thanhdc

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    420
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by thanhdc

  1. ============================================================ DỰ BÁO BÃO BIỂN của VNBAOLUT.COM http://www.vnbaolut.com Dịch từ Dự Báo Hải Quân Hoa Kỳ lúc Sat Sep 26 09:22:05 UTC 2009 ============================================================ WTPN51 PGTW 260900 WTPN51 PGTW 260900 WARNING ATCP MIL 17W NWP 090926084327 Thông Báo CP MIL 17W NWP 090926084327 2009092606 17W KETSANA 006 01 260 12 SATL 060 2009092606 17W KETSANA 006 01 260 12 SATL 060 T000 154N 1218E 035 T000 154N 1218E 035 T012 156N 1187E 035 T012 156N 1187E 035 T024 156N 1165E 045 R034 030 NE QD 030 SE QD 030 SW QD 030 NW QD T024 156N 1165E 045 R034 030 NE QD 030 SE QD 030 SW QD 030 NW QD T036 157N 1146E 050 R034 035 NE QD 035 SE QD 035 SW QD 040 NW QD T036 157N 1146E 050 R034 035 NE QD 035 SE QD 035 SW QD 040 NW QD T048 160N 1130E 055 R050 025 NE QD 025 SE QD 025 SW QD 025 NW QD T048 160N 1130E 055 R050 025 NE QD 025 SE QD 025 SW QD 025 NW QD R034 050 NE QD 045 SE QD 045 SW QD 050 NW QD R034 050 NE QD 045 SE QD 045 SW QD 050 NW QD T072 170N 1100E 065 R050 035 NE QD 035 SE QD 035 SW QD 035 NW QD T072 170N 1100E 065 R050 035 NE QD 035 SE QD 035 SW QD 035 NW QD R034 080 NE QD 070 SE QD 075 SW QD 080 NW QD R034 080 NE QD 070 SE QD 075 SW QD 080 NW QD T096 185N 1068E 055 R050 025 NE QD 025 SE QD 025 SW QD 025 NW QD T096 185N 1068E 055 R050 025 NE QD 025 SE QD 025 SW QD 025 NW QD R034 075 NE QD 065 SE QD 065 SW QD 075 NW QD R034 075 NE QD 065 SE QD 065 SW QD 075 NW QD T120 203N 1037E 020 T120 203N 1037E 020 AMP AMP 120HR DISSIPATED AS A SIGNIFICANT TROPICAL CYCLONE OVER LAND 120HR Bão bị suy yếu và tan biến trên đất liền SUBJ: TROPICAL STORM 17W (KETSANA) WARNING NR 006 Vấn Đề : Bão Biển Nhiệt Đới 17W (KETSANA) Thông Báo Số 006 1. TROPICAL STORM 17W (KETSANA) WARNING NR 006 1. Bão Biển Nhiệt Đới 17W (KETSANA) Thông Báo Số 006 01 ACTIVE TROPICAL CYCLONE IN NORTHWESTPAC 01 Đang có Bão Biển Nhiệt Đới trên Thái Bình Dương (Biển Đông) MAX SUSTAINED WINDS BASED ON ONE-MINUTE AVERAGE Gió Tối Đa dựa trên Trung Bình 1-phút WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển --- --- WARNING POSITION: Thông Báo Địa Điểm Hiện Nay : 260600Z --- NEAR 15.4N 121.8E 260600Z --- gần 15.4N 121.8E MOVEMENT PAST SIX HOURS - 260 DEGREES AT 12 KTS Di chuyển trong 6 giờ qua - 260 độ 12 hải lý một giờ POSITION ACCURATE TO WITHIN 060 NM Địa điểm chính xác trong vòng 060 hải lý POSITION BASED ON CENTER LOCATED BY SATELLITE Trung Tâm Bão do Hình Vệ Tinh PRESENT WIND DISTRIBUTION: Gió Hiện Nay : MAX SUSTAINED WINDS - 035 KT, GUSTS 045 KT Gió Tối Đa - 035 hải lý một giờ , Giật 045 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển REPEAT POSIT: 15.4N 121.8E Lập lại Địa Điểm : 15.4N 121.8E --- --- FORECASTS: Dự Báo : 12 HRS, VALID AT: 12 giờ , Hiệu lực lúc : 261800Z --- 15.6N 118.7E 261800Z --- 15.6N 118.7E MAX SUSTAINED WINDS - 035 KT, GUSTS 045 KT Gió Tối Đa - 035 hải lý một giờ , Giật 045 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển VECTOR TO 24 HR POSIT: 270 DEG/ 11 KTS Véc tơ đến 24 HR Địa điểm : 270 độ/ 11 hải lý một giờ --- --- 24 HRS, VALID AT: 24 giờ , Hiệu lực lúc : 270600Z --- 15.6N 116.5E 270600Z --- 15.6N 116.5E MAX SUSTAINED WINDS - 045 KT, GUSTS 055 KT Gió Tối Đa - 045 hải lý một giờ , Giật 055 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển RADIUS OF 034 KT WINDS - 030 NM NORTHEAST QUADRANT Bán kính của 034 hải lý một giờ gió - 030 hải lý Đông Bắc Phần 030 NM SOUTHEAST QUADRANT 030 hải lý Đông Nam Phần 030 NM SOUTHWEST QUADRANT 030 hải lý Tây Nam Phần 030 NM NORTHWEST QUADRANT 030 hải lý Tây Bắc Phần VECTOR TO 36 HR POSIT: 275 DEG/ 09 KTS Véc tơ đến 36 HR Địa điểm : 275 độ/ 09 hải lý một giờ --- --- 36 HRS, VALID AT: 36 giờ , Hiệu lực lúc : 271800Z --- 15.7N 114.6E 271800Z --- 15.7N 114.6E MAX SUSTAINED WINDS - 050 KT, GUSTS 065 KT Gió Tối Đa - 050 hải lý một giờ , Giật 065 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển RADIUS OF 034 KT WINDS - 035 NM NORTHEAST QUADRANT Bán kính của 034 hải lý một giờ gió - 035 hải lý Đông Bắc Phần 035 NM SOUTHEAST QUADRANT 035 hải lý Đông Nam Phần 035 NM SOUTHWEST QUADRANT 035 hải lý Tây Nam Phần 040 NM NORTHWEST QUADRANT 040 hải lý Tây Bắc Phần VECTOR TO 48 HR POSIT: 280 DEG/ 08 KTS Véc tơ đến 48 HR Địa điểm : 280 độ/ 08 hải lý một giờ --- --- EXTENDED OUTLOOK: Dự Báo Thêm : 48 HRS, VALID AT: 48 giờ , Hiệu lực lúc : 280600Z --- 16.0N 113.0E 280600Z --- 16.0N 113.0E MAX SUSTAINED WINDS - 055 KT, GUSTS 070 KT Gió Tối Đa - 055 hải lý một giờ , Giật 070 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển RADIUS OF 050 KT WINDS - 025 NM NORTHEAST QUADRANT Bán kính của 050 hải lý một giờ gió - 025 hải lý Đông Bắc Phần 025 NM SOUTHEAST QUADRANT 025 hải lý Đông Nam Phần 025 NM SOUTHWEST QUADRANT 025 hải lý Tây Nam Phần 025 NM NORTHWEST QUADRANT 025 hải lý Tây Bắc Phần RADIUS OF 034 KT WINDS - 050 NM NORTHEAST QUADRANT Bán kính của 034 hải lý một giờ gió - 050 hải lý Đông Bắc Phần 045 NM SOUTHEAST QUADRANT 045 hải lý Đông Nam Phần 045 NM SOUTHWEST QUADRANT 045 hải lý Tây Nam Phần 050 NM NORTHWEST QUADRANT 050 hải lý Tây Bắc Phần VECTOR TO 72 HR POSIT: 290 DEG/ 08 KTS Véc tơ đến 72 HR Địa điểm : 290 độ/ 08 hải lý một giờ --- --- 72 HRS, VALID AT: 72 giờ , Hiệu lực lúc : 290600Z --- 17.0N 110.0E 290600Z --- 17.0N 110.0E MAX SUSTAINED WINDS - 065 KT, GUSTS 080 KT Gió Tối Đa - 065 hải lý một giờ , Giật 080 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển RADIUS OF 050 KT WINDS - 035 NM NORTHEAST QUADRANT Bán kính của 050 hải lý một giờ gió - 035 hải lý Đông Bắc Phần 035 NM SOUTHEAST QUADRANT 035 hải lý Đông Nam Phần 035 NM SOUTHWEST QUADRANT 035 hải lý Tây Nam Phần 035 NM NORTHWEST QUADRANT 035 hải lý Tây Bắc Phần RADIUS OF 034 KT WINDS - 080 NM NORTHEAST QUADRANT Bán kính của 034 hải lý một giờ gió - 080 hải lý Đông Bắc Phần 070 NM SOUTHEAST QUADRANT 070 hải lý Đông Nam Phần 075 NM SOUTHWEST QUADRANT 075 hải lý Tây Nam Phần 080 NM NORTHWEST QUADRANT 080 hải lý Tây Bắc Phần VECTOR TO 96 HR POSIT: 295 DEG/ 08 KTS Véc tơ đến 96 HR Địa điểm : 295 độ/ 08 hải lý một giờ --- --- LONG RANGE OUTLOOK: Dự Báo Xa : NOTE...ERRORS FOR TRACK HAVE AVERAGED NEAR 250 NM Ghi nhớ ...Độ sai của đường đi trung bình gần 250 hải lý ON DAY 4 AND 350 NM ON DAY 5... AND FOR INTENSITY vào ngày 4 và 350 hải lý vào ngày 5... và cường độ NEAR 20 KT EACH DAY. gần 20 hải lý một giờ mỗi ngày . --- --- 96 HRS, VALID AT: 96 giờ , Hiệu lực lúc : 300600Z --- 18.5N 106.8E 300600Z --- 18.5N 106.8E MAX SUSTAINED WINDS - 055 KT, GUSTS 070 KT Gió Tối Đa - 055 hải lý một giờ , Giật 070 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển VECTOR TO 120 HR POSIT: 300 DEG/ 09 KTS Véc tơ đến 120 HR Địa điểm : 300 độ/ 09 hải lý một giờ --- --- 120 HRS, VALID AT: 120 giờ , Hiệu lực lúc : 010600Z --- 20.3N 103.7E 010600Z --- 20.3N 103.7E MAX SUSTAINED WINDS - 020 KT, GUSTS 030 KT Gió Tối Đa - 020 hải lý một giờ , Giật 030 hải lý một giờ WIND RADII VALID OVER OPEN WATER ONLY Bán kính vùng gió trên biển DISSIPATED AS A SIGNIFICANT TROPICAL CYCLONE OVER LAND Bão bị suy yếu và tan biến trên đất liền --- --- REMARKS: Lưu Ý : 260900Z POSITION NEAR 15.5N 121.0E. 260900Z Địa điểm gần 15.5N 121.0E. MAXIMUM SIGNIFICANT WAVE HEIGHT AT 260600Z IS 14 FEET. Chiều Cao Tối Đa của Sóng to lúc 260600Z IS 14 bộ . NEXT WARNINGS AT 261500Z, 262100Z, 270300Z AND 270900Z. Thông Báo Sắp Tới Lúc 261500Z, 262100Z, 270300Z và 270900Z. // // WP, 17, 2009092312, , BEST, 0, 153N, 1330E, 15, 1004, DB, WP, 17, 2009092312, , BEST, 0, 153N, 1330E, 15, 1004, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 1007, 200, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1007, 200, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, INVEST, S, 0, , 0, 0, INVEST, S, WP, 17, 2009092318, , BEST, 0, 153N, 1324E, 15, 1010, DB, WP, 17, 2009092318, , BEST, 0, 153N, 1324E, 15, 1010, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 0, , 0, 0, 0, 0, WP, 17, 2009092400, , BEST, 0, 152N, 1315E, 15, 1006, DB, WP, 17, 2009092400, , BEST, 0, 152N, 1315E, 15, 1006, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 1011, 170, 25, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1011, 170, 25, 0, 0, W, 0, , 0, 0, INVEST, S, 0, , 0, 0, INVEST, S, WP, 17, 2009092406, , BEST, 0, 150N, 1306E, 15, 1005, DB, WP, 17, 2009092406, , BEST, 0, 150N, 1306E, 15, 1005, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 1007, 180, 35, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1007, 180, 35, 0, 0, W, 0, , 0, 0, INVEST, S, 0, , 0, 0, INVEST, S, WP, 17, 2009092412, , BEST, 0, 147N, 1297E, 15, 1005, DB, WP, 17, 2009092412, , BEST, 0, 147N, 1297E, 15, 1005, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 1007, 175, 30, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1007, 175, 30, 0, 0, W, 0, , 0, 0, INVEST, S, 0, , 0, 0, INVEST, S, WP, 17, 2009092418, , BEST, 0, 144N, 1291E, 20, 1006, DB, WP, 17, 2009092418, , BEST, 0, 144N, 1291E, 20, 1006, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 1011, 175, 30, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1011, 175, 30, 0, 0, W, 0, , 0, 0, INVEST, S, 0, , 0, 0, INVEST, S, WP, 17, 2009092500, , BEST, 0, 141N, 1283E, 25, 998, DB, WP, 17, 2009092500, , BEST, 0, 141N, 1283E, 25, 998, DB, 0, , 0, 0, 0, 0, 0, , 0, 0, 0, 0, WP, 17, 2009092506, , BEST, 0, 141N, 1274E, 25, 1004, TD, WP, 17, 2009092506, , BEST, 0, 141N, 1274E, 25, 1004, TD, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 250, 30, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 250, 30, 0, 0, W, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, WP, 17, 2009092512, , BEST, 0, 148N, 1257E, 30, 1000, TD, WP, 17, 2009092512, , BEST, 0, 148N, 1257E, 30, 1000, TD, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 250, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 250, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, WP, 17, 2009092518, , BEST, 0, 155N, 1243E, 35, 996, TS, WP, 17, 2009092518, , BEST, 0, 155N, 1243E, 35, 996, TS, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 450, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 450, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, WP, 17, 2009092600, , BEST, 0, 156N, 1230E, 35, 996, TS, WP, 17, 2009092600, , BEST, 0, 156N, 1230E, 35, 996, TS, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 450, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, 0, 0, 1006, 450, 40, 0, 0, W, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, 0, , 0, 0, SEVENTEEN, S, WP, 17, 2009092606, , BEST, 0, 154N, 1218E, 35, 996, TS, 34, WP, 17, 2009092606, , BEST, 0, 154N, 1218E, 35, 996, TS, 34, NEQ, 0, 0, 0, 0, 1005, 400, 35, 0, 0, W, NEQ, 0, 0, 0, 0, 1005, 400, 35, 0, 0, W, 0, , 0, 0, KETSANA, S, 0, , 0, 0, KETSANA, S, NNNN NNNN ==================================================================== LƯU Ý Khi Đọc Dự Báo: a. Ngày giờ trong Dự Báo dưới dạng DDHHMMZ với DD là ngày, HH là giờ, MM là phút Ví dụ 061230Z là ngày 06 lúc 12 giờ 30 Quốc Tế b. Giờ VN = giờ Z + 7 (ví dụ, 12 giờ Z = 7 giờ tối Việt Nam) c. Tọa độ dưới dạng xxN (xx Bắc vĩ tuyến), xxxE (xxx Đông kinh tuyến) d. NM =nautical mile = hải lý (1 hải lý = 1.852 km) e. KT = knot = hải lý một giờ (1 KT = 1.852 km một giờ) f. feet = bộ (1 FT = 1 foot = 0.3048 m) ==================================================================== Theo dự báo của vnbaolut.com dịch từ Dự báo của Hải Quân Hoa Kỳ thì bão sẽ đổ bộ vào Miền Bắc, cầu mong nó không vào đất liền.
  2. Chúc Mừng Sinh Nhật Sư Phụ! Kính Chúc Sư Phụ Mạnh Khỏe An Khang Kính tặng Sư Phụ Thanhdc
  3. Định vị đất và thổ trạch xây dựng (Giải thích qua các thuật ngữ phong thuỷ). 1. Thuật ngữ Vọng Khí Ngũ Hành : Mọi thế đất thiên nhiên cao,thấp,vuông,tròn,cong,thẳng,lưỡi nhô,cung ngược,Bạch Hổ quay đầu...đều theo Ngũ Hành mà biến chuyển.Vọng Khí Ngũ Hành là tìm kiếm thế đất có trường khí tuân thủ nguyên tắc tương sinh,tương khắc,tương thừa,tương vũ trong ngũ hành vạn vật,giúp con người xem xét,điều chỉnh môi trường sống sao cho hài hoà và thuận lợi nhất.Ví dụ 1: Hoả địa,thuật ngữ chỉ chỗ thổ trạch mang tính hoả,dễ bị cháy và khó khăn khi chữa cháy,nên tránh trong lựa chọn nhà đất.Các miếng đất hình tam giác,có các góc nhọn,đường đi vào lắt léo khó lường,thắt hẹp và xộc xệch...đều là hoả địa.Các khu nhà nhiều mái nhọn sát nhau,vật liệu dễ cháy như tranh tre gỗ giấy...(thuộc mộc dễ sinh hoả) cũng có nguy cơ cao.Phàm khi chọn thổ trạch,cần tìm nơi có hành thổ làm chủ đạo (bằng phẳng,nằm ngang,vuông vức,không cao quá,không thấp quá) để xây dựng được thuận tiện và ổn định.Nếu gặp hoả địa,cần phá thế bằng cách làm quang đãng ngoại cảch,giảm mật độ xây dựng,tránh dùng vật liệu hành mộc và tạo các lối thoát hiểm phòng khi sự cố. Ví dụ 2 : Mộc địa,thuật ngữ chỉ môi trường,mảnh đất có nhiều cây cối,hoặc nhiếu kiến trúc cao dạng hình trụ,nhà mọc vươn cao và có nhiều cột tròn...đều thuộc mộc địa.Khi tổ chức cảnh quan hay xây dựng nhà cửa nếu dùng các kiến trúc cũng dạng mộc (nhà gỗ,cột tròn,nhà vươn cao) thì sẽ được ổn định.Khi dùng kiến trúc theo dạng hành hoả (mái dốc,nhọn,ngói đỏ) thì được tương sinh mộc hoả,tuy nhiên,nếu xung quanh nhiều cây cối quá thì phải phát quang,vì mộc vượng,sinh hoả vượng,gặp hoả hoạn. Nếu trên mộc địa mà dùng các kiến trúc hành thổ (nhà mái bằng,thấp) thì không phù hợp (mộc khắc thổ) vì dễ tạo ra các vùng lõm giữa môi trường mộc,tích tụ ẩm và gió hút.Về qui hoạch chung,thì qui hoạch đã định vị mảnh đất,chỉ có thể mua miếng đất hợp với mệnh trạch,tuyệt nhiên không thể mua miếng đất nghịch trạch rồi định vị hướng phong thuỷ theo chủ quan. Khuynh hướng chung của các khu dân cư đã ổn định và các khu dân cư mới hoặc đang qui hoạch,căn nhà đều định vị theo dòng chảy của các con đường,có nghĩa làa trước mặt ngôi nhà luôn là con đường,dù lộ lớn hay đường làng,đường mòn hay đường nội bộ. 2. Thuật ngữ Tam Cương,Ngũ Thường : Tam Cương là phép tắc vua - tôi,cha - con,chồng - vợ.Ngũ Thường là: Nhân,Nghĩa, Lễ, Trí,Tín,là qui phạm đạo đức xưa.Còn trong phong thuỷ,khi chọn đất làm Dương Cơ (nhà ở) hay Âm Phần (mồ mả),Tam Cương là 3 yếu tố: Khí Mạch - Minh Đường - Thuỷ Khẩu.Ngũ Thường là 5 thành phần cơ bản của miếng đất: Long - Huyệt - Sa - Thuỷ - Hướng.Xem xét cát - hung của một thổ trạch đều phải dựa trên Tam Cương - Ngũ Thường,không được bỏ qua yếu tố nào.Khí mạch vượng phải có thêm minh đường thoáng đãng (khoảng đất hay mặt nước phía trước) và thuỷ khẩu khúc tắc (quanh co uốn lượn,tránh chảy thẳng tuột hoặc phản cung) thì mới gọi là đắc địa. Tam Cương trạch là chia ba phần đều nhau (mặt cắt ngang và cắt dọc)của miếng đất xây dựng,tính từ mặt tiền nhà,phần tiền được coi là phần quan trọng nhất,gọi là vua tôi,phần giữa được coi là phần quan trọng thứ nhì,gọi là cha con,phần sau được coi là phần quan trọng thứ ba,gọi là vợ chồng.Người chủ đầu tư nên xem xét ý nghĩa quan trọng này mà bố trí các phòng ốc thích hợp.Dù là tam hay tứ đại đồng đường,người chủ đầu tư dù thứ bậc ông,cha,con hay cháu vẫn đứng ở vị trí quan trọng nhất (vua tôi). Nói thêm: Theo quan niệm phong thuỷ truyền thống,chủ dương trạch luôn là người nam được thừa hưởng hoặc tự xây cất căn nhà cư ngụ.Cha mẹ đến ở với con cái là ở nhờ,không coi là chủ dương trạch,vợ và các con,cháu sắp xếp theo trạch chủ.Trường hợp chủ trạch mất,con trai trưởng đã trưởng thành (18 tuổi) sẽ là chủ trạch,chưa trưởng thành (dưới 18 tuổi) người mẹ là chủ trạch.Trường hợp người nữ là độc thân,chồng chết hoặc không có con trai,người nữ là chủ trạch.Chỉ xác định đông hoặc tây tứ theo chủ trạch. 3. Thuật ngữ Tứ Tượng : Quan sát thiên văn trong vũ trụ,các triết gia Đông Phương đã chọn 28 ngôi sao ở gần Hoàng Đạo và Xích Đạo làm chuẩn,từ đó phân ra Đông - Tây - Nam - Bắc,mỗi phương có 7 sao xếp nên các hình tượng Thanh Long,Bạch Hổ,Chu Tước,Huyền Vũ,từ đó xác định yếu tố cơ bản của Phong Thuỷ là phương vị. Thế đất khi lựa chọn cần tuân thủ theo Tứ Tượng nói trên là Long (trái),Hổ (phải),Tước (trước),Vũ (sau).Ấy là quan niệm chọn đất làm nhà hợp với môi trường thiên nhiên: Dựa vào thế cao phía sau nhìn ra khoảng trống sáng sủa phía trước,hai bên trái phải có sông ngòi uốn khúc,đồi núi nhấp nhô. Quan sát Tứ Tượng là quan trọng bậc nhất cho việc định vị thổ trạch và diện tích căn nhà xây dựng. Định vị thổ trạch và diện tích xây dựng là xác định mối tương quan giữa nhà và đất thuận lý với trạch mệnh của người chủ cư ngụ.Nếu căn nhà xây dựng trên 1/2 miếng đất phía trước (phía mặt tiền Chu Tước),phong thuỷ cho rằng căn nhà ấy sẽ lợi ích cho người chủ đầu tư dưới 30 tuổi,cát vượng nhanh chóng,nhưng không bền vững lâu dài.Nếu căn nhà xây dựng trên 1/2 miếng đất phía sau (phía mặt hậu Huyền Vũ),phong thuỷ cho rằng căn nhà sẽ lợi ích cho người trên 40 tuổi,cát vượng chậm nhưng chắc chắn,bền vững lâu dài và được sức khoẻ,tuổi trời.Tuy nhiên,xây dựng ngôi nhà giữa trung tâm miếng đất được coi là lý tưởng nhất,vì ngôi nhà được thụ hưởng tứ tượng.Trường hợp này sân vườn tiền tước nên rộng gấp đôi sân vườn hậu vũ,chí ít cũng rộng lớn hơn 54cm,giới thuỷ bên tả Thanh Long nên rộng hơn giới thuỷ bên hữu Bạch Hổ,chí ít cũng 5,4cm. 4. Thuật ngữ Cát - Hung thuỷ : Tướng Sơn (nhìn địa hình),Tướng thuỷ (xem nước) để đánh giá cát - hung của môi trường.Cát thuỷ là nguồn nước dẫn đến thì phải có nơi đón nhận ở phía trước (thuỷ nhập đường).Nếu là sông thì phải quanh co uốn kúc mới cát,còn chảy xiết xối,thẳng là hung.Nếu là suối thì phải êm đềm,lắm thác ghềnh thì dựng nhà sao được.Nếu là hồ,đầm thì mặt nước phải phẳng và trong ấy là cát,còn nếu đục ngầu,xói lở thật là bất lợi.Nói chung,nước trong thiên nhiên cần giữ nguyên trạng để bảo tồn nguyên khí,việc san lấp tuỳ tiện,đào rãnh khơi mương bừa bãi không cân nhắc sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy,xâm hại môi trường khiến trường khí dương trạch bị suy tổn. 5. Thuật ngữ Hung Sơn : Năm dạng địa mạo xấu cần tránh hoặc khắc phục: Đồng (trụi trọc),Đoạn (đứt khúc),Thạch (trơ đá),Quá (vượt ngoài hình thể,mất cân đối),Độc (lẻ loi,đơn côi).Đồng Sơn và Thạch Sơn cây ối làm sao sống,nước làm sao ngưng tụ.Đoạn Sơn,Độc Sơn,nhà nơi đồng không mông quạnh,không xóm giềng liệu sống được chăng? Còn Quá Sơn thì nhịp sinh học của người cư trú bị tán loãng,khiến suy bại nhiều lắm. Các qui hoạch dân cư mới,chưa xử lý hạ tầng theo hướng tích cực: Đường sá,cấp nước,lưới điện,đã xây dựng khu dân cư,là rất hung xấu. 6. Thuật ngữ Tương Hình Thủ Thắng : Khái niệm chỉ các biện pháp phong thuỷ tạo sự ổn định và thuận lợi cho dương trạch.Tập trung vào sáu chữ: Bối Sơn - Diện Thuỷ - Hướng Dương có nghĩa là dựa lưng vào núi,quay mặt về chỗ có nước,hướng nhà về phía có ánh sáng.Nếu mặt trước hướng Nam đón gió lành,có sông ngòi ao hồ ở chính diện tận dụngđược hơi nước và cảnh quan,có núi non và gò đồi ở hậu diện làm chỗ chắn gió lạnh phương Bắc,ấy là đắc cách.Nhưng thực tế khó lòng tìm kiếm được miếng đất như vậy,nên tương hình thủ thắng chính là nương theo điều kiệnsẵn có,dựa vào thiên nhiên mà điều chỉnh dương trạch của mình cho phù hợp. 7. Thuật ngữ Hình Pháp : Hình và khí luôn tương ứng nhau,đồng thời cũng tương ứng với chất (vật liệu tạo thành) và sắc (màu sắc,khí sắc).Hình nào thì khí ấy,chất ấy,sắc ấy.Xem hình để luận khí,vọng khí để diễn giải hình thể,luôn tương đối không thể tách rời.Cũng có lúc chỉ thấy hình mà khó đoán khí,đó là ngoại hình lấn át nội khí,cần phải đảm bảo tính xác thực,nếu không hình khí sẽ không song hành.Hình - Chất - Sắc tương ứng nhau theo mối quan hệ ngũ hành tương sinh,tương khắc.Từ mối quan hệ này mà chọn chất và sắc tương quan với hình và khí của con người cũng như dương trạch sao cho hài hoà và thuận lý. 8. Thuật ngữ Bát Phong : Gío của 8 phương hướng mạnh,nhẹ,chính phụ xoay chuyển xung quanh cuộc đất có vai trò quan trọng đối với trường khí dương trạch.Nhà quay về hướng nào hoặc mở cửa mặt nào cũng là đón gió từ hướng đó nhiều nhất.Do đó phải tìm hiểu Hoa Gió để xếp đặt kiến trúc cho phù hợp.Không phải hướng gió thổi mạnh là tốt.Tránh gió xấu (nóng,lạnh,khô) mà đón được gió lành (mát,dịu,mang theo hơi nước) thì môi trường cư ngụ được hưng vượng. Cần lưu ý gió cục bộ (các mặt nước rộng,hẻm hút gió)để bổ sung dương trạch.Các hướng có gió xấu (Đông Bắc,Tây Bắc) có thể trồng cây ngăn bớt. Khi xem xét cuộc đất,việc nhận định gió và nước phù hợp là rất quan trọng.Không phải cứ có gió,có nước là đạt phong thuỷ.Nếu được phong tàng thuỷ tụ (gió ẩn,nước tập trung) tức là tạo khí tụ thì đảm bảo cân bằng sinh thái,giữ được nguồn gốc sự sống,nhược bằng gặp gió thổi mạnh và phân tán (phong phiêu) cùng với nước chảy mạnh thoát đi tuỳ tiện (thuỷ đãng) thì lại rất kỵ,không thể là cuộc đất dựng nhà cư ngụ tốt được.Thường các vùng Sơn cốc,phong cảnh hùng vĩ,có thác lớn suối sâu,gió lộng bốn bề,thì chỉ là các điểm dừng chân tham quan,nghỉ ngơi trong thời gian ngắn,nếu định cư lâu dài thì chính là chỗ phong phiêu thuỷ đãng,không hợp với nhịp sinh học của con người,không phải là thổ trạch tốt. 9. Thuật ngữ Tân Chủ : Phong thuỷ xưa chỉ hình thế hai núi đối diện nhau như khách (tân),chủ phải nghiêm trang cân đối,nếu chủ khách không nhìn nhau sơn mạch lung tung thế đất khó cát tường.Ngược lại,nếu chủ,khách quá gần,không phân biệt trước sau,trên dưới thì cũng làm cho địa mạch bị kìm hẹp,là hung cách.Trong điều kiện đô thị,tân chủ tương đồng là nên làm nhà trong khu qui hoạch ổn định,tương xứng về chiều cao,hình khối,nhà đối diện nhau thì giữ khoảng cách minh đường thông thoáng,không mở toang của dễ bị xoi mói vào nhau,mà cũng không nên xoay xiên vặn lệch nhiều dễ gây tán khí,hư hại trường khí toàn khu. 10. Thuật ngữ Phò Môn : Thuật ngữ chỉ sự bảo vệ,giữ gìn cửa nhà,hay cụ thể là giữ gìn phần minh đường phía trước mỗi thổ trạch.Minh đường có thoáng đãng,chu toàn thì mới nghênh đón được cát khí,đồng thời giảm thiều xung sát.Trước mỗi cửa chính,sân hay tiền sảnh cần tránh để các vật lạ như đá tảng,trụ điện hay độc thọ (cây lẻ loi) án ngữ,che khuất tầm nhìn và cản trở đi lại,nhất là khi chúng bị đối tâm môn (nằm giữa tâm cửa).Phò Môn còn là việc cấu tạo mặt ngoài nhà sao cho cửa không bị tác động xấu của thời tiết làm hư hao hoặc mở ra bị vướng.Tốt nhất là đại môn nên có khoảng giới thuỷ,lùi lại để tránh trực xung,đồng thời tạo cho minh đường khoảng lùi cần thiết,không nên nhô ra quá gần đường giao thông. Nói thêm về cô phong độc thọ.Nghĩa gốc là một núi (độc sơn) lẻ loi chầu trước huyệt,một thế đất xấu.Về mặt cảnh quan,nếu trước khu đất hay ngôi nhà bị án ngữ bởi vật thể hay chướng ngại: Trụ điện,miệng cống,cây to...đều gây cản trở tầm nhìn,mất mỹ quan và giảm sinh khí.Nếu có độc thọ thì gây cản trở đi lại,độc đạo thì gây hút gió trực xung.Khắc phục các nhược điểm trên bằng cách trồng rào cây cản gió hoặc xây tường lửng làm bình phong,nếu có trồng cây trước cửa thì nên bố cục hài hoà,trồng cây theo nhóm cao thấp tương quan hoặc đăng đối hai bên,tránh trồng một cây đơn độc chính giữa. 11. Thuật ngữ Thập Nhị Trượng Pháp : Là các giải pháp căn cứ theo quan điểm tổ chức cảnh quan để chọn lựa các cuộc đất hài hòa phong thủy .12 trượng pháp gồm: Thuận,nghịch,xúc (co lại),xuyết (tô điểm),khai, xuyên,ly (rời),một (mất đi),đối,tiết (cắt đứt),phạm và đôn.Trong đó quan trọng hơn cả là thuận trương (nương theo địa hình,tận dụng cảnh quan để chọn cuộc đất).Thuận trượng cũng có thể kèm theo nghịch trượng (tìm kiếm các hạn chế,dùng tương phản để tạo nổi bật).Thuận trượng đúng là đón nhận lai mạch của bản sơn (cuộc đất chủ thể) để sắp xếp không gian cảnh quan,định trung cung và long cục thủy khẩu. Vài ví dụ: + Đôn trượng,thủ pháp chính là đắp thêm nền để tạo sự thay đổi độ cao,bình sàn xây dựng và bài thủy tốt hơn.Đôn trượng phải bắt đầu từ việc xác định cao độ vốn có của thổ trạch và hướng bài thủy thuận (thoát nước). Nguyên tắc truyền thống của phong thủy cao độ phía sau phải cao hơn cao độ phía trước,Minh đường tiền trạch cần thoai thoải thoáng đãng,còn hậu chẩm (phía sau) có thể bả sơn tựa núi là thế chủ toạ vững chắc,phát triển lâu bền về sau.Tại các vùng đất thấp trũng,đôn trượng là thủ pháp rất hữu hiệu để được một thổ trạch ổn định và cao ráo,tránh được ngập trũng,úng thủy cũng như những tác động xấu từ môi trường đem lại. Khai trượng,là giải pháp phức tạp nhất,lấy trọng tâm ở việc tránh trực xung.Quyết yếu là đường khí không được đi thẳng vào trung tâm,phải để cho đường khí chạy theo hai bên mà vào.Trong chọn huyệt vịcho thổ trạch,có long mạch chầu về mà quá gấp,quá thẳng,chĩa vào trung tâm cuộc đất tức là trực xung,bất lợi.Nên chia tách trường khí,chuyển sang hai bên rồi mới vòng lại theo cách khí vận khúc tắc (uốn lượn) thì tất giảm được trực xung mà tàng phong tụ khí được nhiều. 12. Thuật ngừ Trung Cung : Mỗi nhà hay căn phòng đều có một khu vực hoặc một điểm trung tâm gọi là trung cung.Từ trung cung (các hệ trục ngang,dọc,chéo) và phương hướng của ngôi nhà cũng như các bố trí xung quanh nó được thiết lập.Tuỳ điều kiện thực tế,có thể định vị Trung Cung của toàn nhà hay từng phòng riêng.