phải kêu gào: “Hỡi các vị Thần tối cao của con, con xin các Ngài cứu những đứa con của chúng ta.” Cho dù trong lịch sử đã xuất hiện bao nhiêu dự ngôn đi chăng nữa thì mục đích của chúng đều giống nhau, đó chính là cảnh tỉnh con người thời nay và khiến họ chú tâm vào những gì đang xảy ra. Điều đáng kinh ngạc là hấu hết tiên tri nổi tiếng thế giới đều nói tới đại kiếp nạn sẽ phát sinh trong tương lai, đồng thời khuyên bảo thế nhân phải thoát hiểm như thế nào. Thiên cơ đã hiển lộ, chỉ còn xem người đời đối đãi như thế nào mà thôi. Đầu tiên dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn cũng đã tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay. Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Dự ngôn của ông được người đời sau nghiệm chứng, mãi cho đến tận hiện tại, miễn là sự tình đã phát sinh thì đều vô cùng chuẩn xác. Dự ngôn của Lưu Bá Ôn trên bia đá tại núi Thái Bạch, tỉnh Thiểm Tây là do một trận địa chấn mà lộ ra ngoài, nói với người ta cảnh tượng đáng sợ về những sự việc có liên quan đến đại kiếp nạn thời mạt kiếp. (Chân dung Lưu Bá Ôn – người có công rất lớn giúp Chu Nguyên Chương gây dựng nhà Minh.) «Thôi Bi Đồ» đã đề cập kỹ càng tỉ mỉ về tình huống Pháp Luân Đại Pháp bị phỉ báng và bức hại tại Trung Quốc như sau: Giải: Vào những năm Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, ai ai cũng biết ba chữ “Chân, Thiện, Nhẫn”, lại có kẻ dựa vào truyền thanh truyền hình mà nhất tề phỉ báng, nhục mạ; sinh mệnh cao tầng thấy thế nhân bị ác nhân đương quyền lừa dối, che giấu, do vô tri mà bị kéo theo đồng loạt công kích Phật Pháp, từ đó đi vào con đường cụt của sinh mệnh, do đó vì họ mà khóc thương. Phật Chủ Di Lặc tiếp tục kéo dài thời gian đến Pháp Chính Nhân Gian, với hy vọng chúng sinh tỉnh ngộ để tránh bị đào thải, thế nhưng rất nhiều chúng sinh vẫn bất tỉnh! “Đến năm người người đều biết tam tự, không cho là đúng, thanh ảnh tề mạ, Thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không hiểu làm sao, một kéo, hai kéo, ba kéo, chúng sinh bất tỉnh.” (Quyển 2) (“thanh” là chỉ thứ phát ra âm thanh, tức truyền thanh; “ảnh” là chỉ thứ phát ra hình ảnh, tức truyền hình.) Tốn hàng tỷ USD để che dấu tự thiêu Thiên An Môn (Video) : Ghi chú: Vào những năm đầu trấn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân lợi dụng báo chí, truyền thanh, truyền hình để tạo nên vô số lừa dối, ác độc công kích Đại Pháp, lại còn cố ý dàn dựng ra “vụ tự thiêu trên Quảng trường Thiên An Môn” để đầu độc vô vàn bách tính, khiến họ vì không biết mà thù hận Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp. Họ không ngờ rằng loại “thanh ảnh tề mạ” này lại khiến họ phải nhận hậu quả nghiêm trọng. Giải: Trong những năm Pháp Luân Đại Pháp bị bức hại, đệ tử Đại Pháp bị bắt giữ, kết án, thậm chí bị giết hại; tuy nhiên, chúng sinh bách tính vẫn không tin rằng Phật Pháp mà Phật Di Lặc truyền là thật, vẫn cứ phỉ báng nhục mạ Phật Pháp. Do đó, đệ tử Đại Pháp nói với thế nhân chân tướng bức hại là để giúp những người bị lừa dối và đầu độc thoát khỏi kết cục bị hủy diệt vĩnh viễn vì phỉ báng Phật Pháp. “Chúng sinh vẫn cứ bất tín, chửi mắng, phỉ báng, hoành Thiên tảo Địa, người tin phải chịu nỗi khổ bị lưu đày giam ngục.” (Quyển 3) Trong một vạn người chết chín nghìn Giải: Đối diện trường đại kiếp nạn này, những người không tin Đại Pháp, thì sẽ “không thuốc trị được, thổ huyết mà chết”. Những người chân chính tu luyện Đại Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, thì không chỉ bình an vô sự, mà còn từ phàm nhân chuyển thành Thánh nhân; còn người phản đối thì không ai sống sót. Thân Đại nhân hỏi: Liệu có biện pháp nào thay đổi tình huống này không? Thiên Sư đáp lại rằng: Chỉ có ba chữ (tức “Chân-Thiện-Nhẫn”) mới có thể giải cứu… “Có người bất tín, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc trị được, thổ huyết mà chết. Biết được kinh này bảo mệnh, người thực tiễn chân tâm tụng đọc, theo Phật gia an nhiên mừng rỡ vô cùng, chuyển phàm thành Thánh, người không tin không ai còn sống. Thân Đại nhân hỏi có thể thay đổi chăng? Thiên Sư đáp rằng: Duy tam tự có thể giải…” (Tam Tự Kinh : Chân Thiện Nhẫn ) Đây là miêu tả tình huống sau khi đại ôn dịch phát sinh, nói rất minh bạch, không cần giải thích thêm nữa. “Thiên hạ có mười sầu lớn: Nhất sầu tật bệnh vô trị; nhị sầu hạn hán thủy tai, tam sầu ngày đêm bất an; tứ sầu phụ tử bất đoàn viên; ngũ sầu phu thê không gặp mặt; lục sầu xác người chết khắp nơi; thất sầu thây cốt không người liệm; bát sầu áo không người mặc; cửu sầu cơm không người ăn; thập sầu nhà không người ở.” (Quyển 1) Trong «Thôi Bi Đồ» đề cập đến một lượng lớn người bị chết, nhưng vẫn có người thoát khỏi kiếp nạn này. Giải: Người minh bạch chân tướng bức hại, không làm điều xấu, thì trong đại tai nạn vẫn bình an vô sự mà vượt qua; người hồ đồ không biết chân tướng, lại phỉ báng Phật Di Lặc và tham dự bức hại, thì không qua nổi năm thái bình, trốn không được trận ôn dịch này; người đi trên đường chết vô số kể, trong một vạn người chết chín nghìn người; người không tin bộ chân kinh này, mười loại kiếp nạn ở ngay trước mắt. Giải: Người các nơi chết tới 80-90% (an bài cũ), chỉ còn lại một bộ phận người, đều là người lương thiện trong sáng và tu đức hành thiện. (“Thập phương”, là học thuyết về “thế giới mười phương” mà Phật gia khái quát đối với vũ trụ, ở đây có thể lý giải là “người các nơi”.) Ngoài ra phải nói tới «Các Thế Kỷ» của nhà tiên tri nổi tiếng người Pháp Nostradamus, trong số rất nhiều dự ngôn về tương lai của lịch sử nhân loại, tựa như một viên ngọc minh châu tỏa sáng lấp lánh. Trong suốt lịch sử 400 năm sau khi Nostradamus qua đời, «Các Thế Kỷ» đã tiên tri rất nhiều sự kiện trong các thời kỳ khác nhau trên toàn thế giới mà không hề gián đoạn, đồng thời vô cùng ứng nghiệm. (Chân dung của Nostradamus bởi con Cesar) Có nhiều người đã luận giải không ít những sách dự ngôn hoặc các bài thơ dự ngôn nổi tiếng trong lịch sử, chẳng hạn như: Thơ tiên tri “Các Thế Kỷ” của Nostradamus, “Bách Tự Minh”, “Mai Hoa Thi” của Thiệu Ung triều Tống, “Bộ Hư Đại Sư Thi Văn”, “Thôi Bối Đồ” và “Thần Sư Thi” triều Đường, “Thiêu Bính Ca” của Lưu Bá Ôn triều Minh, dự ngôn của người Maya, Hoắc Tỉ dự ngôn, “Cách Am Di Lục” trong cuốn sách dự ngôn nổi tiếng của Hàn Quốc v.v., đều tiên đoán về việc Pháp Luân Công được hồng truyền hôm nay và tình huống các học viên Pháp Luân Công bị bắt giam vô cớ, đồng thời cũng tiên đoán về cảnh tượng đại đào thải đáng sợ sau khi bức hại qua đi, chính là để xem con người thế gian ở trong mê này tin hay không tin. (Minh chân tướng – Đắc phúc báo ) Xã hội nhân loại không có việc nào là ngẫu nhiên, sự xuất hiện của các dự ngôn cũng không phải là ngẫu nhiên. Sinh mệnh cao cấp trong vũ trụ (Phật, Đạo, Thần) đã sáng tạo nhân loại, cũng đã an bài lịch sử và tương lai của nhân loại, nhưng họ không thể thay con người lựa chọn tương lai được. Con người phải tự mình lựa chọn tương lai của chính mình, đây là Thiên lý! Nhưng Thần Phật từ bi với con người, họ đã dùng hình thức dự ngôn để sớm nói hết cho con người những điều lịch sử sắp phát sinh. Đây chính là vì sao các khu vực khác nhau, các dân tộc khác nhau trên thế giới lưu truyền nhiều đời những “Thần Dụ” – Dự ngôn – tương tự nhau được kế thừa từ tổ tiên của chính họ. Bên trong những dự ngôn đó có lời nhắc nhở khuyên bảo của Thần, và cũng có rất nhiều những sự kiện lịch sử quan trọng sắp phát sinh. Thực tế lịch sử đi đến ngày hôm nay, rất nhiều những lời giải đã được tiết lộ: Pháp Luân Công chính là vì cứu người mà đến, chân tướng Pháp Luân Công chính là điều quan trọng quyết định con người có thể tiến nhập vào tương lai hay không, là hy vọng duy nhất mà quyết định con người thế gian có được đắc cứu hay không. Đối với con người ngày nay mà nói, tìm hiểu chân tướng, liễu giải chân tướng, mới là đại sự quan hệ tới tương lai chính bản thân họ. Những lời Tiên tri trùng hợp Phương Tây & Phương Đông (Video): Thiên tai, chiến tranh, bệnh dịch và tai nạn góp phần nói lên điều gì: Trong những năm gần đây những trận động đất rất lớn, những trận sóng thần dữ dội, động đất tại Nepal và bệnh dịch Ebola phạm vi toàn thế giới, đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người đến mức người ta không biết chuyện gì đã xảy ra. Họ quay sang đổ lỗi cho sự phát triển của loài người. Đứng từ góc độ khác chúng tôi xin tiết lộ đó là thiên ý muốn báo cho nhân loại biết lịch sử trái đất sắp chuyển sang trang mới. Trong những cảnh chết chóc kinh hoàng như vậy con người mới trở nên thiện tâm, bởi lẽ khi con người đau khổ thì những thứ dục vọng, danh lợi trở nên tầm thường lúc này con người sẽ có giây phút tĩnh tâm nghĩ về chính mình. Có thể lúc này là lúc chúng ta xem xét lại những lời của các bậc Giác giả, thánh nhân và các nhà tiên tri. Vậy thời khắc đặc biệt này chúng ta phải làm gì : Con người chúng ta, Trái Đất, Hệ ngân hà chúng ta trong vũ trụ này thật quá nhỏ bé. Con người ta sống là có quy luật, đó là “ Sinh – lão – bệnh –tử”, Trái đất này cũng vậy, hệ ngân hà và vũ trụ cũng vậy, cái gì khi đã già cỗi và xấu xa đi thì cũng cần tịnh hóa nó. ở nơi con người chúng ta đây, biển hiện ra chính là đạo đức đang ngày trượt trên dốc lớn, đủ thứ đủ loạn bậy đã xuất hiện trong xã hội,…đây cũng là biểu hiện ra của thời kỳ cuối cùng này. Chúng tôi luôn tâm đắc với câu nói “ Thay đổi vận mệnh bắt đầu từ tâm”. Tương lai gần sắp tới nhân loại sẽ được chứng kiến hết thảy những gì mà họ trước đây đều không tin, chúng tôi luôn cầu mong cho bạn và gia đình sẽ an toàn vượt qua sự thanh lọc này. Nếu bạn là một người tốt, biểu hiện ra từ tâm thiện đó thì bạn không cần phải lo lắng nhiều. Những người tốt, lương thiện, không tham gia đàn áp, phỉ báng và bức hại người tu luyện, không phỉ báng Thần Phật tất nhiên sẽ an toàn trong kiếp nạn. Đào thải chỉ xảy đến với những kẻ xấu ác mà thôi. Cuối cùng xin tặng bạn hai câu: “ Pháp Luân Đại Pháp Hảo – Chân Thiện Nhẫn Hảo”. Nếu bạn luôn lưu giữ nó trong tâm, bạn sẽ nhớ và dùng nó khi đến lúc, và tới lúc đó cũng xin nhớ nhắc nhở người xung quanh bạn….Và đừng quên chia sẽ bài viết này cho mọi người ! Rúng động: Hàn Quốc gần 1.400 ca nghi nhiễm MERS, hơn 700 trường học phải đóng cửa (Ảnh: China Xinhua News, Twitter) Dịch MERS tại Hàn Quốc đang ở mức báo động với tổng số 35 bệnh nhân nhiễm virus MERS và khoảng 1.369 trường hợp nghi nhiễm hiện đang được cách ly. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Hàn Quốc, ông Hwang Woo-Yea cho biết, ít nhất 700 trường học phải đóng cửa để ngăn ngừa virus lây lan. Dịch MERS bùng phát bất thường tại Hàn Quốc hiện vẫn là một câu hỏi lớn, bởi quốc gia này được biết đến với hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, không loại trừ một phần nguyên nhân do “văn hóa bệnh viện” tại Hàn Quốc, nơi người thân thường túc trực tại bệnh viện để chăm sóc bệnh nhân, trong khi MERS dễ dàng lây lan sang những người có tiếp xúc thường xuyên với người bệnh. Theo thống kê của CNN, tính đến thứ Tư (3/6), trên thế giới có 1.179 bệnh nhân được xác nhận nhiễm virus MERS kể từ năm 2012 – theo báo cáo gửi về Tổ chức Y tế Thế giới WHO – trong đó, ít nhất 442 người đã tử vong. Các trường hợp mắc bệnh được ghi nhận tại 25 quốc gia, trong đó có Trung Quốc và Hàn Quốc. Cho đến nay chưa có bất kỳ vắc-xin hay biện pháp chữa trị căn bệnh gây chết người này. Những bất ngờ xung quanh “cái chết đen” (Video) :
  10. Học viên Pháp Luân Công tại Việt Nam và các nơi trên thế giới chào mừng “Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới” – 13/5 Các học viên Pháp Luân Công đang luyện các bài tập tại Công viên Yên Sở, Hà Nội vào ngày 3/5/2015. (Ảnh: Thời báo Đại Kỷ Nguyên) Những người theo tập Pháp Luân Công (còn được gọi là Pháp Luân Đại Pháp) ở Việt Nam đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới – 13/5. Ngày 3/5/2015 vừa qua, các học viên Pháp Luân Công Việt Nam đã tổ chức buổi chào mừng “Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới” (13/5) tại Hà Nội. Họ gửi lời cảm tạ đến Nhà sáng lập Pháp Luân Công – ông Lý Hồng Chí – người được họ gọi một cách kính trọng là “Sư phụ”. Sau đó họ luyện 5 bài tập nhẹ nhàng và chậm rãi của Pháp Luân Công. Học viên Pháp Luân Công Việt Nam chào đón lễ kỷ niệm “Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế Giới” – 13/5/2015. (Ảnh: Thời báo Đại Kỷ Nguyên) Chương trình biểu diễn nghệ thuật chào mừng Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới (13/5) do các học viên thực hiện với những tiết mục múa Lân, đánh trống và múa hoa sen đẹp mắt và sống động. Các học viên Pháp Luân Công biểu diễn những tiết mục biểu diễn nghệ thuật truyền thống để kỷ niệm Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới. Ảnh chụp ngày 3/5/2015. (Ảnh: Thời báo Đại Kỷ Nguyên) Các học viên cũng nói với người xem về những lợi ích của việc tập luyện Pháp Luân Công và về cuộc đàn áp phi pháp đối với môn tập này tại Trung Quốc. Pháp Luân Công là một môn tu luyện tinh thần cổ truyền của Trung Quốc bao gồm những bài giảng về đạo đức theo nguyên tắc Chân, Thiện và Nhẫn cùng năm bài tập nhẹ nhàng và chậm rãi. Pháp Luân Công phổ biến ở trên 114 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với tổng cộng khoảng hơn 100 triệu người theo tập. Những người theo tập Pháp Luân Công ở các nước khác cũng tổ chức kỷ niệm ngày này. Khoảng 1.000 học viên Pháp Luân Đại Pháp đến từ các thành phố ở Đài Bắc và Tân Đài Bắc cùng chúc mừng Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới (13/5). Đây cũng là ngày sinh nhật của nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, ông Lý Hồng Chí. (Ảnh: Minghui.org) Tiết mục biểu diễn múa cờ và trống của Đài truyền hình Tân Đường Nhân (NTD TV). (Ảnh: Minghui.org) Dàn nhạc cổ truyền tham gia hòa tấu. (Ảnh: Minghui.org) Anh Nikolai Tschudin đến từ Thụy Sỹ tham gia lễ kỷ niệm tại Đài Loan. (Ảnh: Minghui.org) Các học viên Pháp Luân Công Đài Loan luyện công chung ở thành phố Đào Viên ngày 3/5/2015 để kỷ niệm ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới (13/5). (Ảnh: Minghui.org) Một học viên nói với khách du lịch về môn tu luyện. (Ảnh: Minghui.org) Người qua đường đọc các tấm áp phích để tìm hiểu thêm về cuộc đàn áp vẫn đang diễn ra tại Trung Quốc đại lục. (Ảnh: Minghui.org) Cô Millen ký tên vào đơn lên án cuộc đàn áp tàn bạo đối với Pháp Luân Công tại khu phố Tàu của Luân Đôn vào ngày 25/4/2015. (Ảnh: Minghui.org) Thị trưởng của 10 thành phố: Addison, Allen, Bedford, Coppell, Frisco, Irving, Lewisville, North Richland Hills, Plano, và Southlake đã gửi thư chúc mừng đến Hội Pháp Luân Đại Pháp miền Nam Hoa Kỳ vinh danh ngày kỷ niệm này. Năm 2014, nhân dịp Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới lần thứ 15, thị trưởng Martin J. Walsh của thành phố Boston, bang Massachusetts, Hoa Kỳ, đã tuyên bố ngày 13 tháng 05 là Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới ở thành phố Boston. Năm 2014, Thượng Nghị sĩ Mỹ Patrick J.Toomey đã gửi thư đến Hội Pháp Luân Đại Pháp vùng Philadelphia nhân Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới và nhân kỷ niệm 22 năm ngày Pháp Luân Đại Pháp được giới thiệu ra công chúng. Thị trưởng Thành phố Cornwall, Ontario, Canada – Ngài Bob Kilger công nhận Ngày Pháp Luân Đại Pháp, tôn vinh các giá trị Chân, Thiện, Nhẫn. theo Tientri.net
  11. Vào 6.000 năm trước vua Phục Hy đã tạo ra tiên thiên bát quái , gồm có 8 quẻ đại biểu cho hoàn cảnh tự nhiên: 1 Càn đạo biểu cho trời, 2 Đoài đại biểu cho trạch (đầm), 3 Ly đại biểu cho lửa, 4 Chấn đại biểu cho sấm, 5 Tốn đại biểu cho gió, 6 Khảm đại biểu cho nước, 7 Cấn đại biểu cho núi, 8 Khôn đại biểu cho đất. Tiên thiên bát quái sau 3.000 năm tồn tại đã không còn đúng nữa. Các cao nhân lúc ấy đã phát hiện rằng thiên tượng đã biến đổi, dùng tiên thiên bát quái để xem quẻ không còn đúng nữa. Chu Văn Vương đã quan sát thiên tượng để tạo ra hậu thiên bát quái. 8 quẻ vẫn giống như tiên thiên bát quái, nhưng đại biểu cho nhân (con người). Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là trưởng nam (con trai cả), Tốn là trưởng nữ (con gái cả), Khảm là trung nam (con trai thứ), Ly là trung nữ (con gái thứ), Cấn là thiếu nam (con trai út), Đoài là thiếu nữ (con gái út). Hình wiki Hậu thiên bát quái mà Chu Văn Vương tạo ra được tồn tại cho đến ngày nay. Các danh nhân xưa này đều nhờ bát quái này mà thành danh như Tôn Tẫn, Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn, Lý Thuần Phong, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Bình Khiêm v.v… Nhiều người thông qua hậu thiên bát quái mà liệu việc như thần, tiên đoán chính xác sự việc đến hàng trăm, hàng nghìn năm về sau như ‘’thôi bối đồ” của Lý Thuần Phong, ‘’mã tiền khóa’’ của Gia Cát Lượng, ‘’sấm trạng trình’’ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đặc biệt những lời tiên đoán này theo thời gian chỉ đến hiện tại là kết thúc, vậy vì sao các danh nhân chỉ tiên đoán đến thời điểm hiện tại là dừng, có gì đặc biệt ở đây không? Năm 1984 truyền thông Trung Quốc đưa tin “Sớm ngày 16 tháng 8 năm 1984, tại Đông Quan thuộc huyện Hoài Dương, một thiếu niên tên là Vương Đại Oa đã câu được một con bạch quy tại ao Bạch Quy trước đài Họa Quái. Chú rùa này toàn thân trắng toát, trong sáng lung linh, nặng 1,3 cân, gần như hình tròn. Theo giám định của chuyên gia hữu quan, chú rùa này đã 235 tuổi. Các chuyên gia kinh ngạc khi phát hiện các hoa văn trên thân bạch quy, cùng với bức họa Tiên thiên Bát quái của Phục Hy là nhất trí đến lạ thường. Chính giữa mu rùa có năm miếng, tượng trưng cho ‘Ngũ Hành’ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; xung quanh trung tâm mu rùa có tám miếng, tượng trưng cho Bát quái là Càn, Cấn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Khôn, Đoài; vòng ngoài mu rùa có 24 miếng, tượng trưng cho 24 tiết khí, dưới bụng có 12 miếng, tục xưng là ‘Địa chi’, tượng trưng cho Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi; móng rùa giống móng rồng, bắp chân có chữ ‘nhân’.” Sau khi sự kiện bạch quy xuất hiện, rất nhiều người được xem là bậc kỳ nhân về kinh dịch vốn dĩ trước đây xem quẻ rất linh nghiệm thì giờ đây phát hiện xem quẻ không còn linh nghiệm như trước nữa, không phải là xem không linh nghiệm hoàn toàn, mà mất dần dần linh nghiệm, và tới thời điểm hiện tại thì xem quẻ đã không còn đúng nữa rồi. Như vậy có thể nói rằng hậu thiên bát quái ngày nay cũng giống như tiên thiên bát quái khi xưa, sau 3.000 năm tồn tại thì không còn đúng nữa, vì thiên tượng đã thay đổi. 3.000 năm trước khi phát hiện ra tiên thiên bát quái không còn đúng, Chu Văn Vương quan sát thiên tượng mà tạo ra được hậu thiên bát quái ứng với thiên tượng đã thay đổi vào lúc đó. Vậy nay thiên tượng lại biến hóa, hậu thiên bát quái sau 3.000 năm cũng không còn đúng nữa, vậy ai là người sẽ sáng tạo ra bát quái tương lai đây? Không chỉ là kinh dịch có sự thay đổi mà thiên văn cũng vậy, ngày nay các nhà khoa học đều phát hiện rất nhiều ngôi sao trên bầu trời bị nổ tung, rồi trùng tổ, nhiều ngôi sao biến mất đi, cũng có nhiều ngôi sao được trùng tổ lại mới. Như vậy ngày nay nếu bạn dựa vào kinh dịch hay thiên văn để xem bói toán thì không còn chuẩn xác nữa rồi. Vậy thiên tượng tương lai sẽ biến đổi thế nào? Ai sẽ tạo ra bát quái mới? Câu trả lời là bái quái mới đã hình thành. Người tạo ra bát quái mới hiểu rõ thiên tượng 6.000 năm trước khi tiên thiên bát quái hình thành, 3.000 năm trước khi hậu thiên bát quái hình thành, cũng như thiên tượng của tương lai. Hiểu rõ quy luật chuyển từ tiên thiên bát quái sang hậu thiên bát quái, cũng như quy luật vận chuyển để từ hậu thiên bát quái hình thành bát quái tương lai. Sự thay đổi của thiên tượng sẽ dẫn đến biến hóa trên địa cầu, có thể trong tương lai không còn xa nữa, bát quái mới sẽ xuất hiện và được công bố ra nhân loại? Chúng ta hãy cùng chờ xem. Ngọn Hải Đăng Theođaikynguyen tham khảo thêm http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/33292-vi-lai-bat-quai-phuong-vi/#entry236381
