vodanhlaonhan

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    5
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

0 Neutral

About vodanhlaonhan

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday
  1. PHỤ THÊM 1.- Chuyện ông Lý Khánh Vân sống 256 tuổi. 2.- Chuyện cô bé Kumải Shati Deci kiếp trước ở Mutha thác rồi tái sinh tại Delhi. 3.- Một chuyện nhớ lại những kiếp trước rất lạ lùng. Tôi gặp ba chuyện này sau khi đã giao bản thảo cuốn Luâm Hồi cho nhà in xếp chữ. Vì thế tôi đẻ chúng nó vào những trương phụ thêm. Đợi khi tái bản bộ "Con người là ai" tôi sẽ xếp chúng nó lại cho phải chỗ. I CHUYỆN ÔNG LÝ KHÁNH VÂN SỐNG 256 TUỔI Trong cuốn "Con người là thác rồi về đâu" Chương 9 tôi có nói ông Lý Khánh Vân sống 256 tuổi. Tài liệu đó tôi lấy trong cuốn "HATHA YOGA của C.KERNEIZ chương 54". Nay nhân có diệp đọc báo "Phụ nữ tân tiến" số 21 ngày 1-6-1933 thấy có trích đăng tin ấy do báo Trung Bắc Tân Văn dịch thuật của báo Siêu Nhiên rất rõ ràng, nên đem vào cuốn này cho các bạn xem. CHUYỆN BÊN TÀU Ông Bành tổ đời nay. Một người tên là Lý Khánh Vân sống lâu đến 256 tuổi. Chuyện ông Bành Tổ chẳng biết co' thật hay không. Nhưng cứ tục truyền thì là một ông đời xưa kia sống lâu lắm. Chẳng nói đến chuyện sống lâu bằng ổng chứ sống được 100 tuổi cũng đã là khó lắm rồi. nên bên Á Đông cho : "Nhân sinh bất tuế vi kỳ". Ngờ đâu, ngày nay lại thấy cái tin đó rất lạ : là một người sống co' đến hơn 2 thế kỷ rưỡi. Các báo đều đăng tin ấy, và thấy Trung Bắc Tân Văn có dịch thuật rõ ràng, cái tin ấy của báo Siêu Nhiên, chúng tôi xin mượn cái tin của bạn đồng nghiệp để đọc giả xem cho vui. Ông Lý Khánh Vân sinh về đời Khang Hy, có mọt người vợ chết đã một thế kỷ, có cháu bốn đời đã được 70 tuổi. Câu chuyện ông già thọ nhất thế giới này, trong tờ báo đã có mấy lần nói đến, các báo tàu sang kỳ vừa rồi đều đăng tin rằng ông già ấy đã tạ thế ở huyện Khai tỉnh Tứ Xuyên. Về tuổi thọ của ông già Lý Khánh Vân, mỗi người nói mỗi khác, nhưng cứ như người đã biết rõ thân thế ông già thì đều níu năm nay ông quả đã thọ 256 tuổi. Ông già Lý vốn là người làm ruộng, kiêm làm nghề vào núi hái thuốc. Từ lúc ít tuổi sau khi lấy vợ, vợ chết lại lấy vợ khác, không biết đã mấy lần rồi, mà người vợ ông lây cuối cùng đãtạ thế hơn 100 năm nay. Hiện ông có 70 người cháu, người chắt bé nhất của ông năm nay cũng đã 70 tuổi. Ba năm trước đây có nhiều viên ký giả các báo đến tận nơi thăm ông, thấy ông thể phách còn khỏe, như ông già mới độ 6-70 tuổi. Khi ấy ông già Lý còn nói chuyện với các ký giả rằng ông khéo việc dưỡng sinh, mỗi khi vào núi hái thuốc ngày đi hơn trăm dặm mà không biết mệt nhọc. Trong lúc thiếu niên có một lần vào núi hái thuốc bỗng hái được một thứ cỏ lạ(1), bèn ăn cho đỡ đói, nay ông hưởng được cái tuổi cao ấy, hoặc có vì thế chăng. Lại một tờ báo Tàu năm Dân Quốc 17 có đăng sơ lược của ông như sau : Có người quê ở Chính An tên là Lý Khánh Vân ngụ tại Trần Gia Trường huyện Khai tỉnh Tứ Xuyên người ta nói đã thọ hơn 200 tuổi, tháng trước đến Vạn Huyện được các giới hoan nghênh, viên quận trưởng là Dương Sâm cũng có quà tặng. Hỏi tuổi thực thì ông ấy nói sinh năm Mậu Ngọ, năm Khang Hy thứ 17, năm nay vừa 249 tuổi. ông già Lý diện mạo trông rất cổ, tinh thần rất tinh sáng, ngũ quan đều tốt cả, ngững móng tay của ông cắt ra chứa đầy 1 cái hòm, hiện tay hữu ngón giữa ngón thứ tư vf ngón thứ năm móng để dài tới hơn thước. Mỗi ngày đi được hơn trăm dặm, hỏi đạo dưỡng sinh như thế nào, ông chỉ tĩnh tâm mà thôi, hỏi làm sao ông biết thuật ấy được, thì ông nói, cách ngồi như con rùa đi như con hạc nằm như con chó, đều là đều là điều cốt của ông thầy truyền cho. Ông già Lý lại nói lúc mới vào vài tuổi có từng đọc sách viết chữ, khi độ 10 tuổi có người dắt đi các nơi Thiểm Tây, Tân Cương, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Tạng, Việt Nam, Xiêm La, để hái thuốc khi trở về Tứ Xuyên đến Trần gia trường đã hơn trăm tuổi rồi. Sau đó ông lại đi đén các tỉnh Hồ Bác, Hà Nam, Hồ Nam, Hán Khẩu, Nam Kinh, Bắc Bình vẫn lấy nghề bán thuốc mưu sinh. Sinh bình trước sau ông lấy 14 đời vợ, con cháu trải đến 11 đời. Cứ lời những ông già ở Trần Gia Đường nói thì kể từ khi ông Lý đến đó cho đến nay diện mạo tinh thần vẫn như thế không thay đổi, người ta hỏi chuyện các đời nhà Thanh và phong tục các nơi ông đều kể vanh vách. Ông già Lý lại nói còn mấy người bạn lại nhiều tuổi hơn ông. (Trích dịch báo "Siêu Nhiên") (1)-Trong cuốn cái Phách chương 12 nơi đoạn "Sinh lực theo thuốc men và đồ ăn"tôi có nói : Trong rừng Thiên Trúc và Hy Mã lạp Sơn có cây trường thọ. Nhân dọc bài này. Thấy bên Trung Hoa cũng có một thứ cỏ một loại với cây trường thọ. Chác chác là ông Lý Khánh Vân nhờ ăn nó mà được sống tới 256 tuổi. Nếu tôi không lầm, thì trong truyện thần tiên gọi thứ cỏ đó là cỏ Linh Chi. Trong trời đất còn biết baonhiêu sự bí mật mà con người chưa khám phá nổi, nhưng một khi con người xứng đáng hiểu được cơ trời thì tùy theo tài đức, Thiên Đình sẽ lần lượt vén màng vô minh lên. II CHUYỆN CÔ KIMURA SANTI KIẾP TRƯỚC Ở MURRTRA THÁC RỒI TÁI SINH TẠI DELHI Chuyện này làm chấn động dư luạn thế giới vì nó có quan hệ tới triết lý của cuộc đời. Dưới đât là bài diều tra kỹ lưỡng của ba ông : Lala Deshbandhu Gupta chủ nhiệm của báo The Daily Tej, nhà lãnh tụ ái quốc Pandit Neki Pram Sharma và trạng sư Chand Mathur, gởi cho báo chí. "Sabti tới bốn tuổi cũng như đứa bé câm, không nói. Qua bốn tuổi rồi nó bắt đầu nói những việc mà dường như cái kết quả của sự nhớ lại chuyện kiếp trước do sự liên tưởng mà ra. Tỉ như người ta cho nó ăn thì nó nói : " Tôi ăn bánh nào đó tại nhà tôi ở Muttra". Khi mẹ nó mặc quần áo cho nó thì nó ta? Cách nó mặc hồi kiếp trước tại Muttra. Nó thường nói : "Nó thuộc hạn "Choban" và chồng nó là người buôn bán vải. Nó cho thêm nhũn chi tiết về cái nhà của nó, nó nói nhà nó sơn màu vàng và kế cận thì co' nhiều tiệm đặc biệt". Ban sơ cha mẹ nó tưởng mấy lời lạ lùng này vốn là chuyện nhảm nhí của trẻ con, nên không để ý tới. Nhưng nó lập lại nãi. Cha mẹ nó không muốn khơi chuyện này ra vì theo tục lệ Ấn Độ, đứa nhỏ nào nhớ chuyện kiếp trước thì thường không sống được lâu, nếu mấy chuyện ấy có thật, Cô bé Santi thường tỏ y' muốn đi Muttra/ những người lân cận nói với nó đều rõ biết mấy việc đó. NHỮNG CÂU TRẢ LỜI CHẮC CHẮN Cho tới hai năm chót đây, cô bé không tỏ thật tên chồng nó ra (chồng kiếp trước). Khi cha nẹ nó hỏi nó thì nó trả lời một cách rụt rè rằng : nó gặp thì nó biết. Ấy là theo tục lệ bên Thiên Trúc, ai cũng biết người đàn bà vì khiêm tốn nên không hề nói tên chồng mình. Cách 1 năm rưỡi nay, một ngày kia ông cậu của nó là ông Bishan Chand, giáo sư trường Ramjasschool, Darya Gaji, Delhi, tới thăm nó và biểu nói tên chồng kiếp trước của nó và quả quyết : nếu nó nói thì ngài dắt nó đi Muttra. Con bé liền nói nhỏ bên tai ngài : Ấy là "Pundit Kedar Nath Chau bey". Ông giáo sư hứa để điều tra trước khi dứat nó đi. Lâu lâu thì nó hỏi thănm tin tức sự tìm kiếm đó, nhưng mà ông giáo sư đồng ý với cha mẹ nó nênđể câu chuyện đâu nằm đó, không muốn tìm hỏi cái nhà hồi kiếp trước. Trong buổi lễ Dushera, ông giáo sư thuật câu chuyện này cho ông Lala Kishau Chand M.A. Vốn là hiệu trưởng đã hồi hưu ở đường số 7 đường Darya Gaji, tại Delhi nghe chơi. Ông này tỏ ý muốn biết đứa nhỏ. Trong cuộc gặp gỡ với ông hiệu trưởng, cô bé mới cho địa chỉ của : "Kedar Nath" và tả hình trạng cái nhà của nó. Ông Lala Kishau Chand ghi vào sổ địa chỉ của cô bé nói và viết một lá thư cho Pandit Kedar Nath. Ngài và nhiều người khác rất ngạc nhiên khi được thư của Chaubey Kedar trả lời rằng những việc đó có thật. Trong thư Kedar lại đại khái ngỏ ý rằng ông có mộy người bà con tên Pundit Kanji Mal làm trong sở ông Bhana Mal Gulzari tại Delhi và xin cho người này giáp mặy cô bé. Người ta chịu. Chẳng những cô bé nhận được Kanji Nal là bà con còn nhỏ tuổi của chồng kiếp trước cô và cô lại trả lời rất đúng những câu hỏi về việc kính nhiệm trong gia đình. Sự lạ lùng càng tăng thêm ; Kanji bèn kêu anh là Kedar Nath Chaubey từ Muttra đi qua Delhi. NHỮNG DẤU CHỨNG CÔ BÉ NHỚ CHUYỆN KIẾP TRƯỚC Pandit Kedar Nath Chaubey đi với đứa con trai 10 tuổi và người vợ sau, tới Delhi ngày 13/12/1935. Mới vừa gặp thì cô bé nhận ra Kedar Nath Chaubey là chồng kiếp trước của mình. Thấy chồng và con cô bèn khóc tấm tức tấm lưỡi trọn một giờ đồng hồ. Kedar Nath Chaubey được phép hỏi co bé vài câu chuyện thầm kín trong gia đình để xác định thử coi ký ức của cô thế nào ? Những câu trả lời của cô đều đúng hết làm cho Kedar Nath động lòng sa nước mắt. Khi người ta hỏi ý kiến ổng thì ổng đáp rằng : "Tôi quả quyết ấy cùng một linh hồn với vợ tôi trước tôi, thác tại Muttra ngày nay đàu thai làm cô bé". Cô bé nhìn Chaubey và tỏ dấu yêu thương như tình mẹ con. Cô mới xin mẹ ruột của của cô bây giờ cho đứa nhỏ vài món đồ chơi, mà cô nóng nảy cho đến nỗi mà không đợi bà mẹ chọn lựa, cô lấy xâu chìa khóa đi mở cửa phòng lấy cho đứa nhỏ một món đồ chơi và một bộ bài cào. Khi Kedar Nath và đứa con trai muốn ra khỏi nhà thì cô bé xin cho cô đi theo. Người ta tưởng tốt hơn là kêu xe cho cả thảy lên đi để tránh sự chú y' có thể xảy ra. Sau khi đi dạo chơi rồi, cô bé trở về, nó nắm tay đứa con nó, theo sau là cha ruột nó là Kedar Nath. Buổi chiều đó nó rất vui vẻ. Theo lời nó xin, kedar Nath và đứa con trai ở lại Delhi 2 ngày nữa, và có nhiều diệp coi chừng cử chỉ của cô bé. Chiều ngày 15/12/1935 Kedar Nath và đứa con trai phải về Muttra. Khi cô bé hay tin đó thì muốn đi theo, mà cha mẹ cô không bằng lòng. Muốn cho cô quên, người ta mới dắt cô lên xe đi chơi và đi coi hát bóng. Nhưng cô bé một mực quyết đi Muttra, và từ khi gặp chồng cô tới sau thì cô càng nài nỉ hơn nữa. Cô cứ nói quả quyết rằng nếu người ta dắt cô đi Muttra thì cô biết nhà chồng cô liền. CÔ BÉ NÓI CÔ CÓ CHÔN GIẤU TIỀN BẠC Cô bé tả rành mạch tôn miếu Vihrant Gat ở Dwarkadhish, những đường dắt cô đi tới nhà chồng cô, cũng như cô đã sống và ở tại đó. Cô bé lại nói thêm rằng : cô có chôn giấu tiền ở dưới đất trong một cưn phố ở nhà cô tạu Muttravaf cô có nguyện cúng 100 rubi (roupies) trong số đó cho tôn miếu Vihrant Gat. Cô nói chuyện đó cho kedar Nath Chaubey lúc ông này tới Delhi. Cha mẹ cô bé và bà con cô, giữa phong tục xưa nên không chịu mạo hiểm cho cô đi. Nhưng chúng tôi giải bày cho cha mẹ cô bé nghe, sau cùng ông bà lại bằng lòng, rồi chúng tôi cả thảy mười lăm người, kể luôn ổng bả nữa, đồng đi Muttra ngày 25-12-1935. Chúng tôi đã đem theo một người nhiếp ảnh để chụo những ảnh cần thiết. Khi đứa bé bước lên xe lủa rồi thì chúng tôi xem xét từ cử chỉ của nó và ghi chép kỹ lưỡng. Lúc cô bé lên xe ngồi rồi thì chúng tôi thấy gương mặt nó tỏ vẻ hân hoan, khác hơn ngày thường trọn ba giờ đồng hồ của cuọc hành trình. Xe gần tới Muttra, sự vui mừong của nó lộ ra ... Nó nói rằng : Giờ chúng ta tới (nghĩa là 11 giờ sáng mai) thì tôn miếu Vihrant Gat đã đóng cửa. Những tiếng nói của nó là : "mandir ke pat band ho jeyenge" thường dùng ở Muttra. Khi chúng tôi gần tới ga thì cô bé bỗng trở nên nghiêm nghị dường như hoàn toàn phản động lại nó. Nó nhìn ra cửa sổ xem coi cả thảy một cách rất kỹ lưỡng, khi xe vô nhà ga thì cô la lên : "Muttra Agai! Muttra Agai!" (Tới Muttra rồi! Tới Muttra rồi!). Dường như người ta biết chúng tôi tới Muttra cho nên có nhiều người và cả thân hào tại đó, tới chực ở bến xe. Nhưng mà những lối đi chúng tôi vạch sẵn rồi. Chúng tôi khuyên mọi người không trong nhóm chúng tôi đứng dan ra xa chúng tôi để chúng tôi đi với cô bé. Thiên hạ nghe theo lời yêu cầu của chúng tôi cũng làm y như vậy, để chúng tôi đi thong thả. Và nên nhìn nhận rằng về phương diện đó người ta vẫn giúp sức chúng tôi. CHUYỆN LẠ LÙNG Khi tới Muttra rồi, việc thình lình làm cho chúng tôi chú ý tới, xảy ra ở bến xe. Ông L. Deshbandhu bồng cô bé. Ông chưa đi được 15 năm trước bỗng có một người trông tuổi ăn mạc theo cách riêng biệt ở thành thị, chen lộn với đám đông tới đứng trước mặt cô bé. Người ta hỏi cô bé có biết ông đó không ? Cô bé chưa từng gặp ông lần nào, nhưng khi thấy ổng cô liền tuột xuống cúi hôn chân ông đó một cách kính cẩn rồi đứng dựa một bên. Người ta hỏi ông đó là ai, thì cô bé kê miệng vô lỗ tai ông Lala Deshbandhu nói nhỏ rằng : ấy là "Jeth" của cô. Jeth là anh trai của người chồng cổ. Việc đó thình lình làm cho ai nấy đều ngạc nhiên vì ông đó quả thật là anh cả của chồng cổ tên "Babu Kam Chaubey". Khi ra khỏi bến xe, chúng toi lựa riêng một cỗ xe, không dùng những mấy người đánh xe đi mời chúng tôi. Cô bé ngồi băng trước, và xe chúng tôi dẫn đầu mấy xe kia. Cnhú tôi đã đủ cách đề phòng không cho những người đi bộ chỉ đường. Chúng tôi căn dặn người đánh xe đi theo đường cô bé chỉ, không cần hpải biết chúng tôi đi đâu. Cô bé dẫn chúng tôi đi ngang qua Holi Gat không khó khăn chút nào. Cô bé dùng chỗ đó như chỗ nhắm để từ bến xe vô nhà cô. Chúng tôi có hỏi tên nhiều nhà và nhiều con đường ; cô bé đều trả lờ đúng hết. Thí dụ như cô nói : hồi còn sinh tiền đường nhà ga chưa tráng nhựa, cô chỉ nhều dãy nhà mới và nói : Hồi đó chưa cất, cô tả Holi Gat một cách đúng đắn trước khi chúng tôi tới đó. Cô bé cứ chỉ đường cho tới khi chúng tôi tới đầu một con đường đầy những tiệm tạp hóa. Cô bảo xe ngừng và chỉ một con dường đặc biệt dẫn vào nhà cũ của cô. Dể xe đó chún tôi xuống đi bộ theo cô Shanti. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên một lần nữa khi cô bé thấy một ông già 75 tuổi, cô cuối đầu rất lễ phép, hôn chân ông và nói ấy là cha chồng cô. CÔ BÉ CHỈ NHÀ Cử chỉ tự nhiên của cô làm cho nhiều người đi đường coi lấy làm cảm động lắm. Cách xa đó một chút cô bé chỉ nhà cô dẫu rằng bây giờ nó không phải sơn màu vàng và dãy nhà đó người khác đã mướn. Người ta đem cổ vô có hai vì thân hào ở tại Muttra, chú ý đến sự điều tra của chúng tôi nên đi theo chúng tôi. Cô bé mới chỉ cái phòng của cô thường ở. Muốn thử cổ một vị thân hào mới hỏi cổ có thể chỉ cái "Jai Zarur" của cái nhà không ? Đối với dân chúng tại Delhi, tiếng Jai Zarur là tiếng hê-brơ (hébreu) nghĩa là cầu tiêu. Các người ở đó đều lấy làm ngạc nhiên khi cô bé nghe hỏi mà không cần suy nghĩ xuống thang lầu chỉ cầu tiên chi vị thân hài coi, dường như trong nhà chõp nào cô cũng biết cả. Muốn tránh công chúng và muốn được đeo đuổi cuộc điều tra của chúng tôi trong bầu không khí yên lặng. Chúng tôi mới dắt cô bé đến một Dharamsala. Tại đó cổ nhìn được người em năm nay 25 tuổi và một người cậu bà con suôi gia. Một việc làm cho chúng tôi chú ý một cách dặc biệt là cô bé ở Muttra coi rất thơ thới. Thấy chúng tôi ăn chậm rãi, cô bé mới nhắc cô phải đi tới một cái nhà khác, nơi cô đã giấu tiền. Chúng tôi mới dắt cổ đi qua một con đường hẻo lánh để tránh được sự tọc mạch của dân chúng. Dọc đường chỉ vlà cổ dẫn chúng tôi và cổ nhìn được cái nhà của cổ một cách dễ dàng. Cổ nói, cổ đã ở trong nhà đó hơn nửa đời người, mà nhà đó hiện giờ gia quyến của Pandit Kedar Nath còn ở đó nữa. Những tấn tuồng diễn ra sau khi chúng tôi vô nhà này phá tan hết tất cả mối hoài nghi về sự chân thật của câu chuyện này. Cô bé vô nhà này cũng như lúc cổ làm chủ. . Pandit Neki Ram biểu cổ chỉ cái giếng mà cổ nói hôm cổ tại Delhi cho ông coi. Cô bé chạy ra cái sân nhỏ ở trong nhà nhưng cổ lính quýnh khi không thấy giếng đâu, song cổ chắc ý lắm, cổ lấy tay chỉ vào một góc sân và nói : "Kuan Yiham tha" (cái giếng ở đó). Chừng kedar Nath Chaubey lấy cục đá lấy ở miệng bày cái giếng ra, thì cổ tỏ dấu hân hoan vì người ta đã bít miệng giếng mấy năm rồi. Khi người ta hỏi tiền chôn ở đâu thì cô cổ bảo chúng tôi theo cổ lên từng lầu trên. Diều đó lạ thật vì không có ai tưởng tượng rằng của đem chôn trên lầu được. Nhưng cổ quả quyết lắm, cổ dắt chúng tôi lại phòng của cổ, phòng này bây giờ khóa chặt. Người ta xin Chaubey mở ra. Nhưng phải chờ đi lấy chìa khóa. Cô bé nóng nảy nhìn vô kế vách nói rằng phòng đó của cổ và tiền ở trỏng. Khi vô phòng rồi cô bé nhìn quanh một vòng rồi lấy chân để trên một góc và nói : "Tiền ở đây". Chaubey Kedar Nath ngần ngại một chặp, chúng tôi không hiểu vì lẽ nào, nhưng phải chiều lìng cô bé. Người ta đào chỗ đó lên ba tấc thì gặp một ga-la (galla) (một chỗ theo tục đời xưa để giấu một vật quý) nhưng không có tiền, cô bé không chịu số tiền đó mất, cổ tự bươi đống đất lên, trong vài phút nhưng thất vọng khi không thấy chi cả. Cô cứ nói "Tiền tôi để đó". Về sau, chúng tôi hay rằng Kedar Nath đào lấy số tiền đó khi cô từ trần (kiếp trước). Khi chúng tôi định từ giã nhà đó đi lại rạch Jum-na thì cô bé vụt nói quần áo cổ để dưới đất. Cô rất buồn bực mà ra khỏi nhà xưa. CÒN MỘT CHUYỆN LÀM CHÚNG TÔI NGẠC NHIÊN HƠN NỮA Hồi còn ở Delhi cô không nhớ cha mẹ cô kiếp trước. Chừng chúng tôi dắt lại nhà cha mẹ của cô ở một con dường gần Muttra, thì cô nhìn được nhà và vô nhận được cha mẹ cô, cô đứng chung trong đám đông năm chục người. Cô ôm cha mẹ cô, còn ổng bả thấy cô bé thì khóc than thảm thiết. Còn chúng tôi, mỗi người đều tưởng rằng : quên chuyện kiếp trước là một hạnh phúc lớn. Chúng tôi thú thật, chúng tôi mang một trách nhiệm nặng nề khi đem cô bé về Muttra. Chúng tôi phải bắt cô bé lìa cha mẹ cổ (cha mẹ kiếp trước) và chúng tôi bỏ chốn đó đi kiền không tìm thêm những bằng cớ khác nữa. Cô bé lên xe đi lại tôn miếu Dwarkadisk. Khi cô thấy tôn miếu thì cô reo lên những tiếng vui mừng. Cổ quỳ trước cửa như kính cẩn tôn trọng một vị thần thánh nào. Chuyện chót mà cô bé đã nhìn biết tại Muttra là Vishrant Ghat trên con rạch linh thiêng Jum-na. Cổ nói hồi kiếp trước, cổ thường tắm ở nơi đó. Khi tới Ghat cô năn nỉ xin múc nước rạch cho cô uống rồi tự nhiên cô lấy bông trong tràng hoa của cổ mang đem cúng. Cô muốn ở lại chốn đó lâu một chút nhưng không thể được. Lối mười ngàn người hội họp lại trong miếng đất của một trường trung đẳng tại chỗ đó, trong đám ấy có mặt những người đã chứng kiến cuộc điều tra của chún tôi. Chún tôi mới thuật lại những điều đã xảy ra mà chúng tôi đã thấy với cô bé. Dân chún Muttra ngỏ ý muốn cô bé ở lại vài ngày nữa, nhưng chúng tôi không thể làm vừa lòng họ vì những lẽ đương nhiên mà chúng tôi mới kể ra trên đây. Chiều lại lúc trở về Delhi, cô bé mỏi mệt nằm ngủ, không nói chi hết, đáng lẽ người ta phải để cô bé ở lâu hơn nữa tại Muttra. Phỏng dịch tờ phúc trình của hội liên minh quốc tế da trắng ở Delhi. (Rapport de la ligue internationale Aryenne de Delhi) III MỘT CHUYỆN NHỚ LẠI NHỮNG KIẾP TRƯỚC RẤY LẠ LÙNG(1) Từ sáu tháng nay tại Tủin (một thành phố ở nước Ý) những bác sĩ chữa bệnh thần kinh, những nhà sử học, những nhà khảo cổ, những nhà chuyên môn về khoa khuyết sử thời đại tự hỏi : Có phải các ngài bị một tên đại bợm phờ phĩng hay klà đứng trước một hiện tượng mà vì trình độ hiện thời, khoa học không cắt nghĩa được. Ấy là trường hợp của một người tên Lanfranco Devito. Và nhớ lại đã sống sáu lần trong những thế kỷ đã trải qua. Về mỗi kiếp luân hồi anh ta cho những chi tiết và sự đích thực đem so sánh với sự hiểu biết của những nhà chuyên môn về mấy thời đại đó thì giống nhau. (Davito, lính cảnh sát số 556 tại Turin). Người ta dựng lên hai thuyết : a) Hoặc là tên lính số 556 là một người có tính đùa cợt phi thường, học hỏi uyên thâm về các khoa : khuyết sử thời đại, sơ sử thời đại và cổ đại sử, một ông Pic de la Miarandole(2), vì mua vui nên mang áo cảnh sát thành phố. :P Hoạc là hội bác sĩ đứng trước trường hợp của một người đã sống nhiều lần trên quả địa cầu chúng ta và nhớ lại rõ ràng những kiếp trước của anh ta. Trước hết Lanfranco là ai ? Đối với mấy ông chủ anh ta và bạn đòng nghiệp thì Lanfranco Davito là tên lính số 556, chứ không có ai khác hơn nữa. Anh ta ở một căn phố nhỏ số 240 đường Via Fossata, nhà không có tủ sách, sống một cách yên ổn vợ tên Lina. Anh ta làm việc bổn phận đúng đắn, không có ai trách anh về sự ngông cuồng lần nào cả. Đối với các vị bác sĩ chữa bệnh thần kinh thì Lanfranco là một người tầm thường, không có bệnh hoạn, không có thói dị kì, ăn nói thật thà chất phác, tỏ dấu là một người bậc trung. Còn đối với những vị học thúc uyên thâm thì anh ta là một người chúng kiến lạ lùng đời tối cổ, hồi các đô thị xây trên mặt hồ (cité lacúte) hoặc từng sống hồi đời vua Sennachérile.(3) Những giai đoạn mà anh ta thuật lại về các sinh hoạt của xã hội trải qua trong các thời kỳ liên tiếp của lịch sử, không những phù hợp với những điều mà các nhà bác sĩ đã biết mà lại còn chứa đầy những sự đích thực, mấy việc này không thể nào bịa đặt ra được, nói rằng anh ta tưởng tượng ra thì là vô lý hết sức. Mà làm sao Lanfranco nhớ lại các quá khứ quái dị ấy ? Theo anh ta thì việc đó xảy ra dễ ợt. Một ngày kia trong năm 1939 anh đi quảng trường Carducci tại Turin ( Place de Carducci) bỗng anh gặp một người sắc nâu lợt mà gương mặt không phải lạ với anh. Anh gặp y hồi nào ? Anh tòm kiếm trong trí nhớ thì đột nhiên một tia sáng hiện ra trong não anh. Anh thấy một cảnh tượng phi thường, lúc ban đầu làm cho anh ta hoài nghi mình không được tỉnh trí. Anh thấy người sác nâu lợt cầm một cái chày vồ đập trên đầu anh một cái hết sức mạnh. Thất sắc mồ hôi trán nhỏ giọt. Lanfranco tên lính số 556 hồi tưởng lại hồi sáu ngàn năm trước, tấm bi kịch đã diễn ra sau khi đó anh bỏ mạng lần thứ nhất. Một dọc hình từ chỗ tối tăm trong ký ức của anh vụt hiện ra rõ ràng dường như anh chàng sắc nâu mà anh gặp tại quảng trường Carducci đã phanh phui ra một cái bí mật, làm cho anh hãi hùng. Vốn tánh thật thà, Lanfranco phải chống chọi với cơn ác mộng lâu lắm ; anh không dám tỏ nỗi niềm tâm sự cho ai biết. Nhưng mà những hình ảnh càng ngày càng rõ ràng, càng chác chắn và càng đầy đủ. Trước hết anh thấy mình sống ở bờ hồ trong một cái chòi, anh câu cá vf chiến đấu với bộn khỉ. Nhưng kiếp đó thình lình anh bị một người lạ, không phải ở một bộ lạc với anh, tức là người sắc nâu mà anh mới gặp đó, kết liễu bằng một cú chày vồ. Kiếp kế tiếp đó anh tháy mình sống hồi đời vua Sennachérile. Anh chịu gian nan cực khổ trên mấy con đường ở Chaldée và anh có ra trận mạc ở Judée nữa. Qua kiếp thứ tư anh đầu thai ở Tiểu-Á-Tế-Á (Asie mineure) ...vv... Được cái kỹ năng lạ lùng này, Lanfranco lấy làm sợ sệt, song anh vượt qua được tính nhút nhát tự nhiên của mình, anh bèn hỏi thăm một bác sĩ chữa bệnh thần kinh về trường hợp của anh. Y sĩ bảo anh thuật lại đầu đuôi rồi ngài mới mời mấy nhà sử học, mấy nhà thông thái chuyên môn khảo cứu về cổ tíchnước Á Thuật (Assyrie) lại chứng kiến. Mấy vị này lại chất vấn Lanfranco cả trăm câu. Lanfranco đều trả lời đúng đến nỗi mà các nhà thông thái đều sửng sốt. Bây giờ đây, Lanfranco tên lính số 556 là một hiện tượng mà các nhà thông thái nhìn với cặp mắt vừa lạ lùng vừa nghi kị. Anh đó là người gì mà đã sống 6 lần rồi ? Mà Lanfranco trong khi canh gác sự thông thương trên quảng trường nhà ga "La Gare" cũng bâng khuâng và tự hỏi : Ừ ! Tôi là ai đây ? Nhưng vợ anh, cô Lina kết luận : - Miễn là điều đó giúp nhà tôi lên chức đội. Phỏng dịch theo báo La Presse số 202 Ngày 26-11-1949 LỜI BÀN Đọc hai bài này rồi lấy công tâm xét đoán thì thấy chuyện luân hồi là chuyện thật một trăm phần trăm. Những việc siêu hình mà muốn có bằng chứng như những chuyện hữu hình, điều đó không thể nào được. Dù muốn, dù không, con người cũng không thoát khỏi bốn cái khổ : sinh, lão, bệnh, tử. Một khi đã thác rồi, chẳng sớm thì muộn cũng phải luân hồi. Mà tin có luân hồi có ích lợi gì chăng ? Sự ích lợi kể không cùng. Có ai nghĩ rằng nếu các giống dân tộc trên địa cầu đều tin quả quyết : sự luân hồi chác chắn như hai với hai là bốn thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi hẳn từ văn học đến kinh tế và chính trị. Người ta sẽ sửa đổi cách ăn nói hàng ngày ; cách cư xử của nhân quần xã hội sẽ đầy những vẻ thân ái do trong thâm tâm mà ra chứ không phải ở chót lưỡi đầu môi. Những sự đau khổ mà ta thấy trước mắt hàng ngày sẽ lần làn bị tiêu diệt, vì một khi người ta biết rằng : gieo giống gì gặt giống nấy và kiếp này là kết quả kiếp trước, thì ít ai dám gieo giống săn cỏ hay là tiêu ới bao giờ. Chủ ý đó không cần khẩn không cần van vái, cõi trần gian cũng sẽ biến thành cực lạc thế giới. H Ế T
  2. CHƯƠNG THỨ TƯ NHỮNG NGÔI TINH TÚ Ban đêm thanh tịnh, ta nhìn lên trời thấy hàng hà sa số những đốm sáng. Ấy là các ngôi tinh tú, tục gọi là những ngôi sao. Trong mấy ngôi sao này, có cái nháy mà cũbg có cái không nháy. Cái nào nháy là mặt trời, hay là dịnh tinh, cái không nháy là trái đất hay là hành tinh. Những hành tinh thì quay xung quanh định tinh. Lấy con mắt phàm mà xem thì ta không phân biệt được ngôi sao nào lớn, ngôi sao nào nhỏ, ngôi này cách ngôi kia bao xa và vị trí của mỗi ngôi. Nhưng nhờ viễn vọng kíng mà ngày nay các nhà thiên văn biết được có nhiều tinh cầu lớn hơn ngôi mặt trời soi sáng chúng ta, mà cũng có nhiều tinh càu khác nhỏ hơn. NHỮNG TINH CẦU LỚN HƠN MẶT TRỜI SOI SÁNG CHÚNG TA Bề trực kính của ngôi mặt trời soi sáng chúng ta được khoảng 1.391.000 km, bằng 109 lần bề trực kính của trái đất. Nhưng tinh cầu Hercule bề trực kính lớn hơn 400 lần sao với bề trực kính cảu mặt trời chúng ta. Tinh cầu Mira Ceti lớn hơn 300 lần, tinh cầu (:P Pégase 140 lần, tinh cầu Arcturus và Aldébaran 27 và 38 lần. NHỮNG TINH CẦU NHỎ HƠN MẶT TRỜI SOI SÁNG CHÚNG TA Trái lại có những tinh cầu mà người ta gọi là "lesnaines" nghĩa là kém hơn bậc trung, nhỏ hơn mặt trời chúng ta. Hiện giờ người ta biết được ba ngôi sao bề trực kinh không đến 50.000 km, và một ngôi sao khác chỉ có 10.000 cây số, còn nhỏ hơn trái đất minhd nữa. NHỮNG THÁI DƯƠNG HỆ Hết thảy những ngôi tinh tú trên không trung đều sắp đặt có hệ thống : một ngôi mặt trời ở chính giữa và những hành tinh quay xung quanh làm ra một thái dương hệ. (système solaire). Sự sắp đặt rất khéo léo này phải là một việc tình cờ chăng ? Không. Khoa Pháp môn dạy rằng mỗi thái dương hệ có một đấng chí tôn sinh ra, xin được gọi Ngài là Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos d'un système solaire). Hào quang của ngài đến đâu dứt, chỗ đó là giới hạn Thái dương hệ cảu ngài. ÔNG TRỜI HAY LÀ THÁI CỰC THÁNH HOÀNG Còn đấng chí tôn sinh hóa hết tất cả ác Đức Thái Dương Thượng Đế, người ta gọi là ông trời, đấng Tạo Hóa hay là Thái Cực Thánh Hoàng. Đạo Thiên Chúa gọi là Đức Chúa Trời ; đạo Bà-la-Môn gọi là Brahma ; đạo Hồi Hồi gọi là Allah, đạo những người bat-si (Parsis) thờ lửa gọi là Ahura Madza.........., còn nhiều tiếng khác nữa như là Ishvara, Logos Cosmique, ...vv.... Ấy là đấng không sinh mà có, Pháp Lực vô biên, toàn năng, toàn thiện, trí con người tưởng tượng không nổi. BA NGÔI CỦA ĐẤNG TẠO HÓA Khoa triết học bí truyền dạy rằng : khi dấng Tạo Công muốn sinh hóa vũ trụ thì ngài chia làm ba ngôi : NGÔI THỨ NHẤT : Brahma hay là Đức Chúa Cha, Đức Thượng Đế hay là Thái Cực Thánh Hoàng, Dieu le Père. NGÔI THỨ HAI : Đức chúa con, Vishnou, Dieu le Fils. NGÔI THỨ BA : Đức Chúa Thánh Thần, Shiva, Dieu le Saint Esprit. Giúp vào công việc của ngài có bảy hiện thân của ngài, ấy là bảy vị Đại La Thiên Đế 7 Logos planétaires cosmiques. Hết thảy tinh tú trong vũ trụ đều thuộc về dưới quyền cai trị của bảy vị Đại la Thiên Đế này. Mỗi vị thống lĩnh cả trăm triệu Thái Dương Hệ. THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA Notre système scolaire. Thái Dương Hệ của ta do Đức Thái Dương Thượng Đế, cha lành của chúng ta sinh ra. Nó có 10 dãy hành tinh (Chaines planétaires). Mỗi dãy có bảy bầu. Song có ba dãy không thấy được, bởi vì không có đất cát và ở trên mấy cảnh cao. Lấy theo tên của hành tinh có đất cát thì 7 dãy này là : Dãy Kim tinh (Chaine de Vénus) Dãy Mộc tinh (Chaine de Jupiter) Dãy Thủy Vương tinh (Chaine de Neptune) Dãy Hỏa tinh (Chaine de Vulcain) Dãy Thổ tinh (Chaine de Saturne) Dãy trái đất (Chaine de la Terre) Dãy Thiên Vương tinh (Chaine d'Uranus) Xin xem tấm bản đồ dưới đây thì biết mỗi dãy có mấy bầu hành tinh có đất cát. DÃY TRÁI ĐẤT HIỆN THỜI (hình vẽ) Dãy trái đất hiện thời là dãy thứ tư. Dãy thứ nhất, dãy thứ hai, dãy thứ ba tan rã đã lâu rồi. Nhưng dãy thứ ba còn để lại một di tích là mặt trăng. Mặt trăng bây giờ là một bầu hành tinh khô khan, chờ ngày tan rã. Xin các bạn chú ý đến điều này. Hễ nhân vật qua ở bầu hành tinh nào thì xác thân phải y như thể chất của bầu hành tinh đó. `Ví dụ : Trái đất mình đang ở đây làm bằng chất đặc, cho nên mình mới có thân xác này. Khi nhân vật qua bầu thứ sáu thì thân hình phải làm bằng chất thanh khí, vì bầu thứ sáu làm bằng thanh khí, chứ không phải chất đặc như ba bầu : Hỏa tinh (Mars), Trái đất và Thủy tinh (Mercure). Theo luật nội cảnh tuần hoàn (Ronde intérieur) hiện thời trên bầu hỏa tinh và thủy tinh còn một số nhân vật ở đó, song họ khác hơn người mình. MỘT HỆ THỐNG TIẾN HÓA BẢY DÃY HÀNH TINH (vẽ hình) Mỗi dãy hành tinh của thái dương hệ chúng ta gồm bảy bầu hành tinh và sinh hóa 7 lần. Hình số 1 là dãy thứ nhất. Hình số 2 là dãy thứ hai, ...vv... Muốn biết mỗi bầu hành tinh làm bằng chất khí nào xin xem những hình nhỏ ở trong, tức là chú giải. Dãy thứ nhất y như dãy thứ bảy. Dãy thứ hai y như dãy thứ sáu. Dãy thứ ba y như dãy thứ năm. Dãy thứ tư ở chính giữa cũng như vạch nối. (vẽ hình) DÃY TRÁI ĐẤT Ba bầu hành tinh có đất cát của dãy trái đất mình là : Bầu thứ ba = Hỏa tinh (Mars) Bầu thứ tư = Trái đất mình (Terre) Bầu thứ năm = thủy tinh (Mercure) Còn bốn bầu kia : bầu thứ nhất, bầu thứ bảy làm bằng chất thượng thanh khí thấp (matière mentale inférieure) bầu thứ nhì và bầu thứ sáu làm bằng chất thanh khí (matière astrale) cho nên không thấy được. NHỮNG LOÀI TRÊN THẾ GIAN Trên trái đất này có 7 loài : Tinh chất thứ nhất (1 règne élémental) Tinh chất thứ hai (2 règne élémental) Tinh chất thứ ba (3 règne élémental) Sắt đá (Règne mineral) Cây cỏ (Règne végétal) Cầm thú (Règne animal) Con người (Règne humain) BẢY CUỘC TUẦN HOÀN (Les 7 rondes) VÀ SỰ BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG Mỗi bầu hành tinh đều có một bài học cho mỗi loài. Vì vậy cho nên bảy loài phải ở trên mỗi hành tinh trong một thời gian theo thiên ý đã định để học hỏi kinh nghiệm. Thời kỳ này gọi là Période mondiale xin tạm dịch là một hàng phù thế. Lúc khởi đầu thì ở bầu thứ nhất rồi đúng ngày giờ bỏ bầu thứ nhất, nghỉ ngơi một lúc mới đi qua bầu thứ nhì. Cứ thế lần lượt cho đến bầu thứ bảy. Đi hết một vòng 7 bầu thì gọi là hết một cuộc tuần hoàn (une ronde) các loài đều tiến hóa lên một bậc và nghỉ ngơi một lúc dài hơn lúc bỏ một bầu hanhg tinh. Hết lúc nghỉ ngơi thì đến lúc làm việc lại. Bảy loài cũng khởi sự lại tại bầu thứ nhất rồi đi khắp hết 7 bầu như trước. Ấy là hết cuộc tuần hoàn thứ nhì. Phải đi 7 lần như vậy. Hết 7 cuộc tuần hoàn thì có sự thay hình đổi dạng. Theo phép thứ nhất thì tinh chất thứ nhất đầu thai qua tinh chất thứ nhì, tinh chất thứ nhì đổi sang tinh chất thứ ba, tinh chất thứ ba thành sắt đá. Sắt đá thành cỏ cây. Cỏ cây thành thú vật. Thú vật thành con người hay là tinh tú thuộc về hạng Thiên Thần. Con người thành tiên thánh. Song sự tiến hóa không đòng bậc với nhau vì trong mỗi loài đều có những phần tử siêng năng và những phần tử biếng nhát. Lấy gương những học trò trong một lớp thì biết. Trò nào chủ ý và chăm học thì tự nhiên phải giỏi hơn những trò ham chơi bời, không chịu nghe lời thầy giảng dạy, và cuối năm được lên lớp trên ; còn mấy trò kia bị ở lại lớp cũ một năm nữa. Đời tức là cái trường học lớn, mỗi người trong nhân loại là mỗi học trò. Tùy theo sự học hỏi, sự hành động và sự kinh nghiệm của mình mà mà con người định số phận mình kiếp này và kiếp sau. Cho nên hết cuộc tuần hoàn thứ 7 trong mỗi loài đều có một số bị bỏ lại, không được đi đầu thai qua loài kế đó. TẠI SAO PHẢI CÓ SỰ THAY HÌNH ĐỔI DẠNG ? Bởi vì linh hồn thuộc về tinh thần, còn xác thân thuộc về vật chất. Tinh thần và vật chất vốn đi đoi với nhau luôn luôn. Không có tinh thần thì vật chất phải chết, còn không có vật chất thì tinh thần không phát hiện ra được. Tinh thần và vật chất phải nương cậy lẫn nhau. Hễ tinh thần tiến hóa thì vật chất phải tiến hóa. Hình dạng nào mà chịu không nổi với sự phát triển của tinh thần thì bị tinh thần thảy bỏ để lấy hình dạng khác tối đẹp và cân xứng hơn. Vì thế luôn luôn có sự thay đổi hình dạng. Sự luân hồi của con người cũng do