Định truing cung toàn nhà để có cái nhìn tổng quát,từ đó phân các khu chức năng: Bếp,phòng khách,ngủ,vệ sinh.Định vị trung cung từng phòng là để tiếp cận chi tiết và đề ra giải pháp cụ thể.Tại trung cung của nhà không nên đặt các khu vệ sinh,kho chứa đồ vì sẽ ảnh hưởng không tốt đến trường khí toàn nhà. Trên Bát Quái hậu thiên,trung cung giữ vị trí số 5. Mồng năm (5) mười bốn (14) hai ba (23),đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn.Câu ca dao này đánh giá vai trò số 5 (1+4=5 và 2+3=5) quan trọng biết là ngần nào.Số 5 nơi trung cung là con số giữ vai trò cân bằng các hệ trục ngang,dọc,chéo của ma trận tam phương (xem chương Bát quái đồ),giữ vai trò chủ đạo trong việc kích hoạt nhập thế và xuất thế cho dương trạch. 13. Thuật ngữ Trần Thiết Dương Trạch : Tướng địa (chọn đất) và trần thiết (trang trí nội thất) là một thể thống nhất của phong thủy.Các nguyên tắc cơ bản của trần thiết dù biến thiên qua thời gian,song vẫn luôn thống nhất.Từ việc đặt bài vị (bàn thờ) không được nhìn vào khu vệ sinh (uế khí xâm phạm) đến cách bố trí cầu thang tránh đi trên chỗ giường ngủ hoặc chỗ làm việc vì gây bụi và va chạm.Phong thủy hướng các chọn lựa an toàn,ổn định và vệ sinh.Những chi tiết nhỏ như: Giường ngủ không được đặt gương soi đối diện vì tránh luồng hung khí phản chiếu,gây ảo giác cho người nằm ngủ hoặc dầm,xà băng ngang đầu người sinh hoạt bên dưới dễ là nơi bám bụi và khó chiếu sáng...Chính là các nguyện tắc cơ bản khá thiết thực khi bố trí nội thất và xếp đặt không gian. 14. Thuật ngữ Thủy Dụng : Khái niệm chỉ việc sử dụng nước trong dương trạch sao cho hợp lý ,hài hoà.Những khu vực sử dụng nước nhiều như phòng tắm,sàn nước...phải lưu ý bài thủy thông suốt,lưu ý tới vấn đề thủy luân,tránh tù hãm hoặc nước tĩnh,nước không chảy tức là không tạo được dòng sinh khí,nhưng nước chảy mạnh quá,không tương đồng với nhịp sinh học của người cư ngụ thì cũng gây ra tán khí.Chú ý trong dương trạch phải vừa có tụ diện thủy (nước trên mặt thao kiểu hồ cảnh) vừa đảm bảo duyên chữ thủy (nước sạch dự trữ trong nhà) thì mới đảm bảo vừa có trường khí sinh động bên cạnh nguồn nước dùng cho sinh hoạt lâu dài và ổn định.Ngoài ra,thủy dụng còn bao hàm ý nghĩa xuất thế trong việc Vọng nước cầu Long. 15. Thuật ngữ Khiêm Trạch : Ngôi nha 2tuân thủ theo quẻ Khiêm (Địa/Sơn Khiêm) bao hàm ý nghĩa sâu xa về sự cân đối,hài hòa,vừa phải.Công trình càng lớ,càng đổ nhiều tiền của thì càng phải tính sao cho khiêm tốn,dùng tiền đúng chỗ đem lại hiệu quả.Cùng là điều kiện tự nhiên như mưa,nắng,ẩm,gió,song hành với những hoạt động hành ngày của con người như thân nhiệt,hơi thở cho đến phân rác hay các quan hệ xã hội,láng giềng đều có thể trở thành phúc hay họa.Xây nhà cửa mà tận dụng được những yếu tố bên ngoài thì là hợp với đạo khiêm.Khiêm trạch đối lập với phô trương chứ không đồng nghĩa với thấp bé hay thiếu thốn.Không phải cứ mờ nhạt hay khép nép là khiêm,mà khiêm trước hết cái gì lớn thì lớn,cái gì nhỏ thì cần nhỏ,hình thức tương xứng với nội dung,không làm cho cái vẻ bên ngoài nhiều hơn cái thực có bên trong.Cân bằng âm dương,tĩnh động tương sinh ngũ hành chính là hướng tới khiêm trạch vững bền. Trên đây chỉ là 15 trong vô số các thuật ngữ kinh điển của phong thủy truyền thống.Nên coi 15 thuật ngữ này là luận thuyết căn bản để học biết,để kế thừa,vận dụng trường hợp có thể,để thụ hưởng lợi ích cho căn nhà cư ngụ.Dương trạch xây dựng mới hay đã cư ngụ đều có thể ứng dụng.Với xây dựng mới,chỉ sau khi làm quen và xác định được những khái niệm trên mới nên nhờ kiến trúc sư hoặc kỹ sư xây dựng tiến hành thiết kế và xây dựng.Với dương trạch đã ngụ,có thể tu sửa các khiếm khuyết,khắc phục những có thể trong khả năng có thể,điều đó chỉ khiến căn nhà cư ngụ cát vượng hơn. Giải pháp nền đất lập trạch nên thế nào? Quan niệm coi trọng phần xây dựng hơn phần nền đất là sai lầm.Chẳng phải tiền mua đất cao hơn rất nhiều lần tiền làm nhà đó sao? Đất là căn bản của dương trạch không bao giờ được coi rẻ.Thiếu gì những căn nhà lộng lẫy,nguy nga,xanh xanh đỏ đỏ,được xây cất trên bùn ao,đất bạc màu,thậm chí bãi rác xà bần.Căn nhà cư ngụ xây dựng trên nền đất kiệt khí hoặc khí uế tạp khó lòng cát tường. Cần vượt qua quan niệm sai lầm: Mặt sàn tráng xi măng,lát đá hoa hay gỗ có thể che lấp được tất cả những gì vùi lấp dưới nó.Và sai lầm hơn khi cho rằng: Vùi lấp thứ gì xuống nền chẳng được,miễn là không tốn tiền,tiền bạc hào phóng cho việc xây dựng và mua sắm trang thiết bị,đồ đạc hiện đại. Bởi chưa biết: Khí mạch làm sao tốt lành được khi đi qua nền đất xú uế,kiệt,bạc để lên nuôi dưỡng căn nhà. Vì vậy,phong thủy lưu tâm vấn đề nền đất lập trạch cho căn nhà mới xây dựng hoặc căn nhà đã ngụ nay có điều kiện tu bổ sửa chữa.Giải pháp nhập thế và xuất thế đề xuất. Nhập thế: Thay toàn bộ (nhấn mạnh,bỏ tất cả,đừng tiếc,dù là loại thổ gì) phần đất đào sâu xuống để đóng cừ,đào móng hoặc hệ thống móng,bằng loại cát thật sạch.Chiều sâu đào xuống ít nhất là 54cm.Giải pháp này gọi là thay chiếu hay nệm mới cho giường.Dòng khí từ dưới đất được lọc sạch trước khi chảy lên nhà.Giải pháp này vô cùng lợi ích cho căn nhà và sức khỏe chính là tài lộc. Xuất thế: Căn cứ theo Bát Quái đồ và sở nguyện của chủ dương trạch,có thể đặt dưới lớp nền cát này 7 hoặc 9 viên đá (nên đẽo tạc hình con cóc),đặt trên hai lớp 50+45=90 đồng tiền chinh cổ.Viên đá chủ (cóc cái) ngậm 4 đồng chinh nơi miệng và bụng.Cộng là 99 đồng chinh.Đây là giải pháp đặt thổ sinh kim cầu mong điều muốn.Nhập thế thì nên làm,Xuất thế tuỳ tâm. Phongthuy ứng dụng. Theo phong thủy BNN
  4. Kính Sư Phụ và huynh Nhidiasinh! Đông Nam là cung Khôn chứ ạ. Có lẽ anh viết nhầm chăng?Kính!
  5. Thời An Dương Vương trong quan hệ với thời Hùng Vương Kết quả công tác của các nhóm nghiên cứu về thời kỳ lịch sử Hùng Vương đã cho biết tương đối rõ ràng-ít nhất là ở giai đoạn cuối-tình hình nhiều mặt của nước Văn Lang xưa. Chúng ta cỏ thề ước đoán số dân nước Văn Lang có khoảng trên dưới 1.000.000 người, bao gồm nhiều thành phần dân tộc sống trên miền đất suốt từ phía nam Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc, cho tới miền Bắc Bộ và bắc Trung Bộ mà trung tâm là vùng giáp ranh giữa trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chúng ta đã nhận thức được vai trò chủ đạo của nghề trồng lúa nước trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Người thời đó có thể đã biết dùng cày. Nghề luyện đồng đã đạt tới đỉnh cao. Những chiếc trống đồng nổi tiếng đã làm kinh ngạc cả những người thợ đúc giỏi đời nay. Những công cụ sản xuất bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi rìu, lười câu, giáo đã nhiều hơn các công cụ đá. Dấu vết đồ sắt đã được tìm thấy ở một số di chỉ, hiện tượng này cho phép giải thích nền tảng hiện thực của hình tượng roi sắt và ngựa sắt trong câu chuyện người anh hùng làng Dóng ở thời Hùng Vương. Cái xã hội tổ chức còn giản dị với những thành viên thuần phác đời đời cần cù lao động này cũng đã nảy sinh mâu thuẫn. Quân đội đã ra đời, nhưng có quân đội thường trực hay chưa là điều cần tiếp tục nghiên cứu. Dù người chiến binh đồng thời là người sản xuất, vũ khí đồng thời cũng có thể là công cụ sản xuất (rìu, giáo, lao, mũi tên), thì ta cũng đã thấy được ràng xã hội thời này đã nhiều phen biến động. Mọi mặt của xã hội cuối thời Hùng Vương được tiếp tục bảo tồn và phát triển trong thời kỳ lịch sử An Dương Vương ngắn ngủi và cả về sau này nữa. Việc giao lưu văn hóa với nước ngoài, đặc biệt là với phương bắc, tuy đã có lừ lâu nhưng có lẽ chưa vượt khỏi phạm vi khối Bách Việt ở Hoa Nam để tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Hán tộc miền Trung Nguyên xa xôi. Ở Trung Quốc vào cuối thời Xuân Thu, nông cụ và công cụ thủ công đã bắt đầu làm bằng sắt. Tới thời Chiến Quốc, chế độ phong kiến đã hình thành. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa và kèm theo là những cuộc xung đột quân sự (như việc vua Sở sai Ngô Khởi “bình Bách Việt”) cũng tăng cường hơn trước. Nhưng hơn 5 thế kỷ chiến tranh và xáo trộn vẫn hạn thế sự bành trướng của ảnh hưởng Hán tộc xuống phía nam. Tới khi Tần thống nhất Trung Quốc, tình hình trong nước tạm yên, chủ nghĩa bành trướng phát triến, vua Tần mới tính tới việc đánh chiếm phía nam. Và cuộc đụng độ lớn đầu liên của người Âu Lạc với quân Tần đã xảy ra. Vào nửa cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên, trong khoảng thời gian thành lập nước Âu Lạc, quân Tần đã đánh xuống phía nam. “Người Việt cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đồ Thư” (1 Hoài Nam Tử). Cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi là một sự thật lịch sử đã được ghi chép vào sử sách. “Người tuấn kiệt” chỉ huy cuộc kháng chiến đã được một số người nghiên cứu thừa nhận đó là Thục Phán, người cầm đầu bộ tộc Tây Âu, một bộ tộc láng giềng của Văn Lang. Cuộc xâm lược của nhà Tần không chỉ đe dọa một mình Tây Âu hay Lạc Việt mà cả hai. Chính vì vậy Thục Phán có thể đã được cả người Tây Âu lẫn Lạc Việt “cùng nhau” đặt làm tướng chỉ huy cuộc kháng chiến và cuộc kháng chiến đó đã rèn đúc sự đoàn kết của hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt. Vào nửa sau thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, nước Âu Lạc ra đời (2). Về năm mở đầu của nước Âu Lạc còn có những ý kiến khác như: Năm 257 trước Công nguyên (theo Đại Việt sử ký toàn thư); Năm 210 trước Công nguyên (theo L.Ô-rút-xô); Năm 208 trước Công nguyên (theo Đào Duy Anh) khoảng trước sau thằng lợi của cuộc kháng chiến chống Tần. Nước Âu Lạc là sự sát nhập của hai thành phần Âu và Lạc (3) Xem thêm Nguyễn Duy Hinh: Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương.-Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969, tr.145-150. Tác giả cho rằng chỉ có người Lạc Việt nói chung, Tây Âu, Tây Âu Lạc hay Âu Lạc chỉ là tên của một nước của người Lạc Việt). Cuộc “Chiến tranh” Thục-Hùng thực chất chỉ là sự xung đột nội bộ trong tiến trình hình thành dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Căn cứ vào sự ghi chép của sử cũ, không thấy nêu rõ sự tình một cuộc chinh phục. Truyền thuyết cũng không coi An Dương Vương như kẻ thống trị ngoại tộc, và căn cứ cả vào nhưng phát hiện khảo cổ học, không thấy có một văn hóa vật chất riêng biệt của thời kỳ An Dương Vương, ta có thể thừa nhận An Dương Vương vốn cũng là “Hùng gia chi phái” (4 Xem Thục An Dương Vương tiên đế ngọc phả cổ lục, và Trưng nữ Vương triều âm phủ nhất vị công chúa ngọc phả cổ lục) đã tiếp nhận cơ đồ Hùng Vương, kế tục còng việc dựng nước và giữ nước buổi đầu lịch sử. Âu Lạc chỉ là sự tiếp nối của Văn Lang trên một mức phát triển cao hơn. Về mặt tình cảm dân tộc cũng vậy, nhân dân ta bao đời nay đều trân trọng kính thờ cả Vua Hùng lẫn Vua Thục. Vua chúa của các triều đại về sau đều gia phong mỹ tự, coi cả Vua Hùng và Vua Thục là những vị “hộ quốc tý dân”. Hàng năm đền Hùng mở hội lớn, thì hàng năm đền An Dương Vương cũng mở hội không kém phần long trọng. Nhiều năm tìm kiếm, khai quật trên địa bàn nước văn Lang và Âu Lạc cũ, người cán bộ khảo cổ học chỉ thấy rõ nét một nền văn hóa chung, liên tục phát triển từ thời vua Hùng cho mãi tới thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ nảy sinh từ thời các vua Hùng cho tới mãi thời thuộc Đông Hán mới có thể tạm gọi là ngừng phát triển như một nền văn hóa độc lập. Ngay trên mảnh đất Cổ Loa, khu kinh đô của vua Thục, khảo cổ học đã phát hiện một trung tâm sinh hoạt liên tục của con người suốt từ thời đại đồng sớm (văn hóa Phùng Nguyên) cho tới ngày nay trong đó bao gồm thời kỳ An Dương Vương, mà đại diện cho văn hóa vật chất thời này là di tích thành Cổ Loa và di chỉ khảo cổ học Đường Mây. Di chỉ Đường Mây được xếp vào nhóm di chỉ Đường Cồ, đã bước sang thời đại sắt sớm (1 Nhóm di chỉ Đường Cồ gồm khá nhiều di chỉ như Đường Cồ (Phú Xuyên), Vinh Quang, Chiều Vậy (Hoài Đức), Đại Áng (Thường Tín), Nam Chinh (Ứng Hoà) thuộc tỉnh Hà Tây; Đình Chàng, Đường Mây (Đông Anh), Gò Chua Thông (Thanh Trì) thuộc Hà Nội). Những di vật đá, đồng, sắt, gốm dù có mang đặc điểm riêng nhưng thể hiện rõ ràng tính bản địa, kế thừa đặc điểm của giai đoạn Gò Mun và rất gần gũi với hiện vật Đông Sơn. Có người đã gọi nhóm Đường Cồ là loại hình Bắc Bộ của nền văn hóa Đông Sơn. Vậy từ Đường Mây của đất thành Cổ Loa, nhóm Đường Cồ và cả một phần văn hóa Đông Sơn rực rỡ có thể được coi như văn hóa vật chất của thời kỳ lịch sử An Dương Vương đậm đà tính dân tộc tuy một số ảnh hưởng của văn hóa Chiến Quốc-Hán đối với văn hóa Việt Nam giai đoạn này là sự thực hiển nhiên. Nhà Tây Hán kế tiếp nhà Tần duy trì quốc gia thống nhất và ra sức bành trướng thế lực, nhưng buổi đầu chủ yếu vẫn là phát triển về hướng bắc và hướng tây. Còn ở phía nam, ảnh hưởng Hán vẫn chưa đậm nét. Cho tới thời thịnh đạt nhất-đời Hán Vũ Đế-phong, kiến Hán mới chinh phục được Nam Việt (Triệu Đà) và tràn xuống địa phận Văn Lang-Âu Lạc. Tuy nhiên văn hóa Tây Hán vẫn chưa chiếm được địa vị đáng kể. Cho tới nay, tình hình khai quật và điều tra khảo cổ học vẫn chưa cung cấp thêm tư liệu gì để có thể thay đổi nhận định trên. Dấu vết văn hóa Tây Hán khá mờ nhạt trên khắp vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Ngược lại, bước sang thời Đông Hán tình hình thay đổi hẳn. Số lượng lớn những ngôi mộ gạch Hán cùng những vật tùy táng đồng thời với rất nhiều di vật tìm thấy ở những di chỉ lớn, các trung tâm hành chính, kinh tế đương thời như Luỵ Lâu (Hà Bắc) khiến ta đoán nhận được ngày một sự thay đổi đột ngột, mạnh mẽ, tựa hồ như một bước ngoặt gấp khúc của những đặc điểm văn hóa vật chất trên đất Việt Nam. Hiện tượng này giúp ta xác định rõ đặc điểm bản địa vẫn chiếm địa vị chủ đạo trong bộ mặt văn hóa vật chất của những thời kỳ lịch sử ngắn ngủi tiếp sau hời kỳ Hùng Vương: từ thời Thục An Dương Vương, qua thời thuộc Triệu cho tới cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổi tiếng, chấn động cả triều đình Đông Hán. Từ những di vật khảo cổ học, có thể sơ lược suy ra một số nét của xã hội thời kỳ An Dương Vương như sau: người Âu Lạc vẫn tiếp tục xây dựng nơi ở bằng những ngôi nhà sàn kể những cánh đồng lúa, vẫn mặc theo kiểu đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy, những ngày hội vẫn đội mũ cắm lông chim hay bông lau cao vút trên đầu, vẫn tiếp tục đúc những trống đồng, thạp đồng nổi tiếng, vẫn dùng những vũ khí giáo, lao, rìu lưỡi xéo, rìu gót vuông các loại bằng đồng có trang trí hoa văn hình thuyền, người hoá trang lông chim và động vật hươu nai sinh động và đẹp, v.v... Công cụ bằng kim loại đã thay thế những công cụ sản xuất bằng đá. Những lưỡi cày đồng hình lá tìm thấy tại xóm Nhồi (Cổ Loa) khỏe hơn, dày hơn, kích thước lớn hơn tất cả những lưỡi cày đã tìm thấy chứng minh một sức kéo lớn hơn, một năng suất cao hơn, một kỹ thuật tiến bộ hơn trong nông nghiệp. Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của đồ sắt. Phàn lớn dấu vết sát tìm thấy trong các di chỉ khảo co học không còn rõ hình dáng công cụ vì sắt chóng gỉ và đã gỉ thì rất mau mất nguyên dáng-một mặt là bằng chứng cho một bước tiến lớn trong sức sản xuất, mặt khấc là bằng chứng để cải chinh nhận thức có phần phổ biến từ lâu là Việt Nam mới có sắt từ thời thuộc Hán và do người Hán truyền bá sang. Sắt bước vào đời sống con người thời đó đã cắm một cái mốc quan trọng trong lịch sử. Sức sản xuất tăng lên, kéo theo một loạt những biến đổi lớn trong xã hội Âu Lạc, mà hiện vật khảo cổ đã là minh chứng hùng hòn. Nếu ở cuối thời Hùng Vương sự cách biệt giàu nghèo đã có (1 Sự khác biệt về số lượng những vật chôn theo trong các ngôi mộ ở Đông Sơn trong lần khai quật năm 1970 đã phản ánh rõ ràng điều này), thì ở thời An Dương Vương sự phân hóa giai cấp càng rõ nét. Điều này không chỉ là suy luận. Những chứng cớ về một quân đội thường trực lớn mạnh, những dấu tích của một công trình quân sự-thành Cổ Loa-độc đáo, to lớn đã chứng minh cho điều nòi trên. Kho tên đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực (Cổ Loa) là một phát hiện khảo cổ học hiếm thầy không những trong nước mà cả trên thế giới. Những đầu mũi tên đồng 3 cạnh tương đối lớn về kích thước và khá đặc biệt về kiểu dáng này là cơ sở tốt để giải thích câu chuyện truyền thuyết về nỏ thần. Hầu như mọi người đều chấp thuận ý kiến cho rằng chuyện nỏ thần phản ánh sự xuất hiện một loại vũ khí mới rất lợi hại có thể bắn một lúc nhiều mũi tên, hoặc ít nhất là cải tiến một thứ vũ khí có tác dụng sát thương cao. Việc sản xuất vũ khí cũng có tổ chức quy mô, đội quân thường trực được trang bị chính quy hơn hẳn thời trước. Kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu cũng có một bước tiến mới đồng thời với việc xây thành phòng ngự. Việc xây dựng thành quách và sự xuất hiện chiến thuật chiến đấu phòng ngự trong thành rất phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới: bên trong thì mâu thuẫn giai cấp đã nảy sinh mạnh mẽ, bên ngoài thì sức ép bành trướng của xâm lược nước ngoài tăng lên. Thành Cổ Loa với dấu tích hiện còn là một tòa thành vào loại lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Cho tới nay, chúng ta chưa phân tách bạch được đoạn nào, phần nào được đắp thời Vua Thục, đoạn nào, phần nào do các đời sau tu bổ hay làm thêm. Nhưng những lát cắt thành đã cung cấp chứng cớ để có thể thừa nhận: về cơ bản những lũy thành quanh co hiểm trở vốn là cấu trúc của tòa thành xưa. Từ đấy có thể nhận thấy một tổ chức quân đội khá mạnh “giỏi cung nỏ, thạo thủy chiến”. Quân đội này đã chặn đứng được những cuộc tiến công quân sự của Triệu Đà, buộc họ Triệu phải viện tới những âm mưu xảo quyệt mới chiếm được cơ đồ Âu Lạc (1 Truyền thuyết nỏ thần kể nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc là do hoạt động gián điệp của Trọng Thủy lấy cắp được lẫy nỏ thần của vua Thục. Sử kỷ chép: “Cao Hậu chết tức bãi binh, Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần phục”. Như vậy cả truyền thuyết lẫn sử sách đều thống nhất việc Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc là không phải do một thắng lợi quân sự). Trong mấy chục năm tồn tại của nước Âu Lạc (2 Chúng tôi lấy năm kết thúc của nước âu Lạc là 180 (hoặc 179) trước Công nguyên bằng vào Sử ký: “Cao Hậu chết tức bãi binh, Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần phục) kề vai sát cánh bên nhau, người Âu và người Lạc đã xây dựng một nước giàu mạnh, phát triển trên cơ sở bền vững của hàng nghìn năm thời kỳ Hùng Vương. Nước Âu Lạc đã bước hẳn vào thời đại sắt, tình hình phân hóa giai cấp đã rõ nét hơn, đã xuất hiện nhà nước thực sự, đã có quân đội thường trực mạnh, gồm bộ binh, thủy binh, đã biết xây dựng thành quách vững chắc. 1.Tóm lại, mấy năm nghiên cứu đã có thể cho phép chúng ta sơ bộ chấp thuận một số kết luận cơ bản về thời kỳ lịch sử An Dương Vương và quan hệ giữa thời kỳ này với thời kỳ lịch sử Hùng Vương như sau: -Quan hệ Hùng-Thục là quan hệ nội bộ của người Việt. Không thể coi việc mất ngôi thủ lĩnh của Hùng Vương như kết quả của một sự mất nước của Hùng Vương. Cả hai thời kỳ lịch sử Hùng Vương và An Dương Vương đều có thể đặt chung trong thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước. -Nền văn minh sông Hồng đã phát triển cao hơn một bước trong thời kỳ Thục An Dương Vương. Sự xuất hiện đồ sắt, sự phân hóa giai cấp đã sâu hơn trong xã hội, sự xuất hiện một quân đội thường trực chính quy với một kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu có công sự, sự ra đời một nhà nước thật sự là nhưng mối quan hệ nhân quả chằng chéo, nhưng dù sao những yếu tố mới đâm chồi nảy lộc trong thời kỳ lịch sử An Dương Vương này đều đã được ươm từ thời kỳ lịch sử Hùng Vương trước nó. -Di tích thành Cổ Loa và kho mũi tên đồng Cầu Vực là chứng tích của một bước nhảy vọt về kỹ thuật quốc phòng. Thời kỳ lịch sử An Dương Vương ngắn ngủi đã có thể được coi như bước chuyển mình của hàng nghìn năm lượng biến của thời Hùng Vương. -Sự giao lưu văn hóa với bên ngoài đã có và có từ lâu trước thời Âu Lạc nhưng ảnh hưởng của các văn hóa khác chưa đậm nét và chưa hề làm thay đổi bộ mặt văn hóa bản địa đẫ sâu rễ bền gốc. 2.Một báo cáo tổng kết 3 năm nghiên cứu chưa phải là những kết luận đầy đủ về thời kỳ lịch sử An Dương Vương tuy ngắn ngủi nhưng rất phức tạp. Trên cơ sở những kết luận đã tạm thời rút ra được, chúng ta lại thấy phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu một số vấn đề: -Nguồn gốc tộc Thục còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Phải tiến tới có kết luận nào đó về yếu tố Âu trong văn hóa Âu Lạc. Những kết luận đó sẽ củng cố vững chắc hơn những điều chúng ta đã chấp thuận cho tới nay, rằng quan hệ Thục-Hùng là quan hệ láng giềng, văn hóa Tây Âu và Lạc Việt vốn có nhiều điểm tương đồng và nước Âu Lạc chính là sự sáp nhập của hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt. -Văn hóa Đông Sơn cần được nghiên cứu kỹ về thời gian tồn tại, địa bàn phân bố và những nét khác biệt của các loại hình địa phương. Hiểu biết cặn kẽ về những điểm này sẽ kiểm tra giả thuyết “đặt cả hai thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương vào chung một thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước”. Văn hóa Đông Sơn không những là văn hóa của thời Hùng Vương, thời An Dương Vương mà còn là văn hóa của người Việt cho tới cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. -Sự kiện Vua Thục thay thế Vua Hùng trị dân lập nước Âu Lạc là một biến động xã hội lớn. Nhà Triệu xâm chiếm và nô dịch nước Âu Lạc cũng là một cuộc thay đổi triều đại quan trọng. Nhưng về mặt văn hóa vật chất, hầu như không có mấy đổi thay. Sức sống mãnh liệt của nền văn hóa Đông Sơn phải chăng là phản ánh sức sống mãnh liệt của dân tộc? Chính điều đó đòi hỏi phải giải thich tính chất của sự thay đổi trên lĩnh vực thượng tầng kiến trúc, đặc biệt là ở thời Triệu Đà, nghĩa là phải giải thich rô hơn nguyên nhân sự sụp đổ của cơ đồ nhà Thục. Ở góc độ khảo cổ học bằng vào những di tích văn hóa vật chất thì thời đại đầu tiên của lịch sử Việt Nam rõ ràng phải được cắm mốc cuối ở ngày thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Cho nên để giải quyết tốt những vấn đề về thời kỳ lịch sử Hùng Vương-An Dương Vương, người nghiên cứu không thể không phóng tầm mắt tới những năm đầu của thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Chỉ có thế mới mong rằng trong những năm sắp tới, công cuộc nghiên cửu lịch sử và khảo cổ thời Bà Trưng-Bà Triệu sẽ được đẩy mạnh hơn trước. Tìm vết tích vật chất thời An Dương Vương trong nhóm di chỉ khảo cổ học Đường Cồ Mấy năm nay, khảo cổ học đã phát hiện và khai quật một số di chỉ khảo cổ học có những đặc điểm chung, phân bố tập trung ở hai tỉnh Hà Tây và Hà Nội, hiện được quen gọi là “nhóm Đường Cồ“. Đó là các di chỉ: Đường Cồ (huyện Phú Xuyên), Đại Áng (huyện Thường Tín), Nam Chính huyện Ứng Hòa),Vinh Quang, Chiền Vậy huyện Hoài Đức), Hoàng Ngô huyện Quốc Oai) thuộc Hà Tây; Gò Chùa Thông (huyện Thanh Trì), Đình Chàng, Đường Mây (huyện Đông Anh) thuộc Hà Nội. Ý kiến bàn về nhóm Đường Cồ tới nay đã khá phong phú. Có ý kiến cho rằng nhóm này là loại hình văn hóa Đông Sơn ở đồng bằng Bắc Bộ và nó có những điểm giống đồng thời cũng có những điểm khác với loại hình văn hóa Đông Sơn ở bắc Trung Bộ (1 Hoàng Xuân Chinh và Chứ Văn Tần gọi loại hình ở Bắc Bộ là loại hình Vinh Quang và loại hình ở bắc Trung Bộ là loại hình Thiệu Dương). Có ý kiến cho rằng nhóm Đường Cồ phát triển trực tiếp từ văn hóa Gò Mun và là một văn hóa khảo cổ riêng, không thuộc văn hóa Đông Sơn. Có ý kiến cho nhóm Đường Cồ là một giai đoạn phát triển của văn hóa Văn Lang và Âu Lạc. Về thời gian tồn tại của nhóm Đường Cồ, trên căn bản của ý kiến đều thống nhất, cho là từ khoảng thế kỷ thử 4 trước Công nguyên đến thời gian đầu sau Công nguyên. Những hiện vật khảo cổ của nhóm Đường Cồ có thể là những tài liệu tốt giúp chúng ta tìm hiểu thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc. Tập thể Tổ nghiên cứu 3 Viện Khảo cổ học đã tiến hành nghiên cứu, kết quả cụ thể như sau: Đặc điểm của các hiện vật thuộc nhóm di tích Đường Cồ 1.Đặc điểm về đồ đá. Ở các di chỉ trong nhóm Đường Cồ đều phát hiện được các công cụ bằng đá như rìu, bàn mài, chủ yếu là rìu tứ diện, làm bằng loại đá hơi mềm, ráp, rìu mài không được nhẵn. Đây là loại rìu thấy phổ biến trong các di chỉ có niên đại sớm hơn nhóm Đường Cồ, như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun..., nhưng kỹ thuật chọn đá, chế tác rìu không được chú ý như trước và số lượng cũng ít hơn. Điều này phản ánh công cụ đá đã dần dần được công cụ kim loại thay thế. 2.