  12. “Tìm lại huy hoàng” phần 1: Câu chuyện nguồn gốc loài người Vườn địa đàng, Adam và Eva (Ảnh: internet) “Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà. Trong học thuyết tiến hóa đầy sơ hở của Darwin, con người được cho là bắt nguồn từ cỏ cây dưới nước, bò sát lưỡng cư rồi thành vượn, từ đó tiến hóa thành con người. Con người vẫn hoàn toàn yên tâm mình có nguồn gốc từ động vật như vậy trong suốt những năm đầu của thế kỷ 20, cho tới khi liên tiếp được các nhà khoa học phát hiện ra là học thuyết này chứa đựng quá nhiều những chi tiết sai lầm và sơ hở, rằng con người nhiều khả năng là một sinh mệnh đặc biệt, hoàn toàn độc lập không liên quan đến loài khỉ vượn. Con người cũng có nhiều đặc điểm mà động vật dẫu có tiến hóa hàng triệu triệu năm nữa cũng không thể tiến gần được. Vậy chúng ta bắt đầu đặt lại câu hỏi: chúng ta vốn là ai? Chúng ta từ đâu tới? Rồi sẽ đi về đâu? Thần sáng tạo và nâng niu loài người trên trái đất (Ảnh Wiki) Nhìn lại những câu chuyện huyền sử lưu truyền từ đời này qua đời khác của mọi dân tộc trên thế giới, con người thấy rằng mình có nguồn gốc cao quý hơn vượn gấp bội phần. Đối với thần thoại Hy Lạp cổ, con người là do Prô-mê-thê sáng tạo ra. Đối với người Do Thái, chính Giê-hô-va đã làm điều ấy. Còn trong thần thoại cổ phương Đông, Nữ Oa ra tạo ra con người. Có thể thấy rằng, các câu chuyện giải thích về nguồn gốc của nhân loại đều có chung một đặc điểm: con người là do Thần tạo ra. Mỗi dân tộc khác nhau được sáng tạo bởi những vị Thần khác nhau (do vậy có chủng người da trắng mắt xanh, da vàng mắt đen hay da đen…), và tất cả Thần đều đã tạo ra con người có hình dáng giống với chính bản thân họ. Thần ban cho con người những điều đặc biệt khiến họ vĩnh viễn phân khai với mọi tạo vật khác trên trái đất. Các Thần dùng bùn đất nơi không gian của họ để nặn ra con người và thổi hơi Tiên vào để ban cho sự sống. Thần nâng niu và thương mến con người mà họ đã tạo ra, chăm nom cho con người từ những ngày đầu non nớt, ban cho họ mọi thứ và giúp đỡ họ vượt qua những tháng ngày khai thiên lập địa đầy khó khăn… Huyền sử Châu Âu: Giê Hô Va sáng tạo ra con người Thiên Chúa- Giê Hô Va sáng tạo người Châu Âu – wiki Trái đất được cho là trung tâm của vũ trụ; và loài người được vinh dự là trung tâm của trái đất. Tại sao loài người lại được các vị Thần ban cho đặc ân như vậy? Câu trả lời: “Vì các Ngài muốn tạo ra một sinh linh đặc biệt, một sinh linh giống các Ngài”. Trước đó trong vũ trụ chưa bao giờ tồn tại một loài sinh vật giống với hình dạng của Thần.” Thánh Kinh chép rằng Thiên Chúa Giê Hô Va tạo ra đại địa và vạn vật trong 24 ngày, ngày thứ 6 Chúa nói: “Dựa theo hình tượng của chúng ta để tạo ra người đàn ông…” Sau đó, con người vừa được tạo ra đó được thổi linh hồn vào hai lỗ mũi, trở thành một người đàn ông tên gọi là Adam. Adam đến từ tiếng Do Thái, có [nguyên] nghĩa là “bùn đất”. Sự tạo dựng Adam- tranh trần Siscine nổi tiếng- ảnh Wiki Ngài cũng tạo ra một khu vườn ( vườn Eden hay vườn Địa Đàng) và đặt Adam ở đó, cho phép anh ăn tất cả các loại trái cây trong vườn trừ cây nhận thức Tốt và Xấu – Trái cấm. Vì thấy Adam cô đơn trong vườn Địa Đàng, Chúa đã rút một xương sườn của anh và tạo ra người phụ nữ tên gọi Eva. Ngoài ra, Chúa cũng tạo ra chim muông và thú vật. Đó là nguồn gốc của người châu Âu. Adam và Eva trong vườn địa đàng. Ảnh Wiki Huyền sử Hy Lạp: Thần Prô-mê-tê sáng tạo ra con người Prometheus đem lửa về cho con người- Ảnh Wiki Theo huyền sử Hy Lạp, trên đỉnh Olympia thủa ấy, khi trái đất còn đang trong cảnh hỗn mang tăm tối. Anh em Prô-mê-tê (Prometheus) và Ê-pi-mê-tê (Epimetheus) được Thần Dớt (Zeus) đã giao cho họ nhiệm vụ cai quản trái đất, sáng tạo ra con người. Hai Anh em Prô-mê-tê đã lấy đất sét trộn với nước nặn thành hình muôn loài. Trong khi người em đã nặn ra không biết bao nhiêu loài sinh vật, thì người anh Prô-mê-tê vẫn chưa hài lòng với tác phẩm đầu tiên của mình. Ông muốn tạo ra một sinh vật phi thường có khả năng nắm giữ trái đất. Sau mười hai ngày đêm, Prô-mê-tê cuối cùng cũng hoàn thành tác phẩm. Prô-mê-tê đã tạo ra Đàn ông theo hình dáng các vị Thần và nghĩ “Ta sẽ cho sinh vật này một tài năng để vượt qua muôn loài”. Ông vậy đã ban cho con người một số đặc tính của Thần để giúp con người vĩnh viễn phân khai với động vật. Vì muốn trao một đặc quyền gì đó cho con người, Prô-mê-tê bèn trộm lấy lửa của thần Dớt đem xuống trần gian trao cho những sinh linh yêu quí. Lửa thắp sáng và sửa ấm. Nhờ đó mà con người ngày càng phát triển. Thần Dớt sau đó lệnh cho các vị thần tạo ra Pan-do-ra, người phụ nữ đầu tiên với hình dáng phụ nữ yểu điệu. A-the-na (Athena) – vị thần của nghề thủ công mỹ nghệ, trí tuệ, rất thích tác phẩm của anh mình, nên đã ban cho Pan-do-ra sự sống, sự khéo tay. Còn dạy nàng Pan-do-ra biết dệt vải, may vá… cùng nhiều kỹ năng khác. Thần A-phro-di-te (Aphrodite), nữ thần của sắc đẹp và tình yêu tạo cho nàng Pan-do-ra dung nhan xinh đẹp. Mỗi vị Thần góp một chút để tạo ra đặc tính của Pan-do-ra. Sức mạnh của Thần Dớt (Ảnh wiki) Vậy là hai tạo vật của Thần, người nam và người nữ, đã được hình thành, từ đó sinh sôi nảy nở và phát triển tri thức, dần dần hình thành nên xã hội loài người. Huyền sử Phương Đông: Câu chuyện Bàn Cổ khai thiên lập địa và Nữ Oa sáng tạo con người Chân dung vua Bàn Cổ – ảnh wiki Theo huyền sử Phương Đông, cách đây rất rất lâu, trời và đất vẫn còn là cõi hỗn mang, toàn bộ vũ trụ được bao phủ bởi một đám mây hình quả trứng. Mọi thứ đều hỗn độn. Trong xoáy sâu hun hút đó là một vị Thần do linh khí trời đất sinh ra, Bàn Cổ, một người khổng lổ sinh ra từ hỗn độn. Ông đã ngủ trong quả trứng đó 18 nghìn năm. Một ngày nọ, ông thức giấc và duỗi mình khiến quả trứng bị vỡ và mọi thứ tản vào vũ trụ. Thứ màu sáng, tinh khiết bay lên tạo ra bầu trời và thiên đường. Thứ nặng hơn, không tinh khiết lắng xuống tạo thành mặt đất. Trong vũ trụ mới này, Bàn Cổ lo rằng mọi thứ sẽ lại hỗn độn nếu Trời và Đất hợp lại, nên ông quyết định dùng thân mình để giữ chúng tách ra. Thêm 18 nghìn năm nữa, Bàn Cổ tiếp tục lớn lên đến khi Trời và Đất cách nhau 30,000 dặm. Sứ mệnh của ông chính là giữ cho Trời và Đất không hợp lại. Đó là cách mà vũ trụ và trái đất bắt đầu, một nơi đẹp đẽ và thanh bình. Các sinh mệnh từ những hành tinh khác, cả tốt lẫn xấu bắt đầu tiến nhập vào. Sau khi ông Bàn Cổ khai thiên lập địa, Nữ Oa đã du ngoạn đó đây giữa Trời Đất. Lúc đó, mặc dù trên mặt đất đã có sông núi cây cỏ, có động vật chim muông, các loài thú, cá, nhưng vẫn không sinh động hoạt bát, bởi vì trên Trái Đất còn chưa có loài người. Một hôm, Nữ Oa đi lại trên Mặt Đất hoang vắng tĩnh mịch, trong lòng cảm thấy rất cô đơn, bà cảm thấy phải tăng thêm thứ gì đó có sinh khí hơn cho Trời Đất. Nữ Oa thấy sáng tạo của Bàn Cổ còn chưa hoàn chỉnh, trí tuệ của chim muông sâu cá vẫn chưa làm bà cảm thấy hài lòng. Bà cần phải sáng tạo ra sinh linh xuất sắc hơn bất cứ sự sống nào. Nữ Oa bay lượn dọc theo sông Hoàng Hà, cúi đầu thấy bóng dáng xinh đẹp của mình, bất giác vui mừng. Bà quyết định dùng bùn đất dưới sông nặn một người đất theo hình dạng của mình. Những người đất này hầu như giống bà, chỉ khác là bà nặn cho họ đôi chân phối hợp với đôi tay, để thay thế đuôi rồng. Nữ Oa thổi hơi tiên vào những người đất nhỏ này, chúng liền được tiếp sức sống, và trở thành những sinh vật nhỏ có thể đứng thẳng người đi lại, biết nói, thông minh khéo léo, Nữ Oa gọi họ là “Người”. Nữ Oa tạo ra loài người – Tranh của Sm Yang/ The Epoch Times Bà tiếp dương khí lên một số người trong đó—một loại yếu tố tính nam thích đánh nhau trong giới thiên nhiên, do đó họ đã trở thành đàn ông; còn trên một số người khác, bà lại tiếp âm khí–một loại yếu tố tính nữ hiền lành trong giới thiên nhiên, do đó họ trở thành đàn bà. Những người đàn ông đàn bà này vây quanh Nữ Oa nhảy múa, reo hò, mang lại sức sống cho Mặt Đất. Nữ Oa muốn để loài người phân bố khắp nơi trên Mặt Đất, nhưng bà đã mệt, làm đã chậm hơn trước. Do đó, bà nghĩ ra một cách làm nhanh chóng. Bà cầm một sợi dây rơm cỏ thả xuống đáy hồ ngoáy trong bùn, cho đến khi đầu dây dính đầy bùn liền vung lên, cho bùn tung toé ra khắp nơi, những đám bùn đó biến thành những người nhỏ. Nữ Oa đã như vậy sáng tạo ra mọi người phân bố rộng trên Mặt Đất. Trên Mặt Đất đã có người, công việc của thần Nữ Oa hầu như có thể chấm dứt rồi. Nhưng bà lại có một ý nghĩ mới: Làm thế nào mới khiến con người có thể sinh sống tốt được? Người cuối cùng thế nào cũng chết, chết đi một số, lại làm ra một số, như vậy thì phiền phức quá. Do đó, thần Nữ Oa liền ghép cặp đàn ông đàn bà với nhau, dạy họ sinh con đẻ cái, gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng đời sau. Loài người đã sinh sôi nảy nở như vậy, và ngày càng tăng lên. Thần Nông, vị hoàng đế kế vị Nữ Oa, trở thành thủy tổ Tộc Việt Tiếp sau đó, khi trời phân chia Nam Bắc (tộc Việt ở phía Nam, Trung Quốc là đất Bắc), theo sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, vị kế nhiệm của Nữ Oa là Thần Nông, còn gọi là vua Viêm Đế, hay Ngũ Cốc Tiên Đế, được xem là thủy tổ của người Việt. Phần lời tựa trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép: “Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thuỷ tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương”. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có kể rõ lai lịch ba đời này: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông (vua Viêm Đế), đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Tiếp sau đó, Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (tức Trung Quốc, từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam –(tức đất Việt, từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ. Quốc gia đầu tiên của tộc người Việt vậy là có tên Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh trăm người con trai. Trong các câu chuyện huyền sử, vũ trụ được mô tả rộng lớn mênh mang, chư Thần Phật nhiều vô số, nên mỗi chủng người đều có một lịch sử khác nhau, do chính những vị Thần của họ sáng tạo ra, ban cho họ hình dáng giống mình và ban cho họ sự sống, dẫn dắt họ từ những ngày đầu khai sáng địa cầu này. Đó là câu chuyện về khởi nguồn của các chủng người khác nhau trên Trái Đất từ ngày khai thiên lập địa. theo thời báo Đại Kỷ Nguyên
  13. Tiên giới thánh duyên Chử Đồng Tử và Tiên Dung Từ trước tới nay, câu chuyện cổ tích giản lược về Chử Đồng Tử và Tiên Dung thường hay làm dấy lên những thắc mắc trong lòng người đọc như: Tại sao công chúa Tiên Dung lại dám tự ý kết duyên không theo lệnh vua cha? Một câu chuyện gặp nhau trong phòng tắm ngoài trời, có gì đáng để lưu lại ngàn đời và trở thành một trong tứ bất tử ở Việt Nam? Đó là bởi vì những gì tinh túy nhất, thâm sâu nhất đã bị giản lược đi, chỉ để lại hiện tượng bề mặt đọc qua thấy trần trụi và thô tục. Người đời sau không biết lại tiếp tục gán cho huyền sử này một ý nghĩa “quyền tự do yêu đương” theo nhu cầu của con người hiện đại. Sự thực có phải như vậy không? Khi những câu chuyện huyền sử được truyền từ đời này sang đời khác, người ta đã tự ý sửa lại, cắt xén, thêm bớt theo nhận thức và quan niệm của mình. Vì càng ngày càng có nhiều người không tin sự tồn tại của thần Phật, nên những chi tiết nguồn gốc “tiên cốt” của các nhân vật hay các tình tiết thần thoại thường bị lược bớt đi sau này (“tiên cốt” hay “cốt tiên” nghĩa là nhân vật vốn có nguồn gốc thần tiên trên thượng giới đầu thai làm người phàm). Ý nghĩa của bản huyền sử gốc: Hết thảy đều hành sự thuận theo thiên ý (ý trời). Thay vào đó, các đời sau chỉ chép lại nội dung bề mặt, mô tả nhân vật như những con người gốc gác hoàn toàn phàm tục, và đưa vào những ý nghĩa phù hợp với quan niệm của mình. Như đề cập tới trong phần 3: Tứ bất tử của Việt Nam, họ là ai, Chử Đồng Tử được tôn vinh là Chử Đạo Tổ (Đạo Tiên). Bản thần tích gốc về câu chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung do Nguyễn Bình soạn vào năm 1572 toát lên ý nghĩa: Tình tiết chính của câu chuyện: Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân vốn đều có nguồn gốc Tiên trên thượng giới xuống theo Thiên ý để thực hiện sứ mệnh của mình. Hoàn cảnh gặp gỡ kỳ lạ hay hôn nhân tự nguyện rốt cuộc chỉ cái cớ tác thành để họ cùng nhau thực hiện sứ mệnh giúp dân giúp nước và đặt định tín ngưỡng Phật Đạo Thần cho dân tộc Việt. Vua Hùng thứ 18, là vua Hùng Duệ Vương, sinh được một người con gái đẹp như tiên vì thế đặt tên là Tiên Dung. Ngay trước lúc sinh công chúa, nhà vua nằm mộng thấy mình bồng trên tay một bé gái có mây ngũ sắc vờn quanh. Đêm ấy hoàng hậu thụ thai rồi sinh ra công chúa Tiên Dung. Tiên Dung xinh đẹp, nết na hiếu thảo. Năm Tiên Dung 16 tuổi nhiều Lạc Hầu, Lạc Tướng đều nhắm nhe muốn xin làm con rể vua Hùng. Thái tử con vua nước phương Bắc, Hoàng đế nước láng giềng phía Nam cũng gửi lễ vật xin được ra mắt Tiên Dung. Hết thảy lời cầu xin Tiên Dung đều từ chối. Không phải nàng trịch thượng kiêu kỳ, hay muốn quyền tự do lựa chọn, mà là nàng chờ đợi thiên ý. Công chúa cúi đầu tâu với vua cha: Muôn tâu Phụ vương, con trộm nghĩ truyện trăm năm do trời đất sắp đặt, việc lúc nào đến sẽ đến, con đâu dám trái mệnh trời. Vua Hùng nghe hài lòng, không ép. Lại thể theo ý nguyện của Tiên Dung, nhà vua truyền cấp cho chiếc thuyền lớn để nàng đi du ngoạn khắp nơi. Công chúa tâu với vua cha: Muôn tâu con mong muốn biết các thần dân của phụ vương sống ra sao, muốn xem bờ cõi phụ vương mở rộng tới đâu, núi sông tươi đẹp như thế nào. Lần ấy công chúa Tiên Dung cho thuyền theo dòng sông Cái đi mãi về xuôi. Giữa những bãi dâu, lũy tre, đồng lúa xanh rì, con sông uốn khúc đưa thuyền công chúa trôi mãi tựa như có một bàn tay vô hình đưa đẩy. Đứng tựa mạn thuyền, chợt công chúa thấy qua khúc ngoặt hiện ra trước mắt mình một bãi cát vàng chạy dài tít tắp. Sao đây chưa phải là bờ biển, sao đây không gần núi đá cao mà lại có bãi cát mịn sạch bong như thế này? Tiên Dung truyền lệnh cắm sào lên bãi cát dạo chơi. Nước sông trong vắt, sóng lăn tăn vỗ quanh mạn thuyền, bãi cát phẳng lỳ chưa hề có dấu chân người. Tiên Dung truyền vây màn, cho nàng tắm mát. Nước mát lạnh khiến nàng tắm thỏa thích vì thế không hề hay biết cát khô dưới chân bị nước cuốn trôi để lộ ra cái đầu, tảng ngực trần và toàn bộ thân thể một người con trai, cũng giống nàng, không một mảnh vải che thân. Công chúa suýt kêu lên một tiếng gọi thị nữ. Vừa lúc người kia ngửng lên, Tiên Dung kịp nhận ra gương mặt chàng trai hai mắt mở to, vẻ còn sợ hãi hơn nàng. Tiên Dung hỏi: Người là ai? sao lại ở đây? Chàng trai đáp: Thưa tôi họ Chử, làm nghề đánh cá, nhà ở gần đây thôi. Tôi … Công chúa lại hỏi tiếp: Vậy nhà ngươi mắc tội gì? Vì sao phải đi trốn như thế này? Chàng trai vẫn nằm yên trên cát, trả lời: Tôi không có tội gì cả, chỉ vì tôi nghèo, không có quần áo che thân nên khi thấy người lạ, phải chui vào bãi cát, bụi lau lẩn trốn… Nơi bãi cát Chử Đồng Tử trốn, nay chính là Xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, Hà Nội Không thể kéo dài cả hai trong cảnh ngộ như thế này. Tiên Dung ném cho chàng trai cái khăn và gọi chàng trai đứng dậy, ngắm nhìn gương mặt thuần hậu của chàng, nàng hỏi tiếp: Chuyện của chàng hẳn là dài lắm? Tên chàng là Chử Đồng Tử. Đồng Tử quê ở Chử Xá (nay thuộc xã Văn Đức, Huyện Gia Lâm, Hà Nội). Cha chàng là Chử Cù Vân, mẹ tên Bùi Thị Gia. Một này kia, trong lúc ông bà Chử đi vắng, đột nhiên ngọn lửa bốc lên thiêu trụi căn nhà nhỏ, không để lại chút gì dù chỉ là cái bát mẻ để ăn cơm. Rồi sau đó bà Gia ốm nặng, và mất. Từ đấy cha con Chử Đồng Tử đùm bọc nhau, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. Có lẽ trên thế gian này chưa có ai nghèo như bố con họ Chử, nghèo đến mức cả nhà chỉ có một chiếc khố dùng chung. Suốt ngày, hai người ngâm mình dưới nước đánh bắt cá, mỗi lần có việc phải tiếp xúc với người ngoài hoặc đi chợ bán cá, mua gạo thì cha nhường con, con nhường cha mặc khố lên bờ. Trước khi ra đi, ông Chử Cù Vân dặn con: Bố chết đã có đất cát vùi kín. Con ở trần gian không thể ở trần đi ra ngoài, nên giữ khố này để mà dùng. Nhưng Đồng Tử đã ngăn lại và nói: Bố cứ yên lòng. Con sống ở đời chịu khó làm ăn sẽ mua được nhiều quần áo. Không thể để cha chết trần. Chử Đồng Tử quỳ lạy cha xin tha tội bất hiếu, đóng khố cho cha cẩn thận rồi mới đem chôn. Cũng từ đấy Chử Đồng Tử thường suốt ngày lặn ngụp đánh cá ở những quãng sông vắng. Mỗi lần gặp thuyền buôn đi qua chàng cứ phải đứng ngâm nửa mình dưới nước. Sẽ không ai biết trên đời có một chàng Chử Đồng Tử hiếu thảo nhường ấy, nghèo khổ nhường ấy, nếu như… Thiên duyên kỳ ngộ: cuộc gặp gỡ của hai người do trời dẫn dắt … Chử Đồng Tử bạo dần lên, kể tiếp: Tôi đang đánh cá thì nghe tiếng đàn hát, cười nói. Sự tình hoảng hốt còn phân vân chưa biết tính sao thì thuyền đã lướt tới. Cũng vì hôm nay tôi