thanhdc
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
420 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
1
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by thanhdc
-
Đà Nẵng:Bí ẩn 6 giếng vuông 300 năm tuổi Thứ Hai, 09/01/2012 - 16:30 (Dân trí) - Có đến 4 cái giếng cổ hình vuông trên dưới 300 tuổi còn nguyên vẹn tại làng Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng). Hiện chưa có nghiên cứu nào cho biết giếng cổ của người Chăm hay người Việt.Theo nguồn tư liệu thực địa của ông Đặng Dùng, cư dân bản địa chuyên nghiên cứu lịch sử văn hóa địa phương, làng Nam Ô có đến 6 cái giếng cổ hình vuông được tiền nhân tạo lập, phân bố đều khắp theo hướng Đông - Tây - Nam - Bắc với khoảng cách từ 200 đến 300 mét. Trong đó, có 4 cái vẫn còn nguyên vẹn, chất lượng không thay đổi, là giếng Đình, giếng Thành Cung, giếng Trò và giếng Lăng. Giếng Lăng tại làng Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng) Qua quan sát đo đạc, cả 4 giếng trên có hình vuông, được ghép bằng những tấm đá xanh có bề dày 0,10 mét, ngang 1 mét và cao 0,6 mét. Cứ 4 tấm đá như thế ghép thành một ô vuông mỗi cạnh 1 mét ăn trong khớp rãnh được tạo sẵn. Từ đáy giếng - từng ô vuông đặt chồng lên nhau trong khe âm dương lên tới thành giếng. Mỗi giếng có từ 12 đến 14 lớp như thế (tùy theo thế đất cao thấp và mạch nước nơi giếng tọa lạc). Bốn lớp trên cùng khép vào khe của 4 trụ đá vuông 0,20 mét x 0,20 mét gọi là trụ giếng. Trên mỗi đầu trụ giếng khắc sâu chạy viền thành cổ trụ. Trên thành giếng là 4 thanh đá khác, dài 1 mét vuông đặt nằm ngang - 2 đầu thanh đá ăn vào mộng (đuôi cá) đục sẵn trên vai trụ giếng. Đáy thành giếng có khe áp vào đầu tấm đá dưới nền thành giếng có kết cấu chắc chắn, vững chãi. Ông Dùng cho biết thêm, các cụ xưa kể rằng để làm kiểu giếng đá vuông này, người xưa phải lấy đá xanh từ xa, nghe đâu là Trường Định (nằm giữa nguồn sông Cu Đê - nay là xã Hòa Bắc, cách làng Nam Ô 6 đến 7 km về phía Tây) đem về chế tác theo quy cách: Khắc chữ lưu năm đời vua vào trụ đá là năm tạo lập. Để giếng có mạch nước tốt, không bị khô cạn vào ngày đại hạn, người xưa đã mời các bậc thâm nho trong vùng, các thầy địa lý để tìm và chọn nơi tụ thủy. Sau đó đào, tạo một khoảng đất rộng xung quanh chỗ đánh dấu, đào xuống khi nào gặp mạch nước, múc một chén, nếm bằng lưỡi, ngửi bằng mũi và để qua đêm nhìn bằng mắt xem có phèn đọng hay không. Xấu thì tìm chỗ khác, tốt thì tiến hành xếp từng phiến đá thành ô vuông, sắp dần lên cho đến khi đặt trụ giếng, khép đá thành tang giếng. Sau khi giếng được công nhận là gặp mạch nước tốt, mọi người reo hò hoan hỷ bày tỏ niềm vui. Giếng chính thức đưa vào cho dân làng sử dụng. Các giếng cổ hình vuông trên là của cư dân Champa trên đất Nam Ô hay là sản phẩm của người Việt đến nay vẫn bỏ ngỏ, bởi chưa có một cuộc khảo cứu nào của các nhà chuyên môn để trả lời vấn đề này. Tốc độ đô thị hóa chóng mặt, nếu không có sự can thiệp kịp thời của các cơ quan chức năng, các giếng cổ hàng trăm năm tuổi trên lo rằng sẽ nhanh chóng bị nhà cửa, đường sá đè lấp. Bởi đây không chỉ kết tinh tài năng kỹ thuật của cha ông mà còn ẩn chứa những giá trị văn hóa lịch sử quý giá. Viết Hảo
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng. Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật. Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật. Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau. Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí) Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức. Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất. THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ” Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng. Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí. Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng ! Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí , chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng. "Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí. Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa. Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch". "Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí. Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu ? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô ?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí". Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu". Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong. So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy". Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn. Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể". Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập. Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa". Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ). "Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng). Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc ! Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy ? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau". "Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ. Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa. Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch". Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.” Hà Uyên sưu tầm.
-
Thanh Hóa: Phát hiện trống đồng cổ dưới chân núi Rú Thần Chủ Nhật, 01/01/2012 - 14:08 (Dân trí) - Trong lúc xới đất trồng cây khu vực dưới chân núi Rú Thần, ông Trịnh Văn Trung (42 tuổi, thôn Thọ Vực, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đã phát hiện ra một chiếc trống đồng cổ. Theo ông Trung, mới đây, trong lúc đang xới đất trồng cây ông đã phát hiện một chiếc trống đồng cổ. Ngay sau khi phát hiện chiếc trống đồng cổ nói trên, người dân đã báo cáo lên chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng. Chiếc trống đồng cổ mới được người dân phát hiện. Sau khi nhận được thông tim, Viện Khảo cổ học đã về tìm hiểu. Theo nhận định ban đầu của các nhà khảo cổ học, rất nhiều khả năng chiếc trống đồng mới được phát hiện thuộc về văn hóa Đông Sơn.Theo quan sát, kích thước của chiếc trống khá lớn với đường kính khoảng 0,8m, chiều cao 0,6m. Giữa mặt trống đồng có một ngôi sao 12 cánh, xen giữa các cánh sao là những họa tiết và những đường vạch chéo có hình tam giác lồng vào nhau. Nhiều hoa văn tinh xảo trên mặt trống đồng. Bao quanh các ngôi sao là các vòng, nhiều những hình người đan xen lồng ghép vào nhau, tái hiện một bức tranh về đời sống và sinh hoạt của con người thời bấy giờ như giã gạo, săn thú, múa hát, chèo thuyền... Bên cạnh đó là những hình động vật xen lẫn với hoa văn hình học.Hiện tại, chiếc trống đang được các nhà khảo cổ tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu kỹ về nguồn gốc và xuất xứ. Nguyễn Thùy - Duy Tuyên
-
Chúc mừng sinh nhật Tuyết Minh. Thêm tuổi mới đầy vui vẻ và hạnh phúc.
