thanhdc

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    420
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by thanhdc

  1. CHÚC MỪNG SINH NHẬT ANH HOÀNG TRIỆU HẢI CHÚC SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG VÀ HẠNH PHÚC !
  2. CHÚC MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20 - 11 - 2012 Kính chúc Sư phụ sức khỏe và an lạc
  3. Bí ẩn mộ táng trâu trong đàn tế Nam Giao Ít người biết, trong quá trình phục dựng, tôn tạo Đàn tế Nam Giao thuộc Thành nhà Hồ (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), các nhà khoa học đã phát hiện một mộ táng trâu còn nguyên vẹn bộ xương nằm giữa bức tường của Đàn tế. Nó được phỏng đoán là mộ táng chú trâu được dùng làm vật tế lễ khi khởi công xây dựng Đàn. Mộ táng bí ẩn TS Đỗ Quang Trọng - Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ, thông tin: "Trong quá trình tôn tạo, phục dựng Đàn tế Nam Giao, các nhà khoa học đã phát hiện một mộ táng nằm gọn trong huyệt xây bằng đá. Vị trí của ngôi mộ đá này nằm dưới lòng bức tường bao vòng ngoài của Đàn tế Nam Giao, phía tiếp giáp với núi Đốn Sơn." Rất nhiều các giả thiết được đặt ra, nhưng cuối cùng, để đảm bảo cho công tác phục dựng lại toàn bộ Đàn tế, đoàn khảo sát đã quyết định khai quật ngôi mộ táng. Thật bất ngờ, đó là một bộ xương rất to, trong tư thế nằm ngửa, gần như còn nguyên trạng. Đó là bộ xương gia súc, và nhiều khả năng là bộ xương trâu. Thời điểm phát hiện ra ngôi mộ táng này vào khoảng tháng 4/2012. Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ đưa ra kết luận, đây là bộ xương trâu. Nhưng câu hỏi đặt ra là, vì sao lại mai táng trâu ở vị trí xây dựng Đàn, và được dựng mộ đá khá nghiêm cẩn? "Đối với người phương Đông, quan niệm "tam sinh" (ba vật dùng trong lễ tế thần gồm trâu-dê-ngựa) đã trở thành luật bất thành văn và ăn sâu trong lòng người Việt. Có thể, ngày trước khi dựng Đàn tế, cụ Hồ Quý Ly đã cho cúng trâu để tế thần linh. Mặt khác, xứ Thanh là vùng canh tác lúa nước màu mỡ phì nhiêu, nên con trâu luôn được đánh giá cao, là "đầu cơ nghiệp". Có thể đó là lý do Hồ Quý Ly cho cúng tế thần linh bằng trâu, với mong muốn dân được no đủ, mùa vụ bội thu" - Tiến sỹ Trọng phân tích. Ngay gần vị trí mộ đá táng trâu trong Đàn tế, hai khối non bộ tự nhiên là một phần dính liền của núi Đốn Sơn (hòn núi mà Đàn tế dựa lưng vào theo thế phong thủy, tựa núi vọng thủy, vì phía trước Đàn tế là con sông nước trong vắt) xếp khá đối xứng nhau: một bên có 7 ngọn và một bên có 8 ngọn. Điều này cho thấy, đây là vị trí phong thuỷ đắc địa và người xưa khi xây dựng Đàn tế đã tận dụng sự đăng đối của tự nhiên để phối cảnh. Bộ xương trâu được phát lộ tại Đàn tế Nam Giao Trước khi di tích Đàn tế nằm trong quần thể Thành nhà Hồ được phong di sản văn hóa hế giới, Đàn tế Nam Giao là một khu đất bằng phẳng, được trồng keo, trồng cây bạch đàn, tai tượng... theo các dự án rừng khai thác của địa phương. Vị trí bức tường vòng ngoài của Đàn tế có mộ đá táng trâu và hai hòn non bộ đối xứng này, trước nguyên là một con đường mòn người dân bản địa từ khai phá để... đánh trâu vào núi. Người ta cũng đổ vật liệu thải của nhà máy sản xuất gạch gần đó khiến toàn bộ Đàn tế bị chôn lấp."Khi khai quật bức tường, chúng tôi thấy làm may mắn khi thấy một đoạn tường đổ xuống không hề bị lộn xộn mà theo từng lớp gần như nguyên vẹn. Trên cơ sở này, chúng tôi đã dựng lại, đo đếm và xác định được gần như chính xác chiều cao của Viên tường" - TS Trọng nói. Gian nan bài toán bảo tồn Theo sử sách, Đàn tế Nam Giao được xây dựng vào tháng 8/1402 trên núi Đốn Sơn (hay còn gọi là Núi Đún). Lễ tế Giao đầu tiên của triều Hồ được tổ chức cùng năm. Di tích Đàn tế nằm trong lòng hai đỉnh của ngọn núi này theo thế dựa vào tay ngai, lọt trong khu vưc La thành (vòng ngoài) của Di tích Thành Nhà Hồ. Do địa thế sát chân núi, thoải dần về phía Nam nên khu vực Nam Giao quanh năm khô ráo. Các cuộc khai quật khảo cổ từ năm 2004 đã làm xuất lộ một Đàn tế có nền móng còn tương đối nguyên vẹn nhất trong số các đàn tế Nam Giao được biết đến ở Việt Nam. Là người trực tiếp tham gia khai quật, phục dựng Đàn tế, TS Đỗ Quang Trọng kể lại: Năm 2004, sau khi dâng hương xin Đức Vua về việc khai quật Đàn tế, như được linh ứng, đoàn khảo cổ thực hiện một hố khai quật chỉ 12m2 thì thật bất ngờ khi phát lộ cửa phía Đông của Đàn tế. Bởi trước đó, toàn khu này là vườn trồng keo lá tràm của người dân, bệnh viên và hàng loạt nhà ở của dân đã tồn tại nhiều năm trên mảnh đất này. Thậm chí, nhiều ngôi mộ táng của dân trong vùng cũng đã được chôn cất ở đây từ lâu. Chính vì thế, khi phát lộ hố khai quật đầu tiên, các nhà khoa học đã nhanh chóng định hình khu vực Đàn tế để khai quật, không làm hỏng những gì còn lại. Phần khảo cổ đã phát lộ cho thấy, di tích đã bị phá hoại nghiêm trọng, bởi các yếu tố như: Việc trồng cây keo tai tượng và các loại cây khác đã đàn phá vào nền móng; việc xây dựng nhà ở của dân đã san bạt di tích, đào phá nền di tích và khai thác tối đa nguồn đá cổ để xấy dựng, khiến trên 90% đá của di tích đã bị lấy mất; việc xây dựng lò nung vôi cạnh di tích và lấy đá di tích để nung vôi vừa phá huỷ đá vừa phá huỷ chân nền di tích; việc xây dựng đường xe trâu cũng phá huỷ phần lớn Viên đàn và Thần đạo cùng hai Tam quan ở nền 2; việc xây dựng Bệnh viện Vĩnh Lộc đã san mất toàn bộ góc Tây Nam nền 5; việc đào ao của dân đã phá huỷ toàn bộ góc Đông Nam ở nền 5...Do ý nghĩa và giá trị to lớn của di tích nên việc bảo tồn cấp thiết trước khi có một giải pháp tổng thể là vô cùng cấp bách. Nếu không bảo tồn thì nguy cơ di tích bị biến mất sẽ rất cao. Các chuyên gia của Tổ chức quốc tế về các công trình và di tích (ICOMOS) đã có văn bản yêu cầu chống xói lở, bảo tồn khẩn cấp cho di tích. Do vậy, Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ đã khẩn trương phối hợp với các đơn vị tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, tư vấn thi công tiến hành công tác bảo tồn. Sau quá trình dài vừa khai quật vừa đi học hỏi công tác bảo tồn đàn tế và di tích ở các nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, các nhà khoa học đã chọn được hướng bảo tồn khả thi nhất. Lúc đầu, có ý kiến cho rằng, nên làm một khu nhà bạt rộng để che chắn gió mưa. Thế nhưng, phương án này bị bác bỏ, vì vừa tốn kém vừa thiếu thực tế, khả năng bị đổ do gió bão rất cao. Cũng có phương án đưa ra là nên che bạt như ở một số di tích đã làm. Thế nhưng, phương án này cũng không nhận được sự đồng thuận cao. Cuối cùng, sau khi trực tiếp tham quan di tích khảo cổ kinh đô Asuka và Nara ở Nhật Bản, các nhà khoa học đã thống nhất dùng một loại giấy đặc biệt của Nhật. Theo đó, sau khi khai quật, từng phần sẽ được bao bọc loại giấy này, sau đó lấp đất lên trên để tôn tạo theo phác thảo hình khối ban đầu của Đàn tế, giúp chúng ta có thể mường tượng rõ nhất về tổng thể khu vực Đàn tế cách đây hơn 600 năm. Tổng diện tích mặt bằng Đàn tế khoảng 30.000 m2; khối lượng đất đào đắp xây dựng nền Đàn ước khoảng 30.000m3. Di tích có cấu tạo 5 cấp cao dần lên (nền 1 cao nhất là 21,7m; nền 5 thấp nhất là 12m so với mực nước biển); các cấp nền được xây bó vỉa bằng đá, móng tường đàn được xây bằng các loại đá phiến và đá phấn có màu đỏ son và vàng nhạt; trên các nền Đàn còn lại dấu tích các công trình kiến trúc như đường Thần đạo, nền sân lát gạch, các vòng tường đàn, nền đàn thờ đa thần, Viên đàn, Thần trù, Thần khố, Trai cung, Giếng Vua, hệ thống cống thoát nước, đường đi, các cổng, cửa được bố trí rất đăng đối và khoa học... Với ngôi mộ đá táng trâu nằm trong bức tường của Viên thành, thời điểm hiện tại, người ta mới lấy tạm một tấm phên tre phủ lên trên bề mặt. Theo kế hoạch, tới đây, số cốt xương của con trâu được chọn đem tế lễ hơn 600 năm về trước sẽ được khai quật. Mô hình mộ đá sẽ được dựng lại để đảm bảo thống nhất toàn vẹn của di tích Đàn tế trong quần thể Di sản Thành nhà Hồ. Theo Thái Linh Tuần Việt Nam
  4. Kính SP Con xin đăng ký 2 cuốn ạ.
  5. Đề tài nghiên cứu: Y học Dân gian nước Việt 1/9/2012 11:41:03 AM Bài viết: Y học Dân gian nước Việt Nói đến Y học cổ truyền thuần Việt là nói đến Y học dân gian nước Việt. Bởi vì, y học thành văn cổ truyền của dân tộc ta đã bị quân xâm lược cướp mất rồi. Năm 1761(cách ngày nay gần 300 năm) bộ sách Nam Dược thần hiệu do Hòa thượng Bản Lai bổ sung với nguồn tư liệu gốc của Tuệ Tĩnh được coi là xưa nhất mới được xuất bản. Từ thời điểm đó nền y học thành văn của dân tộc ta mới chính thức có mặt trên văn đàn. Nếu chỉ căn cứ vào văn bản học thì dân tộc Việt tuy có bốn nghìn năm lịch sử mà nền y học thuần Việt mới chỉ có tuổi đời 300 năm sao? Trang thông tin điện tử “Việt y cổ truyền” muốn chứng minh không phải như vậy. Cộng đồng các dân tộc Việt trước khi bị giặc phương Bắc nô dịch đã có hai nghìn năm lịch sử. Trải hai nghìn năm kể từ buổi hồng hoang đến khi bị ngoại bang xâm lược, dân tộc Việt đã là một dân tộc trưởng thành: biết đúc trống đồng, xây thành đắp lũy, chế tạo vũ khí bắn một phát ra hàng trăm mũi tên bay để giết quân thù. So với các dân tộc cùng thời, người Việt lúc đó đã là dân tộc văn minh hơn cả kẻ xâm lược. Một dân tộc có trình độ văn minh như thế nhất định phải có một nền y học đủ mạnh để duy trì nòi giống. Giặc ngoại xâm với dã tâm đồng hóa đã tiêu hủy nền văn minh của dân tộc Việt, tất cả những vật chứng cho sự tồn tại của nền văn minh đó bị xóa sạch. Minh Thành Tổ đã chỉ thị cho viên tướng viễn chinh: “Khi đã vào nước Việt thì một nửa chữ viết của nó cũng phải tiêu hủy”. Nền y học đồ sộ thành văn của dân tộc cũng chịu chung số phận bi thảm đó. Nhưng kì diệu thay, cốt lõi của nền y học đặc sắc thuần Việt vẫn được bảo tồn bằng truyền khẩu trong trường kì lịch sử và nó hiện diện thành y học dân gian. Bằng chứng thực tế ghi nhận sự bảo tồn thành công nền y học dân tộc là hiệu quả chữa bệnh của “Thuốc Nam” mà Tuệ Tĩnh là người sưu tầm và công bố vào thế kỉ thứ 14. Giặc Tàu với dã tâm diệt chủng văn hóa Việt, tổ tiên ta đã dùng văn hóa Làng và truyền thống họ tộc để bảo tồn văn hóa của mình trong đó có nền y học dân tộc thuần Việt. Thoát họa “nghìn năm đô hộ giặc Tàu”, nước Việt lại rơi vòa vòng nô lệ “trăm năm đô hộ giặc Tây”. Thực dân Pháp cũng thực hiện chính sách đàn áp văn hóa Việt khốc liệt không kém giặc Tàu. Theo lời kể của giáo sư tiến sĩ Đỗ Tất lợi: “Dưới thời thuộc Pháp tây y được sự ủng hộ và nâng đỡ của chính quyền thực dân phong kiến, còn Đông y bị coi là không khoa học, bị khinh thường nhưng lại được đa số nhân dân tin dùng. Theo thống kê của chính quyền thực dân để lại, các năm 1930 - 1935 hơn 90% nhân dân vẫn tin dùng thuốc Đông y”. Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ đã chấm dứt thời kì đen tối nhiều thế kỉ cho y học dân tộc. Tinh thần chỉ đạo chung của Đảng cho Ngành Y tế nước nhà là “kết hợp Đông - Tây y luận trị bệnh”. Nhờ chủ trương sáng suốt của Đảng nên Ngành Y tế Quốc gia Việt nam hiện nay đã ngang tầm quốc tế. Đi theo phương hướng chỉ đạo của Đảng, chúng tôi chủ trương sưu tầm và giới thiệu những bài thuốc hay, những kinh nghiệm chữa bệnh dân gian có hiệu quả tốt đang tản mát trong cư dân với kì vọng phục hồi nền y học thuần Việt, làm phong phú thêm cho kho tàng y học của nước nhà. Trang tin điện tử “Việt y cổ truyền” hoan nghênh và trân trọng mọi đóng góp của các bạn có chung ý tưởng với chúng tôi. Mở đầu trang tin chúng tôi giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Y học Dân gian Lưu Hưng Linh để các bạn tham khảo. Tác giả bài viết chịu trách nhiệm khoa học về tác phẩm của mình. Rất mong các bạn gần xa góp ý. Xin trân trọng cảm ơn! Lương y: Kiều Bình Vinh Quang Đề tài nghiên cứu: Y học Dân gian nước Việt Chủ đề tài: Nhà nghiên cứu y học dân gian Lưu Hưng Linh Nền y tế của một quốc gia luôn có nhiều thành phần y học. Song hành với y học bác học còn có y học dân gian, Y học Gia đình, trong đó có Y học vô cùng đặc sắc của các dân tộc anh em. Y học bác học tuy giữ vị thế nổi trội vì ngoài tiềm lực tri thức khoa học hiện đại, phương tiện chữa bệnh tối tân, cơ sở khám chữa bệnh đồ sộ, Nó còn đại diện cho y học nói chung tham gia Công quyền. Đối với y học, sự nổi trội đó chưa phải là đã đủ để có thể nói lời phán xử cuối cùng đối với bệnh tật của con người. Loài người xuất hiện và phát triển hàng triệu năm còn y học bác học mới có cách đây hơn 2000 năm. Nếu không có y học dân gian, y học gia đình thì loài người còn sống sót cho tới ngày y học bác học ra đời không? Ở bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ thời đại nào y học dân gian luôn có mặt. Sự tồn tại của nó không chỉ vì lý do kinh tế: mức chi trả thấp phù hợp với sức mua của người nghèo đang là số đông trong dân cư, mà cái chính là nó có thể chữa khỏi những bệnh hiểm nghèo mà y học bác học bó tay. Hiệu năng chữa bệnh mà y học dân gian có được là nhờ nó chắt lọc được trí tuệ của toàn dân, trong đó có bí mật y học gia truyền là nòng cốt. Bí mật y học gia truyền được giữ kỹ vì tổ phụ chủ nhân của nó bằng kinh nghiệm sống chỉ giao bí mật gia truyền cho người trung thành với gia tộc mặc dù người đó thường là ít chữ. Cổ nhân cho rằng người Trí thức cậy mình nhiều chữ hay mắc bệnh “khoe chữ” và rất hiếu thắng. Khi cao hứng, thói sĩ diện hão khiến con người này không giữ được bí mật gia truyền. Do đó, thành tựu y học lớn của dân tộc chỉ lưu hành trong số ít người “Chỉ biết làm như đã dặn dò, không biết lập lý”, những cuộc phát động hiến tặng những bài thuốc gia truyền chỉ thu được cái xác của bài thuốc, không thu được cái hồn của bài thuốc, vị thuốc. Bí ẩn của y học cổ truyền là kỹ thuật thu hái ngâm tẩm chế biến vị thuốc. Vị cam thảo tươi (Sinh cam) chuyển chất rất xa khi mang nướng nó dưới ngọn lửa nhỏ của rơm lúa nếp. Có tới hơn 20 cách chế biến khác nhau biến sinh địa thành thục địa, để chữa cho chính một con bệnh ở các thời bệnh khác nhau... y học bác học (Tây y) mãi tới thế kỷ 20 mới phát hiện ra cái gọi là “thời dược lý học” để định giờ uống thuốc. Y học dân gian cổ truyền thường gặp khó khăn trong hành nghề bởi ngay trong cách diễn đạt y lý, y dược của nó. Các ông lang bà mế dù có thành tâm dâng hiến các bài thuốc gia truyền, nhưng các vị giám khảo thường là chuyên gia của y học bác học họ đặt ra những câu hỏi mà các ông lang, bà mế không trả lời được. Những bà mế nói tiếng kinh chưa thạo làm sao biện luận được tác dụng dược lý của các vị thuốc. Họ lại càng không thể trả lời được thành phần hoá học của các vị thuốc gồm có các hoạt chất gì, công thức hoá học của nó thế nào? Mang các vị Thuốc đi thử nghiệm ở các cơ sở Kiểm định dược chất hiện nay thì kết quả nhận được chỉ là vị thuốc có độc và không có độc mà thôi. Thử một vị thuốc tốn hàng triệu đồng, kết quả thu được rất đáng ngờ, vì có thể dùng quyền uy, dùng tiền mua được kết quả kiểm định theo như ý muốn. Đòi hỏi các ông lang, bà mế công bố kết quả điều trị lâm sàng giống như đánh đố. Các lang thuốc chúng tôi không có điều kiện tổ chức điều trị nội trú, họ chỉ biết nghe mạch bốc thuốc cho người bệnh, và phần lớn là người thân của bệnh nhân đến kể bệnh và xin thuốc. Bệnh nhân khỏi hay chưa khỏi họ chưa biết, người bệnh khỏi không đến nữa, hoặc đã đi theo dòng điều trị khác cũng chưa biết chừng. Với những ông lang có học, thông thạo y lý, dược lý thì lại vấp phải hàng rào ngôn ngữ của Tây y, họ không diễn tả được theo cách đọc Hoá – Lý. Cán bộ y tế nhà nước có công quyền kiểm định lại không hiểu y học dân gian. Họ không đối thoại được với nhau. I. Quan niệm của chúng tôi về y học Dân gian. 1. Dân gian 1.1. Dân bao gồm từ mầm sống bào thai trong bụng mẹ cho tới Đức Vua trị vì. Dân có dân lành, dân ác, người tự do và cả kẻ tội đồ đang chịu án tù trong nhà lao. Quan cũng chỉ là dân có chức vụ hành chính mà thôi. 1.2. Gian, theo nguyên nghĩa là chỉ không gian, như: thế gian, trần gian, nhân gian. Lợi dụng tính đồng âm dị nghĩa của từ này trong tiếng Việt, giai cấp thống trị thời phong kiến ức hiếp dân, dân không đủ sức chống lại trực diện, đã có nhiều hình thức đấu tranh khiến giai cấp thống trị thua đau nhưng không làm gì được liền nói: dân thì gian. Từ sự công nhận bất đắc dĩ này, mặc nhiên gia cấp thống trị thừa nhận trí tuệ Dân Gian thuộc tầm trí tuệ cấp cao. Nếu hiểu trí tuệ dân gian theo hướng đó thì các lĩnh vực Văn học, Y học, Triết học v.v... đều xuất hiện trí tuệ dân gian. Từ đó, khái niệm dân gian không chỉ ở thì quá khứ mà hiện diện ngay ở thì hiện tại. Hiểu như thế sẽ có: dân gian cổ truyền và dân gian hiện đại. Trí tuệ dân gian sẽ trở thành một phạm trù xã hội hằng định có mặt song hành với phạm trù xã hội hằng định: trí tuệ bác học. Trí tuệ bác học hình thành theo lập trình, được đào tạo ở học đường và được coi là chuẩn mực, là đỉnh cao trí tuệ của mỗi thời đại. Trí tuệ dân gian được hình thành qua chọn lọc tự nhiên (Kiểu Đac Uyn) không theo lập trình chủ quan mà theo quy luật vận động của cặp phạm trù tự do và tất yếu. Hai loại trí tuệ này luôn có ở bất cứ dân tộc nào, chúng có vẻ ngoài đối lập nhau nhưng thực ra có mối liên hệ giao thoa, bổ sung cho nhau âm thầm lặng lẽ và là yếu tố kích thích cùng phát triển cùng chiến thắng, không hề có sự thôn tính nhau, trà đạp nhau theo kiểu cá lớn nuốt cá bé – một hình thái tổng hợp tự nhiên của vận động phát triển và phản phát triển. Hiểu như vậy thì trí thức rất tự do. Anh không trở thành trí thức bác học thì thành trí thức dân gian. Dân gian và bác học nếu nhìn ở danh giá thì trí thức bác học “Oách hơn”. Nhưng đã là trí thức đúng với bản chất của nó thì danh giá chỉ là phù du, gây vướng bận cho trí thức mà thôi. Thực tế lịch sử của nước Việt, nhân tố làm nên “Nước Đại Việt ta là một nước văn hiến” thì sự đóng góp của tri thức dân gian gấp bội lần của tri thức bác học. Không nói tới quá khứ vì đã rõ rồi, ngay ở thì hiện tại cũng đang diễn ra như vậy. Lấy lĩnh vực văn học làm tỉ dụ: nền văn học bác học hiện thời đang đựơc đánh giá là tuyệt vời, điều đó là đúng. Nhưng một ai đó bỏ công sức sưu tầm được tất cả các tác phẩm văn học dân gian hiện đại rồi xuất bản xem. Chắc chắn văn học dân gian hiện đại tuyệt vời hơn rất nhiều lần văn học bác học đương đại. Bản thân tôi đã sưu tầm được hàng trăm truyện, kể cả thơ nữa. Cứ mỗi khi mệt mỏi hoặc có những giây phút “chán đời” mang những chuyện đó ra đọc. Đọc đến đâu cười đến đấy, trước khi đi ngủ nhớ đến chuyện đó lại bật cười. Nói đến chuyện này là để dọn đường đi đến với Y học Dân gian. 2. Y học dân gian nước Việt: Y học dân gian nước Việt chứa trong mình nó những thành tựu trí tuệ của thì quá khứ (cổ truyền) và cả ở thì hiện tại. Một câu hỏi cần được trả lời: làm cách nào và dựa trên tiêu chuẩn nào để phân biệt y học dân gian và y học bác học? Đây là câu hỏi lớn nhưng rất dễ trả lời: y học dân gian khác hẳn y học bác học trong tất cả các lĩnh vực từ y lý, y thuật, y trị và y dược. Cái khác hẳn không chỉ là cách khám bệnh, chữa bệnh và các vị thuốc mà cái khác hẳn ở chỗ những căn bệnh mà y học bác học chữa rất nhiêu khê phức tạp, thì y học dân gian chữa rất đơn giản mà không mất tiền mua thuốc – dân gian gọi là “chữa mẹo”. Thế thôi chưa đủ, cái khác hẳn giữa y học bác học và y bác học dân gian ở chỗ lớn hơn là: có những chứng bệnh y học bác học tuyên bố không chữa được, nếu có chữa thì cũng không khỏi hẳn bệnh. Đối với các chứng bệnh đó y học dân gian nói là chữa được mà có thể là khỏi hẳn. Đây chính là lẽ sống còn của y học dân gian, không có nó cũng có nghĩa cuộc đời không cần tới y học dân gian và y học dân gian cũng đã tuyệt diệt từ lâu rồi. Hiện đang có sự nhầm lẫn giữa y học dân gian thuần Việt với Trung Y cổ truyền. Ngay sách giáo khoa dạy ở các Trường Y có bìa ngoài đề là ”Y học cổ truyền”. Cổ truyền nào? Đọc xong cuốn sách thì đó là dạy Trung y cổ truyền. Cũng đang có sự ngộ nhận Trung y là Đông y. Các nước ngoài Trung Hoa đâu có chịu sự thống trị này. Nền y học Nhật Bản cả cổ truyền và hiện đại có nhiều lĩnh vực xuất sắc hơn hẳn Trung y; rồi còn Triều Tiên – nhất là Nam Hàn, Mã Lai, Nam Dương... đó là chưa dám nói tới nền y học cổ truyền của nước Ấn Độ vĩ đại nữa. Những điều nói trên không có ý thần thánh hoá y học dân gian giỏi hơn y học bác học mà chỉ là mô tả thuộc tính bổ sung của y học dân gian đối với sự nghiệp y tế của một quốc gia đang được nền y học bác học quản lý. Sự bổ sung của y học đân gian đối với y học bác học giống như hoạt cảnh đánh cờ. Người cầm quân thường là cao thủ thành danh, còn y học dân gian giống như người ngồi chầu dìa thường chỉ ở mức sạch nước cản thôi. Nhưng diễn biến cuộc cờ có những nước đi hiệu quả cao, thì vị cao thủ vì một lẽ nào đó không nhìn thấy. Thế là người ngồi chầu dìa mách nước khiến cả người thắng và người thua đều ngả mũ chào người chầu dìa và coi y mới đích thực là cao thủ, nhưng thực ra y mới ở tầm sạch nước cản thôi. Sự chơi cũng cần trí tuệ dân gian. Sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ cho nòi giống cho toàn dân lại càng cần trí tuệ dân gian hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, đối với người thầy lang dân gian thì hình tượng người chầu dìa là đúng. Nhưng đối với cả nền y học dân gian chưa hẳn là thế. Y học dân gian là thành tựu trí tuệ của toàn dân, trong đó có cả trí tuệ của những chuyên gia giỏi của nền y học bác học. Một chuyên gia y học bác học rất giỏi nghề, vì một lẽ nào đó chỉ có học vị bác sĩ thôi. Nhưng thực tài của ông thì người có học vị tiến sĩ cùng nghề cũng chỉ là học trò. Trong một lúc “bất đắc trí nào đó” ông buột miệng nói ra sự hiểu biết của mình vốn được giữ kín. Các lang thuốc dân gian vốn là các lãng tử phiêu dạt muôn phương “học lỏm” được trí tuệ thượng thặng đó. Thế là trí tuệ bác học nhập vào dòng trí tuệ dân gian. Ngược lại, nhiều chuyên gia y học bác học có nếp sống chan hoà bình dân cũng “học lỏm” được rất nhiều cách “chữa mẹo” của y học dân gian và từ đó ông có luận văn đạt tầm viện sĩ hàn lâm. Cuộc đời là thế! Trí tuệ y học dân gian rất khó xuất hiện như một hệ thống có cấu trúc như một trật tự logic. Khi nó đã xuất hiện như thế, mặc nhiên nó trở thành một phần của y học bác học. Ưu thế trí tuệ dân gian của nó từ đó mất đi. Y học dân gian được liên tục bổ sung bằng trí tuệ dân gian, không có trí tuệ dân gian thì không có y học dân gian. Lập ra một tổ chức, cho nó một toà nhà rất đẹp nhốt nó vào đó cũng tương tự như nhốt con chim Sơn Ca vào lồng son. Chim sơn ca không hót và nó chết. Mặt khác đây là đặc thù của y học dân gian bởi nó có cách khám bệnh và chữa bệnh rất kỳ lạ, lặng yên mà làm thì không sao miễn có hiệu quả là được. Nhưng khi công bố công khai, theo cách nói dân gian là “nói trắng phớ ra” thì lại gây hậu quả rất xấu. Ví dụ: phân người là chất thải rất kinh tởm chỉ có chó ta mới dùng thôi. Y học bác học cả Tây y và Đông y cùng không dùng. Trung y có nói đến vị “Nhân phẩn” với rất nhiều tên mỹ tự như “Hoàng Long Thang”, “Hoàng Nguyên Thuỷ”, “Nhân Trung Hoàng” có in trong sách bản thảo Cương Mục của Lý Thời Chân từ thế kỷ thứ 16 nhưng hiện tại không dùng. Y học dân gian Việt đã liên tục dùng nó để cứu rất nhiều người từ cõi chết chở về mạnh khoẻ sống lâu. Người đang khoẻ mạnh bỗng dưng chết đột tử; cởi quần ra thăm khám nếu là nam ngọc hành chưa xuất tinh; nếu là nữ âm hộ “chưa có nước trong nguồn chảy ra”, cho uống một liều “gọi hồn” là phân người đã được chế biến. Cậy mồm ra đổ thuốc vào làm cho thuốc trôi hết vào đường thực quản tiếp đó dùng nước rượu gừng xoa hết ở gan bàn chân và thái dương rồi gọi ngay một tiểu đồng ”dưới 10 tuổi” đái mạnh vào mặt kể cả hai lỗ mũi người bị nạn, rổi chùm chăn mỏng kín đầu 5 phút sau Diêm vương trả con người đó về trần thế. Người chết đã được cứu sống. Trước đây làm theo kinh nghiệm gia truyền tôi chỉ làm đúng lời bố dạy. Sau khôn lớn phần vì tò mò phần vì muốn hiểu về tác dụng dược lý của nó. Đọc sách Tây dược có thấy các chất tìm thấy trong phân người; nhưng chỉ có những chất đó thôi thì không thể làm nên sự “thần diệu” của chất thải này. Tôi đã phải nói dối hai cơ sở khoa học về một chất nào đó rồi thuê phân tích mới vỡ lẽ ra: trong phân người có nhiều vi chất (nguyên tố vi lượng) mà ở trên thế gian này chưa biết đâu có ngoài phân người. Công khai vị thuốc này ra nói rằng: trong liều thuốc cần uống là phân người, liệu có ai dám uống không? Ngay như ngôn y của y học dân gian cũng rất kỳ quái nói ra rất dễ buồn cười: thầy lang kiểm tra khả năng sinh dục của bệnh nhân hỏi: ”Chuyện ấy thế nào”? bệnh nhân hiểu ngay gần như không bị ức chế vì mắc cỡ đã nói thoải mái thực trạng cho thầy lang biết. Sẽ có người bảo rằng vẽ chuyện! Sao không dùng ngay từ thuần Việt chỉ có một từ mà phải dùng từ ẩn dụ? Thưa rằng dùng một từ đó không chứa nổi nội hàm của “chuyện ấy”. Chuyện ấy là cả một chuỗi hành vi bao gồm ba công đoạn: khởi sự; hành sự và sau hành sự. Muốn kiểm tra được toàn bộ khả năng sinh dục của bệnh nhân phải tóm được cả ba công đoạn đó. Từ “ấy” của tiếng Việt tuyệt vời lắm khi khám bệnh cho phụ nữ cả thầy thuốc và bệnh nhân không bị mắc cỡ, như hỏi: chỗ ấy thế nào, có thường xuyên làm chuyện ấy không ... Y học dân gian thực chất là cách chữa bệnh của người bình dân cho người bình dân. Y ngôn phải giản dị đã đành, mà cả những thao tác nghiệp vụ y tế cũng phải rất đơn giản, bình dân. Và lạ thay do quá đơn giản và bình dân lại trở thành bí ẩn, kỳ diệu. Ví dụ: Chữa cho người đang bị nấc thầy lang dân gian chừng mắt nhìn vào thẳng vào mắt người đang bị nấc và vu cho người này một tội rất xấu xa. Danh dự người đó bị xúc phạm đến mức phải gào thét để phản đối. Bệnh nấc đã được chữa khỏi. Cứu một ca đẻ khó giữa đêm đông giá lạnh, bà đỡ nhận biết đây là cặp vợ chồng hiếm muộn nhưng vợ chồng rất thương yêu nhau. Người vợ vì quá đau đớn khi trở dạ không đủ sức để dặn đẻ. Bà đỡ liền gọi anh chồng đến trước mặt vợ rồi nói: bây giờ anh phải lội xuống ao ngâm mình ở đó thì vợ anh mới sinh cháu được. Anh chồng đi ra bà đỡ chạy theo dỉ tai không phải lội xuống ao đâu. Anh đứng ở trên bờ đập xuống mặt nước như người đang bơi thôi. Quả nhiên người vợ khi nghe tiếng đập nước ngỡ là chồng đang bơi ở dưới ao giữa đêm đông rét cắt thịt cắt da này. Thế là sản phụ lắng nghe hướng dẫn của bà đỡ nín hơi dặn đẻ, khi nghe bà đỡ hô: đẻ! Sản phụ lấy hết công lực dặn đẻ cháu bé ra khỏi cơ thể mẹ cất tiếng khóc chào đời. Bí quyết của liệu pháp này là tăng lực cho sản phụ. Thương chồng đã vì mình, vì con mà phải lội xuống ao giá lạnh, đã cho sản phụ nghị lực vượt cạn. Bà đỡ là lang thuốc dân gian, thực hiện liệu pháp này chỉ là áp dụng bí quyết gia truyền không hiểu y lý của nó. Vì thế lội nước chữa đẻ khó mang mầu sắc huyền bí. Dân gian lý giải sự huyền bí đó là “Chữa mẹo”. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  6. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 12 2/24/2012 4:04:51 PM 4. Những đặc tính cơ bản của Thuốc Việt cổ truyền được nhìn nhận dưới ánh sáng của khoa học Hóa - Sinh. 4.1. Thuốc Việt cổ truyền được dẫn dắt bởi Y lí Việt cổ truyền. Y lí Việt cổ truyền cho rằng: cơ thể con người là một khối thống nhất. Khi một bộ phận nào đó mắc bệnh thì các bộ khác trong cơ thể cũng lâm vào cảnh suy nhược theo. Đưa một loại thuốc vào cơ thể để chữa lành bộ phận bị mắc bệnh thì bài thuốc đó phải bao gồm cả những chất làm hồi phục chức năng sinh lí của những bộ phận khác trong cơ thể người bệnh. Thuốc Việt vì thế luôn là một hợp chất, rất hiểm gặp khi dùng một chất để điều trị. Vả lại việc dùng một biệt chất để chữa bệnh khi qua miệng xuống dạ dầy rồi thuốc thẩm thấu qua thành ruột non hòa dòng màu lưu thông khi đến ổ bệnh đã là một hợp chất rồi. Bất cứ bài thuốc chữa bệnh nào của Việt y đều có những vị thuốc bổ dưỡng, do dó thuốc chữa bệnh của Việt y chẳng những không gây ra hệ lụy cho những bộ phận cơ thể chưa nhiễm bệnh mà còn làm tăng sức đề kháng cho chúng để hỗ trợ cho các bộ phận bị nhiễm bệnh. 4.2. Thuốc Việt cổ truyền được cấu tạo như một loại thức ăn Dùng khoa học Hóa - Sinh để phân tích những vị thuốc tham gia các bài thuốc chữa bệnh của Việt y cổ truyền người ta nhận thấy các vị thuốc đó đều có hàm lượng Protein rất cao. Protein phát âm theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là đầu tiên. Trong lĩnh vực thức ăn nó là chất quan trong số một. Protein là hợp chất hữu cơ phức tạp có phân tử lớn gồm 4 nguyên tố: cacbon, hydro, oxy, ni tơ (chất này thường được gọi là azot hoặc đạm). Ngoài các chất trên trong protein còn chứa vài nguyên tố khoáng như: photpho, lưu huỳnh, Kẽm… Cấu tạo nên phân tử protein là các axit amin,được trùng hợp bởi các mạch peptit. Protein được cung cấp cho cơ thể sống qua thức ăn ăn vào nếu có đầy đủ các axit amin cần thiết để tạo nên Protein của cơ thể được gọi là: “protein có giá trị sinh học đầy đủ”. Giá trị sinh học đầy đủ của protein được xác định từ hàm lượng các axit amin “không thay thế” (Còn gọi là axit amin thiết yếu). Phân tử protein nào không chứa đầy đủ các axit amin không thay thế gọi là “Protein có giá trị sinh học không đầy đủ”. Thiếu một axit amin thiết yếu thì khả năng sử dụng protein của cơ thể bị giảm theo tỷ thuận với nó. Thiếu hoặc không đạt chuẩn của một hoắc nhiều axit amin thiết yếu trong thức ăn đưa vào cơ thể sẽ gây rối loạn quá trình tổng hợp protein trong cơ thể, dẫn đến phá hủy sự trao đổi chất, phá hủy sự hình thành các enzym và hormone làm xuất hiện nhiều loại bệnh tật. Các axit amin thiết yếu là những axit amin cơ thể không tổng hợp được phải dưa từ ngoài vào qua proten thức ăn có trong thực phẩm cao cấp như: thịt, cá, sữa… Mười axit amin liệt kê sau đây là những axit amin thiết yếu: 1.Arginine, 2.Histidine, 3.Isoleucine, 4.Leucine, 5.Lysine, 6.Methionine, 7.Phenylalamine, 8.Threonine, 9.Tryptophan, 10.Valine Những thực phẩm chứa các axit amin này rất đắt tiền, người bình dân không thể ăn những thực phẩm này thường xuyên, vì thế tế bào của cơ thể người Việt bình dân nhiều đời nay luôn đói axit amin thiết yếu. Ví dụ: các axit amin Lysine, Trytophan có nhiều trong thịt, cá, trứng, sữa không phải lúc nào cũng có mặt trong bữa ăn của người bình dân. Cơ thể động vật thiếu các loại axit amin này thường xuyên nên cơ thể còi cọc, thần kinh suy yếu luôn sợ hãi. Dân tộc Việt ngay từ buổi hình thành luôn phải đối diện với hai loại giặc là giặc ngoại xâm và giặc đói. Đánh giặc ngoại xâm tuy rất khó, nhưng đánh giặc đói còn khó gấp nhiều lần. Vì thế giặc đói cứ bám riết vào dân tộc ta cho đến hôm nay vẫn chưa bị đánh tan. Cái đói luôn thường trực 24/24 giờ trong ngày. Suy dinh dưỡng chính là cội nguồn của mọi chứng bệnh từ ngàn đời. Do đó thuốc chữa bệnh của y học dân gian phải chữa hai chứng bệnh: một là bệnh đói của các tế bào trong cơ thể (khoa học hiên đại ngày nay gọi là đói các axít amin), hai là chữa các bệnh cụ thể. Những bệnh nan y nói chung đều có cội nguồn rối loạn cùng các axít amin cho cơ thể. Chính vì lẽ đó mà các bài thuốc phải có nhiều vị, vừa để cung cấp đủ các axít amin chữa đói cho tế bào làm tăng sức đề kháng cho cơ thể, rồi coi sức đề kháng đó là lực lượng chủ lực phối hợp với các vị thuốc để chiến thắng bệnh tật. Thủ pháp này đã vượt khỏi tầm chiến thuật, trở thành chiến lược của y học cổ truyền dân tộc Việt. Các protein tích chứa trong các bài thuôc cổ tuyền đều rất giàu acid amin. Nếu người bệnh uống đúng liều quy định thì lượng acid amin tổi thiểu của một ngày dinh dướng đã có đủ, Các acid amin (Aminoacid) là hợp chất hữu cơ có nhóm cacboxuyl (- COOH) và nhóm a min (- NH2) khiến nó trở thành chất lưỡng tính vừa có tính acid vừa có tính bazơ, trong môi trường bazơ nó là một acid; trong môi trường acid nó là một bazơ. Có rất nhiều định nghĩa hiện đại khác nhau về acid và bazơ, nhưng các nhà khoa học Hoá Hữu cơ chấp nhận định nghĩa của Lowry: acid là một hợp chất có thể cho prton H+. Bazơ là một hợp chất có thể nhận proton. Định nghĩa của Lowry đã mở ra một không gian mới cho chuyên ngành khoa học Hóa - Sinh - Y, người ta đã nhìn ra các chất acid liên hợp và bazơ liên hợp, nó làm cho người thực hành vững tâm hơn khi nhận diện nhiều ion và hợp chất không được xem là acid theo định nghĩa cổ điển; đưa tới một khảng định rất có giá trị thực tiễn cho dược học hiện đại, đó là: một phản ứng acid - bazơ đầy đủ là một sự di chuyển proton từ acid đến bazơ tạo thành bazơ liên hợp và acid liên hợp tương ứng. Từ những tiền đề trên trong quá trình sáng tạo thuốc mới các nhà dược học thực hành có thể tính được “Lực Acid và Bazơ”. Bằng những khảo sát thực nghiệm các nhà nghiên cứu hoá học cơ bản đã chỉ ra rằng: Lực acid của một phân tử gía tăng theo độ âm điện của nguyên tử. Độ âm điện càng cao, sự phóng thích Proton H+ càng dễ dàng và làm tằng lực acid. Một sự trùng hợp kỳ diệu là các vị thuốc bố trí trong các bầi thuốc cổ phần lớn đều là chất lưỡng tính vì thế mà tốc độ dẫn truyền của thuốc đối với cấu trúc sinh học của cơ thể người tạo ra một nhịp điệu Tiếp và Thu thuận lợi. Các vị thuốc trong các bài thuốc mới chỉ là tiền chất, còn phải được chế biến qua công đoạn ngôn ngữ cổ gọi là “dưỡng thuốc”. Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại thì “dưỡng thuốc” thực chất là công nghệ vi sinh. Các vị thuốc đều phải được ủ trong điều kiện yếm khí. Sinh khối tạo được mới là thuốc để uống. Các vị thuốc có hàm lượng Xenlulo cao đều phải dùng một “quần xã vi sinh” lấy trong tự nhiên để phân giải trong điều kiện yếm khí. Các vị thuốc có hàm lượng Xenlulô cao sau khi được phân giải trộn với các chất có nguồn gốc động vật và có hàm lượng tinh bột cao, được chế biến qua giai đoạn ủ yếm khí với một loại men đặc hiệu để tạo sinh khối cuối cùng. Sinh khối cuối cùng có nhiều loại Prôtein đặc biệt. Chỉ khi nào thuốc có được loại chất protein đặc hiệu này mới có thể được sử dụng chữa bệnh. Các loại thuốc Việt cổ truyền ở dạng bột hoặc viên đều có hàm lượng Xenlulo rất cao không dưới 30% của một liều uống. Khi người bệnh uống hoặc ăn thuốc vào dạ dày lượng xenlulo này sẽ bị dồn xuống ruột già. Xenlulo của thuốc đọng lại ở ruột già sẽ huy động những vi sinh vật có lợi cho cơ thể sống tiếp tục phân hủy Xenlulo của thuốc để lấy các chất còn lại. Nếu dùng tiêu chuẩn “tan“ của Tây dược để đánh giá thuốc Việt cổ truyền là không thích hợp. Thuốc Việt cổ truyền cần được đánh giá độ hấp thụ thuốc theo tiêu tiêu chuẩn hấp thụ thức ăn. _Việt Y Cổ Truyền_