Đặc điếm về đồ đồng. Đồ đồng trong nhóm Đường Cồ chủ yếu là loại công cụ như lao, giáo, rìu xéo mũi tên. Những hiện vật này có thể kiêm hai chức năng: có thể được dùng trong sản xuất nông nghiệp, trong săn bắn chim thú, đồng thời khi chiến tranh xảy ra có thể được dùng làm vũ khí. Ở di chỉ Vinh Quang (lớp trên) và di chỉ Đình Chàng (lớp trên) phát hiện được loại rìu xéo gót vuông có trang trí hoa văn hình vuông lồng nhau thành dải chạy theo mép lưỡi từ gót đến mũi rìu, ở giữa có hình chiếc thuyền và hình người chèo thuyền, hình 2 con hươu. Công cụ này vẫn có thể sử dụng bình thường như các công cụ khác, nhưng mặt khác nó được trang trí đẹp đẽ và công phu hơn có thể nó đã dần dần mất tác dụng sử dụng và trở thành một vật tượng trưng hoặc vật kỷ niệm lưu truyền từ đời này qua đời khác của một tầng lớp người nào đó trong xã hội đương thời. Một hiện tượng đáng chú ý, ở thời kỳ sớm hơn, người ta thường đem những công cụ, đồ vật đang dùng chôn theo người chết. Nhưng đến thời kỳ này, người ta đã sản xuất ra một loại riêng, loại di vật này có kích thước rất nhỏ, mô phỏng hình dáng của công cụ hoặc đồ dùng hàng ngày. Những di vật này không thể sử dụng, trong sản xuất cũng như trong chiến đấu chỉ còn mang tính chất tượng trưng. Đó là những vật tùy táng (minh khí) trong một số ngôn mộ thuộc nhóm Đường Cồ ở Đình Chàng và một số di chỉ trong nhóm Đường Cồ. Số lượng mũi tên đồng phát hiện trong các di chỉ không nhiều lắm, có thể đó là vì mũi tên là một loại vũ khí hao phí, sử dụng nó thường chỉ được một lần, rồi mất đi. Qua những di vật bằng đồng đã nêu ở trên, có thể thấy được rằng khối lượng đồng và kỹ nghệ đúc đồng ở thời kỳ này khá phong phú và ở trình độ cao. Ở những di chỉ như Vinh Quang, Đình Chàng, công cụ đồng nhiều hơn hẳn công cụ đá. Ở một loạt di chỉ khác như Đường Cồ, Đường Mây, Chiền Vậy, số lượng công cụ đồng và công cụ đá không chênh lệch nhiều, nhưng ở những di chỉ này chúng ta lại tìm được những công cụ bằng sắt. Nhìn chung, đồ đồng ở các di chỉ trong nhóm Đường Cồ có một số đặc điểm như kích thước, kiểu dáng giống đồ đồng ở di chỉ Thiệu Dương và Đông Sơn (Thanh Hóa), đồng thời cũng có một số đặc điếm giống di chỉ thuộc thời đại đồng thau ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Hoa văn hình thuyền, người bơi thuyền, văn hình học trang trí trên những chiếc rìu đồng là những đặc điểm truyền thống của thời đại đồng thau nước ta. Đó là những hoa văn chủ yếu trang trí trên các loại trống đồng, thạp đồng. Nhưng rõ ràng loại hoa văn này đã đơn giản dần, không còn những thô mô típ hoa văn phức lạp, phong phú của thời đại đồng thau cực thịnh mà tiêu biểu là những chiếc trống loại 1 Hê-gơ. 3.Đặc điểm về đồ sắt Trong các di chỉ thuộc nhóm Đường Cồ, công cụ sắt phát hiện được không nhiều. Chỉ có một vài di chỉ như Đường Mây, Chiền Vậy, Đình Chàng, là có tìm thấy công cụ sắt. Nhưng kỹ thuật chế tác công cụ sắt thì lại đã phát triện cao. Theo kết quả phân tích kim tướng học, lưỡi cuốc được chế tạo bằng phương pháp rèn rồi bổ thép. 4.Đặc điểm về đồ gốm Đồ gốm của nhóm Đường Cồ làm bằng đất sét pha cát mịn, SiO2 chiếm khoảng 70%, nguyên liệu được chọn cẩn thận, ít tạp chất, độ nung cao nên gốm cứng, kết luyện tốt, it thấm nước, màu sắc thường là trắng mốc, hồng nhạt, vàng nhạt hoặc đỏ hơi sẫm, tốt hơn hằn đồ gốm của các di chỉ tồn tại thuộc giai đoạn Gò Mun. Về kiểu dáng, thì miệng gốm chủ yếu là loại miệng loe, thành miệng hơi khum hình lòng mảnh mép miệng thường có rãnh giữa, chiều cao thành miệngtương đối đều nhau. Loại miệng có thành thẳng đứng, số lượng không nhiều lắm. Có một số loạt miệng loe ngang (gãy khúc), gần giống loại miệng kiểu Gò Mun. Chân đế thấp hoặc không có chân đế, đáy tròn lồi. Hoa văn thường được trang trí ở bên ngoài từ cổ xuống đến đáy, chủ yếu là loại văn thừng, loại văn thừng tương đối thô in ngang dọc tạo thành những ô trám, ô vuông, chữ nhật to nhỏ không đều nhau. Có loại văn thừng thô, to, lỗ chỗ như tổ ong, còn gọi là văn “nhăn làn ong”. Ngoài ra, đồ gốm ở một số di chỉ như Vinh Quang, Đường Mây, Gò Chùa Thông được trang trí văn khắc vạch, văn sóng nước, văn dấu nổi, văn dấu đan, nhưng số lượng ít, thường được kết hợp trang trí với văn thừng. Ở văn hóa Gò Mun, loại hình gốm điển hình là loại miệng loe gãy mặt trong miệng gốm có trang tri văn khắc vạch hình tam giác, hình tròn nhỏ, vạch song song. Trong nhóm Đường Cồ, có loại miệng loe nhưng không gãy như gốm Gò Mun, mép miệng cũng có rãnh và mặt trong miệng không có trang trí hoa văn. Cá biệt, có mảnh chỉ trang trí ở mặt trong. Trang trí hoa văn trên đó gốm cũng đơn giản dần, không phong phú như gốm thuộc văn hóa Gò Mun. Niên đại của nhóm Đường Cồ và thời gian tồn tại của nước Âu Lạc 1.Về niên đại của nhóm Đường Cồ Theo báo cáo khai quật về các lớp đất ở hai di chỉ Vinh Quang và Chiền Vậy, thì những di tích thuộc nhóm Đường Cồ đều nằm trên những di tích thuộc văn hóa Gò Mun. Ở di chỉ khác như Đình Chàng, loại gốm Đường Cồ xuất hiện khá sớm, ngay trong lớp đất có loại gốm Gò Mun, và dần dần thay thế loại gốm Gò Mun. Trong khoảng tiếp giảp giữa loại gốm của văn hóa Gò Mun và loại gốm của nhóm Đường Cồ, tới nay chưa thấy có loại gốm của một văn hóa khác nào xuất hiện. Chỉ đến lớp trên cùng của tầng văn hóa thuộc nhóm Đường Cồ, mới thấy xuất hiện mội số mảnh gốm có trang trí văn ô vuông, văn trám lồng, mảnh “bản sứ”; đó là những loại di vật tồn tại phổ biến trong thời thuộc Hán. Theo nhận xét sơ bộ của chúng tôi, ở di chỉ Gò Chùa Thông mà chúng tôi vừa khai quật xong, trong lớp đất văn hóa mà loại gốm kiểu Gò Mun chiếm tuyệt đại đa số, đã bắt đầu xuất hiện những mảnh gốm kiểu Đường Cồ. Càng lên các lớp ở trên, loại gốm Gò Mun càng giảm dần và loại gốm Đướng Cồ càng tăng dần. Đến một lớp nhất định, loại gốm Gò Mun biến mất và chỉ còn gốm Đường Cồ. Trong di chỉ này, chúng tôi không thấy có hiện tượng cách biệt hoàn toàn giữa hai loại gốm Gò Mun và Đường Cồ, giống như ở Đình Chàng, cũng cùng ở địa phận Hà Nội. Điều đó có thể phản ánh sự chuyển biến liên tục từ Gò Mun đến Đường Cồ, mà không có sự thay thế đột ngột giữa văn hóa Gò Mun và nhóm Đướng Cồ. Trong một vài di tích thuộc nhóm Đường Cồ, đã phát hiện được một số ngôi mộ có hiện vật chọn theo là loại di vật thuộc thời đại muộn (thời Hán), như vò tráng men, cốc đốt trầm bằng đất sét trắng tráng men, vò gốm có văn trám lồng, đồng thời, trong cùng những ngôi mộ đó cũng có một số hiện vật giống đồ gốm Đường Cồ. Như vậy là hai nhóm di vật bản địa và ngoại lai song song tồn tại trong cùng một ngôi mộ. Hiện tượng này tương tự như hiện tượng thấy trong ngôi mộ thuyền Việt Khê. Theo cấu tạo tầng đất và so sánh loại hình khảo cổ, ta có thể thấy rằng: nhóm Đường Cồ chủ yếu tồn tại từ giai đoạn cuối văn hóa Gò Mun và kéo dài cho mãi tới thời thuộc Đông Hán (thế kỷ thứ 1-thứ 2 sau Công nguyên). Kết quả phân tích C14 ở một số di chỉ cho phép xác định về niên đại của một số di chỉ trong nhóm Đường Cồ như sau: di chỉ Vinh Quang ở lớp văn hóa Gò Mun, trước nhóm Đường Cồ, có niên đại tuyệt đối là 3.046±120 năm cách ngày nay (tính từ năm 1950 trở về trước), tức khoảng cuối thiên niên kỷ thứ 2 đầu thiên niên kỷ thử 1 trước Công nguyên). Ở chính lớp đất thuộc nhóm Đường Cồ di chỉ Chiền Vậy ở độ sâu 0m65 có niên đại tuyệt đối là 2.350±100 năm cách ngày nay (tính từ năm 1950 trở về trước), tức khoảng thế kỷ thử 5 hay thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Tóm lại, qua việc nghiên cứu cấu tạo lớp đất văn hóa, so sánh loại hình khảo cổ kết hợp vời những kết quả phân tích C14, bước đầu có thể xác định được niên đại của nhóm Đường Cồ là: từ khoảng giữa thiên niên kỷ thử 1 đến thế kỷ thử 1-thứ 2 sau Công nguyên. Nhóm di tích Đường Cồ nằm trong phạm trù thời đại sắt. Đương nhiên, niên đại của từng di chỉ trong nhóm này có sớm muộn khác nhau. Những di vật trong nhóm Đường Cồ, tuy có một số nét nói lên ảnh hưởng của các vùng lân cận và tuy có mang một số nét địa phương, nhưng về cơ bản nhóm Đường Cồ vẫn mang đặc điểm truyền thống của những văn hóa khảo cổ tồn tại trước nó (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun), đồng thời có nhiều nét tương tự như di tích Đông Sơn hoặc chính là nhưng di tích của văn hoá Đông Sơn ở đồng bằng Bắc Bộ. 2.Về thời gian tồn tại của nước Âu Lạc Thời gian tồn tại của nhóm Đường Cồ, là khoảng từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 1-thứ 2 sau Công nguyên. Thời gian này có thể bao gồm nhiều thời kỳ lịch sử, thời kỳ cuối Hùng Vương, thời kỳ An Dương Vương, thời kỳ thuộc Triệu, thời kỳ thuộc Tây Hán đến thời kỳ thuộc Đông Hán. Về thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc, có nhiều ý kiến không thống nhất. Có ý kiến cho rằng nước Âu Lạc tồn tại trong 50 năm, từ năm 257 đến năm 208 trước Công nguyên. Có ý kiến cho rằng trong 30 năm, từ năm 208 đến năm 179 trước Công nguyên. Có ý kiến cho rằng chỉ 4 hay 5 năm, từ năm 210 đến năng 207 trước Công nguyên. Những ý kiến đưa ra các thời gian cụ thể này, cứ liệu chủ yếu là thư tịch cũ và truyền thuyết dân gian, nói chung còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cửu. Trong phạm vi tư liệu hiện có và tình hình nghiên cứu hiện nay, chúng tôi thấy hợp lý hơn cả là ý kiến cho rằng trên đại thể, thời gian tồn tại của nước Âu Lạc có thể định từ nửa sau thế kỷ thử 3 đến đầu thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Đối vời lịch sử cổ đại, thời gian mấy chục năm là rất ngắn ngủi. Một thời gian ngắn như vậy chưa đủ để có thể làm thay đổi về cơ bản nền văn hóa của một xã hội. Hơn thế nữa, theo ý chúng tôi, việc nước Âu Lạc thay thế nước Văn Lang có thể chỉ là sự sáp nhập giữa những cộng đồng người sống gần gũi nhau trong cùng một địa bàn có những đặc điểm văn hoá về cơ bản không khác nhau lắm; có thể nói rằng văn hóa Âu Lạc là sự kế tục và phát triển văn hóa Văn Lang. Cho nên không ngạc nhiên gì nếu cho đến quay, chúng ta chưa tìm ra được những bộ di vật hoàn chỉnh mang dấu ấn riêng biệt của thời kỳ lịch sử An Dương Vương, để có thể tách bạch rõ ràng những di vật nào là của thời kỳ Hùng Vương, thời kỳ An Dương Vương hay những thời ky sau đó. Hiện tượng này khác hẳn với thời kỳ sau đó, khi nước ta thuộc Hán (đặc biệt là thời Đông Hán): ở thời kỳ mà chúng ta rất dễ nhận ra vết tích của văn hóa Hán. Trên cơ sở quan sái những di vật khảo cổ trong nhóm Đường Cồ, định niên đại tương đối của chúng, đối chiếu với những tư liệu chữ viết, chúng ta tuy chưa tìm thấy nhưng vẫn có thể tìm hiểu được vết tích vật chất của thời kỳ An Dương Vương. Theo với thời gian những phát hiện mới về các di chỉ thuộc giai đoạn Đường Cồ sẽ giúp chúng ta cơ sở để xác định văn hoá của nước Âu Lạc. Cổ Loa và vùng phụ cận là một khu di tích quan trọng chứa nhiều di tích của các thời đại, từ thời Phùng Nguyên đến thời thuộc Hàn. Trong đó, có các di chỉ Đình Chàng, Đường Mây thuộc nhóm Đường Cồ. Theo truyền thuyết dân gian cũng như những điều ghi chép trong sử sách xưa, Cổ Loa còn là nơi An Dương Vương đóng đô và xây thành. Chính vì vậy, những di chỉ thuộc nhóm Đường Cồ tại Cổ Loa có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm hiểu văn hóa vật chất thời kỳ An Dương Vương. Ở đây chúng ta cần nghiên cứu tường thành, nhưng cùng với tường thành, toàn bộ khu dì tích này cũng cần được đi sâu nghiên cứu toàn diện. Kết luận 1.Nhóm Đường Cồ phát triến sau văn hóa Gò Mun, có mối liên quan chặt chẽ vời văn hóa Gò Mun và có nhiều đặc điểm giống văn hóa Đông Sơn. Nhóm Đường Cồ thuộc phạm trù thời đại sắt. Đó là một giai đoạn phát triển của văn hoá truyền thống bản địa. Nhóm Đường Cồ tồn tại từ khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên đến ít lâu sau Công nguyên, như vậy, thời gian này bao gồm nhiều thời kỳ lịch sử: từ cuối thời kỳ Hùng Vương, qua thời kỳ An Dương Vương, thời kỳ Triệu Đà cho đến thời kỳ thuộc Đông Hán. 2.Thời kỳ An Dương Vương tồn tại rất ngắn sau thời kỳ Hùng Vương. Việc xác định một cách rõ ràng một nhỏm di tích nào đỏ thuộc thời kỳ An Dương Vương là một việc rất khó khăn. Tuy nhiên, qua những di chỉ thuộc nhóm Đường Cồ có nhiều cơ sở để đoán định rằng bộ mặt văn hóa thời Âu Lạc về cơ bản không khác thời Văn Lang mà chỉ là sự phát triển tiếp tục của văn hóa thờì Văn Lang. Nhưng đến giai đoạn Âu Lạc thì bên cạnh nền ván hóa cổ truyền, xuất hiện bước tiến vượt bậc về kỹ thuật quân sự, hay cũng có thể nói cụ thể là về quốc phòng, đặc biệt là việc xây thành và cải tiến vũ khí bắn xa. Tăng cường tầm hiệu quả của vũ khí. 3.Sự thành lập nước Âu Lạc không phải là sự sáp nhập của hai cộng đồng người xa xôi nào đó, mà là những cộng đồng người rất gần gũi nhau. Về văn hóa, trên cơ bản, họ giống nhau, có sự kế thừa lẫn nhau. Vì thế, tìm ra một văn hóa khảo cổ Âu Lạc riêng biệt khác hẳn với văn hóa khảo cổ Văn Lang là một việc khó, cần phải tốn nhiều công sức của nhiều người và trong một thời gian dài. 4.Việc sử dụng và tiếp thu công cụ sắt ngay từ trước khi nước Âu Lạc thành lập đã giúp cho người Âu Lạc mở rộng phạm vi canh tác: sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống được nâng cao tạo điều kiện cho nghề thủ công phát triển. Nghề gốm phát triển cao, sản phẩm làm ra bền hơn trước. Công cụ bằng đồng vẫn được sử dụng nhưng có xu hướng giảm dần. Người ta đã làm nhiều đồ minh khí đồng, như rìu, đe dùng vào việc mài tảng. Điều này một mặt nói lên nghề đúc đồng phát triển cao, mặt khác nói lên quan niệm chia của giữa người sống và người chết đã có sự thay đổi nhất định đồng thời cũng phản ánh sự phân chia giàu nghèo trong xã hội. Đồ sắt phát triển, chủ nhàn của nền văn hóa biết bỏ thép vào lưỡi công cụ bằng sắt để cho công cụ cứng hơn, sắc hơn, và tất nhiên việc sử dụng nhiều đồ sắt không thể không dẫn tởi hệ quả là sức sản xuất phát triển thêm một bước. 5.Việc đắp thành Cổ Loa là một sự kiện lớn, chứng minh rằng văn hóa vật chất thời kỳ An Dương Vương đã phát triển đến một trình độ rất cao. Chủ nhân của những di vật trong nhóm Đường Cồ đã chế tạo được công cụ sắt nên có thể có khả năng đào đắp tòa thành Cổ Loa to lớn và phức tạp như trong truyền thuyết và thư tịch đã ghi chép. Tất thiên, thành Cổ Loa còn phải được nghiên cứu lâu dài và kỳ càng hơn. Chúng ta phải chú ý nghiên cứu kỹ những phần sửa chữa, bồi đắp hoặc làm mới của những thời đại sau, với những vết tích còn lại từ thời An Dương Vương mới co thể rút ra những kết luận khoa học tiếp cận với chân lý khách quan. Vài nét về tổ chức của xã hội Văn Lang qua tài liệu ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu Trong một bài nghiên cứu về từ “phụ đạo” 1 (Hoàng Thị Châu: Tìm hiểu từ “phụ đạo” trong truyền thuyết về Hùng Vương Nghiên cứu lịch sử, số 102, tháng 9-1967) chúng tôi đã nhấn mạnh đến giá trị tài liệu lịch sử của những từ chỉ chức vị, chỉ thân phận xã hội những lớp người khác nhau dưới thời các Vua Hùng. Nay tôi trình bày kết quả việc tìm hiệu hệ thống tên gọi trong truyền thuyết dựng nước của dân tộc. Chúng tôi sẽ không đề cập đến những từ như lạc vương, lạc hầu, lạc tướng. Vì đó là cách người Hán gọi tên những người đứng đầu trong bộ máy chính quyền ở ta bằng những quan chức của họ: vương, hầu, tướng… phụ thêm với tộc danh Lạc mà họ gọi ta do đặc điểm nông nghiệp của dân ta. Phụ đạo được dùng để gọi những người đứng đầu một cộng đồng tộc, trong các ngôn ngữ các dân tộc thiểu số anh em. Theo nhiều bản ngọc phả về Hùng Vương thì đó là tên chỉ chức vị gọi những người đứng đầu các “bộ” hợp thành nước Văn Lang. Đây là một chức vị kế thừa, trái lại người đứng đầu mỗi kẻ, mà bóng dáng của họ còn để lại gần đây trong chức tiên chỉ, do dân chọn lấy trong những người lớn tuổi nhất. Cũng thế, ở các dân tộc Tây Nguyên, cầm đầu buôn, plây là già làng do dân bầu ra theo nguyên tắc dân chủ nguyên thủy, nhưng chức pơ-tao tức là thủ lĩnh dân tộc (hiểu theo nghĩa rộng của từ dân tộc) lại là một chức vụ kế truyền theo dòng dõi. Những người giúp Hùng Vương trong việc cai trị gọi là bồ chính. Ở dân tộc Gia-rai, người giúp việc pơ-tao cai quản một số plây cũng được gọi bằng một từ tương tự là pồ-ta-rinh. Từ Mỵ nương, chúng ta thường gặp trong truyền thuyết lịch sử, như là tên của nàng công chúa. Theo chuyện Hồng Bàng, Mỵ nương là danh từ chung để gọi những người con gái Vua Hùng. Nhiều tác giả cho rằng “Mỵ Nương” là phiên âm hai từ “mệ nàng” trong tiếng Việt. Nhưng hiện nay, ta chỉ dùng từ “mệ” để gọi bà già theo tiếng địa phương bắc Trung Bộ. Tuy vậy, ta có thể tìm hiểu từ này qua những ngôn ngữ anh em. Trong tiếng Mường có từ mại là “người con gái”; trong tiếng chàm ca-mái, tiếng Ba-na (Tây Nguyên) mai đều có nghĩa là “con gái”; tiếng Xan-ta-li (ở Ấn Độ) có từ mai để chỉ “con gái“, “phụ nữ”, “giống cái”. Trong tiếng Việt, từ mái hiện nay chỉ dùng để gọi loài chim thuộc giống cái như “gà mái”, “chim mái”. Tiếng Di-oi (ở Quý Châu): mai có nghĩa là “con gái”, “phụ nữ”; tiếng Lào, Thái trắng gọi người phụ nữ là me-nhính. Như trên đã nói, từ nàng và chàng trong tiếng Việt cổ có vẻ trang trọng hơn bây giờ, tên huý các vị thần con cháu Hùng Vương đều được truyền tụng để khấn khứa khi cấu cúng với từ “nàng và chàng”. Trong tiếng Mường gần đây danh từ mại chỉ dùng để gọi những người con gái thường dân, còn vợ và con gái nhà lang thì được gọi là nàng. Trong tiếng Tày, tiếng Thái, từ nàng cũng được dành riêng cho nhưng người phụ nữ quý tộc. Trong tiếng Mã-Lai, In-đô-nê-xi-a, có từ đang để gọi các “phu nhân”. Theo ngữ âm lịch sử, hai phụ âm d và n thông nhau, có thể chuyển hoá cho nhau, hơn nữa trong lịch sử tiếng Việt quá trình d chuyện hoá thành n đã xảy ra khoảng trước thế kỷ thứ 10. Đối lập với từ nàng, để gọi người phụ nữ qui tộc, người con trai, đàn ông quý tộc trong các ngôn ngữ Mường, Tày, Thái gọi là lanq, do đó mà dòng họ quý tộc thì gọi là nhà lang. Tên 18 người con trai Hùng Vương, theo các thần phả sao chép lại, đều có từ lang và trong ngôn ngữ thờ cúng truyền miệng thì gọi là chàng như đã nói trên. Từ quan trong từ ghép quan lang được nhiều tác giả giải thích bằng tiếng Hán là từ chỉ quan chức. Nhưng theo truyền thuyết thì từ quan lang đã có từ lâu đời trong thời Hùng Vương: trước khi người Hán sang. Hơn nữa quan lang được đặt đối lập với từ mỵ nương và còn nói rõ là dùng để gọi con trai và conc gái các vua Hùng. Những điều truyền thuyết ghi lại khá phù hợp với tài liệu so sánh ngôn ngữ về từ mỵ nương như chúng ta vừa thấy: mi được phiên âm từ dạng tương tự như còn thấy trong các ngôn ngữ dân tộc anh em: mái, mại, mai, me; nương là do từ nàng, đang. Vậy cả hai từ mị nương có nghĩa là “con gái”, “phụ nữ”, “giống cái”, duy chỉ khác nhau ở sắc thái tu tù học. Từ thứ nhất có nghĩa thông dụng rộng rãi hơn, từ thứ hai có vẻ trang trọng, quý phái hơn. Trong từ ghép quan lang thì từ lang có nghĩa là “đàn ông” và cũng được dùng với vẻ trang trọng, quý phái trong các ngôn ngữ Mường, Tày, Thái, gần đây. Ngoài ra, lang lại là một từ thông âm và thông nghĩa vời từ drang-lo trong tiếng Ba-na là “đàn-ông”, a-rang trong tiếng Ê-đê, a-rang trong tiếng Chàm ; a-rang trong các ngôn ngứ Mã-lai, In-đô-nê-xi-a với nghĩa là “người”1 (Xem: Hoàng Thị Châu: Nước Văn Lang và cương vực của nó qua tài liệu ngôn ngữ học. In trong tập này) . Nếu chúng ta lập thành phương trình; mị nương quan lang: mỵ con gái, giống cái = nương đàn bà quý phái (Mường, Thái, Tày) quan ? = lang đàn ông quý phái (Mường, Thái, Tày) thì có thể suy ra nghĩa của từ quan là “con trai”, “giống đực” và từ này đã được tìm thấy trong tiếng Stiêng (ở tỉnh Biên Hòa) là “giống đực”. Ngoài ra, vì sự gần gũi nhau về âm và về nghĩa, chúng ta có thể nghĩ đến mối liên hệ giữa từ này vời từ kòn, kẫn, kuôn trong các ngôn ngữ nhóm Thái có nghĩa là “người”. Về cách xưng hô của những người tôi tớ, trong bản dịch Lĩnh Nam chích quái của Nhà Xuất bản Văn hóa in năm 1960, viết là: “Thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô ty). Bề tôi gọi là hồn”, và chú thích thêm: “Bản thứ A.1752 chép: “Thần bộc, nô lệ gọi là ấn ty, gọi là triệu xứng”. Trong chữ Hán, hai từ “xưng” và “xứng” viết giống nhau. Theo chúng tôi hiểu, đây là chữ xưng và đoạn văn trên nên dịch là: đầy tớ gái xưng là xảo, đầy tớ trai xưng là triệu. Trong tiếng Thái Lan và nhiều ngòn ngữ nhóm Thái thì xảo có nghĩa là “con gái”, trài là “con trai”. Tiếng Thái Lan gọi di xảo là “chị”, di trài là “anh”, noọng xảo là “em gái”, noọng trài là “em trai”. Trong tiếng Chàm, “tôi tớ, nô lệ” gọi là hơ-lun; tiếng Gia-rai cũng có từ như thế. Điều này giúp chúng ta hiểu thêm chữ hồn chép trong truyền thuyết: “bề tôi gọi là hồn”. Trong tiếng Thái (Tây Bắc), từ côn hươn cũng dùng để gọi những người tôi tớ có thân phận giống như nông nô. Sự phân tích những từ xưng hô của những lớp người khác nhau trong xã hội Văn Lang cho ta thấy những từ này đều xa lạ với tiếng Việt thời cận, hiện đại. Do đó, có thể tin rằng, những người sưu tầm và chỉnh lý truyền thuyết Hồng Bàng đã khách quan thu thập và ghi chép một cách chinh xác những từ cổ nói trên, vì chính những từ này đối với bản thân họ cũng rất xa lạ. Hệ thông tên kẻ và mạng lưới thổ ngữ giúp chúng ta xác định được, lần đầu tiên, sự tồn tại của công xã kiểu châu Á ở Việt Nam từ thời nước văn Lang. Hệ thống những từ xưng hô gọi chức vị được truyền thuyết phản ảnh lại cho thấy rằng: dân cư trong xa hội Văn Lang đã không còn thuần nhất nữa, họ đã phân ra thành những tầng lớp xã hội cách biệt nhau đến mức đòi hỏi phải có những từ xưng hô riêng cho mỗi lớp người. Và hệ thống tên gọi này chỉ có thể ra đời sau khi những lớp người ấy đã hình thành. Nước Văn Lang và cương vực của nó qua tài liệu ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu Trước đây, trong một bản báo cáo khoa học học đăng 1963 về mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, chúng tôi đã có dịp trình bày về một hệ thống tên sông được hình thành trên một cơ sở ngôn ngữ chung cho cả miền Đông Nam Á. Tiêu biếu cho hệ thống đó là sự trùng tên hai con sông lớn nhất trong vùng: sông Dương Tử và sông Mê-kông (cả hai đều có tên là Công). Hệ thống tên sông này có thể cắt nghĩa bằng ngôn ngữ của các dân tộc hiện đang sống ở đây. Điều này chứng minh rằng: những ngôn ngữ ở đây đã được phát triển liên tục. Trong quá trình phát triển lịch sử ở đây không xảy ra viện thay thế những ngôn ngữ khác nhau (1 Trường Đại học Tổng hợp: Thông báo khoa học, Tập Ngôn ngữ-Văn học Hà Nội, 1966). Tuy nhiên tên sông là loại địa danh cổ nhất, nó ứng với thời kỳ các tộc người chưa phân hóa rõ rệt thành những dân tộc cụ thể, với những tên gọi và những đặc trưng nhiều mặt khác nhau chưa hình thành rõ nét. Hệ thống tên sông ở Đông Nam Á chỉ giúp chúng ta hình dung được phần nào địa bàn sinh sống và nền tảng ngôn ngữ của những dân tộc kế tục phát triển trên đó. Nhưng trên cái nền bao quát đó, tổ tiên người Việt ở đâu? Đâu là nơi tổ tiên chúng ta dựng làng, lập nước, khởi đầu cho một dân tộc có truyền thống vẻ vang ngày nay? Muốn trả lời câu hỏi trên, chúng ta phải lần lượt xét đến nhưng loại địa danh gần gũi với chúng ta hơn như: tên nước, tên làng... Về tộc danh này đã có nhiều ý kiến giải thích như: “Văn Lang là nước của những quan lang xăm mình” Đào Duy Anh, “Văn Lang là do chép nhầm từ tên Dạ Lang” (Ma-xpê-rô). R.Xtai-nơ, tác giả cuốn Nước Lâm Ấp đặt tên Văn Lang vào trong một hệ thống tộc danh và địa danh có yếu tố “Lang” như Bạch Lang (Tứ Xuyên), Việt Lang (Quảng Đông), Dạ Lang (Quảng Tây), Mơ-ran, Mơ-ren, Mơ-nông, Tchang-lang, Khang lang... và đối chiếu yếu tố lang trong danh từ riêng với những danh từ chung chỉ ao, hồ, làng, đầm ở các địa phương trên. Xtai-nơ có ý muốn giải thích tộc danh Văn Lang bằng những từ này. Chúng tôi tán thành phương pháp làm việc của Xtai-nơ trong khi nghiên cứu vấn đề này, vì đó là một phương pháp ngôn ngư học, đúng hơn là phương pháp của các tác giả khác. Không theo giải thích tộc danh bằng cách phán đoán tùy tiện và hơn nữa lại tách một tên gọi ra làm hai phần và mỗi phần giải thích bằng một thứ ngôn ngữ khác nhau. Tên Văn Lang không đứng một mình mà nằm trong một hệ thống tộc danh có yêu tố chung là “-Lang”. Ở Đông Nam Á (cũng như ở nhiều nơi khác trên the giới) chúng ta có thề tìm thấy nhiều hệ thống tộc danh kiểu này. Chẳng hạn hệ thống tộc danh có yêu tố “pu” “phu”: Phu Xai là tên người Lào tự xưng, Phu Thung: tên một dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Thái mà người ta còn gọi là Mường Cửa Rào. Pu Y (Bố Y) là tên người Choang tự xưng ở các huyệt Long An, Điền Lâm, Tam Giang thuộc Quảng Tây. Pú Thủ (Bố Thổ): tên gọi người Choang ở huyện Điền Dương, Bách Sắc. Hệ thống tộc danh Mon, Moe, Mọi là tên tự xưng của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ-me sinh sống dọc Trường Sơn và rải rác ở vài nơi trên đất Miến Điện. Hệ thống tộc danh Thái, Xai, Đay, Tày... là tên tự xưng của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Thái. Và hệ thống tộc danh có yếu tố “Lang” chúng ta có thể bổ sung một vài tài liệu cho danh sách mà Xtai-nơ đã thống kê. Theo sử cũ chép lại thì có nhóm người Dạ Lang sinh sống ở bắc Quảng Trị. Theo các sách viết vào đời Minh ở Trung Quốc, như Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư, thì ở tỉnh Quảng Tây có nhiều người Lang (Lang nhân), đâu đâu cũng thấy, do đó thổ bình vùng này được gọi là Lang binh. Thế là người Choang, cách đây đến 4, 5 thế kỷ vẫn còn được gọi là người Lang. Tên Choang tộc hiện nay đọc theo âm Hán Việt là Chàng tộc, chẳng qua chỉ là biến thể ngữ âm của tên Lang, cũng