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT HUYNH HOÀNG TRIỀU HẢI CHÚC MỪNG SINH NHẬT THIÊN LUÂN
-
NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20-11 HỌC TRÒ KÍNH CHÚC SƯ PHỤ SỨC KHỎE, BÌNH AN, VINH DANH VĂN HIẾN VIỆT
-
Tận mục ngôi nhà triệu đô ở Bắc Ninh Không ít những tay buôn chuyên săn tìm nhà cổ đến gạ gẫm, trong đó có cả người nước ngoài đến tham quan nghiên cứu tìm hiểu và ngã giá triệu đô, đề nghị mua lại toàn bộ khung ngôi nhà để mang về trưng bày. Nỗi lòng của chủ nhân ngôi nhà cổ Đến làng Mẫn Xá, Văn Môn, Yên Phong, Bắc Ninh hỏi về ông Nguyễn Văn Trang ai cũng biết. Họ biết đến ông bởi ông là một lão nông chân đất đã thẳng thừng khước từ cả triệu USD để giữ lại cho con cháu và thế hệ về sau một ngôi nhà cổ mà theo ông đây là ngôi nhà cổ nhất xứ Kinh Bắc và được tổ tiên dòng họ Nguyễn Văn làm từ thời vua Minh Mạng. Đi qua một đoạn đường ngoằn nghèo chỉ rộng khoảng 1m, mặt đường phủ rêu xanh trên nền gạch màu đỏ, hai bên là những dãy nhà san sát, chúng tôi cũng tìm đến được nhà ông Nguyễn Văn Trang.Ông Trang năm nay đã bước qua tuổi 71, tự nhận mình già trước tuổi nhưng đổi lại ông vẫn còn khỏe và trí nhớ rất minh mẫn. Với chất giọng khàn khàn ông từ từ kể cho chúng tôi nghe về gốc tích căn nhà và xen vào đó là nỗi lòng của một lão nông quyết giữ bằng được của hồi môn mà tổ tiên để lại. Toàn cảnh ngôi nhà cổ của ông Trang Theo gia phả dòng họ Nguyễn Văn ở Mẫn Xá thì cụ tổ ông Trang là Nguyễn Văn Cẩn, sinh năm 1753, đến đất này lập nghiệp và được coi là một bậc “phú gia địch quốc” (ý nói có tài sản sánh ngang quốc gia) tại đất Kinh Bắc xưa. Trong gia phả chép lại, ngôi nhà cổ này được dựng vào năm 1774, năm đó cụ Cẩn mới ở tuổi 21.Với nghề bốc thuốc và dạy học, dù mới 21 tuổi nhưng cụ đã có khối tài sản khổng lồ và cụ cũng vài lần phát chẩn cho dân nghèo. Ông Trang hiện là trưởng họ Nguyễn Văn và là cháu đời thứ 7 của cụ Cẩn, đang sống và gìn giữ ngôi nhà cổ.Theo ông Trang hiện tại ngôi nhà vẫn giữ được rất nhiều nét độc đáo mà hiếm ngôi nhà nào có được: Ngôi nhà được làm theo lối kiến trúc cổ nhất mà ông từng biết đó là “xà cọc con tròng kẻ truyền”, với nhiều hình chạm trổ tinh xảo và những nét hoa văn quý hiếm. Cả ngôi nhà được khớp lại bởi 8 vì, mỗi vì 5 cột, tổng cộng có 40 cột hoàn toàn bằng gỗ lim, cột lớn nhất có đường kính khoảng 35cm. Ngôi nhà được chia làm 7 gian, với diện tích khoảng 110m2, trong đó 3 gian giữa để bàn thờ tổ tiên và nơi tiếp khách…còn lại 4 gian chia cho hai bên để làm phòng ngủ. Gian buồng được thông với 3 gian giữa của ngôi nhà bằng của nách được thiết kế rất đẹp theo hình tò vò. Phần trên của ngôi nhà được đục đẽo rất cầu kỳ, con Chòng (nơi để gác hoành) được những bàn tay khéo léo của người thợ ngày trước tạo thành hình đầu rồng, phượng… hướng ra phía trước, bên dưới là một lớp hoa văn được đục đẽo theo hình hoa lá núi rừng… Hai núm tròn trên cánh cửa ra vào buồng ngủ được hiểu theo câu 3 vuông 7 tròn Điều đặc biệt ở ngôi nhà cổ này là cái Dạ Tàn (tức là mái phía trước) được thiết kế rất thấp vì vậy khi bước vào nhà ai cũng phải cúi người, nếu không để ý rất dễ đụng đầu, đó được ngầm hiểu là động tác chào gia chủ. Bên trên cửa vào gian buồng có hai núm gỗ được khắc hình tròn, còn cửa chính của ngôi nhà là hình vuông.Đem sự khác biệt này hỏi vị chủ nhân của ngôi nhà chúng tôi nhận được câu trả lời: “Cái đó được cha ông ta ngày trước lý giải theo câu “3 vuông 7 tròn” tức là nàng dâu khi về nhà chồng phải tuân theo gia pháp, phong tục cách sống và nếp sinh hoạt nhà chồng, đồng thời phải sống sao cho tròn với bổn phận làm con, cái cửa đó là nơi đi lại thường xuyên của con dâu nên các cụ mình để đó như thầm nhắc nhở”. Đến nay ngôi nhà đã trải qua 237 năm và đã có 7 đời người sinh sống trong ngôi nhà này mà những chiếc cột lim vẫn một màu đen bóng và chắc nịch như thách đố thời gian. Mặc cho vị chủ nhân đã vài lần tu sửa nhưng ngôi nhà vẫn giữ được nét cổ kính, những chi tiết hoa văn dường như vẫn còn nguyên vẹn. Ông Nguyễn Văn Trang đang giới thiệu tỷ mỉ về ngôi nhà của mình Nhìn ngôi nhà của mình rồi ngước mắt về phía ngôi nhà cao tầng, Ông Trang chạnh lòng: Hai vợ chồng tôi năm nay cũng đã ngoài 70, dù cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng vẫn muốn giữ lại ngôi nhà của tổ tiên cho con cháu sau này và ông lo khi ông về với tiên tổ không biết hậu thế có dủ kiên nhẫn để tiếp bước.Xuýt xoa một chút rồi ông nói tiếp, Mẫn Xá là ngôi làng còn giữ được nhiều nét đặc trưng một một làng cổ, từ đường làng, ngõ xóm, đến vật liệu để xây nhà tất cả hiện lên một phong cách cổ kính mà ít nơi còn có. Nhưng những nét cổ kính đó đang dần mất đi, với nghề đúc nhôm truyền thống đã làm cuộc sống của người dân nơi đây ngày một khấm khá, môi trường thay đổi, không khí nồng nặc mùi phôi nhôm. Kinh tế đang phát triển ảnh hưởng đến bộ mặt của ngôi làng. Bên cạnh những ngôi nhà cổ được lợp bằng ngói vẩy san sát nhau thì xen vào đó, vài ngôi nhà cao tầng “trễm trệ” lẻ loi vô tình phá đi không gian hoài cổ độc đáo mà nó vốn có. "Tiền không làm cho tôi mờ mắt" Biết ông đang sở hữu ngôi nhà cổ rất có giá trị (cả về văn hóa lẫn vật chất) nên không ít những tay buôn chuyên săn tìm nhà cổ đến gạ gẫm. Để có được cái gật đầu của ông họ sẵn sàng trả giá rất cao. Không chỉ có người trong nước mà ông còn được đón các đoàn từ nước ngoài đến tham quan nghiên cứu tìm hiểu. Năm 2000, giáo sư Yamada Yukimasa - giảng viên Trường đại học Tokyo và giáo sư Trần Thị Quế Hà - giảng viên Trường ĐH Showa Nhật Bản đến Việt Nam, kết hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin làm cuộc khảo cứu về nhà ở dân gian truyền thống. Sau nhiều ngày rong ruổi tại Bắc Ninh, đoàn chuyên gia đã tìm được ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Trang và họ khẳng định ngôi nhà độc đáo và được xây dựng vào thời vua Minh Mạng. Tấm bia đá màu xanh với rất nhiều chữ Hán, Nôm Nghiên cứu kỹ ngôi nhà cũng như gia phả dòng họ Nguyễn Văn, họ đề nghị mua lại toàn bộ khung ngôi nhà để mang về trưng bày với giá gần 1 triệu USD. Ngoài ra họ còn ngỏ ý sẽ dựng cho ông ngôi nhà y hệt như