  7. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 11 2/23/2012 3:46:56 PM Về yêu cầu đưa thuốc vào đúng ổ bệnh Việc đưa thuốc vào đúng ổ bệnh là đặc điểm riêng có của y học dân gian. Người ta cho rằng cách sao tẩm thuốc như phương pháp của Trung y đang làm là cách để đưa thuốc quy kinh. Nhưng chúng tôi cho rằng sao tẩm thuốc chỉ tác động được vào tính năng hoạt hoa của thuốc; còn việc đưa thuốc vào đúng ổ bệnh phức tạp hơn nhiều. Nếu dùng thuốc bằng con đường uống thì thuốc phải tham gia vào toàn bộ quá trình chuyển hoá. Bản thân thuốc buộc phải qua khâu tiêu hoá để biến thành thức ăn đồng hoá. Khi đã là thức ăn đồng hoá rồi thuốc phải tham gia vào chu trình Krepxơ, thuốc vừa bị đồng hoá vừa bị thoái hoá thì chức phận của thuốc làm sao được bảo toàn? Người Việt cổ chưa biết lý luận về chuyển hóa các chất trong cơ thể người. Có lẽ, cái buổi ban sơ đó cho đến khi đúc rút được kinh nghiệm dẫn thuốc vào ổ bệnh, chắc chắn người Việt cổ đã phải trả giá rất đắt về mạng sống của nhiều thế hệ người bệnh. Qua cách chế tạo thuốc bằng phương pháp cổ truyền tôi nhận ra người Việt cổ đưa thuốc vào cơ thể bằng “dẫn xuất enzym nhân tạo”, nói cho đúng hơn thuốc của người Việt cổ bao gồm hai thành phần của chuyển hoá là cơ chất và tiền chất của enzym biến đổi cơ chất đó. Bệnh tật là do chu trình chuyển hoá bị rối nhiễu, trì trệ. Chu trình chuyển hoá bị rối nhiễu, trì trệ là do hiệu năng hoạt hoá cơ chất của hệ thống enzym bạc nhược. Tất cả các bài thuốc chữa bệnh nan y của y học dân gian tôi sưu tầm được đều có tính chất này. Ví dụ: bài thuốc sử dụng để chữa lành các vết thương ở thành ngoài tế bào là cung cấp những tiền chất để tế bào sinh tổng hợp Collagen. Nghiên cứu khoa học cơ bản của Hoá - Sinh - Y học chỉ ra rằng: Quá trình sinh tổng hợp các týp Collagen là do sự “thúc ép của tế bào, hai đầu của các chất trong procollagen tách ra và những dây nhỏ xoắn ba được bắc cầu nối với nhau khi xếp thành hàng, tạo ra một sự chênh lệch, là một phần tư chiều dài giữa các phân tử nối tiếp nhau. Việc bắc cầu này là kết quả hoạt động của Lysyloxydase, một enzymcủa đồng(tôi viết nghiêng để gây chú ý)” (G.S. Phạm Khuê và T.S. Phạm Thắng: Cơ thể con người lúc về già, tr.171). Như vậy là yếu tố mang tính quyết định việc sinh tổng hợp các týp Collagen ở trong tế bào là enzym đồng Lysyloxydase. Trong bài thuốc cổ truyền dùng để tăng sinh Collagen có vị thuốc rất độc đáo là “rỉ đồng được sản xuất bằng mẻ”. Mẻ là một món ăn cổ truyền của dân Bắc Việt, được chế tạo bằng cách để cơm nguội cho vi khuẩn làm “thiu” đi, tạo ra một dạng huyền phù sinh học dùng để nấu canh chua, nấu thịt chó rất ngon miệng. Phân tích sinh hoá trong huyền phù mẻ có tới 17 axit amin và có tất cả các chủng loại của vitamin nhóm B. Cách chế tạo rỉ đồng bằng mẻ tiến hành như sau: dùng nồi đồng hoặc vật dụng làm bằng đồng nguyên chất, đánh sạch các vết bẩn bám trên mặt đồng, sau đó lấy nước mẻ quét lên một lớp mỏng, để vào bóng tối nơi có độ ẩm cao, sau 24 tiếng đồng hồ xuất hiện một lớp chất màu xanh da trời, đó là vị thuốc rỉ đồng chế tạo bằng mẻ, đây chính là tiền chất của enzym đồng Lysyloxydase. Tiền chất có bản chất enzym này sẽ đưa thuốc vào đến tận Riboxom, cung cấp vật liệu cùng chất xúc tác để cơ quan này sinh tổng hợp Collagen. Thuốc của y học dân gian không thể sản xuất hàng loạt theo công nghệ được chương trình hoá, vì cùng một loại bệnh nhưng mỗi người lại có “kháng nguyên phù hợp mô - HLA” rất khác nhau; không có loại thuốc đặc hiệu nào dùng chung cho tất cả mọi người. Đặc thù chữa bệnh của y học dân gian luôn là cách chữa rất bình dân: các vị thuốc của nó thì “thượng vàng hạ cám" đều dùng hết. Có vị thuốc chỉ là vật thể rất tầm thường mà thường ngày vẫn bị coi là đồ bỏ đi, rác thải. Ví dụ: vị thuốc chế tác từ vỏ quả Dứa có tác dụng chữa bệnh Máu nhiễm mỡ. Trong cái vỏ dứa vứt đi đó tổ tiên ta đã biết dùng vào việc chữa bệnh. Thời trai trẻ tôi chỉ biết làm theo kinh nghiệm lấy vỏ dứa sao vàng rồi nghiền nhỏ trộn với một số vị thuốc khác, mang ủ kín ba ngày ba đêm, khi mở ra thấy có mốc trắng mà thơm mùi rượu là vị thuốc đã được chế tẩm tốt. Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại cái hồn của vỏ dứa chính là chất Bromelin. Bromelin là một men thuỷ phân Protit chịu nhiệt, dịch triết Bromelin ở pH 3,5 sau khi đun sôi 60 phút vẫn còn hoạt tính. Ở pH 3,3 Bromelin có tác dụng như Pepsin, ở pH 6 như Trysin. Trường hợp vô toan Bromelin vẫn còn tác dụng. Bromelin có tác dụng ức chế quá trình viêm làm giảm phù nề và tụ huyết. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  8. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 10 2/14/2012 5:59:16 PM Việt Y xin giới thiếu một cách chế biến thuốc khác nữa cũng không kém phần độc đáo: nguyên liệu chính là toàn thân con khỉ lông vàng. Khỉ lông Vàng là con vật duy nhất biết tự bắt chước hành vi của Con người. Con vật này sinh đẻ rất ít, khi sinh chảy rất nhiều máu. Chính vì lẽ đó mà sau khi sinh, khỉ mẹ đã cắn rốn cho con và ăn luôn nhau thai. Nhờ ăn nhau thai tươi nên khỉ mẹ hồi sức rất nhanh. Từ nhiều đời nay, người Viêt cổ (Thổ Cao Bằng) đã quan sát được hiện tượng này. Người đi săn nào may mắn, tình cờ bắt gặp Khỉ đẻ, đợi vừa lúc Khỉ con ra khỏi cơ thể mẹ đã đuổi Khỉ mẹ đi để cướp nhau thai về ngâm rượu làm thuốc bổ. Rất hiếm găp khỉ hoang dã đẻ, vì khi trở dạ nó thường chọn mỏm núi hiểm trở để ngồi đẻ. Người Viêt cổ thường đi nạo vét các vết máu còn đọng lại ở những tảng đá có Khỉ đẻ mang về ngâm rượu dùng dần. Người Thổ Cao Bằng gọi tên vị thuốc này là “Lục Lình”. “Lình” tiếng Thổ là Khỉ; “Lục” tiếng Thổ là nhau thai. Các thầy Lang người Kinh đặt tên là “Huyết Lình”.Theo ghi chép của Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi công bố trong tác phẩm được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996: “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (trang 954) thì:” Vào mùa khỉ đẻ, vào tháng 5 - 6 âm lịch, người ta đến những nơi núi đá ở những nơi khỉ thường ở và đi lại, tìm những mỏm núi đá là nơi khỉ hay ngồi sau khi đẻ để cạo lấy huyết đã khô đen. Có những mảng huyết đọng dày tới 1cm… Thành phần hóa học, chưa thấy có tài liệu nghiên cứu. Soi kính hiển vi chỉ thấy toàn hồng cầu, có lẫn các chất bẩn khác”. Ông Đỗ Tất Lợi viết tiếp: “Huyết Lình là môt vị thuốc nhân dân hay dùng làm thuốc bổ máu cho phụ nữ sau khi đẻ, cho những người xanh xao gầy yếu, trẻ con gầy còm chậm lớn kém ăn”. Đó là ý kiến thành văn của nhà khoa học khoa bảng nhận xét về tác dụng dược lý của máu khỉ đẻ. Còn về nhau thai Khỉ hiện tại chưa thấy ai viết về nó. Qua thực tế chữa bệnh thấy rằng: Cả Tây y và Đông y đã dùng nhau thai Người làm vị thuốc bổ tăng cường thể lực có hiệu quả, nhưng chưa dùng nhau thai Khỉ. Thành phần hóa học có trong nhau thai Khỉ là những chất gì thì chưa thấy ai công bố. Trong thưc tế rất khó thu lượm nhau thai Khỉ, vì ngay sau lúc sinh Khỉ mẹ đã ăn ngay nhau thai. Các thầy Lang Việt biết dùng nhau thai Khỉ để làm thuốc thường chăn nuôi Khỉ tại nhà và mổ Khỉ mẹ để đoạt nhau thai cùng con của nó còn trong tinh trạng “bao tử”. Đây là những vị thuốc rất bí mật của các thầy Lang thuần Việt. Nhau thai Khỉ ngay sau khi lấy ra khỏi cơ thể Khỉ mẹ được ngâm ngay trong bình mật ong. Mật ong này phải là mật của ong hoang dã thu lượm ở những khu rừng nguyên sinh. Một nhau thai ngâm trong 1 lít mật với thời gian 6 tháng, Khi thấy nhau thai đã bị mật ong tiêu biến là dùng được. Tuy nhiên, nếu dùng đơn độc sẽ kém hiệu quả mà phải dùng phối hợp với nhiều vị thuốc khác. Bào thai khỉ sau khi bắt ra khỏi cơ thể mẹ được bọc bằng lá sen non hơ trên ngọn lửa nhỏ của rơm lúa nếp cho đến khi tóp lại chỉ còn một nửa khối lượng ban đầu lập tức cho vào một nồi đất, đậy vung cũng bằng đất rồi vùi vào đống vỏ trấu đang cháy, nung trong 24 giờ, đập nồi lấy sản phẩm nghiền thật mịn để khi dùng trộn với mật nhau thai đã nói ở trên. Những phần nội tạng còn lại trong xác khỉ mẹ được lấy ra để riêng biệt và sấy khô ở nhiệt độ không quá 560C rồi nghiền nhỏ. Đây chính là các dẫn chất sinh học để đưa thuốc vào đúng ổ bệnh. Ví dụ: Bột Não khỉ được trộn vào bài thuốc “Khôi phục hàng rào máu não”. Các loại tạng khác, như: gan, thận, phổi, dạ dầy, v.v... đều dùng làm dẫn chất sinh học cho các Bài thuốc đặc trị bệnh ở các cơ quan tương ứng trong cơ thể Người. Kinh nghiệm chế tác thuốc này đã khiến nhiều người hiểu lầm: “ăn gì bổ nấy”. Cần nói thêm việc này: Những người ngộ nhận “ăn gì bổ nấy” cho rằng: nếu một bộ phận của cơ thể người bị hư hỏng thì cho ăn bộ phận tương ứng của một loài vật nào đó là chữa khỏi. Ngộ nhận cảm tính này đã khiến nhiều người “ăn gì bổ nấy” không khỏi bệnh mà còn mắc thêm bệnh khác. Đau đầu mà ăn óc khỉ nhiều lần sẽ tăng nồng độ Cholesterol trong máu làm phát sinh bệnh tim mạch. Đau gan mà ăn nhiều gan gia súc gia cầm không những làm cho bệnh gan nặng thêm mà còn phát sinh nhiều bệnh khác do các chất độc trong gan mới ăn vào. Gan tuy chứa nhiều Protein bổ dưỡng thì đồng thời gan lại là nơi lọc máu giữ lại tất cả những chất độc hại có trong máu lưu thông để bảo vệ cơ thể. Ăn gan chính là đưa các chất độc hại vào cơ thể. Việt y dùng bột nghiền nhỏ của các tạng trong cơ thể súc vật là để chế biến tiền chất của các Enzym hình thành dẫn xuất đưa thuốc vào đúng ổ bệnh chứ không phải lấy các chất có trong các tạng của súc vật để làm chất chính chữa bệnh. Xử lí xác khỉ: tùy theo định hướng chế biến, chữa bệnh cụ thể mà nhồi các vị thuốc thảo dược đặc trị rồi khâu kín lại. Chỉ khâu phải là sợi cây đay. Sau khi khâu kín, nhúng vào nước đun sôi đẻ tuốt sạch lông. Lông khỉ phải thu gom lại để chế biến làm phụ gia cho một vị thuốc, nói ở phần sau. Xác Khỉ sau khi đã nhồi thuốc cho vào một cái thạp bằng sành chịu nhiệt cao có đường kính 30cm, cao 35 cm, đổ nước mưa đã lọc sạch bụi bẩn, đặt lên một bếp lò có 3 lỗ: Lỗ chính đặt thạp chứa xác Khỉ; lỗ phụ thứ nhất đặt nồi nước mưa đun cùng với thạp chính; lỗ phụ thứ hai đặt một nồi bằng đồng có đường kính 40cm, cao 20cm. Đốt lò ninh cao. Khi thạp chứa xác Khỉ cạn nước chỉ còn 1/3, chắt nước ra nồi đồng để cô cao, cho tiếp nước đã sôi của nồi bên cạnh vào thạp, đun tiếp và tiếp tục chắt lấy nước đặc sang nồi đồng cô cao. Khoảng 10 lần chắt nước, đến khi không còn chất gì nữa thì thôi. Khi dung dịch cao ở nồi đồng đã quánh lại thì đổ ra giấy bản lót trên một mâm bằng đồng thau, tải đều dung dịch ra kín mâm, lấy lồng bàn đậy lại. Sau 24 giờ, dung dịch đã kết lại thành keo, lấy cật tre, sắt thành những miếng nhỏ. Đó là Cao Khỉ toàn tính. Lông Khỉ (có hàm lượng axít amin Lysine rất cao) gom lại rửa sạch bọc vào lá sen già cho vào nồi đất vùi vào đống vỏ chấu đang cháy trong 24 giờ, lấy ra tán nhỏ rắc lên các miếng cao, gói kín bằng giấy chống ẩm để dùng dần. Như vậy là toàn bộ con Khỉ đã được chế biến thành nhiều vị thuốc, kết hợp với các vị thuốc khác hình thành Bài thuốc Mẫu Dưỡng. Chức năng chính của bài thuốc này là chống suy kiệt toàn thân cho người mắc phải các bệnh nan y như: Hôi chứng HIV/ AIDS, người cai nghiện chất ma túy, người mắc các bệnh ung thư. Bài thuốc này không chỉ được dùng để chữa trị cho người nhiễm HIV đã đi vào AIDS mà được sử dụng điều tri ngay sau khi đã có kết quả xét nghiệm dương tính với HIV. Nếu điều trị đúng liều sẽ giúp chặn đứng sự hủy diệt tế bào CD4+. Đặc biệt, Mẫu Dưỡng giúp phục tráng khả năng sản xuất kháng thể của các chủng tế bào Bạch Cầu, đặc biệt là Đại thực bào. Bài thuốc Mẫu Dưỡng cũng góp phần tích cực cải thiện chất lượng huyết tương, tăng hàm lượng huyết thanh trong huyết tương lấy lại sự cân bằng và đồng bộ cho các chủng loại Protein của Hệ thống Bổ thể. Tóm lại, uống thuốc Mẫu Dưỡng là thiết thực tăng cường khả năng miễn dịch cho Hệ thống miễn dịch trong cơ thể người nhiễm HIV. Thuốc Mẫu Dưỡng cũng được dùng để chống suy kiệt cho người mắc các loại bệnh ung thư đang được điều trị bằng liệu pháp “Xạ trị”. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  9. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 9 1/25/2012 12:33:12 PM 1. Quan niệm về Thuốc của việt Y cổ truyền. Theo nghĩa thông thường Thuốc là chất được chế biến dùng để phòng và chữa bệnh. Trong kho tàng tiếng Việt cổ Thuốc còn dùng để chỉ một hành vi tác động của chủ thể mưu toan điều khiển khách thể. Thường nghe dân gian nói: “không hiểu con bé ấy có bùa mê thuốc lú gì mà thằng cha ấy chết mê chết mệt”; hoặc: để bác bỏ một nhận định cho là không đúng của người đối thoại có địa vị xã hội cao hơn mình: “Bác lại thuốc em rồi!”. Thuốc của Việt y cổ truyền hình thành theo quan niệm đó. Hiểu theo nghĩa này, Thuốc là một giải pháp chữa bệnh. Thuốc chữa khỏi bệnh gọi là thuốc hay; thuốc không khỏi bệnh gọi là thuốc dởm. Coi thuốc là một giải pháp chữa bệnh, nên bệnh nào thì thuốc đó, “bệnh Quỷ thì phải có thuốc Tiên” là như vậy. 2. Phát hiện vật liệu để chế tác thuốc Khi xác định rõ chứng bệnh thầy Lang đi tìm tính dược của thuốc mà kinh nghiệm nhiều đời đã chỉ định: “bệnh nào, thuốc đó”. Ví dụ: ”Vỏ bí đao thật khéo tiêu phù, xọp thuỷ thũng gì hơn Thương Lục”. (Tuệ Tĩnh: Toàn tập. Tr.397). Để có được chỉ định chắc chắn tự tin như vậy không phải do một thiên tài cá nhân làm được mà là kinh nghiệm tích góp từ nhiều đời và phải trả bằng rất nhiều mạng sống của người đi tìm thuốc. Quy trình xác định một vị thuốc, một bài thuốc được thực hiện rất nghiêm cẩn theo những chuẩn tắc “truyền kỳ”; chẳng hạn: các vị thuốc được đưa vào cơ thể người phải có thuộc tính là thức ăn. Tuyệt đối cấm đưa vị thuốc độc vào cơ thể người bệnh. Vị thuốc gốc, dù là nọc của Bò cạp, rắn Hổ mang, nhựa Cóc phải được chế biến hết độc mới được đưa vào cơ thể người. Vị thuốc lạ mới phát hiện phải qua kiểm định cho các loài vật nuôi ở trong nhà gồm có: cá, chim, khỉ, chó, mèo, trâu, bò. Tất cả các con vật này ăn vị thuốc đó sau một ngày đêm mà vẫn an toàn thì mới được dùng để chế tạo thuốc. Phần lớn dược liệu được Việt y cổ truyền lựa chọn để chế tạo thuốc đều xuất phát từ thức ăn. Có thể nói khái quát rằng: các món ăn quen thuộc có mặt thường xuyên trong các bữa ăn hàng ngày của người Việt đều là dược liệu để chế tạo thuốc. Món ăn chủ lực của người Việt bình dân là gạo thì gạo cũng là một vị thuốc tham gia các bài thuốc chữa được rất nhiều bệnh về máu, bệnh tiêu hóa và cả bệnh thần kinh nữa. Hầu hết các loại rau, củ, quả mọc trên nước Việt mà ăn được đều là những vị thuốc đặc hiệu. Rất nhiều các loài hoa được Việt y cổ truyền coi là vị thuốc thần diệu. Những con vật mà người Việt đã thuần dưỡng từ động vật hoang dã để làm thức ăn cũng được nhiều thế hệ Lang thuốc tuyển chọn làm dược liệu để chế biến thuốc. Ngoài thức ăn của con người được Việt y cổ truyền tuyển lựa để chế tạo thuốc chữa bệnh thì phải kể đến một số lượng lớn các loại thuốc đặc hiệu còn được tuyển lựa từ những cây cỏ, dong rêu mà các loài vật thường ăn cũng được phát hiện là những vật liệu để chế biến thành thuốc chữa bệnh nan y mà Tây dược, trung dược không biết đến. Vô số các loại côn trùng có mặt trong dược điển của Việt y cổ truyền. Nguồn dược liệu để chế biến thành thuốc chữa bệnh gần như là vô tận trong kho tàng Việt dược ở nước ta. Những vật liệu trước khi trở thành Thuốc chữa bệnh đều phải trải qua một quá trình thử nghiệm nghiêm ngặt. Bước thử thuốc đầu tiên diễn ra ở súc vật. Tổ tiên người Việt cho rằng những gì con vật ăn mà không chết là không có độc tố và vật liệu đó được sơ tuyển để chế tạo thuốc. Từ rất sớm ông bà ta đã nhận ra việc tiếp thụ thuốc ở cơ thể người khác rất xa với cơ thể súc vật. Khỉ có cấu trúc sinh học dạng hình giống người, nhưng cấu trúc gen của chuột lại gần với cấu trúc gen của người hơn. Nếu vị thuốc nào đó được cả hai loài vật này hấp thụ thì có cơ sở để sử dụng. Song, đó chưa phải là một bảo đảm rằng người sẽ tiếp thu vị thuốc đó. Chính vì thế mà trước khi cho người uống loại thuốc mới (mới đối với cơ thể người bệnh) phải qua khâu kiểm định trực tiếp ở người sẽ uống vị thuốc này. Cách thường làm là: Đổ dung dịch thuốc vào một ly thuỷ tinh, thầy Lang uống trước mặt bệnh nhân một ngụm thuốc để bệnh nhân tin thuốc không làm chết người. Sau đó cho người bệnh chải răng xúc miệng băng nước muối; kế đến cho người bệnh uống 100ml nước chanh muối nóng ở nhiệt độ 450C; sau 5 phút, cho người bệnh ngậm 10ml thuốc cần uống và làm động tác xúc miệng rồi nhổ ra một cốc thuỷ tinh trắng ghi số 1; tiếp đó người bệnh ngậm miệng, dùng lưỡi đảo vòng tròn trong miệng cho nước bọt tiết thật nhiều và làm động tác xúc miệng rồi nhổ nước bột ra cốc thuỷ tinh đánh số 2. Đợi cho các bong nước vỡ hết, dùng kính lúp có độ phóng to 10 lần quan sát dung dịch ở cả hai cốc thấy các hiện tượng sau đây: 1. Màu của dung dịch cốc số 1 giống y mầu thuốc và màu của dung dịch thuốc và màu ở cốc số 2 trong veo. Như vậy là thuốc không có khả năng thấm qua thành ruột để vào máu mà chỉ có tác dụng ở ống tiêu hoá. 2. Màu của dung dịch cốc số 1 khác màu thuốc đối chứng, lưng chừng cốc lửng lơ các chấm li ti, nhưng không chuyển động; màu của dung dịch cốc thứ 2 có chuyển màu nhưng nước còn trong. Thuốc được hấp thụ vào dòng máu lưu thông nhưng không có khả năng xâm nhập vào nội bào. Thuốc có tác dụng chữa bệnh ở máu và không tham gia chuyển hoá trong tế bào. 3. Mầu dung dịch cốc số 1 khác hẳn mầu của thuốc đối chứng, trong cốc xuất hiện nhiều hạt li ti, có tốc độ di chuyển nhanh và lan toả đều trong cốc; Màu dung dịch của cốc số 2 đục màu sữa. Thuốc được hấp thụ rất mạnh và loan toả được trong toàn cơ thể. Kinh nghiệm kiểm định sự hấp thụ thuốc được dùng từ nhiều đời, liên hệ với kiến thức “Hóa - Sinh - Y học” hiện đại thấy rằng cơ sở khoa học của kinh nghiệm này là: Trong dịch nước bọt, ngoài các men tiêu hoá còn có nhiều chất sát trùng có bản chất Protein enzym của Hệ thống Bổ Thể; trong đó có chất Bacteriolysine. Người ta đã thấy enzym này diệt vi khuẩn rất hiệu quả. Hệ thống enzym này được các tế bào của tuyến nước bọt tiết ra khi khoang miệng có vật lạ. Các chấm nhỏ li ti thấy trong cốc số 1 chính là hình ảnh các enzym này tiếp cận với thuốc, sự chuyển động huyên náo của chúng chứng tỏ thuốc có khả năng tham gia chuyển hoá các chất trong cơ thể. Trước khi kết thúc mục lựa chọn vật liệu để chế tạo thuốc, chúng ta tham khảo định nghĩa về thuốc Độc. Loài người đối diện với chứng ngộ độc vì thuốc độc ngay từ buổi bình minh của lịch sử chưa thành văn. Bằng kinh nghiệm thực tế của từng cộng đồng Người đã tìm ra thuốc giải độc hữu hiệu. Nhưng bản chất thuốc độc là gì; và vì sao thuốc độc lại có thể giết chết người thì chưa giải thích được. Phải đợi đến đầu thế kỷ 20 vào năm 1927, khi tổng kết quá trình nghiên cứu về sự hô hấp mô (còn gọi là hô hấp tế bào), nhà bác học Vacbua đã đưa ra nhận định: tất cả các tế bào động vật đều có chất xúc tác chứa sắt đặc biệt kém bền với nhiệt, làm hoạt hóa o xy khí trời hít vào. Chất xúc tác này sau đó được gọi tên là men hô hấp Xytocromoxydaza, chúng là những Protit phức tạp thuộc vào loại sắc tố gọi là Cromoprotit. Trong thành phần nhóm ngoại của chúng đều có chứa nhóm có sắt. Vacbua bắt đầu công trình nghiên cứu của mình bằng cách nghiên cứu vai trò của các hợp chất sắt trong o xy hóa có xúc tác các chất hữu cơ khác nhau và nhận thấy: những chất phong bế được sắt trong các mô, đều dẫn tới ức chế hô hấp mô. Những chất đó đều gọi là thuốc độc đối với cơ thể sống. Ví dụ, như: Xyanua; Sunfua Hydro; Cacbon oxyt; v.v… 3. Chế tác Thuốc Y học dân gian coi việc chế tác thuốc mới chính là khâu thể hiện toàn bộ trí tuệ của thầy Lang. Nói hay, đoán bệnh mạch lạc, nhưng lời nói nghe bùi tai đó phải thể hiện qua “Thuốc có Hay không?”. Do đó khâu chế tạo thuốc mới là hoạt động chính của thầy Lang Dân gian nước Việt. Những gì nếu được gọi là bí quyết của y học dân gian đều ở khâu chế tạo thuốc. Khâu chế tạo thuốc có hai yêu cầu phải đạt được: (1) khai thác triệt để tính dược của thuốc; (2) Thuốc đi vào cơ thể qua đường thực quản, đường khí quản, qua da, qua các huyệt đạo… đều phải đến đúng ổ bệnh. Ví dụ: thuốc chữa bệnh máu thì chỉ vào dòng máu lưu thông không vào trong nội bào; thuốc chữa gan thì chỉ đến Gan, Mật, v.v... không vào các cơ quan khác. - Về khai thác triệt để tính dược của thuốc: Người Việt cổ cho rằng một cây thuốc, một con thuốc, một loại đất đá nào đó đã được tiền nhân tìm ra là chữa được được bệnh thì toàn bộ vị thuốc đó có rất nhiều “tư chất” của Trời và Đất hợp lại, chứ không thể chỉ có một chất mà chữa được bệnh. Cho rằng: Bệnh tật là sự trừng phạt của Trời Đất đối những hành vi của Con Người đã xúc phạm đến trật tự của Trời Đất. Nhưng Trời Đất tồn tại là vì con người, nếu không có con người thì Trời và Đất cũng không còn nữa. Do đó, Trời Đất cũng sinh ra các vị thuốc để chữa các chứng bệnh đó. Nhưng làm sao để cho con người phát hiện các vị thuốc đó? Cái Đói! Chính nhờ có “Cái Đói” mà loài người khám phá ra các vị thuốc. Trong rừng sâu, không có cái ăn lại bị sốt rét rừng hành hạ; vừa đói lại vừa khát đã làm mờ cả mắt khiến người ta không sợ bẩn nữa đã nhặt con dun đất đang bò gần đấy để ăn. Và kỳ lạ thay, chỉ ăn mấy con dun mà cắt cơn sốt, lại không đói nữa. Người ta nói cho nhau biết sự lạ này; qua nhiều lần kiểm chứng, con dun đất trở thành “một con thuốc” kỳ diệu. Luận điểm: “Trời sinh Voi; Trời sinh cỏ” ra đời từ sự quan sát thực tế này. Bằng nhứng kinh nghiệm thực tế như thế đúc rút qua nhiều đời truyền lại cho nhau, nên khi tầm soát cơ thể con bệnh, thấy có biểu hiện bệnh gì là đã nhớ ngay đến vị thuốc chữa khỏi. Những thầy Lang có chữ đã dõng dạc phát ngôn: ”Nhân hạt gấc, bôi ung nhọt trên vú, tan/ Cuống dưa đá đồ mụn thịt trong mũi, tróc” (Tuệ Tĩnh: Sdd, tr. 396). Tuy nhiên, muốn biến hạt gấc, cuống dưa đá thành vị thuốc đặc hiệu thì phải có trí tuệ của Lang thuốc chế tạo nó và quy trình chế tạo các vị thuốc đó lại rất khác nhau ở các thầy Lang. Cũng từ hạt gấc người ta có thể chế tạo thành thuốc đặc trị chữa được ung thư vú không phải cắt bỏ vú như Tây y đang làm, nhưng cũng với hạt gấc đó có người chỉ mang ngâm rượu thì sản phẩm rượu hạt gấc đó bôi vào kẽ móng tay bị xưng (chín mé) cũng không khỏi. Bí ẩn này nằm ở khâu khai thác tiềm năng hoạt chất của vị thuốc gốc và các chất xúc tác tham gia vào các hoạt chất chính của vị thuốc gốc. Y học dân gian có lý luận hẳn hoi về vấn đề này. Người Việt cổ cho rằng: một cây, một con và cả những hòn đất, hòn đá, kim loại được phát hiện chữa được bệnh đều là những vật “Thiên di, Địa định”, nên nó không chỉ có một chất và chỉ chữa được một loại bệnh mà những chất bao quanh nó, nơi nó được sinh ra đều có tính "Thiên di, Địa định”; nếu bỏ qua các chất tham gia làm nên cây thuốc, con thuốc này thì đã bớt đi ý Trời và sự cưu mang của Đất, vị thuốc đó hết thiêng mà phải khai thác tổng thể, tận dụng hết tính dược có trong các vị đó thì mới có thể hoà hợp được với sự sống của cơ thể. Thực tiễn làm thuốc đã khiến cho gia tộc tôi thấm thía lời dạy bảo này của tiền nhân. Gạt bỏ màu sắc thần bí bề ngoài dễ nhận ra rằng, môi trường tạo nên vị thuốc, đặc biệt là những sản phẩm chuyển hoá của vị thuốc đó khi nó tồn tại trong môi trường cũng chứa các yếu tố dược tính. Lấy ví dụ chế biến con Dun Đất được mệnh danh là “Rồng Đất” thành một vị thuốc chủ công tham gia chữa trị các loại bệnh nan y. Trong thập niên đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh bằng thực chứng trong Con dun đất có nhiều phức chất mang tính dược học: giảm sốt, trung hoà histamin, hạ huyết áp và ức chế sự co bóp của ruột non. Y học dân gian nước Việt đã sử dụng dun đất chữa bệnh rất lâu đời, đặc biệt là chữa sốt trong các bệnh nan y ung biếu và nhiễm tà trùng. Trong các bài thuốc cổ truyền “giải chài, giải ếm”, dun đất được huy động tới 3 loài để chữa sốt. Điều đặc biệt là y học đân gian chỉ dùng dun đất còn sống để chữa các triệu chứng sốt đặc biệt chứ không phải sốt thông thường. Sốt đặc biệt là: nhiệt thân của người bệnh chỉ giao động ở mức 37,20C đến 38,50C và kèm theo ra mồ hôi về đêm gọi là “mồ hôi trộm”. Căn cứ vào kinh nghiệm cổ truyền, đối chiếu với kiến thức Hóa - Sinh - Y học hiện đại, tôi gọi cái sốt này là cái “sốt thoái biến sinh học”, để phân biệt với biểu hiện sốt thông thường là “sốt sinh lý do phản ứng viêm”. Dun đất dùng chế biến thành Thuốc phải chọn giống và chăn nuôi đặc biệt. Thức ăn dùng nuôi dun thực chất cũng là những tiền chất cung cấp cho dun chuyển hoá để tạo ra trong cơ thể dun những phức chất đặc biệt mà dun hoang dã không có. Thức ăn nuôi dun là hỗn hợp mùn hữu cơ bao gồm: rễ cây xấu hổ, rễ cây hoa nhài, thân và rễ cây đậu đen. Ba loại rễ này được băm nhỏ, trộn với các chất trong dạ cỏ của con nai (Gia bảo ghi lại: con dun đất được người Việt cổ đầu tiên phát hiện chữa được sốt rét tìm thấy trong đống phân con Nai đã ải mục) có cho một chút nước tiểu trẻ con, và rỉ mật, trộn đều và ủ yếm khí 14 ngày đêm. Sản phẩm thu được là một loại mùn có chứa hỗn hợp các enzym của quần xã vi sinh vật trong dạ cỏ nai tiết ra trong tăng sinh và các nguyên tố vi lượng của các loại rễ cây. Đây là thức ăn chăn nuôi con thuốc “Địa Thần”. Dun được đưa vào chăn nuôi chỉ mới là trứng dun, loại bỏ các dun con. Nuôi trong 36 ngày cho thế hệ dun đầu tiên trưởng thành. Bắt những con dun có chiều dài từ 10 cm trở lên để chế thuốc. Trước khi mổ dun để chế thuốc phải chuẩn bị các hợp chất bao gồm; Đậu đen, rau ngót tươi ninh nhừ thành keo rồi làm khô đạt đô ẩm còn 14%. Lấy một bẹ chuối hột làm thớt mổ dun: Lấy 2 tăm tre nhọn, căng dun ra dùng cật tre xẻ dọc thân dun, rồi bỏ dun đã mổ vào bột đậu đen rau ngót. Khi dun đã được thấm hết máu, lấy thịt dun ra sấy khô ở nhiệt độ không quá 560C, sấy cho khô kiệt rồi lại phải qua khâu nướng dòn. Cách nướng dòn dun đất: Lấy phân của dun đất (phần đất đùn ở các lỗ dun) sao khô, khi đã đạt độ nóng khoản 800C cho dun vào nướng, khấy đều để phân dun luôn phủ kín dun. Khi thịt dun đã dòn, lấy ra, sàng hết phân dun. Thịt dun khô dòn nghiềm thật mịn, trộn lẫn vào bột đậu rồi dùng nước “cõi âm” làm tăng độ ẩm lại. Phân dun đang có độ nóng khoảng 1000C, lấy dấm ăn đổ vào không cho trào bọt, đun sôi trong 15 phút, tắt nguồn nhiệt để nước tự nguội. Sau đó chắt lấy phần nước trong để chế tạo nước ngâm mình cho người bệnh mỗi 7 ngày/lần. Nước “cõi âm” là hơi nước trong lòng đất bốc lên từ lúc mặt trời lặn đến đúng lúc mặt trời mọc tại địa điểm lấy nước. Cách lấy “nước cõi âm”, áp dụng kinh nghiệm tìm nguồn nước ngầm để đào giếng của Dân gian: Trên địa hình tự nhiên, nơi nào có vị trí trũng nhất, đào sâu xuống khoảng 40cm, bề mặt là một hình tròn có đường kính 50cm, bỏ vào đó 3 con dun đất đã trưởng thành, 3 con dế dũi, rồi úp chậu lên; sau 12 tiếng đồng hồ, mở ra thấy có nước đọng trên thành chậu: đó là nước “cõi âm”, 3 con dun và 3 co dế còn sống nghĩa là nước không có độc tố. Nước “cõi âm” không phải là nước tinh khiết mà là nước đã nhiễm các nguyên tố vi lượng ở rất nhiều tầng địa chất bốc lên. Các nguyên tố vi lượng này dùng được vì dun và dế đều còn sống. Hàng ngày nhiều nguyên tố vi lượng ở các tầng địa chất bốc lên, nhất là các nguyên tố vi lượng quý hiếm có hàm lượng kim loại ở ngưỡng Coenzym đã bị lãng phí không được sử dụng. Cách lấy nguyên tố vi lượng của y học đân gian quả là độc đáo. Khi đã xác định được mỏ nước cõi âm rồi, tiến hành lấy nước trộn thuốc. Dùng giấy bản (giấy thấm nước), giải kín lòng hố, dải đều thuốc đã chế, phải nắm chắc ngày đó có nắng to, khi có ánh nắng mặt trời thì úp chậu, sau 24 giờ mở chậu lấy thuốc mang vào nơi râm mát, hong gió cho thuốc khô; nếu độ ẩm không khí cao thì phải sấy ở nhiệt độ không quá 560C. Khi thuốc đạt độ khô 14% thuỷ phần thì đóng gói, để sử dụng dần. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  10. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 8 1/18/2012 5:44:25 PM Con người đang tồn tại trên (trong) lớp vỏ trái đất. Lớp vỏ trái đất có 92 nguyên tố hóa học, hiện mới thấy 60 nguyên tố có các nguyên tử cấu thành phân tử sống, nhưng không phải tất cả 60 nguyên tố này đều có trong cơ thể người. Theo công bố của các nhà Sinh học hiện đại, người ta mới chỉ tìm thấy có hơn 30 nguyên tố cấu tạo nên cơ thể con người. Con người mang trong mình nó không đủ chủng loại vật chất đã có của vỏ trái đất thì mần răng là “Tiểu thiên địa“ được?! Con người chỉ là sản phẩm của vũ trụ, nhưng đó là sản phẩm đặc biệt, bởi lẽ trong con người tích chứa tố chất chinh phục vũ tru. Tố chất kỳ diệu chinh phục cả vũ trụ tiềm ẩn trong cơ thể con người đó là gì? Đó là trí khôn bậc cao, gọi cho đúng nghĩa đó là sự thông minh. Bởi vì, có rất nhiều loài vật cũng có trí khôn, nhưng chúng không có sự thông minh. Thông minh là sản phẩm của tư duy chỉ loài người mới có; loài vật tinh khôn nhất như tinh tinh chẳng hạn cũng không biết tư duy. Một con chó rất tinh khôn, nhưng do không biết tư duy, nên nó đã trung thành tuyệt đối với ông chủ của nó, mặc dù ông chủ của con chó tinh khôn đó là một thằng đểu. Sự sống của con người trên lớp vỏ trái đất không bao giờ đồng nhất với ngoại cảnh, như lý luận của Trung y cổ truyền. Sự sống là một quá trình thích nghi của cơ thể sống với ngoại cảnh. Kể cả khi con người ngồi trong con tàu thoát khỏi lực hút của trái đất để bay đến các địa chỉ khác nhau trong vũ trụ bao la đều luôn phải tuân theo quy luật thích nghi. Thích nghi là điều kiện bắt buộc để cơ thể sống của sinh vật tồn tại. Một sinh vật không còn khả năng thích nghi, sinh vật đó đã chết. Các sinh vật chỉ biết thích nghi bị động; riêng có con người ngoài bản năng sinh vật thích nghi bị động, nhờ biết tư duy nên còn biết thích nghi chủ động nữa. Con người sở dĩ được tôn vinh là chúa tể của muôn loài chính vì chỉ có con người mới biết thích nghi chủ động. Chỉ có con người mới nhận biết được rằng: “Vấn đề không chỉ là nhận thức thế giới mà là cải tạo thế giới“. Lí luận Trung y cổ tự tin vì có nền triết học uyên thâm của Trung Hoa cổ hướng dẫn cho rằng đã “đọc” được Vũ Trụ rồi, thì “đọc” con người quá dễ. Chính vì lẽ đó nên toàn bộ những quan niệm về Vũ Trụ như thế nào, Trung y cổ mang chụp vào con người y như thế. Tiếc thay, Vũ Trụ theo quan niệm của người Trung Hoa cổ chỉ bao gồm những khái niệm trừu tượng mơ hồ, còn con người lại là một cơ thể sống hiện thực, được cấu tạo bằng vật chất cụ thể. Lấy cái trừu tượng để áp đặt vào cái cụ thể là phương pháp hành sử sai lầm. Ứng dụng triết học vào các ngành khoa học cụ thể luôn là một quyết định tiêu dùng rất khó khăn, bởi lẽ Triết học không phải là “món ăn liền”. Trong tự nhiên, Con Người là một thực thể bí ẩn nhất, “khó đọc” nhất; bởi vì những điều Con Người nhận biết về Con Người được coi là hiện thực lại được cấu thành bởi những chuỗi hiện tượng bất định không rõ nguồn gốc “Từ đâu ra?”, buộc phải gọi tên là ”siêu thực”! (khái niệm siêu thực ở đây xin được hiều là cao hơn cả hiện thực chứ không phải là phi hiện thực). Khi đối diện với những hiện tượng siêu thực đó, chính con người phải tự thốt lên sự thán phục: “Chúa ơi! Không thể tin được!”. Lấy một ví dụ: ”Ủy ban Giải thưởng Nobel đã quyết định trao giải Nobel về Hóa học 2006 cho GS Roger Kornbrg, Trường Đại học Y Stanford (Mỹ) do công trình nghiên cứu về nền tảng phân tử của sự phiên mã di truyền. Sự phiên mã thông tin di truyền – nằm trên thể nhiễm sắc – đến các phần của tế bào là một trong các giai đoạn chính của sự sống. Chỉ cần cơ chế này dừng lại, như trường hợp tác động của độc tố sản xuất bởi một số nấm độc, toàn bộ hệ thống tế bào sẽ bị ngưng. Cơ thể mất khả năng đổi mới protein, nên suy sụp và chết trong vài ngày. GS Kornbegerg là người đầu tiên đã tạo được một ảnh thực sự, rất chính xác trình bày sự phiên mã di truyền đang lúc xảy ra ở các cơ thể có nhân (Eucaryotes).Trên ảnh này, thực hiện qua tia X, người ta thấy rõ tất cả các phân tử liên quan đến sự phiên mã di truyền như DNA xoắn kép mang thông tin di truyền, mạch RNAm (mạch RNA thông tin) vận chuển thông tin đến các “nhà máy sản xuất protein” của tế bào và cuối cùng RNA polymeraz, một enzym rất lớn có dạng một cuốn chỉ rối bời, có vai trò trung gian, đảm bảo sự phiên mã. RNA là trung gian giữa DNA và RNA”. (Trích nguyên văn Thông Báo của Tiến sĩ Phạm Văn Tất, đăng trên Tạp chí THUỐC & SỨC KHỎE, số 319, tháng 11/ 2006, tr.32). Đọc “Bức ảnh” thấy những gì đang diễn ra trong tế bào động vật cao cấp, ngưòi ta rất thán phục sự uyên bác của Tây Y trước những câu hỏi: Chuyển hóa vật chất diễn ra trong cơ thể động vật “Như thế nào?”. Nhưng Tây Y vẫn không giải thích được “Tại sao chuyển hóa vật chất trong cơ thể lại diễn ra theo một “Kịch bản” như thế ?“. Câu trả lời chắc chắn có được của giới Thần học là: “GIỜI sinh ra thế“. Ngày nay, số người thực lòng tin vào cách giải thích của Thần học cổ điển như thế còn rất ít, mặc dù đang có tới 80% cư dân ở các quốc gia đang sinh hoạt trong rất nhiều Tôn Giáo khác nhau. Tôn giáo hiện đại khác xưa nhiều lắm. Nếu được chiếu dưới góc nhìn Y tế thì Tôn giáo hiện đại đang là một hiện tượng rất lí thú về chất lượng tư duy trừu tượng của con người ở vào thời kì con người đã chiến thắng được sức hút của Trái Đất. Y học Dân Gian nước Việt rất quý trọng Tôn Giáo; bởi lẽ, Tôn Giáo hiện đại không chỉ chứa trong mình nó niềm tin Thần Thánh cổ xưa mà còn là những giải pháp có hiệu quả để bồi dưỡng tính Người, chỉ vẽ cho con người lối đi về hướng thiện. Phải chăng các hành vi khi ta đi lễ ở Nhà Thờ, đi lễ Chùa; khi đọc kinh xám hối, xưng tội là liệu pháp xoa dịu thần kinh, cân bằng tâm thế, để chữa trị các chứng bệnh mà Tây Y gọi là Stress? Lang Thuốc tôi cho rằng Tôn Giáo là một phát minh Y học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng của Loài người. Nếu không có Tôn Giáo thì toàn Nhân Loại đã bị điên từ rất lâu rồi. Hiểu Tôn Giáo “thoáng“ như thế dễ nhận ra Thần Học là một khoa học diễn đạt Tôn Giáo, sẽ thấy cần kính trọng lĩnh vực trí tuệ này. Thần học đang có vị thế xã hội rất cao còn có một lí do quan trọng nữa đó là cách giải thích Thế Giới Tự Nhiên của các nhà khoa học cũng chưa có sức thuyết phục cao. Người ta có thể nói rằng kịch bản đang diễn ra trong ảnh chụp phiên mã di truyền là tuân theo quy luật sinh học. Nhưng, nói cho đầy đủ quy luật sinh học là những gì thì chưa ai dám khẳng định, bởi lẽ “phát hiện quy luật là vô cùng khó, đòi hỏi phải tiếp cận được với sáng tạo của Vũ Trụ vốn đã có trong lịch sử, trong khi sáng tạo Vũ Trụ không theo quy luật tuyến tính mà là quy luật bất toàn…” (TS. Vũ Gia Hiên: “Tìm hiểu quá trình tiến hóa vũ trụ và sinh giới, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2004). Một nền Y học hiệu quả (chữa khỏi bệnh) tự nó toát ra ý nghĩa triết học. Từ cơ sở Y - Triết đó được vận dụng làm cho Y học tiến bộ, đó mới đích thực là biện chứng của tự nhiên. Mang một luận thuyết triết học có sẵn phủ lên thực tiễn y học, tất yếu sẽ dẫn tới chủ quan duy ý chí. Luận trị bệnh theo cách đó, Dân Gian nước Việt gọi là nói dựa. Triết học Trung Hoa cổ thuộc dòng duy tâm chủ quan. Do dựa vào nền tảng triết học đó nên y lí của Trung y đưa ra những định đề võ đoán về tiến trình chuyển hóa vật chất trong cơ thể người qua các thuyết ÂM – DƯƠNG (Lưỡng nghi), NGŨ HÀNH (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Học thuyết Âm Dương ngũ hành được vận dụng làm nền tảng tư duy của Trung Y cổ, bao trùm từ lí luận đến thực hành, trong chuẩn đoán bệnh và chữa bệnh. Việc chế thuốc và dùng thuốc của Trung Y cũng theo Học thuyết Âm Dương. Tuy nhiên, Âm Dương ngũ hành trong lý luận Trung y tuy được nói tới lại hình thành trên nền móng của thứ “Triết học” đã bị dung tục hóa như một cơ chế vận hành máy móc mang đậm tính giáo điều duy tâm định mệnh. Bởi vì, lí luận chữa bệnh và chế thuốc của Trung y cổ truyền thực chất là sự minh họa cho học thuyết về tướng số; Chiêm tinh, phong thủy… Bắt đầu từ “Bát tự dự trắc” của Lý Hư Trung, đời Đường, đến Từ Tử Bình đời Tống. Hàm lượng trí tuệ triết học trong lý luận Trung y lấy trực tiếp từ phiên bản triết học của thuật bói toán của môn phái Dự trắc “Tứ đại Thiên vương”, bao gồm: “Tướng pháp”, “Chiêm tinh phong thủy học“, “Bát tự pháp”. Môn phái này Luận về Ngũ hành âm dương đối với cơ thể và dự trắc bệnh tật như sau: "Trời có bốn mùa năm hành để sinh trưởng thu tàng, để sinh ra hàn thử táo thấp phong. Người có năm tạng hóa, năm khí để sinh ra vui mừng dận hờn, lo nghĩ buồn rầu, sợ hãi. Nói về hiện tượng tự nhiên thì lấy thời lệnh thay đổi làm khởi điểm, căn cứ các đặc điểm của thời lệnh phối hợp với ngũ hành như mùa xuân thuộc mộc, mùa hè thuộc hỏa, trưởng hạ thuộc thổ, mùa thu thuộc kim và mùa đông thuộc thủy. Do sự biến đổi của thời tiết mà sinh ra biến hóa về phong thử, thấp, táo, hàn và quá trình phát triển sinh, trưởng, hóa, thu, tàng của vạn vật. Vì thế chẳng những ngũ hành phối hợp với bốn mùa lại còn liên hệ đến năm khí, quá trình phát triển của sinh vật về phương diện khác có liên quan đến màu sắc hương vị…” Học thuyết Âm Dương trong triết học Trung Hoa cổ uyên thâm, hàm xúc là thế, nhưng khi ứng dụng vào lý luận Trung y được gọi với tên là Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã bị tước hết ánh hào quang thông thái của nó. Lý luận Trung y đã diễn đạt như sau: 1. Những hiện tượng, như: sự tích tụ, trạng thái yên lặng, những gì thuộc về bên trong, tất cả những gì thuộc về phía dưới, đều thuộc về ÂM 2. Những hiện tượng: phân tán, hoạt động, những gì thuộc về bề ngoài, tất cả những gì thuộc về phía trên đều thuộc Dương. Từ quy định đó, thuyết Âm Dương trong y học bệ nguyên xi cách diễn đạt khái quát trừu tượng của triết học để ứng dụng thực tế: Trời thuộc Dương, Đất thuộc Âm, nước thuộc Âm, lửa thuộc Dương, nghỉ ngơi thuộc Âm, hoạt động thuộc Dương, vị đắng thuộc Âm, vị cay thuộc Dương, nữ giới thuộc Âm, nam giới thuộc Dương, v.v… Để vận dụng Âm - Dương vào Trung y cổ truyền phải thuộc cái gọi là “Quy luật Âm – Dương” biểu hiện ở 4 trạng thái sau đây: 1. Âm - Dương đối lập, mô tả mâu thuẫn chế ước lẫn nhau: Ngày và Đêm; Nóng và Lạnh; Sống và Chết; Khỏe và Yếu; Ấm và Mát. Sở dĩ phải viết hoa các trạng từ vì các trạng từ đó ở trong học thuyết này đã được nhân cách hóa như một danh phận. 2. Âm – Dương hỗ căn, cho rằng do cùng một cội nguồn, nên Âm Dương nương tựa giúp đỡ nhau, “Âm có trong Dương, Dương có trong Âm”. Do đó Âm thì phải thăng, Dương thì phải giáng. 3. Âm – Dương tiêu trưởng, nghĩa là khi Âm tiêu thì Dương trưởng và ngược lại: “Cực Âm tất Dương, cực Dương tất Âm”. 4. Âm – Dương bình hành, nghĩa là Âm và Dương cân bằng nhau, cùng tồn tại: “Âm - Dương bình hành trong sự tiêu trưởng; tiêu trưởng trong thế bình hành. Nếu sự cân bằng Âm - Dương bị phá vỡ thì sự vật sẽ tiêu vong”. Đối diện với câu hỏi: Tại sao, lại quy Nữ giới vào cực Âm, còn Nam giới là cực Dương? Trung y không trả lời được. Những người có thân xác là đàn ông nhưng tâm hồn họ, cung cách biểu hiện tâm tư tình cảm của họ lại y hệt đàn bà; có người thân xác là đàn bà, nhưng cung cách biểu hiện tâm tư tình cảm lại mạnh mẽ như đàn ông (á Nam, á Nữ) thì xếp họ ở cực nào? Để bổ xung cho thuyết Âm - Dương còn mù mờ, Trung Y dùng luôn thuyết “Ngũ Hành” của dòng triết học tướng số để làm rõ thêm cái gọi là “tiêu trưởng” trong thuyết Âm - Dương Y học. Thuyết Ngũ Hành quy tất cả vật chất vào 5 nhóm: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy; đồng thời cũng quy tất cả các bộ phận trong cơ thể người thành 5 nhóm đó là: Tạng, Phủ, Khiếu, Thể, Tính rồi lần lượt ghép vào “Ngũ Hành”. Để khoa trương khả năng “bao trùm Vũ Trụ”,Thuyết này còn quy cả Tự Nhiên thành 5 nhóm là: Mùa, Khí, Màu, Vị, Luật, Hướng rồi cũng ghép vào “Ngũ Hành”. Đó là “bộ khung” của Ngũ Hành. Còn nguyên lí hoạt động quy định như sau: 1. Khi ở thế cân bằng thì quan hệ giữa các nhóm là Tương sinh tương khắc: Tương sinh là giúp đỡ, thúc đẩy phát triển theo hành tiến: Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc … cứ mãi thế mà luân hồi. Hành sinh gọi là Hành Mẹ, Hành được sinh gọi là Hành Con. Như vậy sẽ có: Mộc là mẹ của Hỏa, Hỏa là con của Mộc; Hỏa lại sinh Thổ, nên Hỏa là mẹ Thổ, Thổ là con của Hỏa; Thổ lại sinh Kim…, Kim là con của Thổ; Kim lại sinh Thủy…, Thủy là con của Kim. Nếu dừng ở một chu kì thì có vẻ là có lí. Song, sự chuyển hóa của vạn vật là “Thiên (nghìn) biến, vạn hóa. Nếu tiếp chu ky nối theo thì lòi ra cái vô nghĩa: Thủy lại sinh Mộc, Mộc lại sinh Hỏa … Cứ thế luân hồi Mẹ - Con; Con - Mẹ tùm lum, đưa tới nghịch lí là các chất luôn ở trong trạng thái vừa là Mẹ vừa là Con của chính mình. Người Việt Cổ đã “bình”rất hóm về cái thuyết ngũ hành này là: “sinh Con rồi mới sinh Cha, sinh Cháu giữa nhà rồi mới sinh Ông”. Cái lôgic của Tương khắc còn đáng ngạc nhiên hơn nữa: Mộc khắc Thổ; Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc. “Khắc” được lí giải là kiềm chế. Khi nói “Sinh” là nói đến sự phát triển; mà bản chất của phát triển là sự kế thừa trong tuần tiến đến ngưỡng sâu sắc hơn, vững bền hơn cái trước nó, rồi “nhảy vọt” tạo nên chất mới và lượng mới. Cơ học lượng tử hiện đại gọi là nguyên lý bất định. Khoa học vật lý vũ trụ gọi là quy luật bất toàn. Vậy khi Mộc sinh ra Hỏa để Hỏa sinh ra Thổ là biểu hiện của dòng chảy phát triển, tại sao Mộc lại khắc Thổ, lại kiềm chế chính kết quả phát triển của nó? Câu trả lời là kiềm chế để không phát triển quá mức. Vậy “mức” là gì, lấy gì để kiềm chế? Dùng Thuốc ư? Rất mù mờ vì không có đủ chứng lí cụ thể minh họa, mà chỉ thông qua phán truyền chủ quan của Thầy chữa. 2. Khi ở thế mất cân bằng thì quan hệ giữa các nhóm là Tương thừa tương vũ: dùng để biện hộ cho cái gọi là “khắc” khi áp dụng vào thực tế không hiệu quả. Ví dụ: - Khi “khắc” quá mạnh, tức là kiềm chế quá mạnh tới mức làm cho tê liệt ngừng hoạt động thì được gọi tên là Ngũ hành tương thừa. - Khi hành “Khắc” quá yếu khiến “Hành bị khắc” chống lại gọi tên là “ngũ hành tương vũ”. Ngày nay, nếu đem đối chiếu với các thành tựu của các ngành khoa học Hóa - Lí - Sinh - Y học hiện đại thì thuyết Âm – Dương - Ngũ Hành của Trung y cổ đại, thực chất chỉ là sản phẩm của tư duy tư biện, hoang tưởng. Trung y hiện đại đã nhận ra cái ngây thơ của lý thuyết cổ truyền, nên trong các tài liệu dạy Trung y ở bậc cao đẳng hiện đại, người ta không viện dẫn Âm Dương Ngũ Hành mơ hồ như cũ nữa mà đang có xu hướng dùng kiến thức Sinh – Hóa - Y học của Tây y để giải nghĩa các kinh nghiệm chữa bệnh cổ truyền của Trung y. Đây là một hướng phát triển y học hiện đại rất đúng đắn. Nhờ hướng phát triển này mà Trung y hiện đại đã thu được những kết quả rất đáng kính nể. Những tài liệu giảng dạy Trung y cổ truyền đang có hiện nay trở thành những kiến thức Y - Dược học vô cùng độc đáo thu hút được sự chú ý của toàn thế giới. Kinh nghiệm chữa bệnh cổ truyền của cộng đồng các dân tộc Trung Hoa là một kho báu về trí tuệ y học của Nhân Loại, bởi lẽ Đế Quốc Trung Hoa tồn tại nhiều nghìn năm, trí tuệ tự có của người Trung Hoa cộng với trí tuệ của các dân tộc mà Đế Quốc thu lượm được phong phú. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  11. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 7 1/9/2012 2:01:09 PM Cái vòng tròn Thái Cực chứa Âm và Dương đó cứ đứng sừng sững tồn tại bất chấp thời gian, bởi lẽ nó luôn được các học giả nhiều đời liên tiếp nuôi dưỡng bằng cách quan sát được một cái gì đó thấy có ở Trời, ở Đất, ở lòng người cũng các biến chuyển về thế thái nhân tình… đều nhồi nhét vào cái vòng Thái cực để luận bàn, tàng chữ và khai thác phục vụ cho lợi ích của họ cho dân tộc họ và định hướng cho cả thời đại của họ nữa. Ngoài hai nguyên tắc cơ bản trên mối quan hệ Âm Dương còn được liên tiếp bổ xung các nguyên lí sau đây: 1. Nguyên lí, Thành rồi Hủy: Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm nghĩa là hiện tượng nào cũng chứa trong nó mầm mống tự hủy nó. Cho nên trong lúc đang thịnh đã xuất hiện mầm suy; trong thịnh trị đã có mầm sự loạn; trong sự sống đã ló mầm cái chết. Chính vì lẽ đó nên không thể có Dương mà không có Âm hoặc ngược lại; không thể có sống mà không có chết. Một sự vật nào cũng luôn có hai mặt phải và trái; xã hội nào cũng có thiện và ác… 2. Nguyên lí, Âm Dương tương giao tương thành: Âm Dương tuy trái ngược nhau nhưng không tương khắc như nước với lửa mà là tương giao (gặp nhau), tương thôi (xô đẩy nhau), tương thế (thay thế nhau): “Mặt trời qua thì mặt trăng lại, mặt trăng qua thì mặt trời lại; mặt trời mặt trăng cảm ứng nhau mà ánh sáng phát ra; mùa lạnh qua thì mùa nóng lại, mùa nóng qua thì mùa lạnh lại, lạnh nóng cảm ứng nhau, xô đẩy nhau mà thành ra năm tháng. Cái đã qua co rút lại, cái sắp tới duỗi dài ra, co rút (khuất), duỗi dài (thân)hai cái đó cảm ứng nhau mà lợi ích mới nảy ra “(Nhật vãng tắc nguyệt lai, Nguyệt vãng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh yên, hàn vãng tắc thử lai, thử vãng tắc hàn lai, hàn thử tương thôi nhi thế thành yên; vãng giả khất dã, lai giả thân dã; khuất thân tương cảm nhi lợi sinh yên). Lí sự như thế để muốn nói rằng: Âm Dương chỉ tương giao tương thôi chứ không tương phản. Âm Dương lần lượt thay thế nhau theo nhịp điệu nào đó dài ngắn tùy theo hiện tượng và tùy thời nữa. Chữ Thời trong triết học Tầu lắm chuyện nhiêu khê, hấp dẫn không thua gì ma túy. Âm dương không chỉ tương giao, tương thôi mà còn tương thành nữa vì chúng bổ túc cho nhau, ban ngày thì hoạt động, ban đêm để tĩnh dưỡng. Âm Dương phải tương thành còn vì một lẽ quan trọng nữa: Nếu Âm Dương tiêu diệt lẫn nhau thì không còn Dương cũng chẳng còn Âm, rột cuộc không còn gì cả, vạn vật bị tiêu diệt hết thì vũ trụ cũng chẳng còn. 3. Nguyên lí Âm Dương tương cầu, tương ứng: Âm Dương có tương cầu thì mới gặp nhau, giao nhau thì mới sinh ra vạn vật. Khi Âm Dương tương ứng thì Dương xướng Âm họa mới hợp tác được với nhau. Càn (Trời thuộc Dương) cương kiện. Khôn (Đất thuộc Âm) nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật mới ở dạng khí, vô hình. Khôn hứng lấy nuôi dưỡng vạn vật mới hữu hình. Công linh của Khôn và Càn là như nhau. 4. Nguyên lí Âm Dương đều động … rồi biến hóa: Âm Dương không động thì không thể giao nhau.”Đạo Càn, lúc tĩnh thì chuyên nhất, lúc động tiến thẳng, cho nên sức sinh ra của nó rất lớn. Đạo khôn lúc tĩnh thì thu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh của nó rộng“ (Phù Can, Kỳ tĩnh dã chuyên, kì động dã trực, thị dĩ đại sinh yên. Phù Khôn Kỳ tĩnh dã hấp, kỳ động dã tịch, thị dĩ quảng sinh yên). Âm Dương giao nhau để làm gì? Để biến tức là để sinh sinh hóa hóa. Mọi sự biến hóa đều từ Trời Đất mà ra. Không còn Càn Khôn (Âm Dương) thì không có sự biến hóa. Âm Dương không gặp nhau, tác động vào nhau, thì “cô Dương” không thể sinh, “độc Âm“ không thể thành. 5. Nguyên lí Trật tự trong biến hóa, trước hết phải tuân theo Luật Tôn Ty Luật đó là “Thiên tôn Địa ty” (Trời cao Đất thấp, Trời tôn mà Đất tiện) hợp lẽ tự nhiên. Lẽ tự nhiên thứ Hai là chừng mực: (Thiên Địa tiết nhi tứ thời thành). Trời Đất có chừng mực mới thành bốn mùa. Lẽ tự nhiên thứ Ba là hằng cửu, nghĩa là theo một luật nào đó thì phải theo hoài, không được đổi thay. Lẽ tự nhiên thứ Tư: sự biến hóa phải theo trình tự từ tiệm biến mới đến được đột biến, khi đó gọi là Hóa! 6. Nguyên lý Mãn chiêu tổn, Khiêm thụ ích (Đầy thì sẽ vơi, thiếu thì sẽ được thêm): Người Trung Hoa cổ cho rằng Vũ Trụ diễn biến theo quy luật bất di bất dịch, vĩnh cửu; thuật ngữ triết học của họ gọi là “Thường”. Lão Tử nói “Tri thường viết minh, bất tri thường, vọng tác hung” có nghĩa là biết rõ quy luật Thường là sáng suốt; không biết quy luật Thường mà làm bừa thì gặp điều không lành. Với quan niệm “động tĩnh hữu thường” cho rằng: Thiên hạ rất động nhưng vì có quy luật Thường nên không thể loạn mãi đựoc. Quy luật Thường đó chính là quy luật chuyển hóa của Âm với Dương, chúng thay nhau, cái này tiến thì cái kia lùi. Việc Đời không cát thì hung, không hung thì cát. Dương cực thịnh thì suy dần để Âm thịnh lên và ngược lại. Khắp vũ trụ không nơi đâu không thời nào là không theo luật đó: “mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích” (Đầy thì sẽ vơi, thiếu thì sẽ được thêm). Hoặc như: “Họa hề phúc chi sở ý, phúc hề họa chi sở phục” (Họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ ẩn nấp của họa). 7. Nguyên lý phản phục, tuần hoàn: Triết học Trung Hoa rất tin vào quy luật tuần hoàn, cho rằng dù có biến động thế nào chung quy vẫn chỉ ở trong một vòng tròn. Từ trước Khổng Tử đến Khổng Tử và sau Khổng Tử cho đến hôm nay vẫn rất tâm đắc với cái gọi là Luật phản phục – quay về cái ban đầu. Cái ban đầu đó là Âm và Dương. Âm Dương luôn động, động sinh biến, biến tới cùng thì quay trở lại để cho thông, có thông thì mới vĩnh cửu, tồn tại mãi (Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu). Xã hội Trung Hoa chìm đắm trong trì trệ là do tư tưởng này chi phối chăng? Tinh thần bảo thủ, hiếu cổ đó đã khiến Đạo Nho mơ ước quay trở về thời Nghiêu, Thuấn. Lão Tử còn muốn quay lại xa hơn đó là thời nguyên thủy. Người Trung Hoa luôn cho rằng thời hoàng kim đáng tự hào nhất là ở quá khứ xa xôi: Nghiêu, Thuấn, ai đó hành sử thật đúng cái ngày xưa hư ảo đó mới đích thực là Vương Đạo, chí ít thì cũng được tôn vinh là người Quân tử. 8. Nguyên lý Định mệnh Cho rằng đã có sự an bài, một định mệnh, dù sự việc có biến chuyển ra sao, xấu hay tốt đều đã định rồi. Nhân định không bằng Thiên định. Nhân định không thể thắng Thiên định, bậc thức giả biết trước được ý Trời thì chỉ có thể né tránh làm cho xu cát tị hung” bớt xấu đi mà thôi! Đến đây có thể nói đã kiểm kê gần đủ các quan điểm triết học Trung Hoa về Vũ Trụ quan. Những nội dung này là nền tảng để người Trung Hoa xây dựng lý luận Trung y. Song phần nội dung tư tưởng triết học về Nhân sinh quan cũng trực tiếp góp phần vào việc hình thành lý luận Trung y, cần được điểm qua. Nhân sinh quan trong triết học Trung Hoa được gọi là Đạo làm người. Để giữ vần điệu cho cách diễn đạt của lối hành văn biền ngẫu, người Trung Hoa thường nói “Đạo Trời, Việc Người“. Vậy Việc người gồm có những nội dung gì? Học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết tác phẩm “Kinh dịch – Đạo của người Quân Tử “có giới thiệu nhận định của các học giả phương Tây về triết học Trung Hoa. Người Tây cho rằng: Triết học Trung Quốc có đặc điểm cho vũ trụ vạn vật cùng một thể. Tư tưởng đó là tư tưởng căn bản của dân tộc Trung Hoa mà triết gia nào: Nho, Lão, hay Mặc cũng chấp nhận. Người Tây đã tạo danh từ Uni versisme (vũ trụ giáo) để gọi tên triết học Trung Hoa. Yếu tố “Giáo” mà người Tây phát hiện thấy trong tư tưởng triết học Trung Hoa theo tôi đó chính là phép biện chứng duy tâm khách quan thể hiện rõ nét nhất trong vũ trụ quan của người Trung hoa. Nhưng khi người Trung hoa mang cái logic biện chứng duy tâm khách quan đó để giảng Đạo Người thì ngay lập tức tạo cho “Nhân sinh quan” của người Trung Hoa hình thành nên phép biện chứng mới, đó là biện chứng duy tâm chủ quan. Dưới đây là tóm lược của Nguyễn Hiến Lê về nhân sinh quan của người Trung Hoa: “Đại biểu vũ trụ là trời đất; đại biểu vạn vật là người. Trời, đất, người cùng một thể, cho nên người được sắp ngang hàng với trời đất thành một bộ “tam tài” (ba ngôi). Trời (đất) với người quan hệ mật thiết với nhau (thiên nhân tương dữ), phép tắc của trời đất làm mô phạm cho hành vi của người, thiên đạo tức là nhân đạo; hơn nữa trời với người còn tưng ứng tương cảm với nhau, cho nên người Trung Hoa thời xưa rất coi trọng phép bói, mà quan “Chúc” coi về thiên sự (cầu nguyện trời ban phước lành cho dân, xem tượng trời, làm lịch để ứng vào nhân sự, coi việc bốc phệ để đoán việc cát hung) luôn làm cố vấn cho các vua chúa, chức ngang với quan “Sử” coi về nhân sự” (Nguyễn Hiến Lê - sách đã dẫn tr. 136). Sau khi phát minh ra Bát Quái (bói quẻ), xuất phát từ Bát quái khoảng hơn 1.500 năm vào đời Bắc Tống xuất hiện thêm “Thông Thư”, “Thái cực đồ thuyết” của Chu Đôn Di như đã nói ở trên. Từ “Thông Thư” và “Thái cực đồ thuyết” của Chu tử đã tạo nên rất nhiều học thuyết ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống conn người đời Đường nở rộ nhiều học thuyết bói toán, tướng số, phong thủy, thiên văn. Đáng chú ý nhất là học thuyết Bát Tự, còn có tên gọi khác là “Can Chi thông luận” (Thiên Can, Địa chi). Thoạt đầu chỉ là cách tính thời gian phương hướng, sau được ứng dụng để bói số mệnh, bấm độn, phong thủy, xem tướng. Bói toán, hiện thân của chủ nghĩa duy tâm trở thành quốc hồn quốc túy của dân tộc Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử tư tưởng hơn 4000 năm. Tất cả những gì diễn ra trong đời sống xã hội thường ngày đều được xử lý bằng bói toán, cúng lễ. Tuy nhiên, sự sống của con người luôn hiện thực: đói thì phải ăn, ốm đau thì phải chữa trị. Dù có tin vào thánh thần đến mê muội, nhưng cúng mãi không khỏi thì phải uống thuốc thôi. Bởi vì, Con Người dù ở bất kỳ thời đại nào, kể cả khi vẫn còn ở tình trạng “ăn lông ở lỗ” cũng không bao giờ cam phận ngồi chờ chết. Tiếng gọi của sự sống đã được mã hóa ở từng gen người, ta vẫn quen gọi là bản năng sống. Người Trung Hoa cổ không phải là ngoại lệ với quy luật sống này. Theo các tài liệu hiện có do chính người Trung Hoa công bố thì dân tộc này đã biết chữa bệnh rất tài giỏi từ rất sớm cách nay khoảng 4600 năm. Bằng chứng đưa ra là Thần Nông để lại tác phẩm “Bản Thảo”; Hoàng Đế để lại tác phẩm “Nội kinh”. Ông Nguyễn Hiến Lê sau khi tầm soát sử Tầu rất kỹ đưa ra kết luận rằng: "1. Thời Tam Hoàng: Phục Hy, Thần Nông, Ngũ Đế không đáng tin. 2. Đời vua Nghiêu, vua Thuấn cũng còn đáng ngờ…” những cái tên đó đều là nhân vật huyền thoại. Hơn nữa các tài liệu khảo cổ học mới nhất của Trung Quốc được tìm thấy thì đến thời nhà Thương cách nay 3200 năm người Trung Hoa mới có chữ viết thì tác phẩm “Bản Thảo” của Thần Nông và tác phẩm “Nội Kinh“ của Hoàng Đế xuất hiện trước khi có chữ viết 1.400 năm được ghi lại bằng ký hiệu gì? Tác phẩm "Thần nông Bản Thảo" và "Hoàng Đế Nội Kinh" là có thật nhưng đó chỉ là kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian của nhiều đời, người sau chép lại và để cho thiên hạ phải kính nể dân tộc Trung Hoa có trí khôn rất sớm, nên vu cho các nhân vật huyền thoại là tác giả mà thôi. Trung y rất hãnh diện với nhân vật Biển Thước, coi ông là Y gia trước công nguyên năm thế kỷ đã biết thực hành thiết mạch, vọng sắc, nghe tiếng nói, tả hình là đã có thể nói về sở tại của bệnh. Từ Điển Bách Khoa tiếng Việt nói về Biển Thước như sau: “Bian Shi, tên thật là Tần Việt Nhân (Qin Yueren), người quận Bột Hải thời Chiến quốc, nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Có nhiều kinh nghiệm chữa bệnh, phản đối kiểu chữa bệnh của thày mo, giỏi chữa các bệnh phụ khoa, nhi khoa, bệnh tai, mũi mắt. Tác phẩm có “Ngoại kinh” đã bị thất truyền, còn lại “Nội kinh” đề tác giả Tần Việt Nhân. Có người cho rằng Biển Thước là tên gọi chung các ông lang giỏi thời xưa. Tác giả cuốn “Nạn kinh” giải thích 81 vấn đề khó của “Nội kinh”. “ Nạn kinh” đựoc công nhận là một trong 4 bộ sách kinh điển của đông y (“Nội kinh“, “Nạn kinh”, “Thương hàn luận”, “Kim quý yếu lược“). Tôi nghi ngờ những tác phẩm nói là của Biển Thước chính là những gì mà các nhà luyện đan trường sinh cho Tần Thuỷ Hoàng khi đi về phương Nam đã đàm đạo với người Việt cổ rồi biên tập mà thành. Đây cũng là một biểu hiện giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc “núi liền núi, sông liền sông”. Có lẽ để ghi lại tình bằng hữu giữa các nhà y học hai nước mà Biển Thước có thêm một tên nữa là “Tần Việt Nhân” chăng? Chỉ cần điểm qua mấy sự thật lịch sử đó có thể nói rằng: Các sách thuốc cổ của Tầu là ghi lại những kinh nghiệm thực tế hàng ngàn năm của dân gian chữa bệnh bằng các cây thuốc, con thuốc ngẫu nhiên tìm ra, chứ không phải nhờ có triết học “Thái Cực sinh Lưỡng nghi; Lưỡng nghi sinh Tứ tượng; Tứ tượng sinh Bát quái…”, sau có thêm “Âm dương ngũ hành” mà tìm ra các phương pháp chữa bệnh đó. Nhiều năm sau, khi văn hóa Trung Hoa phát triển, nhất là sau khi có chữ viết, các học giả hành nghề thầy thuốc mới vận dụng triết học để giải thích các kinh nghiệm thực tế đó. Tán hươu, tán vượn, tán miết rồi hóa thành lý luận mà thôi. Bản thân những người lập ngôn cho lý luận Trung y cũng không hiểu được rằng khái niệm Nhân trong triết học Trung Hoa cổ được dùng với ý nghĩa xã hội học vì nó tập trung chủ yếu để giáo hóa luân lý, “lẽ đời”, tức là các mối quan hệ xã hội. Tác giả chính của khái niệm “Nhân” trong triết học Trung Hoa không ai khác được ngoài Đức Khổng Tử. Tư tưởng của Khổng Tử vô cùng phong phú, hàm xúc, nhưng nếu phải tóm tắt tư tưởng Khổng Tử thì có thể nói gọn đó là học thuyết về luân lý làm người và được diễn đạt tài tình chỉ qua một chữ “Nhân“. Người đời cho rằng tư tưởng của Khổng là Nhân và Lễ, theo tôi khái niệm Lễ của Khổng cũng chỉ là tổng thể ứng xử của “Nhân” thôi. Khái niệm Nhân của Khổng có nội hàm rất hẹp là Người, nhưng có ngoại diện rất rộng: Nhân Bản, Nhân Văn, Nhân nghĩa, Nhân tình, Nhân tính, Nhân tâm, Nhân sinh, Nhân loại, Nhân thiện, Nhân ác… Sau này do ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, Nho giáo sau Khổng Tử cũng nói đến “Nhân quả” nữa. Nho giáo do Khổng Tử làm chủ soái không dùng thuật ngữ Âm Dương để diễn đạt khái niệm Nhân của ông mà khởi nguồn từ ông cho đến các đệ tử ở các thời đại kế tiếp dùng thuật ngữ triết học Chất và Văn. Sự vận động của Chất và Văn trong Nho giáo cũng na ná như sự vận động của Âm và Dương của triết lý dân gian. Nho giáo cho rằng: Chất là cái tạo ra bản thân vật. Văn là cái cơ bản nhất biểu hiện bản thân vật. Từ nhận định khái quát đó Nho giáo cho rằng Con người (Nhân) cũng có cái Chất và cái Văn của mình. Cái Chất của con người là Đạo làm người trong Ngũ luân (Năm Đạo Thường: 1. vua – tôi, 2. cha – con, 3. chồng - vợ, 4. anh – em, 5. bạn – bè). Cái Văn của con người là phong cách làm người trong cuộc sống cộng đồng ở ba lĩnh vực: gia đình, làng nước, thiên hạ. Trong ba loại cộng đồng này, ai đó bảo đảm được cái Chất và cái Văn của mình tương ứng thật tốt với nhau, người đó được tôn vinh là “Quân Tử“. Ai đó không thể hiện được đúng chuẩn mực như Nho giáo đặt ra, người đó bị miệt thị là “Tiểu Nhân”. Như vậy, con người xã hội lý tưởng của Nho giáo là Quân Tử. Con người này đã thực hiện xuất sắc những chuẩn mực do Nho giáo đặt ra. Những chuẩn mực đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những con người, những triều đại thực hiện đúng và đủ các chuẩn mực đó được Không Tử ca ngợi hết lời: Ông Nghiêu, Ông Thuấn, Chu công… được ông nhận xét đó là biểu hiện “cái văn rực rỡ thay!”