như cách phát âm khác nhau giữa tên lang Hán Việt và chàng trong tiếng Việt. Vậy những yếu tố được lắp đi lắp lại ở những địa danh trên là gì. Từ phu, phu trong hệ thống tộc danh thứ nhất tìm thấy trong các ngôn ngữ nhóm Thái với nghĩa là “người đàn ông”. Chính từ phu này đã thâm nhập vào tiếng Hán và với nghĩa là “đàn ông” “chồng” như: nông phu, thất phu, phu quân... Từ này còn tìm thấy trong những ngôn ngữ ở cực nam Trung Bộ như trong tiếng Bi-at, Stiêng thì bu có nghĩa là “Người”. Các từ môn, mol, mọi trong nhiều ngôn ngữ thuộc nhóm Môn Khơ-me dọc Trường Sơn và trong tiếng Mơ-nông đều có nghĩa là “người”. Trong tiếng Dao, từ mun cũng có nghĩa là người. Thông thường tộc danh và nhất là những tộc danh cổ đều xuất phát từ những danh từ chung có nghĩa là “người”. Trên thế giới loại tộc danh như thế, hiện nay còn gặp được rất nhiều, nhấl là ở những dân tộc thiểu sổ sống ở miền rừng núi. Vậy Lang có nghĩa là gì? Chúng ta thấy từ Lang xuất hiện trong tiếng Hán rất muộn, mãi đến đời Đường trong sách vở mới có từ này, với nghĩa là “đàn ông” đối lập với chữ “nương” là nàng. Trong tiếng Việt có những từ tương đương là chàng và nàng. Những từ này hiện nay không còn dùng với vẻ tôn kính như xưa. Nhưng nếu chúng ta đi thăm lại các di tích thờ cúng cũ như những nơi thờ nhân thần và thiên thần thời Hùng Vương như thờ Tản Viên và các vị quan lang con các Vua Hùng chẳng hạn thì chúng ta sẽ được nghe tên những vị thần đại loại như sau: Đức Chương Nhị đại vương, Đức Chương Út đại vương, Đức Cương Trực đại vương-tên 3 vị thánh thờ ở đình Bảo Đà, Việt Trì. Xã Hồng Hà (Lâm Thao, Vĩnh Phú) có đình thờ nữ thần tên là Non Trang da nàng... Những tên này được kiêng cữ rất kỹ, chỉ có cụ tiên chỉ và ông từ biết để khấu khi cúng hèm mà thôi. Như thế là trong tên nôm húy, các vị thần đều được gọi bàng chàng và nàng. Theo Lĩnh Nam chích quái thì các con trai Hùng Vương gọi là quan lang, con gái gọi là mỵ nương. Nhiều học giả cho rằng chính từ quan lang này đã lưu lại ở người Mường và về sau vẫn dùng để gọi giai cấp quý tộc phong kiến: quan lang là người đứng đầu một mường. Nhưng như chúng ta đã thấy ở trên, những từ lang và nàng (nương) dùng để gọi con trai con gái Hùng Vương vẫn được ghi lại trong các đình miếu người Việt và được phát âm theo kiểu hiện nay là chành và làng (sau này chúng ta sẽ trở lại những từ quan lang và mị nương). Vậy những từ lanq và nương đã từ những ngôn ngữ phía nam Trung Quốc thâm nhập vào tiếng Hán, cũng như từ giang là “sòng” đã được phân tích ở trên. Đi thêm vào các ngôn ngữ phương Nam, chúng ta sẽ gặp từ drang-lô trong tiếng Ba-na có nghĩa là “đàn ông”, trong tiếng, Ê-đê a-rang là “người”, trong tiếng Chàm u-rang, trong các ngôn ngữ In-đô-nê-xi-a, Mã Lai o-ranq đều có nghĩa là người. Vậy những tộc danh Lang, Văn Lang, Dạ Lang... đã bắt nguồn từ một danh từ có nghĩa là “đàn ông”, “người” với những hình thái biến đổi khác nhau tùy theo ngôn ngữ, phương ngữ và tùy theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Những tộc danh như Văn Lang, Việt Lang, Bạch Lang, xét về cách phát âm tiếng Việt cổ và tiếng Hán cổ (vì dùng tiếng Hán để phiên âm tiếng địa phương), đều bắt đầu bằng bán nguyên âm môi “w” hay phụ âm môi “p” và theo với quy luật biến âm thì những âm này thông vớt các nguyên âm trên môi, như o, u tức là có thể chuyển âm lẫn cho nhau từ trạng thái nọ sang trạng thái kìa, cũng như hai phụ âm l và r cùng thông với nhau. Những từ như Văn Lang, Việt Lang với u-rang, o-rang cũng như Dạ Lang với drang (trong drang-lô) vẫn được xem là những từ giống nhau trong phương pháp so sánh của ngôn ngữ học lịch sử. Hơn nữa, trong tiếng Hán, trong khoảng 2.000 năm trở lại đây, không có phụ âm r, do đó những từ có phụ âm r trong các ngôn ngữ khác đều được phiên âm sang chữ Hán bằng l. Chữ nôm của ta cũng phản ánh điều này. Nếu chúng ta chiếu trên bản đồ thì sẽ thấy khu vực có tộc danh Lang dài ra từ sông Dương Tử cho đến miền Trung Bộ Việt Nam, tập trung nhất ở vùng Lưỡng Quảng và Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Còn những danh từ chung chỉ “người” có dạng tương tự: lang, drang-lô, o-rang... chiếm một địa bàn lớn hơn: cả vùng đồng bằng duyên hải và các hải đảo bao quanh và tạo thành Nam Hải. Nếu vì vai trò của Nam Hải trong lịch sử các dân tộc Đông Nam Á với Địa Trung Hải đối với các nước Nam Âu và Bắc Phi thì cũng không có gì quá đáng. Mộl lần nữa, chúng ta lại bắt gặp sự liên quan về nguồn gốc giữa tên riêng với danh từ chung. Xét về phương diện địa lý thì vùng các dân tộc danh Lang nằm gọn trong lõi của địa bàn có danh từ chung tương tự. Thông thường, tên riêng gắn liền với quê hương cũ, nơi đó được sinh ra, còn danh từ chung theo với sự trao đổi, tiếp xúc giữa các tộc người và giữa các ngôn ngữ có thể đi xa hơn. Sự xuất hiện tộc danh đánh dấu thời kỳ bắt đầu phân hoá, cá tính hóa giữa các tộc người để hình thành các dân tộc (hiểu theo nghĩa rộng). Vậy tộc danh Văn Lang, đúng như truyền thuyết đã lưu lại, có thể là một trong những tộc danh cổ nhất của dân ta, đồng thời nó cũng chỉ cho chúng ta mối quan hệ chặt chẽ về họ hàng, về ngôn ngữ với những tộc người xung quanh và địa bàn sinh sống của họ. Theo Lĩnh Nam chích quái về các sách sử của nước ta như: Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư thì Hùng Vương hưng khởi ở “bộ” Văn Lang, tức là đất Phong Châu cũ, bao gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nội hiện nay, và từ đây thu phục các “bộ” khác xung quanh gồm cả thảy 15 bộ (con số theo truyền thuyết), chiếm cả một phần miền Lưỡng Quảng, Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Xem thế thì khu vực chúng ta tìm thấy các tộc danh Lang khá ăn khớp vớt cương vực nước Văn Lang trong sử sách. Bây giờ chúng ta chuy ển sang một loại tài liệu địa danh khác có thể xác minh thêm về cương vực nước Văn Lang: tên xã thôn. Với phương pháp thống kê địa danh học có thể vạch một cách khái quát ngay trên bản đồ những vùng dân cư có nguồn gốc khác nhau. Tây Bắc là vùng tập trung tên nơi cư trú với từ mường, chiền. Vùng Việt Bắc thì tập trung địa danh với từ bản, nà. Địa danh ở Tây Nguyên được chia thành hai cụm: -trên cao nguyên Đắc Lắc là cụm địa danh với từ buôn -ở cao nguyên Côn Tum lại là cụm địa danh với từ plây. Những từ như mường, bản, buôn, plây đều là những danh từ chung trong các ngôn ngữ dân tộc để chỉ những đơn vị cư trú tương đương với xã thôn. Bên cạnh những cụm địa danh ấy là một mảng rộng lớn những địa danh Hán Việt trải dài từ Bắc đến Nam. Nhưng đấy chỉ là quan sát địa danh theo sự phân bố hiện nay. Nhưng nếu chúng ta thử đào sâu xuống mảng địa danh Hán Việt đang trùm kín hầu như khắp nơi vùng người Việt ở thì có thể thấy, phía dưới còn có một lớp địa danh cổ hơn, đây là lớp tên nôm với yếu tố cấu thành là từ Kẻ. Không phải đi xa, chỉ cần ra ngoại thành Hà Nội, chúng ta có thể nghe các ông già, bà cả hay trong nhưng câu chuyện thân mật giữa những người cùng làng, những tên nôm như Kẻ Mẩy (tên Hán Việt là Mễ Trì, Kẻ Cót (tức là làng Yên Quyết), Kẻ Vọng (Dịch Vọng)… Những tên nôm như thế rất nhiều và có thể nói rằng hầu hết các xã thôn Việt Nam ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bắc Trung Bộ (Khu 4 cũ) đều có. Nhưng đi quá hơn nữa vào nam Trung Bộ và Nam Bộ thì không thấy nữa. Ở vùng thượng du Bắc Bộ và miền núi bắc Trung Bộ cũng không có. Tên nôm hiện nay đang bị quên dần vì ít được dùng đến, nhưng nó đã tồn tại rất lâu và trước đây trong một thời gian dài đó lồn tại song song với tên Hán Việt, với sự phân công khá rõ ràng, tên nôm dùng để gọi, tên Hán Việt dùng để viết. Do đó, mà tên Hán Việt còn được gọi là tên chữ. Như chúng ta đều biết, tên đặt ra trước tiên để gọi, và khi xã hội phát triển ở mức độ khá cao mới nảy sinh ra nhu cầu ghi chép. Hơn nữa, xét tương quan ngữ âm giữa cặp tên nôm và những tên chữ thì chúng ta thấy rất rõ là tên chữ được đặt ra bằng cách phiên âm tên nôm (và trong một vài trường hợp riêng biệt, bằng cách dịch nghĩa). Điều này một lần nữa, khẳng định nhu cầu ghi chép là điều kiện xuất hiện của tên Hán Việt. Sự tồn tại lâu đời của tên nôm còn có thể hiện ra ở bản thân nó là những từ khó hiểu, nhiều từ không tìm thấy trong từ vựng tiếng Việt hiện đại. Vì nhưng từ này càng cổ thì càng khó hiểu. Đọc thơ của Nguyễn Trãi, cách chúng ta có năm thế kỷ mà cũng lắm từ rất xa lạ với tiếng Việt ngày nay. Và cuối cùng cái biên giới mà lớp tên nên dừng lại, như đã nói ở trên, không vượt quá phía nam vùng Trị Thiên, cũng chứng tỏ rằng lớp địa danh này gắn bó với địa bàn sinh tụ của người Việt từ cổ cho đến đời Lý, Trần. Những miền đất đai người Việt đến ở về sau chỉ thấy có tên Hán Việt, không có tên nôm đi với từ kẻ nữa. Như thế tức là việc đặt tên nôm vời từ kẻ bây giờ bắt đầu lỗi thời và kiệu địa danh đặt bằng từ Hán Việt đã trở thành hợp thời, và từ kẻ từ sau thời Lý, Trần trở đi bị đẩy ra khỏi vốn từ vựng tích cực và đã trở thành từ cổ. Đến nay thì không ai biết đến nghĩa của nó nữa. Tuy nhiên xét vị trí và chức năng của chúng trong địa danh, chúng ta có thể hiệu được. -Từ kẻ đặt trước tên nôm để gọi một địa điểm cư trú tương đương với xã thôn hiện nay. Từ kẻ có thể thay thế bằng từ làng. Hiện nay từ kẻ không thấydùng một mình ngoài tên nôm nữa, vì nó là một bộ phận của tên nôm. Trong tiếng Mường cũng có một từ tương tự về nghĩa và âm với từ “kẻ”, đó là từ “ku-el”. Ku-el là một đơn vị hành chính cơ sở trong tổ chức xã hội người Mường tương đương với xã thôn của người Việt và cùng có một nội dung như từ kẻ. Ở thế kỷ thứ 17, còn thỉnh thoảng gặp từ “kẻ” trong tiếng Việt, và có nghĩa là “quê hương”, “xứ sở”. Từ quê có thể cũng là một dạng biến đổi của từ kẻ trong quá trình sinh sôi nảy nở danh từ chung trong vốn từ vựng tiếng Việt. Về vùng địa danh có từ “kẻ”, nhiều học giả còn chỉ thêm rằng, những từ có âm tương tự với từ “kẻ” Việt Nam như “cô”, “cổ”, “qua”, “quá“ là đặc điểm của tên nơi cư trú vùng Lưỡng Quảng (Từ Tùng Thạch, R.Xtai-nơ). Trong nhiều tên làng Việt Nam, từ “kẻ” trong tên nôm cũng được phiên âm ra tên Hán Việt bằng từ “cổ” như: Kẻ Trai thành Cổ Trai (ở Thừa Thiên), Kẻ Nưa thành Cổ Ninh (ở Thanh Hóa), Kẻ Noi thành Cổ Nhuế (ở ngoại thành Hà Nội), Kẻ Giai thành Cổ Trai (ở Duyên Hà, Thái Bình), Kẻ Nét thành Cổ Niệt (ở Hải Phòng, vùng Kiến An). Đào Duy Anh cũng cho rằng từ “Cổ” trong tên Cổ Loa có lẽ được chuyển âm từ kẻ mà ra. Tuy nhiên Từ Tùng Thạch lại nghĩ rằng có, cổ, qua, quá, trong địa danh vùng Lưỡng Quảng là chuyển âm từ danh từ cá có nghĩa là “người”, cũng như Đào Duy Anh đã giải thích từ kẻ trong địa danh cổ Viểt Nam bằng một từ của tiếng Việt hiện đại, kẻ tức là “người”. Như thế là tên nơi cư trú có từ kẻ và những dạng tương tự như: cô, cổ, qua, quá... chiếm một khu vực bao gồm miền Lưỡng Quảng nối liền với vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Vậy một lần nữa, lần thứ ba, chúng ta lại tìm thấy một địa bàn, được vẽ lên bằng hệ thống tên xã thôn, cấu tạo với yếu tố “kẻ, cổ...” hoàn toàn khớp với địa bàn các tộc danh Lang và với cương vực nước Văn Lang được ghi lại trong truyền thuyết dựng nước. Có một điều đáng chú ý là trong địa danh bằng tiếng dân tộc chỉ nơi cư trú của người Việt, người Thái, người Tày, người Khơ-me, người Ba-na, Xtiêng, Ê-đê, Gia-rai và những dân tộc khác trên đất nước Việt Nam đều phản ánh một đơn vị tổ chức xã hội duy nhất và giống nhau ở mọi nơi. Đây là kẻ, là bản, là mường, là srok, là buôn, là plây... tức là đơn vị cơ sở, tương đương với xã thôn hiện nay. Những địa danh này không hề phản ánh những đơn vị tổ chức ở các cấp bậc cao hơn như quận, huyện, tỉnh mà như chúng ta biết, việc phân chia quận huyện ở nước ta đã có từ lâu, lúc bắt đầu thời kỳ Hán thuộc. Xét sự phát triển nghĩa của danh từ chung, chúng ta cũng thấy kẻ, mường, srok là những danh từ có nghĩa ban đầu là “làng, xóm” chuyển thẳng thành nghĩa “xứ, nước” mà không qua các cấp bậc trung gian: quận huyện, tỉnh. Trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn ngữ dân tộc anh em không hề có danh từ để gọi các đơn vị ở các cấp bậc cao hơn mà chỉ có danh từ gọi “làng” mà thôi, chúng ta phải vay mượn từ Hán để gọi những đơn vị kia. Ngôn ngữ dân tộc không chịu đặt tên cho chúng. Tất cả những sự việc vừa kể trên đều nói lên rằng kẻ hay bản, buôn, plây là những tổ chức cơ sở và đồng thời là tổ chức duy nhất-không có một tổ chức nào khác nữa-trong xã hội người Việt cổ và ở các dân tộc anh em gần đây. Hiện tượng khác biệt thổ ngữ giữa những thôn xã ở đồng bằng và Trung du Bắc bộ, Bắc Trung bộ Việt Nam rất đáng cho chúng ta chú ý. Ở đây, có khi hai thôn chỉ cách nhau một con đường hai một hàng cây mà thổ ngữ của hai bên rất khác nhau, nghe qua giọng nói có thể phân biệt ra người thôn nọ với người thôn kia. Trái lại, ở vùng thượng du Bắc Bộ, vùng nam Trung Bộ và Nam Bộ không có nhiều thổ ngữ phức tạp đến thế. Ở đây, tiếng Việt trong những vùng rộng lớn gồm đến hai ba tỉnh, cũng rất ít khác nhau, nhất là ở Nam Bộ khó tìm ra được những nét khác biệt trong tiếng nói các tỉnh. Hiện tượng thổ ngữ đa dạng, phức lạp nói trên ở nông thôn miền Bắc, một mặt phản ánh cội rễ lâu đời và bền vững, mặt khác cũng nói lên tính chất biệt lập của tổ chức xã thôn ở đấy. Vì những nét khác biệt này là kết quả của tập quán ngôn ngữ được hình thành dần dần từ thế hệ này qua thế hệ khác và chỉ có thể được tạo ra trong điều kiện gần như cô lập với những địa phương xung quanh. Chính thổ ngữ là sản phẩm trực liếp của các tổ chức gọi là “kẻ”, là con đẻ của cái “bầu trời riêng” đó-nếu ta dùng cách nói của Mác. Sau khi được hình thành, thổ ngữ lại trở thành một trong những đặc trưng khu biệt chủ yếu giữa các “kẻ”. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy vùng thố ngữ đa dạng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn khớp với khu vực địa danh có tử kẻ. Ở những miền khác không có “kẻ” thì không có hiện tượng thổ ngữ khác biệt giữa những xã thôn liền nhau. Vậy tính chất của “kẻ” phù hợp vời tính chất của những “công xã kiểu châu Á” mà Mác rất chú ý nghiên cứu khi Người chuẩn bị viết cuốn “Tư bản”. Kết luận Thế là lần đầu tiên chúng ta đã áp dụng ngôn ngữ học để nghiên cứu một cách có hệ thống một vấn đề lịch sử lớn: thời kỳ lịch sử Hùng Vương và đã thu được vài kết quả bước đầu trong việc xác minh vùng đất đai cư trú cổ của người Việt. Như trên tôi đã lưu ý, không nói về từ kẻ, khả năng của ngôn ngữ học góp được phần soi sáng lịch sử cả về tổ chức xã hội và chính trị nữa. Chúng tôi cũng đã bước đầu nghiên cứu những từ cổ chỉ chức vị, thân phận xã hội, từ đó đã có một số kết luận đầu tiên về mặt này. Xin sẽ có dịp khác trình bày. Ở đây, xin kết luận về cương vực nước Văn Lang: 1.Về mối quan hệ ngôn ngữ và dân tộc với người Việt cổ.-Hệ thống tên sông đã chỉ ra khu vực, trên đó hình thành các nhóm ngôn ngữ cùng ngữ tộc ở Đông Nam Á. Sau đó, các hệ thống tộc danh và tên xã thôn giúp chúng ta thu dần địa bàn và thời điểm thăm dò từ khu vực rộng đến hẹp, từ lúc chưa hình thành các tộc người đến lúc tổ tiên ta dựng làng, lập nước: thời kỳ nước Văn Lang. Có một điều đáng chú ý là tộc danh, địa danh của ta ở thời kỳ này (cũng như một số từ xưng hô trong xà hội Văn Lang) được truyền thuyết lưu lại đều tìm thấy trong nhiều ngôn ngữ nhóm Thái và nhóm Mã-lai (như Chàm, Ê-đê, Gia-rai, Mã-lai, In-đô-nê-xi-a), tức là ngôn ngữ của những dân tộc ở miền duyên hải và hải đảo bao quanh Nam Hải, vùng Địa Trung Hải của châu Á. Điều này cho thấy rằng: ý kiến của Bê-nê-đích và sau đó của Ô-đri-cua về quan hệ gần gũi giữa hai nhóm ngôn ngữ Thái và Mã Lai là có cơ sở. 2.Đất đai “nước Văn Lang” của Hùng Vương nằm trong vùng có hệ thống tộc danh-Lang và tên xã thôn Kẻ, Cổ bao gồm một phần Lưỡng Quảng và miền Bắc nước ta hiện nay. Bài của lonesome thành viên http://quansuvn.net
  6. Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam: bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ. Chúng tôi xin giới thiệu với ðộc giả Việt-Nam bài diễn vãn của Giáo-sý Trần Ðại-Sỹ ðọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên vãn bằng tiếng Pháp, ðây là bản dịch tiếng Việt của chính tác giả và cô Tãng Hồng Minh chú giải. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA ðã mời một số đông các học giả,trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị. Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa. Sau khi bài diễn vãn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới ðây: J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố nãm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 nãm 1998. Tài liệu khẳng ðịnh rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Ðông Á, do ngýời Ðông-Nam-á ði lên, chứ không phải do ngýời Trung-hoa di cư xuống. ALBERTO-PIAZZA (ðại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998. LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999. 1 Yên-tử cý-sĩ Trần Ðại-Sỹ Về bài diễn vãn này, từ nãm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, ðãng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược ði, ðôi khi cắt mất nhiều ðoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, ðầy ðủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua. Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài. Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sý Trần, chúng tôi có cho ích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước ðây? Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á 2 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Kính thưa ông Viện–trưởng, Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn ðến tiếp diễn trong suốt cuộc ðời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt ðời tôi,tôi có cảm tưởng tổ tiên ðã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết : « Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phưõng diện nghiên cứu học hành, tôi ðứng ðầu. Nhýng nếu có ngýời bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng ðứng ðầu ». Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần ðây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 nãm, khiến cho ðất nước chúng tôi ðiêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới. I. SƠ TÂM VỀ TỘC VIỆT Nãm lên nãm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dýõng (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một ðại thần của triều ðình Đại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng vãn hóa vĩ ðại ðể ðọc, ðể thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nõi ðây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó nhý thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng ðã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học. 3 Yên-tử cý-sĩ Trần Ðại-Sỹ Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn ðồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như : Đại-Việt sử ký toàn thý (ÐVSKTT), An-Nam chí lýợc (ANCL), Ðại-Việt thông-sử (ÐVTS), Khâm-ðịnh Việt sử thông giám cương mục KÐVSTGCM), Ðại-Nam nhất thống chí(ÐNNTC). Ðại cương mỗi bộ sử ðều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau : « Vua Minh cháu bốn ðời vua Thần-Nông, nhân ði tuần thú phương nam, ðến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập ðài, tế cáo trời ðất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng : « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy ðiều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt ðối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều ðại Thần-Nông, khởi từ nãm 3118 trýớc Tây lịch, ðến ðây thì chia làm hai : 1. Thần-Nông Bắc. Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch) Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch) Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch) Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch). Ðến ðây triều ðại Thần-Nông Bắc chấm dứt, ðổi sang triều ðại Hoàng-ðế từ nãm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời ðại Hoàng-ðế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tý-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông. 4 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ 2. Triều ðại Thần-Nông Nam. Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua nãm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh- Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy nãm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho ðến nay (1991) là 4870 nãm, vì vậy ngýời Việt tự hào rằng ðã có năm nghìn năm văn hiến. (1) Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như ði xa hơn về những thời tiền cổ, thời ðồ ðá, ðồ ðồng, ðồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận ðến ở ðây. Xét về cương giới cổ sử chép : « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), ðặt tên nýớc là Xích-quỷ, ðóng ðô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Ðộng-ðình là Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Ðế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương bãng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Vãn-Lang. Nước Vãn-Lang Bắc tới hồ Ðộng-ðình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, ðông giáp biển Ðông-hải.) Cổ sử ðến ðây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép : « Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trãm trứng nở ra trãm con. Ngài truyền cho các hoàng tử ði bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối . Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Ðộng-ðình.(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa ðến Ðồng-nai.) Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới nãm mươi lập ra vùng Lão-qua.(Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.) Hoàng-tử thứ nãm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-ðông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.) 5 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh) Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trãm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.) Ngài hẹn rằng : Mỗi nãm các hoàng-tử phải về cánh ðồng Tương vào ngày Tết, ðể chầu hầu phụ mẫu ». Một huyền sử khác lại thuật : Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng : « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không ðược. Nay ta ðem nãm mươi con xuống nước, nàng ðem nãm mươi con lên rừng. Mỗi nãm gặp nhau tại cánh ðồng Tương một lần » Các sử gia người Việt lấy nãm vua Kinh-Dương lên làm vua là nãm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Ðộng-ðình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cõ làm Quốc-mẫu. Cho ðến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào : « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ». Chủ ðạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này. Ghi chú của Tãng Hồng Minh, Ký giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: « Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế ðộ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng nhý người Việt hải ngoại hay không ? » Trả lời : « Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội hiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-ðạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như ðã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người ðều tụ tập về ðây ðể tưởng nhớ công ơn các vua Hùng ðã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng nãm ðến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. 6 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam như Chủ-tịch Hồ Chí Minh, Chủ-tịch Trường Chinh; Tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười; Thủ-tướng Phạm Văn Đồng v.v. đều hành hương ðền thờ vua Hùng, và ðọc diễn vãn ca ngợi công ðức Quốc-tổ nhý một hành ðộng thu phục nhân tâm. Kết lại dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau." Ghi của Tãng Hồng Minh dành cho người Việt. Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là : - Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962. - Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977. - Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978. - Thủ tướng Phạm Vãn Ðồng 6-2-1969. 27-8-1978. - Tổng bí thư Ðỗ Mười 27-4-1993. Tôi xin trở lại với ðầu ðề, 3. Triều ðình, dân tộc. Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-bình dương : Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Ðại-Việt. Hai triều ðại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng : - Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc ; - Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một; - Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt ðều là huyết tộc của vua Thần-Nông. - Trung-quốc, Ðại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v. - Người Hoa, người Việt nhân triều ðại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi ðó hàng nghìn, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau. 7 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Sau này các vãn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không ði ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho mình là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ ðạo của họ. Tôi sẽ bàn ðến ở dưới. Tôi xin cử một tỷ dụ, ðể Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống ðầu tiên lập ra nýớc Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân ðến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi. II. CHỦ ÐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM. Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật týợng trýng là con gà trống. Ngýời Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Ngýời Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, ðược Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, ðặt cãn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này ðến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Ðông biến thể ði thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủ-tịch Hồ Chí Minh ; ông ðược ðào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-ðô (Hà-nội). Theo như dự ðoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung ðộng thế giới! 8 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Ghi chú của Tãng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân ðọc lại bài này). IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn vãn của các nhà lãnh đạo Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung, ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp Việt-Nam ðều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước 1945. 1.- Chủ đạo của Trung-quốc. Người Hoa thì tin rằng mình là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ, vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đã kết thành chủ-đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở ðâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong ðến nghìn năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ ðánh chiếm, ðồng hóa hàng nghìn nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày nay. Hầu hết những nước khác ðến cai trị họ, ðều bị họ ðồng hóa. Mông-cổ, Mãn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lãnh thổ. Nhưng chủ-ðạo và sức mạnh của ngýời Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert (Hòa-lan) hỏi : « Tôi thấy người Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng nhý tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trãm nãm, họ vẫn duy trì được dòng giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị ðồng hóa rất mau. Không lẽ chủ ðạo của Trung-quốc lại bị chủ ðạo của Gaulois xóa bỏ mau chóng như vậy sao ? ». Ðáp : « Thưa Giáo-sư, ðiều Giáo-sư hỏi, cũng là ðiều tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 ðến giờ. Khi ngýời Hoa tới bất cứ nước nào, họ cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại, sinh hoạt vãn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa, không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau, thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em người Hoa ngày ngày tới trường ðược bạn học, ðược thầy yêu thương, chúng thu nhập vãn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời giờ dạy con cái về vãn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ...ẩm thực. 9 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị ðừng buồn: trên khắp thế giới, khi người Việt tỵ nạn ðến ðịnh cư bất cứ nơi nào, ðều gặp nạn kỳ thị. Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ. Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh cửa tự do không hề đóng lại. Tôi xin trở lại với đầu đề. Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào ? Từ sách nào ? Do ai khởi xướng ? Ðầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các vãn nhân Trung-quốc không ði xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng ðâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trung-quốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại. Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu : Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm nãm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. Trung-ương là kinh ðô của nhà vua. - Ðiện-phục ở ngoài kinh ðô nãm trãm dặm. - Hầu-phục ở ngoài cõi Điện-phục năm trăm dăm : trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phu. Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu. - Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá vãn chương, giáo hóa quần chúng ; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo vệ quốc gia. - Sau cõi Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Ðông ở. Hai trãm dặm còn lại là nơi ðể ðầy tội nhân. - Cõi cuối cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trãm dặm cuối cùng ðể ðầy người có tội nặng. - Ra khỏi cõi Hoang là... biển. Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, nãm nghìn năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những gì không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoa. Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ
  7. Nghiên cứu Văn hóa Tiền sử : Việt-Nam, trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá, xưa nhất thế giới * BS Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THANH Lời xác-minh của tác giả: Những ý kiến trong bài nghiên cứu sau đây hoàn toàn khách quan dựa trên những tài liệu lịch sử và khảo cổ Việt Nam, Trung-hoa, Pháp, Hoa-kỳ và Liên-xô. Chúng tôi không hề đưa ra một sự kiện lịch sử chủ quan có thể làm hại đến văn hóa của một quốc gia nào khác. Chúng tôi chỉ vì sự thât của lịch sử dân tộc và nhân loại, Nếu có điều gì bất như ý đối vi cá nhân hay quốc-gia nào, kính mong quý vị học giả các nước liên quan đến tài liệu trong bài nầy thông cảm cho, chúng tôi xin đa tạ. Trong Việt Nam Sử-lược, sử gia Trần Trọng Kim đã viết: "Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao-Chỉ và Cửu-chân (2 quận lớn trong 9 quận của Việt Nam cổ), dạy dân điều lễ nghĩa, cưới vợ hỏi chồng, dùng cày bừa mà cày cấy ruộng, vì trước đó dân Giao Chỉ chỉ biết săn bắn và chài lưới...." Sử gia Ðào Duy Anh cũng viết "Nó (Trung Hoa) làm thầy khai hóa cho ta và các dân tộc Á-Ðông khác." Sách vở của các vị sử gia trên đã dạy dân học suốt bao thế kỷ. Người Việt Nam cứ cong lưng theo thế mà học về lịch sử nước nhà. Có lẻ hai ông sử gia trên đã dựa một cách tiêu cực vào sử Trung Hoa mà không cố tình suy luận và phán đoán về sử liệu nước nhà (một gương sáng mà chúng cần lưu ý: Triều-Tiên và Trung-Hoa phản kháng 35 điểm viết sai trong lịch sử giáo khoa Nhật-Bản hiện nay). Mặc dầu rằng 2 ông sử gia nói trên đã có công viết nên lịch sử nước nhà để dạy dân. Nhưng không hiểu vì sao 2 ông không hề quan tâm nghiên cứu tệ lắm là những gì quí báu ghi chép trong những bộ sử nước ta vào thế kỷ 13 là bộ Ðại-Việt Sử-Ký do 2 sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần; và bộ Sử-Ký Toàn-Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê, cùng nghiên cứu các sách vở khác của Trung-Hoa. Từ đầu thiên niên kỷ thứ I, nhất là dưới thời Nhà Trưng Vương, chắc hẳn chúng ta đã có nhiều tài liệu lịch sử cũng như luật pháp và văn chương. Bằng chứng là Mã Viện đã tâu với vua Quang Võ nhà Ðông Hán là luật của Trưng Vương có 10 điều khác với luật Tàu cần hủy bỏ để trói buộc họ (xem hình chụp lời của Mã Viện sau). Sở dỉ ngày nay chúng ta không còn một dấu tích gì về các bộ luật cổ, sử điïa cổ, văn chương cổ mà điển hình là luật đời Trưng Vương vì Tàu đã tiêu hủy hay cướp đem về Tàu tất cả. Xin mở ngoặc ở đây: một trường hợp điển hình GS Lê Hữu Mục vừa cho biết là Trung hoa đã cho xuất bản một quyễn sách mà tác giả là Lê Quý Ðôn: đây là một trường hợp hi hữu đáng khen vì tuy sách bị cướp nhưng tên tác giả còn đượcg giữ. Như vậy biết bao là tài liệu về lịch sử văn chương v.v... của tổ tiên chúng ta đã bị cướp phá và tiêu hủy. Xin đóng ngoặc. Tưởng cũng hữu ích khi trở lại thời tiền sử Trung-Hoa và Việt Nam. Sử Trung-Hoa chép, khoảng 3000 năm trước TC, dân du mục Mông-Cổ vượt sông Hoàng-Hà đánh chiếm nước Bách Việt từ sông Hoàng Hà đến sông Dương-Tử của Ðế-Lai. Ðế-Lai nối nghiệp cha là Ðế-Nghi, cháu nội Ðế-Minh. Ðế-Minh là cháu 3 đời của vua Ðế-Viêm tức Thần-Nông, xưng là thiên tử, làm vua các thị tộc Bách-Việt phương Bắc nằm giữ 2 con sông lớn Hoàng-Hà đến Dương-Tử. Trước đó Ðế-Minh đi ngao du đến núi Ngũ Lĩnh (tỉnh Vân Nam ngày nay) gặp một tiên nữ (ngưởi tài giỏi và rất đẹp nên được người đời tặng biệt hiệu là tiên nữ), đẻ ra Lộc-Tục. Như vậy Lộc-Tục là em khác mẹ của Ðế-Minh, chú Ðế Lai. Ðế-Minh cho Lộc-Tục làm vua phương Nam từ Dương-Tử-Giang đến tận Việt-Thường. Lộc-Tục làm vua các thị tộc Bách-Việt phương nam đặt tên nước là Xích-Quỉ, xưng hiệu là Kinh-Dương-Vương lấy nàng Long-Nữ con Ðộng-Ðình-Quân đẻ ra Sùng-Lãm tức Lạc-Long-Quân (như vậy là Lạc-Long-Quân là con Nữ-Rồng và cháu nội của Nữ-Tiên: do đó mà chúng ta được gọi là con Rồng cháu Tiên chăng). Lạc-Long-Quân nối nghiệp Kinh-Dương-Vương làm vua phía Nam sông Dương-Tử. Ðế-Lai đem con gái Âu-Cơ gả cho Lạc-Long-Quân. Sau đó Ðế-Lai cùng Lạc-Long-Quân lập liên minh Xích-Quỉ đánh nhau với du mục Mông-Cổ tại Trác-Lộc trên sông Hoàng-Hà (3.000 tr. T-C). Mông cổ thắng trở thành Hán tộc. Người Hán rất ghét thủ lãnh Liên Minh Xích Quỉ là Ðế Lai nên gọi ngài là Xi-bưu (xấu xí láo lếu). Ðế-Lai tử trận. Theo truyền thuyết thì sau khi Ðế-Lai chết Lạc-Long-Quân đem tàn quân chạy ra biển tản mác khắp nơi trên Thái-Bình-Dương. Mông Cổ chiếm bình nguyên Hoàng-Hà xưng là Hoàng-Ðế lập nên Trung-Quốc và cũng bắt chước Ðế-Lai xưng là Thiên tử. Một số thị tộc Bách-Việt mà Hán Mông cổ gọi là man di, ở lại sống chung rãi rác khắp nơi với Mông-Cổ lập nên nước Trung-Hoa. Vợ Lạc-Long-Quân là nàng Âu-Cơ, con gái Ðế-Lai kéo quân qua sông Dương-Tử trở lại chốn rừng núi phía nam tức là nước Xích-Quỉ, chia các con cai trị, dần dà sinh ra 18 dòng họ Hùng-Vương. Cho tới Bắc thuộc lần thứ I, biên giới nước ta kéo dài từ Dương-Tử-Giang xuống đến Việt-Thường (vì thế trong Việt Nam Sử Lược, SG. Trần Trọng Kim đã nói về biên giới nước Xích-Quỉ tây giáp Tứ-Xuyên, và nhà Thục từ Tứ Xuyên đánh họ Hồng-Bàng lập nên Nhà Thục là rất hợp lý). Nếu so sánh giữa hai sắc dân, Mông Cổ du mục và Bách Việt nông nghiệp sống định cư thì chúng ta dễ hiểu rằng nguồn gốc nông nghiệp của Tàu là do dân Miêu tộc hay man di (tên người Hán gọi Bách-Việt ở lại với Tàu). Dân Bách-Việt vốn đã có nghề nông từ lâu đời, và các vị Thần-Nông, Phục-Hi, Nữ-Oa, v.v... Tổ sử nghề nông là tổ tiên của Bách-Việt đã chết lâu đời trước trận Trác-Lộc tức trước khi Mông-Cổ đến lập nước Trung-Hoa. Vậy nên Hán tộc gốc Mông-Cổ hoàn toàn không liên can gì đến sự nghiệp nhà nông của các Vị Thần-Nông Nữ-Oa nói trên. Và dân Bách-Việt cũng đã thạo thành về nông nghiệp lâu đời từ trước khi Mông-Cổ chiếm đất đai. Chúng ta thử chứng minh nhận xét hoàn toàn hợp lý trên đây. Lịch sử Việt-Nam đã chứng minh rõ nét rằng Việt-Nam có nguồn gốc Bách-Việt và luôn tự xưng là Bách-Việt, mà là Bách-Việt thuộc thành phần chính thống, trung kiên, bất khuất, lãnh đạo. Lúc bị dân du mục Mông-Cổ đánh bại tại Trác-Lộc, Lạc-Long-Quân vua nước Xích-Quỉ bị tử trận hay chạy ra biển nhưng nước Xích-Quỉ được bà Âu-Cơ giữ gìn nguyên vẹn. Một số người Bách-Việt phương Bắc ra đi đến nước Xích Quỉ phải là tầng lớp lãnh đạo Bách-Việt. Kẻ ở lại bị coi là dân man di nô lệ, chung sống với dân Mông-Cổ mà thành dân Trung-Hoa ngày nay. Nói như thế chỉ để chứng minh rằng nền văn minh nông nghiệp của dân Bách Việt không phải do du mục Mông Cổ khai sáng. Ðó là tàng tích Bách Việt hoàn toàn. Nếu phải nói một cách công bằng thì văn minh nông nghiệp Bách Việt là tài sản chung của toàn thể Bách Việt mà Việt Nam là chủ yếu. Trung-Hoa có nông nghiệp từ thời tiền sử là nhờ vào dân Miêu tộc man di (tức Bách Việt ở lại chung sống). Vậy cả hai dân tộc Trung-hoa gốc man di Bách-Việt và Việt Nam gốc Bách Việt chính thống đều là dân đã làm nên nền nông nghiệp từ rất nhiều thiên niên kỷ trước khi Mông Cổ đến xâm lăng đất đai. Người Hán gốc Mông Cổ cai trị Trung-hoa lâu đời, và đô hộ Việt Nam non 1000 năm, nên lòng người man di Trung-hoa gốc Bách Việt cũng như lòng người Việt Nam dần lãng quên gốc gác của mình mà tưởng rằng văn minh nông nghiệp là do Tàu Mông cổ (Hán) khai hóa?! Ðối với dân tộc Trung-quốc thời bấy giờ, người Hán có nguồn gốc Mông-Cổ là lớp quí tộc chủ nhân, lớp lãnh đạo quyền uy giàu có. Miêu tộc tuy đông, làm nghề nông bị liệt vào hàng bần cùng, nô lệ, bị coi là man di. Trở lại Việt sử, trong 2 bộ sử xưa của Việt Nam là bộ Ðại Việt Sử Ký do 2 sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần, và bộ Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê đã ghi: "Trước họ Hồng Bàng (Kinh Dương vương) còn nhiều đời vua nhưng không kể đến... (đó là các vua Phục-Hy, Ðế-Viêm, Ðế-Minh, Ðế-Nghi, v.v...)," và rằng... "từ họ Hồng-Bàng (2879 tr. TC) dân ta cầy cấy mà ăn, đào giếng mà uống..." rằng "Vua Kinh-Dương-Vương nối nghiệp con cháu Thần-Nông, lấy con gái vua Ðộng-Ðình-Quân, tỏ rỏ đạo vợ chồng, nắm ngay gốc văn hóa, lấy đức mà cảm hóa dân... đó chẳng phải là phong tục thái cổ từ Viêm-Ðế ư?" Có lẽ Trần Trọng Kim và Ðào Duy Anh cho là tưởng tượng huyễn hoặc, nên không tin vào đoạn sử nầy. Trong lúc đó sử gia Trần Trọng Kim viết, họ Hồng-Bàng có vua Kinh-Dương-Vương (2879-258) là dòng dõi Vua Thần-Nông có quốc hiệu là Xích Quỉ, có con là Lạc-Long-Quân nối ngôi (2.804 năm tr. TC). Ðã gọi là con cháu vua Thần-Nông thì tại sao không rành về nghề nông mà phải đi nhờ dân gốc Mông-Cổ dạy?! Như thế, rõ ràng 2 sử gia Trần Trọng Kim và Ðào Duy Anh chỉ biết dựa trên sử của một quốc gia đã xâm lăng nước ta lâu đời và luôn có khuynh hướng chiếm, phá hoại hay xuyên tạc văn hóa tiền sử và lịch sử của dân tộc Bách-Việt. Tuy nhiên nhờ vào di vật của tổ tiên còn để lại trong lòng đất, các học giả khảo cổ học ngoại quốc và Việt Nam đã chứng minh cho chúng ta và thế giới ngày càng thấy rõ sự thật, rằng chính dân Bách Việt nông nghiệp Bách Việt đã ảnh hưởng giáo dục lễ nghĩa, nông nghiệp và công nghiệp cho khắp lục địa Nam-Á trước khi Mông Cổ tới nhiều nghìn năm (sẽ chứng minh rõ sự kiện nầy). Với Việt Nam cổ Bách-Việt, thì rằng khi dân du mục Mông Cổ đánh liên minh Xích-Quỉ của Ðế-Lai và Lạc-Long-Quân mà chiếm bình nguyên sông Hoàng-Hà có thể coi đó là Bắc xâm lược lần thứ I (3000 năm tr. TC). Lúc Tần Thủy Hoàng chiếm nước Việt Âu-Lạc của Thục An-Dương-Vương là Bắc thuộc lần thứ II (246-206 tr. TC). Lúc nhà Hán dứt nước Nam-Việt của Nhà Triệu là Bắc thuộc lần thứ III. Nhà Ðông Hán đánh chiếm nước Lĩnh-Nam của Trưng-Vương là Bắc thuộc lần thứ IV, v.v.... "Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao-Chỉ và Cửu-Chân (2 quận lớn nhất được coi là kinh đô của Việt Nam cổ), dạy dân điều lễ nghĩa, cưới vợ hỏi chồng, dùng cày bừa mà cày cấy ruộng...." Qua những tài liệu trên làm sao tin được sự kiện lịch sử nầy chứ? Chúng ta hãy nghe những câu nói của Ðức Khổng-Tử sau đây. Khi một môn đồ xuôi Nam đến đất Việt, xin Ðức Khổng-Tử chỉ dạy, ngài nói "... người Bách-Việt miền nam (phía nam Dương-Tử-Giang) có lối sống, tiếng nói, luật lệ, phong tục, tập quán, thức ăn uống riêng..." ,... "... dân Bách-Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn, không như chúng ta trồng kê và lúa mì. Họ uống nước bằng thứ lá cây hái trong rừng gọi là trà." Một lần khác Ðức Khổng Tử xác nhận: "Những đạo lý (ngài) viết ra điều là những điều đã có sẵn trong dân gian (dân chúng gốc Bách-Việt)". Chính những đạo lý đó Mông-Cổ hoàn toàn không có vì với Mông-Cổ chỉ có đạo lý của sức mạnh. Vì thế Ðức Khổng-Tử mới lấy đạo lý từ dân gian, viết ra để dạy cho vua quan là giòng giỏi Hán tộc Mông-Cổ. Ðức Khổng-Tử còn nói rằng: "Dân Bách-Việt rất thích ca múa, vừa làm việc vừa ca vè, hát đối, nói vận (vè, thơ, ca dao), lấy lá cây mang vào người, trá hình múa hát...." Và Ðức Khổng-Tử cho rằng: "xướng ca vô loại, chẳng nên ca múa như dân nam Man". Nên trong thời gian đô hộ quan Tàu cấm dân ta múa hát trong những ngày lễ lạc. Nhưng hát-bội hay hát-bộ (vừa hát vừa làm bộ điệu) gốc Bách-Việt mà Tàu rất thích nên họ phát triển hát bộ (sau nầy lại truyền qua cho Việt-Nam phương thức hát bộ mới, được chế biến thêm. Miền Nam Việt-Nam lại cải biến thêm thành Cải Lương, Tàu lại chế biến thành cải lương Hồ-Quãng). Sách Hậu Hán Thư quyển 14 viết lại "Dân Giao-Chỉ (thủ đô của Bách-Việt phương nam) biết nhiều thủ công nghiệp, luyện đúc đồng và sắt, v.v...." Sách Cổ Kim Ðồ Thư, Thảo Mộc Ðiếm của Trung-Hoa chép: "Mã viện tâu vua Tàu, Giao-Chỉ ép mía làm đường phèn: Giao-Chỉ có thứ cây mía ngọt, đem ép lấy nước rồi làm đường phèn."... "Giao-Chỉ làm giấy mật hương: giấy mật hương làm bằng lá và vỏ cây mật hương trồng ở Giao-Chỉ, giấy mềm, giai và thơm, ngâm nước không bở không nát." Vậy mà trong quyển ART DE LA CHINE của ông Jean Buhot Les Eu'ditions du Chène, Paris xuất bản tháng Tư năm 1951, tác giả đã viết "Le papier ayant inventé par la Chine dès la dynastie de Hán probablement, on peut croire quil connaissent depuis la même époque deux procédés: lestampage et limpression..." . "Giấy đã được Tàu phát minh ra từ thời nhà Hán, chắc như vậy, và người ta có thể tin rằng cũng vào thời ấy người Tàu đã biết 2 kỹ thuật: rập khuôn bằng tay và in ấn..." Xem như vậy thì thấy những sự hiểu biết của người Âu-Châu về Trung-Hoa và Việt-Nam vô cùng lệch lạc sai lầm. Các sách cổ khác của Trung-quốc như Giao-Châu Ký, Tam Ðô Phủ, Ngô Lục Ðịa Lý Chí, Nam Phương Thảo Mộc Trạng, v.v... đều chép đại lược rằng: "Dân Lạc-Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà mà uống..." ;... "... họ biết uống nước bằng lổ mũi..." ;... "... nuôi tằm mà dệt vải..." ;... "... dùng đất sét đào sâu trong đất, thái mỏng phơi khô làm thức ăn quí, dùng làm quà quí để đi hỏi vợ..." ;... "... dùng đá màu làm men gốm..." ; "... dùng mu rùa mà bói việc tương lai..." ;... "... họ dùng một khúc tre dài chừng 1 thước hơn, một dầu có trụ cao làm tay cầm, có giây buộc vào trụ nối lại đằng kia mà làm đàn gọi là độc huyền cầm...". "... họ đem tính tình các con vật mà so sánh với người, rồi họ truyền tụng rằng ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai sinh con trâu, ngày thứ ba trời sinh con cọp ... (chuyện thần thoại của người Dao: gốc tích của 12 con giáp của tử vi ngày nay). Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát (tức thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh (lễ giác bầu), lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh..."; "... Họ rất quí các loài chim, biết tập chim biết nói... họ có nuôi nhiều chim trỉ sống trên núi rất đẹp (mà sau nầy Tàu gọi là phụng hoàng)." Sử Tàu kể rằng vào thời nhà Châu bên Tàu dân Bách-Việt quận Việt-Thường đem tặng vua nhà Châu cặp chim trĩ, sau đó nhờ Tàu dùng xe chỉ nam của Mông-Cổ chỉ đường về. Những ghi chép thường có tính cách kỳ thị là man di. Nhưng những chuyện huyền thoại cổ của man di như chuyện ông Bàn-Cổ gốc người Dao (xem Bàn-Cổ của Nguyễn Văn Diễn), chuyện bà Nữ-Oa biết đội đá vá trời tức có kinh nghiệm về thời tiết mưa gió, dạy dân theo thời tiết mà trồng trọt, Thần-Nông dạy dân làm ruộng, Viêm-Ðế (vua xứ nóng Bách-Việt) thì dân Mông-Cổ chiếm lấy làm của riêng. Thật ra lúc đầu người Hán không quan tâm đến những câu chuyện hoang đường của dân Bách-Việt. Nhưng khi họ hiểu ý nghĩa triết lý sâu xa của những câu chuyện hoang đường về các Vị, thì họ chép ngay câu chuyện và nhận ngay các Vị có gốc Bách-Việt ấy làm tổ tiên của họ. Họ cũng có lý một phần, vì dân Miêu tộc Trung-hoa có gốc Bách-Việt. Nhưng họ phải hiểu rằng dân Việt-Nam mới là con cháu đính thị của các Vị. Tuy người Tàu vẫn biết tổ tiên của người Hán có nguồn gốc Mông-Cổ, có con vật tổ là cọp trắng, với nhà truyền thống cổ là nhà gốc du mục hình tròn. (Xem Les premières civilisations LA CHINE ANCIENNE, trang 28-29, của ông William Watson xuất bản năm 1969 tại Grande Bretagne). (Xem hình 3 của Bs Thanh vẽ lại dựa theo hình nhà khảo cổ của ông William Watson). Trong lúc đó nhà cổ của Bách-Việt là nhà sàn hình chữ nhật làm bằng tranh và tre cong cho chắc chắn, dần dà sinh ra mái cong. (Xem hình 4 của Bs Nguyễn Thị Thanh vẽ, phỏng theo loại nhà minh khí {nhà chôn theo người chết} bằng đất nung thời Hùng-Vương tìm thấy trong văn hóa Ðông-Sơn 2.000 ans tr T-C). Ngày nay thế giới và cả người Việt-Nam cũng đều lầm tưởng rằng rồng (chỉ là hiện thân của con cá sấu) và chim phụng hoàng (chim trĩ) vật tổ của Trung-Hoa, và mái nhà cong là văn hóa cổ truyền của họ luôn. Ngày nay nhờ khảo cổ học mới có thế chứng minh được sự thật. Dầu sao thì cũng nhờ vào ảnh hưởng Bách-Việt mà Trung quốc phát triển về mọi mặt văn hóa sau này và cả Nhật-bản và Ðại-Hàn cũng nhờ vào ảnh hưởng Bách-Việt qua Trung-Hoa. Trong lúc đó thế giới đặt biệt là người Pháp cứ cho là Việt-Nam bắt chước Tàu. Chẵng hạn việc bà Daisy Lion-Goldschmidt tác giả quyễn LES POTERIES ET PORCELAINES CHINOISES, đã cho rằng dân Annam bắt chước gốm Hoa-lam của Tàu (trang 4). Trong khi chính Việt Nam có gốm hoa lam trước Tàu và thợ gốm giỏi Việt bi Tàu bắt qua Tàu để làm gốm từ đầu thiên niên kỷ thứ I. Gốm hoa lam Việt từ rất sớm chỉ dùng màu xanh nội địa, có trước Tàu và hoàn toàn có những đặc tính độc đáo khác Tàu. Ngay cả dân Việt-Nam cũng lầm lẫn và lẩm cẩm cho rằng văn hóa Việt-Nam nhờ ảnh hưởng văn hóa Trung-Hoa. Tệ lậu hơn nữa, hiện nay có nhiều nhà khoa bản Việt-Nam còn không biết văn hóa là gì, còn cho là dân mình không có văn hóa nữa kia, hoặc có chăng chỉ là cái búi tó trên đầu (bài Bảo tồn Văn-hóa?! của nhà khoa bảng bác-sĩ giáo-sử Ðại-học kiêm nhà văn Vũ Ðình Minh biệt hiệu là Mai-Kim-Ngọc đăng trên nhiều báo đặc biệt là báo Y-giới: bài viết có tính cách mĩa mai Việt Nam không có văn hóa gì để mà bảo tồn hết trơn hết trọi, hoặc giả có chăng chỉ có cái búi tó của ông nội nhà khoa bảng MKN). Trở lại nông nghiệp của dân Bách-Việt. Làm ruộng cần công cụ. Nông nghiệp sinh công nghiệp. Công nghiệp đá sản xuất công cụ cho thợ đá (để làm cày cuốc), kỹ nghệ đá; cho thợ đồng, kỹ nghệ đồng và các thứ tiểu công nghiệp khác như nghề nuôi tằm dệt vải, làm đồ gốm của nước ta từ trước rất xa thời các vua Hùng cho đến thời Bắc thuộc năm 111 tr TC, đã phát triển xa hơn Tàu và không hề nhờ phương bắc giáo huấn. Trái lại các thợ giỏi và kỷ thuật cao của nước ta bị sức mạnh cướp lấy để phát triển, dành lấy làm văn hóa của mình. Trong những thời gian bị đô hộ, dân Việt cổ bị cấm tuyệt mọi sinh hoạt kỹ nghệ bản địa công khai. Vì vậy những nền văn hóa thời tiền và sơ sử Việt-Nam bị ngưng hẵn từ thời Bắc thuộc lần đầu. Thế giới cũng hiểu rằng Trung-quốc đã ngăn chặn những nền văn minh tiền sử Việt-Nam và đã xung phong vào để tiếp nối những nền văn minh tiền sử đó (có bằng chứng rõ về sau). Từ trước đến nay chúng ta chưa khẳng định được những điều nói trên mà phải chờ di vật cổ tổ tiên để lại trong lòng đất mới có đủ luận cứ thuyết phục cho chính chúng ta và thế giới. Khảo Cổ học đã nói lên cho chúng ta biết rất nhiều điều bí ẩn mà ngoại quốc đã hiểu lầm hoặc che dấu và xuyên tạc. Nhờ vậy ngày nay rất nhiều học giả Trung-Hoa đã công nhận sự thật về nguồn gốc Bách-Việt trong văn hóa Tàu. Từ khi người Pháp qua cai trị nước ta, họ chiếm độc quyền về khoa khảo-cổ. Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khảo cổ học đã tìm ra ở trên đất nước chúng ta từ miền Bắc đến miền Trung là đất cổ Việt-Thường. Cho đến nay người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn minh tiền sử Việt Nam cổ liên tục nối đuôi nhau trên đất Bắc và Trung-Việt. Thường khi tìm được di chỉ văn hóa ở đâu đầu tiên người ta lấy tên địa phương mà đặt cho nền văn hóa đó. Văn hóa Việt cổ xưa nhất còn gặp nhiều di vật cách đây từ 30.000 năm trở lại được tìm thấy ở núi Ðọ, thôn Sơn-vi tỉnh Vĩnh Phú được đặt tên là văn hóa Sơn-vi hay Tiền Hòa-Bình. Nền văn hóa nầy được tìm thấy rải rác khắp miền Bắc và Trung-Việt. Tuy việc tìm kiếm là ngẩu nhiên, nhưng nhờ vào sự giàu thịnh nên người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn hóa có tính cách liên tục nối tiếp nhau từ văn hóa Sơn-Vi (30.000 năm tr, TC) qua Hòa-Bình (16.000 - 7.000 tr. TC) đến Bắc Sơn rực rỡ, Quỳnh Văn, Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun, Hoa lạc, v.v... dần dần đến văn hóa Ðông Sơn huy hoàng có niên đại từ 800 năm đến 111 năm tr TC là thời gian bị Bắc thuộc lần đầu theo sử hiện đại. Rồi từ 111 tr TC dưới ách đô hộ của Tàu, văn hóa nước ta ngưng chìm lỉm hẳn, không tiến và hầu như biến hẳn, vì sao? Hỏi tức nhiên là đã trả lời. Dư âm của các nền văn hóa trên còn âm thầm kéo dài thêm vài thế kỷ sau Bắc thuộc rồi bị Tàu thôn tính và ẳm đi luôn. Trong những nền văn hóa tiền sử nước ta khi nói đến văn hóa Hòa-Bình (di chỉ tìm thấy ở tỉnh Hòa-Bình Bắc-Việt) thì từ lâu giới khảo cổ học và trí thức thế giới đều biết rằng đó là một trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá xưa nhất thế giới. Nhưng vì sao dân tộc ta như các sử gia Trần Trọng Kim, Ðào Duy Anh cứ luôn cho mình là dân man di, được Hán khai sáng, dạy cho cưới vợ hỏi chồng, dạy cho nông nghiệp.... Suốt 1000 năm cai trị, Hán lấy tài nguyên sản vật quí, và bắt thợ giỏi, gái đẹp cùng ngăn cấm dân truyền tụng văn hóa cổ, ngăn cấm dân ta phát triển kinh tế, và đập phá tất cả mọi công trình công nghiệp điển hình là gốm, lò luyện kim, lò đúc đồng trống đồng, đúc sắt. Dân Việt sợ, ai có đồ gốm và đồ đồng, trống đồng thì đem chôn dấu. May thay khảo cổ học đã lấy lên từ lòng đất những sự thật về văn hóa tiền sử và lịch sử nước nhà. Nghiên cứu tài liệu khảo cổ, đối chiếu với tài liệu sử học là việc làm có bằng chứng khoa-học vững vàng giúp chúng ta tìm hiểu nguồn gốc văn hóa dân tộc. Lịch sử văn hóa mỹ thuật dân tộc Việt-Nam cần được soi tỏ dưới ánh sáng khoa học một cách công-minh. Khác với lịch sử, sử gia có thẩm quyền ghi chép nhiều ít theo ý mình những sự việc xẩy ra, văn-hóa mỹ thuật lịch-sử cần những sự thật cụ thể được chứng-minh bằng khoa-học. Lịch-sử phụ thuộc sử gia, trong lúc văn-hóa mỹ thuật lịch-sử là công trình của tiền nhân để lại một cách đích thực, hiển nhiên, không thể chối cãi hay làm méo mó sự thật được. Văn hóa mỹ thuật lịch sử giúp tìm hiểu tâm lý, hoàn cảnh sống, nghệ thuật, trình độ tiến hóa, sinh hoạt gia đình làng xã, quan niệm hôn nhân. Thế cho nên văn hóa mỹ thuật là một khoa học lịch sử tuy khó khăn nhưng vô cùng sống động, quí báu và lý thú. Những cổ vật là vô tri, nhưng qua đó chúng ta có thể tìm hiểu được cách sống, tư tưỡng, cá tính, tinh thần tập thể, tình cảm, hoài bảo và tư tưởng triết thuyết trong cuộc sống vật chất và tinh thần của tiền nhân. Vì vậy có thể nào chấp nhận lịch sử văn-hóa nước nhà qua hành động và lời lẻ khinh bạc, dìm dập, xuyên-tạc của thực-dân ngoại lai Tây và tay sai trong nước của họ. Trở lại các thị tộc du mục Mông-Cổ, thủy tổ nhà Hán vượt sông Hoàng hà đến chiếm dần dà trung nguyên bao la rộng lớn mà lập nên nước Tàu vĩ đại. Nghề nông là do dân Bách-Việt làm từ lâu đời trước khi Mông-Cổ đến chiếm, họ tiếp tục làm. Vị tù trưởng Mông-Cổ lên ngôi đầu tiên xưng là Hoàng đế và biến dân Bách-Việt thành nô lệ chỉ được quyền làm nghề nông hay làm lính. Như vậy khi đến chiếm lục địa trung nguyên dân Mông-Cổ được thừa hưởng tài sản nông nghiệp của bao nhiêu đời Bách-Việt truyền lại. Tuy vậy xưa kia Hán tộc Mông-Cổ rất kỳ thị, khinh miệt và đối xử tàn ác với Miêu tộc Trung-Hoa, do đó mới sinh ra chế độ nô lệ man di. Dân nô lệ Bách-Việt thường chỉ được sống với nghề bản xứ, trồng trọt, đánh cá hay đánh giặc. Dân Hán là dân nắm chính quyền vẩn còn nhớ, yêu thích nghề du mục xưa, nên rất ưu thích săn bắn, làm thành một thú tiêu khiển cho hàng vương giả. Sau trận Trác-Lộc, lớp Bách-Việt thuộc hàng lãnh đạo bỏ chạy qua sông Dương-Tử giữ nước Xích-Quỉ. Rồi cũng lại bị nhà Hán đến đô hộ, và sự đô hộ kéo dài ngót 1.000 năm. Nhà Hán vừa chiếm Việt cổ họ thi hành ngay chính sách thực dân, thâu nạp không những của cải vật chất, mà họ còn rất chú trọng đến tài nguyên trí tuệ. Nhà Hán đã chiếm văn hóa tiền và sơ sử của Bách Việt trên lục địa Trung-Hoa từ trước. Nay lại chiếm luôn cả văn hóa sơ sử Việt-Nam của nước Lĩnh-Nam của Trưng Trắc từ Ðộng-Ðình-Hồ trở xuống miền Bắc và miền Trung Việt-Nam cổ. Họ có thâm ý làm cho người Trung-hoa gốc Bách-Việt và người Việt cổ quên hẳn quá khứ của giống nòi hầu dễ dàng buộc họ đồng hóa và chấp nhận rằng chính nhà Hán Mông-Cổ khai hóa ra Bách-Việt. Sự thật người Trung-quốc gốc Mông-Cổ bị đồng hóa với Bách-Việt. Và nhà Nguyên Mông-cổ và nhà Thanh Mãn-Châu sau nầy cũng lại bị Trung-Hoa đồng hóa luôn. Như vậy Mông-Cổ và Mãn Thanh đã bị man di Miêu tộc Bách-Việt đồng hóa thành Trung-Hoa. Như đã nói trên, người Tàu Mông-Cổ vốn có vật tổ là cọp trắng, và nhà cổ là nhà hình tròn gốc du mục nhưng khi họ thấy vật tổ Bách-Việt rồng phụng, và nhà cổ Bách-Việt mái cong, có vẻ đẹp tao nhã mỹ thuật, họ chiếm ngay văn hóa nhà cổ và rộng phụng Bách-Việt làm của họ và người mình không hề dám hé môi hay trăn trối với con cháu. Gần đây đào được trống đồng ở Vân-Nam, khảo cổ gia Tàu cũng tuyên bố ầm ỷ là trống đồng do Mã-Viện và Gia Cát Lượng sản xuất! Sao họ có thể quên Hậu Hán Thư quyển 14 ghi rõ: "Dân Giao-Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận...." Chính vua Quang Võ nhà Ðông-Hán đã ra lệnh cho Mã Viện phải phá hủy trống đồng Bách-Việt của Trưng Vương. Vì thế trên đất Hoa Nam hiện tại là đất Việt cổ tìm thấy trống đồng là việc đương nhiên. Hậu Hán Thư quyển 14 chép: "Mã Viện là người thích cưỡi ngựa giỏi, biết phân biệt ngựa tốt. Lúc ở Giao-chỉ Viện lấy được trống đồng đem đúc ngựa...." (hình chụp Hậu Hán Thư) Mã Viện cũng đã phá trống đồng để đúc cột đồng trụ để chiếm cho chắc ăn phần đất từ Ðộng Ðình Hồ trở xuống Ải Nam Quan của nước Lĩnh-Nam. Và vì sợ dân Giao-Chỉ lấy cột đồng đúc trống và phá hủy biên giới do Mã Viện đề ra, nên Mã Viện ghi "Ðồng trụ chiết, Giao-Chỉ diệt" để dọa dân việt cổ. Nhưng rồi chắc là dân ta cũng đã lén lấy đồng trụ để đúc trống vì thiếu đồng, nên đồng trụ biến mất. Ngoài ra, vì cần đồng để đúc trống nên dân Việt thường đem vàng bạc ngọc ngà hạt trai, sản phẩm quí đồi lấy tiền đồng của người Hán. Trước đó chính bà Lữ Hậu vợ vua Thái Tổ nhà Hán là Lưu Bang đã ra lệnh cấm bán, đổi chác tiền đồng cho dân Giao-Chỉ. Riêng Mã Viện, từ khi thắng Trưng Vương, biết dân Giao-Chỉ coi trống đồng như là một linh vật giữ nước. Mã-Viện, có kinh nghiệm về việc Trưng Vương ra trận dùng trống đồng thúc quân, thấy uy lực trống đồng của Bách Việt rất lớn, giúp họ đánh giặc rất hăng. Việc đúc ngựa, đúc đồng trụ chỉ là cái cớ để tiêu hủy linh vật của Bách Việt mà thôi. Vậy ai dám bảo trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng đúc thì thật là xuyên tạc lịch sử mỹ thuật Việt Nam một cách trắng trợn. Nhân đây xin kể một trường hợp xuyên tạc, bình gốm Hoa Lam cổ, trưng bày ở viện bảo tàng Istambul, cách đây trên 50 năm Tàu và Nhựt tìm xem có thể là của họ không. Nhưng đến khi thấy niên hiệu ghi trên bình là niên hiệu vua Việt "Thái-hòa bát niên..., Bùi Thị Hi bút" (xem hình 6), người Hoa bèn bảo đó là ... của một ông thầy Tàu qua Việt Nam chơi, làm để lại.... Và họ cho Bùi Thị là một người nam, đọc là "Thái hòa bát niên Bùi Thị hí bút". Vào Thời kỳ đó người ta hoàn toàn chưa biết Việt Nam đã có lò gốm hoa lam rất sớm từ thế kỷ 12, 13 với màu xanh bản địa chứ không nhập cảng màu xanh tươi của Ba-Tư như Trung-Hoa. Bình hoa lam chưng bày ở Istambul Phải mất 30 năm sau, khi khảo cổ học Việt-Nam tìm thấy dấu tích nhiều lò nung gốm cổ hoa lam trên đất Bắc từ thế kỷ 12, 13 cùng những sản phẩm phế thải của lò và những gốm Việt-Nam cổ có hoa văn giống hoa văn trên độc bình ở Istambul, mới chứng minh đích thực bình cổ danh tiếng ở bảo tàng viện Istambul là của Việt-Nam do một phụ nữ là Bùi Thị Hi trang trí. Trở với dân du mục Mông-Cổ, họ sống bằng săn-bắn và du mục. Do đó họ không thể nào là những người đã phát sinh ra nền văn-hóa nông nghiệp. Và như thế họ cũng chẳng bao giờ có họ hàng và cần thiết có họ hàng với các ông Thần-Nông (người tài giỏi về làm ruộng), bà Nữ-Oa đội đá vá trời (tức là người tìm hiểu và kinh nghiệm nhiều về thời tiết giúp nhà nông làm ruộng). Dân du mục phải thường xuyên chống chọi với thú rừng, cũng như chống chọi với các đoàn du-mục khác, họ phải đấu tranh không ngừng. Vì thế họ là một chủng tộc mạnh, tài nghệ bắn cung, cưởi ngựa, đô vật, đâm chém của họ rất cao. Chính nhờ vào tài nghệ nầy mà họ đã thành công trong việc chiếm lục địa Trung-Hoa và chiếm Việt-Nam sau nầy. Giòng máu du mục buộc họ luôn sẵn sàng chiến đấu, từ đó nảy sinh giòng máu xâm lăng. Vả lại khí trời miền bắc lạnh, nên bản chất họ rất khỏe, họ rất sợ khí nóng ở miền nhiệt đới nông nghiệp mà họ coi là nơi âm phong chướng khí. Cũng vì lý do trên, người Trung-Hoa gốc Mông-Cổ không thể có các vị vua Thần-Nông "vua trồng-trọt xứ nóng" tức là vua Viêm-Ðế, cần thiết của nhà nông. Dân Bách-Việt hiền lành ở miền Nam lo nghề nông, không quen đánh giặc bị họ chiếm hết đất đai và văn hóa. Suốt trên hai nghìn năm chúng ta hầu như chỉ học cho biết rằng Việt Cổ là một đất nước vô văn hóa, man di, được nhờ Tàu Mông-Cổ khai hóa. Dầu rằng Tàu gốc Mông-Cổ không chứng minh được nguồn gốc văn hóa của họ. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của việc bị đô hộ Tàu, kể cả Tây sau nầy, là nguy hiểm như thế nào!. Chính vì vậy mà LM Triết-Gia Kim-Ðịnh đã gia-công nghiên-cứu một triết-lý An-Việt và nói đến "... một nền văn hóa Việt-Nam cổ mồ côi..." . Nhưng văn-hóa tiền-sử Việt-Nam đã bị che dấu và cướp đoạt vì sức mạnh, chứ nhất thiết không hẳn là một văn hóa mồ côi. Văn-hóa Việt cổ có mẹ đẻ từ các nền văn hóa tiền sử Việt Nam, và đã sinh đứa con khổng lồ là nền văn-hóa siêu-việt Trung-Quốc. Chính văn-hóa Trung-Quốc lúc không nhận là con đẻ của văn-hóa Bách-Việt, là một văn-hóa mồ côi. Lúc Tưởng-Giới-Thạch ra lệnh nghiên cứu về văn hóa Trung-Hoa từ ngày nay trở về trước. Nhưng khi lên đến nhà Hán và thời Khổng-Tử, các nghiên cứu gia Trung-Hoa Dân-Quốc đành bỏ dở vì vấp phải nguồn gốc văn hóa Bách-Việt!. Với thực dân Pháp, trong vòng 80 năm đô hộ Việt-Nam, chúng đã lấy biết bao tài sản của đất nước ta đem về cất giữ và xây dựng đất nước họ, làm giàu Viện Bảo Tàng của họ (ví dụ đàn đá báu vật hiếm quí, nào 4 quyển sách trước tác của cụ Nguyễn Du, v.v. và v.v... Pháp cướp về nước tất). Tương lai gần chúng ta nhất định phải đòi lại tài sản bị cướp, đòi bồi thường và đòi Pháp phải xin lỗi dân tộc Việt Nam. Như đã nói trên trong thời gian bị thực dân Pháp đô-hộ, việc khảo-cổ trên đất nước ta chỉ dành độc quyền cho người Pháp. Chuyên gia và khảo cổ gia Việt-Nam có đóng góp công lao ý kiến cũng không được ghi lại. Người Pháp mà tiêu biểu là ông H. Mansuy đã có những phán đoán sai lạc, lập luận lầm lẫn về văn hóa mỹ thuật tiền sử và lịch sử Việt Nam. Trước những khám phá về văn hóa tiền sử và lịch sử Việt Nam, ông ta luôn có thành kiến rằng, bao nhiêu nền văn hóa xa xưa của Việt-Nam cổ từ thời tiền sử vốn chỉ là "... hàng nhập cảng...", "... hàng vay mượn... hàng thiên di, v.v... của phương Bắc hay phương Tây...." ! Từ trước, với phong cách thực dân khi Ông H. Mansuy khi nhìn thấy những viên gạch lót nền nhà cổ có hoa văn đẹp (xem hình gạch lót nhà có hoa văn), đào lên từ lòng đất, đã nói rằng: Ðây là gạch nhập cảng để làm bàn thờ chứ không thể lót nền nhà. Ngày nay chúng ta đã tìm thấy nhiều lò gạch cổ sản xuất gạch có khắc hoa văn ở Bắc Hà, và đã đào được nền nhà lót gạch có hoa văn thời nhà Trần, ví dụ nền nhà có lót gạch hoa văn của Hưng Ðạo Vương tại Vạn Kiếp. Các nhà học giả về khảo cổ học khắp thế giới và Việt Nam đã chứng minh về tính chất bản địa của những nền văn hóa tiền sử xưa nhất và phát triển nhất trên đất nước Việt Nam mà đặc biệt là văn hóa Hòa Bình với sự ra đời sớm nhất thế giới của nông nghiệp lúa nước cũng như các nền văn hóa lịch sử sau nầy. Có những người Việt Nam mà đại diện là ông Nguyễn Văn Tốt đã đọc sách tây thực dân, sao chép lại nguyên văn làm sách "Introduction à lart ancien du Viêt Nam, 1er trimestre 1969", mặc dầu vào lúc thế giới đã cải chính trước rất lâu. Ông Trần Văn Tốt đã theo đúng luận điệu thực dân của H. Mansuy mà viết sai lạc về văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn rằng: "Người Hòa-Bình có mặt trên đất nước Việt-Nam vào khoảng từ 5000 đến 3000 trước TC... coi như chưa biết gì về nông nghiệp và chăn nuôi, không biết gì gốm ..." ... "Ðá mài đã có vào thời Bắc-Sơn, nhưng ít được xử dụng." ; "... nghệ thuật đá mài có vai rất tiêu biểu cho văn-hóa tộc họ Auxtro asiatique, được dùng nhiều ở miền Trung Ðông Dương. Người ta đã cho là những rìu mài nầy đươc nhập cảng từ Tây-Tạng, Giang Nam bên Tàu, vì chúng nó cũng có ở Hoa-Nam, Ấn-Ðộ, Nhật-Bổn, Ðại-Hàn..." ; ... "và những dụng cụ đá mài hình dĩa là của văn-hóa Úc từ Tàu truyền xuống, v.v...." Than ôi! Thật vô cùng đáng trách! Ông Tốt đã sao chép lại y-nguyên những lập luận lầm lạc và vội vàng và đầy dẩy thành kiến đầu tiên của ông Mansuy mà bỏ qua mọi chứng minh khoa học xác đáng và mới mẻ hơn của các ông C.O. Sauer và W.G. Solheim, không biết với mục đích gì? Như thế phải chăng ông Tốt đã vô tình hay cố ý làm tay sai cho thực dân lỗi thời mà thế giới đã lên án!? Ông Tốt đã theo đuôi thực dân đưa ra một thứ suy luận hàm hồ, vì hể cứ thấy nơi nào có, thì tất là "...nhập cảng của nơi đó...", bất chấp cả thời gian nơi nào có trước, nơi nào có sau, và bất chấp cả nơi nào có tính cách sản xuất nghiệp vụ và nơi nào có tính cách tiêu thụ. Vậy thì ông Tốt viết sách về văn-hóa tiền sử Việt-Nam, phải chăng để tìm cách dìm dập thóa mạ tổ tiên mình hay là để nối giáo cho giặc?. Nhà học giả Sauer Hoa-Kỳ đã viết trong quyển Ðồng-Quê: "Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua 2 giai đoạn, mà giai đoạn đầu là giai đoạn của văn-hóa Hòa-Bình (Bắc Việt), lúa nước đã được trồng cùng một lúc với củ môn nước (khoai sọ)." Ðến nay tất cả các nhà khảo cổ học, sử học Hoa-kỳ như các ông C. Sauwer, R. Somhein, Trương Quang Trực (Ông Trực là người Mỹ gốc Trung-hoa), ông Jorhman và học-giả Liên-Xô ông N. Vavilow đều công nhận: "Ðông-Nam-Á mà chủ đạo là Việt-Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm sủa, tiên tiến và nhanh chóng, sáng tạo và sống động chưa từng thấy một nơi nào khác trên thế-giới." Chúng ta hãy nghe mấy dòng sôi nổi của ông C.O. Sauer viết trong quyển Agricultural Origins and Dispersals - Xuất bản ở New York: "Tôi đã chứng minh Ðông-Nam-Á là cái nôi của nền nông nghiệp xưa nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn-hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông-Nam-Á,và đây là trung tâm quan trọng của thế-giới về kỷ thuật trồng trọt và cải biến cây cối bằng cách tái sinh sản thực vật." Trước đây người ta vẫn ca tụng địa điểm văn-minh tân thạch khí ở vùng Tây-Á Tiểu-Á và cho rằng đây là một xứ nông-nghiệp xưa nhất thế-giới. Vì đã có những niên đại C14 lên đến thiên niên kỷ thứ VI, thứ VII. Việc phát hiện ra nền nông-nghiệp tại Hòa-Bình cách đây trên 10.000 năm đã làm cho thế giới rung chuyển, chao động. Như vậy trung tâm nông-nghiệp xưa nhất không còn là vùng Lưỡng Hà mà là Ðông-Nam-Á mà chủ đạo là Việt-nam. Việt-Nam đóng vai trò quan trọng nhất vì nơi đây là điểm phát xuất chính. Chúng ta hãy nghe lời bình luận xác đáng của ông W. G. SOLHEIM II đã viết từ năm 1967: "Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên-cứu lại nhiều cứ liệu ở lục-địa Ðông-Nam-Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát giác ra rằng việc thuần-thục-hóa cây trồng đầu tiên trên thế-giới đã được dân-cư Hòa-Bình (Việt Nam) hoàn thành vào khoảng 10.000 năm trước TC..." "... Rằng văn-hóa Hòa-Bình là văn-hóa bản-địa không hề chịu ảnh-hưởng của bên ngoài, đưa tới văn-hóa Bắc-Sơn (Việt Nam)..." "... Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông-Nam-Á có những văn-hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài láng đầu tiên của Châu-Á, nếu không nói là đầu tiên trên thế giới và đồ gốm đã được phát minh..." "... Rằng không phải là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi. Mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư-tuởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau nầy một số cây đã được truyền đến Ấn-Ðộ và Phi-Châu. Và Ðông-Nam-Á còn tiếp tục là một khu-vực tiền-tiến ở Viển-Ðông cho đến khi Trung-Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr TC tức khoảng 1500 tr TC." (Nữa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr. TC tức khoảng 1500 sau khi Mông-Cổ chiếm lục địa Trung-Hoa non 1500 năm.) Như đã nói trên, Trung-quốc thừa hưởng văn hóa nông nghiệp phát triển nhờ dân Bách Việt còn lại trên hoa lục. Chính nhờ sự phát triển của những sắc dân Bách Việt nầy mà Trung quốc rộng lớn có đủ tư cách thay thế xung lực phát triển nông nghiệp Ðông Nam Á vào khoảng năm 1500 tr TC. Như vậy chứng tỏ chính dân Bách Việt tức Việt cổ dạy Tàu nông nghiệp chứ không phải ngược lại như Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam Sử Lược. Chúng ta phải xúc động trước những lập luận rất vô tư, công bằng và rất khoa-học của Solheim II, cũng như rất xúc động trước nắm gạo bị cháy dở hóa thạch đã tìm thấy ở Ðồng-Ðậu Vỉnh-Phú có niên đại 5.500 năm trước TC tức cách đây 7.500 năm, nắm gạo nầy đã đươc thử nghiệm bằng carbone14 (xem hình nắm gạo cháy). Nắm gạo cháy dở của thời phát trịển trồng lúa nước nầy cũng chứng minh cho chúng ta rằng lúa nước đã được trồng từ rất lâu không ai biết được trước lúc nắm gạo bị cháy như ông Sauer đã cho rằng lúa nước đi đôi với nghề đánh cá. Những sự kiện trên đây đã được công bố lên thế-giới từ lâu. Với C.O. Sauer chẳng hạn, trong quyển Agricultural Orgins and Dispersals, New-York- 1952, với Wilhelm G. Solheim trong quyển Southeast Asia and the West. Science vol. 157, 1967, p.899. Ít nhất là 3 năm trước thời gian mà ông Trần Văn Tốt xuất bản quyển «Introduction à lart ancien du Việt-Nam» bằng tiếng Pháp năm 1969. Chúng tôi nói ngay mặt ông Trần Văn Tốt rằng một trong các văn-hóa tiền sử Việt Nam, văn hóa Hòa-Bình của Việt Nam không phải là đứa con nuôi, con vay mượn, con hoang, hay con mồ côi, nó chính là con đẻ của văn-hóa Sơn-vi kéo dài từ rất xa xưa có thể lên đến 500.000 năm đến 25.000 năm tr TC. Thường người ta lấy một niên đại tượng trưng gần nhầt là 30.000 năm làm mốc trung gian. Và để tiếp tục cuộc đời, văn hóa Hòa Bình đã dẩn đưa nhanh chóng đến một nền văn-hóa nổi danh thế giới của Việt Nam là văn-hóa Bắc-Sơn. Và từ văn-hóa Bắc-Sơn đến các nền văn hóa Quỳnh Văn, Bầu Tró, Hoa Lạc, Phùng Nguyên, Gò Mun, Ðồng Ðậu và cuối cùng là Ðông-Sơn. Sự liên tục của các nền văn hóa luôn được duy trì bằng những chứng minh cụ thể. Thật vậy các nền văn-hóa Việt-Nam cổ ngày càng được tìm thấy là có những bước tiến mạnh mẽ, những nét phát triển huy-hoàng. Mãi cho đến thời Bắc-thuộc lần thứ I thì, văn hóa Ðông Sơn nước ta, bắt nguồn từ thời tiền sử, bị ngưng hẳn. Chính giặc Mông-Cổ là những người đã xâm lăng các nền văn hóa tiền sử và sơ sử Việt cổ từ trên đất Trung Nguyên cho đến Việt Nam. Họ lấy hết cả, vừa đất đai, vừa công trình, vừa công cụ, vừa con người, vừa những người thợ tài giỏi Việt cổ đem về Tàu để phát triển nên nền văn hóa siêu-việt của Trung-Hoa sau này. Ðồng thời cướp lấy, họ phá hoại, họ cấm cản mọi sự phát triển văn hóa địa phương của kẻ bị trị: trong suốt non 1000 năm đô hộ, họ đã cố tâm cướp đoạt, hủy hoại, cấm đoán, dìm dập và dấu diếm tất cả mọi vết tích, mọi hình thức phát triển của văn-hóa lịch-sử Việt-Nam. Lòng đất đã được phơi bày mọi sự thât. Chính sách vở và các học giả Trung Hoa hiện-đại cũng đã nhìn nhận những sự thật trên. Văn-hóa Việt-Nam bị tê liệt, bị biến mất do xâm lăng và cướp giựt của Trung-quốc. 1000 năm quá dài, con cháu không được truyền đạt, nên dần dà người Việt-nam tự cho là mình đã được người Tàu khai hóa như các sử gia Trần Trọng Kim và Ðào duy Anh nói trên, thật là hổ thẹn với tiền nhân thay!!. Từ rất sớm, năm 1932, tại Ðại Hội Nghị Quốc tế của các nhà khảo cổ tiền sử học Viễn đông, vấn đề văn-hóa Hòa-Bình nước ta đã được xác nhận một cách chính đáng. Vấn đề thực tiễn là nền văn hóa Hòa-Bình có mặt trên toàn thế giới. Nhưng điều quan trọng ở đây là nền văn-hóa nầy đã được tìm thấy ở Việt-Nam sớm hơn đâu cả, nghĩa là có trước những nơi khác trên thế giới và tìm thấy ở Hòa-Bình một làng nhỏ Việt Nam, ở vào một thời gian xa xưa nhất (cách đây trên 16.000) đối với các nơi khác trên thế-giới. Ðiều nầy có nghĩa là người Việt cổ tại Hòa-Bình Việt Nam đã làm nên nền văn-hóa Hòa-Bình trước nhất trong nhân loại. Nói một cách khác, người Hòa-Bình trên đất Việt-Nam đã có một thời văn minh xưa nhất thế-giới, đó là sự thật mà khoa khảo cổ học thế giới minh chứng và xác quyết. Thế nên khảo cổ học thế-giới đã lấy tên của một làng quê Hòa-Bình Bắc-Việt đặt tên cho nền văn-hóa nầy gọi là văn-hóa Hòa-Bình cho toàn thế giới (xem Encyclopédie d'Archéologie). Thế là Hòa Bình tại Việt-nam đã được coi là trung tâm văn minh tiền sử đầu tiên của nhân loại về nông nghiệp lúa nước và về công nghiệp đá. Chẳng những nền văn minh tiền sử nầy ngang hàng với Trung Mỹ và miền Lưỡng Hà về phương diện kỷ thuật. Một điểm rất đáng hảnh diện là: "Hòa Bình đã được thế giới xác nhận là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới." Trung tâm nông nghiêp cùng chăn nuôi đầu tiên trên thế giới tại Hòa-Bình Việt-Nam đã có trước vùng Lưỡng Hà đến 3000 năm. Như vậy thì còn điểm nào nghi ngờ rằng nơi nào nhập cảng nơi nào!. Hòa-Bình, trung tâm văn-minh nông nghiệp đầu tiên của nhân loại trên thế-giới, để rồi từ đó nền văn-minh trên được lan tràn khắp vùng Ðông-Nam-Á: Trung-Quốc, Nhựt-Bản, Mã-Lai, Thái-Lan, Ấn-Ðộ, v.v.... Mà ở Hòa-Bình là nơi sầm uất, giàu thinh hơn đâu hết và đã có vị vua Viêm Ðế (vua nóng tượng trưng cho mùa trồng trọt) tức là Thần-nông, người đã nghiên cứu dạy nghề nông và được tôn sùng như một vị vua, và bà Nữ-Oa là người đã nghiên cứu thời tiết nắng mưa, cùng các ngày lễ, ngày Tết phù hợp với mùa màng và sự nghỉ ngơi của người nông dân sau khi mùa đã thâu hoạch. Bà Nữ-Oa đã nghiên cứu thời tiết lúc gieo, lúc cấy, lúc gặt, mà dạy dân làm ruộng không thất mùa. Vì thế dân gian coi bà Nữ-Oa như một vị thần-linh có khả năng "lấy đá vá trời". Văn hóa tiền sử nước ta đã thu hút thế giới vào văn-hóa Hòa-Bình. Một trung tâm kinh tế sản xuất đầu tiên trên thế giới. Một trung tâm kỹ nghệ đá đầu tiên của nhân loại, trước rất xa văn hóa Lưỡng-Hà và Trung-Mỹ (Mexico hiện tại) đến cả 3 thiên niên kỷ. Bước tiến này nhảy vọt mạnh với văn-hóa Hòa-Bình, có lẻ một phần cũng nhờ ở biến cố thiên-nhiên là trận Ðại-hồng-thủy thế giới đã xẩy ra thời văn-hóa Hòa-Bình (sẽ nói rõ sau). Nói chung đó chỉ là một suy luận, nhưng thật chất là đã có sự phát triển liên tục và rõ ràng từ văn hóa Sơn-vi đến Hòa-Bình. Tiềm lực của văn-hóa Hòa-Bình là càng ngày càng đưa con người thích nghi nhu cầu sự sống với một cố gắng như là một cuộc cách mạng. Ðó là cuộc cách-mạng sinh-sống bằng kỷ-nghệ sản xuất công-cụ để bán đi khắp nơi cho thợ đá. Và dụng-cụ nông nghiệp đá cho người dùng. Với nhu cầu sản xuất nông nghiệp mới nầy, tất nhiên kỷ-nghệ đồ đá phải phát triển. Văn-hóa Hòa-Bình là văn hóa đá giữa, nên nó có một ảnh hưởng sâu rộng về nghệ thuật đá mới. Vì chính nơi đây, Hòa-Bình, trên đất nước Việt cổ, là điểm phát xuất ra nhũng nền văn hóa thuộc nền cách mạng đá mới của các nước Trung-quốc, Nhật-Bản, Philippine, Indonêsia, Mã-đảo và cả miền Ðịa-Trung-Hải, v.v.... Chính vì vậy, Việt-Nam chính là trung tâm cách mạng sản-xuất đá mới đã được thế giới khẳng định. Có rất nhiều tầng văn hóa của các nước trên thế giới thuộc văn-hóa Hòa-Bình nhưng trẻ trung hơn, tức ra đời sau hơn nhiều, so với Hòa-Bình, đã được nghiên cứu đến và đều được qui về văn-hóa Hòa-Bình. Thế giới đã khẵng định rằng trong những nền văn hóa ấy không hề có thuật chế tạo đá sỏi như ở Việt-Nam. Ðá sỏi hay đá cuội là lỏi đá rất cứng. Với đá nầy chế tác ghè đẻo rất khó. Nhưng không có công cụ bằng đá sỏi, thợ đá không làm nghề đục dẻo gọt dủa mài đá được. Vậy nên chỉ có thợ làm công cụ bằng đá sỏi mới làm nên dồ nghề bán cho thợ đá làm việc chế tác nên dụng cụ đá cho mọi người xử dụng. Thời gian, mưa gió và ánh nắng mặt trời đã làm tan vở rồi bào mòn và tẩy sạch những tảng đá lớn. Hạt nhân đá còn lại có độ cứng rất cao gọi là đá sỏi hay đá cuội. Chế tạo những hòn đá cứng nầy rất khó khăn. Nhưng người ta cần những rìu đá, búa đá, dao đá bằng đá sỏi mới có thể sản xuất ra những rìu, búa, dao, cày đá bằng đá tảng mềm hơn cho người nông dân. Ghè đẻo trên đá sỏi cứng rất khó, nhưng rất cần thiết. Vì những công cụ bằng đá sỏi cứng dùng để chế ra các công cụ đá tảng dễ dành hơn. Chỉ ở Hòa-Bình mới có nghệ thuật chế tác đá sỏi cứng, với số lượng rất cao, dùng để bán đi khắp nơi cho thợ đá chế tạo những dụng cụ bằng đá. Thợ đá dùng công cụ đá sỏi cứng của Hòa Bình mà chế tác các dụng cụ nông nghiệp đá tảng mềm hơn đá sỏi. Khắp nơi trên địa cầu có rất nhiều học trò về chế tạo đá của các bậc thầy đá Hòa-Bình Việt-Nam. Ðiều nầy chứng minh rõ ràng là chỉ trong nền văn-hóa Hòa-bình tại Việt-Nam mới có việc sản xuất công cụ đá cứng cho người thợ đá xử dụng như là dụng cụ chế tạo đá. Vậy còn ai hoài nghi Hòa-Bình không phải là trung-tâm đẻ ra nghiệp vụ đá cho nhiều quốc-gia trên thế-giới. Văn-hóa Hòa-Bình là một nền Văn-hóa cách mạng ra đời trước văn-hóa Bắc-Sơn, và như trên đã nói, lẽ dĩ nhiên trước Ðông-Sơn rất lâu, ít nhất đến cả từ 6.000 đến 8.000 năm. Và chính Hòa-Bình là mẹ đẻ ra nền văn hóa nổi danh Bắc Sơn và sau nầy là văn hóa Ðông-Sơn rực rỡ huy hoàng. Văn-hóa Ðông-Sơn kéo dài cho tới khi Tàu qua chiếm nước ta lần đầu tiên thì ngừng hẳn. Ðiều nầy chứng minh rõ ràng Tàu đã đến cướp mất, phá hoại, cấm chỉ sự phát triển văn hóa của nước Việt cổ. Rõ ràng cũng nhờ cướp bóc lỏi cốt văn hóa Bách-Việt cộng với sự giàu mạnh của cải và quân lực mà văn hóa Trung-Hoa tiến nhanh sau nầy. Thật vậy, nhờ vào khảo cổ học mà mọi bí ẩn của tiền sử đã được làm sáng tỏ. Và thế giới đã công nhận Việt-Nam, tiêu biểu là văn hóa Hòa-Bình mà tên tuổi đã được thế-giới-hóa (Encyclopédie d'Archéologie), đã được thế giới xác nhận là nơi có một nền nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới. Có thể vì văn hóa Hòa-Bình nằm vào thời điểm của trận Ðại-hồng-thủy cách đây từ 