mải đuổi bắt một con cá to. Khi đầu nó nhô lên, hai mắt như hai viên ngọc, vẩy bạc óng ánh. Cứ mỗi lần con cá quẫy đuôi là tôi lao tiếp theo vài sải. Những tưởng mười mươi chộp được, ai ngờ nó lặn mất tăm, ngẩng đầu lên đã thấy buồm gấm như một đám mây phủ sẫm mặt nước. Tôi chỉ còn cách xấp ngửa chạy lên bờ như mọi khi tìm bụi lau chui vào ẩn nấp. Nhưng… quanh mình chỉ thấy bãi cát trống trơn. Thưa, bãi cát… như là con sông theo lệnh Long Vương rút cạn nước mà nên sự tình. Vì quãng sông này tôi thường lui tới. Vừa mới hôm qua tôi còn ở đây mà chưa hề thấy. Tôi càng chạy cát càng lún dưới chân, ngoảnh nhìn lại thấy thuyền đã đậu bên bờ. Thuyền đậu mà vừa to vừa lạ. Tôi chỉ còn cách moi cát vùi mình xuống. Tưởng cố nằm chờ, mọi sự sẽ qua đi. Ai ngờ… Đến lượt Tiên Dung tự kể chuyện mình: Thiếp là con gái vua Hùng… Chử Đồng Tử giật mình quỳ xuống: Tôi không được biết, xin tha tội chết. Tiên Dung vội bước lên, nâng chàng dậy. Chử Đồng Tử vừa ở nơi đó, hôm qua còn chưa có bãi cát này, rồi lại được dẫn dắt để đuổi theo con cá mà tới địa điểm gặp gỡ, là ngẫu nhiên hay đều do Trời sắp đặt, là ý Trời dẫn dắt? Nàng Tiên Dung chắp hai tay trước ngực, mặt ngửa nhìn trời: Tôi đã nguyện không lấy chồng nhưng hôm nay gặp chàng trai trong cảnh ngộ này cũng là do trời đất sắp đặt xui khiến. Nói rồi nàng vén màn truyền thị nữ mang thêm cho một bộ quần áo, bộ nam trang luôn có sẵn trên thuyền đã một lần công chúa mặc cải dạng lên bờ trảy hội. Tất cả thị nữ đều kinh ngạc mở to mắt khi thấy nữ chủ nhân của mình từ trong màn bước ra bên một chàng trai tuấn tú. Hai người sánh vai nhau bước xuống thuyền. Công chúa kể lại sự tình cho các thị nữ cùng nghe rồi truyền mở tiệc hoa. Từ lúc bước chân lên thuyền, bước vào một thế giới mới giàu sang quyền quý, lại biết mình sẽ kết vợ chồng cùng công chúa, Chử Đồng Tử có ý từ chối. Nhưng Tiên Dung nói: Hai người bước ra đầu thuyền quỳ trên chiếc chiếu đậu. Trước mặt là hương án bày đĩa hoa, bát nước và ba nén hương. Đôi vợ chồng trẻ khấn lạy cảm ơn sự tác thành của trời đất, cầu xin các đấng thần linh chứng giám. “Ta làm theo ý Trời, là do duyên Trời tác hợp, chàng việc gì mà lo ngại?” Công chúa Tiên Dung: Mời chàng sang nghỉ phòng bên. Thiếp đã cho người về báo với vua Cha, Mẫu Hậu và Thái Trưởng công chúa, Duyên khánh công chúa, Thái Hiến công chúa. Khi nào được phép chúng ta sẽ thành thân. Bổn phận làm con, phải giữ tròn chữ hiếu, chữ trinh. Người thị nữ cầm giá nến đi trước dẫn đường, Chử Đồng Tử theo sau. Nào ngờ… Nghe con gái cử người về báo tin, vua Hùng nổi giận: Tiên Dung không biết trọng danh tiết, đi chơi giữa đường lại hạ giá, lấy người nghèo. Thiếu gì vương tôn công tử mà đi lấy một người không rõ gốc gác. Từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nữa. Nhập thế gian Thế là chàng Chử Đồng Tử không khoác áo phò mã cưỡi ngựa hồi cung. Còn công chúa Tiên Dung bán hết ngọc ngà châu báu đổi lấy bộ quần áo thường dân trở thành một cô gái quê mùa cùng chồng xây dựng tổ ấm. Đôi vợ chồng trẻ không về Chử Xá, làm nhà mới ở xuôi phía dưới nơi mà sáng sáng chỉ cần chống cửa là nhìn ngay thấy bãi cát trời đất xếp đặt cho hai người gặp nhau. Thế rồi mưa thuận gió hòa, thóc đầy bồ, tôm cá đầy khoang, nơi Chử Đồng Tử – Tiên Dung ở, người theo về quần cư ngày càng đông vui. Làng thêm xóm mới. Chợ thêm phiên, lều quán kéo dài. Bến sông kè đá. Thuyền to không biết từ phương xa nào tới mang theo nhiều hàng quý hiếm. Một hôm Tiên Dung bàn với Chử Đồng Tử: Thiếp nghe người khách buôn phương xa mới tới đây nói rằng đất mình nhiều sản vật quý… Nếu biết vượt biển mang bán tận phương xa thì sau mỗi chuyến đi một dật vàng lãi thành mười dật. Chàng thấy thế nào? Ban đầu Đồng Tử gạt đi: Trước đây ta nghèo đến mức không có cả đến cái khố mà mặc, nay được giàu có sung sướng thế này là mang ơn trời đất lắm rồi. Tiên Dung: Nếu mộng giàu sang thì thiếp đã chẳng theo chàng. Ngoài đất nước ta, còn có núi sông nào nữa? Ngoài thế giới ta đang sống, còn có thế giới nào nữa? Chàng hãy nghe em, thử một chuyến đi xa. Có lẽ đây chính là thiên ý. Chử Đồng Tử cần phải đi để gặp Thầy gặp Đạo. Gặp Sư Phụ và đắc đạo Chử Đồng Tử nghe lời háo hức lên thuyền cùng người khách thương vượt biển. Sau ba ngày ba đêm, thuyền thả neo dưới chân một đảo vắng lấy thêm nước ngọt. Trong khi các thủy thủ sửa sang buồm lái thì Chử Đồng Tử lững thững lên bờ dạo chơi. Chàng thấy hòn đảo xanh tươi, phong cảnh đẹp lạ kỳ, con chim có tiếng hót lạ như mời chàng vui chân đi tiếp, đi mãi sâu vào bên trong đảo. Chử Đồng Tử ngửng đầu lên nhìn thấy chót vót trên núi cao một cái am cỏ. Từ trong khe núi có một cụ già râu tóc bạc phơ bước ra. Ông cụ đầu đội nón mây, tay lê gậy trúc, chân dậm hài cỏ vừa đi vừa phất tay áo rộng, hát rằng: Núi cao chót vót nước lại thâm Trong cõi trần ai kẻ tri âm Ai kẻ tri âm thời đồng tâm Đồng tâm xin kết bạn giai âm Kết bạn giai âm muôn dặm cũng tầm Vui với núi cao cùng nước thâm. Chử Đồng Tử đón sẵn bên đường, vái lạy: Tôi trộm nghe câu hát, biết mình có phúc được gặp bậc tiên. Dám xin rủ lòng cho theo học đạo. Ông cụ nói: Ta chờ con đã lâu rồi. Nói đoạn quay người đi trước bước chân thoăn thoắt. Đồng Tử theo sau thấy mình đạp lên đá mà nhẹ như đi trên mây, một chốc tới am cỏ, nhìn xuống xa vời không thấy bãi đá, cây rừng đâu cả. Ông cụ giữ Chử Đồng Tử ba ngày, truyền dạy phép thuật. Trước khi chia tay, cụ cho Chử Đồng Tử một chiếc gậy và một cái nón, dặn: Phép biến hóa ở cả trong hai thứ này. Chử Đồng Tử xuống núi, ngoảnh lại đã không thấy am cỏ đâu. Đang hoảng sợ thì nhìn phía xa chàng thấy trên mặt biển thấp thoáng một cánh buồm vội dơ tay vẫy gọi. Thuyền ghé vào bờ, không ngờ gặp đúng những người đã cùng Chử Đồng Tử đi buôn. Người trên thuyền mừng rỡ kể lại hôm ấy Chử Đồng Tử lên đảo rồi lạc trong khe núi. Mọi người chia nhau tìm kiếm hồi lâu không thấy đành phải nhổ neo đi tiếp. Ai cũng nghĩ Đồng Tử không còn nữa. Chuyến buôn nay mới trọn vẹn, mọi người cho thuyền quay mũi dong buồm về đến đây, tính chuyện lên thắp nén hương. Một người nói: Vừa đúng ba năm… Chử Đồng Tử giật mình nhớ lại: Tiên Dung thấy chồng đắc đạo trở về thì mừng lắm. Nàng cũng xin được truyền dạy phép thuật, cả hai vợ chồng cùng tu luyện rồi đi hành đạo, cứu nhân độ thế. Chàng ở trên núi chỉ có ba ngày. Thì ra một ngày trên cõi tiên bằng một năm dưới hạ giới. Hành đạo cứu người Tiên Dung nói: Ta đã hằng sản hằng tâm cứu người nghèo, giúp kẻ khó, làm cho nhiều người có nhà ở, cơm ăn, áo mặc. Nhưng cái sự đau ốm, tử biệt sinh ly thì vẫn chưa làm cho trăm họ vợi đau khổ phần nào. Chử Đồng Tử chỉ vào chiếc gậy, cái nón, nhắc lại lời ông cụ trên am cỏ nói với mình: Phép biến hóa ở cả trong hai vật này. Phải năm phát dịch người chết rất nhiều. Có nhà chết không còn một ai. Có làng đầu xóm, cuối xóm ngày đêm vang tiếng người khóc thảm thiết. Trước tai họa của nhân dân, Chử Đồng Tử – Tiên Dung ra tay cứu vớt. Người chết nằm đó, chỉ cần Chử Đồng Tử cầm gậy thần chỉ thẳng vào là mở mắt hồi sinh. Nghe tin làng Ông Đình chết nhiều người. Chử Đồng Tử ngả nón rồi cùng Tiên Dung ngồi lên bơi vun vút qua sông. Khi hai ông bà tới nơi thì hầu như cả làng không còn bóng người, xác chết nằm phơi khắp trong nhà ngoài ngõ. Những người đang hấp hối cũng chỉ biết nằm thoi thóp thở. Chử Đồng Tử phải đến gần cầm gậy đập mấy cái liền vào từng xác chết, gọi: dậy, dậy mau! Những xác người từ từ mở mắt rồi ngồi nhỏm dậy. Khi biết mình vừa được sống lại họ quỳ lạy tạ ơn rối rít. Chử Đồng Tử cười, hỏi: Khỏe hẳn chưa? Đáp: Thưa, khỏe lắm rồi ạ. Chử Đồng Tử: Khỏe thì ra sân vật nhau cho ta xem! Người nghe, tất thảy reo hò ầm ĩ kéo nhau ra sân ra bãi ôm nhau, vật nhau theo tiếng trống thúc dồn dập của người cầm trịch. Nhưng ngoảnh nhìn thì cứu tinh của họ, ông bà Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã đi từ lúc nào. Hẳn là hai người tiếp tục đi đến những thôn khác, đáp ứng lời nguyện cầu của dân làng khác đang có dịch bệnh hoành hành. Từ ngày đắc đạo, Tiên Dung đã chia hết của cải cho người nghèo trong vùng. Hai người như hai vị khách lữ hành đi khắp mọi nơi cứu nhân độ thế. Huyền thuật hiển linh Một bữa nọ hai người đang bước mải miết trên đường thì trời xập tối. Làng xóm còn xa, chung quanh gò hoang, đầm nước vắng vẻ, sương đêm bốc lên lạnh lẽo. Chử Đồng Tử – Tiên Dung đều cảm thấy mỏi mệt bèn bảo nhau dừng chân tạm nghỉ. Hai người chọn nơi cao ráo, cắm chiếc gậy xuống, úp cái nón lên rồi ngồi bên dưới tựa vào vai nhau nhắm mắt thư giãn. Chẳng ngờ phép thuật hiển linh. Nửa đêm quanh chỗ hai người ánh sáng chói lòa. Rồi trong phút chốc cả một tòa thành quách, lâu đài, cung điện hiện ra. Trời đã sáng, dân đi làm thấy có sự lạ, bảo nhau theo đến rất đông. Người ta thấy cổng thành cờ xý rực rỡ, lính canh uy nghiêm, voi ngựa ra vào rầm rập. Nhìn vào bên trong thấy lâu đài tráng lệ, tỳ tướng, quân hầu, thị nữ đứng giàn hai bên như đang tấu trình công việc. Ngồi trên giữa chính điện là Chử Đồng Tử – Tiên Dung, mặc áo hoàng bào thêu long phượng, nét mặt oai nghiêm mà đầy nhân hậu. Biết mình có diễm phúc được bậc thiên tiên che chở, dân các miền bảo nhau kéo về quy phục, lập thành phố xá đông vui như một nơi đô hội. Khách phương xa tới nước mình trước khi đến Phong Châu đều dừng thuyền lên bờ vào làm lễ ra mắt Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Ngày tháng trôi qua, Chử Đồng Tử – Tiên Dung mải miết hành nghề cứu dân. Những lúc rỗi hai người lại ngồi bên nhau trò chuyện. Chử Đồng Tử: Từ ngày làm bạn với nàng cuộc đời ta thay đổi nhưng cũng chưa bao giờ mơ ước được có hôm nay. Tiên Dung đáp: Do có sự xếp đặt của trời cả thôi. Chử Đồng Tử lại nói: Như cái sự mong muốn của ta là con người thoát cảnh nghèo nàn được sống ấm lo hạnh phúc thì đã đạt một phần. Tiên Dung lắc đầu: Con người có thể sống dư thừa ấm no, nhưng hạnh phúc thì còn tùy thuộc… Đồng Tử gật đầu: Duyên tiếp duyên và cùng nhau thực hiện sứ mệnh Nàng nói chí phải. Ai chẳng biết lúc trăng tròn đầy là đẹp, nhưng không biết trăng non đầu tháng mọc nơi hoàng hôn, trăng khuyết rụng ngay buổi bình minh nơi mặt trời mọc. Đạo ta còn phải truyền rộng… Hai người lại đi khắp bốn phương, có lần vào tới tận cửa biển Quỳnh Nhai, nay thuộc Nghệ An, khi ấy là biên giới nước ta. Lần ấy Chử Đồng Tử – Tiên Dung vừa rời lâu đài đi tới Đông Kim (thuộc xã Đông Tảo ngày nay) thì gặp một người con gái đang cấy lúa bên đường. Thấy Chử Đồng Tử dừng ngựa nhìn cô gái, Tiên Dung hiểu ý chồng bèn đến gần nói với cô: Em là người tiên hay người trần? Thiếu nữ trả lời: Em là Tây Sa, tiên nữ ở Tây cung xuống giả là người trần đó thôi. Cũng như hai vị, nay đã đắc đạo. Cuộc hội ngộ hôm nay hẳn do ý trời. Tiên Dung nói: Chử Đồng Tử hỏi: Ta đã học được đạo cứu giúp con người, các nàng có đi theo ta không? Cả hai nàng cùng đáp: Cứu người là việc thiện, sao chúng em lại không theo? Từ đấy Chử Đồng Tử có thêm người vợ thứ, vốn là tiên nữ Tây cung đầu thai vào một nhà họ Nguyễn có nghề thuốc nam gia truyền, dân trong vùng quen gọi là nàng Nguyễn. Mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên (con người mưu sự, nhưng thực hiện là do Trời). Nàng Nguyễn đã về Phong Châu chữa bệnh cho vua Hùng. Khi nhà vua khỏi bệnh truyền đem lụa, gấm ra tiễn. Nàng Nguyễn cúi đầu lạy tạ, thưa chính công chúa Tiên Dung nghe tin vua cha ốm đã cử nàng về thay mặt Chử Đồng Tử – Tiên Dung báo hiếu. Hoàn thành sứ mệnh trở về thiên quốc Ảnh: Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân Nhưng rồi thanh thế Chử Đồng Tử – Tiên Dung ngày càng rộng lớn. Tiếng đồn về lòng nhân đức, sự cảm phục tài năng phép thuật cứu được người chết sống lại càng ngày càng xa. Thêm vào đó những lời đồn đại về cung điện nguy nga, lâu đài thành quách rộng lớn, phố chợ đông vui, nhiều người về quy phục đến tai vua Hùng, cố tình gây cho nhà vua lòng nghi ngờ Chử Đồng Tử – Tiên Dung mưu đồ phản nghịch. Nghe lời sàm tấu nhà vua quyết định cử tướng mang quân đi bắt Chử Đồng Tử – Tiên Dung về hỏi tội. Quân nhà vua sát khí đằng đằng, gươm giáo sáng lóa chỉ một ngày tốc thẳng tới nơi. Nhưng vì trời tối và còn cách con sông rộng nên các tướng truyền hạ trại ngày mai sẽ tấn công bắt trói giải nghịch tử nghịch nữ về triều. Trong lâu đài, các tướng của Chử Đồng Tử – Tiên Dung xin được ra nghênh chiến. Ai cũng muốn có dịp lập công tạ ơn Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Ai cũng muốn làm sáng tỏ nỗi oan ức vì sự hiểu lầm của vua cha. Nhưng Chử Đồng Tử gạt đi: Việc binh đạo sát hại dân lành là điều ta trước nay không muốn. Tiên Dung cũng khuyên mọi người: Đạo làm con không được chống lại cha. Hai người truyền đóng cửa thành. Nhấc nón, nhổ gậy. Quan quân nhà vua còn đang bàn tính. Dân trong vùng còn đang lo lắng chờ đợi. Thì nửa đêm trời nổi sấm chớp, mưa như trút nước, gió mạnh đổ rạp ngọn cây. Tự nhiên ánh sáng chiếu lòa như giữa ban ngày, những người bạo nhất dám hé mắt nhìn ra thấy trong tiếng ầm ầm cả tòa lâu đài thành quách của Chử Đồng Tử – Tiên Dung đang bốc khỏi mặt đất rồi bay vút về trời. Sau đó mưa tạnh, gió yên. Cho đến sáng quan quân mới dám cử người đi dò la rồi lần lượt sang sông. Đến nơi, ai nấy kinh hãi nhìn nhau vì trước mặt chỉ là một đầm nước rộng mênh mông. Cả tòa thành lớn cùng tiên chủ, quân hầu không để lại vết tích gì. Đó là đêm 17/11 Âm lịch. Đền Hóa Dạ Trạch- Đầm một đêm xã Khoái Châu, Hưng Yên, nổi tiếng linh thiêng, nơi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân cùng thành quách bay về trời Vua Hùng hay tin, về tận nơi xem xét. Bấy giờ mới tường mọi việc. Nhà vua cho đặt tên đầm là Nhất Dạ Trạch (đầm một đêm). Lại truyền xây miếu thờ Chử Đồng Tử – Tiên Dung, nhà vua mở đầu lễ dâng hương, dặn nhân dân địa phương ngày đêm thờ phụng, hàng năm triều đình cử quan đại thần về làm lễ tưởng niệm. Tất cả những nơi Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã tới truyền đạo, cứu giúp, nhân dân cũng lập đền thờ rất tôn nghiêm. Hết thảy hành động của họ đều thuận theo thiên ý (ý trời). Câu chuyện gốc cổ nhất về Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân hoàn toàn không có ý nghĩa quyền tự do yêu đương. Mà câu chuyện, các nhân vật đều toát lên sự thanh thoát cao thượng, điềm tĩnh, không chút dung tục phàm trần, không màng danh lợi, tình ái. Họ chỉ đơn giản là tùy duyên để thực hiện vai diễn dưới hạ giới, đắc đạo, hành đạo, cứu nhân trước khi bay trở về thiên giới.
  14. Tứ bất tử của Việt Nam, họ là ai? Người xưa quan niệm rằng: phàm là những ai được lưu danh trong sử sách, thì đều là đã được Thần an bài điều đó với mục đích lưu lại lịch sử văn hóa nhân loại, giáo dục con người đời sau không quên nguồn cội và các giá trị đạo đức nhân sinh. Trước khi trở thành những vị Thánh nhân, những vị Thần Tiên như trong sử sách và các câu chuyện cổ, những vị ấy cũng đã từng một lúc nào đó làm người, đóng các vai trò khác nhau trong xã hội như một người mẹ, một người vợ, một người con… Thế nhưng, theo chuyện kể, trước khi hạ thế làm người, họ vốn dĩ đã là Thần Tiên trên thiên thượng rồi. Vậy ý nghĩa của việc này là gì? “Tứ bất tử” của Việt Nam đã định ra nền tảng văn hóa tín ngưỡng Phật Đạo Thần và đạo lý làm người. Tiếp theo phần 1 và phần 2 về nguồn gốc loài người và lịch sử hình thành đất Việt, con cái của Lạc Long Quân và Âu Cơ là các vị vua Hùng dựng lập đất nước, dạy người dân biết làm nương, làm rẫy, nấu cơm, thổi lửa, dựng vợ, gả chồng…, những kỹ năng cần thiết để sinh tồn và bảo toàn nòi giống. Tiếp theo đó, con người còn cần phải học những gì? Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ “Tứ bất tử” là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập. Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau: Họ cần học ĐẠO, chính là đạo làm người, đạo làm con, đạo làm vợ làm chồng, làm cha làm mẹ, đạo quân thần của đất Việt. Họ cũng cần có đức tin vào các vị Phật, Thánh, Thần, Tiên, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho bách gia trăm họ. Huyền thoại về “Tứ bất tử” – những nhân vật bất tử trong lịch sử Việt Nam, góp phần gây dựng những nền tảng ấy. “… Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy” Tượng Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy, một ngôi chùa nổi tiếng ở Hà Nội. Chử Đồng Tử gặp công chúa Tiên Dung Thánh Gióng nhổ tre diệt giặc Nguyễn Minh Không, quốc hiệu Lý Quốc Sư, tại khu thờ tự quần thể chùa Bái Đính Kiều Oánh Mậu người làng Đường Lâm là nhà học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục có viết: “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào.” Những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại sau này về Tứ bất tử thì phong phú hơn và thường nhắc tới tứ bất tử gồm: Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh công chúa. Tản Viên Sơn Thần Tản Viên Sơn Thần (Sơn Tinh) trong trận giao chiến với Thủy Tinh Tín ngưỡng truyền thống bao gồm tín ngưỡng vào Phật Gia, Đạo Gia, và Đạo Tiên. Trong 6 vị được lưu danh bất tử qua các thời kỳ, Chử Đồng Tử (đời Hùng Vương thứ 18) được thờ như ông tổ của đạo thờ tiên (Chử Đạo Tổ); Thánh Gióng (đời Hùng Vương thứ 6) vốn là Thiên tướng trên trời, xuống giúp dân tộc Việt dẹp giặc, rồi lại bay về trời; Tản Viên Sơn Thánh (còn gọi là Sơn Tinh, đời Hùng Vương thứ 18), hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ, dòng dõi con rồng cháu tiên, vốn “theo cha xuống biển”, rồi lại “từ biển đi lên” để lưu danh lịch sử.Như vậy, trong các ngôi vị tứ bất tử, chúng ta thấy có đại diện của cả tín ngưỡng Phật, Đạo, Thần. (Phật, Thánh, Thần, Tiên…). Đó phải chăng chính là nền tảng văn hóa cần có của người Việt đã được đặt định từ những ngày đầu học đạo? Từ Đạo Hạnh (1072-1116) và Nguyễn Minh Không với quốc hiệu Lý Quốc Sư (1065 – 1141), là hai vị thiền sư, cao tăng nổi tiếng đời nhà Lý, với huyền sử cuộc đời mang dấu tích của Phật Pháp thần thông và đưa họ thành bất tử. Liễu Hạnh công chúa (thời Hậu Lê) vốn là con gái thứ 2 của Ngọc Hoàng Thượng Đế, 3 lần giáng trần để ngàn đời được tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật. Liễu Hạnh công chúa đã định ra tấm gương về đạo nghĩa và tứ đức Công- Dung- Ngôn- Hạnh, đã tận tâm báo hiếu ơn đức sinh thành của cha mẹ, đã một lòng chung thủy với tình nghĩa vợ chồng, đã để lại hình ảnh về phụ nữ đầy lòng nhân ái, thiện lương, thương yêu nhân dân, dạy dân trồng dâu nuôi tằm dệt vải, cứu khổ cứu nạn những người nghèo khổ, luôn khuyên bảo người khác làm điều lành, tránh điều ác.