lẽ trên đây mà ra. Hiểu được điều này thì không còn gớm ghê sự chết nữa và biết chẳng có thế nào con người đầu thaicó một kiếp mà trở nên trọn lành được. HỒN KHÓM Trừ loài người có hồn riêng cho mỗi xác thân thì loài cầm thú. Loài thảo mộc, loài kim thạch đều có hồn khóm (âme groupe). Giống thú nào một loại với nhau, tỉ như loài chó, dù chó rừng hay chó nhà khắp thế gian đều có một hồn khóm chung mà thôi. Hồn khóm không khác nào một bồn nước, còn hồn của mỗi con thú là một gáo nước múc trong đó ra. Khi con thú chết rồi, hồn nó trở về nhập với hồn khóm, đem kinh nghiệm của nó phân phát đủ cho các phần tử. NHỮNG THÚ ĐƯỢC ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI Nhưng lâu đời hồn khóm cũng như tế bào, chia ra những khóm nhỏ. Bởi vậy cũng là loài thú ăn thịt, song có hồn khóm nhỏ riêng cho các thứ như : chó sói, các thứ chồn, các thứ chó nhà, các thứ cọp, các thứ sư tử, các thứ mèo ...vv... Có 7 loại được đi đầu thai làm người mà hiện giờ tôi chỉ biết có 5 loại như : chó, mèo, ngựa, voi và khỉ (còn 2 loài nữa), còn bao nhiêu thì qua loài tinh tú thuộc về hạng thiên thần (Eprit de la nature). Muốn được thành hình người thì năm loài mới kể trên đây phải ở chung với con người để được nhờ sức từ điển và sự dạydỗ, chúng mới trở nên khôn ngoan. Vì vậy chó nhà tiến hóa hơn chó rừng, còn cọp, beo, sư tử thua mèo rất xa. Loài thú trời sinh ra không phải để cho mình ăn thịt hay là giúp việc mà thôi. Chúng nó đem sức lực và sự khôn ngoan phụng sự mình thì mình phải giúp chúng nó tiến hóa theo cơ trời đã định. Nếu người ta chỉ biết dạy con ngựa chạy cho mau để đem đi đua kiếm tiền, tập chó mèo trở nên hung dữ quỷ quyệt thì đã phạm một tội rất lớn. Bổn phận chúng ta phải dạy chúng nó trừ tuyệt những tính rừng rú và mở mang những tình cảm cao thượng như biết thương yêu chủ, biết hi sinh và trung tín ...vv... Ví bằng sai khiến chúng nó làm theo ý muốn quấy phá của mình thì làm hại cho sự tiến hóa của chúng và mắc tội với Trời. KHI ĐI ĐÂU THAI LÀM NGƯỜI Con thư nào tiến hóa thật cao rồi thì chết nó không trở về hồn khóm của nó nữa, nó tách riêng ra ngoài. Nó phải trải qua một thời kỳ : không phải là người cũng không phải là thú, bởi vì bề ngoài của nó vẫn giữ hình dạng con thú chưa được làm người, song bên trong nó vẫn khác con thú thường nhiều lắm. Nó phải đi đầu thai nhiều lần nữa, đợi đến một ngày kia chân thần cho thần lực xuống biến đổi cái hồn nhỏ của nó ra thượng trí, nó mới được đi đầu thai làm người. Tôi nói vắn tắt, bởi vấn đề này rất khó cho người mới học đạo, ngày sau sẽ giải nhiều hơn. Không bao giờ con người trở lại đầu thai làm thú đâu. Hiểu rõ mấy đoạn trên thì tin rằng : Người nào làm hung ác thì kiếp sau đầu thai làm thú vật như thủa nay người ta hiểu lầm. Con thú không có hồn riêng, không có thượng trí. Con người muốn đầu thai làm thú vậy thì phải bỏ thượng trí, dứt dây liên lạc với chân thần rồi nhập vào hồn khóm lại như xưa. Điều này không thể nào thực hiện được bao giờ. Có là có vài trườign hợp, con người nhập vào mình thú vật một ít lâu rồi cũng bỏ thú vật mà đi đầu thai llại làm người như trước, như tôi đã nói khi nãy. Con người không vì luật trời mà phạm tội, thì cái tội ấy không kể là trọng tội được. Mấy kẻ bàn môn biết cơ trời mà còn làm ác, mà mấy kẻ đó chưa đi đầu thai làm thú vật, huống hồ người thường còn vô minh. (Xin xem cuốn nhân-quả). Đọc kinh phải chuyển kinh, chứ đừng để kinh chuyển lại mình, không vậy khó rõ ngộ lắm. HẾT CUỘC TUẦN HOÀN THỨ BẢY NÀY TRÁI ĐẤT SẼ RA SAO ? Hết cuộc tuần hoàn thứ bảy này dãy trái đất này tan rã rồi có dãy hành tinh mới khác sinh ra thế cho nó. Ấy là dãy hành tinh thứ năm, bởi vì dãy trái đất của mình ơe bây giờ đây là dãy thứ tư. Dãy thứ nhất và dãy thứ nhì tan rã đã lâu không biết tên gì. Dãy thứ ba là dãy nguyệt tinh (Chaine lunaire) là một di tích là mặt trăng bây giờ đó. Mặt trăng hiện thời là bầu thế giới khô khan chờ ngày tan rã, không còn loài nào ở trên đó cả. Sự tích Hằng Nga nơi nguyệt điện xinh đẹp lạ thường, đó chắc là người ta muốn nói về phái nữ của dãy nguyệt tinh trong cuộc tuần hoàn thứ bảy. Thủa đó con người gần thành tiên thánh không còn ở dưới quyền sai khiến của thất tình lục dục thì tự nhiên cốt cách phi phàm. BẢY LOÀI TRÊN THẾ GIAN HỒI TRƯỚC Ở ĐÂU ? Hiểu đoạn trên thì biết rằng 6 loài trên thế gian mình hồi trước ở trên dãy Nguyệt tinh. 1 - Loài người bây giờ khi xưa là loài thú ở cõi Nguyệt tinh. 2 - Loài thú bây giờ khi xưa vốn là thảo mộc. 3 - Loài thảo mộc bây giờ khi xưa vốn là loài kim thạch. 4 - Loài kim thạch bây giờ, khi xưa vốn là loài tinh chất thứ ba. 5 - Loài tinh chất thứ ba bây giờ, khi xưa là loài tinh chất thứ hai. 6 - Loài tinh chất thứ hai bây giờ, khi xưa là loài tinh chất thứ nhất. 7 - Còn loài tinh chất thứ nhất bây giờ, vốn của đức Thái Dương Thượng Đế mới sinh ra. TRÁI ĐẤT MÌNH Ở VÀO CUỘC TUẦN HOÀN THỨ MẤY ? Hiện giờ trái đất mình ở vào phân nửa cuộc tuần hoàn thứ tư (moitié de la 4 ronde) nghĩa là nhân loại đã đi hết 3 vòng trong 7 bầu của trái đất, còn vòng thứ tư này mới đi đến bầu trái đất mình ở đây. Bởi bầu trái đất mình ở đây là bầu thứ tư ở chính giữa 7 bầu nên mới gọi : "Nhân loại ở vào phân nửa của cuộc tuần hoàn thứ tư." Nhân loại và 6 loài kia còn phải qua bầu thứ năm là bầu Thủy tinh (Mercure) bầu thứ sáu E và bầu thứ bảy F mới hết cuộc tuần hoàn thứ tư. SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG Qua cuộc tuần hoàn thứ năm, nhân loại cũng sẽ bắt đầu đi từ bầu thứ nhất như trước. Đến phân nửa cuộc tuần hoàn thứ năm nghĩa là khi nhân loại đến bầu trái đất mình ở đây thì có sự phán xét cuối cùng (Jugement dernier). Trên thiên đình sẽ xem xét kỹ lưỡng tính hạng mỗi người. Những người nào siêng năng giỏi giang, biết tu đức trau mình, lo giúp ích cho muôn loài vạn vật, nói tóm lại là ăn ở theo đạo Bát Chánh hay là có đủ đức tính kể trong cuốn "Dưới chân thầy" thì được đầu thai luôn cho đến cuộc tuần hoàn thứ 7. Còn những người nào chỉ biết lo sung sướng tấm thân, cả đời biếng nhát ích kỷ hại nhân, thì sẽ bị ngưng lại không đi đầu thai nữa. Linh hồn mấy vị này về Niết Bàn nghỉ ngơi đợi bao giờ nhân loại ở dãy thứ năm tiến hóa gần bằng bậc của họ, thì họ mới trở xuống nhập bộn để mà đuổi theo sự tiến hóa mà mà họ đã bỏ dở lúc họ còn ở dãy thứ tư. DÂN SỐ TRÊN DÃY TRÁI ĐẤT NÀY LÀ BAO NHIÊU ? Theo khoa triết học bí truyền thì dân số trên dãy địa cầu này được 60 ngàn triệu (60 milliards) số này không còn thêm hay bớt nữa. Hiện giờ theo bảng thống kê các nước thì dân số tổng cộng là hai ngàn triệu. Vậy thì còn 58 ngàn triệu nữa ở đâu ? Họ còn ở hai cõi Niết Bàn Thượng Giới và Trung Giới vì họ đã bỏ xác phàm rồi. Đúng ngày giờ họ sẽ trở xuống phàm Trần đầu thai như trước. THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA SINH RA ĐÃ BAO LÂU RỒI ? Thái dương hệ của chúng ta sinh ra đã được khoảng một ngàn chín trăm năm mươi lăm triệu, tám trăm tám mươi bốn ngàn bảy trăm lẻ ba năm. (1.955.884.703 ans) Còn trong cuộc tuần hoàn thứ tư này 300 triệu năm đã trải qua trên bầu trái đất mình ở đây. HẾT CUỘC TUẦN HOÀN THỨ BẢY CÓ ĐƯỢC BAO NHIÊU NGƯỜI THÀNH TIÊN THÁNH ? Lấy theo trình độ tiến hóa của nhân loại hiệngiờ thì dưới đây là lời phỏng dịch của tiên thánh. Trong 60 ngàn triệu thì có khoảng 24 ngàn triệu bị bỏ lại lúc phán xét cuối cùng trong cuộc tuần hoàn thứ năm. Còn lại 36 ngàn triệu chia ra như sau đây : 12 ngàn triệu thành tiên thánh. 12 ngàn triệu thành La-Hán. 12 ngàn triệu vào bậc Tu-đà-hoàn. Tư-đà-hàm và A-na-hàm nghĩa là được điểm đạo từ lần thứ nhất cho đến lần thứ ba. Tại sao phải loại ra 24 ngàn triệu ? Ấy là vì lúc đó tiên thánh và các đại Thiên Thần ra ở lẫn llộn với con người. Thần lực trên Thiên Đình ban xuống nhiều lắm. Nó có tính đặc biệt là làm cho các tính tình dù tốt dù xấu đều nảy nở ra lớn thêm. Người hiền sẽ hết sức hiền, người dữ sẽ hết sức dữ. Những người còn tính gian xảo, tham lam thì lúc đó sẽ trở nên cực kỳ hung ác, quấy rối xã hội không khác nào mụn nhọt ở chân làm cho cả thân mình nhức nhối. Vậy thì điều tốt hơn hết là cho họ ở riêng một chỗ, không còn có thể phs hại người khác để cho những người lương thiện an ổn và tiến hóa cho nhanh. CÓ THỂ THÀNH TIÊN THÁNH TRƯỚC CUỘC TUẦN HOÀN THỨ BẢY. Tiên thánh là người trọn lành, biết rõ hết việc xảy ra trên dãy trái đất này một cách chu đáo. Vì vậy một người thường không chịu tu hành phải trải qua muôn kiếp luân hồi mới trở nên sáng suốt. Trái lại, người nào kiếp này ra công khó nhọc ăn ở y như lời các vị giáo chủ dạy dỗ, thì nội trong mười lăm năm làm chủ ba thể : Thân, Ý, Trí được. Rồi 20 năm về sau sẽ thấy năng lực ở trong người mở lần lần ra. Phải tu hành bậc trung ba chục kiếp như vậy thì sẽ đắc đạo, thành chánh quả. Ba chục kiếp mới nghe qua coi dài và lâu lắm, song đối với thời gian vô cùng vô tận thì nó chỉ là trong nháy mắt mà thôi. Để tôi làm bài toán này cho các bạn xem. Ví dụ một vị tu hành nói trên đây sống trên cõi trần được 72 năm. Bỏ xác phàm rồi thì về cõi thượng giới ở 2000 năm mới trở xuống trần đầu thai. Vậy một kiếp của người đó được 2000 năm + 72 năm = 2072 năm. 30 kiếp như vậy được 2072 x 30 = 62.160 năm. Kỳ hạn của một cuuộc tuần hoàn bao lâu ta không hiểu được, song ta biết có cái dài, có cái ngắn. Tại trái đất này, tổ tiên giống da trắng sinh ra đã một triệu năm rồi Thôi bây giờ lấy cuộc tuần hoàn bậc trung mỗi cuộc tuần hoàn 196 triệu năm. Còn hai cuộc tuần hoàn rưỡi nữa, con người mới thành tiên thánh thì là 196 tr x 2,5 = 490 tr năm nữa Trừ số 62.160 năm cho 490 tr năm thì thấy người nào tu hành bây giờ thì còn rảnh rang được 489 triệu, 937 ngàn 840 năm. Trong thời gian này thêm thì tiến hóa cao lắm, bởi vì tiên thánh mới là bậc thứ nhất trong hạng siêu phàm. Còn không biết bao nhiêu bậc cao hơn nữa, nấc thang tiến hóa vô cùng vô tận, không ai tưởng tượng nổi, chỉ biết một là càng lên cao càng thấy bầu trời rộng mênh mông, càng học lại càng thấy mình dốt nát. HÃY CỨU VỚT NGƯỜI BỊ BỎ LẠI Những người bị bỏ lại không mất đi dâu, họ chỉ bị ngưng sự tiến hóa trong một thời gian trong một thời gian tính ra mấy chục hay mấy trăm triệu năm. Trong lúc đó các bạn của họ đã đi xa mịt mù, không thể nào họ theo kịp nữa. Qua dãy trái đất thứ năm, họ phải ra công khó nhọc gấp mười lần hơn bây giờ mới vào được hạng siêu phàm nhập thánh. Họ không biết trốn tránh đi đâu cho khỏi luật nhân quả buộc trói họ vào bánh xe luân hồi. Hiện giờ họ không chịu siêng năng thì đến khi đó cũng phải sốt sắn làm lành. Bây giờ muốn cứu vớt họ thì phải tự mình trau tâm trau trí để họ bắt chước gương lành của mình. Khuyên họ có lòng từ thiện phải sẵn lòng thí nhân bố đức luôn luôn, phải lo học hỏi cho nhanh thông và rộng lượng khoan dung cho những kẻ lỗi lầm. Phải hết sức thành thật và sốt sắn. Giải thích cho họ biết kiếp này họ học được đức tính nào thì kiếp sau họ sẽ có đức tính đó, bởi vì gieo giống nào gặp giống đó. Nếu phần đông ăn ở được như vậy thì dám chắc đến lúc phán xét cuối cùng trong cuộc tuần hoàn thứ năm sẽ còn khoảng 1/10 bị bỏ lại mà thôi, nghĩa là chỉ có 6 ngàn triệu không được tiếp tục đi đầu thai thôi chứ không phải 24 ngàn triệu như lời đã phỏng định vì mình đã cứu vớt được 18 ngàn triệu. Vì lẽ này những người tu hành bây giờ là những vị ân nhân của nhân loại, bởi họ dùng những tư tưởng lành để cảm hóa con người. (Xin xem lại chỗ tư tưởng truyền nhiễm) NHỮNG GIỐNG DÂN TRÊN DÃY ĐỊA CẦU Nhân loại trên mỗi hàh của dãy trái đất mình chia ra bảy giống (Races mères). Mỗi giống chia ra bảy nhánh lớn (sous races). Mỗi nhánh lớn chia ra bảy nhánh nhỏ nữa (Branche de sous races). Nhân loại đi qua bầu hành tinh nào thì xác thân phải làm bằng chất khí của hành tinh đó. Tỉ như trái đất mình làm bằng đất cát, nên cin người mới có xác thịt này. Ngày nào nhân loai qua bầu thứ sáu làm bằng chất thanh khí thì xác thân cũng phải làm bằng chất thanh khí thì xác thân cũng phải làm bằng chất thanh khí ...vv... GIỐNG THỨ NHẤT Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, tại trái đất mình ở đây thì giống thứ nhất thân thể làm băng chất tinh khí, hình dáng lạ lùng, có tòng có tụi. Nói rằng loài người, chứ kỳ thật không giống xác thân con người bây giờ chút nào. Chưa biết cảm động và chỉ biết mở có một quan là "Nghe" . Họ không có cha mẹ sinh ra : xác thân họ vốn là những cái phách của tiên thánh khi xưa ở dãy Nguyệt tinh tạo nên. Họ đi được, đứng được, chạy được, cuối xuống được và bay được. Nhưng họ vẫn là cái bóng, nước lửa hại không được. Không có nam nữ. Họ sinh sản giống như loài a-míp (amibe) là sinh vật đơn giản nhất là như loài san hô nhỏ (hydre). Ban đầu họ chia thân mình ra làm hai phần bằng nhau, rồi về sau những phần không đều. Vì thế con cháu họ hình thù bé nhỏ hơn họ. Không thể nào phân biệt nhánh nhóc gì cả. GIỐNG THỨ NHÌ Đúng ngày giờ giống thứ nhất biến đổi ra giống thứ nhì. Sự biến đổi này lạ lùng lắm. Các thiên thần lấy một chất dặt làm một cái vỏ đắp vào thân giống thứ nhất để làm xác thân giống thứ nhì. Thành thử xác thân giống thứ nhất thành ra cái phách của giống thứ nhì. Giống thứ nhì gọi là Kim-bu-rút-sa (kimburushas) mở được hai quan "Nghe và độn dạn". Sắc da vàng nhưng có pha từ màu vỏ cam đến màu xanh dợt của trái chanh. Hình dạng thì có tòng có tụi., giống hoặc như thảo mộc, hoặc như thú vật, hoặc giống hình người kêu hú nhau như tiếng sáo. Cách sinh sản : - Nhánh thứ nhất và nhánh thứ nhì không có nam nữ cũng nức mình ra giống nhánh thứ nhất. Nhưng càng ngày vỏ ở ngoài càng cứng, cách sinh sản như trước không được nữa. Đổi ra khác. Ngoài da nổi những cục u nần như giọt mồ hôi, màu trắng đục sệt sệt rồi từ từ cứng ngắt và lớn thêm. Mỗi cục rớt ra thành một người. Ngày tháng qua, những trẻ mới sinh ra có hai bộ phận sinh dục, âm và dương mới vừa tượng, nghĩa là chúng nó lại cái. GIỐNG THỨ BA Giống thứ ba là giống Le-mu-ri-den (Lémuriens). Ấy là tổ tiên giống da đen bây giờ. Giống mọi Bích mê (Pydmée) ở Phi châu hiện thời là nhánh nhóc của giống thứ ba còn sót lại. CÁCH SINH SẢN Sự sinh sản của giống này có thể chia ra 3 thời kỳ : Thời kỳ thứ nhất : - Cũng nổi lên những cục u nần, song lần lần trở nên tròn như trứng gà. Nhánh thứ nhất sinh ra thì thấy hai bộ sinh dục âm và dương mới tượng. Nhánh thứ hai sinh ra thì giống hình người và thấy rõ ràng lại cái. Thời kỳ thứ hai : - Nhánh thứ ba thành trọn vẹn nguyên hình lại cái ở trong trứng. Đứa nhỏ cũng như gà con khảy mỏ rồi thì ra ngoài, đi và chạy được. Lần lần một bộ phận âm dương lấn bộ kia. Nhánh thứ tư cũng ở trong trứng, đến khi sinh ra thì phân biệt nam hay nữ liền. Đến khi nhánh thứ tư gần tàn, đứa nhỏ ở trong trứng nở ra thì yếu đuối. Từ ngày phân nam nữ cho đến đây đã 6 triệu rưỡi năm rồi. Thời kỳ thứ ba : - Đến nhánh thứ năm thì lần lần trứng ở trong mình người mẹ ?? Đứa nhỏ sinh ra thì bất lực chỉ niết cựa quậy la khóc mà thôi. Qua nhánh thứ sáu, thứ bảy thì đứa nhỏ ở trong tử cung của người mẹ như bây giờ. GIÁC QUAN VÀ TIẾNG NÓI Giác quan : - Sinh đồng thời với loại thú Mê-ga-lô-sô (Mégalosaure) và Tê-rô-đắc-tinh (ptérodactyle) cho nên giống thứ ba Lê-mu-ri-den hình thù cao lớn, uy nghi, sức lực mạnh mẽ vô cùng mới chống cự nổi với những loài thú dữ mới kể trên. Sắc da đỏ, song có nhiều màu từ đỏ nâu đến xám xanh. Ban sơ có một con mắt giữa trán, sau hai con mắt sinh ra ở hai bên, con mắt ở chính giữa thụt vào trong, thành ra hạch trán hay là tùng-quả-luyến (glande pinéale). Người ta gọi giống một mắt là giống Si-lốp (cyclopes). Tiếng nói : - Nhánh thứ nhất và nhánh thứ hai khi yêu thương, đau khổ, buồn bực thì chỉ biết la hét vì tiếng nói họ gồm những nguyên âm. Đến nhánh thứ ba thì tiếng nói thành ra độc âm. Lúc đó trên địa cầu các dân tộc chỉ nói một thứ tiếng duy nhất. SỰ VĂN MINH Có một điều mà người ta tưởng lầm là các giống dân tộc ban đầu thì dã man rồi sau lần hồi mới văn minh tiến bộ. Sự thật thì trái lại. Mỗi khi có giống dân tộc nào mới sinh ra luôn luôn có các vị thánh nhân xuống đầu thai để dạy dỗ đạo đức và mở mang trí hóa về đủ các phương diện,. Như giống thứ ba nhờ sự chỉ huy của các vị tiên thánh ra đời