17.000 năm đến 6.000. Cuộc Ðại-hồng-thủy nầy bao gồm cả thế giới, theo đó chắc nó ăn khớp và trùng hợp với cuộc Ðại-hồng-thủy đã được diễn tả trong Cựu Kinh Ước của đạo Do Thái và Ðạo Công Giáo. Vì vậy theo khoa học, rõ ràng trước và sau Ðại-hồng-thủy loài người đã có mặt thậm lâu trên miền Ðông-Nam-Á, mà quan trọng là tại Việt Nam. Sau vụ đại hồng thủy nầy, nơi trên thế giới nguy hại nhiều nhất, chính là Lục Ðịa Ðông-Nam-Á. Vì một phần đất lớn của miền nầy đã sụp xuống biển, mở rộng thêm Thái-bình-dương. Xét theo thềm lục địa Ðông-Nam-Á, các nhà khảo cổ nhận thấy Ðại-hồng-thủy lên và lui rất chậm chạp, vì thế không xẩy ra tai nạn chết người tập thể. Và như vậy số người đã sống trên bình nguyên Ðông-Nam-Á cũ mà nay là biển đã di tản nguyên vẹn ra khắp các lục địa Ðông-Nam-Á, và Úc-Châu còn lại. Có lẽ đó là lý do chính của sự hỗn hợp nhiều chủng tộc trên miền Ðông-Nam-Á. Phần đất còn sót lại sau Ðại-hồng-thủy trở nên quá ít đối với số dân sống bằng hái lượm trước kia. Do đó vấn đề cần thiết cho sự sinh sống của người Ðông-Nam-Á mà trong đó người Bách-Việt cổ là căn bản là đi tìm thức ăn. Người Bách-Việt cổ đã di tản lên chốn cao nguyên tức là lục địa Bách-Việt cổ mà nay là miền Nam Trung-Hoa và đồng bằng Bắc-Việt và thẳng đến miền duyên hải Trung-Việt (vùng Quảng-Trị Quảng-Hóa tức là Thừa-Thiên). Người Việt cổ bắt buộc phải nghỉ đến cách làm tăng số lượng thực phẩm cần thiết để sinh sống mà trước đây họ chỉ cần tìm thấy dễ dàng trong thiên-nhiên. Ðây có lẽ là nguyên nhân phát triển nghề nông của các chủng người đã di tản đến Ðông-Nam-Á mà chủ yếu là Việt-Nam cổ. Trên đây tôi đã dẫn những cứ liệu lịch sử về văn hóa Hòa-Bình với mục đích xóa tan những luận điệu và nhận xét sai lạc của thực dân Tây và Tàu; đồng thời cũng để trình bày một cách tương đối sơ lượt, một khía cạnh nào đó sự nghiệp lớn lao của tổ tiên chúng ta: hiện tại thế giới đã công nhận rằng nước Việt Nam chúng ta đã có một nền nông nghiệp lúa nước và một nền công nghiệp đá đã từng phát triển rực rỡ và xưa nhất thế giới. Vậy mà bao nhiêu trăm năm nay đất nước chúng ta phải trải qua biết bao gian truân, đói khó, xâm lăng, huynh đệ tương tàn. Ðến nổi con cháu mờ mịt cả mắt mũi không còn thấy gì về tiền nhân, không còn biết gì đến công lao sự nghiệp của tổ tiên. Ðồng thời con cháu cũng đã để ngoại bang hiểu lầm về sự nghiệp của các Vị. Vậy mà hiện tại người dân Việt phải đói khổ, phải nghèo nàn, phải đau thương, phải chậm tiến một cách man rợ. Thật là một điều vô cùng tủi nhục cho thân phận con người Việt-Nam. Thôi thì, tục ngữ ta vốn có câu "Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời". Ngày xưa Việt-Nam vượt hẳn các nước Ðông-Nam-Á và nhiều nước khác trên thế giới, vinh thật là vinh. Ngày nay chúng ta trở lại thua kém tất cả thì nổi nhục ấy quả nhiên là lớn lao. Chung quy cũng vì tham ô nhũng nhiễu từ thời Việt-Nam Cộng-Hòa cho đến ngày nay càng ngày càng quá quắt. Vậy, chúng ta chỉ còn cầu mong hết nhục ắt sẽ có ngày vinh quang. Chúng ta hãy đầy lòng tin tưởng cho ngày mai. Sau cơn sáng trời lại mưa, thì ắc sau cơn mưa trời lại sáng. Chúng ta phải tin tưởng như vậy. Chúng ta sẽ không tự mãn hả hê trước những thành tựu về học hành thi cử hay nghề nghiệp của con em trên đất khách. Vì đó chỉ là chuyện đương nhiên, mà trái lại chúng ta phải tự kiểm điểm những thiếu sót, những mất mát lớn lao cho thế hệ trẻ về phương diện văn hóa dân tộc. Chúng ta phải có bổn phận vun trồng mầm móng văn hóa Bách-Việt nước nhà lên lòng non dân tộc hải ngoại. Ðó tất nhiên phải là điều khó khăn, chúng ta có thể bỏ công lao mồ hôi nước mắt, nghị lực thời gian làm việc hữu ích cho hậu duệ chúng ta; hơn là ngày đêm ganh tương tị hiềm, kình địch, châm biến, chia rẽ, đua nhau bịa đặt bôi nhọ kẻ nào có gì hơn mình chút đỉnh. Những hành động đó chẳng những đã biến dần dân lưu vong thành một sắc dân mất gốc vô văn hóa, vô cội nguồn. Hơn nữa nó còn biến một số người Việt đông đúc lưu vong kém cỏi về kiến thức văn hóa và nhân phẩm con người (tiền bạc, khoa bảng, bằng cấp không có nghĩa là có văn hóa) thành man di đúng như tên mà người Trung-Hoa đặt cho dân tộc ta trước đây vậy. Các dân tộc khác như Trung-hoa, Nhật-bản, Do-Thái... Họ âm thần đoàn kết với nhau để bảo tồn và xây dựng lại nền văn hóa dân tộc, đi tiền phong khó khăn vất vả cho đến đạt mục đích thiết thực và họ đã thành công. Các dân tộc ấy là những tấm gương sáng giúp chúng ta trong nổ lực làm phát triển văn minh tinh thần tức văn hóa truyền thống của tổ tiên Việt. Niềm tin sẽ trở nên hiện thực hay không trong một ngày mai hậu gần gũi cũng do ở những hành động sâu ẩn trong mối ưu tư văn hóa dân tộc của mổi một người trong chúng ta. Ðể cầu chúc cho bước tiến văn hóa ở tương lai gần của dân Việt, chúng tôi xin kính hiếu chút tình cảm lên trước bao công trình của tổ tiên chúng ta suốt từ thời tiền sử đến nay. Chúng tôi xin mượn câu nói của nhà văn hào Jean Valery: "Hỡi tâm hồn cao cả, đã đến lúc mà Người cần được mặc chiếc áo xinh đẹp xứng đáng với cơ thể của người." Bác sĩ, Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THANH Nguồn: http://www.sugia.vn
  8. VẾT TÍCH “NHẤT NGUYÊN NHỊ PHÂN” CỦA CƠ CẤU DI TRUYỀN BÁCH VIỆT TS. Lý Huy (Trung tâm NC Nhân loại học hiện đại, Đại học Phúc Đán – Thượng Hải) Dịch giả: Nguyễn Ngọc Thơ (Trường ĐHKHXH&NV Tp. HCM) Tóm tắt: Các tài liệu nhân loại học phân tử mới nhất cho thấy ADN mang nhiễm sắc thể Y có thể giúp tiến hành phân tích tỉ mỉ hơn về hệ thống tộc người. Các kết quả phân tích di truyền ở tập đoàn Bách Việt cho thấy sự khác biệt rất lớn so với các tập đoàn dân tộc khác ở Trung Quốc, ngược lại rất gần gũi với tập đoàn Nam Đảo (chủng Mã-Lai), đặc biệt là nhóm các dân tộc bản địa tại đảo Đài Loan. Nhóm tập đoàn Bách Việt được đưa vào nghiên cứu, kết quả phân tích trên phương diện di truyền học có sự khác biệt đáng kể so với kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học. Điều này có liên hệ đến tính chỉnh thể và sự phân hóa địa phương của cộng đồng Bách Việt. Căn cứ vào kết quả phân tích thành phần chính trong bảng số liệu, ta rút ra được ba đặc điểm trong cơ cấu di truyền tập đoàn Bách Việt. 1/ Tập đoàn Bách Việt mang vết tích di truyền học khởi nguồn đơn tuyến, theo đó tập đoàn này có thể hình thành ở dải đất nay là Quảng Đông vào khoảng 3, 4 vạn năm trước, về sau phân tán từ từ. 2/ Tập đoàn Bách Việt phân đôi hai nhánh chính, gồm nhánh Đông Việt có trung tâm tập trung là vùng đất nay là Chiết Giang, và nhánh Tây Việt có trung tâm nay là vùng Tây Song Bản Nạp (Nam Vân Nam – dịch giả). 3/ Tập đoàn Bách Việt trong quá trình phát triển đã di cư theo ba hướng chính, gồm đông bắc, tây bắc và tây nam. Một số tập đoàn dân tộc khác từng tiếp xúc với Bách Việt có hiện tượng du nhập vào loại hình di truyền ở cấp độ các nhóm nội bộ trong khối Bách Việt. Một nhánh Bách Việt đã vượt qua vùng đất nay là Giang Tây và mở rộng định cư vùng Chiết Giang có thể đã đi cư từ rất sớm; các nhóm Bách Việt ở Phúc Kiến và Chiết Giang là hậu duệ của những lần di cư khác nhau. Nhóm các cư dân bản địa tại Đài Loan cũng cho thấy có tính nhị nguyên như thế. Nhánh Bách Việt lấy Tây Song Bản Nạp làm trung tâm ở phía tây có lẽ di cư từ vùng Quảng Đông đến rất muộn về sau. Từ khóa: Bách Việt, cơ cấu di truyền, phân tích thành phần chính, vết tích khởi nguồn đơn tuyến. Nội dung bài viết 1. Phạm vi Bách Việt được chọn trong nghiên cứu di truyền Ngành Dân tộc học lấy các đặc trưng độc đáo nhất để giới định phạm vi của tập đoàn (nhóm) dân tộc. Từ trước đến nay, các nghiên cứu di truyền học cũng hy vọng tìm ra đặc trưng như thế để giới định, song việc tìm ra đặc trưng điển hình trong số các ký hiệu di truyền dân tộc được phân tích từ các nhóm máu chẳng khác nào kiểu “ngàn lẻ một đêm”. Mười năm gần đây, ngành nghiên cứu các nhóm gen loài người rất phát triển, mang đến cho ngành nghiên cứu di truyền dân tộc những hy vọng mới. Trước hết là AND ty (tuyến) lạp thể đã thể hiện cơ cấu hệ thống của toàn thể loài người(1), song tính ổn định của hệ thống quần thể mà nó cấu thành tương đối kém nên tạo ra không ít sai sót. Đối với các công trình nghiên cứu dân tộc tương đối tỉ mỉ, các ký hiệu ty lạp thể hiện có càng không thể giúp giải quyết vấn đề. Về sau, trọng tâm nghiên cứu đã dịch chuyển sang AND nhiễm sắc thể Y(2). Đó là ký hiệu di truyền phụ hệ tuyệt vời, hàm chứa nhiều thông tin di truyền mang tính ổn định, độc đáo. Nó không những một lần nữa khẳng định toàn thể nhân loại phát sinh từ vùng Đông Phi(3) mà còn giúp thể hiện sự khác biệt giữa các tầng thứ, lớp lang (mối quan hệ đa chiều) giữa các dân tộc khác nhau (4). Qua nghiên cứu điều tra nhiễm sắc thể Y của nhiều nhóm tộc người vùng châu Á – Thái Bình Dương, chúng tôi xây dựng cây sơ đồ hệ thống các dân tộc hình 1 (5): Hình 1: Cây quan hệ huyết thống các dân tộc Đông Á do nhiễm sắc thể Y cấu thành. Chủ thể của tập đoàn Bách Việt hiện đại – các dân tộc Đồng–Thái hiển nhiên rất khác biệt với các tập đoàn (khối) các dân tộc khác tại Trung Quốc. Điều thú vị là, di truyền Bách Việt có sự gần gũi (tương cận) với tập đoàn Nam Đảo, trong đó nhóm các dân tộc bản địa tại Đài Loan là gần gũi nhất. Điều này cho thấy cộng đồng Bách Việt, tập đoàn Nam Đảo và các nhóm thổ dân Đài Loan có quan hệ cùng nguồn gốc. Dĩ nhiên, phạm vi giới định Bách Việt về mặt di truyền học không phải hoàn toàn tương đồng với phạm vi giới định trong ngôn ngữ học. Về mặt huyết thống, các cộng đồng vốn xuất phát từ Bách Việt, song văn hóa, ngôn ngữ có thể đã có sự biến đổi, vẫn phải là đối tượng nghiên cứu trong di truyền học. Các nhóm tộc Việt thuộc bộ phận Đông Việt đều là như thế. Các dân tộc bản địa Đài Loan có khả năng cũng như vậy. Mặt khác, các dân tộc không thuộc Bách Việt nhưng văn hóa, ngôn ngữ bị Bách Việt đồng hóa thì không nằm trong phạm vi nghiên cứu. Chẳng hạn, nhóm các dân tộc ở vùng tiếp giáp các tỉnh Hồ Nam – Quảng Tây – Quý Châu tuy về mặt ngôn ngữ thì nói tiếng Đồng nhưng về mặt di truyền thì thể hiện rõ tình trạng cha Hán mẹ Miêu trong khi chất dân tộc Đồng trong họ thì lại cực kỳ ít. Do vậy, chúng tôi đưa nhóm này vào đối tượng nghiên cứu. Vi thế, phạm vi nghiên cứu di truyền Bách Việt ít nhất sẽ bao gồm các dân tộc nói các ngữ tộc Choang – Thái, Đồng–Thủy, Ngật-Ương (Ngoại Kam-Tai [1]), Lê thuộc ngữ hệ Đồng-Thái, bao gồm cả các nhóm hậu duệ Bách Việt phần Đông Việt và các nhánh tộc người tại Đài Loan. Tổng cộng có khoảng 100 nhóm tộc người từ bang Assam của Ấn Độ sang đến đảo Đài Loan thuộc phạm vi giới định này. 2. Cơ cấu di truyền Bách Việt Qua nỗ lực tập hợp tư liệu của bản thân và các cộng tác viên trong mấy năm gần đây, có thể nói chúng tôi đã nắm trong tay các tài liệu cần thiết về di truyền ở cộng đồng Bách Việt. Trên cơ sở ấy, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm để nắm bắt các số liệu di truyền của các nhóm tộc người(6), bao gồm người Ahom ở Ấn Độ, người Lán-na, người Thái đông bắc và người Thạch ở Thái Lan, người Tai-nua và Tai-lue ở Vân Nam, người Choang, người Mao Nam, người Ngật Lão, người Dạ Lang, người Thủy, người Đồng, người La-ca ở Quảng Tây, người Bố Y, người Thủy ở Quý Châu, người Lê và người Ngật Long ở Hải Nam, người Mã Kiều ở Thượng Hải xưa và nay, người Vu Việt ở Chiết Giang, người Atayal, Bunun, Amei, Paiwan, người Tsou (Cou), người Saisiat, người Puyuma, người Rukai, người Ita Thao, người Pazeh v.v.. ở Đài Loan. Cơ cấu di truyền nhiễm sắc thể Y của các nhóm cộng đồng nói trên nhìn chung mang tính nhất trí, đồng thời hoàn toàn khác biệt với các tập đoàn dân tộc khác tại Trung Quốc đã qua kiểm chứng. Các nhóm cộng đồng này đều có các biến thể gen M119, M110, hoặc M95, M88 số lượng lớn, trong khi đó tỉ lệ các loại biến thể gen này ở các tập đoàn dân tộc khác là cực kỳ hiếm, ở các khối cộng đồng có tiếp xúc với Bách Việt hầu như cũng không có. Mặt khác, quan hệ di truyền giữa các nhóm dân tộc được nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt so với các nghiên cứu ngôn ngữ học và dân tộc học. Đặc biệt là ở hai nhánh Đồng – Thủy và Ngật – Ương (Ngoại Kam-Tai), kết quả nghiên cứu đã phá vỡ hoàn toàn ranh giới phân loại văn hóa, bắt buộc phải tổ hợp mới hoàn toàn. Ở hình 2, chúng tôi dùng đường thẳng để biểu thị quan hệ di truyền giữa các dân tộc và dùng đường khoanh để thể hiện phân loại trong văn hóa: Hình 2: Quan hệ di truyền và phân loại văn hóa giữa các cộng đồng Bách Việt Sự khác biệt giữa nguồn gốc hệ thống và loại hình văn hóa này có thể lý giải được. Cộng đồng Bách Việt thời sơ kì là một tập đoàn có nội bộ thống nhất, do vậy chi tiết ghi chép của cổ sử Trung Hoa rằng “Bách Việt phân bố từ Cối Kê đến Giao Chỉ” có thể chứng minh được rằng cổ nhân Trung Hoa coi Bách Việt là một tập đoàn mang tính chỉnh thể. Sự giao lưu văn hóa qua lại giữa các nhóm (phân chi) bên trong Bách Việt thời kì đầu diễn ra khá thuận lợi. Vì thế, giữa các nhóm Bách Việt có thể có hiện tượng đồng hóa văn hóa lẫn nhau. Kiểu đồng hóa này có khi không diễn ra hoàn toàn, cho đến nay vẫn còn lưu lại các vết tích của quá trình phát sinh đồng hóa, chẳng hạn người Dạ Lang và người La-ca có chung vốn ngữ vựng mà các nhóm Bách Việt khác không có. 3. Sự phân hóa địa lý của cộng đồng Bách Việt Căn cứ vào số liệu nhiễm sắc thể Y hiện hữu của cộng đồng Bách Việt, chúng tôi dùng phương pháp thống kê số học của các phân tích dựa vào các thành phần chính, từ đó thu thập thông tin quan trọng, theo đó chúng tôi tìm ra ba thành phần chính như thế. Đem ba thành phần chính này đối ứng với số liệu giá trị phân tích di truyền của các nhóm cộng đồng, ta sẽ có ba bản đồ khác nhau. Ba bản đồ này thể hiện đầy đủ ba đặc trưng quan trọng của cơ cấu di truyền Bách Việt. Thành phần thứ nhất chiếm đến 47% tổng lượng thông tin, trong hình 3 ta dễ dàng nhận thấy một trung tâm đơn nhất, cục diện phân bố kiểu lớp lang này có thể chứng minh tính chỉnh thể của cộng đồng Bách Việt – đặc trưng quan trọng nhất. Do đó, huyết thống Bách Việt chỉ phát sinh từ một nguồn duy nhất. Theo hình 3, trung tâm khởi nguồn của huyết thống Bách Việt có thể là dải đất nay là Quảng Đông Trung Quốc, do đó vùng đất này có thể là nơi khởi nguồn đầu tiên của Bách Việt, từ đó dần dần về sa phân tán sang tứ phương. Thành phần thứ hai chiếm 35,6% tổng lượng thông tin. Hình 4 cho thấy cơ cấu di truyền Bách Việt phân hóa thành hai hướng. Thứ nhất là vùng đất nay là Chiết Giang Trung Quốc, hướng thứ hai là khu vực Tây Song Bản Nạp nay thuộc Vân Nam Trung Quốc ngày nay. Do vậy, đặc trưng quan trọng thứ hai sau tính chỉnh thể thống nhất về nguồn gốc là tính nhị phân, theo đó phân thành hai nhánh là Đông Việt và Tây Việt. Tuy nhiên, cũng cần bổ sung rằng, các nhóm tộc người Đồng, Ngật Lão mặc dù cư trú vùng Tây Việt nhưng xét về di truyền lại thuốc nhánh Đông Việt, trong khi nhóm cư dân bản địa Phúc Kiến ở phía Đông lại phải xếp vào nhánh Tây Việt. Chắc chắn đằng sau sự phân bố này còn có nhiều vấn đề lịch sử cần làm rõ. Hình 3: Sự phân bố địa lý của thành phần thứ nhất trong cơ cấu di truyền Bách Việt Hình 4: Sự phân bố địa lý của thành phần thứ hai trong cơ cấu di truyền Bách Việt Hình 5: Sự phân bố địa lý của thành phần thứ ba trong cơ cấu di truyền Bách Việt Thành phần thứ ba chiếm 17,4% tổng lượng thông tin. Trong hình 5 cho thấy từ vùng nay là Quảng Đông kéo dài về phía tây nam, tây bắc và đông bắc sẽ có ba kết cấu di truyền khác nhau. Nội dung thể hiện của sự phân bố này là chỉ ra ba quá trình phân tán của các nhóm cộng đồng Bách Việt theo các hướng khác nhau. Khi vùng đất nay là Quảng Đông bị các di dân người Hán lấn lướt, các nhóm Bách Việt đã bắt đầu di tản để tìm nơi ở mới. Do vậy, đặc điểm cơ cấu di truyền Bách Việt ít nhất có thể quy về nguyên tắc “nhất nguyên nhị phân”, còn sơ đồ phân bố “tam giác” là để chỉ ba phương hướng thiên di, riêng điểm này cần được chứng minh thêm. 4. Các nhóm tộc người chịu ảnh hưởng của Bách Việt Bách Việt từ trước đến nay được biết đến như một quần thể dân tộc chủ thể ở vùng phía nam Trung Quốc, đã từng trải qua nhiều cuộc giao lưu tiếp xúc với các tập đoàn dân tộc không cùng huyết thống khác. Điều đó có nghĩa là cộng đồng này đã từng xuất hiện hiện tượng giao lưu gen di truyền ở mức độ nhất định. Dải đất nay là Chiết Giang, Phúc Kiến vốn là những trung tâm chính trị chủ yếu của Bách Việt, do vậy cộng đồng người Hán hiện nay tại khu vực này vẫn còn bảo lưu nhiều dấu vết di truyền của Bách Việt. Lấy tỷ lệ đột biến M119 làm ví dụ(7), vùng Thượng Hải và Chiết Giang là 26% - cao nhất trong các nhóm cộng đồng người Hán phương Nam, kế đến là Quảng Đông với 20%, An Huy 18%, vùng Liêu Ninh và Hồ Bắc là 17%, Giang Tô là 16%, Giang Tây là 14%, Hồ Nam 13%, Hà Nam 11%, Sơn Đông 9%, Tứ Xuyên 7%, Vân Nam 4%. Thực tế cho thấy kiểu đột biến gen M119 lấy vùng Chiết Giang làm trung tâm và mở rộng lên bắc – xuống nam theo bờ biển Thái Bình Dương. Điều đáng nói là loại hình phụ (á loại hình) đột biến M110 trong kiểu loại hình đột biến M119 càng thể hiện tính đặc sắc vùng Đông Việt song lại không xuất hiện trong cộng đồng người Hán vùng này, trong nhóm người Mã Kiều ở Thượng Hải thì chỉ xuất hiện với tỷ lệ tương đối. Loại hình ở Phúc Kiến thì khác, có đến 8% kiểu đột biến M88 vốn của vùng Tây Việt, ở Quảng Đông, tỷ lệ này là 7%. Hiện tượng người Hán tiếp nhận huyết thống Bách Việt phù hợp với lý luận nhóm tộc người ưu thế tiếp nhận huyết thống của nhóm tộc người yếu thế. Hiện tượng này cũng có ở trong cơ cấu di truyền của các dân tộc khác, đặc biệt là ở tập đoàn Bách Bộc (ngữ hệ Nam Á) vốn có mối quan hệ mật thiết với Bách Việt. Một số dân tộc chiếm ưu thế khá mạnh trong tập đoàn này cũng có chứa một thành phần nhất định huyết thống Bách Việt trong khi các nhóm yếu hơn thì không có. Chẳng hạn, người Kinh là dân tộc chủ thể ở Việt Nam, đương nhiên là dân tộc có ưu thế gen khá mạnh cũng mang đến 7% đột biến gen M119; người Khmer – dân tộc chủ thể ở Campuchia – chứa 4% đột biến gen M119, 4% đột biến M110 và 12% đột biến M88. Trong khi các nhóm tộc người yếu thế hơn trong ngữ hệ Nam Á như người Mường, người Bố Lãng, người Ngõa thì không mang dấu viết huyết thống Bách Việt. Có thể quá trình giao lưu gen giữa các nhóm yếu thế ấy với cộn đồng Bách Việt chỉ là một chiều. Nhóm tộc người Miêu – Dao cho đến nay vẫn chưa biết được rằng họ có tiếp nhận nguồn gen Bách Việt hay không. Trong tập đoàn Đê – Khương cũng có một số tộc người ở một số khu vực tiếp nhận thành phần gen Bách Việt. Điển hình cao nhất là người Thổ Gia với 20% đột biến M119 và 10% đột biến M88, có thể nguồn gen này từ người Đồng, người Ngật Lão và người Bố Y đến. Ngoài ra, người Lật Túc (Lisu) cũng có đến 20% đột biến M88, người La Hô (Lahu) có 8% đột biến M88, dường như họ đã tiếp nhận từ nhóm người Thái. Điều có ý nghĩa đặc biệt là một số dân tộc thuộc hệ thống Altai ở phía Đông cũng có chứa một ít lượng đột biến M119, hiện vẫn chưa rõ rằng lượng đốt biến ấy phát sinh tại chỗ hay do tiếp nhận từ Bách Việt mà có. Điều này cần có nhiều công trình khoa học hơn để làm rõ. Cao nhất là người Buryat với 35%, người Nivkh 6%, người Mãn 5,6%, người Mông Cổ 4,2%, người Ulchi 3,8%, người Nhật 3,4%, người Ewenki (Ngạc Ôn Khắc) vùng Yenisey là 3,2%. Xét về mặt di truyền và văn hóa, việc tập đoàn Bách Việt và nhóm các dân tộc Tungus thuộc hệ thống Altai có quan hệ nguồn gốc hay chỉ là các nhóm dân tộc có quan hệ giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau còn cần phải nghiên cứu làm rõ. Quá trình giao lưu – dung hợp văn hóa giữa Bách Việt và các tập đoàn ngoại tộc diễn ra rất phức tạp, theo đó có dòng chảy gen từ Bách Việt sang ngoại tộc, và cũng có những dòng chảy gen không ngừng từ ngoại tộc dung hợp vào Bách Việt, thậm chí có thể có trường hợp một số dân tộc nhỏ lẻ ở phía tây dung nhập toàn bộ vào tập đoàn Bách Việt. Bộ phận Đông Việt do áp lực Hán hóa mạnh, các vấn đề về phân bố và cơ cấu di truyền cần phải có nhiều công trình hơn để làm sáng tỏ. Chẳng hạn, nhóm dân Mã Kiều – hậu duệ khá thuần của tập đoàn Bách Việt - ở Thượng Hải chắc chắn cũng có thể đang tồn tại ở một vài nơi nào đó ở Chiết Giang và Phúc Kiến. Việc nghiên cứu đến nơi đến chốn chắc chắn sẽ rất có ý nghĩa. 5. Mạnh dạn ước đoán về quá trình hình thành và phân hóa Bách Việt Khoa học hiện đại có rất nhiều cách phân tích, giải thích cơ cấu gen di truyền Bách Việt, trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi đề xuất những ước đoán khoa học nhất định nhằm cung cấp tư liệu tham khảo cho các nhà sử học và di truyền học khi nghiên cứu Bách Việt. Trước hết là vấn đề khởi nguồn của Bách Việt. Đầu tiên, thời kì loài người di chuyển từ Đông Phi sang Đông Nam Á, tập đoàn Bách Việt và nhánh ngữ hệ Nam Đảo có thể là cùng một quần thể, sau đó tập đoàn Bách Việt di chuyển lên miền đất nay là Quảng Đông, trong khi nhóm Nam Đảo di cư xuống quần đảo Mã Lai. Từ đó về sau, hai tập đoàn càng ngày càng tách biệt nhau. Nhóm các tộc người bản địa ở Đài Loan xuất phát từ Bách Việt hay Nam Đảo chắc chắn sẽ được các nhà di truyền học giải đáp nay mai, song với các dữ liệu hiện có, khả năng thiên về Bách Việt là nhiều hơn. Tại vùng đất nay là Lưỡng Quảng, có thể tập đoàn Bách Việt đã cư trú cố định trong khoảng thời gian khá dài (vài vạn năm), do đó mới xuất hiện bản chất và văn hóa thống nhất (suy đoán từ tính chỉnh thể trong cơ cấu gen – lời dịch giả). Sự phân hóa các phân nhánh Bách Việt xảy ra trước hay sau khi tập đoàn này di tản ra các khu vực khác cho đến nay vẫn chưa rõ. Có thể tập đoàn Bách Việt đã phân thành hai nhánh nam, bắc; nhánh phía nam là tổ tiên chung của các dân tộc Choang, Thái, Lê, còn nhánh phía bắc về sau hình thành các dân tộc Đồng, Thủy, Ngật-Ương (Ngoại Kam-Tai)v.v. Do vùng phía tây Quảng Tây và vùng Vân Nam là địa vực cư trú của tập đoàn Bách Bộc, vùng phía bắc Hồ Nam là khu vực của cộng đồng Tam Miêu nên phương hướng di tản đầu tiên của Bách Việt chỉ có thể là hai hướng đông bắc, chính đông. Hai hướng khác biệt này đã dẫn đến hai vết tích di truyền khác nhau nói trên. Thời gian xảy ra sự phân tán này khá sớm, ít nhất là trước thời kì văn hóa Hà Mẫu Độ. Nhánh người Việt đi về phía đông bắc thuộc loại hình phía bắc. Trước tiên vào vùng đất nay là Giang Tây, tại đây một bộ phận hình thành Can Việt. Can Việt về sau di cư sang phía tây, có khả năng phát triển thành dân tộc Đồng (Kam) ngày nay, đúng như thuyết coi tổ tiên dân tộc Đồng bắt nguồn từ Giang Tây trong giới học thuật (8). Điều này giúp giải thích vì sao cơ cấu gen di truyền dân tộc Đồng lại được xếp vào loại hình bộ phận Đông Việt. Nhóm người Việt từ Giang Tây di cư sang Chiết Giang hình thành Dư Việt, đồng thời sáng tạo ra nền văn hóa xán lạn độc đáo của mình ở vùng Thái Hồ và bình nguyên Ninh Thiệu. Nhánh người Việt di cư sang hướng chính đông xếp vào loại hình phía nam, vào Phúc Kiến hình thành các bộ tộc Mân Việt. Nhóm Âu Việt [2] hiện vẫn chưa được khảo sát, không biết có thuộc nhánh này hay không. Nếu cho các tộc người bản địa ở Đài Loan xuất thân từ Bách Việt thì theo chúng tôi, họ có nguồn gốc từ cả hai nhánh này. Rõ ràng nhất là người Bunum rất giống người Mân Việt, người Sasiat có một bộ phận tương tự dân Phúc Kiến, các tộc người còn lại thì giống dân Dư Việt. Khả năng người Việt vượt biển ra Đài Loan là rất lớn, điều này cần nghiên cứu sâu hơn mới khẳng định được. Nhóm các dân tộc Ngật-Ương (Ngoại Kam-Tai) phân tán ra nhiều hướng cũng là một hiện tướng khá rõ ràng, song hiện khoa học vẫn chưa biết được rằng họ di cư trực tiếp hay gián tiếp sang vùng tây bắc Quý Châu, song ít nhất thời kì nhà Chu ở Trung Quốc đã có ghi chép về nước Dạ Lang rồi. Nhóm các dân tộc Choang, Thái di cư ồ ạt chủ yếu từ đời Hán về sau, do Nam Việt bị nhà Hán tiêu diệt. Việc người Thái di chuyển xuống Vân Nam và vùng đất nay là Thái Lan có thể chỉ xảy ra vào thời kì nhà Đường ở Trung Quốc (9). Dân nước Mãnh Mão (Meng-mao, nay thuộc vùng Đức Hồng tỉnh Vân Nam Trung Quốc – lời dịch giả) ở vùng Vân Nam di cư sang Ấn Độ vào khoảng năm 1215 (10). Do vậy, lịch sử nhánh Tây Việt xuất phát từ dải đất nay là Quảng Đông là khá rõ ràng. Tuy nhiên, cục diện, phương phướng phân tán của nhánh Tây Việt rất phức tạp, việc hoàn thành công trình nghiên cứu di truyền học trong lĩnh vực này rất có ý nghĩa đối với các quốc gia Đông Nam Á. Bài viết này trước mắt thông qua phân tích nghiên cứu cơ cấu gen di truyền Bách Việt để rút ra đặc điểm “nhất nguyên nhị phân”, đồng thời từ cơ sở gen di truyền mang đặc điểm ấy tiến đến mạnh dạn đề xuất ước đoán lịch sử với hy vọng đãi cát tìm vàng, từ đó vạch ra một con đường nghiên cứu mới trong việc nghiên cứu lịch sử Bách Việt, đồng thời kích thích, mở đường các công trình nghiên cứu sâu hơn về di truyền Bách Việt sau này. Tài liệu tham khảo: 1. Cann RL, Stoneking M, Wilson AC. DNA và tiến hóa nhân loại. Nature, 325: 3136, 1987 2. Jorde LB, Watkins WS, Bamshad MJ, Sự phân bố gen người: nghiên cứu so sánh số liệu ty lạp thể, nhiễm sắc thể thường và nhiễm sắc thể Y, Am, J. Hum., Genet., 66 (3): 97988, 2000 3. Underhill PA. Nghiên cứu địa lý thân tộc (giống nòi) về các