. Từ nhận xét này, Nho gia đời sau tán rộng ra lập thành định ngữ “văn minh, “văn trị”. Và khi mà khái niệm “Văn” được gắn với sự giáo hóa, thì khái niệm “văn hóa” đã hình thành. Nho giáo trường tồn chính là nhờ có những chuẩn mực xã hội rất nhân bản này. Nhưng tiếc thay cho dân tộc Trung Hoa, những chuẩn mực xã hội tuyệt vời đó đã bị các thế lực cầm quyền ở tất cả các thời đại lợi dụng làm cho biến dạng thành công cụ tước đoạt quyền con người. Các chuẩn mực xã hội của Nho giáo đã cung cấp cơ sở lý luận cho các thế lực cầm quyền định ra cái gọi là “Cơ chế” duy trì xã hội Trung Hoa cổ ổn định trong hơn 2000 năm, nhưng đó là sự ổn định trong trì trệ. Khái niệm Nhân trong triết học Trung Hoa là khái niệm mang sắc thái xã hội học. Không thể mang nguyên gốc khái niệm Nhân thuộc phạm trù xã hội học vào Y học được. Con người được nói tới trong Y học trước hết phải là con người sinh học, cho dù con người đó có đang mắc chứng bệnh do quan hệ xã hội gây nên (Stress chẳng hạn) thì liệu pháp chữa trị cũng vẫn là liệu pháp kệt hợp của tâm lý học; sinh y học. Không thể viết các chữ: “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín“ vào lá bùa rồi đốt thành than hòa nước cúng thần để uống mà chữa khỏi Stress được. Sai lầm căn bản nhất và nghiêm trọng nhất trong lý luận Trung y cổ truyền là căn cứ vào tư tưởng triết học “Thiên nhân tương dữ; Thiên đạo là nhân Đạo; Trời, Đất, Người cùng một thể, cho người được sắp ngang hàng với Trời, Đất thành một bộ Tam Tài (Ba ngôi), từ đó khái quát chủ quan coi con người và hoàn cảnh là một khối thống nhất rồi phiêu lãng tới mức đưa ra nhận định: “Nhân thân tiểu thiên địa”, coi con người là một vũ trụ thu nhỏ (Tiểu vũ trụ). Khi ta nói vũ trụ là đã có ta ở trong đó. Chỉ có một vũ trụ thôi. Nếu mỗi người là một tiểu vũ trụ thì ngay trên hành tinh nhỏ bé này có tới gần 6 tỷ tiểu vũ trụ sao? Có thể có ý kiến biện hộ rằng nói tiểu vũ trụ là nói có tính khái quát. Y học rất cần sự khái quát, nhưng là khái quát thực tiễn, khái quát những cái đã xảy ra và nhưng cái đã có đủ tiền đề vật chất để tất yếu sẽ xảy ra, chứ không hề có khái quát cái hư ảo trong y học. Y học không phải đất dụng võ cho chủ nghĩa duy tâm. Con người và hoàn cảnh không phải là một khối thống nhất như quan niệm của triết học Trung Hoa. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhận định đó hoàn toàn đúng đắn cả về phương diện sinh học và xã hội học. Nếu coi vũ trụ là hoàn cảnh thì con người chỉ là sản phẩm của vũ trụ. Ngay như trái đất mà chúng ta đang sinh sống đây cũng chỉ là một sản phẩm của vũ trụ. Quan niệm vũ trụ chỉ có Âm và Dương cùng các nguyên lý chuyển hóa của nó trong tư tưởng triết học Trung Hoa ở vào thời điểm lịch sử con người mới thoát cảnh ăn lông ở lỗ thì rất tiến bộ và rất đáng kính trọng. Nhưng khi mà trí tuệ của Nhân Loại đã thắng được sức hút của Trái Đất, con người đã bay lên trời còn điệu nghệ hơn cả thần tiên thì cái khái niệm về vũ trụ ngây thơ như thế lại làm nền móng cho lý luận y học thì nguy hiểm cho sự sống của con người. Có lẽ vì lý do này mà có ý kiến của chính người Trung Hoa thời hiện đại đòi giải thể Trung y chăng? Đây là một biểu hiện rất khách quan khoa học của nền Trung y hiện đại. Chính nhờ tư duy cấp tiến này nên Trung y hiện đại kế thừa được kinh nghiệm cổ truyền có chọn lọc đã làm cho nền Y học hiện đại của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đang là một nền y học lớn của thế giới đương đại. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  12. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 6 1/9/2012 1:56:56 PM Đối với Trung y cổ truyền, Y học dân tộc Việt đã tiến hành “phản biện” trong suốt quá trình chống ách thống trị của bọn xâm lược. Sự phản biện của Y học dân tộc Việt đối với Trung y cổ truyền tràn ra cả sau hơn nghìn năm “Bắc thuộc”. Sự tài tình của y Việt trong kháng chiến trường kì là bảo toàn được lực lượng, không bộc lộ thân phận, nhẫn nhịn trước thái độ miệt thị hạ nhục của đối thủ đang thống trị. Những tinh hoa của y Việt, như thủ pháp khám bệnh, các biện pháp cấp cứu, các vị thuốc chữa bệnh cấp diễn, các thủ pháp “chữa mẹo” tổ tiên ta giữ kín, kẻ chiếm đóng không cướp được. Ngược lại cái y lí mù mờ: “Âm - Dương - Ngũ hành; Bát cương, Bát pháp” dùng vào luận trị bệnh của Trung bị y Việt lặng lẽ từ chối. Nhưng cái hay thực sự độc đáo của Y học Trung Hoa cổ truyền được các thế hệ Lang Việt tiếp thu rất trân trọng. Hệ thống kinh lạc huyệt đạo của y học cổ truyền Trung Hoa qua ứng dụng thực tế đã mang lại hiệu quả chữa bệnh rất cao được các thế hệ Lang ta kính cẩn tiếp thu tới mức quên đi nguồn gốc Việt của nó. Trong lịch sử Nhân loại chưa từng có dân tộc nào bị ngoại bang xâm lược và thống trị hơn một nghìn năm vẫn không bị đồng hóa mà còn bảo tồn được văn hóa của dân tộc mình. Chữ viết của người Việt Cổ bị hủy diệt, người Việt áp dụng ngay thế võ truyền thống “Lấy gậy ông đập lưng ông, cướp súng của Giặc, đánh Giặc”. Hơn 60% từ vựng của tiếng Việt hiện đại được Việt hóa từ tiếng Hán. Nhưng người Hán khi đối diện với các từ Việt - Hán cũng phải qua phiên dịch mới nhận ra chút ít dấu vết mơ hồ của tiếng Hán nguyên gốc. Cũng là Nhà Nho có gốc Nho học từ Khổng Tử, nhưng các nhà Nho Việt có tính cách thể hiện trí tuệ khác hẳn Nho Tầu. Nếu các vị Nho gia Trung Hoa coi việc lập ngôn là đỉnh cao của danh vọng, nên khi lập ngôn thường cao ngạo, dương dương tự đắc, diễn đạt càng huyền bí rối rắm càng được coi là uyên bác; trái lại các Nhà Nho Việt không xuất hiện ở vị thế tự đắc lập ngôn mà thường là người phát ngôn phản biện của cả cộng đồng, rất thâm thúy và hóm hỉnh, chơi chữ đạt mức kì tài. Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du là một biểu hiện thiên tài Việt hóa Hán văn. Từ một hình tượng nghệ thuật tầm thường mang tên Thanh Tâm Tài Nhân trong nguyên tác văn học Hán, Nguyễn Du đã Việt hóa cốt truyện bằng một tư duy hình tượng thuần Việt, sáng tạo ra một nàng Kiều và các nhân vật sống cùng thời với nàng đạt tầm Chân – Thiện – Mỵ ở đỉnh cao của văn hóa Nhân loại, vượt thời gian. Ai đó muốn đọc sách cổ của Tầu, dù có giỏi tiếng Tầu mà đọc trực tiếp rất dễ chán. Nhưng kì lạ thay, đọc sách cổ của Tầu qua bản dịch của Nhà Nho Việt thì thích thú vô cùng, đọc miết mà không chán. Sự kì diệu đó là gì? Đó chính là cái “ma thuật” Việt hóa tư tưởng Tầu, tiếng Tầu của các Nhà Nho Việt mà đỉnh cao là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Đặc biệt nhất thấy ở văn phong Hồ Chí Minh: Về hình thức thể hiện tư tưởng: giản dị như cách nói của người Việt bình dân; về nội dung tư tưởng cần chuyển tải: Giữ nguyên vỏ bọc các khái niệm; các phạm trù của Nho học nhưng đã chứa nội dung tư tưởng mới mang hơi thở của đời sống đương đại. Cái kỳ tài của Cụ Hồ là Người đã sử dụng Nho học như một phương tiện vận tải để vận chuyển các tư tưởng mới của Cụ, kể cả của Mác và của Lê Nin vào đời sống hiện thực ở một đất nước trước Cách Mạng Tháng Tám 1945, có ai biết chữ thì người đó đều có “Đạo Nho”. Rất nhiều người có học chữ Nho từ trước Cách Mạng tháng Tám, sau này đi theo Cách mạng đã hiểu rõ và đúng hơn về Khổng Tử là nhờ cách diễn đạt Nho học của Bác Hồ. Có tới hàng triệu dẫn chứng về cái thâm mà hóm; hóm mà thâm thúy của các Nhà Nho Việt qua văn chương bác học, nhưng nhiều nhất, thú vị nhất là kho tàng truyện tiếu lâm (sáng tác của các Nhà Nho Việt ẩn danh) có mặt ở tất cả các Thời đại. Nhiều truyện tiếu lâm thời hiện đại đã đạt tới tầm “Kì Văn”. Xin kể một truyện tiếu lâm hiện đại ở thời “Bao cấp” để thư giãn: “Có một Nhà Thiết kế kiêm chỉ đạo thi công cỗ máy kéo nước Việt ta lên chủ nghĩa xã hội. Toàn bộ thiết kế đều rập đúng khuôn mẫu do Lê Nin sáng tạo. Nhưng cỗ máy không chạy. Buồn bực quá ông sai người đánh đồng thiếp triệu Lê Nin về hỏi. Lê Nin xuất hiện, Người nói: Cỗ máy không chạy vì các anh đã đặt 80% công suất của máy vào bộ phận còi”. Đối tượng để các Nhà Nho Việt công kích không chỉ nhằm vào những bất cập về chính sách cai trị và các ông Quan đạo đức giả cùng thời mà là tất cả các thói hư tật xấu của tất cả các hạng người trong xã hội, không chỉ ở trong nước mà vượt biên ra cả nước ngoài. Hành nghề Việt y phần lớn là Lang thuốc Dân gian gia truyền không có chính danh Khoa Bảng. Chúng tôi biết thân, biết phận như thế nên không có thói quen tranh luận ồn ào về học thuật vì chắng có ích lợi gì mà còn chuốc lấy tai họa nữa. Các Lang thuốc Dân gian không được cấp phép hành nghề vì không chịu qua các lớp nâng cao trình độ nghề nghiệp khoảng từ 3 đến 6 tháng tùy theo người đó có “biết điều” hay không với Cơ quan tổ chức sát hạch, bởi lẽ nội dung nâng cao là học Âm Dương ngũ hành; Bát cương, bát pháp… của Trung y, mà các thứ đó chúng tôi lại cho là vô tích sự. Hơn nữa, các Lang thuốc Dân gian thuần Việt tuổi đã cao, chẳng màng danh vọng hão huyền, lặng lẽ hành nghề hòa nhập vào đời sống xã hội bình dân, chỉ mong Nhà Cầm Quyền ở các thể chế Chính trị trước đây để cho yên thân là may mắn lắm rồi. Chính vì cách nghĩ an phận của các ông “Lang Băm” quê mùa chúng tôi như vậy nên một thời gian rất dài các vị quan chức Y tế Nhà nước nói đến Y học Dân tộc là nói đến Trung y cổ truyền. Có vị đã đạt tới đỉnh cao danh vọng nhờ ca tụng Trung y cổ truyền. Nhớ lại mấy năm đầu Đất nước mới bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi Mới, một số người nghĩ rằng: Cứ nói ngược lại tất cả những gì trước đây đã được khẳng định bằng xảo thuật diễn đạt giật gân “hùng biện” là sẽ thành danh. Chính vì lẽ đó đã nói rằng: Văn hóa Đại Việt chỉ là một đứa con hoang được tạo thành bởi sự hãm hiếp của văn hóa Trung Hoa đối với cô gái quê mùa Nước Việt. Cách “đi vào Lịch sử” như thế không lạ. Ngay từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20, Xuân Diệu đã đã định danh hành vi này là: Kẻ Sỹ no mắc thói tự phụ khi bất đắc chí thường hành xử: “Nếu không để được tiếng thơm cho muôn đời thì ghé đít đánh một cái dắm thật thối vào Lịch sử”. Điều khiến tôi thấy lạ là: Làm nhục nền văn hóa của dân tộc như thế mà còn được hoan hô! Các Lang thuốc dân gian nước Việt chúng tôi biết Trung y cổ truyền vĩ đại thật, nhưng Trung y cổ truyền dù có muốn cũng không thể cưỡng hiếp được Việt y cổ truyền. Từ Cẩm nang Gia bảo tuy rất thô sơ và nhỏ bé so với toàn bộ trí tuệ Việt đã thể hiện trong cuộc đấu tranh bảo tồn và phát văn hóa dân tộc, tôi muốn chứng minh sự thật hiển nhiên này Gia bảo ghi: "Sách thuốc Tầu, phần lí sự Âm - Dương - Ngũ hành; Bát cương; Nhị cương lục biến… là phù phiếm vô tích sự, xem để biết chứ không giúp gì cho việc đoán bệnh trị bệnh cả". Phần đoán bệnh dựa vào màu da, tính tình, kinh lạc, huyệt đạo là HAY cần học lấy. Phần chữa bệnh trong sách Tầu “nói dựa” vào Âm - Dương - Ngũ hành, thực ra là đúc kết từ thực tế chữa bệnh, rất quý cần học lấy; Bát pháp để trị bệnh của Tầu có phần đúng với thực tế nhưng không đủ. Chính cái không đủ này tai hại vô cùng, vì nếu việc chữa bệnh chỉ khoanh lại có 8 biện pháp thôi thì sẽ đẩy thầy thuốc vào bế tắc vì khi đã dùng hết 8 biện pháp rồi mà bệnh không khỏi, đành chịu sao? Bát pháp ôm sao hết các chứng bệnh, vì bách nhân bách bệnh cơ mà. Cần đọc để rộng đường đoán bệnh, chữa bệnh, nhưng chỉ để tham khảo thôi, không dùng để tham chính được. Về các vị thuốc, Gia Bảo căn dặn: Sách Tầu ghi các vị thuốc, nói là của họ, nhưng tất cả các vị thuốc đó đều mọc ở Vùng Đất Việt Cổ. Các vị thuốc đó đều rất hay vì đều đã cho súc vật ăn, cho cả người ăn thử nữa để chữa bệnh rất lâu đời thấy công hiệu nên vững tâm mà dùng. Các vị thuốc phải sao tẩm; mục đích sao tẩm là dùng dẫn chất quy kinh tức là đưa thuốc vào tới nơi sinh bệnh, hay lame. Tầu cướp của Ta từ thời Mã Viện đấy (?). Các vị thuốc nói trong sách Tầu phần lớn dùng vào việc hồi phục thể trạng, gọi chúng là Thuốc Bắc. Còn các vị thuốc chữa bệnh nhanh, công hiệu cao đều mọc ở phương Nam, gọi nó là Thuốc Nam. Thuốc Nam đánh giặc, thuốc Bắc lập công.Thuốc Nam, thuốc Bắc đều là thuốc Ta. Những lời ghi trong Gia Bảo dùng riêng ở trong nhà không ai biết thì yên thân. Nhưng khi công khai những nhận xét này ra mà không biết đường thưa thốt thì làm sao mà tránh khỏi bị nguyền rủa là: đồ vô học, điếc không sợ súng! Hơn nữa, Trung y cổ truyền đã thâm nhiễm vào nước ta đã hơn 2.000 năm. Nhiều người đang hành nghề Trung y lại có danh cao vọng trọng. Phê phán Trung y cổ truyền khác gì liều mạng “vuốt râu Hùm”. Bên cạnh những đấng cao sang đó lại có rất nhiều Thầy Lang tử tế đang “trị bệnh cứu người” bằng kinh nghiệm thực tế của Trung y cổ truyền có hiệu nghiệm rất cao; hành động liều lĩnh “coi thường Trung y cổ truyền khác gì trêu chửi. Biết trước là khi phê phán Trung y cổ truyền sẽ bị “Trên đánh, Dưới cũng đánh” nhưng vẫn làm, thì quả thật là liều! Một người bạn thân đọc qua tác phẩm này đã khuyên tôi: Vào lúc này, hễ nói đến Trung Quốc là phải hết sức thận trọng; bình luận về Trung y dù là cổ truyền thì phải khen chứ không được chê. Viết thế nay dễ làm ngươi Hoa nổi giận, rất dễ bị tai nạn. Lời cảnh báo đó không làm tôi sợ, vì tôi đang là Công Dân của một quốc gia có độc lập tự do. Bình luận về những cái không thiết thực của Trung y cổ truyền thì ngay chính người Trung Hoa đã làm để có một nền Trung y hiện đại rất được ngưỡng mộ. Việc làm của tôi chỉ thuần túy nói lên chân lý khoa học Y học không có hàm ý nói xấu Trung Quốc, làm phương hại đến tình hữu nghị Việt - Trung. Giới thiệu có một nền y học dân tộc Việt cổ truyền không có nghĩa phủ định nền y học Trung Quốc. Ở đời này làm gì cũng sợ bóng, sợ vía như thế thì chẳng dám làm gì cả. Từ khi quay lại với nghề Lang thuốc, tôi luôn tự răn mình rằng: Dù có bị coi là thằng Hề trong nghiên cứu Y học để cất lên tiếng nói: Có một nền y học thuần Việt đã bị bụi thời gian phủ mờ thì cũng có ích cho đời hơn cam phận là một “giá áo, túi cơm”, ngậm miệng để nhìn văn hóa dân tộc Việt bị vùi lấp. Tuy nhiên, cũng xin nói thật một điều: nếu không được sống gần 20 năm trong thời đổi mới, đủ thời gian để vững tin Dân tộc Việt đang thực sự muốn đổi mới; những bộ óc lớn đang Lãnh Đạo đất nước thực sự muốn đổi mới thì dù có “uống mật gấu” cũng chẳng dám nói “chẻ hoe” ra thế này đâu. Khi bắt tay chữa bệnh cho bạn, tôi mới thực sự quan tâm đến nhận xét của Gia Bảo về Trung y cổ truyền. Công bố lần đầu trên Báo Kinh tế nông Thôn cuối tuần, tháng 12 năm 2006, (mới đăng được phần đầu đã bị chặn lại không cho đăng tiếp) tôi vẫn tránh né không nói rõ và kỹ về Trung y cổ truyền. Lần thứ hai công bố này thấy cần nói rõ lý do tạo ra nhận xét của Gia Bảo về Trung y cổ truyền để xin thêm ý kiến của mọi người. Muốn hiểu kĩ hơn lời dặn dò của Tổ phụ, tôi đọc lại Trung y cổ truyền. Đọc Trung y cổ truyền, có nghĩa là phải đọc lí luận của Trung y cổ. Lí luận của Trung y cổ lại được hình thành trên nền móng của Triết học Trung Hoa cổ. Muốn hiểu lí luận Trung y cổ thì chí ít cũng phải hiểu qua triết học Trung hoa cổ, mà triết học Trung Hoa cổ bắt đầu từ đâu? Triết học Trung Hoa cổ là cốt lõi của văn hóa ở nước này. Nhưng chính sử của Trung Hoa ghi lại thì những gì thuộc về triết học, văn học, lịch sử thành văn có trước Nhà Tần (Tiên Tần) đã bị chính vị Hoàng đế đầu tiên có công thống nhất nước Trung Hoa là Tần Thủy Hoàng tiêu hủy hết. Tần Thủy Hoàng cho rằng tất cả những thứ đó đều nhảm nhí, bịa đặt không đáng tin cậy. Để tiệt nọc nhảm nhí đó, Tần Thủy Hoàng chẳng những đốt sách mà còn chôn sống các học giả và Nho sinh. Tần Thủy Hoàng đi vào lịch sử với biệt danh“đốt sách chôn học trò”, mở đầu cho một truyền thống đàn áp những tư tưởng không theo chính thống ở Quốc gia này. Triết học Trung Hoa cổ chứa đựng rất nhiều học thuyết pha tạp hỗn loạn cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ quan được sáng tác trường kì, từ thời cổ đại lai rai cho đến đầu đời Nhà Thanh vẫn còn chú giải và hiệu đính. Duy chỉ có Học thuyết Thái Cực sinh Lưỡng nghi (Âm và Dương) là sớm ổn định, tác giả của học thuyết vĩ đại này lại là “Trí tuệ Dân Gian”. Khổng Tử, Lão Tử cũng tỳ dựa vào Âm Dương để lập ngôn dựng Đạo. Ngay như Chu Dịch nổi tiếng là uyên thâm cũng chỉ là ăn theo, nói dựa vào Thái Cực và Âm Dương mà thôi. Tuy nhiên, Chu Dịch, có xứ mạng lịch sử rất to lớn đối với văn hóa Trung Hoa. Khi mới ra đời Chu Dịch xuất hiện như một loại sách bói quẻ (Quái). Nhờ mang thân phận là sách Bói nên đã thoát chết không bị Tân Thủy Hoàng chôn sống, vì ông ta cho phép giữa lại các sách dạy nghề và bói toán. Để chạy loạn Tần Doanh Chính, các Nho gia thời Tần đã làm cái việc gọi là mượn cái thây cho hồn nhập vào để sống lại (tá thi hoàn hồn), bằng cách “đem tư tưởng của Nho, Lão gài đặt vào phần Kinh làm cho Chu Dịch thành một tác phẩm triết lí có đủ vũ trụ quan, nhân sinh quan và có thể coi là một tổng hợp các tư tưởng phổ biến của Trung Hoa thời Tiên Tần…” (Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch, đạo của người Quân tử, tr. 105). Do đó, muốn có cái nhìn tổng quát về tư tưởng Trung Hoa cổ, đọc kĩ Kinh Dịch cũng có thể coi là đủ. Chính Kinh Dịch là tác gỉa trực tiếp của cái gọi là Tứ Tượng và Bát quái. Bằng cách cụ tượng hóa Âm và Dương ở hai vạch ngang gọi là “Hào”. Vạch liên (----) gọi là Dương Hào; vạch đứt (--_--) gọi là Âm Hào và làm nên “kì thư” vô cùng đặc sắc, bí ẩn và cao siêu đến mức thuật ngữ “Quái” thông ngôn sang tiếng Ta là “Quẻ” lại được dùng tương tự một tính từ là “Quái”, như: “Quỷ quái, Ma quái, quái ác”. Kinh Dịch đã hoàn thiện lí luận Triết học Trung Hoa cổ; sau đó được Chu Đôn Di tổng kết toàn bộ tư tưởng triết học Trung Hoa từ cổ đại cho thời ông đang sống để có diện mạo như đang thấy ở ngày nay. Sau Chu Đôn Di, nhiều học giả đời sau có thêm thắt chút ít tư tưởng của họ, nhưng chỉ là “vẽ rắn thêm chân”, không có tư tưởng gì sâu sắc hơn. Chu Đôn Di là ai, và sự tổng kết tư tưởng triết học Trung Hoa có nội dung ra sao? Từ Điển Bách khoa Việt Nam, tr. 487 trả lời như sau: “CHU ĐÔN DI (triết; Zuhou Duny; 1017 - 73), nhà triết học Trung Quốc thời Bắc Tống, tự là Mậu Thúc. Chu Đôn Di là người kết hợp tư tưởng trong “Dịch truyện”, “Trung dung” và “Nguyên đạo” của Hàn Dũ (H. Hanyu) với một số tư tưởng của Đạo, Phật giáo. Cải biến “Vô cực đồ” của Trần Hoàn (H. Chen Tuân) thành “Thái cực đồ” - một thuyết về cấu tạo vũ trụ – đồng thời xây dựng nên một hệ thống triết học có nguồn gốc ở nhiều học phái với các khái niệm như thái cực, lí, khí, tính, mệnh v.v... trở thành phạm trù cơ bản của lí học đời Tống. Chu Đôn Di là một trong những người sáng lập ra “Thái cực đồ thuyết” nêu lên quá trình sinh thành của vũ trụ và con người” “Vô cực nhi thái cực” (vô cực mà thái cực). Thái cực động thì sinh dương. Động đến cực thì tĩnh. Tĩnh thì sinh âm. Tĩnh đến cực thì quay lại động. Một động, một tĩnh làm cơ sở cho nhau. Phân âm, phân dương, lưỡng nghi được lập nên. Dương biến âm hợp thì sinh ngũ hành là thủy, hỏa, mộc, kim, thổ. Ngũ khí tuần tự ban bố thì bốn mùa vận hành. Ngũ hành vốn là một ở âm dương; âm dương vốn là một thể thống nhất ở thái cực; thái cực vốn là vô cực, sinh ra ngũ hành, mối hành là một tính. Cái chân thực của vô cực, cái tinh túy của nhị (lưỡng nghi) và ngũ (ngũ hành) kết hợp gắn bó với nhau mà không ngừng đọng lại. Ở đó, đạo càn thì sinh nam, đạo khôn thì sinh nữ. Nhị khí giao cảm với nhau thì hóa sinh vạn vật, vạn vật thì sinh mãi biến hóa vô cùng (Thông Thư). Sự trình bày trên là tập hợp và hệ thống hóa các quan điểm về vô cực, thái cực âm dương, ngũ hành của triết học Trung Quốc trước đó, đồng thời là cơ sở để các nhà triết học Trung Quốc sau này không ngừng giải thích, tranh luận và phát huy. Tác phẩm tiêu biểu: “Thông Thư”, “Thái cực đồ thuyết” v.v... Người đời sau biện soạn thành “Chu Tử toàn thư”. Như trên đã nói, Kinh Dịch đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện lí luận triết học Trung Hoa cổ có tham vọng giảng nghĩa Đạo Trời và Đạo Người. Cần nói thêm khái niệm “Đạo” của người Trung Hoa, bởi lẽ thuật ngữ này nghĩa đen là đường đi, nhưng có nghĩa bóng rất phong phú được dùng rất phổ biến để diễn đạt tư duy phức tạp khi thì trừu tượng mơ hồ, khi lại rất cụ thể mang tính cưỡng bức bắt phải tin theo. Rất khó định nghĩa cho đủ thế nào là Đạo. Ngay như người “phát minh” ra thuật ngữ “Đạo” là Lão Tử cũng không giải thích được. Lão Tử nói: “Có một vật gì đó sinh ra cả trời đất, lặng lẽ, trống không, đứng riêng biệt không đổi thay, tuần hoàn không biết mỏi, có thể làm mẹ thiên hạ, Ta không rõ tên là gì, gọi là Đạo”. Phiên sang âm Hán Việt là “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu” (Đạo đức kinh). Có lẽ từ gợi ý này mà Lỗ Tấn có định nghĩa về Đường đi hàm xúc, bất hủ chăng? Đại ý là: thoạt đầu chỉ là một lối mòn, Con Người cứ theo đó, đi mãi thành Đường. Từ khái niệm âm dương lại thêm Đạo nữa, triết học Trung Hoa cổ biện luận: “Thánh nhân đặt ra dịch lí… dựng đạo trời gọi là âm với dương, dựng đạo đất gọi là mềm với cứng, dựng đạo người gọi là nhân với nghĩa”, (tạo thành Ba ngôi: Thiên Địa Nhân). Phiên âm là: Thánh nhân chi tác dịch dã… lập Thiên chi đạo viết âm dữ dương, lập Địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa. Người Trung hoa cổ hình thành tư tưởng Thái Cực là nguồn gốc của Vũ trụ từ rất sớm, các học giả đời sau nói rõ thêm đó là khí tiên thiên bất sinh bất diệt. Trong cái linh căn huyền ảo đó (Thái Cực) tiềm ẩn hai nguyên tố ngược nhau về tính chất, đó là Âm và Dương. Nguồn cảm hứng để người Trung Hoa cổ phát minh ra học thuyết âm dương không đâu xa mà chính là Trời và Đất. Trời và Đất chính là cha mẹ của vạn vật, đó là quan niệm khá phổ biến của toàn thể loài người thời thượng cổ, vì hàng ngày người ta thấy nhờ có đất mới có cây cỏ, thú vật nên loài người mới có miếng ăn. Con người còn thấy nhờ có tròi mới có ánh sáng, có nắng có mưa, có lửa; nhờ có những thứ đó con người và vạn vật mới sinh sôi được. Nhưng lí giải cơ chế vận hành của Trời với Đất ra sao thì chỉ có người Trung Hoa cổ mới nói được. Có thể nói rằng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, tư tưởng Trung Hoa cổ giống như một Thần Đồng. Song, Thần Đồng đã quá ngạo mạn, ngủ yên trong ánh hào quang do nó tự tạo ra đó nên đã bị thời gian vượt qua. Phải đợi đến đầu thế kỉ 20, tiếng sét của cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 mới làm người khổng lồ Trung Hoa tỉnh mộng. Qua thực tế lịch sử cho thấy: chỉ có người Trung Hoa mới đánh thức được người Trung Hoa tỉnh mộng mà thôi. Tất nhiên tư tưởng triết học đặc sắc Trung Hoa đó không thể do một người nghĩ ra mà là trí tuệ của rất nhiều thế hệ các nhà thông thái ở các thời đại hiện diện ở nước này; họ cũng phải nghiền ngẫm hàng nghìn năm mới có diện mạo như ta thấy hiện nay. Thoạt đầu chỉ là âm dương rồi liên hệ đến Càn (Trời), Khôn (Đất), kết hợp khái niệm Đạo của Lão Tử. Nhờ có sự gợi ý của Đạo Lão mà chú ý đến giống đực, giống cái, đến cái được sinh ra, cái chết đi sinh sinh hóa hóa”. Trải qua hàng nghìn năm quan sát, con người nhận ra rồi gom góp suy nghĩ của nhiều đời làm nên học thuyết về Vũ Trụ đi tới một kết luận: “Thiên Địa Nhân luân, vạn vật hóa thuần”. “Quan niệm âm dương là một quan niệm đặc biệt Trung Hoa, không thấy trong tư tưởng của các dân tộc khác… Vì âm dương bao trùm cả không gian (như phía Bắc, phía Nam) thời gian (như ngày, đêm), thời tiết (như đông hè nắng mưa), không vật gì hữu hình hay vô hình trong vũ trụ mà không có âm dương: giống đực, giống cái, rỗng đặc, thịnh suy, thăng giáng, thu tán, thiện ác , tốt xấu, quân tử tiểu nhân… đều là âm dương cả. Âm dương không phải chỉ là hai cái khí, hay hai nguyên lí, không phải là những năng lực, những khía cạnh, những đặc tính… mà là tất cả những cái đó, cho nên không thể dịch từ ngữ âm dương được, và người Châu Âu đành phải phiên âm là Yin và Yang” (Nguyễn Hiến Lê - sách đã dẫn tr.114 - 115). Học thuyết Âm Dương không chỉ làm say đắm những bộ óc vĩ đại của người Trung Hoa mà còn nhanh chóng lan truyền ra khắp vùng Châu Á cùng thời mà nó còn sức quyến rũ những nhà thông thái Châu Âu ở thời hiện đại. Cái thần thái, cái ma lực lôi cuốn trí tuệ nhân loại của học thuyết Âm Dương chính là phép biện chứng chứa đựng trong học thuyết này. Chính nhờ có phép biện chứng của Âm với Dương đó mà tư tưởng của Khổng Tử chủ yếu bàn về luân lí của xã hội Loài Người để đưa ra luận điểm phải quản lý xã hội bằng “Nhân Trị“, được dẫn truyền qua nhiều thế hệ và trở thành nguồn cảm hứng vô cùng phong phú cho rất nhiều học giả “lập ngôn” diễn đạt tư tưởng ở thời đại của họ. Cũng chớ trêu thay, tư tưởng của Khổng Tử làm vẻ vang cho văn hóa Trung Hoa bao nhiêu, thì cũng chính tư tưởng đó đã kìm hãm xã hội Trung Hoa tiến bộ bấy nhiêu. Người Trung Hoa hiện đại đã nhiều lần muốn thoát khỏi sự ám ảnh của tư tưởng Khổng Tử mà cho đến nay vẫn không thoát nổi. Những thế lực muốn kìm hãm Trung Quốc phát triển đã đưa vào chiến lược của họ kế sách: tiếp tục ca ngợi Khổng Tử, đưa ông lên tận Mây Xanh, càng cao càng tốt. Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, không có học thuyết nào diễn đạt hàng loạt vấn đề khổng lồ về thế giới quan, nhân sinh quan cực kì phức tạp mà chỉ cần kí hiệu bằng một cái vòng tròn. Vòng tròn mang tên Thái Cực đó bên trong chứa hai giọt nước đen trắng vẽ cách điệu như đang ôm ấp nhau ở tư thế tráo đầu đuôi, ở phần đầu của mỗi giọt nước đều có hai điểm khác màu dễ liên tưởng như hai con mắt đang dõi nhìn nhau. Màu trắng tượng trưng cho Dương, màu đen tượng trưng cho Âm, hai điểm đen trắng như hai con mắt đó để ám chỉ rằng trong Dương luôn có Âm và trong Âm luôn có Dương; khi màu đen thót lại thì màu trắng phình ra, ngược lại khi màu trắng thót lại thì màu đen phình ra để ám chỉ Âm thịnh thì Dương suy, Dương thịnh thì Âm suy. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  13. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 5 1/9/2012 1:52:58 PM Y học dân gian nước việt nhận biết về Tây Y và Trung Y cổ truyền Đôi nét về Cẩm nang Y - Dược Gia truyền. “Cẩm nang Y - Dược Gia truyền” gọi tắt là Gia Bảo, thực chất là sự đúc kết thực tế chữa bệnh của Tổ phụ chúng tôi ghi chép lại kinh nghiệm của nhiều thế hệ “Lang thuốc dân gian” của toàn thể dân tộc Việt mà dòng họ tôi thu thập được ở nhiều đời theo dạng “trường thiên nhật kí”, Cha truyền Con nối, một đời người dù thông tuệ xuất chúng cũng không thể viết nên được. Gọi tên là Gia Bảo có nghĩa là tài lệu dùng riêng của gia đình không được tiết lộ ra ngoài, nên cách nói, cách viết thường mộc mạc “nghĩ sao nói vậy” cho con cháu thấy thực chất của vấn đề, nên không dùng thủ pháp khiêm nhường giả trá theo lễ giáo ở xã hội phong kiến từ xa xưa. Tuy nhiên, cách viết đó chỉ dùng ở trong nhà thì thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” là cần thiết. Khi công khai ra với Thiên Hạ vẫn giữ nguyên khẩu khí “tự phụ” như thế, dù có nói đúng cũng dễ bị coi là “lố”. Do phải sử dụng kinh nghiệm gia truyền để chữa bệnh và công bố ở công trình này, tôi đã diễn đạt theo ngôn ngữ hiện đại. Truyền thống Lang thuốc của gia tộc chúng tôi luôn tuân theo nguyên tắc: Người muốn hành nghề Việt y; Việt dược truyền thống bắt buộc phải biết phản biện được Trung Y; Trung dược. Phản biện để học hỏi chứ không bắt chước, vì người Việt được sinh ra trên đất Việt, khác với người Tầu được sinh ra ở nước Tầu. Đến thời Pháp thuộc, khi mà văn hóa Châu Âu, theo sau gót giày xâm lược của bọn “Bạch quỷ mắt xanh mũi lõ” tràn vào nước ta thì người hành nghề Việt y, Việt dược truyền thống còn phải biết phản biện cả Tây y nữa. Thực tế lịch sử cho thấy các Lang thuốc Dân Gian cổ truyền hầu hết là dân thường. Họ không phải là người Khoa Bảng, không được Vua, Chúa tin dùng, bị chê là hạng người “vô sư, vô sách”. Nhiều Cụ Lang Ta, thông minh, giỏi nghề cả đời sống trong trạng thái “bất đắc chí”. Thế sự thăng trầm, Triều đại cũ sập đổ Triều đại mới nổi lên, sủng thần hay chữ của triều đại cũ thất sủng liền ra nhập vào đội ngũ Lang Thuốc Dân Gian. Lịch sử nhiều nghìn năm của Y học dân tộc Việt diễn ra như vậy đã cô đọng lại làm nên một đội ngũ Lang Thuốc Dân Gian có thực học, luôn phải chống lại sự chèn ép của các Học Giả hãnh tiến của các chế độ cai trị đương thời. Hoàn cảnh đó là một thực tế làm tăng thêm lòng yêu nước, tự hào dân tộc của nhiều thế hệ Lang thuốc Dân Gian. Do căm ghét bọn xâm lược và bọn Việt gian, nên số đông các cụ Lang Ta ngấm ngầm tìm hiểu Trung y, Tây y với mục đích bài xích, ngăn cản Hậu Duệ làm Việt gian. Tìm hiểu nền y học nước ngoài với tâm trạng căm thù nên không tránh khỏi “thiếu công bằng”. Trong suốt thời kì Pháp thuộc chỉ có bọn tay sai cho Pháp và người giàu có ở thành thị mới chữa bệnh bằng Tây y. Sự bài xích Tây y của dân Việt quyết liệt tới mức thực dân Pháp phải đổi tên các cơ sở chữa bệnh của chúng với cái tên mang tính lừa mị là “Nhà thương”, nhằm thu hút người Việt theo Tây y. Tuy nhiên, chân lí Y học luôn mang tính toàn nhân loại, toàn cầu, nên trong thực tế thiên kiến cực đoan bài xích đã tự động nhường chỗ cho tinh thần phục thiện. Những tinh hoa của hai nền y học cả Trung y và Tây y đã được nhiều thế hệ Lang Ta “học lỏm“ rất “tinh quái”.. tức là Việt hóa những điều được cho là HAY của kẻ thù. Sự Việt hóa phải đạt đến trình độ “tinh quái” vừa để che mắt Địch để không bị khinh là Ta học Nó, vừa để tránh các cụ Trưởng Lão bảo thủ chửi là Việt Gian. Vì sự phức tạp trong quan hệ xã hội đó mà trong hành nghề Y Việt luôn xảy ra xung đột giữa cái được coi là phải với cái được coi là không phải. Đến đời bố tôi, (sau Cách Mạng Tháng Tám 1945), trước những tiến bộ chói sáng của nhiều Ngành khoa học cơ sở, các xét nghiêm “mẫu bệnh phẩm” của Tây y trở nên hết sức tinh vi phức tạp, phong phú. Người ta không chỉ “điện di” được Protein huyết thanh để tìm sự hiện diện của Praprotein (các giải đơn clôn) mà còn điện di được cả những chất lipoprotein; glycoprotein;… Tây y nghiên cứu thành phần cấu tạo của protein đã phát hiện được các “Bệnh phân tử”; dùng các chất đồng vị phóng xạ trong chuẩn đoán bệnh; nhuộm hóa học tế bào để xác định thành phần các tế bào máu; phát minh ra máy đếm hồng cầu, đếm bạch cầu; phát minh ra các thiết bị kiểm nghiệm tự động; chẩn đoán nhanh vi khuẩn, vi rút bằng phương pháp huỳnh quang… và rất nhiều thiết bị kì diệu khác, những người hành nghề Y học dân tộc Gia truyền trong họ tộc chúng tôi thường có phản ứng bằng hai cực đoan đối lập nhau, căng thẳng tới mức “từ mặt nhau”. Hai cực đoan đó thường biểu hiện như sau: Một là, bái phục Tây Y "sát đất" rồi bỏ nghề, tự thấy không thể “đọ tài” với Tây y được. Biểu hiện này không chỉ trong họ tộc tôi mà còn có cả ngoài xã hội nữa. Ngay ở bên Tầu, đất nước tự nhận là Trung tâm của Thiên Hạ có nền Trung y cổ truyền lừng danh cũng đã xuất hiện “Những lá cờ Trắng đầu hàng Tây Y theo kiểu Trương Công Diệu”. Ông Trương Công Diệu, viên chức của Sở Nghiên cứu kỹ thuật xã hội và Công nghệ Đại học Trung Nam thành phố Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam đề nghị xin bãi bỏ Đông Y, (Xem bài “Đông Y sẽ đi về đâu?”- Tạp chí Cây thuốc quý, số 80, tr.23). Hai là, lên án Tây Y ngông ngạo: dùng kĩ thuật tiến bộ hủy hoại tính nhân văn của con người. Nếu Tây Y không biết tự kiềm chế, quá phiêu lãng với các thành tưụ khoa học kĩ thuật đơn thuần, không chú ý đến tính người trong các dự án làm biến đổi cấu trúc sinh học tự nhiên của con người để thụ tinh nhân tạo; làm biến đổi gen người; lai ghép gen người, gen thú… để chữa bệnh nan y. Những hành vi đó chính là tội ác hủy hoại loài người. Nếu không ngăn chặn các dự án thiếu nhân tính đó thì sự tiến bộ trong khoa học sinh học, rốt cục sẽ tạo ra một giống nguời rất to khỏe, sống lâu, nhưng không có tâm hồn mà chỉ có bản năng sinh vật: BẢN NĂNG THÚ. Khoa học Y học tiến bộ theo con đường này sẽ làm cho Loài Người trong tương lai sẽ là NGƯỜI THÚ. Những chỉ báo cụ thể: phần lớn trẻ em được thụ tinh trong ống nghiệm hay ốm đau quạt quẹo, chỉ số thông minh thấp, thiếu tình Người là cơ sở thực tế cho sự lo ngại đó. Trường phái ”bái xích Tây y” đã có nhiều thực chứng cũng thuộc dạng “khó bác bỏ” là “Thuốc Tây” không hay! Cụ thể là Tây y bất lực trước rất nhiều bệnh mà “Thuốc Ta” coi là bệnh thông thường, như: các bệnh “vẩy nến”; “chàm”; “vô sinh”; “cai nghiện chất ma túy”; các chứng bệnh phụ nữ tiền sản và hậu sản; các bệnh ”Đái tháo có đường và đái tháo nhạt“; các chứng bệnh về “đổ tháo mồ hôi” mà Tây y phán là do “cường hạch thần kinh giao cảm” và không có thuốc chữa đặc hiệu, phải dùng “chiêu” giải phẫu “diệt hạch giao cảm”. Dịch vụ này rất đắt tiền, bệnh viện cấp “tỉnh lẻ” vẫn chưa làm được! Hiện tượng ra mồ hôi trộm trong các chứng bệnh nhiễm trùng nan y thì câu trả lời của Tây y là chữa khỏi nhiễm trùng thì mới khỏi bệnh ra mồ hôi trộm?! Giải thích như thế thì im lặng còn hay hơn! Ngay như các bệnh ung thư lành tính và ác tính, Tây y cũng chỉ có duy nhất “một chiêu phẫu thuật mổ xẻ và cắt bỏ” mà thôi. “Đại sự” đang làm Tây y bối rối là Hội chứng HIV/ AIDS. Tây y phát hiện Hội chứng HIV/ AIDS, rồi công bố sự phát hiện đó với các chứng cứ thoạt nhìn có cảm giác là rất khúc triết, sâu sắc và triệt để. Nhưng rồi kết quả diễn biến thực tế của bệnh đã nói lên nội dung công bố bệnh của Tây y còn rất mù mờ. Thuốc chữa của Tây y không khỏi bệnh đã đành, ngay như cách luận trị bệnh cũng đang làm rối trí các thầy thuốc thực hành. Tây y cho rằng cơ sở để xác định mức độ trầm trọng của bệnh là đếm số lượng tế bào Limpho CD4+; nếu cá thể nhiễm bệnh khi còn dưới 50 CD4/1ml máu thì bệnh nhân chỉ sống được không quá 1 năm. Trong thực tế nhiều người bị chết vì AIDS do nhiễm HIV khi số lượng CD4+ vẫn còn tới hàng trăm. Ngược lại có những người có lượng CD4 dưới 50/1ml vẫn sống lâu, không bị sa vào AIDS, tại sao? Tây y tỏ ra rất uyên bác trước những dạng câu hỏi: “như thế nảo?”, nhưng lại né tránh trước những dạng câu hỏi: ”tại sao?” trong chữa bệnh. Tây y công bố Hội chứng HIV với thiện ý cảnh báo cho Nhân loại một chứng bệnh nguy hiểm, nhưng cách công bố lại mang nặng tính hù dọa, gây ra hậu quả rất tàn ác. (Ở một làng thuộc Châu Phi, người ta đã chôn sống những người nhiễm HIV). Hiện tượng kì thị, cô lập người nhiễm HIV gây ra biết bao thảm kịch cho dân lành đã trở thành phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Tổ chức Y tế Thế giới đã tốn rất nhiều công sức để “Nói lại cho rõ” chứng bệnh này. Nhưng vết thương do tuyên truyền mang tính “Học phiệt”, hù dọa về căn bệnh này hằn rất sâu vào tiềm thức con người phải hàng thập kỉ nữa mới khắc phục được. Xét về mặt pháp lí có thể khép cách thông tin hù dọa này vào “tội khủng bố” được . Phản biện theo hướng chỉ nhìn thấy những khuyết nhược điểm có thật để lên án Tây y như vậy là không công bằng. Sẽ là vô ơn nếu không biết trân trọng những đóng góp lớn lao – có thể nói là vĩ đại nữa – của Tây y đối với Loài Người. Ngay như đối với Hội chứng HIV/ AIDS, mặc dù cách luận trị bệnh và thuốc chữa tuy còn nhiều khiếm khuyết, nhưng nhờ có sự công bố của Tây y về chứng bệnh nguy hiểm này đã góp phần nâng cao ”Y trí” cho cả Loài Người. Chủ nghĩa thực chứng của Tây y nếu khắc phục được xu hướng “máy móc cơ giới” thô bạo thì đó là một công cụ sắc bén, một lực lượng chủ lực để con người khám phá sinh giới tự nhiên đạt hiệu quả cao. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  14. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 4 1/9/2012 1:49:51 PM 3. Y lý chủ đạo của y học dân gian. Y học Dân gian coi tất cả các tác nhân gây bệnh cho Con người đều là Tà. Tà là chỉ hiện tượng được cho là không chính đáng: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” (Nguyễn Đình Chiểu). Đâm là hành vi bạo lực, nhưng bạo lực đó là để diệt mấy thằng gian nên bạo lực đó vẫn là chính nghĩa. Ở đây nhà thơ chơi chữ “chẳng tà” vừa có nghĩa là chính đáng mà còn có nghĩa là không bị cùn. Trạng thái Tà có ba tính chất: Tà Khí; Tà Tâm và Ác Tà – còn gọi là Trùng Tà. Cơ thể bị mắc bệnh có nghĩa là đã bị nhiễm Tà. Mức độ nặng nhẹ của bệnh được xác định trên cơ sở đối chiếu với tiêu chuẩn của sức khỏe. (Tứ diện hiện sinh). Người Việt Cổ cho rằng: Cơ thể một con người được coi là khỏe mạnh khi con người đó luôn cảm nhận được đủ bốn khoái cảm lớn ở trong thân thể mình. Bốn khoái cảm lớn đó thường được gọi là “Đại tứ khoái”, gồm có: Ăn; Ngủ: Làm tình và bài tiết. Thiếu một trong bốn khoái cảm đó là có bệnh. Cơ thể không còn bốn đại khoái cảm nữa là “Cận tử” rồi. Cổ nhân cho rằng: Dù là người cao sang, thông tuệ cho đến người hèn yếu đều có chung khoái cảm sinh lý nói trên, vì nó thuộc về bản vị. Còn những khoái cảm tinh thần thuộc về nhân vị, sản phẩm của lí tưởng – niềm tin, biến ảo khó lường nên không phải là nơi căn bản của cơ thể sống. Do đó, mọi bệnh tật phát sinh trong cơ thể người đều do Tà hoặc trùng đã ám vào đại tứ khoái mà sinh ra. Chữa bệnh là trục tà cho "Đại tứ khoái". Khôi phục đủ “Đại tứ khoái” cho cơ thể là con người khỏi bệnh. Ăn: Khoái cảm lớn nhất, đói mà được ăn. Những người nghèo đói không được ăn, không có khoái cảm ăn. Ngược lại người giàu có cần ăn thức gì có thức đó và thường có cảm giác ăn không ngon miệng, mất khoái cảm ăn. Cả hai loại người này đều thấy ăn không ngon miệng khi cơ thể bị ốm. Tìm ra bệnh là mang lại khoái cảm ăn là đã chữa đúng bệnh. Có khi chỉ một bát cháo hoa hay một bữa cơm là cũng đã chữa khỏi bệnh. Ngủ: Ngủ là nhu cầu tự nhiên của con người. Khoái cảm của ngủ là ngon giấc không mộng mị, nếu có mộng thì là mộng đẹp. Ngủ dậy thấy khoan khoái dễ chịu thì đó là khoái cảm của ngủ. Giấc ngủ không được như mô tả ở trên là có bệnh. Mất ngủ, ngủ ít (Tối thiểu 8 giời ngày) ngủ không ngon giấc, tỉnh rồi lại thiếp đi, mộng mị lộn sộn, nửa thức nửa ngủ. Không ngủ nữa thức dậy thấy mệt mỏi, chán trường, là cơ thể đang có bệnh. Tìm ra bệnh chữa trị bệnh đưa lại giấc ngủ ngon và lành là khỏi bệnh. Làm tình: Y học dân gian coi khoái cảm trong làm tình là biểu hiện đồng bộ, toàn diện sức khoẻ của một con người. Cuộc tình đến ngưỡng cao trào nó làm rung động toàn cơ thể, bởi vì toàn bộ các hệ thống các cơ quan nội quan trong con người đều xúc động. Cảm khoái đó khiến các nhà Nho vốn nổi tiếng là nhã cũng không kìm nén được phải thốt ra lời: “đại khoái hĩ !”. Một con người không cao hứng trong cuộc tình, hoặc lâm vào tình cảnh “trên bảo dưới không nghe”, hoặc lãnh đạm với nhu cầu giao hợp là có bệnh. Người phụ nữ đã tắt kinh vẫn có nhu cầu tình dục. Với người đàn ông nhu cầu đó đi mãi suốt cuộc đời. Dân gian nói hình ảnh rằng: Chỉ khi nào cắt đầu gối không có máu chảy thì mới hết nhu cầu làm tình. Bài tiết: Đại tiểu tiện thông suốt tạo cho ta khoái cảm như một sự giải thoát. Đại tiện chỉ cần hai lần phóng là hết phân, cơ thể thấy nhẹ bẫng, là khỏe mạnh. Đại tiện vất vả phải lực dặn, phân ra lai dai, ngồi nhà cầu lâu, có cảm giác nóng ở lỗ thải phân, phân mỏng nát và có mùi thối khẳn là cơ thể đang có bệnh không chỉ ở đường tiêu hóa mà từ gan đã có chuyện lâm nguy, hiện tượng ỉa té tức là bệnh đường ruột cấp tính; ỉa té mà không đái là chỉ báo đã bị nhiễm vi khuẩn tả. Ỉa té mà vẫn đái được thì đó chỉ là rối loạn tiêu hóa bình thường không phải nhiễm vi khuẩn tả, đừng quá lo! Đi tiểu vất vả, đường liệu phóng yếu, không gây được tiếng re re do ác lực phóng liệu là cơ thể yếu. Đái xón, đái dắt, dòng liệu ngừng nhưng vẫn chưa hết cảm giác mót, đứng một lúc nước tiểu lại chảy buộc ta phải dặn tiểu; người phụ nữ đũng quần luôn ẩm ướt là cơ thể đang có bệnh. Tìm ra bệnh, chữa bệnh mang lại khoái cảm khi bài tiết là khỏi bệnh. Bốn khoái cảm này kết hợp lại thành cái bất biến cùng với “Tứ diện hiện sinh” để ứng phó với vạn biến truy tìm tất cả các loại bệnh có trong cơ thể con người. Trong bốn đại khoái cảm này thì khoái cảm ăn và khoái cảm ngủ luôn được chú ý đến đầu tiên. Thầy lang dân gian khi được mời đến chữa cho bệnh nhân mắc HIV/ AIDS thì thường là bệnh AIDS đã là giai đoạn cuối, AIDS đã toàn phát. Ở tình trạng này thì ở cả Tây y và Trung y đều bó tay. Người ta chăm sóc bệnh nhân HIV/ AIDS ở giai đoạn cuối chỉ vì nhân đạo, sống ngày nào biết ngày ấy. Nhưng lang thuốc dân gian không nghĩ thế, bệnh nhân nếu còn biết cười trước một câu nói vui, “bông phèng” là còn có cơ hội để nhận chữa. Lang thuốc dân gian đã nhận chữa cho con bệnh nào thì ông ta tự tin rằng giữa sống và chết có sác xuất là 50/50. Việc đầu tiên là phải cấp cứu đã. Thuốc cấp cứu chữa người ở giai đoạn AIDS toàn phát là viên thuôc “Hoàn sinh”, toàn bộ chất liệu của viên thuốc này là kết tinh của 20 a xít amin cần có cho sự sống của con người trong 24 giờ. Chức năng của nó là cấp tập khôi phục khoái cảm của ăn và ngủ đã bị héo tàn của người bệnh. Sau khi đã uống thuốc cấp cứu rồi thầy lang mới bắt tay khám bệnh. Người nhiễm HIV/ AIDS ở giai đoạn toàn phát cơ thể đã suy sụp. Trước hiểm hoạ cận tử thì phải cấp cứu hoàn sinh khoái cảm ăn. Uống thuốc cấp cứu hoàn sinh là cho ăn cưỡng bức để làm hồi tỉnh lại cơ chế tự nhận thức của toàn cơ thể. Quy luật sinh học của nhận thức luôn diễn ra là đi từ cái cưỡng bức đến cái tự giác. Cưỡng bức nhanh chóng khôi phục khoái cảm ăn để cơ thể có cảm giác đói. Khi đã có cảm giác đói có nghĩa là nó đã tới được cái tự giác. Phép dùng thuốc của y học dân gian là cơ chế cưỡng bức để khôi phục cái “tự giác” ở cơ thể con người mà thôi. Thời gian uống thuốc hoàn sinh khoảng 3 giờ mà người bệnh có cảm giác đói, biểu hiện của nó là nước bọt tiết nhiều ở miệng, dân gian gọi đó là hiện tượng “nuốt nước bọt”. Tỷ số sác xuất giữa sống và chết được nâng nên 60/40 việc khám bệnh bắt đầu từ đây. 4. Y thuật của y học dân gian: Y học dân gian coi “thuật” là kỹ năng kỹ sảo để nhận biết đối tượng hiện có làm bộc lộ những bí mật của nó, biến cái không phải của ta thành cái phụ thuộc vào ta. Từ quan niệm về khái niệm “thuật” như vậy nên y thuật của y học dân gian có những nội dung sau: 4.1. Y thuật chủ đạo. Quan niệm Bệnh là do Tà, hoặc Trùng gây nên. Chữa bệnh tức là trừ Tà, là diệt Trùng đã nhập vào người, ám vào “Đại tứ khoái“. Khi cơ thể bị một loại bệnh nào đó thì có nghĩa là toàn cơ thể đã bị nhập Tà. Biểu hiện cụ thể của bệnh ở một bộ phận nào đó không có nghĩa các bộ phận khác còn an lành. Ví dụ: Đau mắt và nhức răng chẳng hạn. Cổ nhân nói: “Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng”. Ai mắc phải một trong hai thứ đau này đều rên rỉ: “Buốt ơi là buốt! Choáng váng, run bắn cả người”. Đây là một tổng kết thực tế được dùng làm chỉ báo: “Thân đã nhập Tà, ắt sinh bệnh Cả” (Cả nghĩa là lớn, như: Vợ Cả; Sông Cả; Cả vú lấp miệng em). Thuật chạy chữa luôn phải tuân theo: “Bệnh Cả không phân lẽ mọn. Chữa chạy bệnh Cả, ắt phải chữa toàn thân. Phép “Xông là để xua Tà. Phép uống là để trục Tà; trong uống ngoài xoa là làm tiệt chủng Tà, v.v...". Dưới ánh sáng của tri thức khoa học hiện đại, có thể hiểu ý người xưa, như vầy: Cơ thể là một khối thống nhất, nhưng sự thống nhất đó là “thống nhất trong liên lập”, thống nhất qua hòa nhập chứ không phải thống nhất của hòa tan. Sự thống nhất đó được tạo thành qua vận động chuyển hóa trao đổi chất của 80.000 tỉ tế bào hình thành nên cơ thể người. Lấy hiện tượng đau răng để biện giải cho rõ thêm: Con Người bắt đầu bước vào tuổi trưởng thành đã có 30 cái răng, Tây y có hơn 30 Luận án tiến sĩ về răng nhưng vẫn chưa trả lời được rõ có bao nhiêu nguyên nhân sinh học và hóa học làm rụng răng (nguyên nhân vật lý làm gẫy răng không tính đến, vì đó là “bất khả kháng” rồi). Đau răng thực chất là đau ở tủy răng. Nói đến tủy là phải biết ngay đó là những bó dây thần thần kinh luôn được “ngâm” trong dung dịch tủy rồi. Tây y đã tìm thấy mối liên hệ giữa răng và tim. Nhưng đứng trước câu hỏi: Đau răng làm yếu tim hay yếu tim làm đau răng? Chưa được trả lời ở tầm “tâm phục, khẩu phục”. Có thể phải có một Luận án Tiến sĩ nữa để trả lời cho câu hỏi này chăng? Cách chữa đau răng hữu hiệu nhất của Tây y là nhổ răng đau vứt đi! Xử lí như thế tức là không muốn giải quyết mâu thuẫn mà là triệt tiêu mâu thuẫn. Mâu và thuẫn luôn luôn là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập; triệt tiêu mâu thuẫn cũng đồng nghĩa với phủ định hiện thực (phủ định sạch trơn). Giải quyết mâu thuẫn tức là phủ định của phủ định” để có hiện thực ở tầm cao hơn. Đứng ở góc độ sinh học mà nói thì cách chữa bệnh bằng “cắt bỏ” là hủy diệt sinh giới. Răng, ngoài chức năng trực tiếp là nghiền, xé thức ăn, nó còn là trạm ra đa tiền phương nhận diện sớm nhất về chất lượng thức ăn đưa vào cơ thể rồi truyền “Tin mới nhận được” cho tuyến thần kinh cột sống, nơi khu trú các tế bào sinh huyết chuyên sản sinh Bạch cầu của Hệ thống miến dịch. Các tế bào bạch cầu non vừa sinh ra lập tức được điều động đến tuyến ức và các hạch bạch huyết để nạp thêm nồng độ men, (enzyme) sinh chất tạo ra Kháng Thể - tương thích nhằm hoạt hóa kháng nguyên, hỗ trợ cho “Sự nghiệp tiêu hóa thức ăn” của cơ thể. Lâu nay người ta chỉ nhấn mạnh đến yếu tố miễn dịch của Hệ thống miễn dịch mà lờ đi chức phận hỗ trợ tiêu hóa thức ăn của Hệ thống này. Răng quan trọng như vậy nên được cấu tạo rất tinh vi. Tủy răng được bọc bằng vật liệu vừa cứng rắn lại vừa dai, chịu được cả lực nén lẫn lực kéo, lực uốn, có sức bền hơn bất cứ loại gạch nào đang dùng để xây nhà cao tầng. Bên ngoài lớp bê tông chịu lực này còn được tráng một men bảo vệ bóng như sứ, gốm có độ phản quang hấp dẫn ưa nhìn. Từ rất sớm người Việt cổ đã hiểu được tác dụng y học của răng nên đã tìm cách bảo vệ bằng biện pháp gia cường thêm một lớp cao phân tử đen nhánh có khả năng chống lại các loại men phá hủy vỏ răng. Thế thôi chưa đủ, cổ nhân còn thường xuyên dùng một hợp chất được gọi là “Huyết trầu” hay “Quyết trầu” để rửa sạch răng. Tập quán ăn trầu không chỉ làm thắm môi hồng má, tươi sắc diện mà còn là biện pháp Y tế để bảo vệ răng. Gần đây có chỉ báo ăn trầu gây ung thư vòm họng, cần thận trọng trong xét đoán bởi lẽ ăn nhiều thịt, uống nhiều rượu cũng có nguy cơ bị ung thư vòm họng còn cao hơn cả ăn trầu. Nghiên cứu thành phần cấu tạo nên “Miếng trầu” thấy có: Lá trầu không; quả cau; vỏ rễ cây Quạch; một chút vôi chín; một chút thuốc Lào. Tất cả các vật liệu này được răng nghiền trong miệng Người trộn lẫn với nước bọt có chứa các chất sát trùng và các men tiêu hóa làm nên Bài thuốc Ta. “Tẩy trùng”. Tôi đã dùng Bài thuốc này để chữa lành bệnh ở vùng miệng, ống tiêu hóa, lở loét ở xung quanh lỗ thải phân, bệnh ngoài da cho người nhiễm HIV bị mắc bệnh cơ hội do vi rút Herpes và nấm Candida gây ra rất thần diệu mà các thuốc Tây, thuốc Tầu cùng loại đều không sánh được. Bài thuốc Dân Gian này nếu được diễn đạt theo ngôn ngữ Tây dược thì sẽ có công thức hóa học rất hoành tráng! Một trong những khác biệt của Y Việt cổ truyền với các nền Y học khác là đánh giá vị thế Răng và Tóc rất cao trong cơ thể sống. Cổ nhân dạy: “Cái Răng, Cái Tóc là gốc con người”. Xin nhớ cho là gốc chứ không phải như một số người nói là “góc”. Nói góc là nói cho có vần theo kiểu “nghệ thuật thơ Bút Tre” hiếp ý để đoạt vần. Nói “góc” thì lời di huấn của Tiền nhân thành vô nghĩa, dẫn tới phản cảm, coi khinh trí tệ của Tổ tiên. Việc truyền bá Y học Dân gian chủ yếu bằng truyền miệng, dễ sai lạc. Tiền nhân biết thế nên đã có biện pháp rất độc đáo. Biện pháp đó là khai thác bản tính ham tiền của con ngươi. Các Cụ đã quy đổi vị thế quan trọng của Răng và Tóc trong cơ thể sống ra tiền, tức là tiền tệ hóa nó và định giá luôn: "Trăm quan đổi lấy nụ Cười/ Nghìn quan mua lấy miệng cười Răng Đen" để dân chúng thấy Răng và Tóc có giá cao như thế, cố mà giữ. Hoàng Đế Quang Trung là người trung thành với văn hóa dân tộc, trong Tuyên ngôn dánh giặc Mãn Thanh, ông nêu rất nhiều lí do quan trọng buộc dân Việt phải Đánh Tầu xâm lấn, có hai lí do khá lí thú đã được nêu: "Đánh (cho) để Tóc! Đánh để Đen răng. Trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, để chỉ nhìn bề ngoài không lẫn với giặc Tầu, người Việt cả đàn ông lẫn đàn bà đều nhuộm răng đen, để tóc dài, riêng đàn ông luôn “búi tó củ hành”, (Hiện nay còn thấy nhiều bậc Trưởng Lão Đất Quảng và Nam Bộ vẫn búi tó củ hành). Đối với giặc Tầu, dân ta gọi nó là: “Chú Khách trọc đầu trắng răng”. Xin thưa, muốn sống lâu phải giữ gìn răng cho tốt. Người cao tuổi, còn một cái răng cũng quyết giữ, đừng nhẹ dạ bùi tai nghe lời dụ của thợ làm răng giả vặn nghiến chiếc răng còn sống để lắp cả hàm răng giả, tiện cho họ nhưng hại tới sức khỏe của ta. Lắp răng giả tốt có thể nghiền xé được thức ăn, nhưng vì là của giả nên nó không làm được chức phận thông tin, không làm tăng được năng lực cho Hệ thống miễn dịch. Bởi vì, suy cho đến cùng, mọi cái chết vì bệnh tật hoặc do lão hóa đều có cội nguồn từ Hệ thống miễn dịch bị suy yếu mà ra cả. Không chỉ cái răng mà rất nhiều bộ phận khác của cơ thể đều có ảnh hưởng đến Hệ thống miễn dịch. Ngược lại, Hệ thống miễn dịch suy yếu lập tức kéo theo hàng loạt các bộ phận khác của cơ thể bị suy yếu theo. Ngay từ rất sớm người Việt đã ý thức được điều đó nên trong Y thuật đã chú ý có cách nhìn tổng quan trong khám bệnh và chữa bệnh. Có được cái nhìn tổng quan rồi, nhưng làm thế nào để tiếp cận được với người mắc bệnh và dùng những thủ thuật gì để khám bệnh? Dưới đây là các câu trả lời. 4.2. Khám bệnh khi “Nhân hoạt” tức làm khám bệnh khi người bệnh đang hoạt động. Thầy lang dân gian thường khám bệnh tại nhà bệnh nhân, bệnh nhân được khám trong trường hợp đang hoạt động. Những hoạt động đó không vượt quá ngưỡng gắng sức của con người như: làm việc vặt trong gia đình; quét nhà; giặt quần áo, nấu ăn, học bài. Để hiểu rõ tình hình thần kinh của bệnh nhân trong tình hình hiện nay ở Xã hội hiện đại thầy thuốc còn mang đến nhà bệnh nhân những phim truyện hay và cùng xem phim với bệnh nhân lôi cuốn bệnh nhân cùng phê bình phim với thầy thuốc. Có thể còn đánh cờ với bệnh nhân nữa. Đã gặp bốn trường hợp qua cách khám này tôi thấy họ không bị nhiễm HIV. Khi nói cho bệnh nhân nhận xét này bệnh nhân không tin. Sau thuyết phục bệnh nhân đi khám lại ở hai cơ sở y tế Nhà nước khác nhau bằng “Cửa trước” thì rõ ràng kết quả là âm tính. Người bệnh nhận án nhiễm HIV đã bốn năm nhưng lần đi khám trước là đi “Cửa sau”. Toàn bộ sức khoẻ của con người bộc lộ qua hành động. Trong thuật khám bệnh nhân hoạt, y học dân gian chú ý đến nhiều nhất là người bệnh sử dụng đôi mắt như thế nào, ăn uống ra sao. Người phương Tây ví đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, còn y học dân gian “bám” vào đôi mắt để khám bệnh là dựa vào toàn bộ sự đánh giá của dân gian vào đôi mắt. Con người không thể che dấu được tình cảm thật qua ánh mắt mặc dù trong hành động thực tế lại không phản ánh đúng tình cảm thật của họ. Người xưa, kín đáo trong tỏ tình: khi giai gái yêu nhau thật sự nhưng giữa đám đông họ thường không ở bên nhau mà lại là “Yêu nhau đứng ở đằng xa, con mắt liếc lại bằng ba đứng gần”. Cái con mắt liếc lại đó đã được y học dân gian sử dụng như một thiết bị khám bệnh tổng thể rất tinh vi mà có lẽ còn lâu khoa học hiện đại mới chế tạo được một thiết bị có công năng tuyệt vời đến như thế. Ngày nay trong xã hội hiện đại con người đã bị nhiễm phải “Virut nói dối”, nghĩ ngược nhưng nói xuôi. Nhưng với ánh mắt thì virut nói dối không xâm nhập được. Tất nhiên, với những người lưu manh chuyên nghiệp và những người có bản lĩnh cao thì ánh mắt đã được điều khiển, song sự điều khiển nhân tạo đó vẫn không thể thắng nổi từ trường điện sinh học tự nhiên tạo ra ánh mắt. Anh mắt “nhân tạo” vẫn dài dại không khôn như ánh mắt thật. Để kiểm tra hệ thống tiết hoóc môn tự động trong cơ thể người nhiễm HIV/ AIDS y học dân gian chỉ cần qua thiết bị “Con mắt liếc lại” là đọc được bệnh. Căn cứ vào cơ chế tự động tiết hoóc môn được diều khiển từ hệ thần kinh sinh dưỡng mà hệ thần kinh điều khiển không tác động được để nhận biết tình trạng tiết hoóc môn ở người bệnh. Một người đàn ông cơ thể ở trạng thái bình thường bất chấp tuổi tác, địa vị xã hội, tính khí bốc lửa hay mô phạm nhưng khi nhìn thấy một người đàn bà đẹp dù tinh vi đến mấy thì ánh mắt của con người ấy cũng phải dừng lại trên thân hình của mỹ nhân. Nếu thấy mỹ nhân mà dửng dưng thật sự, người đàn ông đó đang có bệnh mà có thể là bệnh nặng. Người đàn bà cũng thế kể cả khi đã tắt kinh, phụ nữ tuy có kín đáo hơn nhưng cũng không thể cưỡng được phản ứng tự động của hệ thần kinh dịch thể. Tất nhiên tổ tiên ta chưa biết đến hoóc môn là gì – mà loài người cũng mới biết đến nó gần 100 năm nay thôi. Diễn giải bằng ngôn ngữ Tây y để dễ thảo luận. Những người nhiễm HIV khi chưa ở giai đoạn toàn phát thường có hai biểu hiện trái ngược nhau, đàn ông thường bị liệt dương, còn phụ nữ lại có hiện tượng ngược lại. Ăn là hành động tiêu hoá bình thường. Nhưng khi ăn cơ thể con người vận dụng hầu hết các giác quan: thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và cả thính giác. Một bữa ăn ngon với con người có trình độ văn hoá cao là phải thoả mãn được tất cả các nhu cầu của các giác quan đó. Ăn trở thành một đại khoái cảm là vì thế. Bữa ăn là một niềm vui cuộc sống. Bữa ăn ở tất cả các dân tộc trên thế gian này đều được coi là biểu hiện của hạnh phúc gia đình. Tổ tiên ta khám bệnh qua quan sát hành vi ăn là căn cứ vào tổng kết của dân gian, coi đó như là một chỉ số hằng định: nam thực như hổ, nữ thực như mưu. Tiêu chuẩn này không chỉ thể hiện cốt cách của giới người mà còn là một chỉ báo của cơ thể người ở trạng thái bình thường. Thực như hổ không có nghĩa là ăn nhanh không nhai kỹ. Bạn đã thấy hổ ăn chưa? Khi chưa nhai kỹ hổ chưa nuốt thì nó chưa ngoạm miếng thứ hai. Nhưng thái độ ăn dứt khoát tập trung và vần tỏ được khí phách của chúa sơn lâm khi dùng bữa. Tổ tiên ta luôn đòi hỏi người đàn ông làm trai cho đáng nên trai, nên ngay từ nết ăn cũng phải rất đàn ông. Người đàn ông nào khi ăn không toát ra cốt cách thực như hổ là có bệnh. Bệnh được phát hiện qua hành động ăn thường dễ thấy do rối loạn tiêu hoá cơ thể mệt mỏi ăn không ngon miệng nhưng có một loại bệnh kín mà chỉ qua khâu ăn là phát hiện được bệnh. Nếu người đàn ông nào khi ăn lại có biểu hiện thực như miu thì người đó có nguy cơ rối loạn hoóc môn và hoóc môn nữ tính trội hơn, đây là một chỉ báo của bệnh ái – ái nam ái nữ. Đối với phụ nữ cũng vậy nết ăn như miu không chỉ là sự ví von khiên cưỡng mà là sự quan sát thực tế rất nhiều đời. Con mèo dùng bữa rất ít và ăn chậm nhưng nó lại hay ăn vặt bằng cách săn bắt chuột. Có lẽ thói quen hay ăn quà vặt của người đàn bà hồi xưa mà cổ nhân chọn đó làm tiêu chuẩn sinh học hằng định qua hành vi ăn của phụ nữ. Con gái mà ăn nhanh, nhồm nhàm, ăn hùng hục là mất nữ tính, đó cũng là một chỉ báo rối loạn hoóc môn nam tính trội. Những người đàn bà này dễ mắc bệnh ái nam. Còn một chỉ báo bệnh chung cho cả hai loại người: “Ăn như rồng cuốn nói như rồng leo, làm như mèo mửa”. Đây là đích thị hội chứng của bệnh lười. Bệnh lười là một bệnh xã hội mãn tính. Thuốc chữa bệnh lười rất công hiệu là không cho ăn nữa, để: “Đói bụng đầu gối phải bò, no ăn ấm bụng chẳng dò đi đâu”. Ngôn y Dân gian tài tình thế đấy. Chuẩn của một bệnh xã hội mãn tính là bệnh lười mà đặt ba khâu quan trọng nhất thể hiện nhân cách: ăn, nói, làm liền nhau và đối nhau chan chát vừa mô tả đúng bệnh lại đồng thời cho văn học một hình tượng về một nhân cách chẳng ra gì đó là: lười. Thầy thuốc Dân gian phải khám bệnh qua quan sát bệnh nhân ăn mới thực sự nắm được cái gốc của bệnh tật. Quan sát bệnh nhân nhiễm HIV/ AIDS nhận thấy có một sự rối nhiễu của hệ thần kinh sinh dưỡng, đồng thời tác động đến cả hệ thần kinh dịch thể khiến cho khi có cảm giác đói nhưng khi ăn lại không ngon miệng, không tìm thấy niềm vui trong ăn uống. Đối với các bệnh nặng nhưng chưa phải là nan y thì chỉ qua khâu khám khi nhân hoạt là đã đủ cơ sở để luận trị bệnh. Đối với các bệnh nan y nan đoán như HIV/ AIDS chẳng hạn thì phải khám hai khâu nữa là khám bệnh khi “Nhân tình” và khám bệnh khi “Nhân tĩnh”. 