vậy trên nền đất cũ, mà chỉ lấy cái khung nhà cổ mang đi. Ông Trang đưa ra quyết định là không bán. Quyết định kiên quyết của ông khiến họ hàng ông còn phải họp nhiều lần nữa nhưng với sự dứt khoát của ông Trang, ngôi nhà vẫn không được bán.Vào năm 2002, ông lại đón đoàn chuyên gia của Malaysia đến thăm, nghiên cứu,sau khi hỏi mua biết ông không bán dù có trả rất nhiều tiền, họ quay sang xin mẫu ngôi nhà của ông. Mọi người trong đoàn tiến hành đo đạc và lấy hình ảnh những chi tiết hoa văn quý của ngôi nhà. Sau đó họ mua gỗ về và thuê thợ dưới làng Đồng Kỵ làm y nguyên như vậy. Khi làm xong để chắc chắn họ đã dựng thử ngôi nhà lên và mời ông Trang xuống kiểm tra xem còn chỗ nào thiếu và chưa giống không. Xong xuôi đâu đó họ thuê ôtô chở về Hải Phòng và mang về nước. Năm 2005, đoàn Nhật Bản lại quay trở lại nhà ông và lần này họ mang theo một cái máy nhỏ, khi đến họ đặt máy lên nóc nhà và thử cái gì đó, khi hỏi người phiên dịch thì ông mới được biết là họ đo sức chịu động đất của ngôi nhà và khẳng định rất tốt. Ngôi nhà được thiết kế với nhiều hoa văn tinh tế Theo ông Trang thì những năm trước người của nhà nước cũng đôi lần đến đặt vấn đề mua lại ngôi nhà của ông để đem về dựng ở Hà Nội, đi kèm với đó là lời hứa sẽ dựng một ngôi nhà y hệt như vậy cho ông, cũng bằng gỗ lim và những chitiết hoa văn như vậy. Nhưng ông lại cho rằng "đây là cái nhà mà tổ tiên của mình để lại, đã qua bao nhiêu đời dù khó khăn thì ông cha cũng không bán cớ sao nay mình lại bán", nghĩ vậy nên ông không nhận lời và lấy cớ đây là ngôi nhà của dòng họ, ông chỉ là người được trao quyền trông nom chứ không có quyền bán để từ chối khéo.Dưới cái bàn thờ tổ tiên nhà ông vẫn còn lưu giữ được hai phiến đá, một phiến đá xanh, một phiến đá trắng. Trên đó viết rất nhiều chữ Hán, Nôm mà chính ông cũng không hiểu mà theo những chuyên gia về tìm hiểu thì phiến đá đó được viết vào tháng 8 mùa thu năm Minh Mạng. Dù đã cố gắng tìm nhưng những đoàn chuyên gia đều không tìm ra chữ khắc trên khung nhà. Nên tuổi của ngôi nhà vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi, có người nói ngôi nhà này được làm vào thời Lý dựa trên những nét hoa văn trên khung nhà nhưng cũng có ý kiến cho rằng, được làm từ thời vua Minh Mạng dựa theo gia phảvà những gì còn ghi lại trên hai phiến đá. Còn theo ông Trang, ông cũng không biết chính xác ngôi nhà làm từ khi nào màchỉ biết nó được dựng vào năm 1774 mà trước đó cụ Nguyễn Văn Cẩn cũng mua lại nhà của người khác. Nhưng theo ông Trang thì dù sao đi chăng nữa thì dây vẫn là ngôi nhà quý đốivới ông và dòng họ Nguyễn Văn ở Mẫn Xá nên dù có ai trả ông bao nhiêu tiền cũng không bán và ông không bị đồng tiền làm mờ mắt. (Theo Bưu điện Việt Nam)
-
Chúc mừng Thiên Luân luôn luôn hạnh phúc và vui vẻ.
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT SƯ PHỤ! KÍNH CHÚC SƯ PHỤ MẠNH KHỎE - AN LẠC Kính.
-
Xin đề xuất để tên riêng "Ly hoc Đong phuong" và sau đó ta ghi chú giải như trên của SP thì sẽ rõ nghĩa hơn.Kính.
-
Xin cung cấp thêm 1 bản dịch: * Lý học Đông phương = The mystery of the ancient principles of Oriental scholarship (The doctrine of the ancient Oriental astrology) The mystery of the ancient principles of Oriental scholarship Dich nghĩa là: Sự huyền bí từ nguyên lý học thuật cổ Đông phương * Ngũ hành = Five types of matter in the universe * Ông Khiết là tên riêng nên giữ nguyên và có chú thích bằng tiếng Anh (The Toad statue). Kính.
-
10 địa danh thần bí nhất hành tinh Cập nhật lúc 14h33' ngày 27/07/2011 Nhiều chuyên gia nổi tiếng cho rằng những khu vực bí ẩn trên khắp thế giới được tạo nên nhờ vào những nền văn minh sở hữu kiến thức và công nghệ tiên tiến đã bị thất lạc. Nhiều người khác lại không tin rằng từng có nền văn minh nào trên trái đất lại tiến bộ đến như vậy và mọi nền kiến thức cao siêu đều được các phi hành gia cổ đại trao lại cho chúng ta. Hầu hết các nhà khoa học đều không thể đưa ra được lời giải thích thỏa đáng cho những điều bí ẩn từ thời xa xưa. Dưới đây chính là 10 địa danh thần bí nhất quả đất mà chưa ai lý giải nổi: 1. Kim tự tháp Giza và nhân sư Sphinx (Ai Cập) Mặc dù đây rõ ràng là những kim tự tháp được sử dụng để chôn cất vua chúa, nhưng cấu trúc, ngày giờ xây dựng, và biểu tượng kim tự tháp ở Giza vẫn hoàn toàn là một dấu hỏi lớn. Chính sự bí ẩn càng làm tăng phần thu hút cho kì quan cổ đại này, nhiều người thời nay vẫn xem Giza như một nơi thần thánh. Đã có rất nhiều thuyết giải thú vị được đưa ra để giải thích cho “bí ẩn kim tự tháp”. Thậm chí, những khách tham quan hoài nghi nhất cũng không thể không ngỡ ngàng trước độ tuổi, quy mô hoành tráng, và bài toán hài hòa của những kim tự tháp ở Giza. 2. Stonehenge (Anh Quốc) Đây là một trong những công trình nổi tiếng nhất thế giới nằm tại khu vực Wiltshire, Anh. Stonehenge là một tượng đài được hình thành bởi nhiều tảng đá lớn xếp hình vòng tròn khổng lồ. Nhiều người cho rằng công trình này được xây dựng từ năm 2500 Trước Công Nguyên nhưng đã được khôi phục và sửa sang lại trong suốt hơn 1400 năm. Mặc dù có rất nhiều suy đoán, nhưng không ai biết mục đích chính của di tích thời tiền sử này là gì và nó vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của nhân loại. 3. Đảo Phục sinh (Chile) Đảo Phục sinh, hay còn được biết dưới cái tên Rapa Nui hoặc Isla de Pascua, là một hòn đảo của người Polynesia nằm ở phía Đông Nam Thái Bình Dương. Nơi đây nổi tiếng với những bức tượng dị thường được tạo ra bởi người Rapanui. Các bức tượng này, còn được gọi là Moai, là một phần trong tục thờ cúng tổ tiên của người dân của đảo này và chúng được chạm khắc từ khoảng năm 1250-1500 thời Trung Cổ. Moai nặng nhất đã bị xói mòn có trọng lượng 86 tấn, thể hiện chiến công lẫy lừng đối với người Rapanui vì họ có thể tạo ra và di chuyển được những bức tượng này. Gần một sửa số Moai còn lại vẫn ở Rano Raraku, mỏ Moai chính, nhưng hàng trăm tượng còn lại đã bị chuyển đến những bục đá quanh vành đai của đảo. 4. Baalbeck (Li-băng) Baalbeck là một thành phố ở phía Đông Li-băng. Năm 331 trước Công Nguyên, khi Hi Lạp đến xâm chiếm, Baalbeck mới chỉ là một