  15. Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng các con dựng lập đất Việt (Ảnh: internet) “Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà. “Con Rồng Cháu Tiên” có phải chỉ là một câu nói hình tượng? Trong truyền thuyết lâu đời của Việt Nam được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái của tác giả Trần Thế Pháp, một danh sỹ đời nhà Trần (1226-1400), những chi tiết mang tính “huyền thoại” được ghi lại một cách hết sức tự nhiên, giản dị, như là sự thực vốn có vậy. Về sau, khi biên soạn lại Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697), các chi tiết thần tiên này được lược bớt đi cho phù hợp với nhận thức người thời sau và phù hợp với tư cách một cuốn chính sử, nhưng vẫn giữ nguyên tên tuổi và những sự kiện chính. Chúng ta cùng nhìn lại từ đâu có câu nói “Con Rồng Cháu Tiên” mà người Việt Nam luôn thuộc lòng? Nguồn gốc con Rồng cháu Tiên Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái ghi chép, ông nội của Lạc Long Quân, tên là Đế Minh, là cháu 3 đời Viêm Đế (Thần Nông) sinh ra con cả Đế Nghi, rồi nam tuần đến núi Ngũ Lĩnh, gặp được nàng tiên nữ tên Vụ Tiên đem lòng thương yêu rồi cưới về, sinh ra được Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh. (Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại thành “gặp con gái bà Vụ Tiên”, bởi việc gặp được một nàng Tiên giáng trần và cưới một nàng Tiên là việc khó có thể ghi lại trong chính sử). Đế Minh kinh ngạc trước sự đoan chính, thông minh và tài trí của Lộc Tục, muốn Lộc Tục nối ngôi vua, nhưng Lộc Tục lại nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi cai trị phương Bắc (một phần Trung Quốc hiện giờ), phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị Phương Nam (đất Việt hiện nay), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình, tên là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân. Chi tiết xuống Thủy Phủ này cũng bị lược bớt trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bởi vì việc hiển nhiên tồn tại Thủy Phủ cũng là điều khó chấp nhận được trong nhận thức con người đời sau, nên trong Đại Việt Sử Ký toàn thư chỉ còn ghi chép: “Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân”. Trong nhận thức và sự quan sát vạn vật của người thời xưa, Thủy Phủ (hay còn gọi là Thoải Phủ), song hành cùng Thiên Phủ và Địa Phủ, là các cõi không gian tồn tại đồng thời với không gian con người. Việc ông ngoại của Lạc Long Quân vốn là một vị Long Vương cai quản hồ Động Đình, hay bà nội là một nàng tiên giáng trần, cũng là điều khó lý giải được trong nhận thức con người về sau và khó ghi vào chính sử. Song những sự tích ghi chép lại trong dân gian về việc gặp Tiên hay Rồng cũng rất nhiều (ví dụ như Từ Thức gặp Tiên, Lưu Nguyễn lạc vào cõi tiên v.v…) Hồ Động Đình (hồ lớn nằm ở đông bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc hiện nay), là một hồ lớn nhất thời bấy giờ ở Trung Quốc và đất Việt nước ta, sau khi được Lạc Long Quân đổi tên thành nước Văn Lang, có biên giới phía bắc giáp hồ Động Đình. Nguồn gốc “Tiên”, “Rồng” của người dân Việt cũng chính bắt nguồn từ đây. Vẻ đẹp thủy mặc của Hồ Động Đình – nơi quê xưa chốn cũ của dòng dõi Lạc Hồng. Tại Việt Nam trên đất An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày nay, cũng có một ngôi đền thờ “Vua Cha Bát Hải Động Đình”, xưa là Hoa Đào Trang Chính Sơn Nam thời cổ sau gọi là Trang Đào Động. Đây chính là ngôi đền đã tồn tại gần 4.000 năm (từ thời Vua Hùng) trên đất Thái Bình. Có lẽ người đời sau cũng không còn rõ Vua Cha Bát Hải Động Đình mà các vị vua Hùng thờ phụng thực sự là ai. Lạc Long Quân và Âu Cơ dựng lập đất Việt Theo ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái, Lạc Long Quân thay cha trị nước. Lạc Long Quân dạy dân cách ăn mặc, bắt đầu có trật tự về Quân Thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ). Lạc Long Quân vẫn đi về Thủy Phủ, nhưng trăm họ vẫn yên ổn. Đền thờ chính thờ Lạc Long Quân, tại Đồi Sim, nằm trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ)- Ảnh Wiki Dân lúc nào có việc cần thì kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến cứu chúng ta”, thì Lạc Long Quân lập tức xuất hiện ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trấn lượng được. Những thần thông và năng lực phi phàm của Lạc Long Quân được mô tả rất giản dị, tự nhiên trong ghi chép của Lĩnh Nam Chích Quái. Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc, một ngày sực nhớ đến việc ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai cùng con gái là Âu Cơ và bộ chúng thị thiếp nam tuần qua Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có vua, bèn cùng mọi người lưu lại nơi này. Đế Lai chu du khắp thiên hạ, thấy biết bao kỳ hoa, dị thảo, trân cầm, dị thú, tê tượng đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị, không thứ nào không có. Khí hậu bốn mùa lại dễ chịu, Đế Lai lưu lại quên cả ngày về. Nhân dân nước Nam não khổ vì sự phiền nhiễu, không được yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Lạc Long Quân về, nên mới cùng nhau kêu: Lạc Long Quân nghe thấy tiếng kêu liền lập tức xuất hiện. Trông thấy nàng Âu Cơ dung mạo đẹp lạ lùng, mới hóa thành 1 chàng trai phong tú mỹ lệ, tiếng đàn ca vang tới. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo, Lạc Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang. Đế Lai sau khi tìm không thấy Âu Cơ bèn sai quân thần đi tìm khắp thiên hạ. Lạc Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng (rồng rắn hổ voi), quần thần được sai đi tìm không cách nào tìm được. Đế Lai đành trở về. “Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân” Bọc trăm trứng và cuộc phân ly Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài, hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bèn đem về nuôi nấng, không cho ăn không cho bú mà tự nhiên lớn trường đại, trí dũng song toàn, ai cung ngưỡng mộ, gọi là những anh em phi thường. (Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư, chi tiết này chỉ được ghi thành “Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt” Những ghi chép về thần thông biến hóa cũng như việc Lạc Long Quân đi về giữa mặt đất và Thủy Phủ cũng được loại bớt khỏi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.) Lạc Long Quân ở dưới thủy phủ, mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc Quốc, liền đi lên biên giới. Vua đất Bắc lúc bấy giờ tên Hoàng Đế, nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan ải, mẹ con không về được, đêm ngày gọi Lạc Long Quân: “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!” Lạc Long Quân đột nhiên lại xuất hiện, gặp mẹ con ở Tương Dã, Âu Cơ nói: “Thiếp vốn người đất Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh ra được một trăm con trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ…” Lạc Long Quân nói: “Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc, nàng là giống Tiên, người ở trên Đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi con trai theo nàng ở trên Đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau. Phân chia bờ cõi và dựng lập đất nước Trăm trai đều theo mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Âu Cơ cùng năm mươi người con ở lại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người Hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang. Về bờ cõi của nước thì đông giáp Nam Hải (Biển Đông), Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến Hồ Tôn Tinh (nước Chiêm Thành), chia trong nước ra làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Trường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quân, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng Võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Dân khi ấy ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối. Đất nương khi ấy trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác cây làm nhà để tránh hổ và lang sói, cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã gạo để hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp, trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, vì thời đó chưa có sự tích trầu cau. Chúng ta kết thúc phần 2 bằng lời ghi chép của của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Khi trời đất mới mở mang, có thứ do khí hóa ra, đó là dòng dõi Bàn Cổ. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì ngoài hai khí âm dương cả. Kinh Dịch nói: “Trời đất nung ủ, vạn vật thuần hóa, đực cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh”. Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi. Nhưng thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh trời. Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu, đều là ghi sự thực như thế. Con cháu dòng dõi Thần Nông là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái gốc đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?” Hà Phương Linh
  16. Cao nhân giải mã Phật Di Lặc hạ thế truyền Pháp và Đấng cứu thế Mesiah trong Kinh Thánh ! (Chùa Labrang ở Cam Túc, Trung Quốc là một trong những ngôi chùa chính của Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lặc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lặc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân.) Hiện tượng kỳ lạ xuất hiện : Chùa Pháp Môn tại huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc là ngôi chùa hoàng gia thờ xá lợi ngón tay của Phật Thích Ca Mâu Ni. Kể từ khi Đường Ý Tông phong bế bảo tháp tại địa cung, xá lợi ngón tay Phật trong địa cung đã nằm yên trong hơn 1.000 năm. Năm 1981, bảo tháp trong chùa không tu sửa mà tự dưng đổ sụp xuống, trong 6 năm không có ai hỏi han tới, đến năm 1987 mới bắt đầu được trùng tu. Khi dọn dẹp nền tháp, vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch, người ta tình cờ phát hiện địa cung dưới lòng đất, bởi vậy xá lợi ngón tay Phật một lần nữa xuất hiện trên thế gian, trở thành một việc mừng chấn động giới Phật giáo. Xá lợi ngón tay Phật một lần nữa xuất hiện, tuyệt không phải để Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vốn phỉ báng Phật, làm hại Phật khoe khoang, mà để chứng thực sự tồn tại chân thực của Thần Phật, phá trừ “vô thần luận” hoang đường, càng không phải để người ta lễ bái, cung phụng, hương khói cho chùa Phật. Như vậy huyền cơ nằm ở đâu? Đây chính là triển hiện dự ngôn và lời căn dặn của Phật Thích Ca Mâu Ni từ 2.500 năm trước, và cũng để hướng sự chú ý của người ta tới ngày 8 tháng 4 Âm lịch này. (Chùa Pháp Môn Trung Quốc) Phật Di Lặc và Messiah là cùng một người ! Cố học giả của nền giáo dục Trung Quốc, nhà Phật học, nhà phiên dịch Quý Tiện Lâm và các đồ đệ của ông đã có một cống hiến quan trọng, đó là phát hiện mối liên hệ giữa Phật gia và Cơ Đốc giáo, ấy chính là “Vị lai Phật Di Lặc của Phật gia và Cứu Thế Chủ Messiah của Cơ Đốc giáo là cùng một người”. Theo nghiên cứu của Đại học Phục Đán Thượng Hải, vào khoảng năm 1.000 TCN, trong một vùng rộng lớn bao gồm Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà và Ai Cập, có một thứ tín ngưỡng thịnh hành về Cứu Thế Chủ của tương lai, và Messiah trong Đạo của Chúa Jesus chính là một loại tín ngưỡng có tính đại biểu nhất. Thực ra loại tín ngưỡng này đã có mặt ngay trong kinh Cựu Ước. Tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ, theo xác nhận của giới học thuật, là có tương quan mật thiết với tín ngưỡng Cứu Thế Chủ trên phạm vi toàn thế giới; do vậy xét về ảnh hưởng, tín ngưỡng Di Lặc của Ấn Độ chính là một bộ phận hợp thành của tín ngưỡng Cứu Thế Chủ. Nếu dùng ngôn ngữ đơn giản nhất mà diễn đạt, thì Di Lặc chính là Vị lai Phật, là Cứu Thế Chủ tương lai. Nguồn gốc ở Ấn Độ và phạm vi lưu truyền rộng lớn thời cổ đại của tín ngưỡng này chính là một bộ phận của tín ngưỡng vào Messiah. (Pháp sư Huyền Trang - Hình Minh Họa) Di Lặc, trong tiếng Sanskrit gọi là “Maitreya”, tiếng Pali gọi là “Metteya”, và gần như không có quan hệ gì về phát âm với hai chữ “Di Lặc” trong tiếng Hoa. Pháp sư Huyền Trang của Đại Đường trong khi phiên dịch đã phát hiện thấy điểm này, bởi vậy Huyền Trang mới nói là dịch sai, và lẽ ra nên phiên dịch thành “Mai Lợi Da”. Tuy nhiên người ta không tiếp thụ ý kiến của vị cao tăng đáng kính Huyền Trang, lại còn cố định gọi thành “Di Lặc”, và “Mai Lợi Da” đã trở thành phát minh cá nhân của pháp sư Huyền Trang. Theo kinh Phật ghi lại, đến thời kỳ mạt pháp (cũng là ngày nay, khi đạo đức nhân loại đã bại hoại), nhân loại tất sẽ có đại kiếp nạn. Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng vào thời mạt pháp, tăng nhân trong chùa tự độ đã là rất khó. Cũng là nói Pháp của Ngài đến thời này đã không thể cứu độ con người được nữa. Phật Thích Ca Mâu Ni khi giảng Pháp năm xưa đã từng nói đến “Chuyển Luân Thánh Vương” (trên thiên thượng gọi là “Pháp Luân Thánh Vương”, cũng xưng là “Di Lặc”), một vị Như Lai với thần thông tối quảng đại, năng lực lớn nhất trong vũ trụ, rồi sẽ hạ thế truyền Pháp độ nhân. Kinh Phật cũng ghi lại rằng, Ưu Đàm Bà La hoa là một loài hoa rất hy hữu, 3.000 năm mới nở một lần. Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa đã từng giảng qua: Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, ý là “Chuyển Luân Thánh Vương” đã hạ thế. Đầu năm 2005, các bức tượng Phật tại chùa Thanh Khê, chùa Long Châu ở núi Quan Nhạc, am Luyến Chủ, thiền viện Tu Di Sơn tại Hàn Quốc đua nhau xuất hiện kỳ quan Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, khiến dân chúng Hàn Quốc mừng rỡ, cũng gây tiếng vang lớn trong giới Phật giáo. Từ năm 1987 xá lợi ngón tay Phật tái hiện tại chùa Pháp Môn, đến năm 1992 Pháp Luân Đại Pháp khai truyền, rồi tới năm 2005 Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, theo thời gian biểu chặt chẽ này, cộng thêm ngày 8 tháng 4 Âm lịch là sinh nhật của Đại sư Lý Hồng Chí — người sáng lập Pháp Luân Công, thì chúng ta có thể minh xác thiên cơ mà Phật Thích Ca Mâu Ni căn dặn chúng sinh: “Chuyển Luân Thánh Vương” hiện đang truyền Pháp, cứu độ thế nhân tại cõi người. Thần tại cõi người Trong Kinh Thánh, cho dù là Tân Ước hay Cựu Ước, đều tiên tri rằng Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc, sau đó người ta có thể nhìn thấy Cứu Thế Chủ Messiah. Sau khi đại chiến thế giới thứ II kết thúc, người Israel sau khi trải qua mấy nghìn năm lưu lạc trên thế giới cuối cùng đã phục quốc. Ngày 13 tháng 5 năm 1948, trong đại hội Do Thái, Jerusalem đã tuyên bố bản tuyên ngôn về “Israel phục quốc”. Tuy xã hội chủ lưu Tây phương là Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v. nhưng Israel là Do Thái giáo, bởi vậy nhằm khống chế Jerusalem (một điều kiện để Thần trở lại), trong hơn nửa thế kỷ qua, xã hội chủ lưu Tây phương đã một mực duy trì giúp đỡ Israel. Về điểm này, họ đã hoàn toàn gác sang một bên sự phân tranh tôn giáo trong lịch sử. Tại Đông phương cũng có ghi chép về một tín hiệu trọng đại báo hiệu Phật Di Lặc tương lai (Chuyển Luân Thánh Vương) hạ thế. Quyển 8 Kinh Phật «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm Bà La hoa là loài hoa linh dị mang điềm lành, tức Thiên hoa, trên thế gian không có. Khi Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này”. Hoa Ưu Đàm Bà La nở rộ tại tiểu bang Maryland ở Mỹ, năm 2011 (Ảnh: John Yu) Kinh Phật «Vô Lượng Thọ» cũng ghi lại như sau: “Ưu Đàm Bà La hoa là dấu hiệu báo điềm lành”. Còn theo quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» thì: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”. Kể từ năm 1992, tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, các tiểu bang nước Mỹ, Canada, các tỉnh Trung Quốc, người ta liên tục phát hiện hoa Ưu Đàm Bà La thánh khiết khai nở. Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng và chiêm ngưỡng phong thái cao quý thánh khiết của loài hoa này. Hoa Ưu Đàm không có rễ, không có lá, không có nước, không có đất; có thể mọc trên thủy tinh, sắt thép, tượng Phật, lá cây, hộp giấy và cả băng keo, có hoa mọc hơn 1 năm nhưng vẫn sinh cơ bừng bừng. Từ xưa tới nay chưa gặp bao giờ, nay các nhà thực vật học đã tận mắt chứng kiến. Năm nay (2011), theo Phật ký là năm 3038, hoa Ưu Đàm Bà La đã thịnh khai tại các nơi trên thế giới, thực đúng là thiên thượng ban tặng. Hoa Ưu Đàm 3.000 năm (Video) : Cách tạo tượng dân gian và dự ngôn hiển rõ thiên cơ Trong dân gian Trung Quốc bảo lưu một phương thức tạo hình Di Lặc, một pho tượng Phật cười ngạo nghễ, vây quanh có 18 tiểu hài tử, nô đùa muôn hình muôn vẻ, được gọi là “Thập bát tử Di Lặc”. Thế nhưng “Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), tức báo trước Phật Di Lặc hạ thế truyền Pháp độ nhân vào thời mạt kiếp với phàm thân có họ là “Lý”. Truyền thuyết và cách tạo tượng Di Lặc thập bát tử này đã lưu truyền mãi cho đến ngày nay. (Hình minh họa) Dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc tiên tri: “Hà vi Thánh nhân, Mộc Tử tính thị” (“Thánh nhân là ai, họ là Mộc Tử”; “Mộc Tử” (木子) ghép thành chữ “Lý” (李)), thuộc Thỏ, tháng Tư xuất sinh tại phía Bắc tam bát cấp (vĩ tuyến 38 độ Bắc phân chia Nam-Bắc Triều Tiên), Tam Thần sơn hạ (dưới chân núi Tam Thần sơn, tức Công Chủ Lĩnh dưới chân núi Trường Bạch)… Vị Thánh nhân này là “vương trung chi Vương” (Vua của các vua) trên thiên thượng, tức Pháp Luân Thánh Vương, lần này hạ phàm nhân gian gọi là Di Lặc Phật. Lưu Bá Ôn cũng từng tiên tri trong dự ngôn «Thôi Bi Đồ» rằng: “Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính”. Nghĩa là Phật Di Lặc tương lai sẽ chuyển sinh đến “trung thiên Trung Quốc” vào năm Thỏ, cụ thể là giáng sinh tại vị trí “mắt Gà Vàng” (Kim Kê mục) trên bản đồ Trung Quốc (chỉ tỉnh Cát Lâm), lấy “Mộc Tử” (Lý) làm họ. (Thỏ Phục Sinh – Hình Minh Họa) Thực ra, tập tục lễ Phục sinh (The Easter) cùng với thỏ Phục sinh và trứng Phục sinh là một dự ngôn về Thánh nhân cứu thế: Chúa Cứu Thế sẽ trở lại là “người đến từ phương Đông” (Easter), tức Thánh nhân cứu thế sẽ phục sinh ở phương Đông; thỏ Phục sinh dự ngôn Thánh nhân thuộc Thỏ (sinh năm Thỏ), nhưng thỏ không đẻ trứng, mà trứng là Gà Vàng (Kim Kê) đẻ ra, trứng Phục sinh hiển nhiên khiến người ta liên tưởng đến trứng gà, mà bản đồ Trung Quốc hiện nay có hình dạng một con gà. Càng có ý nghĩa hơn khi phát hiện rằng các dân tộc khác nhau trên thế giới đều lưu truyền những lời tiên tri mà gần như đều kể về cùng một câu chuyện. Các dự ngôn đều đề cập Thánh giả đến từ phương Đông «Phúc âm Luke», 17:24: “Vì như chớp lóe sáng từ phương trời này vụt sáng đến phương trời kia thế nào, Con Người sẽ xuất hiện trong ngày của Người cũng thế ấy”. «Phúc âm Matthew», 24:27: “Vì như sét chớp ở phương Đông và nhoáng ở phương Tây thế nào, sự hiện đến của Con Người cũng thế ấy.” «Khải Huyền», 7:2: “Đoạn tôi thấy một vị thiên sứ khác đi lên từ hướng mặt trời mọc, có ấn của Đức Chúa Trời hằng sống.” “Đi lên từ hướng mặt trời mọc” ý nói đến từ phương Đông, “ấn của Đức Chúa Trời hằng sống” ám chỉ Cứu Thế Chủ, tức Vĩnh Sinh Thần đến từ phương Đông. «Isaiah», 43:5: “Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi; Ta sẽ đem dòng dõi ngươi từ phương Đông về; Ta sẽ nhóm họp con cháu ngươi từ phương Tây trở về.” “Sét chớp ở phương Đông và nhoáng ở phương Tây…” Chúng ta biết rằng Đạo của Thần là phát xuất từ phương Đông, sau đó truyền sang phương Tây, truyền khắp thế giới. Vậy vì sao Thần phải nhóm họp người ở phương Tây? Lẽ nào Thần ở phương Đông bị bức hại, hoặc vì nguyên nhân nào đó mà sang phương Tây? «Tiên tri Nostradamus»: “Người đến từ phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp, Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết, Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài”; “Đợi từ lâu, Ngài sẽ không bao giờ trở lại, Ở Châu Âu, Ngài sẽ xuất hiện ở Châu Á: Người của liên minh với Thần Hermes vĩ đại, Ngài sẽ vượt qua tất cả các vị Vua của phương Đông.” «Tiên tri của Edgar Cayce»: “Trung Quốc sẽ xuất hiện một loại tín ngưỡng đối với Thần [Phật], Trung Quốc sẽ trở thành cái nôi tâm linh của toàn nhân loại”. «Tiên tri thổ dân Hopi»: “Đại biểu của Pahana sẽ đến từ lực lượng thần thánh của phương Đông”. «Thôi Bối Đồ»: “Trung Quốc nhi kim hữu Thánh nhân”, “Tử Vi tinh minh”. «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn: “đại Mộc lưỡng điều”, “Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ”: Thánh nhân cứu thế giáng sinh ở phương Đông thuộc Mộc (trong ngũ hành, Mộc ứng với phương Đông), thời gian giáng sinh là năm Mộc Thỏ, tức năm Tân Mão, hợp lại thành “lưỡng Mộc Thánh nhân”. «Cách Am Di Lục»: “Kim cưu Mộc thỏ”, “Tử hà Chân Chủ”, “Bạch mã Công Tử”, “Cứu thế Chân Chủ”, “Đạo Thần Thiên Chủ”, “Tây khí Đông lai Thượng Đế tái lâm”, “Nhật quang Đông phương quang minh thế”, “Vô nghi Đông phương Thiên Thánh xuất”, “Hòa khí Đông phong Chân Nhân xuất”, “Đông phương nhất nhân xuất thế dã”, “Mộc thỏ tái sinh bảo huệ sĩ”, “Thánh Thần giáng lâm Kim cưu điểu”, “Bảo huệ Sư Thánh hải ấn xuất”, “Vạn thừa Thiên Tử vương chi Vương”: Đều ám chỉ Đại Thánh nhân (“vương trung chi Vương”) xuất thế ở phương Đông, sinh năm Thỏ, mệnh Mộc. «Bộ Hư đại sư dự ngôn thi»: “Thế vũ tam phân, Hữu Thánh nhân xuất, Huyền sắc kỳ quan (tóc đen), Long trương kỳ phục (áo vàng, Phật)”. «Tây Du Ký»: “Nhân thân nan đắc, Trung Thổ nan sinh, Phật Pháp nan văn”, “Đông lai Phật Tổ”. Ngày 13 tháng 5 năm 1951, tức ngày mùng 8 tháng Tư theo Nông lịch, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí đản sinh tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, thuộc Thỏ, ngày này chính là “Lễ Phật đản” trong Phật giáo. Đồng thời ngày này cũng chính là ngày thứ 50 tính từ Lễ Phục Sinh năm 1951, gần như là “Lễ Thánh Linh giáng lâm” trong Cơ Đốc giáo. Tới đây, một số người thông hiểu thiên cơ đã biết được vì sao “Lễ Phục Sinh”, một ngày lễ trọng yếu của tôn giáo Tây phương lại được gọi là “Easter”, tức “người phương Đông”. Đồng thời, cũng hiểu vì sao người ta vẫn duy trì tập tục cổ xưa là Thỏ Phục Sinh (Thánh nhân thuộc Thỏ) và trứng Phục Sinh (có quan hệ với Kim Kê Trung Quốc) để kỷ niệm hoạt động này. Vào Lễ Giáng Sinh ở phương Tây, nhà nào cũng chuẩn bị và trang trí một cây thông Noel (thuộc Mộc), còn ám chỉ Thần ý huyền diệu khiến người ta kinh ngạc hơn nữa. Câu chuyện vĩnh hằng (Video) : Nostradamus người Pháp trong tác phẩm «Các Thế Kỷ» đã tiên tri chính xác rất nhiều nhân vật và sự kiện trọng đại phát sinh tại các nơi trên thế giới mấy trăm năm qua, trong đó Các Thế Kỷ II, Khổ 29 đã dự ngôn minh xác về Cứu Thế Chủ cứu độ chúng sinh tại nhân loại vào thời mạt thế. Bài thơ này chính là tiên tri người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí, sau khi kết thúc truyền Pháp tại Trung Quốc Đại Lục sẽ sang Tây phương và truyền Pháp tại rất nhiều quốc gia Tây phương, khiến Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền toàn thế giới. Trong Các Thế Kỷ X, Khổ 75, Nostradamus cũng đề cập đến “Thần Hermes vĩ đại” để hình dung người sáng lập Pháp Luân Công hồng truyền Đại Pháp chính là giảng và truyền Đạo vũ trụ của Thần Phật cho nhân loại. Mà “Thần Hermes vĩ đại” có một cây thần trượng, dùng để đánh thức người đời, do đó câu thứ tư bài thơ trên mới nói “Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài”. Khi Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, mỗi cá nhân trên thế giới đều bị đánh động, và thái độ của họ đối với Đại Pháp sẽ quyết định tương lai của chính họ. Các Thế Kỷ II, Khổ 29 Người phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp: Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết, Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài. Sứ giả (Video): Theo Kinh Phật ghi lại, Chuyển Luân Thánh Vương cũng như Đức Phật, có 32 tướng, 7 bảo; Ngài không dùng vũ lực, mà dùng chính nghĩa để xoay chuyển bánh xe Chính Pháp, cuối cùng trở thành vị Vua lý tưởng của thế giới. Bất kể theo Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Nho giáo, chỉ cần khoan dung với mọi người, thì đều có thể có duyên gặp Chuyển Luân Thánh Vương. Thế nhưng việc tốt hay gặp trắc trở, Thần đến thật rồi, mà con người vẫn nghi hoặc không tin. Thế nhân trong mê bất tỉnh Theo tục truyền, Bố Đại hòa thượng là hóa thân thế tục của Phật Di Lặc. Vào ngày 2 tháng 3 năm Trinh Minh thứ 2 triều Hậu Lương (năm 916 SCN), trước khi tạ thế, ông lưu lại bài kệ khắc trên bia đá trong chùa Nhạc Lâm như sau: “Di Lặc chân Di Lặc, Phân thân thiên bách ức, Thời thời thị thời nhân, Thời nhân tự bất thức” (Di Lặc ấy là Di Lặc thật, Phân thân hàng trăm nghìn vạn, Lúc nào cũng thị hiện người đời, Chỉ bởi người không tự biết). Bài kệ trước khi viên tịch của Bố Đại hòa thượng đã nói với người đời rằng, khi Phật Di Lặc tương lai hạ thế độ nhân, bất chấp chân tướng không ngừng triển hiện, thế nhân vẫn không thể đối diện với hiện thực. Di Lặc hạ thế tại đâu? Quốc sư triều Minh Lưu Bá Ôn tại quyển 2 «Thôi Bi Đồ» đã tiên tri: (Trung Quốc hình như Kim Kê {con gà vàng}, “Kim Kê mục” là vị trí tỉnh Cát Lâm. Chỉ Giác Giả chuyển sinh nhân thế tại Cát Lâm, thuộc Thỏ, Mộc Tử tính, tức họ Lý. Trong tiếng Hán, “Mộc Tử” (木子) chính là chữ “Lý” (李)). Đại Giác Giả “thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.