làm vua, nên xây dựng được nhiều thành trì rộng lớn, cất được những đạo viện hùng vĩ, để lại những di tích mà ngày nay người ta gọi là của giống Si-lốp (cyclpes). Họ dùng những tấm đá khổng lồ xây tường, đến đời bây giờ chưa có một vị kỹ sư nào tìm được cách làm nó nhúc nhích nổi. Hiện giừo còn những tấm đá lớn đụng đến thì lúc lắc mãi người ta gọi là Pierres branlantes. Đó là một vấn đề mà khoa học đời nay chưa giải quyết được. Người ta có biết đâu, những tấm đá đó là những phương cách để giao thông giữa hai cõi : Tiên cảnh và Hồng trần của giống dân thứ ba. Cũng như cái ghế để xây ma, hễ tấm đá gõ mấy tiếng là dấu hiệu gì đó, không khác nào mấy cái điện báo Mọt sơ (Morse) bây giờ vậy. GIỐNG THỨ TƯ Giống thứ tư là giống Ắc-lăng (Atlante) tổ tiên giống da vàng , da đỏ bây giờ. Giống này mới thật là giống người hiện nay. BẢY NHÁNH CỦA GIỐNG THỨ TƯ Bảy nhánh của giống thứ tư là : 1 - Nhánh thứ nhất là giống Rmoahal (Mô-a-hal) chăn nuôi súc vật di cư dưới quyền chỉ huy của các vị Thánh Đế. 2 - Nhánh thứ hai giống Tlavatli (La-hoat-li) nhờ Tiên Thánh dẫn dắt, nên rất văn minh song ưa chuộng hào bình. 3 - Nhánh thứ ba là giống Toltec (Tôn-téc). Trong 7 nhánh duy có nhánh thứ ba đáng cho ta chú ý hơn hết. Hình thù vạm vỡ, cao lớn bậc trung tám thước bề cao, da thịt cứng hơn đá. Nếu lấy một miếng sắt hay thép của mình dang dùng hiện nay đập vào người họ thì miếng sắt sẽ cong hay gãy lìa. Gươm đao của ta dùng bây giờ chém họ không thủng đâu. Lại có một điều đặc biệt là mấy vết thương kéo da non nhanh chóng. Nhờ Tiên Thánh dạy dỗ nên giống Tôn-Téc cực điểm văn minh, thế kỷ hai mươi này có chỗ vẫn chưa sánh kịp. Khoa học, văn chương, mỹ thuật tiến bộ lạ thường. Thủa đó người ta đã biết dùng phi thuyền (aéronêf) bên đạo đức gọi là Qui-ma-na (Vimâna) tung mây lướt gió. Không phải dùng dầu xăng như bây giờ, song dùng một cái lực lấy ở trong tinh khí (éther) tàu dịch là dỉ thái. Họ cũng dùng phi thuyền để tấn công nhau. Cũng có nhiều trận không chiến dữ dội. Khi ra trận họ trút hơi độc xuống đầu kẻ địch làm cho cả ngàn quân lính chết ngộp và kinh tâm tán đởm, hoặc thả những quả bom khi rới xuống thì nổ lên, văng ra tứ phía những lửa hoặc những miểng làm cho kẻ thì đứt đầu, người thì cụt tay, cụt chân, lủng ruột, thây nằm chật đất. Họ biết chế biến một thứ nước sơn, sơn vào cây thì dẻo như da thuộc vậy. Họ không cần đào mỏ tìm vàng như bây giờ, họ dùng khoa luyện kim (Alchimie) biến đổi loại kim khác ra vàng. Họ không quý trọng vàng, họ chỉ dùng nó làm đồ chưng diện trong nhà, hoặc những cột nhà, những đền đài và những đạo viện. Họ dùng khoa học để mở mang nghề canh nông, chăn nuôi súc vật, sinh sản những giống lúa mới, trồng cây ăn trái, sửa sang đất cát cho thật tốt, biết lợi dụng những màu sắc giúp sức cho cây cối và thú vật mau lớn, hoặc trừ khử các chứng bệnh do vi trùng sinh ra. Ban đầu thì mọi việc đều tốt đẹp. Sau các vị đạo sĩ ỷ mình phép tắc cao cường đánh đuổi các đệ tử Tiên Thánh rồi ra cầm quyền trị dân. Họ dùng thần thông làm những chuyện tàn ác trái nghịch lòng trời, nên bị một trận Đại Hồng Thủy quét sạch sự văn minh của giống Tôn-Téc. (Xin xem chỗ "Những cuộc tan thương biến đổi châu Ắt-lăn-Tích.") 4 - Nhánh thứ tư là giống Tu-ra-nhen (Touranien) hung bạo và ưa chiến tranh nhưng văn minh lắm. 5 - Nhánh thứ năm là giống Sê-Mít (Sémites) có tính biến động. Ấy là tổ tiên giống Do Thái và giống thứnăm A-ri-den bây giờ. 6 - Nhánh thứ sáu là giống Ắc-ca-di-den (Akkadiens) ưa phiêu lưu, di cư qua miền duyên hải Địa Trung Háiinh ra dân Pélasges, Etrusques, Carthaginois và Scythes. 7 - Nhánh thứ bảy là giống mông cổ ở Bắc Á Châu sinh ra người Trung Hoa ở trung tâm Trung nguyên (chứ không phải người Trung Hoa ở dựa mé biển). Người Ma-lai, người Tây-Tạng, người Hung-gia-lợi, người Phanh-noa (Finnois) người Êt-ki-mô (Esquimaux) và người Nhật Bản là một nhánh của giống Mông cổ. GIỐNG THỨ NĂM Giống thứ năm là giống A-ri-den (Aryens) sinh ra đã một triệu năm rồi. Ấy là tổ tiên người da trắng bây giờ. Những nhánh của giống thứ năm : 1 - Nhánh thứ nhất cũng gọi là nhánh A-ri-den (Aryens) thủy tổ người Ấn Độ da trắng (Hindous) 2 - Nhánh thứ hai gọi là A-ri-dô-sê-mê-tích (Aryosémitique) hay là Cal-de-đen (Chaldéenne) di cư qua ở xứ A-phú-Hản (Afghanistan) và Si-ri (Syrie) 3 - Nhánh thứ ba gọi là giống Y-ra-nhen (Iranien) qua ở xứ Ba-tư (Perse) A-rập (Arabie) và Ai Cập (Egypte). 4 - Nhánh thứ tư là nhánh Sên-tích (Celtique) qua ở xứ Hy-lạp, Ý, Pháp. Iệt-lăn (Irlande) Ê-cốt (Ecosse) 5 - Nhánh thứ năm là giống Tơ-tông (Teutons) gồm dân Sít-căn-di-nao (Scandinave) dân A-lơ-măn (Allemands) Nga, Anh, Mỹ hiện nay. 6 - Nhánh thứ sáu không biết đặt tên gì, đã nảy sinh bên Châu Mỹ, Châu Úc, nam Phi và nhiều nơi khác. Mình đã thấy sự văn minh của của nhánh thứ năm, nhưng nó chưa lên đến chỗ cực điểm đâu. Nhánh thứ sáu còn giỏi hơn nhánh thứ năm nhiều lắm. Mở được quan trực giác, thần nhãn, giàu lòng bác ái, diệt được tính ích kỷ chia rẽ, làm việc với tinh thần tổng hợp, và thực hiên được câu : "Tứ hải giai huynh đệ". Nhánh thứ bảy sẽ tiến hóa hơn nhánh thứ sáu. Hết nhánh thứ bảy giống thứ năm sẽ tàn. GIỐNG THỨ SÁU - GIỐNG THỨ BẢY Sáu bảy trăm năm nữa, giống thứ sáu sẽ ra đời để thay thế giống năm. Cũng có bảy nhánh. Rồi đúng ngày giờ giống thứ bảy sẽ sinh ra. Khi nhánh thứ bảy của giống thứ bảy điêu tàn rồi thì gọi là hết một cuộc vận hành phù thế (Période mondiale). Trái đất sẽ nhỏ lại. Trừ ra một số nhân vật bị bỏ lại vì chúng bê trễ bổn phận thì các loại đều về cõi Niết Bàn nghỉ ngơi, rồi chờ đúng ngày giờ qua bầu Thủy tinh (Mercure) để tiến hóathêm nữa. CUỘC TRUNG TÂM TUẦN HOÀN (Ronde intérieure) Số nhân vật bị bỏ lại không có sinh sản thêm nữa, cứ giữ một mức luôn luôn. Họ không được nghỉ ngơi, họ phải đầu thai đi đầu thai lại mãi cho đến cuộc tuần hoàn thứ năm nhân vật trở lại bầu trái đất này, họ mới nhập bọn để tiến hóa thêm. Trong bảy bầu hiện thời trên bầu nào cũng có một số nhân vật như vậy cả. Cuộc tuần hoàn này gọi là Trung Tâm Tuần Hoàn (Ronde intérieure). Cuộc Trung Tâm Tuần Hoàn rất có ích lợi. Nó giúp cho nhân vật bê trễ sau theo kịp chúng bạn nếu họ thật sự cố gắng, và Tiên Thánh cùng các Thiên Thiền khỏi mất công sinh lại mộy lần nữa thân hình của các loài vật khi mấy loài này trở lại trên mỗi bầu hành tinh. NHỮNG ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ SỰ SINH HÓA VÀ SỰ LUÂN HỒI CÁC GIỐNG DÂN Giống thứ nhất sinh ra giống thứ nhì, giống thứ nhì sinh ra giống thứ ba, giống thứ ba sinh ra giống thứ tư, giống thứ tư sinh ra giống thứ năm, giống thứ năm sinh ra giống thứ sáu, giống thứ sáu sinh ra giống thứ bảy . Mỗi linh hồn phải đầu thai vào mỗi giống ;
  3. CHƯƠNG THỨ BA TẠI SAO CÓ SỰ SAI BIỆT GIỮA QUẦN CHÚNG ? Trong đạo đức dạy rằng : Không phải chúng ta sinh ra lần thứ nhất ở cõi trần dâu ? Khi cái xác thịt này chúng ta đã trải qua nhiều kiếp Luân hồi, làm sắt đá, hết sắt đá tới cỏ cây, hết cỏ cây tới thú vật, hết thú vật mới tới kiếp làm người bây gi. Chúng ta mang cái lốt người đã mấy triệu năm rồi, chúng ta đầu thai đi, đầu thai lại biết mấy lần, mỗi lần ta nhờ sự kinh nghiệm học hỏi mà tiến hóa một bậc. Cõi trần và luân cả vũ trụ là một trường học lớn. Trời sinh ra để dạy dỗ các loài, từ tinh chất cho đến các hạng thiên thần, không phải chỉ để riêng cho con người mà thôi. Ta hãy xem trường sơ đẳng chia ra năm lớp : lớp năm, lớp bốn, lớp ba, lớp hai, lớp một. Mỗi một lớp đều có vài chục học trò, mấy trò này từ tính nết cho đến tri thức, không đồng bậc với nhau, có trò hiền, có trò dữ, có trò khôn, có trò dại, có trò láo xược, có trò thật thà, có trò siêng năng, có trò biếng nhác, có trò sáng láng, có trò mê muội. Tại sao có sự khác nhau như vậy ? Nói về phần thiêng liêng hay là chân thần, thì không có ai lớn, ai nhỏ, ai cao, ai thấp, song về phần linh hồn thì có những linh hồn đã già, những linh hồn còn trẻ, bởi vì các linh hồn không đi đầu thai một lượt với nhau. Những linh hồn nào đã xuống cõi trần cả chục triệu năm trước và đầu thai nhiều kiếp rồi thì biết được những điều hơn thiệt, những lẽ thị phi, học hỏi được những sự khôn khéo thì tự nhiên phải giỏi kinh nghiệm nhiều và làm nhiều đièu lành hơn những linh hồn đi đầu thai mới có vài triệu năm. Cũng như đúa học trò lớp nhì giỏi hơn đứa học trò lóp tư vậy, mấy linh hồn sau này chưa được sáng suốt cho nên thường làm nhiều viẹc chẳng lành. Những bài nào mà kiếp trước đã học hỏi rồi, kiếp này ta gặp lại thì ta hiểu liền mau lẹ hơn mhững người mới học mấy bài đó lần thứ nhất. Nếu hiểu được nguyên nhân của sự sai biệt giữa quần chúng và sự tiến hóa bất đồng bởi các linh hồn không sinh đồng thời với nhau thì ta chỉ biết thương xót, khoan dung và lo giúp đỡ những người nào còn tối tăm, còn thô lỗ, còn hung dữ, còn ích kỷ, còn tham lam,...vv..., bởi họ là những linh hồn còn thơ chứ không nên ghét hay trách móc họ. Và cũng không còn phiền hà sao ông trời bất công nữa nếu nói không có Luân hồi thì lấy đâu ra cắt nghĩa "Tại làm sao có mấy vị thần đồng ?" Duyên cớ đó tôi xin giải ra sau đây. NHỮNG VỊ THẦN ĐỒNG Không phải con người học hỏi lúc còn sống ở cõi trần mà thôi, sau khi thác rồi, lên cõi Trung giới và Thượng giới còn học thêm nữa. Những bậc thiên tài, mà ta trầm trồ khen ngợi bây giờ, mấy vị ấy đã nhiều kiếp chuyên môn về những khoa học, hoăc toán học, hoặc âm nhạc, hoặc thiên văn, hoặc văn chương, hoặc mỹ thuật,...vv.... Bởi các môn học thức đều truyền lại đời sau, nên mới có những vị thần đồng để khai sáng cho đời trên con đường học vấn. Sau đây là những vị thần đồng mà thế giới biết danh. NHỮNG VỊ THẦN ĐỒNG BÊN ÂU - MỸ CÁC NHẠC SĨ Hồi thế kỷ 17, Haended mới có mười tuổi mà đặt những bài thánh ca băng tiêng la tin để hát trong nhà thờ Halle. Mozart nổi tiếng hồi bốn tuổi vì đã khảy một khúc cầm nhạc, tới 11 tuổi thì dặt hai bài ca kịch Finta simpkice, Bastien và Bastienne rồi từ đó về sau danh tiếng lẫy lừng. Bêthoven mà người ta gọi là thần đồng âm nhạc, 10 tuổi đã đánh những khúc đờn tuyệt diệu. Paganini mới 9 tuổi mà đã trong một cuộc hòa nhạc tại thành Génes (Ý) đánh đàn vi-o-lông (violon) hay đến nỗi mà thiên hạ đều vỗ tay khen ngợi. Meyerbeer mới 6 tuổi mà đã trổ tài trong những cộc hòa nhạc. Liszt hồi nhỏ đã nổi tiếng kỳ tài, vừa mới 14 tuổi đã diễn một bài ca kịch, có một hồi gọi Don Sanche hay là Châuteau d'amour (Lâu đài tình ái). Ông Gariel Delanne gặp tai hội nghị tâm lý học, năm 1900, cậu bé Petio Ảiola mới có 3 tuổi rưởi đánh đàn bi-da-nô (piano) trong lúc xuất kỳ bát ý, biến hóa nhiều khúc thâm trầm. Năm 1911, cậu bé Ferreros mới có 4 tuổi rưởi mà điều khiển đội âm nhạc ổ Folies Bergères một cách chắc chắn và khéo léo. CÁC HỌA SĨ Michel Ange mới có 8 ruổi mà thầy của ngài là ông Ghirlandajo quả quyết rằng không còn vấn đề gì để dạy ngài nữa. Hồi còn bé thơ, Rembrandt ham mê nghề vẽ cho đến nỗi Lombroso chắc chắn rằng cậu bé này vẽ hay như mộit họa sư, trước khi cậu biết đọc. Nhà họa sĩ Marcel Lavallard, bức tranh đầu tiên của ngài được đem chưng bày nơi phòng triển lãm hồi ngài có 12 tuổi. Câu. Van de Kèkhỏe de Brugé thác ngày 12-8-1873 lúc cậu mới có 10 tuổi 11 tháng để lại 350 bức tranh mà vài cái, theo lời ông Adolphe Siret có chân trong hàn lâm viên khoa học, văn chương và mỹ thuật ở nước Bỉ nói, có thể ký tên lên các họa sĩ trứ danh như Diaz, Salvator Rosa, Corot ...vv... CÁC BÁC SĨ, VĂN SĨ VÀ THI SĨ Hermozène mới 15 tuổi đã dạy khoa tu từ học (Rhétorique) cho vua Mảc Aurèle. Hồi 13 tuổi Passcal tự một mình tìm lại được 32 đề nghị d'Euclide ; ngài là nhà kỷ hà học, vật lý học, triết học, và kiêm văn sĩ một lượt. Ngài đứng đầu hết thảy các bậc thiên tài trong thế kỷ 17. Pierre de Lamoignon mới 13 tuổi đã đặt thi văn bằng chữ Hy Lap và chữ La tin rất hay. Ngài cũn giỏi về pháp luận cũng như văn chương vậy. Gauss de BrúnƯick nhà thiên văn và toán học kỳ tài, hồi có 3 tuổi đã giải quyết những bài toán đố rồi. Ericson thác năm 1869 giỏi về cơ giới học, cho đến nỗi mới 12 tuổi đã được chính phủ phong làm thanh tra cái kênh lớn đào thông ra biển ở Thụy Điển (Suède). Một mình ngài điều khiển sáu trăm dân phu. Victor Hugo mới 13 tuổi được tao đàn ở Toulouse thưởng về những bài thi phú của ngài làm. Năm 1837, cậu bé chăn cừu "Vita Mangiamel" đã làm cho mấu vị thông thái trong hoàn cầu phải hết súc ngạc nhiên vì cậu tính toán hay một cách lạ thường. Có một số nhà toán học đố cậu câu này : "Vậy chứ con số nào mà nó nhân cho nó 3 lần (élevé au cube) rồi cộng với 5 lần nó nhân cho nó (5 fois son caré) thì bằng 42 lần nó cộng với 40". Không đầy một phút cậu trả lời : "Ấy là số 5". NHỮNG VỊ BIẾT NHIỀU THỨ TIẾNG Wiliam Sidis xứ Etat de Massachussets biết đọc và viết hồi 2 tuổi, tớt 4 tuổi biết nói bốn thứ tiếng, 12 tuổi được vào học trường Massachussets Intitute of Technology, là nơi muốn được nhập học phải đúng 21 tuổi. Ngài diễn thuyết tại đại học đường Harward cho các vị giáo sư khoa cao đẳng toán học nghe về vấn đề "Bề thứ tư của không gian" (tứ nguyên không gian 4e diménion) làm cho các thích giả lắng nghe kinh dị vô cùng. Yuong, người tưởng tượng ra thuyết ánh sáng truyền đi như sóng dợn, hồi 2 tuổi đã hoc trôi chảy, 8 tuổi biết cặn kẽ sắu thứ tiếng. Cậu bé khác tên là Villiam Hamilton học tiếng hê-brơ (hébreu) hồi 3 tuổi ; tới 7 tuổi sự học thức của cậu còn rộng hơn nhiều vị đi thi lấy bằng cấp thac sĩ. Tới 13 tuổi biết 12 thứ tiếng. Lúc 8 tuổi cậu làm cho những người xung quang hết sức ngạc nhiên cho đến nỗi một nhà thiên văn yệt-lăng-đe (Irlandais) nói rằng : "Tôi không nói nó sẽ, tôi nói nó là nhà số học hạng nhất trong đời nó". Cậu Jaqué Chiston người xứ Ê-cốt ( Ecossais) mới 15 tuổi mà tranh biện bằng tiếng la tin, tiếng Hy Lạp, tiếng hê brơ, và tiếng a rập bất kỳ là vấn đề nào. Pic de la Mirandole hồi còn bé đã làu thông tiếng la tin, tiếng Hy Lạp, rồi kế đó tiếng hê brơ và tiếng a rập. Tới 20 tuổi sự thông minh của ngài không ai so sánh kịp trong thời đại đó. Barattier Jean Philippe sinh năm 1721 tại Schwabach trong Magraviad d'Auspach thác năm 1740, hồi 7 tuổi đã thạo tiếng a-lơ-măng, tiếng Pháp, tiếng la-tin, tiếng hê-brơ, 2 năm sau ngài làm quyển từ điển những tiếng khó hết sức. Tới 13 tuổi ngài dịch cuốn "Cuộc hành trình của Bengamin Tudèle" bằng tiếng hê-brơ ra tiếng Pháp, rồi năm sau ngài lại được làm giáo sư tại đại học đường Halle.Cũng trong lúc ấy ngài xuất bản nhiề bài bình luận rất uyên bác, trong tàng thư viện Dức quốc. Ngài làm việc quá nên chết về lao tổn năm 1740 hồi mới 19 tuổi. Heri de Hanneke sinh tại Lubeck năm 1721 mới đẻ đã biết nói. Tới 2 tuổi đã biết ba thứ tiếng. Cậu học viết trong vài ngày, và tập làm những bài diễn văn vắn tắt. Tới 2 tuổi rưỡi cậu cho khảo hạch về địa dư và sử ký cận đại. Cậu sống là nhờ sữa của bà vú. Người ta muốn dứt sữa cậu, cậu héo mòn rồi chết ngày 17-6-1725 tại Lubeck và quả quyết có hy vọng về kiếp sau. Trong số các nhà từ ngữ hiện đại nên kể ông Trombetti vì ngài giỏi hơn các bậc tiền nhân. Lúc còn bé ngài học ở trường tiếng Pháp và tiếng a-lơ-măng, ngài học sách của Voltaire và Goethe. Ngài chỉ đọc cuốn sách nói về đời của Abdel-Kader mà ngài thuộc tiếng a-rap. Một người Ba-tư có diệp đi ngang qua Bologne dạy ngài biết tiếng Ba-tư trong vài tuần lễ. Hồi 12 tuổi ngài học một lượt tiếng la-tin, tiếng Hy-lạp và tiếng hê-brơ. Từ đó ngài học gần hểt các sinh ngữ và tử ngữ trong toàn cầu. Các thân bằng của ngài quả quyết rằng bây giờ ngài thuộc ba trăm thổ ngữ Đông-Phương. NHỮNG VỊ THẦN ĐỒNG ĐỜI NAY MỘT ÔNG LƯƠNG Y NĂM TUỔI Chuyện này mới nghe qua lạ lùng lắm, song là sự có thật. Thái y viện thành Nouvelle Orléans bên Hoa Kỳ có cấp bằng cho một học viên học sinh mới có 5 tuổi tên Villie Gwin, vốn con của một lương y ở tại đó. Các vị giám khảo nói rằng : từ thuở giờ không có một vị cử tử nào học bộ xương cốt con người bằng đứa nhỏ này. Nó thông thạo một cách lạ thường lắm. MỘT VỊ THẦN ĐỒNG TẠI NƯỚC ĐAN MẠCH (Dannemark) Có một cậu bé con tên là Bant-Stromtrens năm nay độ 16, 17 tuổi, mà đã là một nhà trứ danh trong khoa học giới ở Âu Châu. Mỗi khi có bài ngôn luận của cậu xuất