thị trấn phồn vinh. Lebanon đã trở thành thuộc địa của người Rome dưới Đế chế Augustus từ năm 16 trước Công Nguyên. Trong suốt ba thập kỉ sau đó, người Rome đã xây dựng một quần thể tượng đài gồm 3 ngôi đền, 3 sân vườn, và một bức tường rào quanh được dựng từ những tảng đá vĩ đại nhất do con người tự tạo. Một số du khách tin rằng công trình này chỉ có thể là kiệt tác từ ngoài hành tinh. Tại cổng vào phía Nam của Baalbeck là một quần thể khác, ở đây những tảng đá trong đền đều bị cắt gọt. Một khối đá khổng lồ, được xem như tảng đá lớn nhất bị “mổ xẻ”, hiện vẫn nằm nguyên vị trí từ cách đây 2000 năm trước. Nó còn có tên gọi là “Đá phụ nữ mang thai”, kích thước là 21,5m x 4,8m, x 4,2m và nặng khoảng 1.000 tấn. 5. Machu Picchu (Peru) Machu Picchu là thành phố được bảo tồn nguyên vẹn nhất từ Đế chế Inca, nằm trên một quả núi có chóp nhọn ở độ cao 2.430m, thuộc Thung lũng Urubamba tại Peru, cách khoảng 70 km về phía tây bắc Cusco. Từng bị thế giới lãng quên trong suốt nhiều thế kỉ, Machu Picchu đã được tái khám phá bởi nhà khảo cổ học Mỹ Hiram Bingham vào năm 1911. Các tảng đá trong thành phố này được xếp rất khít nhau đến nỗi lưỡi dao cũng không thể lọt qua. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Machu Picchu được xây dựng từ năm 1450 thời Trung Cổ dành cho người thống trị Inca là Pachacuti. 6. Đường kẻ Nazca (Peru) Một trong số những kiến trúc địa lý nổi tiếng nhất thế giới khác là các đường kẻ Nazca trên sa mạc Nazca ở Peru. Từ trên không nhìn xuống, có thể thấy rõ nhưng đường kẻ này tạo ra khoảng 300 hình thù khác nhau, có hình dáng của những con vật và con chim khổng lồ được khắc họa trên mặt cát sa mạc. 7. Tiahuanacu (Bolivia) Tihuanacu (hay Tiwanaku) là một bí ẩn lớn cho khoa học bởi độ tuổi (được ước tính khoảng 17.000 tuổi) và công nghệ đá đặc biệt của nó. Người ta từng cho rằng Tiahuanaco là thánh điện để thờ cúng thánh thần và là điểm tập trung văn hóa, giúp lan truyền qua nhiều khu vực xung quanh. Người cổ đại đã xây dựng một kim tự tháp bằng đá được gọi là Akapana. 8. Chichen Itza (Mexico) Chichen Itza là địa điểm khảo cổ của một thành phố cổ xưa do người Maya xây dựng. Nơi đây chứa đựng vô số những phong cách kiến trúc đa dạng như El Castillo (đền thờ của Kukulkan) và đền thờ của Warriors. Chichen Itza là một thành phố rộng lớn, được xây bởi một bộ tộc Maya là Itzaes trong thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên và phát triển như một thủ đô trong khu vực chính cho tới thế kỷ thứ 12. Nguồn gốc thực sự của người Itza vẫn còn bí ẩn. 9. Những quả cầu đá bí ẩn của Costa Rica Một trong những bí ẩn lạ lùng nhất trong khảo cổ học được phát hiện ở đồng bằng sông Diquis, Costa Rica. Từ những năm 1930, hàng trăm quả cầu bằng đá được tìm thấy có đường kính từ vài cm đến hơn 2m, một số có nặng tới 16 tấn. Hầu hết trong số chúng được làm từ granodiorite - loại đá hỏa sinh cứng. Những quả cầu lớn này là tác phẩm điêu khắc bằng đá nguyên khối được thực hiện bởi bàn tay của con người. 10. Thành phố dưới nước ở Nhật Bản Nằm ở bờ biển phía Nam của Yonaguni, Nhật Bản, tàn tích ngập dưới nước này được ước tính khoảng 8.000 năm tuổi. Mặc dù, một số người tin rằng nó được hình thành bởi hiện tượng địa lý nhưng cho tới nay người ta xác nhận nó là sản phẩm nhân tạo bởi nghệ thuật khắc trổ phức tạp. Nó được phát hiện vào năm 1995 bởi một thợ lặn thể thao bị lạc khỏi bờ biển Okinawa với một máy quay phim trong tay. Theo Dân trí (WK) Nguồn: www.khoahoc.com.vn Đã tìm ra cách đọc ý nghĩ Cập nhật lúc 08h47' ngày 02/08/2011 Các nhà khoa học đã có thể nhận biết được một người đang dự định làm gì trước khi anh ta chưa bắt tay vào việc thực hiện. Sở dĩ họ có thể làm được việc này là vì họ kiểm tra được hoạt động của bộ não. >> Phát minh mới: Máy đọc ý nghĩ Tờ nhật báo Daily Mail đưa tin, hiện nay, người ta mới chỉ có khả năng biết một người đang chuẩn bị làm gì trước vài phút, nhưng triển vọng của phát minh này thật rộng lớn. Biết trước một sự việc nằm trong dự định của một người đôi khi vô cùng có lợi. Chẳng hạn nếu cảnh sát nắm được một âm mưu khủng bố khi bọn tội phạm sắp tiến hành để ngăn chặn “từ trong trứng” thì tránh được biết bao nhiêu tổn thất có thể xảy ra. Các nhà khoa học đã có thể biết được một người dự định làm gì khi dùng máy cộng hưởng từ quét quá trình hoạt động của não bộ. Ảnh minh họa. Nhà nghiên cứu hàng đầu Jackson Hallivan, trường Đại học Tây Ontario (Canada) tuyên bố: “Đó là một bước tiến lớn trong nhận thức của chúng ta về cơ chế làm việc của bộ não người và biết được trong não một kế hoạch hoạt động đã được cấu thành như thế nào”. Trong một năm liên tục, các nhà khoa học đã dùng thiết bị cộng hưởng từ chức năng “quét” quá trình làm việc của bộ não những người tình nguyện khi họ thực hiện một trong ba hành động hơn giản: bắt trúng một vật đang bay đến ở phần đầu, phần giữa và phần cuối hoặc đơn giản là cố gắng chạm vào vật ấy. Khi phân tích các tín hiệu từ các vùng khác nhau từ não phát ra, các nhà khoa học có thể đoán được dự kiến của những người tình nguyện với độ chính xác rất cao so với đoán hú họa. Dù chỉ biết trước một ý định trước khi thực hiện có 1 giây thì trong nhiều tình huống cụ thể điều này vẫn có lợi ích rất lớn. Một nhà khoa học làm việc trong dự án này là John Culham nhận xét: “Những hình ảnh thể hiện hoạt động não cho chúng tôi rút ra được kết luận rằng việc lập kế hoạch hành động xảy ra trong những vùng khác nhau trong não người mà không cần phải cắm những điện cực trực tiếp vào não”. Ngoài mục đích quân sự và điều tra của cảnh sát, các nhà khoa học cho rằng phát minh này có ứng dụng rất quan trọng trong y học.: “Nếu chúng ta có thể đọc trước được mong muốn của một người nhờ những tín hiệu của não thì chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng các tín hiệu để điều khiển các chi giả cho những thương bệnh binh, trong số đó có cả những người bị bại liệt do tổn thương cột sống”, ông Hallivan nhấn mạnh. Theo Vietnamnet
-
Xin chia buồn cùng anh Hoàng Triều Hải và Gia đình.
-
Chúc mừng Sinh Nhật cô Wildlavender kính chúc cô luôn mạnh khỏe và an lạc!