“ Ngoài ra, Lưu Bá Ôn và Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có một đoạn đối thoại liên quan tới lịch sử ngày nay, trình bày càng rõ ràng minh bạch xuất chúng hơn nữa: “Hoàng Đế hỏi: Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo? Bá Ôn đáp: Có thơ làm chứng rằng: Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng Chân Phật không ở trong tự viện Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo.” Giải: Vào cuối thời mạt pháp, người truyền chính Pháp sẽ không phải là hòa thượng trong chùa chiền, cũng không phải là đạo sĩ trong đạo quán. “Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng” ý nói người truyền chính Pháp để tóc ngắn kiểu nam tử ngày nay (đàn ông thời xưa để tóc dài), minh xác chỉ rõ: Chân Phật truyền chính Pháp không phải là người trong Phật giáo. (Thích Chứng Thông – Cao Tăng Đài Loan) Thích Chứng Thông Cao Tăng Đài Loan chia sẽ : ““Sau này tôi mới minh bạch ra, Phật Tổ nói năm mươi ức năm sau Phật Di Lặc hạ thế, đối ứng với nhân gian chính là ngày hôm nay, bởi vì không gian khác nhau có khái niệm thời gian khác nhau. Trải qua hơn 10 năm tu Đại Pháp, tôi ngày càng kiên tín, Sư tôn là đến phổ độ chúng sinh”. Tại hội trường cuộc thi Piano do Đài truyền hình Tân Đường Nhân tổ chức—ở Đại học Đài Nam, bên ngoài bức tường nhẵn bóng của thính phòng âm nhạc, Thích Chứng Thông đã tận mắt chứng kiến hoa Ưu Đàm Bà La. Điều này khiến bà càng minh bạch rằng Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế truyền Pháp phổ độ chúng sinh, con người có thể không ly khai thế tục mà tu thành Như Lai.” (Sách Chuyển Pháp Luân) Ngô Vĩnh Khuê Cao Tăng Hàn Quốc ; Ngô Vĩnh Khuê vội vã mở cuốn sách ra, trước tiên đọc được bài văn ngắn “Luận Ngữ” ở phần trước của “Chuyển Pháp Luân”, Ngô Vĩnh Khuê nói rằng: “Sau khi đọc qua, lúc ấy kinh ngạc đến nổi đầu óc trống rỗng, Pháp lý giảng trong sách tinh thâm huyền bí như vậy, cảm giác chính mình dường như đã đuợc nguyên lý vũ trụ”. Vừa đọc xong “Luận Ngữ”, Ngô Vĩnh Khuê liền gọi điên thoại cho lão tăng ni Xa Pháp Liên: “Từ nay bắt đầu không cần phải đọc “Niết Bàn Kinh” nữa, tôi tặng bà một cuốn sách vô cùng trân quý, từ nay trở đi đọc cuốn sách này là được rồi. Âu Dương Kỳ Diễm, một cụ già ở Trung Quốc, đã mượn cuốn “Chuyển Pháp Luân” từ một người quen vào đầu năm 1998. Một tuần sau, cụ nói với người cho mượn sách một cách phấn khích: “Ở tuổi của chúng ta, chúng ta có thể chưa đọc đến 10.000 cuốn sách, nhưng chúng ta phải đọc đến vài ngàn cuốn rồi. Tuy nhiên, tôi chưa từng đọc cuốn sách nào tuyệt như cuốn sách này. ‘Chuyển Pháp Luân’ thật là siêu thường!” “Phúc âm John” trong Kinh Thánh viết (1:10-11): “Ngài đã vào thế gian, thế gian đã được tạo nên bởi Ngài, nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài. Ngài đã đến với dân Ngài, nhưng dân Ngài không tin nhận Ngài”. Kinh Thánh còn nói khi Cứu Thế Chủ giáng thế cứu người, ánh sáng của Ngài sẽ chiếu rọi thế giới trong nháy mắt, tựa như tia chớp từ trời tỏa sáng không trung. Thế nhưng người đời không nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, lại để Ngài phải chịu khổ không ít, thậm chí còn bị thế nhân không rõ chân tướng gièm pha. Trong «Các Thế Kỷ» có một bài thơ nổi tiếng minh xác về thời gian, đó là Các Thế Kỷ X, Khổ 72 tiên tri về đại sự kiện: Vào năm 1999, tháng 7, Để Đại vương Angoulmois phục sinh, Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống, Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ, Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Ngày 20 tháng 7 xác thực là một ngày đặc thù, được «Các Thế Kỷ» tiên tri là Giang Trạch Dân, kẻ chống Chúa, sẽ phát động cuộc đàn áp toàn diện đối với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Cuộc đàn áp gây bao đổ máu, phỉ báng lừa dối, tạo ma nạn tại Trung Nguyên, mê hoặc thế nhân khiến họ phạm tội. Đây chính là trận đại chiến Chính-tà tối hậu Armageddon giữa Chiên Con và thú mà “Khải Huyền” nhắc tới, đến nay đã hơn 15 năm. Đối diện với ma nạn, vô số Thánh đồ đã kiên nhẫn giảng rõ sự thật để thực hiện sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Đảng Cộng sản Trung Quốc ngang nhiên chống lại Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ, đã rơi vào vũng bùn trong cuộc đọ sức Chính-tà này. Câu sấm “Cửu thập cửu niên thành đại thác” (Năm 99 thành sai lầm lớn) của dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đường đã trở thành sự thực. Cuối cùng hướng về Thần Kinh «Trường A Hàm», quyển 18 viết: “Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế… thời các tiểu vương tại Đông phương thấy Đại Vương, đều dâng châu báu quy thuận. Ngoài ba phương Nam, Tây, Bắc đều như vậy”. “Khải Huyền” của Kinh Thánh viết (7:9-10): “Sau những việc đó, kìa, tôi thấy một đám đông rất lớn, không ai có thể đếm được, từ mọi quốc gia, bộ lạc, dân tộc, và ngôn ngữ đứng trước ngai và trước Chiên Con; ai nấy đều mặc áo choàng trắng và tay cầm cành thiên tuế. Họ cùng nhau cất tiếng hô vang rằng, ‘Ơn cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và thuộc về Chiên Con’.” Cho dù phải trải qua bao nhiêu ma nạn, cuối cùng con người cũng đều hướng về Thần; những người này đến từ các phương, các nước, các dân tộc. Kinh Phật và Kinh Thánh đều nhất trí khi miêu tả điểm này. Tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại Sau khi Cứu Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh, nhân gian sẽ nghênh đón tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại. Kinh «Di Lặc Hạ Sinh» viết: “Quốc thổ đều phú thịnh, vô phạt vô tai ách; nam nữ đều do thiện nghiệp sinh. Đất không cây gai, chỉ sinh cỏ xanh, thuận theo gót chân, mềm như tơ tằm. Tự nhiên xuất lúa thơm, mỹ vị đều sung túc. Cây cối sinh y phục, màu sắc đều trang nghiêm; cây cao ba tòa nhà, hoa quả thường dư dật. Lúc ấy người trong nước, đều thọ tám vạn năm, không có khổ bệnh tật, đầu óc thường an lạc.” “Isaiah” của Kinh Thánh viết (65:19-20): “Tiếng than khóc sẽ không còn nghe trong thành ấy; Tiếng khóc than sẽ vĩnh viễn không còn. Trong thành ấy trẻ thơ sẽ không chết yểu; Không người già nào không hưởng trọn tuổi thọ của mình; Vì ai trăm tuổi mà qua đời sẽ bị xem là chết yểu; Người chưa được bách niên mà phải lìa đời sẽ bị xem là bị nguyền rủa”. “Isaiah” (65:23-25): “Chúng sẽ không lao động một cách luống công; Chúng sinh con ra chẳng phải để chuốc lấy âu sầu, Vì con cháu chúng sẽ là dòng dõi của những người được CHÚA ban phước, Và dòng dõi của chúng tiếp theo chúng nữa. … Chúng sẽ không gây tổn hại hay phá hoại trong khắp núi thánh của Ta,’ CHÚA phán vậy”. “Khải Huyền” của Kinh Thánh cũng miêu tả tân Thiên, tân Địa như sau (22:2): “Giữa quảng trường của thành, nơi rẽ ra của hai nhánh sông, có một cây sự sống sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng để chữa lành các dân”. Bởi vậy, sau khi trải qua trận đại chiến Chính-tà này, những người có đạo nghĩa, duy hộ Phật Pháp sẽ được lưu lại và có phúc. Họ sẽ trường thọ an lạc, vô phạt vô tai, hoa quả sung túc, mỹ vị phong phú, chung sống hòa thuận, không tranh không đấu, nhân loại từ đó tiến nhập vào kỷ nguyên mới. Thời khắc cuối cùng (Video) : Xem thêm : Cô tăng vạn lý tìm Đại Đạo, May gặp Di Lặc Chuyển Luân Vương Tìm kiếm miệt mài: Nguyện vọng tăng nhân Hàn Quốc cuối cùng đã toại nguyện
  17. Cháu chào chú Thiên Sứ ! - Sức khoẻ chú không tốt ah. Chú cho cháu email cháu gửi cho chú 3 quyển sách khi chú đọc xong nếu ngộ ra được thì chú sẽ khoẻ ngay. Điều này đã được chứng nghiệm của hơn 100 triệu người rồi. Chỉ cần đọc không thôi đã có tác dụng rất lớn cho sức khoẻ. Đó là khoa học siêu thường . Không thể dùng khoa học hiện tại của nhân loại để đo lường và đánh giá được.
  18. Hộp Sọ Người Làm Hoài Nghi Lý Thuyết về Nguồn Gốc Loài Người Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn và thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa học Huyền bí” của Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường đã kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới. Chúng có thật hay không? Tùy bạn quyết định! Hộp sọ Petralona được phát hiện bởi một người chăn cừu ở hang động Petralona, Hy Lạp. (Wikimedia Commons) Một phát hiện về hộp sọ người có khả năng làm thay đổi hiểu biết về sự tiến hóa của loài người và sự ngăn chặn, giấu giếm thông tin sau khi phát hiện hộp sọ này. Vào năm 1959, tại vùng Chalkidiki thuộc Petralona, phía Bắc Hy Lạp, một người chăn cừu tình cờ phát hiện một hang động lộ ra sau khi tuyết tan. Ông ta huy động dân làng giúp ông phá cửa động. Họ phát hiện ra hang động bao phủ bởi thạch nhũ và măng đá, cùng một hộp sọ người được gắn vào tường (sau này người ta còn phát hiện ra một lượng lớn cổ vật hóa thạch bao gồm các loài động vật trước con người, lông động vật, gỗ, công cụ bằng đá và xương đã hóa thạch). Hộp sọ người đã được Chủ tịch Cộng đồng Petralona chuyển đến cho Trường Đại học Thessaloniki ở Hy Lạp. Cam kết giữa hai bên trong việc chuyển giao này là sau khi hoàn thành việc nghiên cứu, sẽ mở một bảo tàng giới thiệu những cổ vật mới phát hiện từ hang động Petralona này và hộp sọ người sẽ được trưng bày ở trong viện bảo tàng – thế nhưng điều này đã không xảy ra. Hộp sọ người Petralona được trưng bày tại Viện Bảo tàng Khảo cổ học Thessaloniki. (Wikimedia Commons). Giáo sư Aris Poulianos, thành viên của tổ chức IUAES (Hiệp hội Khoa học Quốc tế Về nhân loại học và Dân tộc học) của UNESCO, là nhà sáng lập của Hiệp hội Nhân loại học của Hy Lạp, một chuyên gia nhân loại học, người đã làm việc tại Trường Đại học Moscow vào thời điểm đó, ông đã được Thủ tướng Hy Lạp mời quay trở lại Hy Lạp để giữ vị trí trong Hội đồng Các trường Đại học ở Athens. Lý do là ông đã xuất bản cuốn sách của ông có tên “Nguồn gốc của người Hy Lạp”, trong đó đã cung cấp những thông tin nghiên cứu hữu ích, chỉ ra rằng người Hy Lạp không phải bắt nguồn từ các dân tộc Slavic mà thực sự có nguồn gốc từ đất nước Hy Lạp. Sau khi trở lại Hy Lạp, Giáo sư Poulianos đã chú ý đến hộp sọ người tại Petralona và ngay lập tức bắt đầu nghiên cứu hang động Petralona và hộp sọ người này. ‘Người đàn ông Petralona’ hay được gọi là người cổ đại của vùng Petralona, có độ tuổi là 700.000 năm, trở thành người Châu Âu nhiều tuổi nhất từ trước đến nay. Nghiên cứu của Giáo sư Poulianos cho thấy người đàn ông Petralona là loài người tiến hóa độc lập ở Châu Âu và không phải là tổ tiên của loài người từ Châu Phi. Vào năm 1964, các nhà nghiên cứu độc lập người Đức Breitinger và Sickenberg đã cố gắng bỏ qua các phát hiện của Giáo sư Poulianos, với lý giải là hộp sọ này chỉ khoảng 50.000 năm tuổi và thực chất là tổ tiên đến từ Châu Phi. Tuy nhiên, các nghiên cứu được công bố vào năm 1971 ở Mỹ trên tạp chí Khảo cổ học danh tiếng đã xác nhận lại những phát hiện trước kia, đó là hộp sọ này đúng là 700.000 năm tuổi. Việc này được đưa ra dựa trên một phân tích về địa tầng học và các trầm tích của hang động nơi hộp sọ được gắn vào. Những nghiên cứu sâu hơn trong hang động đã phát hiện ra những chiếc răng rời nhau và hai bộ xương người từ 800.000 năm trước cũng như là các mảnh hóa thạch của nhiều loài khác nhau. Ngày nay, hầu hết các nhà học thuật, những người đã phân tích di vật ở Petralona cho biết ‘Người đàn ông Petralona’ thuộc về loài vượn người cổ khác biệt với loài Homo erectus lẫn loài Neantherthal và loài người với mô hình giải phẫu hiện đại, nhưng lại thể hiện đặc điểm của người Châu Âu. Hộp sọ 700.000 năm tuổi này cũng không thuộc họ Homo sapien hay một nhánh của Homo sapien. Điều này trái ngược với lý thuyết nguồn gốc Châu Phi về sự tiến hóa của loài người. Khai quật thêm các khu vực trong động ở Petralona với sự tham gia của các nhà nghiên cứu quốc tế (46 chuyên gia từ 12 nước khác nhau) đã cung cấp thêm các bằng chứng như Giáo sư Poulianos đã đưa ra, bao gồm một số những phát hiện đặc biệt như các miếng gỗ hóa thạch, lá sồi hóa thạch, lông động vật hóa thạch, phân hóa thạch, những hiện vật này có thể xác định được chính xác năm tuổi cũng như là hầu hết những công cụ bằng đá và bằng xương của thời kỳ tiến hóa của người cổ đại Archanthropus, từ các tầng thấp hơn (750.000 năm) tới tầng cao hơn (550.000 năm) của các trầm tích bên trong động này. Cuộc nghiên cứu này gián đoạn vì chế độ độc tài ở Hy Lạp, và mãi tận năm 1983 mới được tiếp nối. Sau đó chính phủ đã cấm các hoạt động khai quật tại địa điểm này trên tất cả mọi đối tượng, bao gồm nhà khảo cổ học và trong vòng 15 năm, không ai được tiếp cận đến địa điểm này hay tiếp cận tới các cổ vật đã được phát hiện ở vùng này, cho dù chính phủ không đưa ra lý do gì giải thích việc cấm đoán này. Có phải việc cấm cản này nhằm mục đích ngăn chặn phát tán những kết luận khoa học bị che giấu trong những di vật hóa thạch lạ thường ẩn sâu trong các lớp tường đá của các hang động này? Sau khi Tổ chức Cộng đồng Ngành nhân loại học của Hy Lạp đưa sự việc này lên tòa án, 15 năm sau họ đã được cho phép tiếp cận lại hang động. Từ đó trở đi Bộ Văn hóa đang cố gắng bằng mọi cách để chiến thắng quyết định của tòa án và tiếp tục đào sâu nghiên cứu. Những phát hiện của Giáo sư Poulianos trái ngược với cách nhìn nhận thông thường về sự tiến hóa của loài người và nghiên cứu của ông đã bị cấm. Giáo sư Poulianos và vợ ông đã bị tấn công tại nhà và bị thương vào năm 2012, người ta không phát hiện ra thủ phạm của vụ tấn công này. Ông và đồng nghiệp của ông đã bị từ chối, không cho phép tiếp cận vào hang động này để hoàn thành nốt phần nghiên cứu của họ và hiện giờ cũng không ai biết nơi để những họp sọ đó. Hiện nay, các thông tin xung quanh hang động ở Petralona cho thấy hộp sọ được phát hiện có độ tuổi vào khoảng 300.000 năm. Tại trang thông tin Wikipedia ngày nay, bạn có thể tìm thấy những bài viết tham khảo thiếu chứng cứ và cố gắng để xác định tuổi của họp sọ Petralona này chỉ nằm trong giới hạn từ 160.000 đến 240.000 năm tuổi. Gần đây, Giáo sư C.G.Nicholas Mascie Taylor của Trường Đại học Cambridge đã gửi một bức thư tới Bộ Văn hóa của Hy Lạp, nói rằng tuổi chính xác của họp sọ là 700.000 năm tuổi chứ không phải là 300.000 năm tuổi. Ông ấy cũng đặt nghi vấn về việc chính phủ cấm thông tin liên quan đến phát hiện đáng kinh ngạc này. Tái bản với sự cho phép của Ancient Origins. Đọc bài gốc tại đậy.
  19. Bí ẩn về lò phản ứng hạt nhân "thời tiền sử" Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên phát điện trên thế giới được sản sinh ở Anh, tuy nhiên, thực tế thì hệ thống phát điện sử dụng phản ứng hạt nhân thì đã được người Nga xây dựng từ năm 1954. Tuy nhiên, ngay cả hai lò phản ứng này cũng chưa phải là lò phản ứng hạt nhân “cổ xưa” nhất trên Trái đất. Lò phản ứng hạt nhân thời tiền sử được tìm thấy ở Oklo. Vào tháng 6/1972, khi quặng uranium từ Oklo được chuyển về nhà máy của Pháp. Sau khi tiến hành các phép kiểm tra, các nhà khoa học Pháp đã phát hiện ra rằng hàm lượng uranium 235 (một loại nhiên liệu của lò phản hạt nhân) trong số quặng từ Oklo chuyển về rất thấp, thậm chí không tới 0,3%. Trong khi đó, hàm lượng uranium 235 trong quặng uranium thông thường đạt 0,711%. Hiện tượng kỳ lạ này khiến các nhà khoa học Pháp đặc biệt quan tâm và họ đã dùng rất nhiều cách khác nhau để tìm hiểu xem nguyên nhân vì sao hàm lượng uranium 235 trong quặng từ Oklo chuyển về lại thấp như vậy. Sau một thời gian nghiên cứu và thảo luận, cuối cùng các nhà khoa học đã kinh ngạc phát hiện ra rằng, hóa ra nguyên nhân khiến hàm lượng uranium 235 trong quặng ở Oklo thấp là vì nó đã bị đốt, nghĩa là đã qua sử dụng. Đây là phát hiện làm chấn động giới khoa học lúc bấy giờ. Rất nhiều người đã lặn lội tới tận Oklo để tìm chân tướng sự thực. Sau một thời gian dài nỗ lực tìm hiểu, các nhà khoa học khẳng định tại Oklo có một lò phản ứng hạt nhân từ thời cổ xưa. Lò phản ứng hạt nhân này gồm16 khu vực với khoảng 500 tấn quặng uranium tạo thành. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, mỏ uranium ở Oklo được hình thành vào khoảng 2 tỷ năm trước. Lò phản ứng hạt nhân cổ xưa này bắt đầu “vận hành” vào khoảng 500 ngàn năm trước. Với một lò phản ứng được bảo tồn nguyên vẹn, thiết kế khoa học, kết cấu hợp lý với tuổi thọ 2 tỷ năm, các nhà khoa học cực kỳ băn khoăn. Bởi lẽ lò phản ứng này do ai thiết kế, xây dựng? Câu hỏi này cho tới nay vẫn là một câu đố đầy thách thức với giới khoa học. Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng, đây là một lò phản ứng hạt nhân tự nhiên? Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng, nó không thể là sản phẩm của tự nhiên được. Bởi lẽ, theo họ tự nhiên không thể thỏa mãn được điều kiện kỹ thuật vô cùng nghiêm ngặt của các phản ứng dây chuyền trong sản xuất điện hạt nhân. Tới năm 2006, các nhà khoa học một lần nữa khẳng định rằng, từ 2 tỷ năm trước đã có một lò phản ứng cỡ lớn hoạt động, phát ra năng lượng một cách an toàn, ổn định tới hàng trăm ngàn năm sau mà vẫn không xảy ra một vụ nổ hủy diệt nào. Theo họ, với trình độ kỹ thuật của con người hiện nay vẫn chưa thể làm được điều đó. Vị trí của Oklo trên bản đồ. Theo kiến thức hiện đại thì vào 2 tỷ năm trước trên trái đất chỉ có các loài tảo, con người vẫn chưa xuất hiện. Cho tới thời kỳ đầu của kỷ đệ tứ, Đại Tân sinh (khoảng hơn 3 triệu năm trước) mới xuất hiện vượn người đầu tiên. Do đó, có thể khẳng định rằng, lò phản ứng hạt nhân ở Oklo tuyệt đối không phải sản phẩm của nhân loại. Nếu theo cách suy luận này thì liệu đây có phải là chứng cứ của người ngoài hành tinh? Hay là một kiệt tác của một nền văn minh thời tiền sử mà con người chưa từng biết tới. Nhiều nhà khoa học đưa ra giả thiết vô cùng "lãng mạn" rằng, vào 2 tỷ năm trước, người ngoài hành tinh đã dùng một chiếc phi thuyền sử dụng động cơ nguyên tử tới Trái đất. Những người ngoài hành tinh này đã xây dựng một lò phản ứng hạt nhân tại Oklo để có năng lượng cung cấp cho hoạt động của họ trên Trái đất. Sau đó, họ rời khỏi Trái đất và để lại lò phản ứng hạt nhân cổ xưa ở Oklo. Cũng có người cho rằng, đó không phải là sản phẩm của người ngoài hành tinh mà là một kiệt tác của những nền văn minh cổ xưa mà con người chưa từng biết tới. Theo họ, vào 2 tỷ năm trước, xã hội loài người đã phát triển tới mức độ rất cao. Tuy nhiên, do luôn cạnh tranh và thù địch lẫn nhau nên đã nổ ra một cuộc chiến tranh hạt nhân. Loài người bị hủy diệt nhưng vẫn để lại những dấu vết rất nhỏ và lò phản ứng hạt nhân ở Oklo chính là một trong những dấu vết ấy. Bên cạnh giả thiết táo bạo trên, khoa học còn có những giải thích khác. Nam Phong http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/49888/bi-an-ve-lo-phan-ung-hat-nhan--thoi-tien-su-.html