4.3. Y thuật khám bệnh khi “Nhân tình”. Nhân tình là cách nói gọn chỉ con người ở trạng thái tỏ tình. Tình cảm của con người muôn vẻ nhưng được nhóm lại ở các trạng thái: khi con người tỏ tình yêu; khi con người tỏ tình buồn; khi con người tỏ tình vui và khi con người tỏ tình tức giận; khi con ngưòi khinh bỉ; khi con người suy nghĩ; khi con người lo lắng; khi con người sợ hãi; khi con người hốt hoảng. Các nhà Nho quen diễn đạt bằng quy nạp, gọi các trạng thái này là Tình cảm (Tình tứ) và Tình Chí (Chí tình). Tình Tứ, có 4 loại: ái (yêu), ố (ghét), hỉ (mừng), nộ (giận giữ). Tình chí có 5 loại: Ưu (lo lắng); Suy nghĩ (Tư duy); bi (buồn), Bỉ (khinh bỉ ); Khủng (hoảng hốt, khủng hoảng). Trung Y cũng có 7 loại tình chí là: Hỉ; Nộ; Bi; Ưu; Tư; Kinh; Khủng. Trung Y không đề cập đến tình yêu trong chữa bệnh. Ngược lại, Y Việt phát hiện nhiều bệnh nặng trong tình Yêu có thể gây chết người, đó là: Xi mê; Ghẻ lạnh; Ghen tuông; Đố kị; Hận; Thù. Sáu loại bệnh này được gọi gộp là bệnh “Tự ái”. Vì tự yêu mình quá mà sinh bệnh mù quáng, cần được chạy chữa bằng uống thuốc “Dưỡng Tâm”; “Định thần”, “Tĩnh trí”, kết hợp với các liệu pháp vật lí và tâm lí. Một thời, người ta đã chính trị hóa bệnh tự ái, với tên gọi là “Chủ nghĩa cá nhân - một thứ bệnh của Giai cấp bóc lột”. Cách chữa cũng dùng “Chính trị khan”, bằng giáo dục tư tưởng với lời kêu gọi nổi tiếng “Quét sạch Chủ nghĩa cá nhân!”, Bệnh không khỏi mà còn có nguy cơ truyền nhiễm như một loại dịch trầm kha! Y học dân tộc cổ truyền luận trị bệnh Tình qua các thủ thuật làm cho cá thể tỏ tình để bộc lộ toàn bộ thể trạng tinh thần kinh. Nhờ cách khám bệnh này y học dân gian đã nhìn được HIV thâm nhập vào người bệnh ở từng mức độ khác nhau chính xác hơn cả việc “chiếu điện” bằng các thiết bị tối tân. Khám bệnh khi nhân tình thầy lang cần có sự giúp sức của người thân bệnh nhân và thầy lang phải có một kịch bản: diễn viên của vở kịch này là những người thân của bênh nhân, còn bệnh nhân bị cuốn vào vai chính mà không biết nên diễn xuất rất thật với thực trạng bệnh tật của cơ thể và thầy lang quan sát ghi lại các diễn biến đó có lẽ còn chính xác hơn cả chụp điện cắt lớp. Các diễn viên phải diễn làm sao để bệnh nhân tỏ tình thực sự. Các trạng thái vui buồn tức giận rạo rực và súc động trong tỏ tình, là những biểu hiện sinh động của trạng thái cơ thể. Khi con người tỏ tình thì không chỉ hệ thần điều khiển hoạt động mà cả hệ thần kinh sinh dưỡng; hệ thần kinh dịch thể (Hoóc môn) đều bị cuốn vào những cuộc tình này. Bệnh nhân đang cười sặc sụa bỗng dừng lại tay ôm lấy tim. Đó là chỉ báo tim rất yếu. Bệnh nhân tức giận thở hổn hển mặt tái mét rồi chuyển sang đen xạm đó là chỉ báo phổi rất yếu không cung cấp đủ ô xy cho hồng cầu. Khám bệnh qua nhân tình đã soi sáng, giải thích giống như một sự giải mã những động tác ghi nhận được khi khám bênh qua nhân hoạt. Đối với người bệnh nhiễm HIV/ AIDS thì ba trạng thái tỏ tình, ái, ố, huỷ rất mờ nhạt: lạnh nhạt trong tình yêu; mù mờ trong nỗi buồn và cười không rõ nét. Còn yếu tố “nộ” thì lại quá mức bình thường. Hầu như tất cả sự tức giận của người nhiễm HIV đối với cuộc đời này đều trút vào cái sự kiện đang trực tiếp gây tức giận cho họ. Đây là một chỉ báo xã hội vô cùng quan trọng khi mọi người tiếp xúc với người nhiễm HIV. Con người này nếu bị kẻ xấu lợi dụng sẽ là những trái bom di động được nổ bằng sự khích động liều chết. Cách khám bệnh Tình hiệu quả nhất là Hoạt cảnh “Lên Đồng”. Y học cổ truyền nhờ đúc kết những quan sát thực tế nhiều đời đã sáng tạo ra cách khám bệnh vô cùng độc đáo hấp dẫn đó là Lên Đồng. Thầy Lang dân gian trong vai trò Cốt Đồng, áo quần có màu sắc rực rỡ múa lượn như bay trong làn điệu hát Chầu Văn có dàn nhạc đệm thánh thót giữa một không gian ánh đèn sáng lóa, khói hương nghi ngút thơm lừng đã đưa Con Bệnh vào tâm thế mê li, “không trong lượng” làm bộc lộ toàn bộ thực trạng sức khỏe. Cốt đồng quan sát và dẫn dụ khiến con bệnh ở trạng thái bị thôi miên, nhập đồng ! Đánh Đồng Thiếp là thế đó. Người bệnh khi nhập Đồng sẽ quay về thế giới huyền ảo và nói ra lời những suy nghĩ âm thầm tích chứa ở trong lòng chưa bao giờ nói ra lời. Thậm chí còn nói ra cả những lời trong quá trình sống thường tưởng tượng được nghe lời của người thân đã chết tâm sự với mình. Thầy Lang trong vai Cốt Đồng nhập vai tốt sẽ đạt mức “bốc đồng“ có cảm giác đã hòa nhập vào suy tư cùng “pha” với con bệnh, thu lượm được rất nhiều thông tin về diễn biến bệnh của Con bệnh. Người Việt Cổ đã biết dùng nghệ thuật múa kết hợp với nghệ thuật âm nhạc để chữa bệnh. Tổ tiên ta tài hoa xiết bao! Lợi dụng hiện tượng này những người lưu manh chuyên nghiệp ở thời nào cũng có đã dùng thuật lên đồng gọi hồn, lừa bịp người nhẹ dạ cả tin để vụ lợi. 4.4. Khám bệnh khi nhân tĩnh: Con người ở trạng thái tĩnh tại nhất là ngủ. Khi ngủ thực chất chỉ có hệ thần kinh điều khiển nghỉ ngơi thôi, còn 80.000 tỷ tế bào vẫn hoạt động theo Chương trình chuyển hóa. Chương trình chuyển hóa đó đã dược lập trình cho mỗi tế bào và chịu sự điều hành của Hệ thần kinh Sinh Dưỡng có sự phối hợp với Hệ thần kinh dịch thể, để cơ thể ngay trong khi ngủ vẫn thích nghi được với môi trường sống ngoài cơ thể. Bằng kĩ thuật “Nguyên tử được đánh dấu” khoa học hiện đại đã nhìn thấy: cứ sau 180 ngày có tới 50% phân tử Protein ở tế bào người được đổi mới hoàn toàn; cứ qua 60 ngày có 23.000 tế bào Hồng cầu được thay mới; Ở Gan sự đổi mới Protein toàn diện hơn, nhanh hơn: chỉ có 18 ngày. Cứ sau 24 giờ 5.000 tỷ tế bào trong cơ thể được “miễn nhiệm” và cũng có từng đó tế bào mới “kế nhiệm”! Sự đổi mới trong cơ thể người diễn ra liên tục, nhưng phần lớn thời điểm diễn ra Hoạt cảnh “từ chức và kế nhiệm“ là khi ta ngủ. Hệ thần kinh sinh dưỡng có hai hệ là hệ giao cảm và đối giao cảm đối lập nhau và tác động vào nhau tự động hoạt động để điều hoà hoạt động của các cơ quan nội quan không cần tác động của ý thức con người. Chính vì lẽ đó việc thay cũ và đổi mới trong cơ thể rất “khách quan”, không bị nạn “ô dù, bề cánh” khuynh đảo. Nếu sự chuyển hóa không “thông Đồng, Bến dọt”, một bộ phận nào đó của cơ thể không chịu đổi mới, cố giữ lại những tế bào đã “hết hạn sử dung”, lập tức “Chương trình đổi mới bị ùn tắc“, bệnh tật đều phát sinh từ sự trì trệ này mà ra. Toàn cơ thể khi đó lâm vào tình trạng suy nhược; nếu không chạy chữa sẽ tuần tiến đến suy kiệt, dẫn tới ngừng chuyển hóa, tức là Chết! Điều kì thú là không phải tất cả các loại tế bào đều bị thay thế, có nhiều loại tế bào được lựa chọn không bao giờ bị thay đổi, Sinh - Y gọi là tế bào đó đã biệt hóa, tức không phân chia ngay từ khi hình thành ở trong phôi, bền vững suốt đời, như các tế bào thần kinh (nơron), Có những loại tế bào, phát triển đến ngưỡng cơ thể đã trưởng thành thì ngừng phân chia và đi vào biệt hóa, như: các tế bào cấu tạo nên quả tim; phổi; xương; gan; các tế bào xương đã được cốt hóa. Tuy không bị thay thế về chức vị (cấu hình hệ thống), nhưng Protein cấu tạo nên tế bào đó vẫn luôn được đổi mới, tức là nó vẫn phải có sức trẻ. Gan là một ví dụ điển hình: Các tế bào Gan đã được biệt hóa, tức là không phân chia nữa, nhưng tốc độ đổi mới Protein ở Gan rất cao. Quan sát chuyển hóa tự nhiên ở cơ thể người cho ta một mô hình tuyệt vời về nghệ thuật tổ chức bộ máy và việc sử dụng “cán bộ” đan xen giữa cán bộ Già và Trẻ bảo đảm tính kế thừa vững chắc và cách tân liên tục của sự sống. Phải chăng sự hiện diện của cơ thể sống là một mách bảo, một mẫu hình giúp loài người tổ chức xã hội đúng đắn nhất? Nếu con người không nhận ra sự mách bảo đó, tự cho mình giỏi hơn tự nhiên, tổ chức bộ máy quản lí xã hội khác đi, lập tức bị trừng phạt. Sự trừng phạt đó chính là khủng hoảng xã hội và mẫu hình tổ chức bộ máy quản lí xã hội trái với tự nhiên đó dù có duy trì hàng trăm năm vẫn bị tan rã. Phải chăng căn bệnh không chấp nhận đổi mới là do không hiểu lẽ đời đã dẫn tới thảm họa suy vong của những dân tộc đã có thời chói sáng trong lịch sử Nhân loại? Đây không phải là câu hỏi lạc đề của một lang thuốc đang bàn về y thuật cổ truyền trong khám bệnh. Bởi lẽ, cả nhà Chính khách và thầy Lang đều có bổn phận chạy chữa các căn bệnh không chỉ ở con người sinh học mà cả con người xã hội đều mắc phải. Cả Ngài Chính Khách và Thầy Lang đều có thể tìm thấy lẽ đời đang tích chứa trong Sinh - Y học. Bằng trải nghiệm thực tế sống nhiều nghìn năm, tổ tiên người Việt đã nhận ra cái mà các cụ gọi là “Thiên Cơ”, dân gian gọi là lẽ đời đó đã ẩn chứa trong cơ thể người mà hình thành nên cách khám bệnh khi nhân tĩnh chăng? Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, khám bệnh khi nhân tĩnh chính là tầm soát quá trình chuyển hóa vật chất trong cơ thể sống. Ý thức của con người là một trở ngại rất lớn cho các thầy thuốc khám bệnh; đặc biệt rất khó với thầy lang dân gian. Khám bệnh trong khi bệnh nhân thức, ý chí của con người hoạt động. Vì một lý do nào đó, người bệnh không trả lời đúng thực tế tình trạng sức khoẻ cho thầy thuốc biết, mà còn gây rối cho thầy thuốc. Khi thầy thuốc lấy tay ấn mạnh vào một huyệt đạo nào đó để thăm bệnh, gây đau nhưng bệnh nhân lại nói không đau. Khi mới chỉ đưa tay lướt nhẹ trên da lại kêu toáng lên là rất đau. Thầy lang dân gian khi phải khám bệnh cho người bệnh là trí thức, đặc biệt khó hơn khi vị trí thức bệnh nhân đó lại là chuyên gia của y học bác học. “Cái bẫy” của các vị bệnh nhân này giăng ra là để kiểm chứng năng lực thực sự của thầy lang dân gian. Nếu chỉ khám bệnh cho đối tượng này theo y thuật của y học bác học thì lang ta cầm chắc là đo ván. Nhưng khi tiến hành khám bệnh đồng bộ: Nhân hoạt, nhân tình, nhân tĩnh thì các bẫy kia dù tinh sảo đến mấy cũng bị hoá giải. Công cụ để lang thuốc dân gian hoá giải được các bẫy do đồng nghiệp gây ra lại chính là đôi mắt. Mắt là cái nhìn trực diện của não bộ. Khi đồng tử mở rộng là chụp hình, khi đồng tử thu hẹp là thu hình. Nếu nói đúng những điều người nghe chờ đợi thì đồng tử thu hẹp, nếu nói không đúng những diều người nghe mong đợi thì đồng tử mở rộng hơn (Dân gian gọi là trố mắt ra). Tất nhiên không thể lúc nào cũng nhìn thấy nhịp đóng mở của ống kính mắt mà có một cơ mắt chỉ báo hiện tượng này đó là cơ chân lông mày. Lông mày giãn ra là đồng tử mở rộng. Lông mày nhíu lại là đồng tử thu hẹp. Đây cũng là nguyên lý cơ bản để thực hiện thuật dẫn trí. Thuật dẫn trí rất phức tạp nhiêu khê nhưng cơ bản là làm sao cho người bị dẫn trí có cơ chế đóng mở đồng tử khớp theo nhịp đóng mở của người dẫn trí. Dẫn trí đến đỉnh cao là người dẫn trí nghĩ gì, muốn làm gì thì người bị dẫn trí cũng có suy nghĩ tương tự như thế và hành động theo người dẫn trí. Tuy nhiên dẫn trí chỉ có tác dụng khi người bị dẫn trí suy nhược hệ thần kinh điều khiển. Thuật dẫn trí nhằm mục đích giúp người bệnh không hoảng hốt, cô đơn trong chữa bệnh. Thuật dẫn trí được y học dân gian sử dụng để chữa trị cho người mắc bệnh tâm thần và chỉ có tác dụng khi hệ thần kinh điều khiển của người đó bị tê liệt. Khi hệ thần kinh điều khiển được hồi phục thì thuật dẫn trí vô nghiệm. Khi con người ngủ, hệ thần kinh điều khiển cùng các công cụ nghe nhìn, ngửi (Ngũ quan) ngủ, hệ thần kinh sinh dưỡng tự nó điều khiển cơ thể sống, thầy thuốc dân gian nhờ kinh nghiệm gia truyền gần như nhìn thấy toàn bộ nội quan hoạt động. Chỉ cần nghe hơi thở là biết tất cả các cơ quan có hoạt động nhịp nhàng hay đang vướng rối ở nơi nào. Qua hơi thở thầy thuốc thấy như “Máu reo” trong cơ thể. Nếu cơ thể không bị nhiễm trùng, hệ bạch mạch thông suốt máu reo như tiếng gió ở trời thu. Nếu cơ thể nhiễm trùng thì không nghe thấy tiếng reo nhẹ nhàng mơ hồ đó mà như thấy có sỏi sạn đang lộn sộn ở mạch huyết. Động tác cuối cùng để hội chẩn y thuật khám bệnh khi nhân tình là kiểm mộng. Bệnh nhân ngủ dậy ngồi chơi nói chuyện với thầy lang. Thầy lang từ từ hỏi bệnh nhân những giấc mộng thường gặp trong khi ngủ mười ngày gần đó. Người nhiễm HIV giai đoạn đầu thường kể lại rất rõ những giấc mộng trong mười ngày qua. Nếu đúng nhiễm HIV thật thì các giấc mộng gần như lặp lại, tuy không giống y nhau nhưng cốt chuyện giống nhau: như gặp người thân từ thời thơ ấu. Thậm chí còn gặp cả những người thân đã chết khi người bệnh chưa ra đời mà chỉ nghe bố mẹ kể lại, hoặc bị kiến đậu khắp người nhưng không cắn... Những người bị nhiễm HIV/ AIDS giai đoạn cuối cứ đặt mình ngủ là thấy ác mộng, hình ảnh thường gặp giống như những con ma trong phim ma của nước ngoài. Họ sợ hãi đến mức không dám ngủ, đó chính là nhân tố thúc đẩy bệnh trầm trọng thêm. Dựa trên cơ sở nào mà cổ nhân dùng y thuất định mộng để luận trị bệnh? Qua nghiên cứu, bí mật của giấc mộng có thể tóm lược như sau: Hệ thần kinh sinh dưỡng không phải là yếu tố duy nhất, bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nội tạng. Các hoóc môn, sản phẩm của tuyến nội tiết cùng tham gia vào công việc này. Cũng cần nói rõ rằng việc điều tiết các hoóc môn phần nhiều là sự điều phối của hệ thần kinh sinh dưỡng, nhưng hệ thần kinh sinh dưỡng cũng lại chịu sự tác động trở lại (Feed back) của các hoóc môn tới một tuyến ở tận “Trung ương” đó là tuyến yên nhỏ bằng hạt đậu trắng nằm ở nền sọ, có liên quan đến vùng dưới đồi thuộc não trung gian. Hoóc môn tiết ra từ tuyến yên kích thích các tuyến khác tiết hoóc môn để kìm chế hoạt động thái quá ở một bộ phận nào đó của cơ thể. Tuyến yên nhận từ các hoóc môn những tin hoá học ở các tế bào trong cơ thể gửi về (Hoóc môn là một chất đưa tin) để kích thích tuyến yên phát ra các tín hiệu đến các tuyến ngoại vi. (Hệ thống thần kinh – hoóc môn này đã là chủ đề của nhiều công trình nghiên cứu trong những thập niên cuối thế kỷ 20). Hệ thống này liên tục cung cấp thông tin cho tuyến yên nằm trong não bộ kể cả lúc con người ngủ. Các thông tin hoá học từ các tế bào gửi về tuyến yên kết hợp với những thông tin khác não thu được qua máu lưu thông từ các dịch bào trung gian (Cytokiens - từ các tế bào tiết ra, từ gan...). Tất cả các thông tin mà não mới thu được trong giấc ngủ, kết hợp với các thông tin trong các bộ nhớ đã tạo ra đời sống thứ hai (đời sống ảo) cho người khi ngủ – đó là giấc mơ. Cho đến nay, giấc mơ vẫn còn là bí ẩn vì có rất nhiều chủ thuyết nhưng chưa được các nhà bác học đồng thuận. Qua kinh ngiệm khám chữa bệnh bằng y thuật định mộng và kiểm định ở chính bản thân cho rằng: Cơ chế đưa tin của tuyến hoóc môn và dịch bào trung gian chính là chất kích thích làm các kỷ niệm trong bộ nhớ của não chuyển động. Người khoẻ mạnh có sức đề kháng lấn át sức công phá của vi trùng, các thông tin trong cơ thể thuần tính người nên có mộng đẹp. Cơ thể nhiễm trùng độc hại có ác mộng vì bản thân ký sinh trùng (run, sán, vi khuẩn, vi rút) cũng là chất đưa tin. Phải chăng những ảnh ảo quái dị trong ác mộng chính là thông tin do ký sinh trùng phát ra để làm nhiễu mạch tin trong cơ thể người? Phải chăng những thông tin đó là phiên bản do chúng gửi tới não bộ người? Y học dân gian coi ác mộng là một chỉ báo, rõ nhất về cơ thể bị nhiễm Tà Trùng độc hại. Sau y thuật định mộng, quy trình khám bệnh của y học dân gian kết thúc vì đã có thể đọc được bệnh ở cơ thể người mắc bệnh. Còn nữa... Nguồn: vietycotruyen.com
  15. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 3 1/9/2012 11:49:06 AM II. Những công cụ của Y học Dân gian sử dụng để luận trị bệnh: 1. Lang Đạo (Đạo lý của Thầy Lang): Xác định vị thế của Thầy Lang đối với người mắc bệnh. Các Vua Hùng gọi các con trai của mình là Lang, tương tự như Vua các nước khác gọi con trai là Hoàng Tử. Bản thân các ông Vua ở thời Hùng Vương đều mang tên “húy” là Lang. Vị vua là Trưởng Nam của Lạc Long Quân và Âu Cơ ở triều đại thứ ba Thời Hùng Vương, có tên Vua là Hùng Quốc Vương, tên húy là (3) Lân Lang. Các triều đại tiếp theo Thời Hùng Vương đều có tên Vua và tên húy là (4) Bảo Lang; (5) Viên Lang; (6) Pháp Hải Lang; (7) Lang Tiên Lang; (8) Thừa Vân Lang; (9) Quốc Lang; (10) Hùng Hải Lang; (11) Hưng Đức Lang; (12) Đức Hiền Lang; (13) Tuấn Lang; (14) Châu Nhân Lang; (15) Cảnh Chiêu Lang; (16) Đức Quân Lang; (17) Bảo Quang Lang. Triều đại thứ 18, cũng là triều đại cuối cùng của thời Hùng Vương là Hùng Duệ Vương có tên húy là Huệ Lang. Xã hội Việt Cổ của Nhà nước Văn Lang rất kính trọng thầy thuốc, coi họ như sự hiện diện gần gũi của Đức Vua. Thầy thuốc được coi là Người Tài. Để tôn vinh, xã hội người Việt Cổ đã gọi người hành nghề Y - Dược là Lang Thuốc. Khi được xã hội tôn vinh là Lang, bản thân người làm thuốc cũng nhận thấy đây là một cơ hội cần tận dụng để tạo thuận lợi trong hành nghề, nên cũng tự nhận là Lang. Nhờ có vị thế xã hội là Lang, thầy thuốc mới giám mở miệng gọi người bị bệnh là “Con Bệnh”, không phải để vênh váo hợm hĩnh mà là tạo ra một không gian thuần kiết, linh thiêng cao cả “vô trùng”; ở đó chỉ có mối quan hệ y tế tinh khiết, không bị bụi trần làm cho ô nhiễm giữa người bị bệnh với người chữa bệnh. Khi gọi đối tượng mà mình phục vụ là “Con Bệnh”, người chữa bệnh đã tự giác đưa mình vào vị thế cao cả, tự dập tắt được các dục vọng thấp hèn, (Lang mà hành sử hèn hạ sao?). Tự đặt mình vào vị thế cao cả, Lang Thuốc sẽ thanh thản cho qua những ngang trái đời thường mà vì nhiều nhẽ người bệnh và người nhà của họ vô ý hoặc cố ý đối sử bất công, bất nghĩa với Lang. Thanh thản là yêu cầu buộc phải có khi bắt tay vào khám bệnh và chữa bệnh. Các Thầy Lang có Thuốc hay đều là những người có tư chất thanh thản trước mọi cám dỗ, nhưng lòng dào dạt yêu thương “Con Bệnh”. Người bị bệnh thuộc rất nhiều thành phần xã hội: Từ Đức Vua quyền uy tối thượng, quý tộc, quan lại, thương gia quyền quý giàu sang cho tới kẻ lưu manh cặn bã của xã hội; khi được gọi là “Con bệnh” thì người thầy thuốc coi họ như nhau. Tạo được tâm thế đó, thầy thuốc sẽ rất tự do, thông sáng trong chữa trị bệnh. Đây chính là nét văn hóa Y tế rất đặc sắc của người Việt. Vấn đề này rất lớn, nhưng lâu nay không thấy nói đến trong y học cổ truyền. Trên đường học hỏi vốn cổ của dân tộc, tôi đã cảm nhận được. Nói ra điều này cũng “run” lắm; bởi vì, xin mượn lời của một nhà thơ thời “Tiền chiến”: “Đường về xưa cũ xa xôi lắm/ Mà kẻ đi về có một tôi”. 2. Những chuẩn mực ứng dụng trong khám chữa bệnh Gọi người mắc bệnh là Con Bệnh mặc nhiên ghi nhận đối tượng không còn là người bình thường. Tiên đề này soi dọi toàn bộ quá trình khám bệnh, nghĩa là luôn lấy tiêu chuẩn của người bình thường để đối chiếu với thể trạng của con bệnh. Tiêu chuẩn sức khỏe của người bình thường được Y học dân gian ghi nhận qua 4 chỉ tiêu tổng hợp: Tính, Khí; Tình; Thần. Ông nội dặn bố tôi rằng: “Anh Cả hỏi thầy làm thế nào để nhìn thấy Kinh Lạc ư? Con hãy bơi và ngụp lặn thật sâu vào “Tứ Hải” đó sẽ nhìn thấy Kinh Lạc!“. Tính - Khí - Tinh - Thần ở một con người có khởi nguồn từ nguyên khí của Tổ tông nòi giống qua cha mẹ truyền cho (tiếp nhận di truyền) và là kết tinh của lịch sử phát triển tự thân của cá thể. Tính - Khí - Tinh - Thần không hiện diện như một vật chất cụ thể mà là sự toát ra qua sắc thái, hành vi của con người. Nó có cốt vật chất là sự chuyển hóa suốt quá trình trao đổi chất trong cơ thể để thích nghi với môi trường sống. Môi trường sống của Loài Người theo quan điểm của Y học Dân gian nước Việt luôn có hai tầng: Tầng nền tảng và Tầng biểu hiện. Tầng nền tảng là cốt vật chất được tạo thành từ các chất vô cơ kết hợp với các chất hữu cơ theo một quan hệ tương thích (công thức hóa học) đã nạp đủ năng lượng, hiện diện hữu hình với tên gọi CHẤT và TRƯÒNG, tuân theo chương trình thông tin SIÊU HÌNH đã được mã hóa nén vào một hợp chất hữu cơ được Thầy tu Grêgo Mendel (1822 - 1884), người Tiệp Khắc, tác giả của Học thuyết di truyền gọi là Gen. Tầng nền tảng tồn tại trong chuyển hóa theo quy luật cạnh tranh bằng chọn lọc tự nhiên để sinh tồn, mà đồng hóa và dị hóa là một trong những biểu hiện cụ thể. Tầng biểu hiện là các mối quan hệ xã hội luôn vận động theo quy luật đang còn tranh cãi (đấu tranh giai cấp tiến tới xóa bỏ giai cấp hay đấu tranh giai cấp để điều hòa lợi ích giai cấp, tiến tới một xã hội hài hòa lợi ích?). Qua thực tế chữa bệnh nhận thấy: Phần lớn bệnh tật nan y của con người phát sinh có nguồn gốc từ tầng biểu hiện của môi trường sống – tức là do mối quan hệ xã hội căng thẳng mà sinh bệnh. Nhân loại đang đứng trước hiểm họa sốc phản vệ vô căn – Tiếng Tây viết là “Stress” rất khó chữa vì khó truy tìm nguồn gốc bệnh sinh. Nếu chỉ tầm soát tìm nguồn gây bệnh ở từng lĩnh vực đơn lẻ, như tâm thần học; sinh lý học; xã hội học… thì không đọc đúng bệnh mà phải là tất cả các lĩnh vực khoa học hiện hữu của một nền văn hóa. Tính - Khí - Tình - Thần của y học dân gian Việt, không giống “Tam Bảo” của Trung Y là Tinh, Khí, Thần. Bốn mặt của sự sống (Tứ diện hiện sinh) của y học Việt cổ được hiểu như sau: 2.1. Tính là sự biểu hiện hành vi riêng có của cá thể đối tượng cộng đồng, thông qua cái gọi là tính nết, tích cách, như: Hoạt bát, nhanh nhẹn, năng động; đối lập với tính cách ù lì, chậm chạp, thụ động; nóng nảy, hấp tấp, nông cạn, lào phào (phổi bò) đối lập với: mềm mỏng, thận trọng, sâu sắc, thâm trầm. Có một thời tích cách được xem như là sản phẩm của “Nhân tạo” nhờ giáo dục mà có. Nhưng đứng trước các hiện tượng những cá thể có tài năng vượt trội, hơn hẳn những người cùng được đào tạo theo một chương trình, một nội dung giáo dục như nhau; thậm chí, có những tài năng thực sự lại chưa hề được hưởng một nền giáo dục chính quy, nhưng lại làm được những việc mà người đã được đào tạo chính quy để làm công việc đó không làm được, người ta chưa giải thích được. Thế rồi, đối diện với những cá thể tội phạm có trình độ văn hóa cao, sinh trưởng trong một môi trường sạch sẽ và cao sang lại độc ác hơn cả dã thú. Bọn này lại được đưa vào các cơ sở giáo dưỡng lí tưởng, tỏ ra ăn năn hối lỗi được thả ra, lập tức lại gây án. Hiện tượng này khá phổ biến ở tất cả các quốc gia, thường chiếm tỷ lệ tới 40% số người phạm tội được ra tù. Người ta đã cố công giải thích như: Công tác cải huấn chưa tốt? Không đúng! 60% số người phạm tội hoàn lương thực sự, có người sau khi ra tù còn tốt hơn cả những người chưa bị đi tù lần nào đã bác bỏ cách quy kết này. Còn một cách giải thích nữa là do di truyền? Cũng không đúng! Có tới 90% con của các nhà bác học lại không có tài năng xuất chúng, thậm chí còn đần độn. Ngược lại, có những tài năng kiệt xuất mà từ ông bà cho đến cha mẹ đều là người bình thường. Hầu hết những kẻ ác khét tiếng đều có cha mẹ là người lương thiện. Gần đây một số nhà nghiên cứu về nguồn gốc sự sống của Loài Người đưa ra nhận định: "Giữa học và thông minh hoàn toàn khác nhau. Học mà giỏi là Nhân tài, còn thông minh là Thiên tài". Vậy, hiện tượng kẻ ác thì lí giải ra sao; gọi tên nó là Thiên tội sao? Theo thiển ý của tôi cả hai hiện tượng “xuất chúng” nói trên đều là sản phẩm của “đột biến Gen”, cơ chế đột biến Gen mọi người đã biết rồi. Đột biến Gen tạo ra con người có tài năng xuất chúng (NGƯỜI HIỀN) là đột biến của sự phát triển, đã có tên gọi của nó, đó là “sự thăng hoa”. Đột biến Gen biến con người trở về dã thú (KẺ ÁC) là đột biến phản phát triển; nó cũng đã có tên gọi, đó là: sự thoái hóa biến chất. Đây là một loại bệnh ở Gen rất khó chữa. Đã là hiện tượng đột biến Gen thì không phải ai cũng được hoặc bị đột biến mà là Giời cho ai thì người đó được bắt tội ai thì người đó chịu. Xin hiểu cho, Giời ở đây là giới TỰ NHIÊN, chứ không phải là Ngọc Hoàng Thượng Đế trong truyện Thần thoại. Người Việt Cổ làm triết học bằng những lời lẽ bình dân. Lí giải hiện tượng này Tổ tiên ta nói: "Cha mẹ sinh con, Giời sinh tính". Người Trung Hoa cổ cũng có nhận xét tương tự, được nhà Nho Hán - Việt diễn đạt: “Giang sơn dễ đổi, tính cách khó thay”. Hình như chưa đồng tình lắm với nhận định này nên các nhà Nho Việt chơi chữ “KHÓ THAY”: vừa là động từ lại có thể hiểu là một thán từ nghi vấn, khiến cho câu nói trên vừa là câu khẳng định vừa là câu cảm thán. Y học dân gian coi tính cách như một chỉ báo sinh học hằng định của riêng một cá thể. Không chỉ Thầy Lang mà dân gian cũng căn cứ vào tính cách cá thể để đoán bệnh cho người thân. Thầy Lang thường được nghe người thân của Con Bệnh nói: “Cháu nó thường ngày rất hoạt bát, nhanh nhẹn lắm; không hiểu sao hồi này nó ủ rũ, hỏi không buồn nói, gọi chẳng thưa, chúng tôi lo quá, xin Thầy xem cho, cháu bị bệnh gì?”. 2. 2. Khí: Khái niệm “Khí” của Y học Dân gian khác hẳn với lọai Khí đang được giải thích là Trường – một dạng tồn tại siêu hình của vật chất, tuy không nhìn thấy nhưng có thể đo đếm được Khí của Y học Dân gian giống với khái niệm “Khí” mà Phan Châu Trinh đã dùng ("trấn Dân khí"); nó (Khí) là biểu hiện bản lĩnh của cá thể trước sự tác động của ngoại cảnh. Có thể hiếu khái niệm “Khí” ở đây là toàn bộ phong cách ứng xử, thường được gọi là “đối Nhân xử Thế” của một con người. Một người lúc khỏe mạnh có tính cách nhút nhát e thẹn, khiêm tốn, lễ phép với mọi người; khi lâm bệnh thì cái nhút nhát đó biến mất không còn biết e thẹn nữa, trở nên trơ lỳ. Một người khi khỏe mạnh vốn dĩ là người có phong cách ứng xử linh hoạt tinh khôn, dũng cảm; khi bị mắc bệnh thì cái “Khí phách” đó đã bị nhạt nhòa. Người mắc bệnh dù rất nặng nhưng khí phách vẫn còn là còn cơ hội để cứu sống. Dân gian gọi cái khái niệm “Khí” đó là “Hồn người”. 2.3. Khái niệm “Tình”. Chữ Tình trong y học Dân tộc Việt được hiểu như một trạng từ liên hệ, có nghĩa nguyên gốc là trạng thái cảm xúc tâm lý thể hiện nhu cầu sinh lý nhưng lại mang vỏ bọc tâm lý. “Tình” trong hành động thực tiễn lại nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý bằng hành vi sinh lý. Do đó, nhu cầu tỏ tình được xem như một biểu hiện sống căn bản nhất của con người. Trong sinh hoạt xã hội ta thường nói đến hai chữ “Tình cảm”, ít ai để ý là mình đang sử dụng cặp phạm trù triết học: Tình và Cảm để diễn đạt mối quan hệ phức tạp của sự tác động qua lại của “Cái sinh lý” với “Cái tâm lý” chỉ có ở động vật cao cấp. "Cái Cảm" là căn cứ, là nguyên nhân làm nên cái “cái Tình”. Lộ trình của diễn biến này là: khởi đầu là “cảm nhận”; “cảm nhận" đã chín muồi được chuyển đến ngưỡng “Cảm xúc”. Khi cái "Cảm xúc" tiếp tục được cái "Cảm nhận” liên tục bổ xung theo hướng quỹ tích để cái “Cảm xúc” nén nhiều thông tin tới mức nhảy vọt đến “cái Xúc động”, “cái Tình“ khi đó mới hiện ra. Từ “cái Tình” ở trình độ sơ cấp đó lại vẫn tiếp tục được cái Xúc động duy trì, dẫn tới ngưỡng “tỏ Tình”. Đến đây mới kết thúc sự vận động của cái ta vẫn nói “Cảm tình” ở chu kỳ thứ nhất. Chu kỳ tiếp theo lại có xuất phát từ “cái Tình” đã tụ ở chu kỳ một để “Cảm nhận” ở trình độ cao hơn đưa tới cảm xúc mãnh liệt hơn và tất yếu “Xúc động” lớn hơn. Nếu diễn biến nói trên xảy ra ở quan hệ Nam Nữ, thì “cái Xúc động” lớn hơn đó gọi là Yêu. Yêu cũng có nhiều cấp độ: khởi đầu gọi là “phải lòng”, nếu phát triển thì thành “Nhân ngãi”, phát triển nữa thành Vợ thành Chồng. Người xưa, thấy ai đó khi chưa thành Vợ thành Chồng mà đã hiến thân cho nhau được gọi một cách xem thường là đôi giai gái đó đã “già nhân ngãi, non vợ chồng, rồi, bởi chúng đã “Ăn nằm với nhau rồi còn gì nữa đâu, mà cao giá!”. Ai đó chỉ giả vở yêu để chiếm đoạt thân xác, hoặc kiếm tiền, thỏa mãn rồi là bỏ, không đi hết đường tình để đến hôn nhân; nếu là đàn ông được gọi tên là Sở Khanh (Kẻ ăn cắp tình của nàng Kiều); nếu là đàn bà chịu án phạt nặng hơn, bị rủa là “Con đĩ". Người Việt xưa, đã phát hiện thấy tính trội của người đàn ông trong nhu cầu tình dục; cuộc đời tình dục của đàn ông dài hơn đàn bà rất nhiều năm. Nếu hai vợ chồng bằng tuổi nhau khi về già, gia cảnh dễ bị người chồng giở chứng: “Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” nữa, nên cho phép “Tài trai có hai, ba vợ”. (Trai, phải có tài mới có khả năng lấy nhiều vợ, chứ không phải bất kỳ người đàn ông nào cũng lấy được nhiều vợ đâu). Nhưng để ổn định trong quan hệ xã hội, giữ vững Gia Đình là nền móng của xã hội, lại đòi hỏi người đàn bà: “Gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Người đàn bà Việt xưa không coi đó là sự hy sinh là thiệt thòi mà là thiên chức là vinh dự của người Mệ Cả của “Đại gia đình” đã tự giác chấp nhận, “Luật Hôn nhân“ đó, nên có người vì sợ chồng đi chơi “Nhà Thổ”, đã cưới vợ lẽ cho chồng, thậm chí còn dụ em gái của mình làm lẽ để giữ chồng cho chị. Nhiều thằng cha láu cá, lợi dụng sự rộng lượng của vợ để thực hiện kế sách: “Mía ngọt đánh cả cụm!" Nhiều ngưòi có thân phận vợ lẽ đã được xã hội Việt tôn vinh như: “Nàng Ba Châu Long”; “Nguyễn phi Ỷ Lan”; “Vợ Ba Đề Thám”. Rất nhiều vị Danh nhân văn hóa đã tỏ lòng biết ơn đối các bà mẹ trong gia đình. Có người tỏ lòng biết ơn Mẹ Cả đã chăm bẵm cho mình thành tài mặc dù vị đó là con của Vợ lẽ của bố; có vị là con Mẹ Cả, nhưng người chăm bẵm để họ thành tài lại là vợ thứ của bố. Biểu hiện tình người như thế này không phải là văn hóa sao? Tiếp thu văn hóa Châu Âu, xã hội ta hiện nay lên án hành vi này và kiên quyết giữ vững quan điểm “một vợ một chồng". Kết quả như thế nào chắc mọi người đã rõ. Cần nói thêm rằng: văn hóa Châu Âu trên danh nghĩa “một vợ một chồng”, nhưng không cấm người sống độc thân làm tình với rất nhiều người. Thực chất, người theo chủ nghĩa độc thân đó lại có rất nhiều vợ và rất nhiều chồng. Có những người đàn bà có rất nhiều con nhưng chưa hề lấy chồng. Ngoại tình là trở thành một biểu hiện “văn hóa” Âu - Mỹ. Trên danh nghĩa người Âu – Mỹ lên án ngoại tình, nhưng thực tế người lên án đĩnh đạc nhất lại là kẻ “ngoại tình thành Thần”. Những tác phẩm nghệ thuật mô tả các cuộc tình vụng trộm ly kỳ được nhiều người đọc nhất, mặc dù các tác phẩm đó không nhận được các giải thưởng nghệ thuật. Hiện tượng đó nói lên điều gì? Phải chăng loài người đang thích chơi trò chơi đạo đức giả trong lĩnh vực tình yêu; cái lĩnh vực tâm thần mà chính Lê Nin trong một buổi tối đang ngắm sao trời, Người đã thốt lên: “Tình yêu là điều kỳ diệu nhất của con người!" Khi Tình chuyển sang một cung bậc mới cao cả hơn, được gọi là “Tình nghĩa Vợ Chồng”. Nếu khi yêu chỉ là cho, khi đã là Tình nghĩa Vợ Chồng thì cho luôn gắn liền với nhận. Đôi lứa nào không ý thức được điều căn bản này, cứ vô tư nhận mà không cho thì đôi lứa đó sẽ tan vỡ. Nếu diễn biến tình cảm nói trên xảy ra ở các lĩnh vực khác, như học thuật, võ thuật, thể thao và các nghề nghiệp thực dụng khác thì trạng thái tình cảm “khâm phục, “hâm mộ” sẽ hiện ra. Đối tượng được Yêu, được Kính phục lại dùng thủ đoạn gian trá để mê hoặc, quyến rũ, khi người bị mê hoặc nhận ra thủ đoạn gian trá đó thì toàn bộ niềm tin sập đổ. Sự ngưỡng vọng cao cả bao nhiêu thì sự thất vọng sẽ sụp đổ ê chề, nghiền nát “Thần Tượng“. Những kẻ giả trá leo cao thường bị ngã đau là như vậy. Sự mô tả như trên tuy còn rất thô sơ, cũng có thể được coi đó là “Quy luật Tình cảm của Con Người” theo quan niệm Y học Dân gian. Y học Dân gian không có thói quen lập ngôn, “dựng Học thuyết” mà chỉ lặng lẽ thực hành tản mát ở từng Nhà, nên người đời gần như không biết tới có nền Y học thuần Việt hàng ngàn đời nay (không ít hơn 4000 năm). Hiểu rõ “Quy luật của tình cảm Người” như vậy nên Y học dân gian chữa các bệnh về tâm thần (Trầm cảm, Điên) rất hiệu nghiệm. Vi rút HIV là con vi trùng do cấu trúc vỏ của nó rất dễ bị các tế bào thân kinh hút phải. Lang thuốc muốn chữa trị hội chứng HIV/ AIDS buộc phải có kiến thức “quê mùa” này. Dùng những biểu hiện “Tình” ở người khỏe mạnh làm chuẩn đo trạng thái tâm thần kinh của người bệnh là một “bí phương” của Gia Bảo nhà tôi. Cách diễn đạt còn quê mùa chắc chỉ gây cười cho các bậc Khoa Bảng, nhưng tôi chỉ “Sờ thấy đầu gối mới dám nói chân của mình là thật”. Dù có bị các vị Khoa Bảng cười chê đành phải chịu thôi. Khi một con người không còn nhu cầu tỏ tình, không còn khả năng thực hiện những cuộc tình mang tính người thì sự tồn tại đó giống như một cỗ máy sinh học thua kém cả các loài cầm thú. Trung y coi Tinh, Khí, Thần là 3 thứ quý nhất (Tam Bảo) của sự sống. Nhưng khi xác định nguyên nhân gây bệnh trong cơ thể (Nội nhân) lại nêu ra 7 loại tình chí: Hỉ (vui mừng) thuộc tạng Tâm (tim); Nộ (giận dữ) thuộc Gan; Bi (buồn phiền) thuộc tạng phổi; Ưu (lo lắng) thuộc tạng tỳ (dạ dày); Tư (suy nghĩ) cũng thuộc dạ dày. Có lẽ căn cứ vào lý luận này của Trung y mà người đời nói là “nghĩ bụng” chăng? (Ngày nay nếu nghe nói: ”Con người tư duy bằng dạ dày“ thì đến con trẻ cũng cho là điên); Kinh (sợ sệt) thuộc tạng Thận; Khủng (hốt hoảng) cũng thuộc tạng Thận. Trung y cổ truyền cho rằng 7 loại tình chí này thuộc về hoạt động tinh thần. Như vậy là Trung y cổ truyền cũng nhận ra hiện tượng “Tình” có quan hệ đến bệnh tật, nhưng nó đã lẫn lộn giữa Tinh và Tình. Ở một chỗ khác Trung y cổ truyền cho rằng Tinh là cơ sở vật chất của cơ thể. Khí và Thần đều do Tinh tạo ra. Tinh tiên thiên là bẩm tố của cha mẹ truyền lại qua các tế bào sinh dục. Tinh hậu thiên do tạng tỳ vận hóa từ thức ăn đồ uống. Như vậy là lý luận Trung y cổ đã tự mâu thuẫn. Khi xác định 7 loại tình chí gây bệnh, Trung y cổ đồng hóa Tinh và Tình với nhau và gọi đó là tinh thần, nhưng khi định nghĩa Tinh thì lại coi tinh là vật chất cụ thể. Có lẽ đây chỉ là những kiến thức “Hàn lâm” để các cơ quan Công quyền căn cứ vào đó xác minh tri thức khoa học y tế của người Lang Thuốc Gia truyền đến xin Giấy Chứng Nhân hành nghề chữa bệnh thôi. Khái niệm “Tình” trong Y Việt cổ truyền là một tổng kết từ thực tế thể hiện bản chất của con người Việt. Người Việt rất trọng Tình. Người Việt muôn đời nay luôn nói vói nhau: Con người ta sống ở đời cốt giữ lấy cái tình, khi đã cạn tình thì không còn gì để nói nữa. Đối với người Việt, tình người là cao đẹp nhất, Có thể nói Tình Người là bản vị của dân tộc Việt. Y học Dân gian luôn coi Tình Người là bản sắc của mỗi con người, nhưng cách tỏ tình lại rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có những người khi cơ thể khỏe mạnh luôn tỏ rõ tình cảm của mình: Yêu, ghét, khinh bỉ, kính trọng… đều lộ rõ không che dấu, thậm chí còn cực đoan đến độ si mê; khi con người đó bị ốm nặng thì không còn biểu hiện tình cảm như trước nữa. Trái lại, có nghững con người, bình sinh rất mô phạm, che dấu tình cảm rất kín kẽ nghiêm ngặt; nhưng khi bị ốm thì trái lại tình cảm dấu kín đã bùng ra; Nếu biết mình sắp chết thì con người đó bình sinh cứng cỏi bao nhiêu, khi lâm chung lại dịu dàng tỏ rõ tình cảm, thậm chí còn rất yếu đuối nữa. 2.4. Khái niệm “Thần”. Dân gian nước Việt coi “Thần” là biểu tượng của sự tài giỏi linh thiêng nhưng lại rất giống với “Người Bình Dân”: Làm thật, ăn thật, nói thật, và còn “đa dâm” nữa. Dân gian luôn nghĩ Thần không cao đạo như “Thánh”. Về ngôi thứ Thần đứng sau Thánh, nhưng Thần được người bình dân thích hơn Thánh. Người Việt bình dân luôn nghĩ mình có thể trở thành Thần, ít người có ham muốn trở thành Thánh. Để chứng minh phán đoán của mình là đúng đắn, nhưng người thân coi thường không nghe theo nên hỏng việc, liền chỉ trích: ”Tôi đã nói rồi, Nhân bảo như Thần bảo, không nghe, cho chết!