-
(LĐĐT) - Dưới đây là 10 bí ẩn vẫn đang chờ các nhà khoa học đưa ra được những lời giải rõ ràng. 1. Vũ trụ bắt đầu như thế nào? Trả lời được câu hỏi này thì nhiều bí ẩn khác sẽ được làm sáng tỏ. Đã từng có giả thuyết rằng vũ trụ khởi đầu bằng vụ nổ Big Bang 13,7 tỷ năm trước đây, rồi dần dần từ nhỏ bé vũ trụ bắt đầu trở nên khổng lồ như ngày hôm nay. Vấn đề là, đấy mới chỉ là dự đoán, chứ sự thật thì không thể kiểm chứng. 2. Người hành tinh khác có tồn tại không? Sự sống có ở khắp nơi. Ít nhất là trên hành tinh này. Do đó, có thể giả định là sự sống cũng có ở trong vũ trụ. Nhưng cho tới nay, chúng ta mới chỉ khám phá được trái đất này, do đó vũ trụ ngoài kia vẫn là bí ẩn.Có thể có những hành tinh khác cũng có sự sống. "Nhân loại đã phát minh ra nhiều nền văn minh khoa học và công nghệ trong vòng 200 năm qua, mà trái đất có tuổi thọ khoảng 4,5 tỷ năm, vậy chúng ta có thể cho rằng có những nền văn minh khác có tuổi đời hàng triệu thậm chí là hàng tỷ năm ở ngoài vũ trụ mênh mông kia”, ông Frank Wilczek, nhà Vật lý học từng đoạt giải Nobel nói. 3. Có Lý thuyết của vạn vật không? Các nhà vật lý học có một “mô hình chuẩn” khi phân tích vũ trụ thành các phân tử để mô tả mọi vật từ hiện tượng từ tới các nguyên tử cấu thành và nó duy trì sự ổn định như thế nào. Mô hình chuẩn coi các phân tử là những điểm vô cùng nhỏ, một số điểm có những năng lượng cơ bản.Có 2 vấn đề với mô hình chuẩn là: Nó không giải đáp được vấn đề trọng lực và nó không đúng với các nguồn năng lượng cao. 4. Cái gì tạo nên trọng lực? Nếu bạn nghĩ Newton đã chứng minh được vấn đề này thì bạn đã nghĩ sai rồi. Trọng lực là lực yếu nhất trong vũ trụ và mô hình vật lý chuẩn không giải thích được nó vận hành thế nào. Nhiều nhà khoa học cho rằng nó liên quan tới các phân tử nhỏ bé, nhỏ tới mức vô hình được gọi là các hạt graviton tạo nên các trường lực hút.5. Phần còn lại của vũ trụ ở đâu? Thật là khó khi cố tìm hiểu về một vật mà nó không có ngay trước mặt. "Tôi gọi là nó là phần tối của vũ trụ”, ông Michael Turner một nhà vũ trụ học tại Đại học Chicago nói vậy khi ám chí về những bí ẩn lớn của vật tối và năng lượng tối.Trên thực tế, mới chỉ có 4% vật chất và năng lượng của vũ trụ được tìm thấy, 96% còn lại vẫn còn nằm ngoài tầm với. Mặc dù vậy, các nhà khoa học vẫn đang kiếm tìm trong những vùng không gian xa nhất và sâu nhất trái đất để giải đáp hai câu đố về bóng tối kia. 6. Bộ não hoạt động như thế nào? Nhiều độc giả cho rằng chúng ta xử lý việc này đã tốt lắm rồi, tuy nhiên với hàng tỷ nơron thần kinh, mỗi nơron lại có hàng nghìn kết nối, đây thực sự là một vấn đề hóc búa."Chúng ta đều nghĩ là mình hiểu về bộ não – ít nhất là bộ não của chính mình thông qua kinh nghiệm bản thân. Nhưng kinh nghiệm chủ quan của chúng ta thực sự là chưa đủ để giải thích bộ não hoạt động như thế nào" ông Scott Huettel thuộc Trung tâm Khoa học thần kinh nhận thức của trường Đại học Duke nói. "Chúng ta chưa có phương pháp để nghiên cứu xem các nhóm nơron hình thành các mạng lưới chức năng khi chúng ta học tập, ghi nhớ, hoặc làm những hoạt động khác như nhìn, nghe, yêu. Nếu chúng ta hiểu được bộ não, chúng ta sẽ biết các khả năng và hạn chế của nó trong suy nghĩ, cảm xúc, lý luận, yêu thương và các lĩnh vực khác của đời sống con người", ông Norman Weinberger, một nhà khoa học thần kinh tại trường Đại học California, Irvine cho biết. 7. Sự sống xuất hiện trên trái đất như thế nào? Những bằng chứng trước đây cho thấy sự sống dạng vi khuẩn và đơn giản xuất hiện trên trái đất hơn 3 tỷ năm trước. Nhưng nó tiến triển thế nào thì không ai biết. Có các giả thuyết cho rằng nó bắt đầu từ các phản ứng hóa học trên thềm lục địa nhờ hơi nóng dẫn tới các phản ứng trên đá.Bà Diana Northup, một nhà sinh vật học tại trường Đại học New Mexico cho biết "Nhiều giả thuyết về nguồn gốc sự sống đã bị bác bỏ và vì việc chứng minh và phản bán nó đều khó khăn cả nên không có giả thuyết nào được chấp nhận một cách đầy đủ". 8. Bạn là ai? Nhận thức tự nhiên đã cản trở các nhà tâm lý học và khoa học nhận thức. Tuy nhiên, theo ông Joseph LeDoux, một nhà khoa học thần kinh tại trường Đại học New York thì một phần câu trả lời lại rất đơn giản: Phần lớn động cơ của chúng ta được lưu giữ trong mạng lưới thần kinh mà ý thức không thể truy cập vào được. Hàng ngày, trực giác tự ý thức và kiểm soát hành vi cũng chệch chuẩn chẳng khác gì ý kiến cho rằng trái đất là một mặt phẳng. Dù chúng ta nghĩ mình là các cá nhân độc lập, nhưng sự thật thì không phải vậy. Mọi việc chúng ta làm đều chịu ảnh hưởng của các quá trình vô ý thức và môi trường xung quanh. 9. Điều gì xảy ra dưới một trận động đất? Các chuyên gia có thể giải thích chính xác động đất bắt đầu ở đâu, là động đất do đứt đoạn gì và dự đoán nó xảy ra trong bao lâu. Tuy nhiên họ lại không chắc về chuyện cái gì xảy ra bên trong quả địa cầu này khi có động đất. Bản chất và phản ứng của các lực giữ các đứt đoạn chuyển động và rồi đột nhiên bị gãy vẫn chưa được khám phá.Nhà địa lý học Tom Heaton cho biết "Sự gãy khúc trong các trận động đất là một trong những vấn đề cơ bản nhất của khoa học trái đất. Tìm ra hiệu ứng vật lý cơ bản của động đất vẫn là một bài toán bí ẩn suốt 30 năm qua". 10. Điều gì dẫn tới sự tiến hóa? Điều gì dẫn tới sự tiến hóa? Có thể bạn đã từng nghe các nhà khoa học nói rằng: Sự chọn lọc tự nhiên chính là động lực chính dẫn tới sự sắp xếp các sinh vật và đặc điểm phức tạp của chúng. Đó là một trong những giả thuyết được kiểm chứng tốt nhất trong khoa học.Nhưng tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên liệu có phải là lời giải thích duy nhất cho các sinh vật phức tạp? "Tôi cho rằng một trong những bí ẩn nhất của sinh học hiện nay tìm hiểu xem liệu việc chọn lọc tự nhiên có phải là quá trình quy nhất có thể tạo ra sự phức tạp về sinh vật học hay là có sự tham gia của các thành phần vật chất khác”, ông Massimo Pigliucci thuộc Khoa Sinh thái học và Tiến hóa tại trường Đại học Stony Brook (New York) nói. Nguồn: laodong.com.vn
-
Có 1 trang Web về Skymap trực tuyến http://www.sky-map.org/ mọi người vào xem có giúp được gì không. Kính.