  20. Khám phá những trường hợp nổi tiếng vượt qua thời không thành công Phương tiện truyền thông nước ngoài báo cáo, những câu chuyện kỳ lạ vượt qua thời không để trở về quá khứ. (Ảnh Internet) Một số người có thể nghĩ rằng chuyện vượt qua thời gian chỉ là sự giả tượng của những bộ phim truyền hình hiện đại, nhưng tờ tin tức buổi tối của Anh “Liverpool Echo” đã báo cáo lại những câu chuyện thực sự lạ thường khi con người có thể quay trở về quá khứ ,cổng thông tin About.com của Hoa Kỳ đã ghi nhận lại câu chuyện nhìn thấy cảnh tượng ở tương lai, năm 1911 cũng ghi nhận lại trải nghiệm ly kỳ trở về quá khứ của hai học giả người Oxford- Anh được công bố trong cuốn “phiêu lưu” (An Adventure). Tên trộm trở về năm 1967 Ví dụ, trong năm 2006, một tên trộm trong khi chạy trốn để thoát khỏi sự truy đuổi của bảo vệ khu đường Bold, thì đột nhiên tên trộm không thấy các nhân viên an ninh đâu nữa, điều này đã khiến cho anh ta cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Nhưng một tình huống khiến anh phải bối rối đột nhiên xuất hiện, quang cảnh trước mắt anh toàn là những chiếc xe ô tô kiểu cũ, quần áo của người dân cũng rất kỳ lạ. Sau khi anh đọc báo thì mới phát hiện ra đây là năm 1967. Anh nhanh chóng quay trở lại về phố Ranelagh, và đã rất may mắn có thể quay trở lại năm 2006, nhưng anh vẫn có thể nhìn thấy các đường phố trong quá khứ. Buổi tối hôm đó sau khi xác minh rõ những lời kể của tên trộm, họ thấy rằng quả thực những miêu tả về các vị trí và điểm mốc cũng như chi tiết của các cửa hàng khác nhau ở năm 1967 là hoàn toàn chính xác. Người bảo vệ lúc đó cũng nói rằng tên trộm trẻ tuổi dường như đã biến mất trong khi chạy trốn. Người phụ nữ vào cửa hàng đã đóng cửa từ lâu Trong trường hợp khác, một phụ nữ cho biết cô bước vào một cửa hàng mà cô đã không thể nhận ra, cô nghĩ rằng có thể nó mới chỉ khai trương. Điều đặc biệt là giá của tất cả các loại hàng hóa ở đó đều rất thấp, vì vậy mà cô đã đi đến quầy nhân viên thu ngân với một cánh tay đầy ắp hàng hóa, nhưng khi cô rút thẻ tín dụng để trả, người thu ngân và quản lý cửa hàng đều đang cho thấy một cái nhìn bối rối, sau đó cô đã bỏ đi. Khi cô kể với mẹ của mình về cửa hàng này, mẹ cô liền nói rằng cửa hàng đó đã ngừng kinh doanh từ lâu rồi, tại vị trí đó hiện nay là một ngân hàng. Người đàn ông chứng kiến ​​phát minh năm 1821 Một người đàn ông được cho là đã bị đâm trúng bởi bóng ma của một xe điện cách đây 20 năm tại đường Pod. Năm 1971 hai nhân chứng đã nhìn thấy một nhà phát minh trên sông Mersey để thử nghiệm những thứ mới, sự kiện này đã được ghi đầy đủ vào năm 1821. Phi công người Anh nhìn thấy sân bay trong tương lai từ trên cao Năm 1935, Sir Victor Goddard một trung tướng không quân người Anh đã có một trải nghiệm khá kỳ lạ. Khi ông bay qua một sân bay bỏ hoang gần Edinburgh, ông nhìn thấy một nhà chứa máy bay bên cạnh là bãi cỏ dại chăn thả gia súc, có những con bò đang ăn cỏ. Vào thời điểm đó, ông đã gặp một cơn bão dường như muốn đẩy lùi ông ra khỏi sân bay. Sau khi cơn bão qua đi, ông đã nhìn thấy một số máy bay mới sơn màu vàng đậu tại sân bay, điều kì lạ là ông chưa từng nhìn thấy những loại máy bay cánh đơn này khi hoạt động trong lực lượng liên đội không quân, các nhân viên tại mặt đất đều đang mặc bộ áo liền quần màu xanh (rất khác so với bộ quần áo quy định làm việc lúc đó là mầu nâu). Nhiều năm sau, toàn bộ mọi điều dường như trở nên sáng tỏ hơn với anh. Máy bay không quân Anh bắt đầu sơn toàn màu vàng, cũng mua hàng loạt một loạt máy bay mà Goddard đã từng nhìn thấy trước đây, đồng thời các nhân viên cơ khí sân bay cũng bắt đầu mặc những bộ áo liền quần màu xanh. Chuyên gia nghiên cứu về những hiện tượng siêu thường Stephen Wagner đã viết bài tiểu luận về câu chuyện này, đã được công bố trên cổng thông tin About.com tại Mỹ Học giả trở về thành phố Paris thế kỷ 18 Năm 1901, học giả người Anh Moberly (Charlotte Anne Moberly) và Jourdain (Eleanor Jourdain) trong chuyến thăm quan Versailles thì đột nhiên bị lạc đường, sau đó họ lang thang bộ đến một con đường dường như thuộc về quá khứ. Họ đã gặp một số người làm vườn,những người làm vườn này nói với họ rằng họ chỉ việc đi tiếp sẽ đến nơi cần tìm. Dựa theo cuốn sách “cuộc phiêu lưu” mô tả, sau khi họ tiếp tục đi, “tất cả mọi thứ đột nhiên trở nên rất không tự nhiên.” Một trong số họ nhớ lại, trở lại quá khứ đem lại một loại cảm giác ảm đạm không thể giải thích nổi. Theo mô tả của cô ấy, có một người đàn ông ngồi nghỉ mát tại đình với một làn da thô ráp đến mức “người ta phải chán ghét”, người đàn ông thế kỷ 18 này giống như người tình Comte de Vaudreuil luôn bên cạnh nữ hoàng Marie Antoinette. Họ cũng đã gặp một phụ nữ đang phác thảo bản vẽ trên bãi cỏ, cô ấy dường như ăn mặc lỗi thời, Moberly nhớ lại, “Tôi nhìn cô ấy chằm chằm, nhưng có một số cảm giác không thể diễn tả, tôi như cảm thấy sự hiện diện của cô ấy gây một chút khó chịu với tôi, dường như khiến tôi muốn tránh xa cô ấy. ” Toàn bộ điều mà Moberly có thể nhớ được là người phụ nữ này có vẻ là phù hợp với dáng vẻ bề ngoài của nữ hoàng Mary. Antoinette. Sau đó, một người đàn ông trẻ với dáng vẻ dương dương đắc ý đã thu hút sự chú ý của họ đến lối vào của một hội trường, họ bước vào cổng của một tiệc cưới vui vẻ, mà khiến cho họ không khỏi dứt mắt ra được. Sau đó họ đáp một chuyến xe ngựa để trở về căn hộ của Jourdain. Họ nhận thấy những đoạn trải nghiệm đó thật kì lạ, nhưng không thể nói ra là quái lạ ở điểm nào. Khi họ đặt chân xuống đất, thì mới phát hiện cột mốc lúc trước đã biến mất. Chỗ đó trở thành một nơi trống không, tiếp đó là sự xuất hiện dần dần của khách du lịch đầy khắp quảng trường. Hai người họ cho biết họ đã kiểm tra xem trong cùng ngày hôm đó tại gần đây có ai đặt chỗ trước không, nhưng phát hiện ra không có một ai đặt cả. Những ví dụ về các cuộc hành trình vượt không gian và thời gian như vậy có rất nhiều. Tam giác quỷ Bermuda cũng là một khu vực thường xuyên xảy ra những sự kiện tương tự, đây là nơi mà dẫn đến sự biến mất của hàng trăm máy bay và tàu thuyền qua lại, đã có hàng ngàn người biến mất ở đây không một dấu vết, nhưng cũng có nhiều trường hợp xuất hiện trở lại sau một vài năm sau đó. Một giáo sư trường Đại học thành phố New York cho biết: “Nếu hiện tượng này có thể được chứng thực qua việc thực hiện các thí nghiệm lặp lại, thì về căn bản nó sẽ làm rung chuyển nền tảng của ngành vật lý hiện đại ngày nay.” Phụ trách Việt ngữ bởi: Nhóm biên tập Việt Nguyên Để đọc bản gốc trên Epoch Times, vui lòng click vào đây. http://vietdaikynguyen.com/v3/16313-kham-pha-nhung-truong-hop-noi-tieng-vuot-qua-thoi-khong-thanh-cong/
  21. Vào ngày 27/10/1954, một trận bóng đá gần như phải dừng lại khi một vật thể bay không xác định (UFO) băng ngang sân vận động ở Florence, đặt ra câu hỏi, liệu có thực sự tồn tại người ngoài hành tinh trên trái đất chúng ta hay không? Trận World Cup 1954 ở sân Florence. Nếu không phải, thì sự việc trên là gì? Trận đấu bóng trên sân Stadio Artemi Franchi năm 1954 có tới một vạn khán giả tới cổ vũ và reo hò. Nhưng chỉ sau nửa giờ đồng hồ, cả sân bóng đột nhiên im bặt. Mọi người không còn chú ý tới trận đấu mà bắt đầu chỉ trỏ và hướng về phía một vật thể bay lạ trên bầu trời. UFO xuất hiện trong trận World Cup 1954 đã làm gián đoạn trận đấu. Vào lúc đó, các cầu thủ ngừng chơi và bóng cũng ngừng lăn. Một cầu thủ trên sân chơi cho đội tuyển Ý trong mùa World Cup năm đó kể lại: “Tôi nhớ tất cả mọi thứ xảy ra từ A đến Z. Nó giống như một quả trứng, di chuyển chầm chậm trên bầu trời. Mọi người đều theo hướng đó và xuất hiện ánh sáng lấp lánh bạc trên trời. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ trước tới giờ chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế. Chúng tôi hoàn toàn bị chấn động”. Bức ảnh đen trắng cũ cho thấy những cổ động viên đang nhìn và chỉ trỏ trên bầu trời. Được biết, sự kiện tại sân bóng không phải do kích động từ người dân. Kể từ ngày hôm đó, nhiều thị trấn trên toàn Tuscany liên tiếp nhìn thấy UFO. Nhiều nhân chứng kể lại, có một tia ánh sáng trắng đã được phát hiện trên bầu trời Prato, phía Bắc của Florence. Một cổ động viên trung thành của Fiorentina là Gigi Boni mô tả nhiều đối tượng khác nhau sáng lấp lánh trên sân Magnini. “Tôi nhớ rõ cảnh tượng đáng kinh ngạc này. Chúng di chuyển rất nhanh và đột nhiên dừng lại. Hiện tượng kéo dài chỉ vài phút. Chúng nhìn giống những điếu xì gà của Cuba, vì chúng gợi cho tôi nhớ tới những điếu xì gà này”, ông Boni cho biết. Chủ tịch Trung tâm Quốc gia Ý về UFO là ông Roberto Pinotti đã viết nhiều cuốn sách về vật thể bay lạ. Trong ngôi nhà của ông ở trung tâm Florence đang chứa rất nhiều hiện vật về người ngoài hành tinh, áp phích của những bộ phim cũ, những bài báo đóng khung và các bức ảnh đen trắng về đĩa bay bị mờ. Tờ La Nazione có tựa đề: Sợi thủy tinh rơi trên thành phố Tuscan sau khi quả địa cầu và đĩa bay đi qua. Tiêu đề dưới: nhìn thấy trên sân Florence (cùng một bức ảnh chụp UFO, hiện đã bị mất) . Xuất hiện cùng lúc với UFO, người ta còn phát hiện trên bầu trời Florence có chất dính rơi xuống, trong tiếng Anh gọi là “tóc thiên thần”. Tuy nhiên nó đã nhanh chóng tan rã ngay sau đó. Một cậu bé 10 tuổi nhớ lại “vào ban ngày, những mái nhà ở Florence được bao phủ bởi chất trắng như tuyết và nó tan biến sau khoảng 1 tiếng đồng hồ”. Chất dính trắng rơi xuống Florence, còn được gọi là “tóc thiên thần”. Có người nói, nó giống như bông gòn hay như mạng nhện, nhưng do không thể thu thập để nghiên cứu được vì tan rã quá nhanh. Một bức tranh vẽ lại cảnh tượng xuất hiện UFO năm 1957 của tờ LA DOMENICA DEL CORRIERE. Tuy nhiên, các nhà khoa học bấy giờ hoàn toàn bác bỏ suy đoán này. Họ cho rằng, đó là một ý tưởng hoàn toàn ngớ ngẩn. Một phi công Mỹ nghiên cứu thiên văn học là ông James McGaha đã chăm chú quan sát bầu trời đêm ở một đài thiên văn phía Đông Nam Arizona cho biết, toàn bộ hiện tượng UFO chỉ là sự huyền thoại, ma thuật và mê tín dị đoan, được vẽ nên bởi những câu chuyện siêu tưởng về người ngoài hành tinh đến trái đất để giải cứu hay tiêu diệt con người. Theo đó, ông kết luận hiện tượng “tóc thiên thần” không có gì bí ẩn ngoài sự di cư của những con nhện. Một mẫu “tóc thiên thần” được một nhiếp ảnh gia chụp và đăng tải lên báo chí. Dù vậy, nhiều người vẫn cho rằng những giả thuyết về tơ nhện này dường như không phù hợp. Hầu hết đều khẳng định, điều mà họ nhìn thấy năm đó là thứ chưa từng xuất hiện ở trái đất. Điều này đồng nghĩa với giả thuyết, người ngoài hành tinh đã xuất hiện tại trái đất. Cho đến tận bây giờ, đã 60 năm trôi qua, nhưng chưa có một lời giải thích hay chứng minh nào thuyết phục. Hiện tượng vật thể bay lạ tại sân bóng Florence và “tóc thiên thần” vẫn là những điều bí ẩn chờ được giải đáp. Thiên Hà, Lilo – Theo BBC
  22. «Cách Am Di Lục» toàn giải: Lời nói đầù Tác giả: Nguyên giải: Chính Hạo / Biên tập: Chánh Kiến Net [Chanhkien.org] Giới thiệu: «Cách Am Di Lục» (Gyeokamyurok) là cuốn sách tiên tri thần kỳ do học giả Nam Sư Cổ truyền lại từ 470-480 năm trước đây tại Triều Tiên (nay thuộc Hàn Quốc). Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, với khả năng tiên tri, có thể được ví với Thiệu Khang Tiết thời Bắc Tống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, tương truyền «Cách Am Di Lục» là do một vị Thần nhân ở núi Kim Cương khẩu thuật và Nam Sư Cổ ghi lại từng câu từng chữ. Toàn bộ cuốn sách phân làm 60 thiên với gần 4 vạn chữ. Phá giải «Cách Am Di Lục» đã trở thành một chủ đề nóng tại Hàn Quốc vào những thập niên 80-90. Trong dự ngôn giảng rất minh xác về một Đại Pháp Đại Đạo hồng truyền thế gian, nhưng phải trải qua một trường ma nạn, đồng thời cũng giảng về những vấn đề mà nhân loại sẽ phải đối mặt. * * * Lời nói đầu “Thử ngôn bất trung phi thiên ngữ, Thị thùy cảm tác thử thư truyện” (Lời này không trung thì không phải lời của Trời, Liệu ai dám viết ra cuốn sách truyện này) —Trích «Cách Am Di Lục», đệ cửu thiên “Sinh sơ chi lạc”. Phàm là con người trên thế gian này, có lẽ không có ai chưa từng nằm mộng. Hoặc có lúc vì giấc mộng mà khốn hoặc, nhưng phần lớn cảm thấy chẳng qua chỉ là giấc mộng thôi, không đáng để bận tâm. Ai có thể đếm xem một đời mình đã nằm mộng bao nhiêu, và cũng làm gì có ai coi mỗi giấc mộng đều là thật? Bởi vì dẫu sao mộng chỉ là mộng, chứ không phải hiện thực. Nhưng người ta có câu “nhân sinh như mộng”, như một cách khắc họa cuộc sống đoản tạm và hư vô trên thế gian này. Bất cứ ai cũng có thể từng nghĩ đến hoặc thể nghiệm cảm giác tuyệt vọng không cách nào trốn tránh ấy – cho dù là nhân vật nổi danh bốn biển, hay chỉ là một lê dân bình thường, cho dù là người giàu sang bạc tỷ, hay là kẻ cùng khổ bần hàn – đời người rốt cuộc cũng chỉ như một trạm dừng, và điều chờ đợi họ chính là tử thần. Người viết sở dĩ từ giấc mộng đời người liên tưởng đến lịch sử nhân loại, là vì trong quá trình phá giải «Cách Am Di Lục», người viết có thể thăm dò hòn sỏi nằm dưới lòng sông dài của lịch sử. Đạo Trời sâu xa, gương Trời sáng tỏ. Trong dòng sông dài lịch sử, biết bao chìm nổi, rốt cuộc là ai làm chủ? Bao nhiêu triều đại hưng vượng thịnh suy, khi khởi khi phục, biết bao buồn vui lẫn lộn, như ảo như mộng? “Sông lớn cuồn cuộn chảy về Đông, Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng“. Mỗi một khúc, mỗi một màn, từng gợi nên biết bao khúc ca tuyệt vời thiên cổ, nhưng bí ẩn thật giả trong đó thì ai biết? Cổ kim Đông Tây, chỉ điểm giang sơn, nói về nhân vật phong lưu, trên thế gian có không ít dự ngôn, thế nhưng ai dám tưởng tượng thế gian con người chỉ là một vở kịch có một không hai, rằng các dự ngôn vang danh xa gần đều là bí văn “kịch giả diễn thật”?! Nếu như lịch sử nhân loại đến nay bất quá chỉ là diễn tập mà thôi, thì diễn thật như thế nào, và khi nào thì diễn, đáp án chính là «Cách Am Di Lục». Để phá giải «Cách Am Di Lục», người viết đã đọc hơn 80 bộ dự ngôn Hàn Quốc, và phát hiện rằng đại bộ phận đều đàm luận về kiếp nạn của nhân loại thời mạt thế, đồng thời minh xác chỉ rõ chỉ có tu Pháp Luân Công “cung cung Ất Ất” mới là đường sinh, đặc biệt còn chỉ rõ đối đãi Pháp Luân Công như thế nào chính là nhân tố quyết định tương lai mỗi sinh mệnh. Ngoại trừ «Cách Am Di Lục» ra, các ngạn ngữ, văn khắc, hoặc dự ngôn nói về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí đã sớm quảng truyền thế gian, chỉ là người đời không biết mà thôi. Đọc kỹ «Cách Am Di Lục» thì có thể biết, «Cách Am Di Lục» có đặc điểm khác biệt với các dự ngôn khác: Đó là, «Cách Am Di Lục» chuyên môn bàn luận về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí, nghĩa là tổng cộng 60 thiên «Cách Am Di Lục», từ đầu tới cuối gần như chỉ chuyên nhất đàm luận về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí. Trước khi trần thuật vấn đề này, người viết đã lĩnh hội các sách tiên tri nổi tiếng của cả Đông và Tây phương, và đối chiếu với «Cách Am Di Lục», để giúp chúng ta lý giải vấn đề. Nói về các sách tiên tri Đông và Tây phương, nổi bật ở phương Đông có tác phẩm «Thôi Bối Đồ» của Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong, phương Tây có «Các Thế Kỷ» của Nostradamus. Để phá giải «Cách Am Di Lục», người viết đã đọc tham khảo một lượng lớn thư tịch, và kinh ngạc phát hiện trong số 60 Tượng «Thôi Bối Đồ», từ Tượng 40 trở đi, mười mấy Tượng quả nhiên dự ngôn về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí. Tất nhiên, lần phát hiện này của người viết là lần phá giải đầu tiên trong hơn 1.000 năm lưu truyền của «Thôi Bối Đồ». «Thôi Bối Đồ» tiên tri Thánh nhân sẽ xuất sinh tại Trung Quốc rồi truyền xuất Pháp Luân Công, đến năm Thỏ 1999 gặp trấn áp bởi nhà độc tài thuộc Hổ. Sau đó mấy năm, nhà độc tài thuộc Hổ sẽ phải chịu thẩm phán của lịch sử, tầng cao nhất trong lãnh đạo Trung Quốc sẽ có người đứng ra đề xuất giải oan cho Pháp Luân Công, Pháp Luân Công cuối cùng thành thế lớn, v.v. Còn trong «Các Thế Kỷ», nhà tiên tri đại tài nổi tiếng người Pháp Nostradamus tiên tri nhân loại sẽ gặp tai họa lớn vào năm 1999. Ông viết: “Vào năm 1999, tháng 7, Để Đại vương Angoulmois phục sinh, Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống, Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ“, chính là chỉ năm 1999 tại Trung Quốc, Giang Trạch Dân ra lệnh đàn áp Pháp Luân Công. Không chỉ có vậy, «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn triều Minh, «Mai Hoa Thi» của Thiệu Khang Tiết thời Bắc Tống, và các dự ngôn Hàn Quốc như «Mã Thượng Lục», «Tiêu Song Lục», «Trịnh Giám Lục», «Tam Dịch Đại Kinh», v.v. đều trực tiếp tiên tri hoặc đề cập đến Pháp Luân Công và thời kỳ lịch sử đặc thù ngày hôm nay. Bởi vậy, chúng ta thấy không chỉ «Cách Am Di Lục» là tiên tri về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí, mà các dự ngôn khác, hoặc ít hoặc nhiều cũng đều nói đến Pháp Luân Công, chẳng qua không dự ngôn nào như «Cách Am Di Lục», đàm luận vừa tường tận vừa sâu sắc. Đương nhiên, xét vấn đề từ góc độ này, trong các dự ngôn trên thế giới hiện nay, «Cách Am Di Lục» là đứng đầu. Tuy nhiên, tại đây nhất định phải nói một chút tại sao «Cách Am Di Lục» và các sách tiên tri khác lại đều đàm luận về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí. Khi tôn giáo đã trở nên hủ bại, điều mà người đương đại sùng bái đại đa số là mang tâm lý nghịch phản, bởi vậy khi đọc cuốn sách này khó tránh có một chút phản cảm. Tuy nhiên, sự thật vẫn mãi là sự thật, không thể vì sở thích của con người mà tốt biến thành xấu, xấu biến thành tốt. Đối với các dự ngôn như thế này, dù tin cũng vậy, không tin cũng vậy, nhưng ngày mà chân tướng đại hiển đã không còn xa nữa. Ví dụ, người ta vẫn luôn kể về câu chuyện “con thuyền Noah”. Nếu quả thực có chuyện như vậy, thì mọi người thử nghĩ xem, khi chuyện xảy ra rồi, lời tiên tri trở thành hiện thực, những người gặp nạn lúc ấy mới khóc thì hỏi có tác dụng gì?… Bởi vậy, có thể nói «Cách Am Di Lục» cũng như ngọn hải đăng rọi sáng đường biển cho nhân loại ngày nay. Nói thẳng ra, các sách tiên tri trứ danh cả Đông và Tây phương đều bàn luận về Pháp Luân Công và Ông Lý Hồng Chí tuyệt không phải là ngẫu nhiên. Con người trải qua bao đời bao kiếp, lịch sử nhân loại hàng nghìn hàng vạn năm, nếu hôm nay đang đứng giữa ngã tư, thì lựa chọn con đường nào đều là do chính mình. Nhận thức và đối đãi như thế nào với cuộc đàn áp Pháp Luân Công? Bạn ôm giữ loại lập trường và quan điểm nào? Nếu chưa từng đọc qua «Cách Am Di Lục», bạn có thể không rõ chân tướng, bởi vậy có thể rơi vào cảnh ngộ bất hạnh và thống khổ đời đời kiếp kiếp. Vì thế mới nói biết được «Cách Am Di Lục» thì đã tính là có phúc phận rồi! Đương nhiên, không phải cứ ai hễ đọc thì đều tin là thật, nhưng cũng có thể đọc nó sẽ cải biến đường đời của bạn. Nghe thì giống như vô lý buồn cười, mà bạn có bật cười thì cũng không sao, chỉ e đến lúc ấy không cười được nữa. «Cách Am Di Lục» tiên tri Pháp Luân Công bị đàn áp tại Trung Quốc, sau đó được giải oan, cuối cùng xảy ra ôn dịch: “Tam niên chi hung nhị niên chi tật, Lưu hành ôn dịch vạn quốc thời, Thổ tả chi bệnh suyễn tức chi tật, Hắc tử khô huyết vô danh thiên tật, Triêu sinh mộ tử thập hộ dư nhất…” (Ba năm gặp hung hai năm bệnh tật, Tới lúc vạn nước lưu hành dịch bệnh, Là bệnh tiêu chảy và bệnh hô hấp, Chết đen máu khô căn bệnh vô danh, Sớm sống chiều chết mười hộ còn một…) Tất nhiên, «Cách Am Di Lục» tiên tri đúng sai thế nào, cho dù người đời tin hay không tin, thì đến khi dịch bệnh khuếch tán nhân loại mới biết. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, «Cách Am Di Lục» cũng tiết lộ bí quyết làm sao để sinh tồn khi quái tật hoành hành. Do đó có thể nói bản thân việc đọc được «Cách Am Di Lục» đã là phúc đến từ trời rồi!… Kể rằng, «Cách Am Di Lục» là một bộ dự ngôn của Thần nhân, là một bộ ‘thiên thư’. Trong «Cách Am Di Lục», Thần nhân tràn đầy nhiệt huyết ca tụng Đại Thánh nhân và Pháp Luân Đại Pháp, đồng thời căm phẫn lên án cuộc đàn áp và bức hại Pháp Luân Công của tà ác, lấy chính nghĩa để cảnh cáo những người đi theo tà ác, mỗi lời tựa như đầy máu và nước mắt, khiến người viết cảm thán muôn vàn. Toàn bộ nội dung «Cách Am Di Lục» theo một phong cách đặc định, tựa như một bộ sử thi, một bản giao hưởng về vận mệnh, một tòa bảo tàng lịch sử, triển hiện trận chiến giữa Đạo và ma, giữa Thiện và ác xoay quanh Pháp Luân Công. Nó khí thế hùng hồn, hạo khí trường tồn, tựa như một dòng sông chảy không ngừng nghỉ, thuật lại tiến trình lịch sử bi tráng huy hoàng ngày hôm nay. Nó như một tiếng chuông cảnh tỉnh thế nhân, rằng người tu luyện đắc Đạo thì vĩnh sinh, kẻ đàn áp Pháp Luân Công thì vĩnh tử! Không còn nghi ngờ gì nữa, «Cách Am Di Lục» có thể được coi là một bộ thiên thư hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, bộ thiên thư này ẩn thân khỏi thế gian gần 500 năm, chỉ mới làm mưa làm gió trong suốt 17 năm qua, vận mệnh có thể nói là lênh đênh. Qua 17 năm diện thế, tuy nhiều người từng nghiên cứu khám phá, nhưng không ai có thể khai mở tấm màn che «Cách Am Di Lục», thật là đáng tiếc. Thực ra người viết đã sớm biết được bí ẩn, nhưng vì nhiều nguyên nhân, đợi xem có ai “một lời mà động trời” để phá giải «Cách Am Di Lục» hay không, nên tới xuân Tân Tỵ năm ngoái vẫn chưa đặt bút. Tuy nhiên, những cách phá giải cũ chỉ khiến người đời trầm mê vào chỗ tối, do vậy xuất phát từ trách nhiệm đạo đức chính nghĩa, người viết bắt buộc phải cầm bút ngồi vào bàn. Mục đích là đem bản lai diện mục «Cách Am Di Lục» rọi sáng toàn bộ tiến trình lịch sử đặc biệt ngày hôm nay, để «Cách Am Di Lục» chân chính khởi tác dụng của tiếng chuông cảnh tỉnh. Còn giải như thế nào, người viết không tiện thuật lại, để tiết kiệm thời gian, tuy nhiên trung thành với nguyên văn, dùng từ ngắn gọn súc tích, biểu đạt minh xác sở nguyện. Ý trời mênh mang, chỉ e chưa dụng tâm đủ, suy ngẫm đủ… Tuy hắc ám vẫn còn quẩn quanh, nhưng tiền trình quang minh đang trải ra phía trước, thật trang nghiêm và thần thánh vô cùng. Xin dừng bút tại đây, không hiểu tại sao nữa. Không ngăn nổi hai hàng nước mắt chảy dài, người viết không có lời nào biểu đạt lòng hạnh phúc trước trời đất tươi sáng phía trước… Người viết Mùa Thu, năm 2002 Nhâm Ngọ, tại Hải Đảo.