bản thì các nhà khoa học gianh giá ở Anh, Pháp đều khen ngợi lắm. Mới đây, người Na-uy (Norvège) lại mua bản quyền một bộ sách thiên văn học của cậu để tiến đến ấn hàng cho nhân dân học. Bộ sách này cậu biên tập từ ngày mới 13 tuổi, phong vân tinh tú rất tinh tường, ngôn luận rất đích xác, lại có nhiều điều chiêm nghiệm mới, ý tưởng mới, giải thuyết mới có thể giải được những vấn đề nghi nan của thiên văn giới xưa nay, nên hàn lâm viện nước Na-uy lấy làm kinh phục mới ấn hành để làm giáo khoa thơ. Người ta nói rằng cái cách học thức của cậu là nhờ về gia đình giáo dục nhiều, nguyên ông thân sinh cậu là mộy nhà thiên văn học có tiếng, nên khi cậu còn nhỏ thì đã luyện tập kỹ càng rồi, cậu lại là người thông minh tuyệt thế nên học hành mau tấn tới lắm. (Lục Tỉnh Tân Văn ngày 25-5-1926) MỘT NHÀ KHOA HỌC BÉ CON Tại Luân-đôn có một người tên Sa đức mới 11 tuổi mà thông minh lạ thường. Cậu ta là con một nhà khoa học trứ danh, nên khi còn nhỏ mà cậu đã tinh thông được sự nghiên cứu của khoa học. Mỗi khi cậu luận thuyết bài nào thì cũng được các nhà khoa học khen ngợi lắm. Về đường toán học, nghệ học thì cậu lại càng giỏi nữa, những bài toán khó hay nhiều con số đến đâu mặc lòng cậu cũng tính miệng ngay đi được. Mới đây cậu lại chế ra một máy bay để đi liệng trên mặt thành Luân-đôn, ai cũng khen tài giỏi. Chính phủ có cấp cho cậu một cái bằng kỹ sư và một cái thẻ bằng vàng để khuyến khích cho người khác ; hội khoa học cũng mời cậu vào dự một chân trong hội. K.H (Công Luận 26-7-1926) MỘT NHÀ ĐẠO ĐỨC BÉ CON Tại làng Trawaddv Delta ở Rangoon có hai vợ chồng người kia chuyên nghề mạ bạc, sinh được một đứa con trai đặt tên là Tun-Tyin. Năm nay nó được 9 tuổi. Trước trán nó có hai cục bứu rất lớn, còn đằng sau ót có một cục cũng to. Cặp mắt nó tinh rhần lắm. Hồi nó 5 tuổi thì nó còn giảng đạo còn hay hơn các vị hòa thượng. Có nhiều ông sư đem mấy chỗ khó khăn của triết lý đạo phật vấn nạn nó thì nó trả lời xuôi rót và giải rành rẽ nữa. Nó đọc nhiều đoạn kinh mắt mỏ bằng tiếng Ba-li (Pali) rồi dịch thuộc lòng bằng tiếng Bụt-mết (Burmesse). Ngày 28-5-1924 nó ngồi xe hơi đi từ Par-myde tới Prome đường dài 40 cây số. Dọc đường bá tánh đua nhau đón xe chật nức đặng nghe thuyết pháp. Tới Prome nó leo len cao rồi đúng giữa trời dạy đạo từ 12h30 - 14h30. Trời nắng chan chan mà nó không hề biết mệt mỏi. Nếu Tun-Tyin đầu thai qua nước Nam chắc là thiên hạ theo làm đệ tử đông lắm.(1) (1): Bài này đăng vào thần linh tạp chí (Revue Spirite) nhưng vì thời cuộc tôi đã mất số đó nên không chắc được ngày tháng. Mấy bài kia cũng như vậy, nếu tên riêng có viết sai xin các bạn miễn nghị. THẦN ĐỒNG 4 TUỔI Bên nước Mỹ mới phát hiện một đứa trẻ thần đồng mới có 3 năm 10 tháng mà về đường thí nghiệm tâm lý dẫu các giáo sư và học trò trường đại học cũng không bằng. Đứa trẻ đó đã thuộc chữ Hy Lạp. đã biết cách thức phương trình và hóa học, lại nói được tên các danh nhân trong thế giới và tên các kinh đo các nước, đem nào nó cũng xem sách đến 11 giờ mới ngủ. Người cha làm quản lý một nghề bảo hiểm, ông ta nói chuyện với người ta rằng : Con tôi một năm nữa sẽ vào trường cao đẳng tiểu học. Đó là điện tín Nữu Ước, cứ như tin ấy thì đứa bé này đáng gọi là thần đồng thật, nhưng theo lời người cha, thì ra bên Mỹ không hạn tuổi thi tốt nghiệp và tuổi vào trường cao đẳng tiểu học ư. (Annam tạp chí số 19 năm Tân Vị -2 S. Mars 1931) NHỮNG VỊ THẦN ĐỒNG BÊN PHƯƠNG ĐÔNG Bên Tàu đời Tần Thủy Hoàng, Cam La mới 12 tuổi mà làm thừa tướng. Bên Nam mình có ông Nguyễn Hiền quê quán tại tỉnh Nam Định, huyện Thượng Thiên, đời Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chánh Bình, 1225 ngài mới được mười hai tuổi mà học hành thông minh lắm. Nên thiên hạ gọi là thần đồng. Nhưng còn biết bao nhiêu vị khác nữa mà tiếc rằng không biết tên. NHỮNG NGƯỜI NHỚ CHUYỆN KIẾP TRƯỚC mấy việc sau Như tôi đã nói khi nãy, con người thác rồi bậc trung là năm trăm năm mới đi đầu thai. Nhưng có vài trường hợp, vì một lẽ nào chẳn rõ mà một ít lâu trở lại cõ trần nữa. Mấy vị này nhớ lại việc kiếp trước như đây : I- CHUYỆN QUAN THIẾU TÁ WELSH : Báo Le Journal ngày 18-9-1907 đăng bài này : "Dân chúng Anh ở Rangoon rất chấn động về những lời biểu lộ của một đứa con nít. Báo giới ở hải ngoại có thuật một chuyện gọi là gọi rằng luân hồi có xảy ra tại Rangoon. Quan thiếu tá Welsh từ trần gần thành này năm 1903". Mới đây một đứa nhỏ ba tuổi làm cho cha mẹ nó sửng sốt, vì nó nói một cách nghiêm nghị rằng : nó là quan thiếu tá Welsh đầu thai lại. Nó mới tả rành mạch chỗ ở của thiếu tá, nó kể lại những công việc của ngài làm và số ngựa tơ của ngài nuôi khi trước. Chác chắn hơn nữa, nó thuật lại cách chết quan thiếu tá trong jhi ngài đang du lãm trên hồ Mektelea với hai người khác. Cha mẹ nó mới hết sức kinh ngạc, vì cậu bé nào có biết quan thiếu tá và gia quyến ngài đâu. Thiên hạ đồn rùm chuyện kì dị này, họ bàn tán xôn xao làm cho bận lòng các giới khoa học nước Anh. II - TRÍCH LỤC LỜI TƯỜNG THUẬT CỦA BÁC SĨ DE HERI HENDSOLD, SAU KHI NGÀI VIẾNG ĐỨC HOẠT PHẬT Ở TÂY TẠNG TẠI THÀNH LAS-SA (GRAND LAMA À LHASSA) : Cách năm chục năm nay, hai đứa trẻ, một trai, một gái sinh tại làng OK Kshitgon, một ngày với nhau, trong hai nhà kế cận. Chúng nó lớn lên thường chơi giỡn với nhau tới tuổi trưởng thành thì kết làm vợ chồng. Chúng nó lập một gia đình cày cấy cánh đồng khô khan bao phủ Okshitgon để nuôi sống chúng nó. Chúng nó thương yêu nhau lắm rồi cũng chết một lượt với nhau. Người ta chôn chúng nó ngoài làng rồi quên phức chúng nó đi vì lúc đó thời cuộc khó khăn ; đó là năm sau khi thành Măn-đa-lay (Mandalay) bị thất thủ, toàn xứ Miến Điện đều nổi loạn. Trong xứ, dân chúng đều mang khí giới, đường xá rất nguy hiểm. Ban đêm nhiều xóm bị lửa cháy đỏ trời, ấy là buổi thảm đạm cho những người yêu chuộng hòa bình. Nhiều kẻ bỏ nhà chốn vào những chỗ đông người và gần những cơ quan chính trị. Okshitgon ở vào chính giữa của một trong những khu tàn phá ; nhiều người trong làng chốn đi, trong đó có một người tên Maung Kan và vợ anh còn trẻ. Hau vợ chồng này tới ngụ tại Kabyn. Hồi còn ở Okshitgon vợ Maung Kan đẻ sinh đôi hai đứa con trai trước khi đi tị nạn ít lâu. Đứa đầu lòng tên Maung Gyi nghĩa là anh cả, đứa nhỏ tên là Maung Ngé. Hai đứa ở Kabyn lớn lên, lớn lên biết ăn, biết nói, thì cha mẹ chúng nó lấy làm lạ mà thấy chúng nó không kêu nhau bằng Maung Gyi và Maung Ngé mà xưng hô là Maung San Nyein và Ma Giroin. Ma Giroin là tên đàn bà. Hai vợ chồng Maung Kan mới sực nhớ lại hai tên đó vốn là tên của hai vợ chồng người kia chết tại Okshitgon, cùng một lúc sinh hai đứa nhỏ. Hai vợ chồng nghĩ rằng : cáhc linh hồn của hai người chết đầu thai làm hai đứa nhỏ, bèn dắt chúng nó về Okshitgon để thử chúng nó coi. Khi về Okshitgon hai đứa nhỏ biết hết đường xá, nhà cửa dân chúng và nhìn được quần áo chún mạc kiếp trước. Không còn diều gì ngờ vực nữa. Đứa nhỏ nhớ lại kiếp trước, hồi nó còn làm Ma Giroin nó có mượn hai ru-bi (roupies) của cô Mathet, chồng nó không hay biết, mà nó cũng chưa trả số tiền đó. Mathet còn sống, người ta hỏi cổ thì cổ trả lời việc đó có thật. Tôi không nghe cha hai đứa nhỏ trả hai ru-bi cho cô Mathet. Tôi có gặp chúng nó trong cơ hội đó. Chúng nó bây giờ được sáu tuổi. Đứa lớn thì mập lùn, đứa nhỏ thì yếu hơn, có vẻ trầm ngâm như con gái. Chúng nó thuật lại với tôi nhiều việc kiếp trước của chúng nó. Chúng nó nói rằng sau khi thác rồi, chúng nó phiêu phiêu phưởng phưởng ở trên không chẳng có xác thân và phải trốn tránh trong cây cối, vì tội lỗi chúng đã làm, rồi vài tháng sau chúng nó đầu thai làm hai anh sinh đôi. Đứa lớn thì nói : Hồi trước thì rõ ràng tôi nhớ được cả thảy, mà mấy việc đó phai lần lần bây giờ tôi không còn nói như trước nữa. III- TRÍCH LỤC SỰ ĐIỀU TRA CỦA BÁC SĨ DE CALDẺONE TỪ TRƯỜNG THUẬT CỦA BÁC SĨ DR. MOUTIN : Lối năm 1906 báo Paisai Akhabar ở Lahore có thuật chuyện một đứa con gái lối 7 tuổi sinh tại làng Pendjab, thuộc về gia quyến đạo Hồi Hồi, bỗng nhiên trở nên nghiêm nghị và nói như một người đàn bà có chồng. Cô bé cho biết rằng cô bé có một kiếp trước mà bây giờ cô nhớ rành rẽ các chi tiết của kiếp đó. Kiếp đó cô là vợ của một người Ấn Độ, cô nói lớn tiếng và năn nỉ người ta dắt cô lại nhà chồng cũ của cô để cô giải quyết một chuyện hệ trọng. Ban đầu người ta không để ý mấy tới mấy lời đó, nhưng bởi cô khăng khăng một mực, cha mẹ cô phải đem cô lại chỗ cô chỉ, một phần là tại chiều theo cô vì cô làm rày và hăm he, một phần tại tính tọc mạch. Khi tới chỗ thì cô bé đi ngay vào nhà nó đã nói như biết rành rẽ vậy. Khi nó gặp người chồng kiếp trước thì nó nói nhiều việc làm cho người này kinh ngạc và nó biểu anh ta cưới nó. Muốn chỉ đủ bằng chứng rằng nó là vợ trước của anh, nó mới biểu người ta đem một cái rương cũ của nó lại mà từ hồi nó chết tới giờ rương đó vẫn khóa chặt. Nó kể đủ mấy món đồ trong đó. Chừng mở rương ra quả in như vậy. Người chồng cũ và cha mẹ bây giờ không tán thành việc gả cưới vì nó vô đạo Hồi Hồi, còn chồng cũ nó là người đạo bà la môn. Vì vậy đứa nhỏ bị cha mẹ ép phải trở về nhà. Bác sĩ Moutin hỏi thêm rằng : muốn cho rõ sự thật tôi có viết thư cho cgủ nhiệm báo Lahore xin ổng cho biết coi chuyện đó có đáng tin hay không và xin ổng cho thêm chi tiết. Ông chủ nhiệm vui vẻ trả lời rằng ông quả quyết những tin tức ông đăng ra quả có thật như vậy, và khi nào ổng tiếp dể cho những chi tiết thêm, thì ông sẽ gởi đến cho tôi liền. Cách ít lâu tôi viết thư nhắc ổng thid ổng trả lời rằng : "Ổng có hỏi thử nhiều lần chuyện đó, song những người dính vào chuyện đó đều thủ khẩu như bình, vì lẽ rằng những tin tức họ đăng ra làm cho họ áo não, thân bằng họ bực tức, và nếu còn đăng tiếp việc đó trên báo mãi, thì khi cô bé đúng tuổi trưởng thành họ chác khó kiếm một người chồng cho nó". Ông Dr Mountin còn nói tiếp rằng : có một chuyện tương tự như vậy xảy ra hồi năm 1906 có đăng ở các báo chính ở Ben Gate cách hai năm nay (tôi lấy ý nghĩa dịch ra) Ramshadon Guin 45 tuổi vốn dòng Bratyks hertéria là một người dân ở Krolbéria, thuộc về tài phán của Thannah Bhangore khu 24, Parganas. Vợ ông tên Manmohini Dassi chết vì bệnh dịch tả đã 12 năm rồi ; ông thân ông là một người Dpchand Mandal trong làng Baota. Sau khi Manmohini thác rồi thì dì của Manmohini ở Balgorh sinh ra một gái. Hôm tháng tám tây vừa rồi, cô gái nhỏ ấy tới viếng Bamoumuller với mẹ nó. Tình cờ đi ngang qua Krolbéria, cô mới chỉ cái nhà của Ramshadon và nói rằng : "Cái nhà cái vườn, cái hồ nước vốn là của chồng đời trước tôi". Mẹ cô và cô mới vô nhà. Cô bé vái chào một bà già ở đó rồi nói rằng : "Bà này là mẹ chồng của tôi hồi đời trước, phòng này là phòng của tôi, còn mấy đứa trẻ kia là con của tôi." Cô bé mới nói với Ramshadon : "Anh là chồng của tôi" và nài nỉ : "Anh hãy cưới tôi, không thì tôi tự vận tôi chết". Ramshadon mới biểu cô bé đem vài chứng cứ ra. Cô bé nói : "Lúc tôi chết, người ta may sáu rupi(roupie) trong áo dài tôi, mà anh lác lấy đi, anh hãy nhớ lúc tôi năm trên giường chờ chết, tôi hỏi một chút ít tiền bạc và đồ trang sức cho đứa con trai đầu kòng của tôi. Tôi để lại cho anh một cái chậu đỏ và vài miếng ru-băn(ruban) để cột tóc ở trên vách tường và hai cây trâm cài đầu ở trong rương." Ramshadon tìm gặp hai cây trâm đã dính đầy bụi.Cô bé mới biểu Ramshadon kiếm trong rương coi cái áo nhiểu của cô còn tốt không. Ramshadon kiếm gặp mà rách hau chỗ. Cô bé bèn biểu cắtnghĩa xem tại sao vạy, hồi cô mạc nó chỉ rách một chỗ mà thôi. Người ta hỏi ra mới biết con dâu của Ramshadon mạc áo đó làm rách một chỗ nữa. Cô bé nhìn biết mấy đứa con, và những người bà con khác và cô kể tên ra. Một người đàn bà hỏi cô bé : "Cô có biết tôi là ai không ?" Cô bé trả lời rằng : "một ngày kia dì gần chết đói, đi lại xin tôi đồ ăn. Tôi cho dì một bát cơm, dì gọi tôi là mẹ dì, bây giờ dì có nhìn ra tôi được không ?" Ramshadon mới nói với cô bé, ông không thỉa thuận về sự cưới cô lại, vì ông đã 45 tuổi mà cô bé mới vừa 11 tuổi, nhưng cô bé nài nỉ nói rằng : "Sau khi cô đi thì mấy đứa con cũng quyết định như cổ". Cổ không muốn về nhà cha mẹ cổ, cổ kêu cha mẹ cổ bằng dì dượng, cha mẹ cổ ép buộc cổ về nhà. Nhưng một ít lâu sau Ramshadon băng lòng cưới cô. Krolbéria ở cách thành Calcuttacó mười dặm anh, cái gì thuộc về hộ tịch thì về quyền tài phán của Séaldah. Người ta mới nhờ ông Babu Taraknath Riswar, giám đốc văn phòng Séaldah, điều tra việc này cho chắc sự thật. Ngày 17 tháng Baisah mới rồi, Ramshadon cùng vài người ở Krolbéria đi qua Séaldah để ghi giấy tờ. Babu Taraknath thừa diệp đó bèn hỏi thăm sự tích. Ramshadon trả lời rằng : "Những diều mà các báo đăng ra đều đúng với sự thật, và những người khác ở chung một làng với ông đều chứng kiến mấy điều đó như ông vậy." Ông quả quyết rằng cô bé biết mặt hết những người trong làng mà kiếp trước nó có giao thiệp. Khi cô bé nghe Ramshadon không cưới cô thì cô thường khóc lóc. Rashadon và hương chức mỗi ngày đều được thư tứ phương của người ta gởi đến hỏi thăm cho biết sự rành rẽ ấy. Bởi mấy ổng chẳng thể trả lời riêng cho từng người, nên nhờ ông Taraknath kiếm dùm một phương cách để làm họ vừa lòng. Taraknath liền chiệu lãnh phần trách nhiệm cho thiên hạ biết đích xác câu chuyện luân hồi này để cho các nhà thông thái Âu Châu lấy đó làm vấn đền học hỏi. Tờ chứng nhận in ra và ký tên : Amabika Gupta. NHỚ CHUYỆN KIẾP TRƯỚC Trong thành Havane (Cuba) có hai vợ chồng ông Esphugas Cabrera sinh được một trai tên là Edourd năm nay được 4 tuổi. Thằng bé này sáng lám, và có tính nói nhiều. Chỗ ngụ của Esphugas vẫn luôn luôn ở đường San-José số 44 tại Havane. Nơi đó Torquato Esphugas hùm với một người khác làm chủ một nhà in : "Thạch bản". (Typo-lit-ho-graphi-que), cậu bé Edouard sinh tại nhà này. Cách ít lâu, cậu bé nói với mẹ nó là bà Cécile Cabrera như vầy : "Má, tôi có một cái hà khác hơn cái nhà này, hồi trước tôi ở trong một cái nhà sơn màu vàng tại đường Campanario số 69 ; tôi nhớ chắc chắn như vậy". Lúc đó bà Cabrera không cho mấy lời này là quan trọng, song vài bữa cậu bé lại nhắc lại một lần nữa, làm cho cha mẹ nó để ý đến. Hỏi nó có nhiều câu thì nó trả lời như sau : "Hồi tôi còn ở Campanario số 69, cha tôi tên Pierre Saco, mẹ tôi tên Amparo. Tôi nhớ tôi có hai người em nhỏ tên Mercédès và Jean, tôi thường chơi giỡn với chúng nó. Lần cuối cùng tôi ra khỏi nhà sơn màu vàng, ấy là ngày chủ nhật 28 Février 1903 và người mẹ khác của tôi khóc dữ lắm và từ ngày đó tôi đi xa nhà của tôi. Người mẹ khác đó da trắng, tóc đen, bả làm những nón. Lúc ấy tôi 13 tuổi và tôi mua thuốc của nhà thuốc người Mỹ, vì họ bán rẻ hơn. Tôi để xe máy tôi ở phòng phía dưới, khi tôi đi chơi về. Tôi không phải tên Edouard như bây giờ mà tên Pancho." Nghe lời tường thuật rành rẽ với một vẻ vùa chắc chắn vừa lạ lùng của một đứa trẻ 4 tuổi, cha mẹ Edouard không ngần ngại không biết tính sao. Lại một nỗi Edouard chưa hề đến nhà số 69 đường Campanario bao giờ. Sự cảm xúc vừa qua rồi thì hai vợ chồng Esphugas Cabrare mới suy tính coi trong những lời tường thuật của đứa nhỏ có sự thật hay không. Vài ngày sau cha mẹ Edouard dẫn nó đi chơi, sau khi qua một khúc quẹo thì tới trước nhà số 69 đường Capanario mà Edouard và cha mẹ của nó cũng không biết nữa. Nhưng khi đi tới thì Edouard nhận ra được liền. Nó la lên : "Đây này, cái nhà tôi ỏ hồi trước đó." Cha nó mới nói : "Nếu quả thật thì con hãy vào đó đi." Cậu bé chạy vào trong, đi lại thang leo lên lầu, vào trong mấy cái phòng dường như nó quen biết từ lâu rồi. Nhưng nó trở xuống ngay lập tức, buồn buồn vì nó không gặp được cha mẹ nó, mà gặp những người lạ mặt khác. Nó cũng không kiếm được đò chơi mà hồi trước nó chơi rất vui với hai em nó là Mercédès và Jean. Hai vợ chồng Esphugas Cabrera thấy cái kết quả cảu cuộc thử lần đầu tiên như thế, bèn tìm kiếm thêm nữa để cho đủ những bằng chứng xác thật. Nhờ có chính phủ giúp sức cái kết quả của cuộc điều tra như vầy : 1- Căn nhà số 69 đường Campanario vốn có Antonio Saco mướn ở đó cho đến sau tháng Février 1903 một ít lâu ; hiện giờ Antonio Saco không có mặt tại Havane. 