“. Y học dân gian cho rằng trong bất kỳ con người nào cũng có “chất Thần”. Chính vì lẽ đó nên đã dùng khái niệm “Thần” như một thước đo của các trạng thái “Tính, Khí, Tình”. Ta thường nghe dân gian nói “Thần Hồn nát Thần Tính” để chỉ ai đó sợ hãi tới mức không còn bình tĩnh để xử lý hiện tượng có lý trí. Để chỉ một hành vi của ai đó được coi là tuyệt vời Dân gian nói: thật “Thần Tình”. Người Sài Gòn chính gốc hay nói: ”Thiệt Tình...” để chỉ một cái gì đó không bình thường. Dân gian thường tỏ thái độ đối với một hiện tượng vừa như muốn chê bai lại vừa như thầm khen. Ví dụ, khi thấy một người đàn ông tài hoa, quyến rũ được nhiều đàn bà, Dân gian nói: Gã đó “Tán gái thành Thần”; “Nói dối thành Thần”. Nói dân tộc Việt là dân tộc có năng lực tư duy phức tạp bẩm sinh ngoài những căn cứ vào sự thể hiện trí tuệ cao cấp có giá trị lớn, còn căn cứ vào nhưng biểu hiện đời thường như thế nữa. Người nước ngoài học tiếng Việt rất cực nhọc, không phải tiếng Việt khó học; chỉ cần 15 ngày học thuộc 24 chữ cái, nhớ đủ 5 dấu trọng âm, biết ghép chữ thành vần là nói được tiếng Việt rồi. Nhưng để hiểu đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen thì phái nắm bắt cho được cái Thần của tiếng Việt là “ý tại ngôn ngoại”. Chỉ khi nào đạt trình độ đó Bạn mới có thể dùng tiếng Việt, để diễn đạt đúng tư duy của mình. Đạt trình độ đó, dù Bạn rất thông minh cũng mất ít nhất là 5 năm. Cái khó học đó chính vì tiếng Viêt là vỏ bọc tư duy phức tạp của người Việt. Nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến thất bại của các “Đế quốc To” khi xâm lăng nước Việt là Nó không hiểu tiếng Việt. Bạn phải thận trọng khi sử dụng “Thông ngôn”; phải kiểm tra xem Quý vị nhận làm thông ngôn có đúng là chuyên gia Tiếng Việt không đã rồi hãy dùng. Một con người khỏe mạnh, cái “chất Thần” đó luôn toát trong mọi cử chỉ, lời nói, cách ăn, lối mặc, gương mặt sảng sủa dù màu da rất đen; ánh mắt long lanh nhưng ấm áp, tình tứ, ý nhị. Sức khỏe giảm sút biểu hiện lộ rõ sự nhược Thần: sắc mặt u tối; ánh mắt dù vẫn long lanh nhưng sắc lạnh; cử chỉ phóng túng biểu hiện “bất cần Đời”. Thầy Lang Dân gian khi tiếp xúc đầu tiên với con bệnh trước hết phải ghi nhận biểu hiện cái gọi là “Thần thái”. Từ cảm nhận tình trạng của “Thần thái“ đã vạch ra hướng khám bệnh và trị bệnh. Kinh nghiệm thực tế đã khiến các ông Lang giỏi nghề, chỉ qua quan sát “Thần thái” đã có thể phán “khoảng 3 ngày nữa con người này sẽ chết”. Sự thật đã diễn ra đúng như vậy. Người đời thấy lạ nên sùng tín cho ông ta có khả năng “Thần giao cách cảm”. Dân gian nói: “Trông mặt mà bắt hình dong“ là như vậy. Bốn mặt thể hiện của sự sống ở cơ thể người nói trên được Y học Dân gian dùng làm chuẩn mực để đối chiếu trong suốt quá trình khám bệnh và trị bệnh ở tất cả các loại bệnh, trong đó có bệnh nhiếm vi rut HIV gây hội chứng AIDS. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  16. Y học Dân gian nước Việt - Kỳ 2 1/9/2012 11:44:33 AM Trải bao đời tích luỹ kiến thức y học dân gian đã có hẳn một cương lĩnh hành nghề sâu sắc và uyên bác. Vì đất nước trải hơn ngàn năm Bắc thuộc, với chính sách diệt chủng đồng hoá tàn bạo, phong kiến Tầu đã tiêu huỷ rất nhiều tài sản văn hóa quý giá của dân tộc Việt. Cái gì chúng hiểu thì chúng cướp mất, cái gì không hiểu thì chúng tiêu hủy. Với chính sách làm cho tiệt chủng văn hoá Việt, Vua quan Tầu ở tất cả mọi thời đại đều bảo nhau khi vào nước Việt thì dù chỉ thấy một nửa chữ Việt cũng phải tiêu hủy. Dấu vết văn hóa Việt cổ đã bị bọn Tầu xóa sạch. Nhưng, ngạn ngữ Việt đã nói “cái kim bọc dẻ lâu ngày cũng lòi ra”. Thói huyênh hoang kheo mẽ do căn bệnh “chiến thắng tinh thần” truyền thống đã khiến nó “dấu đầu lại hở đuôi”. Chính sử của Tầu ghi lại: Nhà Tây Chu (1.135 – 770), triều đại Chu Công, Nước Việt Thường sai sứ sang cống chim Bạch trĩ, Chu Công cho chế xe Chỉ Nam đưa sứ Việt Thường về nước. Chỉ qua một dấu vết này thôi cũng đủ căn cứ để nói rằng nước Việt Thường thủa ấy đã là nước văn hiến. Bởi lẽ, nhà Tây Chu khi đó đâu đã gây được sức ép với nước Việt Thường, khiến Việt Thường phải cống nạp. Nước Việt Thường cử sứ đi Tây Chu là hành vi mở rộng ngoại giao, chỉ có dân tộc nào đạt trình độ văn hóa cao mới biết hành sử như vậy. Tình tiết, do sứ Việt cống chim Bạch trĩ khiến Chu Công xúc động cho đóng riêng cỗ xe Chỉ Nam đưa sứ Việt về nước, cũng ẩn chứa nhiều thông tin lý thú. Theo luận lý thông thường dễ nhận ra ngay sử Tầu ghi sứ Việt cống chim Bạch trĩ là bịa đặt. Nước Việt Thường khi đó theo Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thì Việt Thường chỉ là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Bộ Việt Thường ở địa phận Quảng Bình – Quảng Trị bây giờ. Con chim Bạch Trĩ là giống sinh sống ở vùng rừng nhiệt đới, liệu nó có sống nổi không khi theo sứ Việt vượt vạn dậm trường đi từ Quảng trị đến Thiểm Tây có khí hậu vùng ôn đới giá lạnh; phương tiện giao thông khi đó chủ yếu là đi ngứa, nhanh lắm cũng phải hàng tháng mới đến kinh Đô Tây Chu. Hơn nữa chỉ có con chim Bạch Trĩ mà Chu Công xúc động tới mức tiếp sứ Việt thịnh tình, lại còn cho đóng riêng cỗ xe đưa sứ Việt về nước? Đây là một sự lạ đối với người Hán vốn coi những dân tộc ngoài dân tộc Hán đều là mọi rợ. Vậy thì cống vật phải là cái gì đó rất có giá trị rất lớn lao? Cống vật đó chính là “Thuật bói quẻ”, sau này Chu Công cải biên lồng thuyết âm dương vào làm nên kiệt tác Chu Dịch; trước đó Văn Vương (bố của Chu Công) mới chỉ biết dùng cỏ thi để bói với mai rùa. Bói Quẻ do Sứ Việt phổ biến kỳ lạ ở chỗ chỉ dùng hai vạch ngang: vạch liền tượng trưng cho Trời; vạch đứt ở giữa ttượng trưng cho Đất, rồi theo thuật bói quy định chồng các vạch lên nhau là có thể luận giải được tất cả Vũ Trụ và lòng người, (nói kỹ ở phần sau). Việc Chu Công đóng xe Chỉ Nam đưa sứ Việt về là lén cử người đi theo về đất Việt để ăn cắp bí quyết bói quẻ mà thôi. Ông Leibniz, nhà triết học và toán học, người Đức (1646 – 1716), năm 1679 cho công bố phát minh ra phép nhị phân số học thay cho phép thập phân. Nội dung phép nhị phân là cứ thêm một số 0 là nhân với 2 chứ không phải nhân với 10 như phép thập phân. Nguyên tắc nhị phân của Leibniz đang được ứng dụng vào máy tính điện tử hiện nay: chỉ có hai số 1 và 0 thôi. Khoảng năm 1700 một nhà truyền giáo Dòng Tên ở Trung Hoa báo cho Leibniz biết thuật toán do ông ta phát minh đã có ở Trung hoa và gửi cho ông ta 64 quẻ kinh Dịch. Leibniz vô cùng kinh ngạc khi thấy Kinh Dịch chỉ dùng hai vạch âm dương mà vạch được rất nhiều quẻ y hệt ông đã dùng số 1 và số 0 mà viết được mọi số. Như vậy là phép tnh có cơ số nhị phân đã được phát minh ra ở Á Châu trước phát minh của nhà bác học Đức tới 2.000 năm. Năm 1973, Nhà xuất bản Khai trí (Sài Gòn cũ) in tác phẩm: “Kinh dịch nguyên thủy “ của tác giả Lê Chí Thiệp. Tác giả đã liên hệ đến khí hậu, đất đai, đời sống của dân tộc Việt Thường để chứng minh: “Tiên thiên Bát quái (Chu Dịch) do người Việt Thường sáng tác và phổ biến cho Tầu. Khói lửa chiến tranh đã làm ngưng trệ cuộc thảo luận sử học lý thú này. Tôi tin luận điểm của ông Lê Chí Thiệp, nhưng lịch sử là phải có chứng cớ cụ thể, cần được các nhà Sử học dù có bị thiến vẫn nói đúng sự thật như Tư Mã Thiên thì mới làm sáng tỏ tồn nghi văn hóa sử này. Một tồn nghi lịch sử văn hóa Việt nữa thuộc lĩnh vực Y học cũng rất hấp dẫn: đó là Học thuyết Kinh Lạc cũng của người Việt bị Tầu cướp mất và công bố là của ho. Học thuyết Kinh Lạc như mọi người thấy hiện nay đang được giới thiệu như là lý luận của thuật châm cứu. Người Tầu nói học thuyết Kinh Lạc là của họ. Bằng chứng đưa ra là sách “Linh Khu” nói về châm cứu của họ có từ thế kỷ thứ 5 - 3 trước Công nguyên. Mấy năm gần đây, tài liệu giảng dạy Đông y của Nhà nước ta đã mạnh mẽ nói thuật châm cứu là của Việt Nam có từ thời An Dương Vương, nhưng chứng cớ đưa ra lại là Dã sử “Lĩnh nam chích quái “ nói: Thời Thục An Dương Vưong có Thôi Vỹ dùng thuật cứu để chữa bệnh. Nếu so đọ về chứng cớ nguồn gốc từ thời cổ thì người Tầu có sách “Linh Khu”, còn chứng cớ của ta chỉ có mấy dòng trong Dã Sử, Ta “thua”. Nếu cho rằng những chứng cớ thời cổ đại chỉ là đời sau bịa đặt và lấy chứng cớ có thật từ thời Trung cổ và thời cận đại thì chứng của nước Việt thuyết phục hơn. Bởi vì năm 1401, dưới thời Nhà Hồ, Nguyễn Đại Năng viết tác phẩm “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca”. (Nguyễn Đại Năng là người giỏi khoa châm cứu, Nhà Hồ lập Quảng Tế Hựu là cơ quan trông coi việc y tế, ông được giao phụ trách Cơ quan này. Tác phẩm “Châm cứu tiệp hiệp diến ca" ghi lại 130 lọai bệnh chính, được chỉ định 140 huyệt để chữa, trong đó có 11 huyệt do chính ông mới phát hiện ra, trước đó chưa có ai biết. Nguồn: V.N.K: Từ Điển Văn Hóa, Nxb Văn Học, năm 1993, tr.325). Tác phẩm “Bảo Anh lương phương” của lưỡng quốc trạng nguyên Nguyên Trực, hướng dẫn bấm huyệt chữa bệnh cho trẻ con. (Nguyễn Trực (1417 – 1473), là một trí thức lớn của triều Lê. Ông đỗ trạng nguyên năm 1442, được cử đi sứ Trung Quốc, gặp kỳ thi, xin vào dự và đỗ trạng nguyên của Tầu luôn. Sách đã dẫn, tr.410). Sau hai tác phẩm có trí tuệ cao cấp về Kinh Lạc cùng kỹ thuật châm cứu của người Việt, 200 năm sau (1601) Dương Kế Châu (người Tầu, đời Minh) mới cho ra đời tác phẩm: “Châm cứu Đại Thành”. Thế rồi bẵng đi 350 năm sau, vào thập niên 50 của thế kỷ 20 người Trung Hoa mới công bố kỹ thuật “đầu châm”, châm cứu ở đầu. Năm 1958, Trung Quốc công bố tiếp kỹ thuật “châm tê” để mổ. Còn ở nước Việt ta câu chuyện châm cứu lại diễn ra liên tục: Thế kỷ thứ 17 xuất hiện tác phẩm “Châm cứu thủ đồ huyệt” của Lý Công Tuân; thế kỷ thứ 18, Lê Hữu Trác tổng hợp các phương pháp chữa bệnh cho trẻ con bằng châm cứu có trong tác phẩm của ông để lại đang thấy hiện nay. Thế rồi Triều nguyễn Ánh theo Pháp để diệt Nhà Tây Sơn, giành được giang sơn rồi lại hủ lậu khiếp sợ ánh sáng Nhân quyền của Cách mạng Tư sản Pháp vội vã quỳ gối trước Nhà Mãn Thanh, vùi dập văn hiến Việt; tiếp đến thời Pháp thuộc, cùng với y học dân tộc, châm cứu cũng chung số phận như “Câu Ca Dao bị vất giữ ngã ba đương“ mà Chế Lan Viên đã thảng thốt kêu lên. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, tiếp ngay đến cuộc Kháng chiến chống Pháp, y học dân tộc được hồi sinh, châm cứu đã góp phần đắc lực cứu chữa cho nhiều chiến sỹ quân đội Nhân Dân. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ: quan hệ Việt – Trung “vừa là đồng chí vừa là anh em”, nên ta cũng đành lặng yên không tách bạch Trung y với Việt y. Chính vì thế mà năm 1969 xuất hiện thông tin Bác sĩ Hoàng Đình Cầu đã mổ 9 ca cắt thùy phổi với sự cộng tác của kíp châm tê do bác sĩ Trương Kim Du và Bác sĩ Bùi Quang Hiển phụ trách. Thông tin này đã góp phần làm bùng nổ các cuộc Hội thảo về châm cứu trên toàn thế giới. Thế rồi biệt tài châm cứu Nguyễn Tài Thu xuất hiện khiến Y giới toàn cầu phải tâm phục khẩu phục về thành tựu châm cứu của y học hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, thuật châm cứu chỉ là khoa học thực hành học thuyết Kinh Lạc mà thôi. Kinh Lạc mới là quan trọng, bởi lẽ đây là một phát minh rất lớn của trí tuệ Y học. Gia Bảo nhà tôi ghi lại: Hệ Kinh Lạc là của tổ tiên người Việt, do chính con cháu của 50 người con do Mẹ Âu Cơ sinh hạ rồi theo cha Lạc Long Quân đi ra Biển phát minh ra. Để có thể làm chủ biển khơi, người Việt cổ đã nghĩ ra thuật xăm mình nhằm dọa nạt thủy quái. Xăm mình là phải dùng vật nhọn châm trích vào da rồi bôi nhựa cây có màu sắc rực rỡ vào. Quá trình hình thành thuật xăm mình đó phải kéo dài hàng trăm năm, người Việt đã phải chết rất nhiều người vì châm trích phải chỗ phạm mới đi tới xác định được các huyệt cùng các tuyến huyệt liên hệ với nhau. Nhờ tích lũy kinh nghiệm thực tế nhiều đời, người Việt đã tìm ra ở cơ thể người có tới 14 đường nối các huyệt cùng tuyến chạy dọc cơ thể và tứ chi gọi là Kinh. Các đường kinh đó lại có mối liên hệ ngang với nhau; những đường vắt ngang cơ thể đó gọi là Lạc. Vì sao đặt tên là Kinh và Lạc? Từ Kinh trong tiếng Việt hiện đại có hàng trăm nghĩa khác nhau. Trong tiếng Việt cổ, từ Kinh dùng để chỉ hiện tượng rất đáng sợ và phải kính trọng (phát kinh, kinh ngạc…). Từ nghĩa gốc đó, ngay trong thời cổ, từ Kinh đã được dùng để chỉ sự đúng đắn, đồng thời nó bắt đầu có ý là sự chủ trì. Trong Cộng đồng các dân tộc của xã hội Việt thời Hồng Bàng, Bộ tộc có đông người nhất được gọi là người Kinh. Vị Vua đầu tiên của nước Việt cổ là Tộc trưởng của người Kinh, nên gọi là Kinh Dương Vương, hiện còn mộ của ông ở làng An Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Để tưởng nhớ vị vua đầu tiên của dân tộc Việt, 14 tuyến huyệt đạo chính mang tên Kinh. Chức quan trong Vương triều Việt đầu tiên mang tên Lạc Tướng. Trong tiếng Việt cổ từ Lạc được dùng để chỉ ruộng đất, cũng còn nghĩa quan hệ (liên lạc). Tuyến huyệt đạo dài mang danh Vua là Kinh thì đường liên lạc vắt ngang tuyến Vua ắt phải là quan, do đo các huyệt đạo có mối liên hệ ngang gọi tên là Lạc. Hệ thống Kinh Lạc trong cơ thể người trở thành cơ sở thực tế để người Việt nhìn vào nó qua sắc diện của con người mà đoán bệnh trị bệnh ngay từ buổi bình minh của văn hóa Việt. Tuệ Tĩnh đã tổng hợp lại trong tác phẩm ”Các chứng chết, mạch chết”. Ví dụ: “mặt phù, sắc xanh đen là chết”; “Lưỡi rụt, hòn dái co là chết”; “Mặt không tươi sáng, chân răng biến sắc đen là chết”, v. v. (Xem Tuệ Tĩnh toàn tập, N.x.b Y học). Hệ thống Kinh Lạc có trước cuộc xâm lăng nước Việt đầu tiên của người Tầu hàng nghìn năm. Người Tầu cướp lấy rồi nhồi nhét ngôn ngữ âm dương ngũ hành của họ vào, sau đó mang sang dạy lại cho các Nho sĩ Việt hành nghề Trung y. Cho đến nay không ít các thầy thuốc Trung y ở bên Tầu và cả ở Ta nữa vẫn coi Hệ Kinh Lạc là của Tầu. Hệ thống Kinh Lạc được người Việt tìm thấy và phải trả giá bằng rất nhiều mạng sống của nhiều thế hệ người Việt. Đây chính là sản phẩm mà ngày nay y học hiện đại gọi là thành tựu của khoa học thực nghiệm trong cơ thể (Invivo). Hệ thống Kinh Lạc không thể tìm thấy bằng sự tưởng tượng “âm dương ngũ hành; thái âm, thái dương…“ trừu tượng Khoa học giải phẫu của Tây y tinh vi là thế nhưng vẫn chưa chụp đựoc ảnh Hệ thống Kinh Lạc. Người ta đã liên hệ với cơ chế hoạt động của hệ thống thần kinh, tuyến nội tiết, hệ Bạch mạch, gần đây nhất người Nhật có thêm cái gọi là ”Tuần kinh cảm truyền” để giải mã Kinh Lạc. Nhưng Kinh Lạc vẫn im lặng tồn tại trong ánh hào quang rực rỡ và bí ẩn. Mấy năm gần đây có nhà khoa học Việt quốc nội đã cả quyết sẽ dùng toán học để giải mã Hệ Kinh Lạc, chắc công việc đang tiến hành. (Người tuyên bố là Tiến sĩ H.P ông đã mất rồi!). Hệ thống Kinh Lạc đã được Y học dân gian nước Việt ứng dụng rất lâu đời, đặc biệt là lĩnh vực dược học. Người ta thường thấy các Lang ta chế tẩm thuốc rất cầu kỳ, cho rằng các thủ thuật đó mang tính lừa bịp, thần bí hóa thuốc chữa bệnh. Thực chất việc sao tẩm thuốc là nhằm cho thuốc “quy kinh”, tức là dùng kỹ thuật dược lý để đưa thuốc vào đúng ổ bệnh. Đây là một bí quyết độc đáo mà dược học Tây y đang nghiên cứu để ứng dụng. Phương hướng phát triển khoa học dược học hiện đại đang đi theo hướng này trong thế kỷ thứ 21. Tây y đang kỳ vọng vào “công nghệ na nô”, chế tạo ra các robốt siêu nhỏ bằng vật liệu hữu cơ để đưa thuốc vào đúng ổ bệnh không phân tán thuốc ra các tế bào lành. Trung y cũng nói rất nhiều về các vị thuốc uống khi vào bụng sẽ vào kinh nào đó trong cơ thể, nhưng vẫn chưa đủ thực chứng để thuyết phục. Do phải hành nghề y học dân tộc dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm, chữ viết của người Việt cổ bị chúng tiêu hủy đến tuyệt diệt, nên người Việt phải truyền nghề cho nhau bằng truyền khẩu. Để dễ thuộc và nhớ lâu các kiến thức đó được lồng vào những chuyện ly kỳ và huyền ảo. Phải đợi đến khi nghĩ ra mẹo dùng chữ Tầu để nói tiếng Ta, đó là chữ Nôm, tri thức y học dân tộc mới được ghi chép thành văn. (Có lẽ câu chuyện dân gian “Hồn Trương Ba, da anh hàng thịt” là nhằm thể hiện sự uất ức này của người Việt chăng ? Nếu các nhà nghệ thuật khai thác vốn cổ theo hướng này thì vở kịch “Hồn Trương Ba da anh Hàng thịt” sẽ có âm hưởng “bi hùng”, chứ không “bi hài” cười cợt dẽ dãi như đã thấy hiện nay). Nhân thể nói thêm: Gia tộc tôi không thích chữ Nôm, cụ tôi nói với bố tôi: “Nhìn vào mặt nó mà nói tiếng của mình, tao thấy nhục lắm, nhưng vẫn phải dùng thôi, méo mó có hơn không! Chữ Nôm là cái áo quá hẹp trên “cơ thể tư duy phức tạp” đồ sộ của tiếng Việt. Chính vì lẽ đó mà sau khi có chữ Nôm (khoảng từ thế kỷ thứ X) tới 700 năm sau các văn nhân thi sĩ nước Việt mới chịu dùng chữ Nôm để sáng tác văn chương. Yêu nước, ai hơn được Phan Châu Trinh, vậy mà Người có chịu dùng chữ Nôm đâu! Một dân tộc thông tuệ như dân tộc Việt mà đến thế kỷ thứ X mới có chữ viết là chữ Nôm sao!? Thời Hùng Vương lẫy lừng như thế, Thục Phán An Dương Vương là cháu Vua Hùng đã đánh tan đội quân xâm lược Nhà Tần do Đồ Thư làm chủ soái, khiến “Quân Tần thây phơi máu chảy hàng mấy chục vạn người” (Sách Hoài Nam Tử đời Hán viết như vậy). Những con người lập chiến công lớn như thế mà mù chữ sao? Vào thời bấy giờ tiếng Hán và chữ Hán đâu đã có ở nước Âu Lạc. Khác với các ngành khoa học khác chịu nạn “Tam sao thất bản” y học lấy thực tế chữa bệnh để kiểm chứng nên còn lại đến ngày nay kho tàng trí tuệ y Việt rất lớn. Tài sản y học thuần Việt đó đã được ghi chép từ rất sớm thâm trầm lặng lẽ trong dân gian và được giữ kín trong mỗi gia đình, rộng ra một chút là họ tộc. Hiện tượng ghi chép của Tuệ Tĩnh chỉ là chỉ báo cho biết có việc ghi chép đó. Sở dĩ lịch sử thành văn chính thống hiện nay coi Tuệ Tĩnh là ông tổ của y học Dân tộc vì sự ghi chép của Tuệ Tĩnh lần đầu tiên công khai giữa thiên hạ mà thôi. Theo như lời bố tôi dặn dò: ông nội tôi khi truyền nghề cho bố tôi có dặn rằng: các bài thuốc ghi trong các tác phẩm Hồng Nghĩa Giác Tư Y Sư; Nam dược thần diệu đã lai Tàu rồi. Ông Cụ chỉ tâm đắc một câu của Lê Hữu Trác tuyên bố: ”Đọc sách của Trọng Cảnh, nhưng không theo phương của Trọng Cảnh” mà thôi. Với lịch sử y học dân tộc thành văn, Tuệ Tĩnh được coi là ông tổ của thuốc Nam có lẽ hậu thế cần kiểm định. Nhưng có một điều chắc chắn cần nói rõ: nếu chỉ căn cứ vào các bài thuốc, vị thuốc trong các tác phẩm của Tuệ Tĩnh để nói rằng: y Việt cổ truyền chỉ có thế thôi là xúc phạm đến “Văn hiến Đại Việt ta” đó. Vào những năm đầu công nguyên nước Việt ta lúc đó mới có khoảng 1 triệu người, dân số nước Trung Quốc có khoảng 50 triệu người. So sánh dân số nước ta với Trung Quốc thì dân số nước ta chỉ bằng 2%. Đầu thế kỷ 21 dân số Trung Quốc là 1,3 tỷ người, dân số nước ta kể cả đồng bào đang sống ở nước ngoài là 84 triệu người. So sánh thì dân số nước ta với Trung Quốc là 6,45%.Như vậy là sau hai nghìn năm đấu tranh để sinh tồn giữa hai dân tộc sống cạnh nhau thì sức phát triển dân số nước ta trội hơn dân tộc Trung Quốc là 4,45%. Chỉ số sống sót vượt trội qua 2000 năm sâu sắc biết bao. Một dân tộc nhỏ, duy trì được nòi giống bên cạnh người hàng xóm khổng lồ mà ở tất cả các triều đại từ thượng cổ đến hiện đại luôn bắt nạt ta, xua quân đánh phá nước ta, mà dân tộc ta vẫn có chỉ số sống sót vượt trội kẻ bắt nạt mình 4,45%, điều đó không đáng được tự tôn rất khiêm nhường là dân tộc Đại Việt sao? Một dân tộc tồn tại và phát triển trong một môi trường vô cùng bất lợi như thế mà có chỉ số sống sót cao như thế, nếu không có một nền y học tự nó, uyên thâm và hiệu quả thì dân tộc ta có được chỉ số sống sót hào hùng như thế không? Dân tộc Việt mới chỉ được hưởng thành quả của y học bác học từ sau Cách Mạng Tháng Tám năm 1945, đến nay mới có 67 năm. Gần 2000 năm trước dân tộc ta chữa bệnh bằng y học dân gian là chính. Trung y chỉ có mặt ở các nhà giàu. Một nền y học dân gian với bề dầy lịch sử lớn như thế, hiệu quả như thế lại là vô tri sao? Sau Tuệ Tĩnh từ Lê Hữu Trác y học dân tộc bị lấn áp trước nền y học Trung Hoa đồ sộ được các nhà nho du nhập vào. Trung y được giai cấp phong kiến thống trị chọn làm chính thống và trở thành ngành y học bác học của quốc gia. Tới triều Nguyễn, Nho học và Trung y vẫn ngự trị. Đến thời Pháp thuộc Tây y lấn áp Trung y. Sau Cách Mạng Tháng 8 năm 1945 Nhà nuớc Dân Chủ Nhân Dân có cái nhìn hài hoà giữa Tây y và Trung y với chỉ đạo Đông Tây y kết hợp trị bệnh. Nhưng một thời gian dài đã coi Trung y là y học Dân tộc cổ truyền. Tổ quốc đang có một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá không chỉ về ý nghĩa văn hoá nhân văn mà cả về kinh tế nữa chưa được khai thác. Nếu nguồn tài nguyên này được khai thác, nó có đủ năng lực tham gia vào nền kinh tế trí thức mà nhân loại đang nô nức đi vào. Còn tiếp ... Nguồn: vietycotruyen.com
  17. "Lộ" sai sót mới tại CK Đường lên đỉnh Olympia 2012? Tiếp sau câu hỏi được BTC thừa nhận "thiếu chặt chẽ", nghi ngờ có những sai sót mới trong câu hỏi của trận chung kết “Đường lên đỉnh Olympia 2012” lại nổi lên... >> Sai đề Olympia: Hứa “rút kinh nghiệm”, BTC không hủy kết quả CK Tiếng Latinh hay tiếng Ý? Theo phản ánh của độc giả, rất có thể có thêm những sai sót mới trong trận chung kết “Đường lên đỉnh Olympia 2012”. Ở câu hỏi đầu tiên của phần thi Vượt chướng ngại vật, MC Tùng Chi đưa gợi ý về từ hàng ngang thứ 5 gồm 6 chữ cái: "Ngôn ngữ chính thức của Vatican là tiếng gì?". Hai bạn Ngọc Khánh và Lê Phương đều đưa câu trả lời là "Italia", trong khi Thái Hoàng có đáp án là "Tiếng Ý". Đáp án cuối cùng cho vòng chướng ngại vật: "Ngôn ngữ chính thức của Vatican là tiếng La Tinh". Theo phản ánh của độc giả, đáp án là “tiếng Ý” hay tiếng Italia có thể chấp nhận được. "Latinh là ngôn ngữ viết, không ai sử dụng để nói cả. Nếu vậy thì không thể coi Latinh là ngôn ngữ chính xác của Vatican được", một độc giả phân tích. Câu hỏi gây tranh cãi khiến "Đường lên đỉnh Olympia 2012" chưa thể yên. Xung quanh nghi vấn sai sót mới trong câu hỏi của chương trình Chung kết “Đường lên đỉnh Olympia”, PV đã liên lạc với PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn (Chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ học, ĐH KHXH&NV - ĐHQGHN) để tìm hiểu cụ thể. PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn giải thích: “Ngôn ngữ chính thức là ngôn ngữ đã được xác nhận tình trạng pháp lý riêng tại mỗi quốc gia, mỗi tiểu bang và lãnh thổ (được qui định trong hiến pháp hoặc luật ngôn ngữ) và là ngôn ngữ được dùng trong các cơ chế hành pháp (văn bản hành chính, pháp luật) của một quốc gia". Đối với trường hợp tiếng Anh ở Mỹ thì Hiến pháp Mỹ không qui định tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức nhưng trên thực tế tiếng Anh được sử dụng như một ngôn ngữ chính thức. Theo cách hiểu về ngôn ngữ chính thức trên đây thì có sự khác biệt về ngôn ngữ chính thức ở thành Vatican (Vatican city) và Tòa thánh Vatican (Holy See, nằm trong Vatican city). Ở thành Vatican, luật không qui định ngôn ngữ nào là ngôn ngữ chính thức nhưng tiếng Ý (Italiano) được dùng chủ yếu trong giao dịch hành chính (và giao tiếp hàng ngày) nên được coi như ngôn ngữ chính thức. Ở Tòa thánh Vatican, ngôn ngữ chủ yếu được dùng trong các văn bản quan trọng nhất (tôn giáo, hành chính) là tiếng Latin nên có thể coi đây là ngôn ngữ chính thức, còn ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày vẫn là tiếng Ý. Vì vậy, câu hỏi “ngôn ngữ chính thức của Vatican là gì?" là một câu hỏi mơ hồ, có thể hiểu theo 2 cách: hỏi về ngôn ngữ chính thức của thành Vatican hoặc hỏi về ngôn ngữ chính thức của Tòa thánh Vatican. Và vì vậy cả hai câu câu trả lời - tiếng Ý/Italiano (ngôn ngữ chính thức của thành Vatican) và tiếng Latinh (ngôn ngữ chính thức của Tòa thánh Vatican) đều đúng cả. Các ô hàng ngang phần thi Vượt chướng ngại vật được mở. “Tiếng Việt” hay “Tiếng Việt hiện đại”? Từ dữ liệu là tiếng Latinh và 6 thanh điệu ở hai ô hàng ngang, thí sinh Thái Hoàng đưa ra đáp án ô bí ẩn chương trình là “Tiếng Việt” và nhận được 80 điểm của phần thi này. Tuy nhiên, TS Phan Quốc Linh ( từ CH Bulgaria) lại cho rằng rừ khóa "Tiếng Việt hiện đại “mới là đáp án đúng cho phần thi này Sau đây là phần phân tích của TS Linh. “Bằng vào những từ khóa trong hàng ngang của phần thi Vượt chướng ngại vật, MC giải thích rằng tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Latinh. Đây là nhận thức sai lầm về tiếng Việt, do vậy, từ khóa cũng sai nốt, đồng nghĩa là phần thi này cũng không còn giá trị. Các câu hỏi các từ hàng ngang trong phần thi Vượt chướng ngại vật đều cho thấy mối liên hệ và quan hệ đến những biểu trưng của “Tiếng Việt hiện đại” mà không thể nói là “Tiếng Việt” chung chung được.Vì sao? Ngôn ngữ gồm hai bộ phận: ngôn ngữ nói (tiếng nói) và ngôn ngữ viết (ngôn ngữ ký tự). Tiếng Việt (tiếng nói) thuộc hệ Nam-Á,nhóm Môn-Khmer, nhánh Việt-Mường. Trong quá trình phát triển lâu đời, tiếng Việt trải qua quá trình sử dụng ký tự thuộc các ngữ hệ khác nhau, đầu tiên là chữ Hán, chữ Nôm, và về sau này (vào đầu thế kỷ 19) cho đến ngày nay, là chữ cái Latinh. Chỉ mới điểm qua vài nét hết sức sơ lược về lịch sử phát triển của tiếng Việt, cũng đã cho thấy rằng việc BTC đã “ngắt đoạn” tiếng Việt chỉ là từ khi sử dụng ký tự Latinh, là không thỏa đáng. Lý do chúng tôi gọi đây là “Tiếng Việt hiện đại”, cũng là điều dễ hiểu. Bởi vì việc sử dụng ký tự La tinh để ghi lại tiếng nói trong tiếng Việt cũng đồng thời với thời kỳ Việt nam giao lưu với thế giới hiện đại, đòi hỏi ngôn ngữ cũng phải thích ứng theo. Như vậy, có thể coi ngôn ngữ tiếng Việt trước đó là đã cũ, lỗi thời, việc thay bằng ký tự La tinh, thể hiện một bước phát triển mới, xét trong tiến trình phát triển nội tại của chính nó (tiếng Việt). Nếu gọi là “Chữ Quốc ngữ”, theo cách gọi chính thống, e rằng chỉ mới nói đến tiếng Việt theo quan niệm hành chính sự vụ, nghĩa là phải chờ đến lúc tiếng Việt (với ký tự chữ cái La tinh) được công nhận chính thức, được sử dụng rộng rãi, đại trà. Gọi là "Tiếng Việt hiện đại” chúng tôi có chủ ý muốn khẳng định sự hiện diện của ký tự La tinh đúng như nó xuất hiện ở tiếng nước ta ngay từ buổi đầu” Tuy nhiên, theo ý kiến của PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn: “Các dữ kiện về tiếng Việt được đưa ra (qua các ô hàng ngang) bao gồm cả dữ kiện đồng đại (hiện đại) và lịch đại (lịch sử)”. Trong đó, dữ kiện đồng đại bao gồm: (dùng chữ hệ) Latinh; 29 (chữ cái); 6 (thanh điệu); (từ đơn dài nhất là) NGHIÊNG. Bên cạnh đó, dữ kiện lịch đại bao gồm: (dùng) chữ Nôm, Hán. Dữ kiện đồng đại và lịch đại bao gồm: (thuộc nhánh) Việt Mường; (thuộc ngữ hệ) Nam Á Vì vậy đáp án “Tiếng Việt” là đúng vì nó thỏa mãn cả ba dữ kiện đưa ra nêu trên. Nếu nói “Tiếng Việt hiện đại” thì không thỏa mãn dữ kiện về lịch đại (chữ Nôm, Hán thể hiện ở hàng ngang thứ 4 và thứ 6). MC Tùng Chi "ba hoa" phản khoa học Tuy nhiên, theo PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn: “Trong câu “ba hoa” về Tiếng Việt, MC Tùng Chi đã có những nhận xét phản khoa học, chẳng hạn: Nhầm tiếng và chữ: ban đầu chúng ta chỉ có tiếng Hán, sau đó chúng ta có tiếng Nôm (đúng ra phải nói là dùng chữ Hán, chữ Nôm)”. Bên cạnh đó, MC Tùng Chi còn nhầm chữ cái với âm tiết: từ đơn dài nhất trong tiếng Việt là từ NGHIÊNG, có 7 âm tiết (đúng ra phải nói là có 7 chữ cái) “Đây là những sai sót không nên xảy ra và hoàn toàn có thể tránh được nếu BTC làm việc cẩn thận và biết tranh thủ ý kiến của các chuyên gia”, PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn nói. Theo TS Phan Ngọc Linh - Phạm Thịnh VTC Nguồn: Báo Dân trí PS: Nếu các vị tham gia Hội thảo chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền thì chắc không có sai sót như trên.