  23. “Thạch tỉnh thủy” Lời tựa: Thiên này hình tượng hóa ngoại hình Pháp Luân, ẩn dụ thành “giếng đá”, nên gọi Pháp lý là “thạch tỉnh thủy” (nước giếng đá), ám chỉ nó là nước sinh mệnh của người tu Đạo. Nhật xuất sơn thiên tỉnh chi thủy, Tảo chi tinh trần thiên thần kiếm. Nhất huy quang tuyến diệt ma tàng, Ám truy thiên khí quang thái điện. Thiên mệnh quy chân năng hà tương, Lợi tại thạch tỉnh sinh mệnh tuyến. Tứ chi nội lý tâm tuyền thủy, Thế nhân hà sự chuyển thê nhiên. Kỳ thiên đảo thần khai tâm môn, Thủy nguyên trường nguyên thiên nông điền. Nông khúc thổ thần thốn thất đấu lạc, Ngưu tính tại dã ngưu minh thanh. Nhân sinh thu thu thẩm phán nhật, Hải ấn dịch sự năng bất vô. Thoát kiếp trùng sinh biến hóa thân, Thiên sinh hữu tính Trịnh Đạo Lệnh. Thế gian tái sinh Trịnh thị Vương, Nhất tự tung hoành Mộc nhân tính. Thế nhân tâm bế vĩnh bất giác. “Nhật xuất sơn thiên tỉnh chi thủy, Tảo chi tinh trần thiên thần kiếm. Nhất huy quang tuyến diệt ma tàng, Ám truy thiên khí quang thái điện” (Mặt trời xuống núi nước giếng trời, Quét sạch bụi trần kiếm thiên thần. Một ánh quang huy diệt ma trốn, Ánh điện đánh tan màn u ám): Từ ngoại hình mà nhìn, Pháp Luân trông như mặt trời xuống núi, cũng giống cái giếng, nên mới nói “mặt trời” và “giếng trời”. Pháp Luân này cũng như “kiếm thiên thần” quét sạch bụi trần tanh tưởi. Chỉ cần múa thanh kiếm này, ánh quang huy sẽ tỏa sáng lấp lánh, dũng mãnh như tia chớp, xé toang bầu trời, trừ quỷ diệt ma. Ngụ ý Pháp Luân là Thiên Pháp cứu độ chúng sinh, tức nước giếng trời, cũng là kiếm thiên thần diệt ma. Pháp Luân tươi sáng như mặt trời, cũng trông giống như giếng đá. “Thiên mệnh quy chân năng hà tương, Lợi tại thạch tỉnh sinh mệnh tuyến. Tứ chi nội lý tâm tuyền thủy, Thế nhân hà sự chuyển thê nhiên” (Mệnh trời trở về có thể mang, Lợi tại mạch sống ở giếng đá. Nội bộ tứ chi nước suối tâm, Người đời làm sao chuyển đau thương): Pháp Luân có hình như giếng đá này mới là mạch sống quy chân của thiên mệnh, là nước sự sống khiến bạn sung mãn lực sống của tứ chi và tâm. Tuy nhiên, người đời vì sao nhìn không ra, nghe không thấy sự kiện trọng đại này? Đại Pháp Đại Đạo “tiền vô hậu vô” như vậy, can hệ đến sinh mệnh đời đời kiếp kiếp mỗi cá nhân, mà chúng sinh thế gian cớ sao thờ ơ như thế, chẳng phải quá đau thương hay sao! “Kỳ thiên đảo thần khai tâm môn, Thủy nguyên trường nguyên thiên nông điền. Nông khúc thổ thần thốn thất đấu lạc, Ngưu tính tại dã ngưu minh thanh” (Cầu thần khấn trời mở cửa tâm, Nguồn nước nguyên thủy tưới ruộng trời. Nhà nông cúi mình rải bảy đấu, Giống trâu ngoài đồng tiếng trâu kêu): Thành tâm hướng về tu Đạo, kính trời bái Thần mà mở ra cửa tâm, thì tự nhiên có “nước nguyên thủy” để cày ruộng trời, cũng là đắc Pháp tu Đạo. “Khúc thổ thần thốn” (曲土辰寸) hợp thành chữ “nông” (農) phồn thể, còn “thất đấu lạc” ý là tu Thiên Đạo Đại Pháp. “Giống trâu ngoài đồng tiếng trâu kêu”, trâu ở đây ẩn dụ người tu luyện, cày “ruộng trời”, “ngoài đồng” chỉ ngoài trời. Đi đâu cũng thấy điểm luyện Pháp Luân Công ở ngoài trời. “Nhân sinh thu thu thẩm phán nhật, Hải ấn dịch sự năng bất vô. Thoát kiếp trùng sinh biến hóa thân” (Đời người vụ thu ngày thẩm phán, Ấn biển phục dịch dùng được không. Thoát kiếp sống lại biến hóa thân): Vụ thu của đời người ở đây không phải chỉ lúc kết thúc cuộc sống, mà là kết thúc tu luyện, hoặc kết thúc cả giai đoạn tu luyện. Khi ấy “ấn biển”, tức Pháp Luân có thể khởi tác dụng không? Phàm là người tu luyện Pháp Luân Công đều có thể thoát kiếp hoặc sống lại, khi ấy đã tu thành “biến hóa thân” rồi, hết thảy đều nhờ “ấn biển” (Pháp Luân) diễn hóa. “Thiên sinh hữu tính Trịnh Đạo Lệnh. Thế gian tái sinh Trịnh thị Vương, Nhất tự tung hoành Mộc nhân tính. Thế nhân tâm bế vĩnh bất giác” (Trời sinh có họ Trịnh Đạo Lệnh. Tái sinh thế gian Vua họ Trịnh, Một chữ ngang dọc họ người Mộc. Người đời tâm bế mãi không biết): “Trịnh Đạo Lệnh” tức “Chính Đạo Linh” hoặc “Chính Đạo Lệnh” (đồng âm tiếng Hàn). Vị “Chính Đạo Lệnh” này có họ trên thiên thượng, nhưng vì cứu độ chúng sinh, Ngài hạ thế trở thành Vua của Chính Đạo, tức “Trịnh thị Vương”. Đại Thánh nhân này là người thuộc Mộc trong ngũ hành, đồng thời trong tên cũng có chữ “Mộc” (木). Tuy nhiên tâm con người thế gian bị phong bế nên không biết. Tại đây, Thần nhân dự kiến rõ Đại Thánh nhân sẽ truyền xuất Đại Pháp tại Trung Quốc, chưa đầy 10 năm đã có 100 triệu đệ tử, cuộc đàn áp Pháp Luân Công và phản đối đàn áp trở thành chủ đề đàm luận của các kênh truyền thông khắp thế giới. Tuy nhiên không mấy ai nghĩ người sáng lập Pháp Luân Công chính là Đại Thánh nhân! Lời tựa: Thiên này khởi đầu bốn thiên mà đề mục có chữ “trại”, và đằng sau là các chữ số. Chữ “trại” ở đây mang nghĩa cúng tế Thần, là ngôn ngữ kính trọng Thần. “Tam ngũ” tức “thập ngũ”, thập ngũ là Chân Chủ, tức Cứu Thế Chủ. “Trại tam ngũ” tức kính trọng luận về Đại Thánh nhân, hay thập ngũ Chân Chủ (theo Kinh Dịch, số 5 và 10 ở giữa, ứng với Trung ương). Vạn dân chi chúng phụng mệnh thiên ngữ, Cung Ất chi nhân truân truân giáo hóa. Nhược giả vi tuy chiến thắng, Vi kiên khước giả kiếp vạn dân thính thị. Tây khí Đông lai cứu thế Chân nhân, Thiên sinh hóa thị mạt thế Thánh quân. “Vạn dân chi chúng phụng mệnh thiên ngữ, Cung Ất chi nhân truân truân giáo hóa” (Hàng vạn dân chúng phụng mệnh lời của Trời, Người cung Ất ân cần giáo hóa): Trong thời kỳ đặc thù này, nhân loại kính bái thập ngũ Chân Chủ để nghe “thiên ngữ”, nghe “ân cần giáo hóa” của “người cung Ất”, tức người sáng lập Pháp Luân Công. «Cách Am Di Lục» thường dùng “cung Ất”, “lưỡng cung song Ất”, “cung cung Ất Ất” để chỉ Pháp Luân và Pháp Luân Công nói chung. “Cung cung” (弓弓) chỉ Thái Cực đồ của Đạo gia gồm hai cung Âm-Dương xoắn vào nhau; “Ất Ất” (乙乙) chỉ phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, Ất+Ất = “乙”+”乙” = “卍”. Đồ hình Pháp Luân với các Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn “卍”, biểu tượng của Pháp Luân Công. “Nhược giả vi tuy chiến thắng, Vi kiên khước giả kiếp vạn dân thính thị” (Người yếu mà lại chiến thắng, Người vì kiên quyết bỏ kiếp vạn dân lắng nghe): “Người yếu” chỉ Đại Thánh nhân, vì sao? Từ quan điểm thế tục mà xét, người sáng lập Pháp Luân Công không xuất thân quyền quý, mà lại chiến thắng; “tuy” là “thùy”, “vi thùy chiến thắng”, nghĩa là vì ai mà chiến thắng. “Người vì kiên quyết bỏ kiếp” là những người tu Đạo, loại bỏ bệnh tật và quan niệm cố hữu. Đại Thánh nhân là vì cứu độ người tu luyện và chúng sinh mà chiến thắng. “Tây khí Đông lai cứu thế Chân nhân, Thiên sinh hóa thị mạt thế Thánh quân” (Chân nhân cứu thế khí Tây đến từ Đông, Trời sinh hóa quả hồng là Thánh quân mạt thế): Hai câu này giảng phương Đông sẽ xuất sinh Đại Thánh nhân, và Đại Thánh nhân này sẽ là Cứu Thế Chủ của nhân loại. “Tây khí Đông lai” là thuật ngữ «Cách Am Di Lục» thường dùng để miêu tả Đại Thánh nhân. Vậy “Tây khí Đông lai” là gì? Ý là Đại Thánh nhân, tức “cung Ất chi nhân” Lý Hồng Chí tiên sinh, hiện nay xuất thế tại Đông phương, nhưng từng chuyển sinh qua Tây phương, và vận hiện nay là “khí Tây đến từ Đông”, tức người phương Đông định cư ở phương Tây. Đại Thánh nhân này chính là “Cứu thế Chân nhân”, là Thánh quân thời mạt thế. “Trời sinh hóa quả hồng”: chữ “thị” (柿), nghĩa là quả hồng ở đây ngụ ý rất sâu. (i) “quả hồng” là đắng trước ngọt sau, khổ tận cam lai, ẩn dụ tu luyện; (ii) về mặt hình tượng, quả hồng hình tròn (viên), ẩn dụ tu luyện công thành viên mãn; (iii) “thị” (柿) do “Mộc” (木) ở bên trên chữ “Lý” (李) ghép với “tệ” (币) ở bên phải chữ “Sư” (師), tức chỉ “Lý Sư”, hay vị Sư phụ mang họ Lý. “Thiên sinh hóa thị mạt thế Thánh quân” có nghĩa ông Lý Hồng Chí là Thánh quân truyền Pháp thời mạt thế. Thiên nhân xuất dự dân cứu địa, Kỳ thời bế mục hốt khai. Long nhĩ khẩu á thính thủ xuy ca, Bán thân bất tùy trường thân cước. Quảng dã dũng xuất sa mạc lưu tuyền. “Thiên nhân xuất dự dân cứu địa, Kỳ thời bế mục hốt khai” (Người trời xuất sinh để giúp dân cứu đất, Lúc này mở mắt ra mà xem): Mục đích xuất thế của Đại Thánh nhân là để cứu độ chúng sinh, mau thấy rõ và tiến vào tu luyện Pháp Luân Công. “Long nhĩ khẩu á thính thủ xuy ca, Bán thân bất tùy trường thân cước. Quảng dã dũng xuất sa mạc lưu tuyền” (Tai rồng miệng á lắng nghe bài ca, Bán thân bất toại duỗi chân ra được. Đồng rộng tuôn chảy dòng suối giữa sa mạc): Người lãng tai mà bỗng chốc nghe được, lại mở miệng hát theo bài ca, bị liệt nửa người mà bỗng chốc đi lại được, từ giữa sa mạc mà lại tuôn chảy dòng suối được, đây là công hiệu thần kỳ và siêu thường của Pháp Luân Công. Nghĩa là, bất kể bạn đau ốm bệnh tật gì, chỉ cần học luyện Pháp Luân Công của Đại Thánh nhân, thì có thể kiện thân, trường sinh. Di sơn đảo thủy hải khô sơn phần, Đại trung tiểu ngư giai vong. Ngu muội hành nhân bất chính lộ, Thiên thích chi nhân lưỡng thủ đại cử thiên hô vạn tuế. Ác xú vĩnh vô toàn tiêu. “Di sơn đảo thủy hải khô sơn phần, Đại trung tiểu ngư giai vong” (Dời núi đảo nước biển khô núi thiêu, Cá lớn cá nhỏ cá bé đều chết): Mạt thế cuối cùng sẽ có đại kiếp nạn tới, khi ấy cảnh tượng thê thảm là vượt khỏi sự tưởng tượng của con người. “Cá lớn cá nhỏ cá bé” ẩn dụ nước lớn, nước nhỏ, nước bé cũng đều bị diệt vong. “Ngu muội hành nhân bất chính lộ, Thiên thích chi nhân lưỡng thủ đại cử thiên hô vạn tuế. Ác xú vĩnh vô toàn tiêu” (Người đi đường ngu muội không theo đường ngay, Người được Trời thả cùng hô vang vạn tuế. Xấu ác bị tiêu diệt hoàn toàn): Người đời u mê làm sao thoát trường kiếp nạn này? Những người còn lại được thiên thượng cho sinh tồn sẽ tung hô vạn tuế, cảm kích vô cùng khi sống sót sau trận đại kiếp nạn này. Sau đại kiếp nạn, “xấu ác bị tiêu diệt hoàn toàn”, thế giới mới sẽ đản sinh, ngày tháng đổi mới. Trung động bất tri mạt động chi tử, Nhân giai tâm giác bất lão vĩnh sinh. Tòng chi cung Ất vĩnh vô thất bại. “Trung động bất tri mạt động chi tử, Nhân giai tâm giác bất lão vĩnh sinh. Tòng chi cung Ất vĩnh vô thất bại” (Trung động không biết mạt động là chết, Người đều tỉnh tâm không già sống mãi. Từ cung Ất ấy mãi không thất bại): Vào thời “trung nhập”, hay “trung động” này, hãy mau bước vào tu luyện Pháp Luân Công, nếu không đến thời “mạt nhập” hay “mạt động” rồi thì chết là không nghi ngờ gì nữa. Người nào tỉnh tâm tỉnh ngộ tu luyện Pháp Luân Công thì sẽ bất lão vĩnh sinh. Chính nhờ Pháp Luân Công, hay “cung Ất” ấy mà vĩnh viễn bất bại. Ngã quốc Đông bang vạn bang chi tị loạn chi phương. Dân kiến tòng thị thiên thụ đại phúc, Bất thất thời cơ hậu hối mạc cập hĩ. “Ngã quốc Đông bang vạn bang chi tị loạn chi phương. Dân kiến tòng thị thiên thụ đại phúc, Bất thất thời cơ hậu hối mạc cập hĩ” (Nước ta phương Đông là nơi tránh loạn của vạn nước. Dân thấy theo quả hồng là Trời ban cho phúc lớn, Đừng bỏ lỡ cơ hội này không sau hối không kịp đâu): Hàn Quốc ở phương Đông là nơi người ta có thể tránh loạn, trăm họ đi theo Đại Thánh nhân (“quả hồng”) mà đắc Pháp tu luyện, có thể nói là “Trời ban cho phúc lớn”. Nhớ lấy, nghìn vạn lần không được đánh mất cơ hội này, thời cơ qua rồi thì có hối cũng không kịp. Lời tựa: “Trại tứ nhất”, “trại” là tạ ơn Thần, “tứ nhất” là “ngũ” (4+1=5), ngũ ở trung ương, ngũ tức Thánh quân. Thiên này bàn về Đại Thánh nhân đến từ Đông Bắc, vẽ rồng điểm mắt, ngôn từ ngắn gọn. Liệt bang chư nhân giam khẩu vô ngôn. Hỏa long xích xà đại lục Đông bang hải ngung bán đảo, Thiên hạ nhất khí tái sinh thân. Lợi kiến cơ đả phá diệt ma, Nhân sinh thu thu tao mễ đoan phong, Khu phi tao phiêu phong chi nhân. Cung Ất thập thắng, Chuyển bạch chi tử, Hoàng phúc tái sinh. Tam bát chi bắc xuất vu Thánh nhân, Thiên thụ đại mệnh. Tự nhân bất nhân thị tự Chân nhân, Mã đầu ngưu giác lưỡng hỏa quan Mộc. Hải đảo Chân nhân độ Nam lai chi. Chân Chủ xuất Nam hải đảo trung tử hà tiên cảnh, Thế nhân bất giác hĩ. “Liệt bang chư nhân giam khẩu vô ngôn” (Nhiều người các nước ngậm miệng không nói): Người viết cho rằng đây là chỉ ngày 20/7/1999, Pháp Luân Công gặp phải trấn áp tại Trung Quốc Đại Lục, toàn thế giới chấn động. “Hỏa long xích xà đại lục Đông bang hải ngung bán đảo, Thiên hạ nhất khí tái sinh thân” (Rồng lửa rắn đỏ bán đảo ven biển phía Đông đại lục, Một khí thiên hạ thân tái sinh): Đây là chỉ trào lưu “khí công” xuất hiện tại Trung Quốc vào khoảng năm Thìn, Tỵ những năm 70 thế kỷ trước. “Rồng lửa” là Bính Thìn, tức năm 1976 Bính Thìn, “rắn đỏ” là Đinh Tỵ, tức năm 1977 Đinh Tỵ; trong thời gian này, tại Trung Quốc đại lục (giáp bán đảo ven biển Triều Tiên) xuất hiện trào lưu phổ biến rộng rãi khí công (“thiên hạ nhất khí tái sinh”). “Lợi kiến cơ đả phá diệt ma, Nhân sinh thu thu tao mễ đoan phong, Khu phi tao phiêu phong chi nhân. Cung Ất thập thắng, Chuyển bạch chi tử, Hoàng phúc tái sinh” (Tùy thời cơ phá vỡ diệt ma, Vụ thu đời người ủ gạo đầu gió, Đuổi theo người bay theo gió. Thập thắng cung Ất, Chuyển chết của trắng, Lòng vàng tái sinh): «Cách Am Di Lục» thường dùng “cung Ất”, “lưỡng cung song Ất”, “cung cung Ất Ất” để chỉ Pháp Luân và Pháp Luân Công nói chung. “Cung cung” (弓弓) chỉ Thái Cực đồ của Đạo gia gồm hai cung Âm-Dương xoắn vào nhau; “Ất Ất” (乙乙) chỉ phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, Ất+Ất = “乙”+”乙” = “卍”. Đối với mỗi cá nhân, sống sót hay đào thải là phán xét dựa trên “cung Ất thập thắng”, tức Pháp Luân Công. Đồ hình Pháp Luân với các Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn “卍”, biểu tượng của Pháp Luân Công. “Tam bát chi bắc xuất vu Thánh nhân, Thiên thụ đại mệnh. Tự nhân bất nhân thị tự Chân nhân, Mã đầu ngưu giác lưỡng hỏa quan Mộc” (Phía Bắc ba tám xuất ra Thánh nhân, Trời cho đại mệnh. Tựa người mà không phải người là như Chân nhân, Đầu ngựa sừng trâu hai lửa đội Mộc): Mấy câu này mười phần trọng yếu. Nó minh xác chỉ rõ Đại Thánh nhân xuất sinh ở phía Bắc vĩ tuyến 38, “Tam bát chi bắc xuất vu Thánh nhân”. Phía Bắc vĩ tuyến 38 phân chia Nam-Bắc Triều Tiên, mà Bắc Hàn thì không phải rồi, như vậy lên phía Bắc nữa tới núi Bạch Đầu (núi Trường Bạch), tức Đông Bắc Trung Quốc xuất Đại Thánh nhân là không còn nghi ngờ gì nữa. Ngoại trừ luận về thống nhất Nam-Bắc Triều Tiên ra, toàn bộ «Cách Am Di Lục» không hề đả động tới Bắc Hàn. Bởi vậy, hễ «Cách Am Di Lục» nói “Bắc”, hay “Bắc phương”, thì đều chỉ Đông Bắc Trung Quốc hoặc Trung Quốc. Đại Thánh nhân này “Thiên thụ đại mệnh”, nên không chỉ là truyền mấy bộ công pháp, mà là tới để cứu độ chúng sinh. “Tự nhân bất nhân thị tự Chân nhân”, nhìn từ bề ngoài thì giống người, mà thực tế là Thiên Thần; nhìn qua thì giống người tu luyện, nhưng thực tế là Chân nhân. “Mã đầu ngưu giác lưỡng hỏa quan Mộc”: “mã đầu ngưu giác” (đầu ngựa sừng trâu), ngựa là Càn, trâu là Khôn, đại biểu đứng đầu Thiên Địa, uy danh chấn động trời đất; “lưỡng hỏa quan Mộc” (hai lửa đội Mộc), hai chữ “hỏa” (火) đội lên chữ “Mộc” (木) chính là chữ “vinh” (榮) phồn thể, chỉ uy đức tỏa khắp bốn phương. “Quan Mộc” là Giáp Mộc, tức Mộc ở phương Đông. Mấy câu này chỉ rõ Đại Thánh nhân chính là ông Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Công, người sinh ra ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, phía Bắc vĩ tuyến 38. “Hải đảo Chân nhân độ Nam lai chi” (Chân nhân hải đảo vượt Nam mà tới): Khả năng chỉ người tu luyện Đại Pháp tới Hàn Quốc. “Chân Chủ xuất Nam hải đảo trung tử hà tiên cảnh, Thế nhân bất giác hĩ” (Chân Chủ xuất Nam giữa tiên cảnh mây tía hải đảo, Người đời không biết vậy): Nam Hàn có người tu luyện, thế mà con người thế gian vẫn không hay biết vậy.