2- Vợ của Saco là Amparo sinh ba đứa con trai tên là Mercédès, Jean và Pancho. 3- Trong tháng Février Pancho chết, sau đó gia quyến ông Saco thôi ở nhà đó. 4- Gần nhà đó có một cái tiệm thuốc mà cậu Edouard quả quyết rằng nó có đi tới đó. Nhiều tờ báo thần linh bên Mỹ Châu như Fiat Lux de Ponce (Porto-Rico), Constancia de Buenos Ayres Réformador de Rio de Janeiro, ...vv..., đều có đăng bài này năm 1907. CHUYỆN CON ÔNG HOÀNG EMILE DE VV Ngày 18-9-1874, ông hoàng Emile de VV ở Vervey, nước Thụy Sỹ (Suisse) có viết cho toàn soạn báo thần linh (Revue Spirite) bức thư này để gởi cho biết hiện tượng lạ lùng xảy ra cho đứa con trai thứ nhì của ông mới có 3 tuổi. "Cách vài tuần nay, đứa con trai tôi dang chơi và nói chuyện ở trong phòng làm việc của tôi, bỗng chút tôi nghe nó nói tới nước Anh, theo tôi dược biết thì không ai nói nước Anh cho nó nghe cả, tôi lắng nghe và tôi hỏi nó : "con biết nước Anh sao ?" Nó bèn trả lời : À biết chứ. Ấy là xứ tôi ở hồi đó, lâu lắm rồi. - Con còn nhỏ như bây giờ phải không ? - Không, tôi lớn hơn và có râu dài. - Mẹ con và cha con có ở bển không ? - Không, tôi có một người cha và một người mẹ khác. - Con làm gì ở đó ? - Tôi thích chơi lửa lắm, rồi có một lần kia tôi bị phỏng nặng quá, nên chết đi." ĐẦU THAI LÀM CON HAI LẦN I - Báo Banner of Light tại Boston ngày 15-10-1892 có đăng chuyện này vốn của ông Issaac G. Forster là một người có danh giá thuật lại. Mười hai năm trước tôi ở tại địa phận Effingham (Illinois) tôi có bỏ một đứa con gái tên Mari tuổi vừa cập kê. Năm sau tôi không ở Effingham nữa, tôi qua ngụ tại Dakota, vợ tôi sinh một gái đặt tên Nên-Ly (Nellie) năm nay được chín tuổi. Hồi nó biết nói cho đến bây giờ nó không chịu nó tên Nên-Ly, nó cứ nói tên Mari mà thôi. Mới đây tôi có việc nên trở về Effingham tôi có dẫn con Nên-Ly theo. Tới đó nó liền biết nhà cũ của tôi và nhiều người mà con Meri quen thuộc hồi trước. Con Nên-ly không thấy cảnh trường của con Meri học khi xưa lần nào mà nó tả hình dáng đúng hết. Trường này cách nhà cũ của tôi khoảng 1,5 km. Con Nên-Ly xin tôi dẫn nó lại trường đó ; đến nơi nó chạy lại chỗ chị nó ngồi hồi trước và nói rằng : "Chỗ này là chỗ của con đây". Chuyện này cũng có đăng vào báo "Globe Démocrat" ở Saint Louis ngày 20-11-1892 và báo Le Brooklyn Eagle, báo Le Milwankee Sentinel ngày 25-11-1892. II - Năm 1912 ông quan ba Florindo Batista có gởi bức thư này cho chủ bút báo Ultra bên Ý để đăng cho thiên hạ xem (1): Nhằm 8-1905 một đêm kia vợ tôi nằm trong phòng chưa ngủ, bỗng thấy đứa con gái nhỏ của tôi thác ba năm trước, hiện ra bộ dạng vui vẻ chạy lại nói với má nó như vầy "Má ơi ! con trở về đây...."Vợ tôi giật mình ngồi dậy thì con tôi đã biến mất. Lúc ấy bả có thai được ba tháng rồi. Đến khi tôi về vợ tôi hồi hộp, nói thuật chuyện lạ lùng đó cho tôi nghe. Trong trí tôi tưởng bả bị hôn mê nên nói như vậy, song tôi không muốn cãi cọ với bả làm gì. Tôi cũng bằng lòng nếu sau này bả sinh con gái thì lấy tên Bạch đặt cho đứa nhỏ (2). Lúc ấy tôi không biết dạo là gì, ai nói với tôi có sự luân hồi thì tôi cho là điên, vì tôi chắc một khi thác rồi thì không hề đầu thai lại bao giờ. Sáu tháng sau, nhằm tháng hai, năm 1906 vợ tôi sinh một đứa con gái giống y như đứa trước, con mắt cũng lớn và đen huyền, tóc cũng rậm và quăn. Tuy giống như vậy chứ trong lòng tôi cũng không tin, mà vợ tôi mừng lắm vì chắc điềm chiêm bao ứng nghiệm, con nhỏ trước đầu thai lại. Bây giờ đây con nhỏ được 6 tuổi rồi, nó mạnh dạn và cũng khôn ngoan như chị nó. Lúc trước khi con trước tôi còn sống, tôi có mướn một người đàn bà nước Thụy Sĩ (Suisse) tên Mari giữ nó. Người này nói ròng tiêngd Langsa và có một bài ca rất êm tai, hễ cất tiếng ca một lát thì con tôi ngủ liền. Khi nó thác rồi, cô Mari trở về xứ sở, hai vợ chồng tôi không cho trong nhà ca bài đó nữa, vì nghe đến thid động lòng nhớ con tôi vô hạn. Đã chín năm rồi, hai vợ chồng tôi đã quên bài ca đó rồi. Nhưng tuần rồi đây, hai vợ chồng tôi đang ở trong phòng viết, gần phòng con "Bạch" ngủ, bỗng nghe văng vẳng bài ca đó. Ban đầu hai vợ chồng tôi không biết là tiếng của con bé, đến khi lại gần phòng thì thấy nó ngồi trên giường ca rành rẽ tiếng Langsa. Bài ca này không ai dạy nó. Nó không biết tiếng Langsa đâu, nó chỉ nghe mấy chị nói có một hai tiếng mà thôi. Vợ tôi làm bộ như thường và hỏi rằng : "Con ca bài gì đó ?". Nó trả lời : "Con ca một bài ca Tây". Mẹ nó hỏi thêm : "Ai dạy con đó ?" Nó nói "Không ai dạy con hết. Con tự biết." Nói rồi nó ca tiếp hết bài ca đó coi bộ vui vẻ lắm và dường như trọn đời nó không có bài ca nào hay hơn bài đó nữa. Chư vị khách quan xem bài này tự ý muốn luận cách nào cũng được. Phần tôi, tôi nói : "CON NGƯỜI THÁC RỒI ĐẦU THAI LẠI" (1): Bài ca này dịch ra tiếng Langsa và đăng vào thần linh tạp chí năm 1912. (2): "Bạch" "Blanche" là tên đứa con gái đã thác. DÙNG PHÉP THU THẦN HỎI VIỆC QUÁ KHỨ VÀ CHUYỆN VỊ LAI Quên chuyện kiếp trước đó là một lẽ thường, song sau khi bi thu thần ngủ mê man rồi thì con người có thể thuật lại những chuyện đã làm lúc mấy năm về trước, lúc còn nhỏ và luôn cả kiếp đã qua rồi. Như chuyện dưới đây : SÁT PHU QUẢ BÁO Ông hoàng Adam de Wiszincwski nhà số 7 đường Débarcadère Pais có thuật cho tôi chuyện sau đây. Có vài người chứng kiến vụ này còn sống và chỉ chịu kể tên ra bằng mấy chữ đầu mà thôi. "Ông hoàng Galitzin, hầu tước B, công tước R, trong mùa hè năm 1862 hội hiệp với nhau tại suối Hombourg. Một buổi chiều kia sau khi đi dùng cơm trễ lắm, ba vị mới đi dạo trong hoa viên rạp hát Casino. Bỗng gặp một người đàn bà nghèo khổ nằm trên băng. Ba vị mới lại gần hỏi thăm cô đó, rồi mời cô lại nhà hàng dùng cơm tối. Cô ăn coi ngon lành lắm, xong rồi ông Hoàng Galitzin lại có ý thu thần cô. Ngài xèo bàn tay đưa qua đưa lại trên mình vài ba cái thì cô ngủ. Khi cô ngủ mê man rồi thì cô vụt phát nói tiếng Langsa rất giỏi làm cho mấy người có mặt tại đó hết sức ngạc nhiên, bởi ngày thường cô chỉ biết nói tiếng thổ ngữ A-lơ-măn song dở lắm. Cô thuật lại rằng cô đầu thai ngheồ khổ đền tội ác của cô đã làm trong kiếp trước hồi thế kỷ 18. Lâu đài cổ ở tại Bretagne gần mé biển, vì cô ngoại tình nên cô xô chồng cô từ trên gành té xuống biển chết tươi để cô được rảnh tay. Cô chỉ chỗ cô phạm tội một cách rành rẽ. Nhờ mấy lời chỉ điểm đó ông Hoàng Galitzin và hầu tước B đi đến Bretagne chia nhau điều tra hai phía, cái kết quả vẫn y như nhau. Ban đầu Ngài hỏi thăm nhiều người, không có ai cho được tin tức gì cả sau gặp mấy ông kỳ lão, mấy ổng nhớ chuyện có nghe cha mẹ thuật chuyện một tiểu thư đài các, nhan sắc mặn mà, xô chồng xuống biển chết đi. Những điều của người đàn bà khốn khổ ở Hombourg thuật lại, được nhìn nhận là đúng với sự thật. Ông Hoàng Galitzin trở lại Pháp đi ngang qua Hombourg có hỏi thăm quan cảnh sát về người đàn bà đó, thì quan cảnh sát trả lời cô ấy dốt đặc, chỉ biết nói tiếng thổ ngữ A-lơ-măn và sống nhờ vào cách đi lại với bọn lính. Trong cuốn "Những kiếp luân hồi" (Les vies successive), quan đại tá (Colonel) de Rochas có thuật những thí nghiệm của ngài với 19 người đồng tử. Có nhiều chuyện hay những vị nào muốn tham khảo về những việc huyền bí, nên xem cuốn đó. Tôi xin thuật chuyện đại tá thu thần một vị đồng tử hỏi chuyện vị lai cho các bạn nghe. Hồi năm 1900, đại tá hỏi thăm đồng tử những việc đồng tử sẽ làm từng ngày, từng giờ cho đến năm 1917, đồng tử trả lời vắn tắt về tương lai của mình. Đại tá hỏi đồng tử "Ngài còn giúp việc với tôi không ?". Đồng tử lấy làm lạ trả lời rằng : "Làm việc với ông hả ! Tôi có biết ông là ai đâu ?" - Ủa ngài không biết tôi sao, coi kìa ? - Ừ ông giống một cách kỳ lạ mà tôi có quen biết, mà tôi không biết ông thật. Ông là ai ? - Sao vậy ! Ngài không biết tôi là đại tá Rochas sao ? - Đồng tử vùng bật cười khan. Không mà. Ai cũng biết ông Rochas thác đã ba năm rồi. Câu trả lời đó làm cho ông Rochas sửng sốt đến nỗi ông phải gọi đồng tử tỉnh lại liền, bỏ luôn cuộc thí nghiệm. Quả thật ông Rochas thác nhằm tháng 10-1914. Tôi xin nói thêm rằng dùng phép thu thần hỏi chuyện quá khứ vị lai đều nguy hiểm đến tính mạng đồng tử. Phải biết phương pháp và kinh nghiệm hai ba chục năm mới nên thử, người mới học không nên thí nghiệm mà mất nhân mạng có ngày. Nói đến kiếp luân hồi thì có nhiều người lo sợ, vì kiếp này đau khổ đã nhiều, e cho kiếp sau cũng không tránh được tai nạn. Luật trời rất công bằng, nếu ta không gieo trồng giống xấu thì bao giờ gặt những trái đèo. Không những chỉ riêng có con người mới Luân hồi mà thôi, vạn vật đều phải chịu luật thay hình đổi dạng. Các ngôi tinh tú đang vận chuyển trên không trung bây giờ đây đến một ngày kia sẽ tan ra nguyên khí rồi đúng ngày giờ thì sinh hóa lại như cũ. Cũng như hết ngày thì đến đêm, hết đêm trở lại ngày. Nước sông biển bị nắng rút, thành hơi bay lên hóa mây. Mây gặp luồng gió lạnh đặc lại rới xuống đất thành mưa, nước mưa chảy xống sông biển rồi hóa ra hơi như trước. Trong trời đất không có vật gì là bền bỉ cả.
  4. CHƯƠNG THỨ NHÌ NHỮNG QUAN NIỆM VỀ KIẾP LUÂN HỒI Không phải mỗi người trên địa cần này đều tin có kiếp luân hồi. Mà những dân tộc tin rằng linh hồn bất diệt và sau khi chết còn trở lại thế gian cũng có những quan niệm khác nhau. Tôi xin kể mấy cái đại khái ra sau đây : I.-Phái không tin có luân hồi, mà tin có tâm linh của đứa nhỏ sinh ra một lượt với nó. Có một hạng người tưởng tâm linh của đứa nhỏ sinh ra một lượt với nó, bởi họ thấy đứa nhỏ càng ngày càng lớn thì tâm linh của nó càng ngày càng mở mang. Tới chừng già rồi thì tâm linh dường như lu mờ. Người ta chắc rằng cái óc sinh ra tâm linh và chết rồi tâm linh cũng tan mất. Thuộc về hạng người này là mấy vị bác sĩ, các nhà khoa học, các nhà thông thái không tin có linh hồn. Những bằng chứng của phái thần linh học đem ra nói về linh hồn bất diệt không đủ sức cảm hóa các ngài ấy được. Các ngài vẫn còn hoài nghi, vẫn còn tìm kiếm mãi mà điều này còn tốt hơn là mê tín dị đoan. II.-Phái Thiên Chúa. Phái Thiên Chúa giáo tin rằng : lúc đứa nhỏ lọt lòng mẹ thì Đức Chúa Trời sinh cho nó một cái linh hồn. Đứa nhỏ này tùy theo sự hành động của nó ở Trần, sau khi chết rồi thì linh hồn nó được về thiên đường hưởng phước đời đời hay phải sa Địa ngục chịu hình phạt mãi mãi chứ không tin có luân hồi. Đấng Chirt có dạy sự luân hồi hay không? Tôi tưởng "Có" nhưng ngài không nói trắng ra. Những băng cớ đó ở trong mấy câu này : "Hỡi các nhà tiên tri và luật phép có đoán trước tới Jean vàg nếu các ngươi muốn hiểu Jean thì Jean là Elie, đấng tiên tri phải đến đó." (Saint Mathieu XI, 13-14) Car tous les prophètes et la loi ont prophétisé jusqu'à Jean. Et si vous voulez le comprendre, il ét cet Elie qui devait venir. (Saint Mathieu XI, 13-14) III.-jésus tới địa phận Césarée de Phillippe. Mới hỏi môn đồ rằng : " Họ nói thầy là ai? Thầy đây là con của người." Các môn đồ trả lời : "Mấy người này thì nói thầy là Jean Baptiste, mấy người kia thì nói thầy là Jérémie hay là một đấng tiên tri nào đó. " Jésus étant arrivé dans le territoire de Césarée de Philippe, demanda à ses disciples : " qui dit on que je suis, moi, le Fils de'homme. " Ils répondirent : "les uns disent que tu es Jean Baptiste, lé autres Elie, les autres Jérémie ou l'un dé prophètes." (Saint Mathieu XVI, 13-14) Các môn đồ mới hỏi Ngài câu này : "Tại sao mấy thần thông giáo nói Elie phải đến trước ?" Ngài bèn trả lời rằng : "Quả thật Elie phải đến trước để sắp đặt mọi việc. Mà thầy nói với các con, Elie đã đến rồi mà họ không biết và họ đối đãi Elie theo ý muốn của họ. Nữa đây, cũng vậy, con của con người sẽ chịu đau khổ vì họ." Các môn đò đều hiểu rằng Ngài muốn nói về Jean Baptiste. Les disciples lui firent cette question : "Pour quoi donc les scribes disent-ils qu'Elie doit venir premièrement." Il répondit : "Il est vrai qu'Elie doit venir et rétablir toutes choses. Mais je vous dis qu'Elie est déjà venu, qu'ils ne l'ont pas reconnu et qu'ils l'ont traité comme ils l'ont voulu... De même, le Fils de l'homme souffrira de leur part; lé disciples comprirent alors qu'il leur parlait de Jean Baptiste." (Saint Mathieu XVII. 13-14) VI - Jésus thấy một người mù từ trong bụng mẹ đi ngang qua. Các môn đồ hỏi Ngài câu này : "Thưa thầy, ai làm tội lỗi, người đó hay là cha mẹ ông ta, cho nên sinh ông ra thì đã mang tật mù." Jésus vit en passant un homme aveugle de naissance. Sesdisciples lui firent cette question : "Rabbi, qui a péché, cet homme ou ses parents pour qu'il soit né aveugle." (Saint Jean IX, 1) V - Kẻ nào đắc thắng thì ta sẽ cho nó làm một cây trụ ở trong đền thờ Đức Chúa Trời của ta và nó sẽ không có ra khỏi chỗ đó nữa. (Apocalyspe III, 12) Celui qui vaincra, je ferai de lui une colonne dans le tem ple de mon Dieu et il n'en sortira plus. (Apocalyspe III, 12) Theo ý tôi thì : a) Đấng Christ có dạy luân hồi. Bằng chứng đó ở trong ba câu này : 1 - Nếu các người muốn hiểu Jean thì Jean là Elie, đấng tiên tri phải đến đó. (Saint Mathieu XI, 13-14) 2 - Quả thật Elie phải đến trước để sắp đặt mọi việc. Mà thầy nói với các con, Elie đã đến rồi mà họ không biết và họ đối đãi với Elie như ý họ muốn... Các môn đồ hiểu rằng Ngài muốn nói về Jean Baptiste. (Saint Mathieu XVII, 10-13) 3 - Kẻ nào đắc thắng thì ta sẽ cho nó làm một cây trụ ở trong đền thờ đức Chúa Trời của ta và nó sẽ không ra khỏi chỗ đó nữa. (Apocalyspe III, 12) Trong hai câu đầu rõ ràng ngài nói Elie đầu thai lại làm Jean Baptiste. Các môn đồ cũng hiểu ý Ngài muốn nói về Jean Baptiste vậy. Mấy chữ "đến trước" và "đến rồi" nghĩa là đầu thai lại. Elie chết đã lâu mà bây giờ Ngài phải đến trước và Ngài đã đến rồi, nếu không phải có nghĩa là Elie luân hồi lại, thì phải giải thích làm sao bây giờ. Còn câu thứ ba : kẻ nào đắc thắng thì không có ra khỏi đền thờ có phải là không đi đầu thai nữa chăng ? :P Thuở đó thiên hạ đều tin có kiếp luân hồi. Bởi thế, khi đức Jésus hỏi các môn đồ : "Họ nói thầy là ai! " Thì các môn đò trả lời : "Mấy người này thì nói thầy là Jean Baptiste, mấy người kia thì nói thầy là Elie, và mấy người khác thì nói thầy là Jérémie hay đấng tiên tri nào đó." Jean Baptiste mới bị xử trảm cách đó ít lâu, còn Elie. Jérémie và các đấng tiên tri khác chết đã mấy đời rồi. Người nào nói Jésus là Jean Baptiste thì là tin rằng đức Elie, Jérémie hay là một vị tiên tri nào đời trước, bây giờ đầu thai lại làm Jésus. Đức Jésus nghe các môn đò trả lời như vậy cubgx không trách mắng. Phải chi đó là câu chuyện dị đoan phi lý, như đều của các Thầy Thông giáo đã làm thì Ngài đã sửa dạy đệ tử rồi. c) Các vị môn đồ cũng tin có luân hồi quả báo. Cũng như dân chúng, các vị môn đò vẫn tin có luân hồi quả báo. Không vậy đâu có hỏi đức Jésus câu này : "Bạch thầy, ai làm tội ? người đó hay là cha mẹ người đó ? Cho nên ông ta sinh ra thì đã mang tật rồi". Người đó sinh ra đã mù thì ông ta làm tội kiếp này sao được ? Mà nói ông ta làm tội hồi còn ở trong bào thai càng vô lý hơn ; có chăng là ông là tội ở kiếp trước, nên kiếp này mới sinh ra thì đã mang tật rồi. Nhưng còn câu này nói rõ hơn nữa. Chúa Jésus nói với Ni cô đem như vầy : "Thật vậy, ta nói với ngươi, nếu con người không sinh lại nữa thì không hề thấy cõi trời." Ni cô đem thưa rằng : "Làm sao một người già rồi mà sinh lại được, làm thế nào chui vô bụng mẹ rồi sinh ra lần thứ nhì." Chúa Jésus đáp rằng : "Thật vậy, ta nói với ngươi, nếu con người không sinh bằng nước và tinh thần thì không khi nào về cõi trời được. Cái gì của xác thịt thì sinh ra là xác thịt, cái gì của tinh thần thì sinh ra là tinh thần. Ngươii nghe ta nói chớ lấy làm lạ. Các ngươi phải sinh lại nữa. Gió muốn thổi chỗ nào thì thổi, ngươi nghe tiếng nó mà không biết nó ở đâu đến và đi đâu. Người nào của tinh thần sinh ra cũng thế." Khi Chúa thấy Ni cô đem không hiểu gì hết, Chúa bèn phán rằng : "Ngươi là người giáo sĩ dân Ít-ra-en mà ngươi không hiểu mấy việc đó sao ?" (Saint Jean III, 3-8) Nous lisons dans I'évangile de jean : "Il y avait un homme d'entre les Pharisiens, nommé Nicodème, l'un des principaux juift. Cet homme vint de nuit le trouver et lui dit : "Maitre, nous savons que tu es un Docteur venu de la