-
Những điểm tương đồng giữa lục bát và quẻ dịch Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Ca dao tiếng nói mang đầy âm sắc dân tộc cũng được chuyển tải bằng con thuyền Lục bát. Thể thơ Lục bát do đâu mà có, xuất hiện từ thời nào? Quá trình hình thành và phát triển ra sao, thật khó có câu trả lời chính xác. Tuy nhiên có một điều đáng nói là giữa câu Lục bát và quẻ Dịch có những điểm tương đồng quá diệu kỳ. Khó có bằng chứng nói rằng Lục bát khởi nguyên từ Kinh Dịch, nhưng sao giữa một thể thơ và một quẻ Dịch tưởng chừng như xa lạ lại có quan hệ như huyết thống đến thế! Lục bát là thể thơ gồm một câu 6 tiếng và một câu 8 tiếng, tiếng cuối câu lục vần với tiếng thứ 6 câu bát. Tiếng cuối câu bát lại vần với tiếng cuối câu lục tiếp sau. Về thanh, thường là tiếng thứ hai thanh bằng, tiếng thứ tư thanh trắc, tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám thanh bằng, còn các tiếng ở vị trí lẻ thì tự do theo luật "nhất, tam, ngũ bất luận". Nếu có tiểu đối ở câu lục thì có thể thay đổi thanh. Về thanh còn có luật cao - thấp. Nếu tiếng thứ sáu của câu bát là thanh ngang thì tiếng thứ tám của câu thơ ấy là thanh huyền và ngược lại. Quẻ Dịch hình thành do sự kết hợp giữa các hào âm và hào dương. Có hai loại quẻ: - Quẻ đơn gồm có ba hào, có tất cả 8 quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. - Loại quẻ kép gồm có 6 hào, có tất cả 64 quẻ kép. Trước hết hãy nói về câu Lục. Câu Lục có 6 tiếng tức là 6 đơn vị tương đồng quẻ kép có 6 hào cũng là 6 đơn vị. Để tạo nhạc điệu trầm bổng cho thơ, Lục bát sử dụng 6 dấu giọng: không dấu, huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Có hai loại thanh. Thanh bằng: ngang (không dấu) và huyền. Loại này tương ứng với hào âm trong Kinh Dịch Thanh trắc: sắc, nặng, hỏi, ngã. Loại này tương đương với hào dương trong Kinh Dịch. Thơ Lục bát chính thể phải tuân theo luật bằng trắc. Lục Bát luật bằng, chữ thứ 2, 6, 8 thanh bằng; chữ thứ 4, 7 thanh trắc. Ngày xưa Lục Bát được viết bằng chữ Nôm, câu thơ được viết theo chiều dọc chứ không viết theo chiều ngang như với mẫu tự La tinh ngày nay. Nên về hình thức câu Lục càng có dạng sát với dạng quẻ Dịch hơn: Chữ Hào (hào âm --), (Hào dương ----) Trăm -- năm -- trong -- cõi ---- người -- ta -- (câu Lục này về hình thức tương đương quẻ Địa Sơn Khiêm) Đã ---- đày -- vào -- kiếp ---- phong -- trần -- (câu Lục này về hình thức tương đương quẻ Thuần Cấn) Lục bát thường dùng cơ số chẵn (6, 8), thiên về luật bằng (chữ thứ 2, 6, 8 thanh bằng) nghĩa là thiên về âm hơn dương. Âm thuộc về đất, về mẹ cho nên Lục bát chính là mảnh đất màu mỡ cho tình cảm đơm hoa kết trái, là thể thơ đắc dụng cho loại thơ trữ tình. Câu Lục thường có nhịp đôi 2/2/2: Chập chờn / cơn tỉnh / cơn mê Người đâu / gặp gỡ / làm chi Còn non / còn nước / còn dài Đội trời / đạp đất / ở đời Trong một quẻ Dịch cũng thường chia làm 3 vế hay 3 đoạn. Mỗi đoạn có 2 hào. Hào 6 và hào 5 (kể từ dưới lên) thường nói về trời (thiên). Hào 4 và hào 3 thường nói về người (nhân). Hào 2 và hào 1 thường nói về đất (địa). Dưới đây là quẻ Càn: Hào 6: Kháng long hữu hối (Rồng lên cao quá, có hối hận) Hào 5: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân (Rồng bay lên trời, có lợi khi gặp đại nhân) Hào 4: Hoặc dược tại uyên, vô cữu (Hoặc nhảy, hoặc nằm vực sâu, không lỗi) Hào 3: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch, nhược, lệ, vô cựu (Quân tử suốt ngày cứng cõi, chiều tối vẫn thận trọng lo sợ, không lỗi) Hào 2: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân (Rồng hiện ra ruộng,có lợi gặp đại nhân) Hào 1: Tiềm long vật dụng (Rồng còn ẩn náu, chớ dùng) Ta thấy ở quẻ này phân đoạn 2/2/2 rất rõ. Hào 1 và hào 2 có chữ điền là ruộng, rồng hiện ở ruộng, chỉ đất (đạp đất). Hào 3 và 4 có chữ quân tử, người quân tử suốt ngày phải cứng cõi chỉ người (ở đời). Hào 5, hào 6 có chữ Thiên, rồng bay lên trời, chỉ trời (đội trời). Câu thơ "đội trời, đạp đất, ở đời" của Nguyễn Du về hình thức có điểm tương đồng với quẻ Dịch. Khi có tiểu đối, câu Lục được viết theo nhịp 3/3. Lúc này thì chữ thứ hai có thể biến luật, bằng có thể đổi thành trắc: Mai cốt cách / tuyết tinh thần Làn thu thuỷ / nét xuân sơn Đau đớn thay / phận đàn bà Quẻ kép 6 hào, gồm hai quẻ đơn 3 hào, như vậy về hình thức cũng tương đồng với câu Lục 3 / 3, như quẻ Địa Sơn Khiêm gồm quẻ Địa và quẻ Sơn, quẻ Thuần Cấn gồm quẻ Cấn (đơn), quẻ Thuần Càn gồm hai quẻ Càn (đơn). Khi câu Lục ở dạng 3 / 3 câu thơ sẽ tạo thành một cặp tiểu đối, như câu "Làn thu thuỷ, nét xuân sơn" có hai vế đối nhau, từng chữ đối nhau: Làn / nét, thu / xuân, thuỷ / sơn. Đối cũng là tố chất đặc biệt của Dịch, trong 8 quẻ đơn, các quẻ đối nhau từng đôi một: Càn (trời) / Khôn (đất) Khảm (nước) / Ly (lửa) Tốn (gió) / Chấn (sấm) Cấn (núi) / Đoài (đầm) Có thể thấy sau đây mấy dạng tương đồng: Sương -- / ---- Tuyết In -- / -- pha mặt ---- / -- thân (quẻ Lôi) / (quẻ Sơn) (Theo Dịch đây là quẻ Lôi Sơn Tiểu quá, quẻ Lôi là lật ngược của quẻ Sơn) Mai -- / ---- Tuyết cốt ---- / -- tinh cách ---- / -- thần (quẻ Trạch) / (quẻ Sơn) (Quẻ Trạch Sơn Hàm, Trạch (đầm) đối với Sơn ( núi), âm đối với dương,bằng đối với trắc). Điều thú vị là đôi khi ngẫu nhiên mà ý của câu thơ với nghĩa của quẻ lại hô ứng với nhau cách kỳ lạ, nhất là đối với thiên tài Nguyễn Du, sự trùng hợp như thế này không chỉ xuất hiện một lần. Cách thay đổi tiết tấu, độ bổng trầm, lực âm dương trong câu lục làm cho nhạc tính đồn dập hơn, tha thiết hơn khiến câu thơ giàu thi ảnh, hiệu ứng cảm thụ cao hơn, như câu "Đau đớn thay, phận đàn bà" không những hay về ý mà còn phong phú về âm. Câu này nếu chuyển qua dạng quẻ là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, nghĩa của quẻ là gặp nạn, gặp khó khăn, nguy hiểm. Khi nỗi đau đớn của Kiều lên đến tột đỉnh, Nguyễn Du sử dụng độ bằng trắc tương ứng cấu trúc quẻ Sơn, thể hiện nỗi khổ của Kiều càng ê chề hơn: Ối Kim lang, hỡi Kim lang (hai quẻ Sơn) Đã đày vào kiếp phong trần (hai quẻ Sơn) Bắt phong trần, phải phong trần (hai