  24. Đệ lục thiên “Thánh sơn tầm lộ” Lời tựa: “Tìm đường nơi ngọn núi thánh”—Thiên này là Thần nhân dẫn dắt thế nhân bước vào con đường tu luyện Đại Pháp. Thiên này còn đề cập đến luyện công, học Pháp, Pháp Luân Công gặp phải trấn áp, Đại Thánh nhân là ai, nơi Đại Thánh nhân xuất sinh, v.v. Tóm lại là một thiên mang tính chất tổng hợp khái quát. Tuyệt luân giả vô tâm, Đạo tặc giả tất tiên hung. Bảo thân giả Ất Ất, Bảo mệnh giả cung cung nhân khứ xứ. Tứ khẩu giao nhân lưu xứ, Hại quốc giả âm tà. Phụ quốc giả dương chính, Cường vong nhu tồn cách tâm tòng tâm. Cựu nhiễm giả tử tòng tân giả sinh, Sát ngã thùy tiểu đầu vô túc. Hoạt ngã thùy tam nhân nhất tịch, Trợ ngã thùy tự nhân bất nhân. Hại ngã giả thùy tự thú phi thú, Thế nhân nan tri lưỡng bạch chi nhân. Thiên trạch chi nhân tam phong chi cốc, Thiện nhân thực liêu. Thế nhân bất kiến, Tục nhân bất thực. Nhất nhật tam thực cơ ngạ tử, Tam tuần cửu thực bất cơ trường sinh. Cung cung thắng địa cầu dân phương chu, Ngưu tính tại dã phi sơn phi dã ngưu minh thanh. Vô văn Đạo thông vịnh ca vũ, Huyết mạch quán thông thị Chân nhân. Chúng nhân trào tiếu quỵ tọa tụng kinh, Nhục thân diệt ma tụng kinh bất tuyệt. Nhân cá đắc sinh tuyệt chi tụng kinh, Vạn vô nhất sinh. Sinh tử phán đoan đô chi tại tâm, Tử mạt sinh sơ kỷ hà đắc sinh. Bất thất trung nhập sở nguyện thành tựu, Bất nhập trung động vĩnh xuất thế nhân cư xứ. Các giả dị dị niệm niệm duy hành, Tất hữu đại khánh. Tốc thoát thú quần tội nhân đắc sinh, Trì thoát thú quần thiện nhân bất sinh. Vạn vật linh trưởng, Tòng quỷ hà vọng quỷ bất tri giác. Vật phạm thế tục, Dạ quỷ phát động tội ác mãn thiên. Thiện giả đắc sinh ác giả vĩnh diệt, Đương vu mạt thế thiện nhân kỷ hà. Thế nhân bất giác, Ô hô bi tai, Y ngoại bối nội nhất vô tâm. “Tuyệt luân giả vô tâm, Đạo tặc giả tất tiên hung” (Kẻ tuyệt hết luân thường không có tâm, Bọn trộm cắp tất gặp điều hung trước tiên): Nói rõ không chú trọng luân lý đạo đức, những ai muốn gì làm nấy tất nhiên sẽ bị đào thải. “Bảo thân giả Ất Ất, Bảo mệnh giả cung cung nhân khứ xứ. Tứ khẩu giao nhân lưu xứ” (Người giữ mình ở Ất Ất, Kẻ giữ mạng nơi người cung cung. Bốn miệng giao nhau nơi người ở lại): «Cách Am Di Lục» thường dùng “cung Ất”, “lưỡng cung song Ất”, “cung cung Ất Ất” để chỉ Pháp Luân và Pháp Luân Công nói chung. “Cung cung” (弓弓) chỉ Thái Cực đồ của Đạo gia gồm hai nửa Âm-Dương xoắn vào nhau theo hình vòng cung; “Ất Ất” (乙乙) chỉ phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, Ất+Ất = “乙”+”乙” = “卍”. “Tứ khẩu” là “lạc bàn tứ nhũ”, tức bốn Thái Cực trong đồ hình Pháp Luân. Đồ hình Pháp Luân với các Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn “卍”, biểu tượng của Pháp Luân Công. “Hại quốc giả âm tà. Phụ quốc giả dương chính, Cường vong nhu tồn cách tâm tòng tâm” (Kẻ hại nước âm độc tà ác. Người giúp nước dương chính, Cứng thì mất mà nhu thì còn, từ tâm đến tâm): Những kẻ đương quyền hại nước mà thực thi bạo chính, nhìn thì cường mạnh nhưng ắt sẽ diệt vong; những người giúp nước chí công vô tư mà thực hành chính sách khai sáng, nhìn thì ôn hòa không mạnh mà lại sinh tồn được. Lòng dân sẽ hướng về người giúp nước mà phản đối kẻ hại nước. “Cựu nhiễm giả tử tòng tân giả sinh, Sát ngã thùy tiểu đầu vô túc” (Kẻ nhiễm cái cũ thì chết, kẻ theo cái mới thì sống, Kẻ giết ta là đầu nhỏ không chân): Những kẻ nhiễm thói hư tật xấu hủ bại sẽ chết, còn bỏ ác mà theo cái mới thì sống sót. Nghĩa là không theo đạo đức thì chết, giữ vững đạo đức thì sống. Giết ta là “đầu nhỏ không chân”, tức độc tật, hay căn bệnh chết người. “Hoạt ngã thùy tam nhân nhất tịch, Trợ ngã thùy tự nhân bất nhân” (Cứu sống ta là ba người một chiều, Trợ giúp ta là tựa người mà không phải người): “Tam nhân nhất tịch” (三人一夕) hợp thành chữ “tu” (修), nghĩa là chỉ có tu luyện mới giúp cứu sống ta. “Tựa người mà không phải người”, nghĩa là nhìn thì giống người, nhưng thực chất là “Vua của các Vua” (vương trung chi Vương) trên thiên thượng, là Đại Thánh nhân. “Hại ngã giả thùy tự thú phi thú, Thế nhân nan tri lưỡng bạch chi nhân” (Kẻ hại ta là tựa thú mà không phải thú, Người đời khó mà biết người hai trắng): “Tựa thú mà không phải thú”, nghĩa là nhìn thì như người, nhưng thực chất là một bầy ác ma súc vật. Vậy mà người đời không biết được người tu Pháp Luân Công chính là người tu Đại Pháp Đại Đạo. “Lưỡng bạch” đã được giải là ngôn ngữ thiển bạch, đạo lý minh bạch; hoặc tâm trắng và thân trắng; hoặc nãi bạch thể và tịnh bạch thể. “Thiên trạch chi nhân tam phong chi cốc, Thiện nhân thực liêu. Thế nhân bất kiến, Tục nhân bất thực. Nhất nhật tam thực cơ ngạ tử, Tam tuần cửu thực bất cơ trường sinh” (Người chọn theo trời ăn gạo ba phong là người thiện. Người đời không thấy, kẻ tục không ăn. Một ngày ăn ba lần mà đói chết, Ba tuần ăn chín lần mà không đói lại trường sinh): Người chọn theo trời, tức chọn theo tu luyện, sẽ ăn ngũ cốc “ba phong”, tức “Chân-Thiện-Nhẫn. Kẻ tục một ngày ăn ba lần mà vẫn đói chết, nhưng người tu luyện ba tuần chín lần ăn vẫn không đói, mà lại trường sinh. “Cung cung thắng địa cầu dân phương chu” (Thắng cảnh cung cung là thuyền cứu nạn mà dân cầu): Chân lý thập thắng, hay Pháp Luân Công, chính là con thuyền cứu độ chúng sinh. “Thuyền cứu nạn” ngụ ý “con thuyền Noah”, ý là có thể cứu độ thương sinh. “Ngưu tính tại dã phi sơn phi dã ngưu minh thanh” (Giống trâu ngoài đồng không núi không rừng tiếng trâu kêu): “Phi sơn phi dã” đã được giải ở mấy thiên trước là điểm luyện công tập thể ngoài trời, tại đó tập trung rất nhiều người đang luyện công. “Vô văn Đạo thông vịnh ca vũ, Huyết mạch quán thông thị Chân nhân” (Không văn Đạo thông vịnh ca múa, Mạch máu thông suốt là Chân nhân): Biểu thị cảnh tượng vui vẻ trong Đạo, khắp trời cùng mừng vui. Người tu luyện Pháp Luân Công rất nhanh đạt tới trạng thái “huyết mạch quán thông”, hiệu quả chữa bệnh khỏe người là ai ai cũng biết. “Chúng nhân trào tiếu quỵ tọa tụng kinh, Nhục thân diệt ma tụng kinh bất tuyệt. Nhân cá đắc sinh tuyệt chi tụng kinh” (Mọi người cười nhạo những người quỳ xuống tụng kinh, Tụng kinh không ngừng diệt ma ở thân xác. Người nhờ tụng kinh này mà được sống): Ở đây nói người tu luyện Pháp Luân Công thường ngồi đọc kinh sách cùng nhau, nhưng người đời lại cười nhạo họ. Đọc kinh thư này có thể trừ ác diệt ma, người tu luyện nhờ đó mà đắc sinh. “Vạn vô nhất sinh. Sinh tử phán đoan đô chi tại tâm, Tử mạt sinh sơ kỷ hà đắc sinh” (Vạn đời không bằng một đời. Quyết định sinh tử đều tại tâm. Chết cuối sống đầu mấy ai sống được): Hàng vạn đời đều vì đời này, quyết định sống chết đều ở tại tâm, bởi vì tu luyện là tu tâm. Trong thời kỳ đặc thù “chết cuối sống đầu”, tức vũ trụ đổi mới này, liệu bao nhiêu người có thể ngộ được mà sống? “Bất thất trung nhập sở nguyện thành tựu, Bất nhập trung động vĩnh xuất thế nhân cư xứ. Các giả dị dị niệm niệm duy hành, Tất hữu đại khánh” (Không mất trung nhập thành tựu sở nguyện, Không vào trung động mãi thoát chỗ ở của người đời. Những người có niệm khác là được rồi, Nhất định có việc mừng lớn): Nếu như đến thời kỳ “trung nhập” mà không đánh mất cơ hội đắc Pháp tu Đạo, thì có thể thành tựu nguyện ước. Còn như đã đến thời kỳ “trung nhập” mà không vào, thì chỉ có thể sống ở nơi người thường này thôi, mãi không thoát khỏi luân hồi đời đời kiếp kiếp. Những ai có cách nghĩ khác người thường là được rồi, tất có việc mừng lớn. “Tốc thoát thú quần tội nhân đắc sinh, Trì thoát thú quần thiện nhân bất sinh” (Mau thoát kẻ phạm tội như bầy thú thì được sống, Chậm thoát bầy thú thì người thiện cũng không được sống): Những cảnh cáo như thế này đã trực tiếp được đề cập trong thiên “Mạt vận luận”, ở đây lại xuất hiện, chứng tỏ tính nghiêm trọng của nó. Chúng ta có thể cảm nhận sự từ bi của vị Thần nhân với những kẻ “cùng một giuộc” hành ác, hy vọng họ có thể hối cải mà thay đổi. Những ai đã từng tham gia đàn áp Pháp Luân Công mà nay hối cải thì vẫn được sống, còn mặc dù không tham gia đàn áp nhưng nghĩ xấu về Pháp Luân Công thì không thể sống. “Vạn vật linh trưởng, Tòng quỷ hà vọng quỷ bất tri giác. Vật phạm thế tục, Dạ quỷ phát động tội ác mãn thiên. Thiện giả đắc sinh ác giả vĩnh diệt, Đương vu mạt thế thiện nhân kỷ hà. Thế nhân bất giác” (Anh linh vạn vật, Từ quỷ nhìn quỷ thì không biết được. Đừng mắc thế tục, Dạ quỷ phát động tội ác rợp trời. Người thiện được sống kẻ ác mãi diệt, Vào thời mạt thế người thiện mấy ai. Người đời không biết): Con người là anh linh của vạn vật, vì sao lại theo ma quỷ để làm những việc hại trời như vậy mà không tự biết? Không được dùng quan điểm thế tục để đối đãi hết thảy, đàn áp Pháp Luân Công là “tội ác rợp trời” do dạ quỷ phát động, người thiện đồng tình Pháp Luân Công thì được sinh, kẻ ác đàn áp Pháp Luân Công thì vĩnh diệt. Vậy mà “thời mạt thế người thiện mấy ai”, khi đàn áp Pháp Luân Công tàn khốc như thế hỏi mấy người đứng lên giúp đỡ, ủng hộ Pháp Luân Công? Người đời ở trong mê nên nhìn không thấu thiên cơ trọng yếu này! “Ô hô bi tai, Y ngoại bối nội nhất vô tâm” (Than ôi thương xót quá thay, Theo bên ngoài mà bỏ bên trong thật là vô tâm): Hỡi ôi, thật đáng thương thay! Những ai bị bên ngoài lừa dối mà đàn áp Pháp Luân Công, các vị thật là vô tâm. Lời tựa: “Tìm đường nơi ngọn núi thánh”—Thiên này là Thần nhân dẫn dắt thế nhân bước vào con đường tu luyện Đại Pháp. Thiên này còn đề cập đến luyện công, học Pháp, Pháp Luân Công gặp phải trấn áp, Đại Thánh nhân là ai, nơi Đại Thánh nhân xuất sinh, v.v. Tóm lại là một thiên mang tính chất tổng hợp khái quát. Huyền diệu tinh thông thùy khả tri, Ngộ cầu lưỡng bạch phụ tân nhập hỏa. Cầu cung tam phong bất cơ trường sinh, Cầu địa tam phong thực giả bất sinh. Cầu Trịnh địa giả bình sinh bất đắc, Cầu Trịnh vu thiên tam thất mãn túc. Nhất tâm kỳ đảo thiên hữu ứng đáp, Vô thành vô địa bất đắc thắng địa. Địa bất phùng Trịnh vương, Cầu thế hải nhân bất kiến chi ảnh. Cầu thiên hải ấn giai nhập cực lạc, Cầu địa điền điền bình sinh nan đắc. Cầu Đạo điền điền vô nan dị đắc, Cầu địa thập thắng dị đoan chi thuyết. Cầu địa cung cung nhất nhân bất đắc, Cầu linh cung cung nhân như phản chưởng. Thập thắng giác lý nhất tự tung hoành, Cầu thập cung Ất duyên niên ích thọ. Thập thắng cư nhân nhập vu vĩnh lạc, Vạn vô nhất thất. Tâm giác tâm giác, Bần giả đắc sinh phú giả bất đắc. Hư trung hữu thực, Thánh sơn thủy tuyền dược chi hựu dược. Nhất ẩm duyên thọ ẩm chi, Hựu ẩm bất tử vĩnh sinh. Thánh tuyền hà tại Nam tiên bình xuyên, Tử hà đảo trung vạn tính hữu xứ. Phúc địa đào nguyên nhân phú tầm, Nhập sơn tuy hảo bất như Tây hồ. Đông sơn thùy lương bất như lộ biên, Đa nhân vãng lai đại chi biên. Thiên tàng địa bí Cát tinh chiếu, Quế phạm phác thụ chi thượng. Tô lai lão cô lưỡng sơn tương vọng hi tọa sơn, Thạch bạch thạch quang huy, Thiên hạ liệt quang kiến như dạ đáo thiên tao. Bách vạn kỳ khoảnh khắc ngạn đáo, Tam đô dụng khố an nhàn chi nhật. Thiên nhật nguyệt tái sinh nhân, Nhân nhân đắc địa bất tử vĩnh sinh. Trịnh Kham dự ngôn hữu trí giả sinh, Vô trí giả tử. Bần giả sinh phú giả tử, Thị diệc chân lý hĩ. “Huyền diệu tinh thông thùy khả tri, Ngộ cầu lưỡng bạch phụ tân nhập hỏa” (Huyền diệu tinh thông nào ai biết, Cầu lầm hai trắng vác củi vào lửa): Liệu có ai biết Pháp lý bác đại tinh thâm, huyền diệu vô cùng của Pháp Luân Đại Pháp? Nếu cầu sai lầm lý “lưỡng bạch”, truy cầu điều gì đó, thì khác gì vác củi cho vào lửa mà tự chịu diệt vong. “Lưỡng bạch” đã được giải là ngôn ngữ thiển bạch, đạo lý minh bạch; hoặc tâm trắng và thân trắng; hoặc nãi bạch thể và tịnh bạch thể. “Cầu cung tam phong bất cơ trường sinh, Cầu địa tam phong thực giả bất sinh” (Cầu cung ba phong không đói mà trường sinh, Kẻ cầu đất ba phong ăn mà không sống): Nếu cầu “cung” (弓) [gōng] (Pháp Luân Công), “ba phong” (Chân-Thiện-Nhẫn), thì sẽ không đói mà trường sinh; còn nếu cầu “ba phong” nào đó dưới mặt đất, thì cho dù ăn no cũng không thoát khỏi sinh-lão-bệnh-tử. “Cầu Trịnh địa giả bình sinh bất đắc, Cầu Trịnh vu thiên tam thất mãn túc” (Kẻ cầu đất Trịnh cả đời không đắc, Cầu Trịnh ở trời ba bảy tròn đầy): “Trịnh” (郑) [zhèng] đồng âm với “Chính” (正) [zhèng], tức Chính Đạo, chứ không phải đất Trịnh. Nghĩa là nếu cầu chính Pháp trên trời, thì sẽ đắc được “ba bảy tròn đầy”, tức “thập thắng”. Về “ba bảy”, trong Kinh Dịch có thuyết “trái ba phải bảy”, “trời ba đất bảy”, tuy nhiên người viết cho rằng “ba bảy tròn đầy” chỉ “thập thắng”. “Thập” là số đầy, chỉ Vô Cực, Đại Pháp Đại Đạo, thực tế chỉ Pháp Luân Đại Pháp. “Nhất tâm kỳ đảo thiên hữu ứng đáp, Vô thành vô địa bất đắc thắng địa. Địa bất phùng Trịnh vương” (Nhất tâm cầu khấn trời có đáp lại, Không thành không đất không được thắng địa. Đất không gặp vua Trịnh): Nhất tâm mong nghĩ tu Đạo thì trời sẽ an bài cơ duyên đắc Pháp; còn nếu không thành tâm (“vô địa” đồng âm với “vô trí”), thì sẽ không đắc thắng địa tu luyện; mà nếu tìm gì dưới đất kia thì sẽ không gặp được Đại Thánh nhân. “Cầu thế hải nhân bất kiến chi ảnh. Cầu thiên hải ấn giai nhập cực lạc” (Cầu thế tục không thấy bóng người hải nhân, Cầu ấn biển của trời đều nhập cực lạc): Dùng quan điểm thế tục mà nhìn thì không thấy “hải nhân”, tức “hải ấn chi nhân”, hay người tu luyện chân chính; nhưng nếu cầu “ấn biển của trời” (“ấn biển” ẩn dụ Pháp Luân), dùng tâm cảnh cầu trời đắc Đạo, mong muốn tu luyện Pháp Luân Công, thì sẽ có thể nhập thế giới cực lạc. “Thế giới cực lạc” ở đây ẩn dụ đắc Đạo. “Cầu địa điền điền bình sinh nan đắc. Cầu Đạo điền điền vô nan dị đắc” (Cầu đất điền điền cả đời khó đắc. Cầu Đạo điền điền không khó dễ đắc): Nếu như cầu ruộng ở mặt đất, thì tìm cả đời cũng khó được; nhưng nếu cầu ruộng Đạo, thì tìm một cái là thấy ngay, không có gì là khó cả. Chữ “điền” (田) {ruộng} ẩn dụ hình tượng Pháp Luân với cửu cung. “Cầu địa thập thắng dị đoan chi thuyết. Cầu địa cung cung nhất nhân bất đắc, Cầu linh cung cung nhân như phản chưởng” (Cầu đất thập thắng là thuyết dị đoan. Cầu đất cung cung một người không đắc, Cầu linh cung cung như trở bàn tay): Cầu đất thập thắng là thuyết dị đoan, cầu đất thập thắng (“cung cung”) thì một người cũng không đắc được. Chỉ có cầu tu luyện tâm linh (“cầu linh cung cung”) thì mới tìm thấy Đại Pháp Đại Đạo, dễ như trở bàn tay vậy. “Thập thắng giác lý nhất tự tung hoành, Cầu thập cung Ất duyên niên ích thọ. Thập thắng cư nhân nhập vu vĩnh lạc, Vạn vô nhất thất. Tâm giác tâm giác” (Lý giác thập thắng một chữ ngang dọc, Cầu thập cung Ất kéo dài tuổi thọ. Người ở thập thắng nhập vào vĩnh lạc, Tuyệt đối chắc chắn. Tỉnh tâm tỉnh tâm): “Một chữ ngang dọc” chính là chữ “thập” (十), cầu “thập cung Ất”, tức Pháp Luân Công, sẽ có thể trường thọ. «Cách Am Di Lục» thường dùng “cung Ất”, “lưỡng cung song Ất”, “cung cung Ất Ất” để chỉ Pháp Luân và Pháp Luân Công nói chung. “Cung cung” (弓弓) chỉ Thái Cực đồ của Đạo gia gồm hai nửa Âm-Dương xoắn vào nhau theo hình vòng cung; “Ất Ất” (乙乙) chỉ phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, Ất+Ất = “乙”+”乙” = “卍”. Người tu Pháp Luân Đại Pháp sẽ được vào thế giới vĩnh sinh vĩnh lạc, điều này là khẳng định chắc chắn. Hỡi con người thế gian, hãy “tỉnh tâm”, thanh tỉnh đi. Đồ hình Pháp Luân với các Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn “卍”, biểu tượng của Pháp Luân Công. “Bần giả đắc sinh phú giả bất đắc. Hư trung hữu thực” (Kẻ nghèo được sống kẻ giàu không được. Trong hư có thực): Đại Pháp “thập thắng” này, người nghèo sinh hoạt thanh bần thì dễ đắc được mà sống, còn kẻ giàu an dật quá đâm ra khó đắc, nên tự nhiên không đắc sinh. “Thánh sơn thủy tuyền dược chi hựu dược. Nhất ẩm duyên thọ ẩm chi, Hựu ẩm bất tử vĩnh sinh” (Nước suối núi thánh là thuốc của thuốc, Hễ uống là kéo dài tuổi thọ, Lại uống thì không chết mà sống mãi): “nước suối núi thánh” ẩn dụ Pháp lý tu luyện cao thâm của Pháp Luân Đại Pháp, giúp tu mệnh và đạt vĩnh sinh. “Thánh tuyền hà tại Nam tiên bình xuyên, Tử hà đảo trung vạn tính hữu xứ. Phúc địa đào nguyên nhân phú tầm” (Suối thánh tại đâu đồng bằng Nam tiên, Trong đảo mây tía chỗ ở vạn họ. Gốc đào đất lành tìm giàu nhân đức): “Nam tiên” là “Nam Triều Tiên”, tức Hàn Quốc. Ngọn suối thánh này chảy ở vùng “bình xuyên”, tức vùng thung lũng miền Nam Hàn Quốc, nơi có nhiều người đắc Pháp tu luyện nhất. “Đảo mây tía” chỉ Pháp Luân, “chỗ ở vạn họ” là các ngành các nghề, nam nữ già trẻ đều tham gia tu luyện Pháp Luân Công, nên tại “gốc đào đất lành” này mới tìm thấy chữ “Thiện” để trường thọ vĩnh sinh. “Nhập sơn tuy hảo bất như Tây hồ. Đông sơn thùy lương bất như lộ biên, Đa nhân vãng lai đại chi biên” (Vào núi tuy tốt không như Tây hồ. Núi Đông ai hiền không như bên đường, Nhiều người qua lại ven bờ lớn): “Tây hồ” ở đây không phải chỉ Tây Hồ ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, mà chỉ điểm luyện công ven hồ của Pháp Luân Công. Ở đây có thể có hai ý, một là khuyên những ai tìm “chân lý thập thắng” không phải “lên núi tu Đạo” nữa, hai nữa là gợi ý người tu luyện địa điểm luyện công nào là tốt nhất. Gợi ý rằng nên tìm điểm luyện công ở ngoài trời, chỗ bờ hồ có nhiều người qua lại, chỗ đó là tốt nhất, có lợi nhất cho việc hồng truyền Pháp Luân Công. “Thiên tàng địa bí Cát tinh chiếu, Quế phạm phác thụ chi thượng. Tô lai lão cô lưỡng sơn tương vọng hi tọa sơn” (Giấu trời giữ đất sao lành chiếu, Trên cành cây quế mộc mạc. Cây lê già nơi hai núi nhìn lẫn nhau): “Phạm phác” nghĩa là mộc mạc như trúc, bốn mùa đều xanh, mà “lâm” {rừng} bốn mùa đều xanh thì chính là “Trường Xuân”, là thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. Chữ “phác” (朴), nghĩa là “mộc mạc, giản dị”, xuất hiện nhiều lần tại nhiều thiên trong «Cách Am Di Lục», là chỉ Đại Thánh nhân hoặc đệ tử của Đại Thánh nhân. “Phạm phác” chính là chỉ người sáng lập Pháp Luân Công truyền Pháp bắt đầu từ Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm. Thành phố Trường Xuân, thuộc Cát Lâm chính là “Cát tinh”, hay “sao lành”. “Cây lê già hai núi nhìn lẫn nhau” đã được giải là đất Công Chủ Lĩnh, nơi xuất sinh Đại Thánh nhân; Công Chủ Lĩnh là thánh địa “Giấu trời giữ đất sao lành chiếu”. “Thạch bạch thạch quang huy, Thiên hạ liệt quang kiến như dạ đáo thiên tao. Bách vạn kỳ khoảnh khắc ngạn đáo” (Đá trắng tỏa ánh đá, Ánh sáng thiên hạ thấy như đêm đá nghìn thuyền. Trăm vạn cờ phút chốc đến bờ): “Đá trắng” chỉ chấm trắng trong Thái Cực của đồ hình Pháp Luân, “thiên hạ liệt quang” tức “thiên hạ liệt bang”, hay các nước trong thiên hạ. Các nước trên thế giới đều có một lượng lớn người tu luyện Pháp Luân Công, Đại Pháp hồng truyền rất nhanh trên khắp thế giới. “Tam đô dụng khố an nhàn chi nhật. Thiên nhật nguyệt tái sinh nhân, Nhân nhân đắc địa bất tử vĩnh sinh” (Ba đô dùng kho ngày an nhàn. Trời nhật nguyệt tái sinh người, Người người được đất không chết sống mãi): “Tam đô” là ba thành thị Hàn Quốc—Seoul, Daegu, Busan, ba trung tâm hoằng truyền Pháp Luân Công tại Hàn Quốc. “Thiên nhật nguyệt” (天日月) là “thiên minh” (天明), tức lúc bình minh. Đây là thuở bình minh tái tạo nhân loại, người người tìm được chốn tu luyện, nhờ đó “bất tử vĩnh sinh”. “Trịnh Kham dự ngôn hữu trí giả sinh, Vô trí giả tử. Bần giả sinh phú giả tử, Thị diệc chân lý hĩ” (Trịnh Kham tiên tri rằng kẻ có trí thì sống, kẻ vô trí thì chết. Kẻ nghèo sống kẻ giàu chết, cũng là chân lý vậy): Ông Trịnh Kham, một nhà tiên tri Hàn Quốc từng dự ngôn rằng: kẻ có trí thì sống, kẻ vô trí thì chết, kẻ nghèo sống kẻ giàu chết. Đúng là chân lý vậy!
  25. Chú Thiên Sứ kính mến ! - Chú tập thử mấy bài công pháp rất nhẹ nhàng này xem. Đảm bảo chỉ 3 ngày chú thấy ngay tác dụng rất tốt Đây là hướng dẫn: http://www.phapluan.org/audiovideo_video.html Đây là nhạc luyện: https://www.youtube.com/watch?v=qfM7KQi0t0A