  18. Kính thưa Sư phụ Thiên Sứ, đọc bài viết của Thầy con hiểu rõ hơn về Việt sử 5000 văn hiến của dân tộc và quan trọng hơn là những bài viết của Thầy cho thấy các luận điểm sai lầm về nghiên cứu. Con cảm ơn nội dung các bài viết của Thầy cho con rõ hơn về chân lý. Kính.
  19. Thanhdc xin đăng ký ghi danh học.
  20. Tai nạn tăng nặng......... ================= Ba Lan: Hai tàu hỏa lao đầu vào nhau, hơn 70 người thương vong Chủ Nhật, 04/03/2012 - 08:10 (Dân trí) - 14 người thiệt mạng và ít nhất 60 người bị thương khi hai tàu hỏa lao đầu vào nhau ở miền nam Ba Lan vào tối qua. Hiện trường vụ tai nạn. Theo đài truyền hình Ba Lan, vụ tai nạn xảy ra vào tối qua, trên tuyến đường chính Warsaw-Krakow ở thị trấn nhỏ Szczekociny. Hai tàu cao tốc, trong đó có một tàu chạy nhầm đường ray, đã đối đầu vào nhau. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk đã lên đường tới hiện trường vụ tai nạn cùng với 3 bộ trưởng nội các. “Đây có vẻ như là một trong những vụ tai nạn tàu hỏa nghiêm trọng nhất trong những năm gần đây”, Bộ trưởng Giao thông Slawomir Nowak cho biết trên kênh tin tức TVN24. “Đã có người tử vong và rất nhiều người bị thương”, ông cho hay khi đang trên đường tới hiện trường cùng với Thủ tướng Tusk.Cảnh sát cho hay một số hành khách vẫn còn bị mắc kẹt trong đống đổ nát của tàu. Trực thăng cứu hộ từ Warsaw và Wroclaw đang hỗ trợ đưa người bị thương tới bệnh viện. 3 toa bị bẹp rúm Nhiều người bị mắc kẹt bên trong các toa tàu bị bẹp rúm. Vụ tai nạn xảy ra vào 21h15 tối qua khi một đoàn tàu chạy về hướng bắc từ Przemysl tới Warsaw va chạm với tàu chạy về phía nam từ Warsaw tới Krakow. Tại thời điểm xảy ra vụ tai nạn một đường ray ở nhà ga Szczekociny đang được bảo dưỡng theo kế hoạch. Tàu Krakow đã đi nhầm đường ray, Andrzej Pawlowski, thành viên của ban giám đốc công ty đường sắt nhà nước PKP cho hay trên đài truyền hình TVN24. 3 toa được cho là đã bị hư hại nghiêm trọng và công tác cứu hộ hiện đang tập trung tại đó để tìm kiếm hành khách. 3 toa đã bị “phá hủy hoàn toàn- bẹp rúm”, một nhân chứng cho biết trên tờ Gazeta Wyborcza. Một hành khách khác ước tính tàu của ông đi với vận tốc khoảng 120km/h khi đột ngột phanh gấp. “Rồi sau đó chúng tôi cảm thấy một tiếng va chạm mạnh, chúng tôi bị bắn tung người khắp toa”, hành khách cho hay trên TVN24. Video hiện trường vụ tai nạn: Vũ Quý Theo BBC
  21. Kim tự tháp giá 5 tỷ USD Cập nhật 27/02/2012 09:25:00 AM (GMT+7) Dù có huy động cần cẩu, trực thăng, xe tải và máy kéo với số lượng lớn, việc xây dựng một kim tự tháp như Đại Kim tự tháp Giza ngày nay vẫn vô cùng khó. Trong mắt nhiều người, việc kim tự tháp này được xây dựng cách đây 4500 năm vẫn giống như một phép lạ hay thậm chí là có liên quan đến bàn tay của người ngoài hành tinh. Tuy nhiên, gần đây đã nổi lên một giả thuyết về việc Đại Kim tự tháp được xây từ trong xây ra, thông qua hệ thống ròng rọc nội bộ hết sức tinh vi và khoa học. Nếu theo đúng kế hoạch xây dựng hoàn hảo đó, chúng ta sẽ có thể tái tạo Kỳ quan của thế giới cổ đại với mức chi phí lên tới 5 tỷ USD. Việc xây dựng một kim tự tháp như Đại Kim tự tháp Giza ngày nay vẫn vô cùng khó. Tại sao lại là một con số khủng khiếp như vậy? Trước hết, hãy nhìn vào các số liệu của Đại Kim tự tháp. Giza dài tổng cộng mỗi cạnh 756 feet, cao 481 feet và bao gồm 2,3 triệu khối đá, mỗi khối nặng xấp xỉ 3 tấn. Như vậy là tổng trọng lượng của nó lên tới 6,5 triệu tấn. Tương truyền toàn bộ công trình đã được hoàn thiện chỉ trong vòng 20 năm, đồng nghĩa với việc mỗi khối đá đã được vận chuyển và đặt vào chỗ của nó chỉ trong vòng 5 phút (nếu cho là việc xây dựng diễn ra 24/24h). Tiến độ đó hiển nhiên đòi sức lao động của hàng ngàn người. Những giả thuyết trước đây về việc người Ai Cập cổ đại dùng hệ thống ròng rọc bên ngoài để xay Giza có nhiều kẽ hở như một ròng rọc như vậy sẽ phải dài hơn một dặm mới đủ sức để kéo được các khối đá nặng. Ngoài ra, nó sẽ cần một khối đá đối trọng nặng gấp đôi Kim tự tháp để cân bằng. Kiến trúc sư Jean-Pierre Houdin tin rằng, chỉ có một phần ba chiều cao của Giza, tính từ đáy lên, là được xây dựng từ những khối đá kéo bằng ròng rọc ngoài. Với 33% khối lượng công việc còn lại, người Ai Cập sẽ đắp cao lên thông qua một hệ thống ròng rọc trong tinh vi. Houdin đã phối hợp với hãng đồ họa 3D Dassault System để phát triển một mô hình ảo của quy trình xây dựng nói trên. Cùng lúc, một nhóm học giả tại Đại học Laval (Quebec) đang dự định quét tia hồng ngoại để xác định có hay không sự tồn tại của mạng lưới ròng rọc bên trong Đại Kim Tự tháp. Có hai điểm khác biệt lớn trong việc xây dựng Kim tự tháp ngày ấy và bây giờ, theo Houdin. Trước hết, thay vì dùng sức người để kéo đá bằng ròng rọc, giờ đây chúng ta sẽ sử dụng những công cụ có động cơ. Thứ hai, đối với phần đỉnh cao nhất của kim tự tháp (khoảng 10-15m trên cùng), bạn có thể dùng một cẩu trục nhỏ. Với sự trợ giúp của phương tiện hiện đại và trực thăng, một Giza của thời hiện đại sẽ đòi hỏi sức người của khoảng 1500-2000 người làm việc ròng rã trong 5 năm. Tổng chi phí ước tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Để so sánh, tòa nhà One World Trade Center cao 1776 feet ở trung tâm Manhattan (Mỹ) cũng chỉ có chi phí xây dựng khoảng 4 tỷ USD. Y Lam Nguồn: vietnamnet
  22. Bài thơ " Lịch Sử nước ta " của Hồ Chủ Tịch Để khơi gợi lòng tự hào dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài kêu gọi "Lịch sử nước ta". Bài gồm 210 câu thơ lục bát, dễ thuộc, dễ hiểu, phù hợp với nhân dân Việt Nam lúc đó với trên 90% dân số mù chữ. Bác đã viết tác phẩm này năm 1941, tại rừng Pác Bó, khi Người đang hoạt động cách mạng tại căn cứ địa Cao Bằng Lịch sử nước ta Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà. Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang Thiếu niên ta rất vẻ vang Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời. Tuổi tuy chưa đến chín mười Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương. An Dương Vương thế Hùng Vương Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân. Nước Tàu cậy thế đông người Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam Quân Tàu nhiều kẻ tham lam Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi? Hai Bà Trưng có đại tài Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian Ra tay khôi phục giang san Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta Tỉnh Thanh Hoá có một bà Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi. Tài năng dũng cảm hơn người Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương. Phụ nữ ta chẳng tầm thường Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời. Kể gần sáu trăm năm giời Ta không đoàn kết bị người tính thôn. Anh hùng thay ông Lý Bôn Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người. Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền. Vì Lý Phật Tử ngu hèn Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta. Thương dân cực khổ xót xa Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu. Vì dân đoàn kết chưa sâu Cho nên thất bại trước sau mấy lần. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm. Đến hồi thập nhị sứ quân Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn. Động Hoa Lư có Tiên Hoàng Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh. Ra tài kiến thiết kinh dinh, Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời. Lê Đại Hành nối lên ngôi Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành. Vì con bạo ngược hoành hành Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương. Công Uẩn là kẻ phi thường Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta. Mở mang văn hoá nước nhà Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân. Lý Thường Kiệt là hiền thần Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành. Tuổi già phỉ chí công danh Mà lòng yêu nước trung thành không phai. Họ Lý truyền được chín đời Hai trăm mười sáu năm giời thì tan. Nhà Trần thống trị giang san, Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài, Quân Nguyên binh giỏi tướng tài: Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu, Tung hoành chiếm nửa Âu châu Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la, Lăm le muốn chiếm nước ta Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ, Hải quân theo bể kéo đi, Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm. Dân ta nào có chịu hèn Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu. Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu, Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang. Mênh mông một dải Bạch Đằng Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh, Hai lần đại phá Nguyên binh, Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời. Quốc Toản là trẻ có tài, Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền Mấy lần đánh thắng quân Nguyên Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung. Thật là một đấng anh hùng. Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo. Đời Trần văn giỏi võ nhiều Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh. Mười hai đời được hiển vinh, Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi. Cha con nhà Hồ Quý Ly, Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên. Tình hình trong nước không yên, Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu, Bao nhiêu của cải trân châu, Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn. Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn. Mấy phen sông Nhị núi Lam, Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng. Kìa Túy Động nọ Chi Lăng, Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành. Mười năm sự nghiệp hoàn thành, Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan. Vì dân hăng hái kết đoàn, Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng. Vua hiền có Lê Thánh Tôn, Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành. Trăm năm truyền đến cung hoàng, Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi. Bấy giờ trong nước lôi thôi, Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà, Bảy mươi năm vạn can qua Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi. Từ đời mười sáu trở đi, Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau, Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng. Dân gian có kẻ anh hùng, Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn, Đóng đô ở đất Quy Nhơn, Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền Nhà Lê cũng bị mất quyền, Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu, Ông đà chí cả mưu cao, Dân ta lại biết cùng nhau 1 lòng. Cho nên tàu dẫu làm hung, Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà. Tướng tây Sơn có một bà, Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân, Tay bà thống đốc ba quân, Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là. Gia Long lại dấy can qua, Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài. Tự mình đã chẳng có tài, Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây. Nay ta mất nước thế này, Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà, Khác gì cõng rắn cắn gà, Rước voi dầy mả thiệt là ngu si. Từ năm Tân Hợi trở đi, tây đà gây chuyện thị phi với mình. Vậy mà vua chúa triều đình, Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai. nay ta nước mất nhà tan Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn. Năm Tự Đức thập nhất niên, Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây. Hăm lăm năm sau trận này, Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan, Ngàn năm gấm vóc giang san, Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây ! Tội kia càng đắp càng đầy, Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng. Nước ta nhiều kẻ tôi trung, Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương. Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương, Cùng thành còn mất làm gương để đời. Nước ta bị Pháp cướp rồi, Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng; Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương. Mấy năm ra sức cần Vương, Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên, Giang san độc lập một miền, Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành. Anh em khố đỏ, khố xanh, Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa, Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa, Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn. Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu. Nam Kỳ im lặng đã lâu, Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây. Bắc Sơn đó, Đô Lương đây! Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn. Xét trong lịch sử Việt Nam, Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng. Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông, Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên. Ngày nay đến nỗi nghèo hèn, Vì ta chỉ biết lo yên một mình. Để người đè nén, xem khinh, Để người bóc lột ra tình tôi ngươi ! Bây giờ Pháp mất nước rồi, Không đủ sức, không đủ người trị ta. Giặc Nhật Bản thì mới qua; Cái nền thống trị chưa ra mối mành. Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh, Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà. Ấy là nhịp tốt cho ta, Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông. Người chúng ít, người mình đông Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên. Hỡi ai con cháu Rồng Tiên ! Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau. Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu, Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn. Người giúp sức, kẻ giúp tiền, Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta. Trên vì nước, dưới vì nhà, Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh. Chúng ta có hội Việt Minh Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh Mai sau sự nghiệp hoàn thành Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ! Nguồn: hoangsa.org.
  23. Thanh Hóa: Chủ Nhật, 08/01/2012 - 14:40 Tết “năm cùng” của người Dao (Dân trí) - Hàng năm, cứ đến đầu tháng 12 Âm lịch trở đi, khi mùa màng đã thu hoạch xong, mỗi gia đình người Dao lại tổ chức ăn Tết “năm cùng”, để báo công với ông bà tổ tiên thành quả của một năm lao động của gia đình... Phong tục của người xưa Trong một năm, theo phong tục của người Dao có 3 cái Tết quan trọng là tết Thanh minh, rằm tháng Bảy và Tết năm cùng nhưng quan trọng nhất vẫn là Tết năm cùng. Vì đây là dịp báo cáo với ông bà tổ tiên về một năm lao động của gia đình, dòng họ. Để chuẩn bị cho ngày Tết, gia đình người Dao chuẩn bị rất nhiều thịt lợn. Đối với cộng đồng người Dao sống ở miền Tây Thanh Hóa nói chung và người Dao ở huyện Cẩm Thủy nói riêng, cuối năm là dịp để con cháu đi làm ăn xa trở về báo hiếu với gia đình và dòng họ. Ngay từ đầu tháng 12 Âm lịch, tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình để tổ chức một cái Tết thật linh đình. Đây là dịp để anh em họ hàng tập trung nhau lại để góp cỗ làm Tết cho thật to, nhà ai có gì góp nấy, nhưng quan trọng nhất là trưởng họ. Từ đầu tháng 9 Âm lịch, trưởng họ đã phải chuẩn bị gạo nếp ngon, nuôi lợn, nuôi gà để cuối năm khao cả họ. Nếu năm nào họ hàng và bạn bè đến đông thì Tết được xem là đầm ấm và đông vui. Gia đình ông Phùng Văn Thái ở thôn Sơn Lập, xã Cẩm Châu, năm nay cũng tổ chức Tết năm cùng, nhưng không được to như mọi năm vì một năm qua, gia đình ông làm ăn không được thuận buồm xuôi gió. Để chuẩn bị cho cái Tết quan trọng này, gia đình ông cũng nuôi được con lợn 60kg và một yến gà để làm lễ báo cáo với tổ tiên về một năm lao động vất vả. Năm nay tất cả họ hàng nội ngoại trong gia đình ông đều có mặt đông đủ, lợn đã thịt sẵn, chỉ chờ các cụ cao tuổi có chức sắc đến làm lễ cúng báo cáo ông bà tổ tiên. Nét đặc biệt nhất của Tết năm cùng là làm bánh dầy. Đây là truyền thống lâu đời của người Dao. Mỗi khi đến Tết, những trai làng khoẻ mạnh nhất, nhiệt tình nhất đều có mặt để tham gia vào việc giã bánh. Ngay giữa mùa đông lạnh giá nhưng để giã được một khối bánh, các thanh niên khoẻ mạnh, ai nấy cũng vã mồ hôi. Bánh dầy được làm từ gạo nếp đồ thành xôi chín rồi đổ vào cối đá cho 4-5 thanh niên cùng nhau giã, họ giã đến khi nào những hạt cơm nếp nhuyễn ra tạo thành một khối dẻo dứt không ra mới thôi. Sau đó bột được nặn thành từng cái một chấm với muối vừng ăn. Để bánh ngon hơn, dẻo hơn thì trước đó nhà chủ phải chọn gạo nếp thật ngon, ngâm từ đêm hôm trước đến hôm sau mới mang ra đồ, có như vậy thì bánh mới để được lâu. Mẻ bánh đầu tiên tất cả mọi người không ai được nếm hay thử vì đây là mẻ bánh dành để cúng ông bà tổ tiên, từ mẻ bánh thứ hai trở đi mọi người mới được ăn, các cụ cao tuổi là người được thử trước. Bữa cơm ấm cúng ngày Tết của người Dao. Đối với người Dao thì nghi lễ báo công phải mời các thầy cúng có chức sắc trong làng đến tham gia làm lễ, họ là những người có mặt sớm nhất để lo cho buổi lễ khỏi thiếu sót. Người Dao trong không quan trọng vật lễ, gia đình có gì thì cúng cái đó. Tuỳ vào điều kiện kinh tế từng gia đình, nhà ai có điều kiện làm càng to càng tốt nhưng đầu lợn và gà trống, bánh dầy là những thứ không thể thiếu. Từ đầu thang 12 Âm lịch trở đi, bà con người Dao đã được sống trong không khí những ngày Tết tràn đầy hạnh phúc và vui tươi, trong nhà ngoài ngõ ai ai cũng mang trong mình một hơi men ngày Tết. Với họ Tết năm cùng là quan trọng nhất. Bao nhiêu tiền của để dành trong một năm cũng dồn vào đây hết. Trong một năm, mỗi trưởng họ đều chuẩn bị 30 - 40 triệu để lo cho 3 cái tết: Thanh Minh, Rằm tháng 7 và Tết năm cùng, tốn kém nhưng nhà ai cũng làm vì họ cho rằng đây là truyền thống ông cha để lại. Bữa cơm ngày Tết Sau khi tất cả những lễ vật được bày trước bàn thờ gia tiên, thầy cúng có chức sắc nhất đứng trước bàn thờ cầm “Gậy thần” (chiếc gậy có một đầu nhọn bịt bằng sắt, đầu kia tiện hoa văn rất đẹp, luôn đặt ở vị trị trang trọng nhất của bàn thờ) và một cành lá tươi, đại diện cho gia chủ báo cáo quá trình một năm lao động và xin gia tiên phù hộ cho một năm mới đạt được nhiều thành tựu hơn. Sau khi cành lá được thầy cúng cắm ra trước cửa thì lần lượt các thầy cúng khác kế tiếp nhau vào làm lễ, cứ như vậy sau 2 tiếng đồng hồ thì lễ vật được mang xuống dọn ra mâm cho con cháu cùng ăn. Tất cả mọi đồ ăn đều phải đựng trong lá chuối. Trong lễ cúng tổ tiên, người Dao không dùng hương để đốt mà dùng một thứ vỏ cây mỏng rất thơm mua về bỏ vào một cái chén nhỏ. Mỗi lần đốt một cái vỏ cây lại phải dùng một viên than hồng để đốt cùng, cho đến khi nào cái chén đầy than và vỏ hương mới thôi. Mâm cơm Tết năm cùng cũng rất đặc biệt. Thầy cúng và các vị chức sắc trong làng được bố trí ngồi cao nhất và được phép ăn trước, sau đó lần lượt đến khách mời của bố mẹ, con cái và anh em nội ngoại. “Mỗi dịp cuối năm ai đi xa cũng vậy, rất nhớ những lễ tết năm cùng. Tục lệ đã ăn sâu vào mỗi thế hệ con người nơi đây rồi cứ đến ngày này ai cũng thấy phấn khởi nô nức để về dự tết với gia đình”, anh Phùng Văn Tuấn chia sẻ. Theo tục của người Dao thì tất cả thức ăn đều phải để trên lá chuối tươi, cho dù nhà có điều kiện bao nhiêu đi nữa thĩ cũng phải làm như vậy. Trong mâm cơm Tết năm cùng này, thứ nước luộc từ thịt lợn là ngon nhất mà bất kỳ một khách mời nào đến cho dù có khó tính mấy cũng không thể chê được. Nước chấm cũng làm từ nước luộc thịt nhưng lại cho hành sống làm gia vị vì quan điểm trong mâm cỗ có gì thì chế biến từ thứ đó ra để dùng, vừa lành lại vừa ngon. Thầy cúng cầm gậy thần báo công với ông bà tổ tiên. Trước khi dùng bữa, mọi người cùng nâng chén, trưởng họ phải đi một vòng mời rượu để báo cáo với bà con họ hàng về bữa cơm Tết năm cùng này để mọi người cùng phấn đấu hơn trong năm sau. Chia tay gia đình ông Thái, chia tay với không khí Tết năm cùng của đồng bào người Dao, không khí của một mùa xuân mới đang tràn ngập khắp các bản làng nơi đây. Chúc cho tất cả bà con nơi đây đón một năm mới hạnh phúc, ấm no hơn và quan trọng nhất là những nét đẹp văn hoá mang đầy bản sắc dân tộc của người Dao được gìn giữ và bảo tồn. Hồ Điệp - Duy Tuyên
  24. CUNG kính mời nhau chén rượu nồng. CHÚC mừng năm đến, tiễn năm xong. TÂN niên phúc lộc khơi vừa dạ. XUÂN mới tài danh khởi thỏa lòng. VẠN chuyện lo toan thay đổi hết. SỰ gì bế tắc thảy hanh thông. NHƯ anh, như chị, bằng bè bạn. Ý nguyện trọn đời đẹp ước mong. Chúc mừng năm mới Nhâm Thìn.
  25. "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" 08/01/2012 07:34:00 - Trong dân gian vẫn truyền tụng câu "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" hay "Mùng năm, mười bốn, hai ba, Đi chơi cũng thiệt huống là đi buôn" để chỉ những ngày xấu, không may mắn. Vậy điều này có đúng không? Lý giải như thế nào? Đã tồn tại 3.000 năm Tôi đem câu chuyện chọn ngày của anh Hùng tới gặp lương y Vũ Quốc Trung - người đã dày công nghiên cứu và từng xuất bản sách về chủ đề này. Ông cho rằng, đó là tâm lý dễ hiểu và không phải là hiếm trong xã hội. "Trong cổ học phương Đông, người ta thường chọn ngày tốt để bắt đầu một công việc gọi là khởi sự, bởi họ tin rằng "đầu có xuôi thì đuôi mới lọt", chọn ngày tốt sẽ tạo cho họ niềm tin là công việc được thuận lợi. Sở dĩ có câu "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" là vì theo quan niệm dân gian, đó là ngày "Tam Nương sát". Điều này xuất phát từ thời xa xưa, khi người ta gặp những chuyện không hay như làm nhà bị sập, gây chết người hoặc làm công việc hệ trọng như cưới hỏi, đi xa nhưng không thành. Lâu dần người ta đúc kết được rằng, vào những ngày cụ thể nào đó sẽ không tốt để làm việc lớn. Từ đó có quan niệm về ngày tốt, ngày xấu. Cứ thế, quan niệm đó truyền từ đời này qua đời khác và cho đến tận hôm nay", ông Trung lý giải.Cũng theo ông Trung, việc chọn ngày giờ tốt đã có từ 3.000 năm nay. Điều này được ghi trong sách Thông thư của Trung Quốc. "Nói thế để thấy rằng, việc chọn ngày tốt - xấu không đơn thuần là một trò mê tín mà còn dựa trên những cơ sở thực tế", ông Trung nhấn mạnh. Tại sao lại tránh ngày 3, 5, 7, 14, 23 âm lịch? Theo ông Trần Ngọc Kiệm, chuyên gia phong thủy, sở dĩ có câu "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" là vì theo quan niệm dân gian, đó là ngày "Tam Nương sát". "Thượng tuần sơ Tam dữ sơ Thất (đầu tháng ngày 3, ngày 7), trung tuần Thập tam Thập bát dương (giữa tháng ngày 13, 18), hạ tuần Chấp nhị dữ Chấp thất (cuối tháng ngày 22, 27", đó là những ngày được cho là xuất hành hoặc khởi sự đều vất vả, không được việc. Ngoài ra, người Việt Nam cũng có quan niệm cho rằng, vào những ngày đó, Ngọc Hoàng sai 3 cô gái xinh đẹp (Tam nương) xuống hạ giới để làm mê muội và thử lòng con người. Nếu ai gặp phải sẽ bị các cô làm cho bỏ bê công việc, đam mê tửu sắc, cờ bạc... Đồng thời, đó cũng là một lời nhắc nhở con cháu nên làm chủ trong mọi hoàn cảnh, chịu khó học tập, cần cù làm việc. Còn các ngày 5, 14, 23 lại được cho là ngày Nguyệt kỵ. Các ngày này cộng lại đều bằng 5, dân gian thường gọi là ngày "nửa đời, nửa đoạn" nên làm gì cũng chỉ giữa chừng, khó đạt được mục tiêu. Ông Kiệm cũng cho biết thêm, phi tinh trong cửu cung bát quái gồm có nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử. Trong số cửu tinh này thì sao ngũ hoàng (thuộc trung cung) được cho là xấu nhất, vận sao ngũ hoàng bay tới đâu mang họa tới đó. Cứ theo phi tinh 9 cung lại quay trở về ngũ hoàng. Đặc biệt nhất là ngày 5 tháng 5 (trùng lặp Ngũ hoàng thổ), người ta thường nói "nen nét như rắn mùng 5". Vào ngày này rắn không ra khỏi mà bởi vì thời gian đó phương lực ly tâm từ Trái Đất kết hợp với lực hấp dẫn từ Mặt Trăng, hướng tâm từ Mặt Trời và vũ trụ không bình thường gây cho rắn run sợ, ù tai, hoa mắt không dám ra ngoài. Tương truyền ai chặt được đầu rắn mùng 5 ra đường sẽ gặp nhiều may mắn. Còn ông Vũ Quốc Trung lại lý giải ở một góc độ khác. Ông Trung cho rằng, số 3, 7 trong câu "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" chỉ là một sự ước lệ, ám chỉ những ngày lẻ. Bởi quan niệm truyền thống cho rằng, con số lẻ là những con số đơn độc, còn số chẵn mới là số có đôi có cặp. Do đó, làm việc gì cũng nên tránh sự đơn độc thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Còn số 5, 14, 23 là số chỉ dành cho vua chúa. "Có thể xuất phát từ việc không muốn dân thường dùng chung ngày với mình nên các bậc vua chúa mới đặt ra câu nói ấy". Quan niệm truyền thống cho rằng, con số lẻ là những con số đơn độc, còn số chẵn mới là số có đôi có cặp. Do đó, làm việc gì cũng nên tránh sự đơn độc thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Không nên quá câu nệ Mặc dù lý giải những ngày Tam nương, Nguyệt kỵ là xấu song theo ông Trần Ngọc Kiệm, trong khoa Chiêm tinh học thì những ngày này không được cho là quan trọng so với các sao chính tinh và ngày kiêng kỵ khác gồm: Sát chủ, Thụ tử, Trùng tang, Trùng phục, Không sàng, Không phòng, Thiên tai địa hoạ, Trời nghiêng đất lở, Hoang ốc, Thiên hình hắc đạo... "Tuy nhiên, dân gian vẫn quan niệm "có thờ có thiêng", do đó nhiều người vẫn kiêng kỵ đi xa, làm việc lớn vào những ngày đó. Đó là đức tin của họ", ông nói. Ông Vũ Quốc Trung cũng nhấn mạnh: "Cho đến nay vẫn chưa có ai kiểm chứng đây là những ngày xui xẻo, đó chỉ đơn thuần xuất phát từ quan niệm của dân gian, cứ người này truyền cho người khác mới tạo thành như thế. Việc kiêng kỵ này cũng là một liệu pháp để mọi người có động lực, niềm tin, yên tâm vào công việc đang làm, sẽ làm. Tuy nhiên, không nên lệ thuộc quá nhiều sẽ gây hỏng việc, đồng thời sa đà vào những trò mê tín dị đoan". Thanh Thủy