part de Dieu, carsonne ne saurait faire les miracles que tu fais, si Dien n'est avec lui". Jésus lui répondit : "Comment un homme peut-il naitre quand il est vieux ? Peut-il rentrer dans le ventre de sa mère et naitre une seconde fois ?" Jésus répondit : "En vérité, je tedis que si un homme nr nait d'esprit, il ne peut entrer dans le royaume de Dieu. Ce qui est né de la chair, ce qui est né de l'esprist est esprit." Ne t'étonne point de ce que je t'ai dit : "il faut que vous naissiez de nouveau. Le vent souffle où il veut, et tu en en-tend le bruit, mais tu ne sais ni d'où il vient ni où il va. Il en est de même de tout homme qui est né de l'esprit. Jésus ajoute ces paroles : "Tu es maitre en Israel et tu ignores cé choses ?" (Saint Jean III, 3-8) SINH LẠI NỮA Nghĩa là Luân Hồi và cũng nghĩa là người được diểm đạo (Intié) thì gọi là người sinh lần thứ hai (les 2 fois nés). Sinh bằng nước và Tinh Thần là nói bóng dáng về sự diểm đạo lần thứ nhất (passer la lère Grande Initiation.) Bởi Ni cô đem không học khoa bí truyền nên không hiểu. Chúa còn nói câu này mà xưa nay người giữ đạo ít có để ý đến : "Hãy được trọn lành như cha của các ngươi ở trên Trời trọn lành vậy." (Saint Mathieu V, 48) "Soyez dono parfaits comme votre Père qui est dans les cieux est parfait." (Saint Mathieu V, 48) Con người không thể nào trọn lành trong một kiếp đâu vì hễ trọn lành như đức thượng đế thì bằng đức thượng đế rồi. Sự thật vẫn thế, song mỗi người có quyền tín ngưỡng tự do, nhưng đối với những vị không tin có kiếp luân hồi, tôi xin hiến câu chuyện thương tâm sau đây xảy ra tại nước Anh. "Một tội nhân bị đày khổ sai chung thân, mặc dù anh kêu oan vô tội, anh cũng không tránh được kiếp lao tù. Hai chục năm sau, chính thủ phạm trước khi tắt hơi trên giường bệnh mới thú thật với nhà chức trách, tội ác nó đã làm. Quan tòa mới biết được tội nhân trước kia bị hàm oan bèn ra lệnh tha bổng anh ta. Nhưng mà 20 năm trong ngục thất, xác thân anh ta trở nên tiều tụy chỉ còn là một mảnh hình hài khô héo, tâm thần tán loạn. Một vị mục sư đạo tin lành tấm lòng từ thiện thường hay gần gũi với những tù nhân mang tội để dạy dỗ, gặp anh mới an ủi và khuyên nhủ anh vô đạo Thiên Chúa. Nhưng Ngài không cảm hóa được người này, bèn vịn vai ảnh mà nói : "Thôi, anh hãy bền chí, mạnh bạo lên và hãy hết lòng tin nơi Thiên Ý cùng là lời hứa của đấng Christ." Vừa nghe dứt câu này, anh ta vùng nhảy ngược lên, cặp mắt lộ ra vẻ căm tức, hồi tưởng 20 năm bị hành tội oan ức nơi chốn lao tù, anh bèn hỏi mục sư câu này : "Ngài dám hỏi rằng ý trời đem bỏ tôi vào ngục chăng ? Nếu đức chúa trời công bằng chính trực và từ bi bác ái sao Ngài không cứu tôi. Tôi có làm tội tình gì mà đáng bị hình phạt như vậy ? Tôi ngay thật, tôi thương gia quyến tôi, tôi làm việc để nuôi vợ và mấy đứa con tôi, mà người ta bắt tôi ném vào địa ngục vì một tội ác mà tôi không phạm. Vậy thì tại ý trời muốn cho vợ con tôi chết đói đó ? Chúng nó bây giờ ở đâu ? Tôi không được tin tức chúng nó đã lâu quá rồi. Chúng nó nghèo khổ, hay đã chết, hay còn tồi tệ hơn nữa. Này ông hãy xem lại tôi đây. Ngày nay tôi thành một đứa vô dụng, một phế nhân, bị ruồng bỏ trên đống phân của xã hội văn minh loài người như ông đó. Rồi ông còn nói với tôi, mấy mấy điều đó là tại ý muốn của đức Chúa Trời nữa. Ông hãy đi đi, tôi không cần đức Chúa Trời của ông đâu." Ông mục sư bỏ đi một nước, trong lòng phiền muộn, vì không còn lời lẽ nào biện luận rằng Đức Chúa Trời Ngài rất nhân từ." Không riêng gì nước Anh, những chuyện hàm oan như thế nước nào cũng có thiếu gì, hạng nhất là ở xứ mình đây. Những vị tin rằng một lần đứa nhỏ sinh ra thì đức chúa trời sinh cho nó một linh hồn, hãy suy nghĩ về câu chyện ông mục sư trên đây và giải quyết mấy vấn đề sau đây. 1 - SỰ SAI BIỆT GIỮ CÁC DÂN TỘC Cũng thời mặt mũi tay chân, đầu óc như nhau mà giống da trắng lại văn minh và khéo léo hơn giống da vàng, da đen và da đỏ ; từ tánh tình, phong tục, tôn giáo cho tới kỹ nghệ, văn chương và mỹ thuật cũng đều khác hẳn nhau. Tại sao thế ??? Có người vào đài ra các, trọn đời phú quý phong lưu lại cũng có kẻ mãn kiếp, da cháy mày nám, không thoát khỏi nhà tranh vách đất. 2 - SỰ HỖN LOẠN Ở CÕI TRẦN Nhìn lại cõi trần thì thấy đầy sự hỗn loạn. Đạo đức suy đồi, cang thường đảo ngược mạnh được yếu thua, khôn sống bống chết. Người gian xảo giàu sang được kính trọng, kẻ chân thật nghèo khổ bị khinh khi. Đồng tiền vẽ mặt người, đổi trắng thay đen trong chớp mắt. Tham lợi cầu danh nung lò lửa dục, quạt ngọn gió tham, vùi lấy thiên nhân làm điều tà vạy. Người giết người, thú hại thú, cắn xé lẫn nhau. Sự thật như thế, sao lại nói trời đất vô tư ? 3 - AI GÂY CHIẾN TRANH GIẶC GIÃ Tại lòng tham vọng của con người hay là tại lòng trời ? dưới trận mưa bom, muôn ngàn sinh linh tan xương nát thịt, nhà của tiêu điều, giang sơn nghiêng ngả. Chúng sinh làm tội tình gì mà hành phạt như thế ? Nếu như tin có "Ông Trời" sinh cho mỗi đứa con nít một cái linh hồn, thì phải nghĩ đến hai điều này, hoặc là ông trời bất công và hung ác, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn phạt ai thì phạt một cách vô lối, hoặc là ông trời bất lực, sinh ra thế gian đó rồi bỏ đó mặc tình chúng sinh xô xát nhau, tàn sát nhau trối kệ, Ngài không đoái hoài đến nữa, vì ngài không đủ sức dạy dỗ và trừng trị chúng nó. Điều này có đúng với chân lý hay không ? Quả là không. Chút nữa tôi sẽ giải rõ. ĐẠO PHẬT Tôi chẳng rõ Đức Phật dạy về Luân Hồi thế nào, nếu lấy theo kinh sách mà nói thì có nhiều chỗ trái ngược nhau. Như trong cuốn kinh Sa-mi-dút-ta Ni-ca-da (Samyutta Nikâya) có thuật chuyện thầy đạo sĩ du phương Hoa gắt ta (Vacchagâtta) đến hỏi phật như vầy : "Bạch Phật vậy chứ có bản ngã hay không ?" Phật làm thinh. Đạo sĩ bèn hỏi nữa : "Bạch phật tại sao vậy ? không có bản ngã hay sao ?". Phật cũng không đáp. Đạo sĩ bèn đứng dậy từ giã ra đi. Bản ngã tức là linh hồn (xin xem cuốn luân lý và đạo phật của tôi). Còn nhiều cuốn sách khác lại nói linh hồn sau khi thác bị quỉ sứ dẫn xuống vua Diêm Vương coi xử. Trong hai ba chục muôn người chỉ có một vài người được gọi là thiện nhân, còn bao nhiêu bị đày vào địa ngục để hành tội. Rồi sau đi đầu thai có khi làm người lại, khi làm thú, hoặc làm heo dê, hoặc làm trâu chó, ...vv... Phần riêng tôi, tôi không tin được điều này. Trừ ra bọn bàn môn tà đạo, thì người thế làm tội là tại không thông luật trời. Mà xét lại chưa có đạo nào đem luật trời dạy rành rẽ cho chúng sinh biết làm sao gọi là tội, làm sao gọi là phước. Ví dụ tội nhân hỏi diêm vương câu này : "Tôi sinh ra ở đời, tôi phải làm ăn, tôi phải bương chải cách nào để có một địa vị cao quý ở xã hội để nuôi gia đình tôi, không làm vậy thì tôi bị khinh rẻ ; tôi bị nghèo khổ, vợ con tôi sẽ bị đói rách. Không ai chỉ cho tôi biết luật trời thế nào để tôi đừng phạm thì làm sao ngài bắt tội tôi ? Đứng vào địa vị tôi, ngài có làm như vậy không ?" Thì vua diêm vương sẽ trả lời bằng cách nào đây ? Con người làm tội tại cõi trần thì phải đầu thai lại cõi trần, để đền tội gọi là trả quả. Nó cho đúng lý, không có gì là tội và cũng không có gì gọi là phước cả. Những điều gọi là "tội-phước" là những việc làm thuận với lòng Trời. Hễ thuận với lòng trời thì cái kết quả đẹp, gọi là phước. Nghịch với lòng trời thì cái kết quả xấu gọi là tội (xin xem cuốn Nhân-Quả). Cón sự đầu thai làm chó, heo, sự đó không hề có. Những thú vật một giống với nhau thì có một hồn chung gọi là hồn khóm (âme groupe). Còn mỗi người là một hồn riêng biệt, không khi nào linh hồn trở lại nhập vào hồn khóm để làm con thú như xưa được (chút nữa tôi sẽ giải thích rõ). Nhưng có một vài trường hợp đặc biệt, hồn người nhập vào mình thú do những nguyên nhân sau đây : NGUYÊN NHÂN THỨ I : Có người lúc sinh tiền trọn đời nuôi dưỡng một tình dục hết sức xấu xa, nói cho đúng thì tính đó thuộc về loài thú, cho nên cái vía của anh ta có những đặc điểm của cái vía con thú nào mà tình dục giống như anh ta, nghĩa là cái vía của anh giống hình con thú đó. Khi anh thác rồi lên cõi Trung giới, hay là lúc anh ta trở xuống đi đầu thai, cái vía anh bị rứt vào mình con thú nào hợp với anh bởi tại hai luồng từ diễn rung động một cách với nhau. Anh bị cột dính vào minhd con thú mà không làm chủ nó được vì nó còn hồn của nó. Hồn nó sai khiến nó như thường. Anh cũng không mất tính cách con người, anh ta ở cõi trung giới tỉnh táo như thường, ngặt một nỗi không thể dùng xác con thú để hiện ra cõi trần vì cơ quan con thú đâu có giống cơ quan con người. Anh bị hình phạt như thế không khác nào bị ở tù. Chừng con thú chết rồi anh thoát ra ngoài rồi đi đầu thai làm người như thường. Trường hợp này vẫn ít có lắm, không nên tưởng rằng người ta thường gặp những chuyện như thế đâu. Thường thường người ta dâm loạn quá, cái vía bị nhiễm thú tính, khi đi đầu thai thì đứa nhỏ sinh ra mình người đầu thú, như đầu chó, đầu heo, ...vv... Mấy cái quái thai như vậy là kết quả của tính thú dục. Ai là người có bệnh đó, nên mau ăn năn hối cải sớm chừng nào tốt chừng đó. NGUYÊN NHÂN THỨ II : Xin nhắc lại, thường thường hễ sau khi con người chết, cái phách, cái vía xuất ra khỏi xác : con người mê muội, trong một lúc không còn biết gì nữa, tới chừng cái phách lìa cái vía rớt ra ngoài thì con người mới tỉnh lại thấy mình ở chỗ khác, cõi cõi này tức là cõi trung giới. Nhưng có vài người không biết cái chết là sự thay hình đổi dạng, cho nên ham sống và sợ chết quá lẽ, cho đến khi tắt hơi mà còn đắm đuối cõi trần và cứ tưởng mình còn sống mãi. Cái phách và cái vía ra khỏi xác, song cái phách và cái vía còn dính với nhau, không lìa khỏi được. Lúc này con người nhập vào cái xác cũ không được mà lên cõi trung giới cũng không được vì bị cái phách cản trở. Con người bay phiêu phiêu phưởng phưởng trên không, chẳng khác nào ở trong đám sương mù, thấy những sự kỳ dị ở bồn cảnh tinh khí ở cõi trầnnên hóa ra hãi hùng chạy trốn đầu này đầu kia. Muốn nhập vào xác đồng cốt thì bọn cô bà giữ đồng cốt xua đuổi đi, muốn mượn xác kẻ khác cũng chẳng được vì xác nào có linh hồn nấy, ai cho. Cực chẳng đã quá có người nhập vòa mình thú vật, họ ráng xua đuổi hồn con thú ra ngoài, họ làm chủ con thú một ít lâu và nhờ cặp mắt nó mà họ xem lại cõi trần. Nếu con thú bị đánh đập thì họ thấy họ cũng đau đớn vậy. Lúc người ta bắt con thú làm thịt thì họ cũng thấy họ bị thọc huyết, họ dẫy dụa rên la thảm thiết. Chừng con thú chết rồi họ cũng thong thả như trước vậy. Thật là tội nghiệp cho mấy người đó. Nếu họ quyết ý, tức thì cái phách rớt ra, họ qua cõi trung giới ngay lập tức, lưỡng lự là phải nhập vào mình thú vật. Tại họ không biết, mà còn có nhiều đệ tử Chân tiên và nhiều hồn có nhiều lòng từ thiện muốn giúp họ, đến giải thích cho họ nghe mà họ vẫn còn hoài nghi. Tới một ngày kia cái phách tan rã lần lần, họ mới tỉnh ngộ. Có người hàng heo thuật lại rằng lúc họ cầm dao thọc huyết thì nghe con heo nói : "Tội nghiệp tôi, đừng giết tôi, tôi là con người." Họ nghe vậy hoảng hồn bỏ con heo đó, đâm đầu mà chạy. Chuyện này có thật chứ không phải chuyện bịa đặt. Song nên biết rằng con heo không không nói ra tiếng người được, mà lúc ấy hồn người ở trong mình con heo, nói bằng tư tưởng. Tư tưởng vô trí người hàng heo,làm cho mấy lời năn nỉ kia. Những con thú thường bị ám ảnh là : cừu, heo, bò ; còn chó mèo hay khỉ thì ít lắm. Những trường hợp này cũng không phải là con người đầu thai làm thú vật. Tại con người khờ dại muốn sống mãi ở cõi trần nên xảy ra mấy chuyện không hay đó. Chừng thông hiểu luật trời rồi không còn tái phạm mấy lỗi đó nữa đâu. NGUYÊN NHÂN THỨ III: Nguyên nhân thứ ba là sự tối độc ác với con thú nào đó, quả báo sẽ buộc người hung ác vào xác con thú đó để chịu đâu khổ chnug với nó. Ba trường hợp trên đây, toàn là những chuyện bất thường ; đừng nên kết luận rằng hễ con người làm ác ở cõi trần thì kiếp sau đầu thai làm thú vật. Những quan niệm đại khái về kiếp luân hồi thì như thế, tôi tưởng nói bao nhiêu đó đã đủ, suy cho rộng thì còn hiểu nhiều nữa. Đạo phật dạy luân hồi, song bên Nam Tông nói rằng : "Duy có nhân quả truyền lại đời sau mà thôi, chứ linh hồn tiêu mất." Nói như thế rất lầm. Hồi Phật bỏ xác rồi, quả báo của phật hay là linh hồn của phật nhập vào Đại Niết Bàn ? Phật dạy rằng : "Khi con người tu hành đúng công quả thì biết được mấy kiếp trước mình thế nào." Phật có ví dụ một chuyện như sau đây : Có một người kia từ giã làng mình đang ở đi đến làng khác, rồi bỏ làng khác đó, đi lại làng khác nữa. Đến khi trở về làng cũ người đó nói như vầy : "Thiệt là tôi đi từ làng này đến làng kia. Tới đâu tôi cũng có cách ngồi đứng riêng. Rồi chính tôi trở về làng cũ đây." Người chân tu kia đắc đạo rồi, biết hết các kiếp trước của mình cũng như người đi du lịch nói trên vậy. Người chân tu nhớ rằng : "Lúc tôi ở chỗ nào, tôi tên gì, tôi sinh trong gia quyến nào, tôi dùng thực vật nào, tôi chịu vui vẻ và đau đớn ra làm sao. Rồi tôi bỏ nơi chốn đó sinh vào chỗ khác, cách ăn ở của tôi khác nữa. Bây giờ tôi đầu thai ở chốn này đây." Như thế làm sao nói quả báo con người truyền lại đời sau ? ĐẠO HỒI HỒI Trong cuốn king Cô-Răn là cuốn kinh thánh đạo Hồi Hồi và cuốn Mesnavi có mấy câu sau đây : I - Tại sao các ngươi không tin có đức thượng đế ? Các ngươi thác rồi mà ngài cho các ngươi sống. Ngài tắt ngọn đèn bổn mạng của các ngươi rồi Ngài đốt lại. Sau các ngươi sẽ trở về với ngài. Coran, II, 28 Pourquoi ne croyez-vous pas en Dieu ? Vous étiez mots, il vous a donné la vie, il éteindra vos jours et il en rallumera le flambeau. Vous retournerez à Lui. Coran II. 28 (Traduction de Sale. Collection orientale de Triibner 1884) II - Đức thượng đế sinh ra muôn loài và cho đầu thai đi, đầu thai lại cho dến chừng nào tất cả đều trở về với ngài. (Coran XXX, 10) Dieu génère les êtres et les renvoie à maintes reprises jú-qu'à ce qu'ils retournent à Lui. (Coran XXX, 10) III - Linh hồn trước hết ở trong loài kim thạch, rồi mới qua loài thảo mộc. Linh hồn ở trong loài thảo mộc không biết mấy thế kỷ, mãi lo tranh đấu mà quên lúc mình còn ở trong loài kim thạch. Khi linh hồn qua ở các loài cầm thú thì không còn nhớ tới lúc ở loài thảo mộc nữa. Rồi đấng tạo hóa mới cho linh hồn đầu thai qua loài người. Linh hồn bắt đầu từ loài này đi lên loài kia cho đến khi nào trở thành một đấng khôn ngoan. (Le Mesnavi) L'âme vint d'abord dans le règne minéral et passa de là au règne végétal. Elle passa des siècles dans le règne végétal, oubliant, dans ses luttes, le règne minéral. Quand elle arriva au règne animal, elle perdit le souvenir de l'état végétal. Puis elle fut tirée par le créateur que vous connaissez, du règne animal pour passer au règne humain. Elle monta ainsi d'un règne à l'autre jusqu'à ce qu'elle devint une entité intelligente. (Le Mesnavi) IV - Tôi ở trong lài kim thạch thác rồi thành ra thảo mộc. Tôi ở trong thảo mộc thác rồi rồi thành ra cầm thú. Tôi ở trong cầm thú thác rồi thành ra con người. Vậy thì tôi có sợ gì đâu ! Khi nào mà sự chết làn cho tôi kém sút bao giờ ? Lần sau tôi thoát khỏi kiếp người để được mọc cách thiên thần nữa. Song tôi phải tìm cách ra khỏi hàng thiên thần, vì sắp tới đây trừ ra Ngài, thì tất cả đều tiêu diệt. Vậy thì tôi sẽ cất cánh bay bao hơn thiên thần nữa. Lúc ấy người không thể tưởng tượng tôi ra thế nào được. Tôi sẽ thành hư không. (Le Mesnavi) Je mourus dans le minéral et devins plante. Je mourus dans la plante et repairus dans un animal. Je mourus dans l'animal et devint un homme. Pourquoi donc craindrais-je ? Quand la mort m'a-t-elle diminué ? La prochaine fois je mourrai à l'état humain pour pouvoir avoir les ailes de l'ange. Je devrai aussi chercher à sortir de l'état angélique, cả tout péria saus sa Face. Alors je prendrai mon vol et m'élèverai au-dessus dé anges. Je deviendrai ce que l'imagination ne saurait concevoir. Que je devienne donc rien rien......... (Le Mesnavi) ĐẠO NHO Đức khổng tử tùy theo đời mà dạy đạo. Tuy ngài không chịu dạy chuyện quỷ thần, song Ngài cũng nói rằng : "Trên trời có đức thượng đế làm chủ vạn vật." Như thế không phải là Ngài không biết cơ trời thế nào.