quẻ Sơn) Kiếp hồng nhan, có mong manh (hai quẻ Sơn) ( t b b / t b b ) (---- -- -- / ---- -- -- ) Câu thơ vút lên như tiếng thét rồi đổ xuống theo độ bổng trầm, dương đổ xuống âm, có hình dáng thế núi của quẻ Sơn, như những nỗi khổ chồng chất đè nặng trên kiếp người vừa gợi ý, vừa gợi thanh vừa gợi hình, rất sinh động. Câu "Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi" là gồm quẻ Hoả và quẻ Sơn tức quẻ Hoả Sơn Lữ, chữ lữ trong chữ lữ khách, chỉ kẻ xa nhà, ý câu và nghĩa quẻ thật phù hợp với nhau. Lúc Thuý Kiều bị đày ra Quan Âm Các, Nguyễn Du viết: Có thảo thụ, có sơn hồ, Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh. thì câu lục có dạng quẻ Thiên Sơn Độn, Độn nghĩa là đi trốn, đi ở ẩn. Nguyễn Du ít khi dùng một vế có ba thanh trắc, thế mà ở đây nhà thơ lại viết như vậy, có phải là ngẫu nhiên chăng? Tam Hợp đạo cô nói về kiếp nạn của Thuý Kiều: Hết nạn ấy, đến nạn kia Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần Thì câu lục được cấu tạo theo dạng quẻ Thiên Phong Cấu. Cấu là gặp. Lúc Thuý Kiều lọt vào tay Bạc Bà, Nguyễn Du đã viết: Khéo oan gia, của phá gia Câu này tương ứng dạng quẻ Sơn Phong Cổ. Cổ có nghĩa là đổ nát. Lần đầu tiên, Kim Trọng gặp Thuý Kiều, Nguyễn Du hạ bút: Người quốc sắc, kẻ thiên tài Kim Trọng hợp hôn với Thuý Vân, tác giả khen: Người yểu điệu, khách văn chương, hai câu Lục trên đều có dạng quẻ Trạch Sơn Hàm. Hàm là cảm nhau. Và cả câu Lục: Càng yêu vì nết, càng say vì tình, Thêm nến giá, nối hương bình, cũng là dạng Trạch Sơn Hàm. Về câu Bát Câu Bát thường có nhịp 2/2/2/2 hay 4/4. 8 quẻ đơn trên vòng Hậu Thiên Đồ, đọc theo thứ tự tiết điệu chẳng khác gì câu Bát: Càn Khảm / Cấn Chấn / Tốn Ly / Khôn Đoài. Tám quẻ đơn thường chia làm hai loại: 4 quẻ Dương (Càn, Khảm, Cấn, Chấn) đối với 4 quẻ Âm (Khôn, Ly, Tốn, Đoài), hào âm đối với hào dương. (4/4) Trên vòng Tiên Thiên Đồ, 8 quẻ đơn cũng được chia thành 2 vế: Càn Đoài Ly Chấn và Tốn Khảm Cấn Khôn. Các quẻ này đối nhau qua tâm: Càn / Khôn, Đoài / Cấn, Ly / Khảm, Chấn / Tốn. Câu Bát có khi cũng được ngắt theo nhịp 4/4 và thường đối nhau theo vế: Khuôn trăng đầy đặn / nét ngài nở nang Mây thua nước tóc / tuyết nhường màu da Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh Chúng ta sống trong thế giới của sóng và hạt. Mỗi thanh điệu đều gây chấn động, tác động đến mỹ cảm của con người. Kinh Dịch thể hiện trí tuệ tuyệt vời của nhân loại, hầu như đã nắm bắt được quy luật vận hành của vũ trụ, trong đó có luật âm dương tương tác. Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều cũng đã đạt đến mức cảm ứng hài hoà với quy luật thanh âm của vũ trụ, đã hoà nhập được với bước sóng của vũ trụ nên có nhiều mối đồng thanh tương ứng với Kinh Dịch, phải chăng nhờ thế mà nhà thơ đã thiết lập được nhiều điểm tương đồng giữa Truyện Kiều và Kinh Dịch, giữa quẻ Dịch và thơ Lục Bát. Nguyễn Thiếu Dũng Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
-
Xin chia buồn cùng gia đình anh LinhTrang. Cầu chúc vong linh của cụ sớm được siêu thoát.
-
Hải Phòng: Lốc xoáy kinh hoàng, 2 người chết, 79 người bị thương Thứ Sáu, 24/06/2011 - 08:42 (Dân trí) - Theo UBND huyện Thủy Nguyên, cơn lốc xoáy kinh hoàng gây vào 17h30 phút ngày 23/6 đã khiến 2 người tử vong, trong đó có 1 sản phụ và 79 người bị thương, hơn 1.000 nóc nhà tốc mái. Sáng nay 24/6, ông Bùi Văn Vi - Phó Chủ tịch UBND huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) cho biết: “Theo thống kê chính thức về mức độ thiệt hại do cơn lốc xoáy gây nên trên địa bàn tính đến thời điểm hiện tại, có 79 trường hợp bị thương. Đặc biệt thương tâm nhất là trường hợp một sản phụ mang thai sắp đến ngày sinh tử vong”. Cảnh tượng hoang tàn sau cơn lốc xoáy. Theo thông tin từ ông Vi, cơn lốc xoáy xuất hiện hết sức bất ngờ, hoàn toàn được hình thành trong đất liền với một vệt quét dài khoảng 300 mét xoáy từ hướng Nam qua khu vực cây đa xã An Lư sang đến địa phận xã Trung Hà, chỉ trong khoảng 10 phút đã gây ra những thiệt hại hết sức nặng nề. Do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, mưa lớn đã xuất hiện trên nhiều địa bàn thuộc các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh. Tính đến thời điểm hiện tại, có hơn 1.000 nóc nhà bị tốc mái, trong đó có 2 trường học, 16 nhà đổ sập hoàn toàn, nhiều cây cối, cột điện cũng bị gãy đổ ngổn ngang. Sau khi cơn lốc bất ngờ xảy ra, UBND huyện Thủy Nguyên phối hợp với UBND TP Hải Phòng lập phương án khắc phục hậu quả, trước mắt hỗ trợ mỗi nạn nhân tử vong 5 triệu đồng và lập các phương án sẵn sàng ứng phó nếu những cơn lốc xoáy bất thường tiếp tục xuất hiện trên địa bàn. Cùng lúc đó, tại Yên Bái, do mưa lớn kéo dài trong đêm 22 và sáng 23/6 đã gây ra lũ quét ở thôn Sua Lông, xã Nậm Khắt huyện Mù Cang Chải làm 4 người thiệt mạng. Đến hơn 16 giờ chiều 23/6, lực lượng cứu hộ bản mới tìm được thi thể của cháu Thào A Hù bị lũ cuốn trôi đến đoạn suối thuộc xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, cách nơi bị nạn 6 km. Ông Giàng A Tông, Chủ tịch UBND huyện Mù Cang Chải - người đang có mặt tại hiện trường để chỉ huy lực lượng tìm kiếm các nạn nhân cho biết: Khoảng 8 giờ sáng 23/6 ở thôn Sua Lông xã Nậm Khắt có 5 người Mông rủ nhau đi xúc cá là ông Thào A Trống 60 tuổi cùng con trai là Thào A Hù, ông Thào A Giàng, ông Giàng A Lềnh và ông Giàng A Hù. Đang xúc cá, bất ngờ nước lũ ập tới, cả 5 người vội bám vào một cây gỗ nằm trên bãi đất giữa hai khe suối nhưng vì nước lũ quá to cuốn trôi cả thân cây cùng 5 người theo dòng nước. Riêng ông Giàng A Hù may mắn thoát chết do nước cuốn dạt vào ven suối nên đã bám được vào cây cối để leo lên bờ. Lãnh đạo huyện Mù Cang Chải đã huy động trên 100 người gồm lực lượng quân đội, công an, dân quân tự vệ và nhân dân trong vùng đang tiến hành tìm kiếm thi thể các nạn nhân. Tuy nhiên, đến 16 giờ 20 phút chiều nay nước lũ vẫn còn khá lớn nên công tác tìm kiếm hiện đang gặp khó khăn. Anh Thế - Đức Tưởng
-
Thưa Sư Phụ con đưa ảnh Nhà Trắng nhìn từ trên cao xuống Mặt bằng Nhìn từ phía trước Kính.