  5. CON NGƯỜI LÀ AI ? XUỒNG CÕI TRẦN LÀM CHI ? ● QUYỂN THỨ SẮU L U Â N - H Ồ I CHƯƠNG THỨ NHẤT NGUYÊN-NHÂN CỦA SỰ LUÂN-HỒI Ngày nào bài học dưới trần chưa hết, quả báo đã gây ra dù xấu, dù tốt trả chưa sạch thì ngày đó con người phải vâng theo Thiên-Ý trở lại xuống phàm trần đầu thai nữa. - Con người còn mến cõi trần không ? - Có lẽ, bởi con người chưa chọn sống trọn lành thì còn muốn trở xuống thế gian, để tìm những điều thích ý, nó giúp con người mở các năng lực để được tiến hóa cho mau. Vì mấy lẽ trên đay nên người ta cũng gọi Trishan "Soild de vivre" lòng tham sống là nguyên nhân của sự Luân Hồi. Từ cõi Thiên đường mà xuống cõi trần thì không khác nào đang ở giữ đồng trống lúc đúng ngọ mà chui vào hang sâu thăm thẳm tối tăm, mù mịt. Vui gì đó mà phải ham ? Nhưng xuống cõi trần bị giác quan gạt gẫm thì ham mê mùi tục không lo phải bổn huờn nguyên. BA NGUYÊN ĐỘNG-LỰC ĐỊNH SỐ MẠNG CON NGƯỜI Một linh hồn thường : lúc đi đầu thai, chưa có quyền chọn lựa một xác-thân, chỗ nó sanh ra do ảnh hưởng của ba nguyên động lực này hiệp đồng. - Một là : Luật Tiến Hóa - Hai là : Luật Quả Báo - Ba là : Dây oan trái của con người gây ra từ mấy kiếo trước. Luật Tấn-Hóa muốn cho con người sanh vào nơi nào có đủ điều kiện giúp con người mở mang những tánh tốt cần ích. Song luật này bị quả báo sủa đổi. Nếu kiếp trước con người hành động nghịch với lòng Trời thì tự nhiên kiếp này không gặp được những diệp may. Trái lại, con người làm phước nhiều thì sẽ hưởng được những quả tốt đã gây ra, bởi vì con người gieo giống gì thì gặp giống nấy. Còn cái nguyên động lực thứ ba là dây oan trái, hoặc tình yêu thương hoặc sự thù hận của con người gây ra với kẻ khác từ mấy kiếp trước, nó có thể sửa đổi hai cái kia. Bởi thế, Trong một gia đình, cũng thời là con, mà đúa này được cha mẹ nâng niu, đúa kia bị cha mẹ ruồng bỏ, đứa thì tiện tặn, đứa thì xa xỉ, đứa thì hiếu thuận, đứa thì nghỗ nghịch. Cho hay làm cha mẹ không thể chọn lựa một linh hồn nào đàu thai làm con mình, song ăn ở nhân từ đức hạnh thì thường sanh ra con hiền, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt mà thôi. SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA BA HỘT LƯU TÁNH NGUYÊN TỬ Xin nhắc lại sau khi thác, con người bỏ cõi Trần qua cõi Trung giới rồi mới về Thiên-Đường(1). Trong lúc ở cõi vô hình hay cõi Thượng Thiên thì hột Lưu tánh nguyên tử của cái Xác, hột Lưu tánh nguyên-tử của cái Vía, hột Lưu tánh nguyên tử của cái Trí xỏ xâu với nhau ở trong Thượng Trí nằm im lìm. Chừng linh hồn đi đầu-thai thì ba hột Lưu-tánh nguyên-tử bắt đầu hoạt động lại như trước. hột Lưu tánh nguyên-tử của cái Trí và hột Lưu-tánh nguyên-tử của cái Vía rung động và rút những chất thượng thanh khí va thanh khí hợp với chúng nó để làm cái Trí và cái Vía của đứa nhỏ. Còn hột Lưu tánh của Xác thịt thì chờ dịp nhập nhập vô mình người mẹ đặng làm cho đậu thai. (1): Xin xem quyển cái Trí chỗ ba hạt lưu tánh nguyên tử ĐIỀU-KIỆN CỦA SỰ ĐẬU THAI Muốn cho đậu thai phải đủ hai điều kiện : Tinh thần và vật chất. Tinh thần tức là linh hồn đi đầu-thai. Còn vật chất là khí huyết cha mẹ sung túc "vô bịnh tật". Trong hai điều, thiếu một không được. Có khi đậu thai mà không có linh hồn, đứa nhỏ sanh ra phải chết liền không sống được phút nào cả. CÁI PHÁCH CỦA ĐỨA NHỎ Khi linh hồn đi đầu thai, thì Tứ đại Thiên vương (Les 4 Dévarajahs) do theo quả báo của con người phải trả kiếp nầy mà sanh ra một hình tư tưởng (un élémental) xin gọi là con tinh-chất. Con tinh chất nầy lãnh trách-nhiệm làm cái phách tức là khuôn khổ xác thịt của đứa nhỏ. Thân hình lớn nhỏ và màu sắc của con tinh chất nầy biến đổi tùy theo trường-hợp. Ban đầu nó ở chung quanh người mẹ đứa nhỏ rồi sau vô bụng. Những người có thần nhãn mà chưa lão luyện thấy nó thì lầm là hồn của đứa nhỏ. Trừ ra những trường hợp đặc biệt mà con tinh chất phải làm một cái thân thể đẹp đẽ hết sức hay là xấu xa hết sức thì mặt mày của đứa nhỏ chịu ảnh hưởng tư tưởng và ý muốn của người mẹ là cùng hoàn cảnh. Thường thường, con tinh chất nầy ở với đứa nhỏ tới khi nó bảy tuổi mói tan mất, rồi kinh hồn mới thật nhập vô xác thịt. Có khi nó lìa đứa nhỏ sớm hơn để cho linh hồn săn sóc lấy. Cái đó tùy theo sự tấn-hóa của con người. ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG NGƯỜI MẸ ĐỐI VỚI CÁI PHÁCH ĐỨA NHỎ Muốn làm cái phách của đúa nhỏ thì con tinh-chất của Tứ đại Thiên vương phải lấy chất tinh khí (matièrétherique) trong cái Phách của người mẹ. Nếu chất tinh khí nầy mà tinh khiết thì tự nhiên cái Phách của đứa nhỏ cũng tinh khiết. Mà muốn cho cái Phách được tinh khiết thì phải chọn loại đồ ăn và nhất là tư tưởng, nên nhắc lại rằng : Mỗi lần ta tư tưởng đến việc thanh cao, tốt đẹp thì chất khí xấu ở trong Vía và Trí bay ta bay ra. Chất khí tốt ở ngoài bay vào thế. Trái lại nếu ta tưởng chuyện quấy phá thấp hèn thì chất khí tốt ở trong Vía và Trí ta bay ra nhường chỗ cho chất khí xấu ngoài vô ở. Nếu người mẹ thương ai thái quá hay ghét ai thái quá và mỗi ngày đều nhớ đến người đó thì đứa nhỏ sanh ra sẽ giống người ấy như khuôn đúc. Xin nghe mấy chuyện dưới đây : Cô Mrs Ruth J. Wild có một đứa con gái được giải thưởng trong một cuộc đấu sắc đẹp có nhiều cô gái nhan sắc tuyệt trần đến dự, thuật lại rằng trước khi sinh nó ra, cô trải qua một thời kỳ khó khăn và đau khổ. Cô ở một mình lẻ loi trong đời mà cô nhất định đứa con cô sanh ra sẽ tuyệt đẹp. Cô mới lại viếng thường thường viện bảo tàng Brooklyn ngồi trước tượng nữ-thần Vé-nus và Adonis(1). Cô đem theo mình luôn luôn cái bìa của một tờ tạp chí có một đầu hình do một nhà Mỹ thuật Boileau vẽ ra và trong trí cô lúc nào cũng vẽ hình trạng của đứa con gái của cô sẽ sanh ra. Tới kỳ cô nằm chỗ thì quả nhiên cô sanh ra một cô con gái và cô nói "Cái điều mà tôi mơ mộng và ước ao đã làm ra một đứa nhỏ đẹp hơn hết trên đời." Mấy vị lương-y tuyên-bố rằng : Từ đó đến giờ chưa thấy một đứa bé nào như con tôi và có một ông biết tôi lúc đó nghèo khổ nên chịu cho tôi tôi hai chục ngàn đô la để được mang nó đi. Nhưng dầu đem hết vàng trên thế gian cũng không mua nó được, bởi vì tôi biết tôi đã thành công. Tôi thấy gương mặt nó giống hệt bức tranh của nhà mỹ thuật Boileau. Còn hình vóc nở nang theo những lằn đẹp đẽ của những tượng mà tôi thường ngắm. Trường hợp khác nữa là chuyện cô Mrs Viginia-Knapp. Cô có một đứa con gái tên Dorothée được giải thưởng nữ thần Vénus Mỹ-châu (Vénus d'Amérique) trong một cuộc đấu sắc đẹp tại Madison Square Garden. Trong khi có thai cô rất chú ý về những sự đẹp thiên nhiên và năn nỉ cảnh vật cho đứa con cô được một phần cái đẹp của tạo hóa. Cô cho rằng con cô dung mạo đẹp đẽ là nhờ ý chí quyết định của cô trước khi sanh nó ra chứ chẳng phải tại giòng giống. Cũng vì lẽ này mà mấy bà Hy-Lạp thuở xưa có thói quen thường ngày ngắm những hình tượng tốt, hầu như sanh ra những đứa con đều đẹp đẽ. (1)Adonis là người đẹp trai trong thần thoại Hy-Lạp THAI - GIÁO Tới đây người ta mới biết thai giáo là một khoa học rất cần kíp cho các hàng phụ nữ trong khi có thai nghén. Thuở xưa cấm con cháu gái lúc mang thai không được xem hát bội, đó có phải là vì sợ gặp mấy tuồng có những tướng Phiên mặt mày vằn vện trong lòng sợ sệt nhiễm đến cái thai, đến khi sanh con ra diện mạo xấu xa đi chang ? Trong lúc có thai con mắt không nên xem việc tà chuyện quấy, lỗ tai không nên nghe những tiếng tục, lời xằng, cái miệng không nên thốt những lời thô lỗ cộc cằn. Hạng nhất là đừng đọc những tiểu thuyết tán dương những chuyện trái với đạo lý. Trái lại phải quý mến cái đẹp bất kỳ là về phương diện nào. Nên xem và ghi nhớ mãi trong lòng những chuyện trung, hiếu, tiết, nghiã. Được như thế, đứa nhỏ trong bào thai sẽ tiếp xúc những ảnh hưởng tốt lành ; vẫn biết nó có quả báo riêng của nó nhưng mình có thể sửa đổi, tuy không hết trọn nhưng cũng được hai phần lớn lao. Có trời mà cũng có ta. Hãy xem gương những hột giống thì biết. Giống tốt mà đem gieo trồng đất xấu thì nó mọc lên cây yếu ớt còi cọc, còn giống xấu mà đem gieo trồng đất tốt thì cây mọc lên thế nào cũng mạnh dạn và nhánh lá xum xuê. CÁI VÍA VÀ CÁI TRÍ ĐỨA NHỎ Đứa nhỏ không có cái Vía và cái Trí như người lớn. Nó chỉ có chất khí dể làm cái Trí và cái Vía mà thôi. Những chất nầy một thứ với những chất khí đã làm cái Vía và caí Trí của con người kiếp trước lúc lìa cõi trung giới và lên cõi Thiên đường. Vì vậy cho nên đứa nhỏ không nhớ chuyện kiếp trước, trừ ra vài trường hợp đặc biệt, hoặc đi đầu thai liền, hoặc trong vài năm sau khi chết. Trong cái Vía và cái Trí của đứa nhỏ có đủ những mầm tốt và những mầm xấu của tánh tình kiếp trước, song kiếp này đứa nhỏ không buộc phải có đủ những tánh tốt và những tánh xấu đó đâu. Trong mấy năm đầu, nếu đứa nhỏ gặp hoàn cảnh tốt, cha mẹ biết dạy dỗ thì những mầm tốt sẽ nảy nở lớn, những mầm xấu sẽ héo mòn và tiêu mất. Đứa nhỏ lớn lên sẽ thành người hữu ích cho đời. Trái lại, nếu đứa nhỏ gặp hoàn cảnh xấu xa, cha mẹ cha mẹ không biết săn sóc tới thì những mầm xấu đâm chồi nảy lộc lẹ làng, đè ép những mầm tốt, đứa nhỏ lớn lên sẽ làm nhiều tội lỗi, phá hại đời và những lời nghiêm huấn khó mà ăn sâu vào trí não nó. Vì những lẽ trên đây, trong "Tam tự kinh" mới có mấy câu "Nhân chi sơ, tính bổn thiện ; tính tương cận, tập tương viễn ; Cẩu bất giáo, tính nải thiên, giáo chi đạo, quý dỉ chuyên". Và bà Mạnh mẫu mới chọn xóm ba lần cho con ở đó. Khoa đức dục bao giò cũng cần ích cho đời sống của con người. Có trí dục mà không có đức dục thì chưa nên người hoàn toàn vậy. NGÔI SAO BỔN MẠNG Ngày giờ và chỗ sinh đẻ của con người đều do quả báo của tính nết con người kiếp trước định sẵn chứ không phải là việc tình cờ. Con người phải sinh ra ngày nào giờ nào mà ngôi sao làm chủ ngày giờ đó hợp với tính nết con người người ta gọi ngôi sao đó là ngôi sao bổ mạng. Vì vậy các nhà chiêm tinh học lành nghề, có kinh nghiệm nhiều, sau khi xem ngày giờ và chỗ sinh đẻ của người nào thì biết được tính nết, tình cảm và cuộc đời người đó sung sướng hay cực khổ, và phỏng định được lúc nào hạnh phúc hay mắc tai họa. Tôi nói phỏng định vì người nào có ý chí cứng cỏi, biết luạt Trời rồi thì những người nào bố thí và thương đời, đều nhờ tư tưởng tốt mà sửa đổi số phần được. Khoa chiêm tinh học rất cao thâm, nếu không phải là tay lão luyện thì chớ nên làm một lá số. Vì biết ngày giờ sinh chưa phải là đủ, còn phải biết chỗ sinh nhằm mấy độ vĩ tuyến (degré de latitude) và kinh độ ( degré de longgitude) nữa, toán mới không sai. Truyện tàu nói Địch Thanh là sao Võ khúc tinh đầu thai xuống phàm. Tin theo nghĩa từ chữ thì tin dị đoan. Một vì sao đầu thai làm người saocó thể được. Câu đó có nghĩa rằng : Địch Thanh sinh ra nhằm lúc sao Võ khúc làm chủ. Võ khúc tinh là ngôi sao bổn mạng của Địch Thanh, chứ không phải sao Võ khúc xuống phàm nhập vô xác Địch Thanh. Còn có những câu chuyện yểm sao, câu sao bỏ vô lu mái hay là thu vô hộp đậy lại là những chuyện hoang đường không căn cứ vào đâu. Trái lại, câu chuyện sao sa có ý nghĩa vì nó là biểu hiện của rủi ro tai nạn. Nhung không phải là ngôi sao bổn mạng rơi xuống thiệt đâu. Trong chiêm tinh học có những từ ngữ sau : en exaltation lên cao tột điểm và chute sa xuống. Ví Thí dụ câu : Le Bélier ét le signe où le soleil se trouve en exaltation et (il ét en chute dán la Balance). Nghĩa là khi mặt trời đi tới cung Bạch dương thì lên cao tột điểm, còn tới cung Thiên xứng thì thấp tới cực điểm. Theo Hoàng đạo (Zodique) thì cung Bạch dương ở mức cuối cùng cao hơn hết còn cung Thiên xứng ở mức cuối cùng thấp hơn hết. Theo nghĩa từ chữ như thế, song khi làm ra lá số thì exaltation và chute có nghĩa là sinh ra ảnh hưởng tốt lắm hay xấu lắm tùy theo cái tính của bầu Hành Tinh. CHÂN NHÂN VÀ CHÂN PHÀM Xin nhắc lại khi con người ở Thiên đường bỏ cái Trí để được lên cõi vô hình thì phàm nhân đem tinh hoa những sự kinh nghiệm của mình giao cho linh hồn hay là chân nhân. Xong xuôi rồi thì phàm nhân tan mất, nghĩa là nó chỉ sống trong ba cõi : Hồng trần, Trung giới và bốn cảnh thấp của cõi Thượng giới mà thôi. Chừng nào linh hồn đi đầu thai lấy một cái Trí khác thì sinh ra một phàm nhân mới khác. Phàm nhân là một phần nhỏ của Chân nhân cũng như một mặt của hột xoàn. Những người có thần nhãn đều thấy nó. Có người thấy nó như một người nhỏ xíu màu vàng, bằng ngón tay út ở cạnh trái tim. Có người thấy nó giống như ngôi sao chiếu sáng. Tùy theo giống dân và cung chi mỗi người thì phàm nhân đều ở trong mình khác chỗ với nhau. Có người thì chỉ ở tại một trong bảy Luân xa, có người thì nó ở tại yết hầu. Có người thì nó ở tại plexus solaire (đan điền). Theo giống dân phụ thứ năm của giống A-ri-den (Aryen) da trắng bây giờ thì phàm nhân ở gần cục hạch óc (corps pituitaire). Phàm nhân xuống hồng trần thường quên mất cha mẹ mình là Chân nhân, chỉ lầm mình là ba thể thấp : thân, ý, trí, và nói : "Tôi có linh hồn chứ dáng lẽ phải chú ý tới điều này : Tôi là linh hồn, tôi là cái Xác, cái Vía, cái Trí". Chân nhân và Phàm nhân vẫn có giây liên lạc với nhau, trong đạo đúc gọi là Ăn-ta-ca-ra-na (Antahkarana). Song đối với người thường, đường thông thương này nhỏ lắm. Vì vậy, muốn tiến hóa cho mau, phải mở cửa đường thông thương cho rộng lớn dể được Chân nhân sai khiến Phàm nhân. Ngày nào Phàm nhân hợp nhất với chân nhân nghĩa là không còn ý muốn ương ngạnh nữa thì ngày đó con người sẽ được điểm đạo lần thứ nhất và được đứng chung hàng với những vị siêu phàm nhập thánh. Chân nhân ở cõi thượng thiên có cách tiến hóa riêng. Có khi phàm nhân có tính ngỗ nghịch và trụy lạc quá lẽ thì Chân nhân bỏ phế Phàm nhân không đoái hoài tới nữa. Nhưng nếu con người ăn năn sủa lỗi, trau dồi tánh nết và cầu xin Chân nhân giúp đỡ thì con người còn hy vọng sủa đổi tương lai ra tốt đẹp. Lòng thành thật của con người có ảnh hưởng rất lớn cho đời sống tinh thần, nó cảm tới các đấng thần linh. Nó giống như mặt kiếng trong trẻo không chút bụi nhơ. Ánh sáng chân lý rọi vô đó không phai màu vậy. TẠI SAO TA KHÔNG NHỚ NHỮNG KIẾP TRƯỚC ? Có người tự hỏi nếu có kiếp Luân hồi sao ta không nhớ những chuyện kiếp trước ? Thậy vậy. Song nếu suy nghĩ thì không có gì là lạ. Ta nhờ cái Trí ghi nhớ mọi việc, cái Trí kiếp trước đã tan rã rồi thì tự nhiên phải quyên. Song những sự học hỏi, những sự kinh nghiệm của ta thành những năng lực không có mất đi đâu. Tỉ như kiếp trước ta giỏi toán học, kiếp này ta học hỏi môn đó một cách dễ dàng và còn giỏi hơn kiếp trước. Như tôi đã nói, đứa nhỏ mới ra không có cái Trí. Những chất khí này y như những chất khí làm cái Trí kiếp trước. Song ngay từ khi còn bé thơ đến lúc trưởng thành, đứa nhỏ đã bị những tạp quán, những sự dạy dỗ của cha mẹ và luôn những sự học hỏi của nó sửa đổi cái Trí nó mãi. Còn một nỗi nữa, trong kiếp này những chuyện mình làm hồi 11-12 tuổi, bây giờ mình đã quyên ráo thì bảo sao mình nhớ hết những chuyện cả ngàn năm trước được. Đấng tạo hóa muốn cho ta quên những việc ta đã làm kiếp trước là điều rất tốt, hữu ích cho ta lắm. Con người còn vô minh thế nào trong những việc làm cũng dữ nhiều lành ít. Con người bị quả báo trả lại mà nhớ tới những việc ác đã làm thì sẽ ăn năn buồn tủi mãi. Ngày đêm nuôi những tư tưởng buồn bực thảm sầu thì dã hại dến mình, mà còn hại luôn nhiều người khác nữa. Đó là một lẽ. Còn một lẽ rất trọng hệ là nếu con người nhớ đến những kẻ hãm hại mình kiếp trước thì sao cho khỏi nổi giận, toan trả oán thù. Cái oan gia kéo dài ra mãi từ kiếp này đến kiếp kia , không biết chừng nào mới dứt. Đây nói về những người thường, trái lại những người tu hành đắc đạo mở được huệ nhãn thì thấy và biết được mấy kiếp trước của mình. Những kiếp con người đều có dây liên lạc với nhau. Biêt được kiếp mới rồi đây đầu thai ở đâu thì có thể truy ra cả trăm kiếp trước nữa. I