-
Đây là một đề toán viết sai dẫn đến mọi người hiểu mỗi người một kiểu và đương nhiên là có nhiều kết quả. Ngôn ngữ toán học rất trong sáng và minh bạch. Vài lời lạm bàn.
-
Bão cực mạnh tàn phá trung-nam nước Mỹ, ít nhất 102 người chết Thứ Năm, 28/04/2011 - 14:15 (Dân trí) - Đêm qua là đêm thứ 2 liên tiếp, bão cực mạnh tàn phá một vùng rộng lớn ở trung và nam nước Mỹ, cướp đi sinh mạng ít nhất 102 người ở 6 bang. Các bang Alabama, Arkansas và Tennessee đã ban bố tình trạng khẩn cấp. Tổng thống Mỹ khẳng định sẽ hỗ trợ. Theo con số mới nhất cập nhật sáng nay (giờ Mỹ), chỉ trong vòng 24 giờ qua, đã có thêm ít nhất 96 người thiệt mạng trong trận siêu bão ở Mỹ. Thông báo đưa ra trước đó chỉ là 6 người. Từ ngày 27/4 (giờ Mỹ), hậu quả tàn khốc mà trận bão để lại kéo dài từ Taxas đến Georgia và Tenessee. Bang bị tổn thất nặng nề nhất là Alabama: nhà cửa bị kéo đổ, cây cối ngổn ngang... Chỉ riêng bang này đã xác nhận có 61 người thiệt mạng. Thị trưởng bang Alabama, ông Robert Bentley đã huy động 1.400 binh sĩ quân đội hỗ trợ tìm kiếm nạn nhân và ổn định trật tự. Tổng thống Mỹ Barack obama tuyên bố tình trạng thảm họa và gửi lời chia buồn tới gia đình các nạn nhân. Ông cũng thông báo sẽ hỗ trợ tài chính cho Alabama . Đợt bão và gió lốc dữ dội đêm trước cũng đã giết chết ít nhất 10 người ở Arkansas và 1 người ở Mississippi. Có nhiều nạn nhân thiệt mạng vì cây đổ khi cố lái xe về nhà. Các bệnh viện địa phương xác nhận đã tiếp nhận hàng trăm người bị thương. Tại Louisiana, nước lụt làm một phụ nữ đang lái xe tử nạn và thi thể một người đàn ông chết đuối trên một con đường ngập nước cũng được phát giác. Tại Georgia, gió lớn làm tốc mái trường học và làm hư hại nhiều cửa sổ một bệnh viện. Tối hôm qua 27/4, lại nhiều giông bão kéo đến vùng bắc và trung bộ của Georgia. Cơ quan Dự báo Thời tiết Quốc gia cũng cảnh báo thời tiết xấu cho vùng đông bắc Dallas và nhiều nơi ở Arkansas. Ngày 16/4, cơ quan này cũng đã cảnh báo tương tự khi hàng chục cơn gió lốc cuồng nộ đánh vào Bắc Carolina làm cho 21 người chết. Hiện chưa có thống kê đầy đủ về số người bị thương hay còn mất tích vì bão lớn trong 2 ngày qua xảy ra trong nhiều tiểu bang vùng nam và trung tây nước Mỹ. Các chuyên gia vẫn đang dõi theo diễn biến phức tạp của cơn bão. Video lốc xoáy tấn công bang Alabama: http-~~-//www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=vWYBUNEdPOM Tổng hợp
-
Động đất gây hoảng loạn ở miền trung Indonesia Thứ Ba, 26/04/2011 - 18:24 (Dân trí) - Một trận động đất có cường độ 5,4 richter hôm nay đã rung chuyển đảo Java, đảo chính của Indonesia, khiến dân chúng hoảng loạn bỏ chạy khỏi nhà và các tòa văn phòng. Tuy nhiên, không có cảnh báo sóng thần được đưa ra. >> Hàng loạt trận động đất mạnh rung chuyển đảo của Indonesia Hiện cũng chưa có thông tin về thiệt hại và thương vong. Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho hay trận động đất có cường độ 5,4 richter, xảy ra ở ngoài khơi đảo Java và có tâm chấn cách nam thành phố Cirebon 140km, nằm sâu dưới lòng biển 78km. Trong khi đó, cơ quan địa chấn Indonesia cho biết trận động đất có cường độ 6,3 richter và ở độ sâu 24km. Đài phát thanh El Shinta cho hay rung chấn đã gây hoảng loạn ở khắp thành phố Garut gần đó. Indonesia nằm trong “Vành đai lửa” Thái Bình Dương, hình cung với nhiều núi lửa và đường gãy bao quanh lòng chảo Thái Bình Dương. Phan Anh Theo AP
-
Phát minh mới: Máy đọc ý nghĩ Cập nhật lúc 22/04/2011 08:00:00 AM (GMT+7) Điều này nghe giống như trong một tiểu thuyết giả tưởng: Người ta có thể giao lưu với nhau mà không cần lời nói, chỉ cần suy nghĩ một lát là được. TIN LIÊN QUAN Vệ tinh nhân tạo biết suy nghĩ Xe hơi điều khiển bằng ý nghĩ Bạn cho rằng đó là một ý nghĩ viển vông? Vậy thì bạn đã sai. Các nhà khoa học thuộc trường Đại học Washington mới đây đã tuyên bố rằng, cách thức giao tiếp này đã được thực hiện thành công trong phòng thí nghiệm. Lần đầu tiên các nhà khoa học đã có thể đem những suy nghĩ trong đầu một người thể hiện lên trên màn hình máy vi tính. Trong tương lai, con người có thể không cần giao tiếp với nhau bằng lời nói. “Chúng ta thực sự đã có thể đọc được ngôn ngữ tư duy”, Eric C. Leuthardt, người đứng đầu nghiên cứu này nói tại buổi họp báo: “Từ một mức độ nào đó, có thể nói đây là lần đầu tiên con người thực hiện được việc ‘đọc ý nghĩ’ – khám phá những suy nghĩ ẩn kín bên trong nội tâm con người”.Bí mật của chiếc máy đọc ý nghĩ này là một thể hình trụ nhỏ được cấy vào trong não bộ của các bệnh nhân. Trên các thể hình trụ này có gắn sẵn một chương trình có khả năng nhận biết được những sóng não do não bộ tạo ra khi người bệnh nghĩ đến một loại âm thanh nào đó. Khi người bệnh nghĩ đến một âm thanh đặc trưng nào đó (chẳng hạn ‘oo’, ‘ee’, ‘ay’, ‘a’), thể hình trụ được cài đặt sẵn chương trình này sẽ nhận ra và hiển thị lên màn hình máy vi tính. Trong quá trình làm thí nghiệm, bệnh nhân có thể thông qua những suy nghĩ của mình về một âm thanh nào đó để điều khiển sự chuyển động của màn hình máy tính. Các nhà khoa học cho rằng, nghiên cứu này có thể ứng dụng rộng rãi đối với những bệnh nhân tổn thương não hoặc thanh đới. Tuy nhiên, tương lai của nghiên cứu này không khỏi khiến nhiều người sởn gai ốc. Nếu như nghiên cứu này không dùng để trị bệnh cứu người thì mọi chuyện sẽ ra sao? Hãy thử tưởng tượng, sẽ đến một ngày, trong đầu của chúng ta được cấy một chiếc ống rồi sau đó, chỉ với một chiếc màn hình máy vi tính, chúng ta có thể nói chuyện với người thân ở khắp nơi trên thế giới mà không cần nói cũng không cần gõ bàn phím. Cái chúng ta cần làm chỉ là suy nghĩ. Công trình nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí “The Journal of Neural Engineering”. Lê Văn