tiêu bản đơn nhị nguyên của nhiễm sắc thể Y và nguồn gốc con người hiện đại (The phylogeography of Y Chronsome Binary Haplotypes and the Origins of Modern Human Populations), Ann.Hum.Genet., 65: 4362, 2001 4. Su Bing, Xiao CJ, et al. Tiêu bản đơn nhiễm sắc thể Y thể hiện quá trình di cư thời tiền sử đến vùng Himalaya (Y chronosome haplotypes reveal prehistorical migrations to the Himalayas), Hum.Gent.107: 582-590, 2000 5. Lý Huy, Tống Tú Phong, Kim Lực. “Phân tích giải thích gen phả hệ loài người”, Thế kỷ 21 (HongKong), 2002, 71 (6): 95105 6. Lý Huy. “Suy nghĩ ban đầu về các phân tích cơ cấu di truyền cộng đồng Bách Việt”, Tuyển tập các bài viết hội thảo quốc tế nhân loại học hiện đại (kỷ yếu hội nghị), Thượng Hải, 2002, 4, tr.89-94 7. Su B, Xiao J, Underhill P, et al , Bằng chứng nhiễm sắc thể Y của làn sóng di cư về phía bắc của con người hiện đại vùng Đông Á cuối thời kì băng hà, (Y-chronosome evidence for a northward migration of modern humans into Eastern Asia during the last Ice Age, Am.), J, Hum, Genet., 65 (6): 17181724, 1999 8. Thạch Lâm, Nghiên cứu so sánh ngôn ngữ các dân tộc Đồng-Đài, NXB Cổ tịch Thiên Tân, 1997 9. Hà Bình, Từ Vân Nam đến Assam – suy nghĩ và xây dựng lại lịch sử các dân tộc Tai và Thái, NXB Đại học Vân Nam, Côn Minh, 2002 10. Buragohain Ye Hom. “Vua Sukapha và chuyến đi đến Assam: bằng chứng Bút ký (King Sukapha and His Journey to Assam: The Manuscript Evidence)”. Kỷ yếu Hội nghị quốc tế về Thái học (Thai Studies), Canberra, 1987, tr. 18 Nhận xét của dịch giả: Nhận xét của dịch giả: Công trình nghiên cứu của tác giả Lý Huy đạt được những kết quả khoa học nhất định, song vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm mang tính quyết định. Như tác giả đã trình bày trong phần kết luận, công trình này một lần nữa giúp khẳng định tính thống nhất của tập đoàn dân tộc Bách Việt cổ từng cư trú trên một địa bàn rộng từ lưu vực sông Dương Tử xuống đến bắc Đông Dương. Với cơ sở phân tích thực nghiệm nhiễm sắc thể Y trong gen di truyền, tác giả đã mạnh dạn đề xuất thuyết “nhất nguyên nhị phân” trong lịch sử văn hóa Bách Việt. Qua kết quả này, tác giả ước đoán rằng vùng đất nay là Quảng Đông là chiếc nôi đầu tiên của cư dân Bách Việt (và cả Nam Đảo), trước khi tập đoàn này phân làm hai nhánh Đông Việt và Tây Việt đi về hai hướng khác nhau (đông bắc, tây nam), sáng tạo nên những nền văn minh xán lạn trong lịch sử trước khi kiến tạo nền tảng hình thành các tộc người (hay nhóm dân cư) hậu duệ hôm nay. Tác giả một lần nữa khẳng định mối quan hệ cội nguồn giữa cộng đồng Bách Việt và các dân tộc Nam Đảo phương Nam. Thành quả nghiên cứu này của tác giả Lý Huy đáng để chúng ta tham khảo. Tuy nhiên, tác giả Lý Huy vướng phải vấn đề phương pháp khi thực hiện công trình. Đầu tiên, phải nhận ra rằng di truyền học là một khoa học tự nhiên theo nhóm chuyên ngành. Khi mang hoa học này áp dụng vào một công trình nghiên cứu khoa học xã hội chắc chắn có sự khập khiễng nếu như tác giả không linh hoạt giải quyết. Thứ nhất là đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Tác giả Lý Huy tỏ ra rất thận trọng khi nói “Về mặt huyết thống, các cộng đồng vốn xuất phát từ Bách Việt, song văn hóa, ngôn ngữ có thể đã có sự biến đổi, vẫn phải là đối tượng nghiên cứu trong di truyền học” và “các dân tộc không thuộc Bách Việt nhưng văn hóa, ngôn ngữ bị Bách Việt đồng hóa thì không nằm trong phạm vi nghiên cứu”, song không hiểu vì lý do gì tác giả này loại dân tộc Việt (Kinh), Mường và một số dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam ra khỏi tập đoàn Bách Việt một cách vô cớ. Ngay ở phần giới định đối tượng, phạm vi nghiên cứu, tác giả dẫn ghi chép của cổ tịch Trung Hoa rằng “Bách Việt phân bố từ Cối Kê đến Giao Chỉ”, song liền sau đó tác giả không cần biết (hoặc thật sự không biết) người Trung Hoa xưa dùng danh từ Giao Chỉ để gọi vùng đất nào. Tác giả không những mâu thuẫn với chính mình ở khâu giới định đối tượng mà còn ở khâu diễn dịch kết quả nghiên cứu. Hình 1 cho thấy trung tâm phát sinh của tập đoàn Bách Việt không chỉ tập trung ở vùng đất nay là Quảng Đông mà còn kéo dài về phía tây nam đến Bắc Đông Dương. Thế nhưng, vết tích gen Bách Việt tìm thấy ở Bắc Đông Dương này bị tác giả đánh lờ một cách khó hiểu. Xuyên suốt công trình nghiên cứu của mình, tác giả Lý Huy loại bỏ qua tất cả các mối liên hệ nguồn gốc lịch sử, nguồn gốc văn hóa vốn đã được rất nhiều khoa học khác như văn hóa học, nhân loại học, ngôn ngữ học, sử học, khảo cổ học v.v. dày công xây dựng. Lấy ví dụ, Lý Huy là tác giả duy nhất xếp dân tộc Kinh (Việt) ở Việt Nam vào tập đoàn Bách Bộc, trong khi tất cả các tác giả khoa học xã hội đều thống nhất rằng Bách Bộc là tập đoàn dân tộc đa dạng định cư tại vùng cao nguyên Vân Quý kéo dài về phía tây đến vùng Đông Tạng. Thứ hai, ngay trong phương pháp chọn mẫu gen để phân tích, tác giả không thể hiện sự rõ ràng tính đồng đại và tính lịch đại của mẫu gen nghiên cứu. Thoáng đọc qua, ai cũng có thể đoán ra rằng tác giả nghiên cứu theo tính đồng đại, song dường như không phải thế: “chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm để nắm bắt các số liệu di truyền của các nhóm tộc người, bao gồm…. người Mã Kiều ở Thượng Hải xưa và nay, người Vu Việt ở Chiết Giang, …”, nghĩa là nghiên cứu cả gen di truyền nhóm người Mã Kiều trong lịch sử và cả hiện tại. Xưa là xưa đến mức nào? Tại sao chỉ ở người Mã Kiều và người Vu Việt thì nghiên cứu cả gen di truyền trong quá khứ, còn ở các tộc người khác thì không. Vả lại, Mã Kiều có thể là tên gọi ngày nay, trong lịch sử các dân tộc Bách Việt không hề có tên gọi Mã Kiều. Vậy người Mã Kiều hôm nay xuất thân từ đâu? Còn ở đối tượng người Vu Việt cũng là một vấn đề. Vu Việt hình thành từ rất sớm trong lịch sử, nổi lên vào thời gian với thời mạt kì Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa với sự kiện Việt Vương Câu Tiễn dấy binh diệt Ngô Vương Phù Sai (năm 473 trCN), nhập với nước Ngô hình thàn Ngô Việt. Trên thực tế, về sau Ngô Việt bị Sở diệt, cuối cùng bị Tần Thủy Hoàng thôn tính (năm 222 trCN). Dân Vu Việt bị Hán hóa hoàn từ đó. Thế thì mẫu gen người Vu Việt mà tác giả Lý Huy sử dụng trong nghiên cứu có niên đại ra sao, và làm sao để biết đó là gen của người Vu Việt. Những dẫn chứng nhỏ nhặt trên đây nhằm làm sáng tỏ một điều rằng tác giả thực hiện công trình nghiên cứu một cách tùy hứng. Tóm lại, tác giả Lý Huy đi từ khoa học tự nhiên là di truyền học để nghiên cứu một vấn đề của xã hội một cách độc lập (đơn ngành) nên thiếu cơ sở khoa học chắc chắn. Song điều đáng nói là kết quả nghiên cứu này của tác giả Lý Huy lại được nhiều trang thông tin khoa học cũng như công cộng Trung Quốc đăng tải truyền bá, nghĩa là những phần thiếu sót hoặc sai sót của công trình mặc nhiên bị bỏ qua. Với việc dịch và giới thiệu công trình này của tác giả Lý Huy, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, vấn đề nghiên cứu lịch sử văn hóa các dân tộc Bách Việt đòi hỏi tính liên ngành, nó đòi hỏi sự kết hợp giữa tính lịch đại và tính đồng đại trong phương pháp nghiên cứu. [1] Chú thích của dịch giả [2] chỉ Đông Âu Việt, khác với Tây Âu Việt trong Nhà nước Âu Lạc ở Việt Nam – lời dịch giả Nguồn : http://www.vanhoahoc.com
  9. thanhdc cũng không vào lớp được kính mong Ban kỹ thuật xem giúp. Xin cảm ơn!
  10. Một trò chơi hỗ trợ điều trị ung thư Khi những bệnh nhân ung thư đầu tiên vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất của cuộc chiến bệnh tật với sự trợ giúp đắc lực của một trò chơi trên máy tính, người ta hiểu rằng, game không chỉ mang tính giải trí đơn thuần mà còn có thể đem lại... sự sống. Năm 2004 có lẽ là khoảng thời gian đau đớn và tuyệt vọng nhất của cậu bé Dan Neumann, 14 tuổi, ở bang California (Mỹ), khi các bác sĩ Bệnh viện Nhi Lucile Packard thuộc Đại học Stanford chẩn đoán em mắc bệnh máu trắng. Một lần, khi đang điều trị trong bệnh viện, Neumann lang thang trên mạng Internet và bất ngờ nhận được lời mời tham gia chơi thử một trò chơi mới dành riêng cho các bệnh nhân ung thư tuổi teen. Vốn mê game, ngay lập tức Neumann bị lời mời này cuốn hút và nhanh chóng tìm thấy sự hứng thú với trò chơi được thiết kế mô phỏng một cuộc chiến sinh tử trong cơ thể bệnh nhân ung thư. "Khi chơi trò này, bạn sẽ có cơ hội bắn hạ các tế bào ung thư", Neumann (nay đã 19 tuổi) chia sẻ trên kênh CNN. Một hình ảnh trong game Re-Mission Neumaan chính là một trong những bệnh nhân ung thư đầu tiên trên thế giới tham gia thử nghiệm và có được những tác động mạnh mẽ về tinh thần nhờ "Re - Mission" (trò chơi điện tử phát hành năm 2006, dành riêng cho các bệnh nhân ung thư; đặc biệt ở lứa tuổi teen, giúp các bệnh nhân hình dung ra quá trình điều trị ung thư và đi tiêu diệt các tế bào quái ác trong game này). Rashida Wilkins, 19 tuổi, ở thành phố Norfolk, bang Virginia (Mỹ) cũng có một tuổi thơ vật lộn với căn bệnh ung thư não hơn 8 năm qua, trải qua 4 cuộc phẫu thuật não, 6 tuần điều trị phóng xạ và 2 năm hóa trị liệu. Wilkins bắt đầu tham gia dự án nghiên cứu game "Re-Mission" từ năm 15 tuổi và nhanh chóng nhận thấy những tác dụng tích cực từ trò chơi. "Tôi hiểu được bản chất của căn bệnh ung thư và các thông tin liên quan đến căn bệnh này dễ dàng hơn nhiều so với việc đọc sách", Wilkins chia sẻ. "Tôi và nhiều bạn khác tham gia trò chơi này có cùng cảm giác rằng, mình đang tấn công lại những 'kẻ xấu xa' đang tìm cách đưa chúng tôi xa rời bố mẹ và gia đình". Ý tưởng về trò chơi này là của Pamela Omidyar, vợ của Pierre Omidyar - người sáng lập ra trang mua bán trực tuyến eBay lớn nhất thế giới. Tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận HopeLab sau đó được thành lập và đưa trò chơi này vào thực tế với hơn 145.000 bản miễn phí cấp cho các bệnh nhân tuổi teen đang điều trị ung thư. Những thành công bước đầu trong việc hỗ trợ quá trình điều trị của "Re - Mission" gần đây đã được Tổng thống Mỹ Barack Obama ghi nhận bằng những lời ngợi khen cho cách tiếp cận mang tính đột phá này.   Dan Neumann đang chơi trò "Re-Mission" trên máy tính cá nhân Ảnh: USA Today "Người chơi điều khiển một robot nhỏ đi khắp cơ thể để tiêu diệt các tế bào có hại. Trong suốt cuộc truy đuổi sẽ xuất hiện những thuật ngữ y học được đơn giản hóa để lũ trẻ có thể hiểu được bản chất của quá trình điều trị. Căn bệnh ung thư hiện ra sống động, giúp lũ trẻ sẽ có cái nhìn mới, nghị lực mới và biết được kẻ thù của mình là ai. Đó là mục tiêu lớn nhất của Re - Mission", tiến sỹ Steve Cole, Phó giám đốc HopeLab cho biết. "Ngoài ra, 'Re- Mission' còn có thể vượt qua ranh giới địa lý và văn hóa, kết nối các bệnh nhân với nhau để họ có cơ hội trao đổi và chia sẻ, bởi đây là trò chơi miễn phí có thể tải về từ Internet". Một nghiên cứu mới được công bố năm 2008 của tổ chức HopeLab trên 375 bệnh nhân ung thư tuổi 13- 29 cho thấy, những bệnh nhân chơi "Re- Mission" tuân thủ quy trình điều trị cũng như sử dụng thuốc chặt chẽ hơn những bệnh nhân ung thư chơi các trò chơi khác. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng với lứa tuổi teen và các bệnh nhân trẻ tuổi, bởi theo các chuyên gia đây là lứa tuổi xao nhãng nhiều nhất trong việc uống thuốc đều đặn - một trong những yếu tố sống còn của quá trình điều trị ung thư. "Một yếu tố khác là lũ trẻ thường sợ uống thuốc bởi tác dụng phụ có thể khiến chúng béo ra, rụng tóc. Việc tuân thủ quy trình điều trị là rất khó, gần như là một cuộc chiến khác song hành với cuộc chiến chống ung thư, khiến việc điều trị ở lứa tuổi này ít thành công hơn so với nhóm người mắc bệnh cao tuổi", chuyên gia Anna Franklin thuộc Trung tâm nghiên cứu Ung thư trẻ em M.D. Anderson (Mỹ) phân tích. (Theo Gia đình và Xã hội) Nguồn: vnexpress.net
  11. Đại địa mạch quốc gia Thứ hai, 10/8/2009, 07:51 GMT+7 Chuyện 700 năm trước Trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống. Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. Võ đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau: Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận Người giỏi bày trận thì không cần đánh Người giỏi đánh thì không thua Người khéo thua thì không chết Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã “đẩy” con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để tránh hậu hoạ. Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nhìn ra Bái Tử Long. Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng ta? Đền Cửa Ông không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long Khi bí mật không còn là bí mậtCách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Sơ đồ đại địa mạch Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước. Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả. Cái chính là “thiên hạ” thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không? Nhìn vào sơ đồ “vi địa mạch” Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m). Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu… Thế nhưng các dãy núi chỉ “chầu” nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã “tụ” lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã “mọc” lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ. Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng. Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne? Am Mỵ Châu thờ ai? Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau. Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta. Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi: - Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không? - Dạ không Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa. Xưa kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.” - Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không? - Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu hiệu “bài đế phản phong” để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu vật trong tay. - Vậy làm cách nào để khắc phục? - Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không? - Có ạ, có ạ! - Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán. Ông cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!” Trần Thanh Vân Nguồn: tuanvietnam.net
  12. Thứ Hai, 10/08/2009 - 7:10 AM Chùm ảnh: Bão gây tàn phá kinh hoàng ở Trung Quốc (Dân trí) - Bão Morakot ngày hôm qua đã tiến vào bờ biển phía đông Trung Quốc, quật đổ nhiều ngôi nhà, trong đó có 1 khách sạn, gây ngập lụt nhiều làng mạc, buộc gần 1 triệu người phải đi sơ tán. Hình ảnh khách sạn 6 tầng bị đánh sập ở Đài Loan. Sau khi gây ngập lụt nghiêm trọng nhất ở Đài Loan trong vòng 50 năm qua, bão Morakot đã khiến hàng chục người mất tích và bị chết, quật đổ một khách sạn 6 tầng. Bão khi tiến vào tỉnh Chiết Giang. Trước đó, Morakot đã hoành hành ở Philippines, làm ít nhất 21 người thiệt mạng. Bão gây ngập đường ở tỉnh Phúc Kiến. Theo Cơ quan khí tượng học Trung Quốc, bão Morakot, theo tiếng Thái Lan là “ngọc lục bảo”, tấn công vào tỉnh Phúc Kiến, mang theo mưa to và gió lớn (119km.h). Nhân viên cứu hộ cứu một người bị nước lũ bủa vây ở Thượng Hải. Ít nhất một em nhỏ thiệt mạng sau khi một ngôi nhà ở tỉnh Chiết Giang đổ sập lên người em. Bão kèm theo gió lớn ở Phúc Kiến. Theo Tân Hoa xã, người dân trang bị sẵn đèn pin khi bão bủa vây, gây mất điện ở thị trấn Beibi ở Phúc Kiến. Gió mạnh làm bật gốc cây, xé toạc chúng làm nhiều phần; trong khi nông dân cố gắng ngăn không cho cá bị cuốn trôi do nước dâng cao. Người dân ở Phúc Kiến cứu sản phẩm nông nghiệp bị nước lũ cuốn trôi. Giới chức Triết Giang đã phải đạp xe đạp để phát nước uống, mỳ tôm cho người dân bị nước lũ ngày một tăng cao bủa vây. Trong khi đó các nhân viên cứu hộ cố gắng tới nơi một con tàu chở hàng bị gió đánh dạt vào một vỉa đá ngoài khơi Phúc Kiến để cứu 8 thủy thủ trên tàu. Một thị trấn của Đài Loan ngập sâu trong nước lũ. Morakot được dự đoán sẽ yếu đi khi nó tiến về phía bắc với tốc độ 10km/h. Nhưng theo cơ quan khí tượng thủy văn, nó vẫn mang mưa to và gió lớn tới Thượng Hải. Người dân ở Phúc Kiến đắp bờ ngăn nước vào nhà. Phan Anh Theo AP, Xinhua Nguồn: dantri.com
  13. Khai mạc trưng bày văn hóa Sa Huỳnh 22/07/2009 17:48 Các nhà khảo cổ học, nhà nghiên cứu tham quan phòng trưng bày(TNO) Chiều 22.7, Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi khai mạc phòng trưng bày chuyên đề văn hóa Sa Huỳnh, giới thiệu trên 400 hiện vật và 40 hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh trên dải đất miền Trung. Đây là những hiện vật được các nhà khảo cổ Việt Nam khai quật tại ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định - được xem là trung tâm của nền văn hóa Sa Huỳnh - từ năm 1975 đến nay. Những hiện vật này đã minh chứng cho sự phát triển của nền văn hóa Sa Huỳnh có niên đại cách nay khoảng 2.000 - 3.000 năm. Văn hóa Sa Huỳnh không chỉ giao lưu với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc, văn hóa thời kỳ đại kim khí ở Đông Nam Bộ mà còn giao lưu mạnh với Tây Nguyên và khu vực Đông Nam Á. Những hình ảnh, hiện vật tiêu biểu nhất tại phòng trưng bày chuyên đề văn hóa Sa Huỳnh: Mộ chum, mộ nồi - hiện vật đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh Chuỗi cườm và khuyên tai ba mấu bằng thủy tinh rất tinh xảo là những hiện vật được các nhà khảo cổ học quốc tế quan tâm Khuyên tai ba mấu bằng thủy tinh Hiện vật chuỗi cườm được khai quật năm 2003 tại Lai Nghi (H.Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) Chuỗi hạt bằng đốt sống cá được khai quật tại Suối Chình (huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) vào năm 2000 Đồ gốm khai quật tại di tích Bình Châu I, H.Bình Sơn (Quảng Ngãi) năm 1978 - có niên đại khoảng 2.500 năm Tin, ảnh: Hiển Cừ Nguồn: http://thanhnien.com.vn
  14. Thứ Hai, 27/07/2009, 08:12 Cần một con đường di sản văn hóa Sa Huỳnh TP- Trong bối cảnh ly tán, manh mún đáng lo ngại của hệ thống di tích, di vật văn hóa Sa Huỳnh hiện tại, một “Con đường di sản văn hóa Sa Huỳnh” nhằm kết nối không gian suốt dọc duyên hải miền Trung của nền văn hóa lừng lẫy này là điều đặc biệt cần thiết. Khái niệm “con đường di sản văn hoá Sa Huỳnh” được TS Đoàn Ngọc Khôi (Bảo tàng Quảng Ngãi) nêu lên tại Hội thảo khoa học quốc tế 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh (diễn ra 24/7 tại Quảng Ngãi) chừng như khuất lấp giữa mấy chục tham luận chuyên sâu nhưng lại thiết thực hơn cả. Giàu có Từ phát hiện đầu tiên của người Pháp vào năm 1909 với 200 mộ chum có niên đại 2.500 - 3.000 năm tại cồn cát Sa Huỳnh (Đức Phổ, Quảng Ngãi), đến nay, văn hóa Sa Huỳnh đã phát lộ dày đặc suốt lòng đất và hải đảo duyên hải miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận, lên đến Tây Nguyên với hàng trăm di tích. Riêng tại lưu vực sông Thu Bồn rộng lớn của Quảng Nam chỉ từ sau 1975 đến nay cũng đã phát hiện gần 100 di tích văn hóa Sa Huỳnh rải từ đồng bằng ven biển tới núi cao. Theo dự án đã phê duyệt, Nhà Trưng bày văn hóa Sa Huỳnh đặt tại Sa Huỳnh (xã Phổ Khánh, Đức Phổ) với diện tích hai hécta, tổng kinh phí gần 30 tỷ đồng, thời gian thực hiện dự kiến từ nay tới năm 2012. Th.S Karsten Brabander đến từ Viện Khảo cổ học Đức vẫn ngạc nhiên khi (riêng đợt khai quật các năm 2003 - 2004 của nhóm khảo cổ Việt - Đức tại Lai Nghi (Điện Bàn, Quảng Nam) trong 63 ngôi mộ tìm thấy (ngoài đồ gốm, đồng, thiếc), 10 ngàn hạt trang sức, trong đó phần lớn bằng thủy tinh. Qua phân tích, thấy hoàn toàn không trùng với những loại thủy tinh vốn thường gặp trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, chứng tỏ một kỹ thuật làm thủy tinh độc đáo riêng của người Sa Huỳnh. Hay như bộ đàn đá Hàm Mỹ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện tại Bình Thuận như một dấu ấn văn hóa độc đáo. Thậm chí mới đây có những phát hiện dấu tích văn hóa Sa Huỳnh ngay trên địa bàn của văn hóa Đông Sơn (di tích Bãi Cọi - Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Văn hóa Sa Huỳnh được ghi nhận là một trong ba trung tâm văn hóa quan trọng nhất trong thời đại kim khí Việt Nam, cùng với văn hóa Đông Sơn phía Bắc và văn hoá Óc Eo phía Nam. Ngay nền văn hóa Chămpa rực rỡ thoát thai chính từ văn hóa Sa Huỳnh, mà đến nay mọi bí ẩn vẫn còn đó. Manh mún Không có được vận mệnh may mắn (chữ dùng của TS Diệp Đình Hoa - Viện KHXH VN) khi so sánh với văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện sớm hơn nhưng, với tính chất đa dạng, phức tạp, không tạo được sự nhất trí ngay từ đầu trong việc định danh những di tích, di vật. Và những di tích, di vật ấy, sau tròn một thế kỷ, vẫn còn ngổn ngang khắp rẻo đất miền Trung. Ngoài nhà trưng bày văn hóa Sa Huỳnh tại Hội An (Quảng Nam) được coi là dày dặn nhất với gần 2.400 hiện vật, theo TS Lương Hồng Quang - Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật VN, hầu như chưa hề có một tỉnh nào có bảo tàng chuyên đề về văn hóa Sa Huỳnh. Thi thoảng vài nơi có một gian trưng bày nhỏ lẻ, hay một số sưu tập tư nhân. Ngay chính quê hương của nền văn hóa lừng lẫy này cũng chỉ có một gian trưng bày khuất lấp với vài trăm hiện vật. Ngoài ra, hàng trăm di tích đã khai quật vẫn dầm mưa dãi nắng, ít ai biết đến. Chưa kể tốc độ phát triển kinh tế, đô thị hóa ở vùng miền Trung có thể khiến nhiều di chỉ chưa kịp phát hiện bị đè lấp. Nói như TS Phạm Đức Mạnh - GĐ Bảo tàng LS- VH, Trường ĐHKHXHNV TPHCM, đã đến lúc cần phải “điền dã cấp cứu”. Ông Nguyễn Danh Hạnh (Bảo tàng Phú Yên) trăn trở, tỉnh có sáu di tích, trong đó mới có ba di tích được khai quật, việc nghiên cứu tại địa phương còn nhiều hạn chế. TS Đinh Bá Hòa - GĐ Bảo tàng Bình Định lý giải, việc bảo vệ các di tích văn hoá Sa Huỳnh cực kỳ khó khăn, bởi “nhiều năm nay chúng ta chỉ mới khai quật để nghiên cứu nhưng ít đề nghị xếp hạng cho di tích do thiếu quan tâm, dù Luật Di sản văn hóa đã ghi rõ”. Gắn với du lịch, ông Lê Hồng Khánh - Trung tâm văn hóa Quảng Ngãi, cho rằng ngành này chưa chú ý đúng mức đến di sản lớn đang có trong tay. Một việc nhỏ như làm sao hướng dẫn viên có được khả năng giúp du khách đến Lý Sơn hình dung sinh hoạt của người Sa Huỳnh trên hải đảo cách chúng ta nhiều nghìn năm. “Cần xây dựng con đường di sản văn hóa Sa Huỳnh, có sự liên kết giữa các tỉnh miền Trung trong không gian văn hóa Sa Huỳnh, trong đó Quảng Ngãi giữ vị trí trung tâm. Đây là nơi phát hiện đầu tiên về văn hóa Sa Huỳnh, và cũng là nơi sắp tới sẽ hình thành khu bảo tồn di tích gốc- TS Đoàn Ngọc Khôi - Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi, đề nghị. Ngoài ra, cần xây dựng bản đồ GPS cập nhật thông tin về di tích, di vật của các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh nhằm giúp quản lý và nghiên cứu bảo tồn. Đồng thời áp dụng công nghệ mới để bảo tồn di tích ngoài trời thu hút khách tham quan du lịch”. Trần Tuấn nguồn: http://www.tienphong.vn
  15. Cách tìm nhanh hướng Sinh khí như sau: Lấy cung phi của gia chủ phối với 8 Quái của 8 hướng. Các cặp Quái dưới đây phối với nhau xuôi ngược đều được Sinh khí: Khảm - Tốn ; Ly - Chấn ; Cấn - Khôn ; Càn - Đoài
  16. Hơn 100 feet sâu dưới lòng hồ Huron là một dải đá rộng mà 9000 năm trước là một cầu đất, đây là bằng chứng khảo cổ đầu tiên mà các nhà nghiên cứu Đại học Michigan đã phát hiện về hoạt động của con người được bảo tồn bên dưới Great Lakes. Một dải đá dùng để săn bắn dưới lòng hồ Huron rộng khoảng 3.5 m. (Ảnh: John O’Shea) Các nhà nghiên cứu đã xác định vị trí của công trình được cho là để săn tuần lộc caribu và lều trại mà những người săn thú sử dụng trong quãng thời gian này. John O’Shea, người phụ trách Khảo cổ học Great Lakes tại Bảo tàng nhân loại học đồng thời là giáo sư Khoa khảo cổ học, cho biết: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận biết công trình như vậy dưới đáy hồ. Về mặt khoa học, phát hiện này rất quan trọng vì toàn bộ cấu trúc cổ đại được bảo tồn và không hề bị biến đổi do nông nghiệp hoặc quá trình phát triển hiện đại. Phát hiện này có ý nghĩa đối với mô hình sinh thái học, khảo cổ học và môi trường”. Bài báo về phát hiện được công bố trên Proceedings of the National Academy of Sciences. Các đồng tác giả bao gồm O’Shea và Guy Meadows, giám đốc Phòng thí nghiệm thủy động lực đồng thời là giáo sư thuộc Khoa Kiến trúc và kỹ thuật nước, và Khoa học không gian, biển và khí quyển. O’Shea và Meadows phát hiện những đặc điểm mà họ tin rằng là hố săn, lều trại, đường lùa tuần lộc, và những cọc đá được sử dụng để thu hút tuần lộc caribou vào đường lùa. Đường lùa là dãy đá dài được sử dụng để hướng tuần lộc vào bẫy. Công trình dài 1148 feet mà họ tin là đường lùa thú cũng tương tự như một công trình khác trên hòn đảo Victoria tại vùng cận Bắc Cực Canada. Hoạt động săn bắt diễn ra trên dải đất Alpena-Amberley rộng 10 dặm và kéo dài hơn 100 dặm từ Point Clark, Ontario đến Presque Isle, Michigan. Dải đất này là một cầu nối có từ khoảng 10.000 đến 7.500 năm trước khi mực nước thấp hơn nhiều. Bề mặt của nó vẫn còn khá nguyên vẹn, không giống như một số khu vực gần bờ nơi các nhà khoa học tin rằng các công trình khảo cổ khác tồn tại. Những địa điểm này bao phủ bởi trầm tích, vì vậy các công trình được cho là đã bị mất hoàn toàn. Các nhà khoa học đã từng đưa ra giả thuyết rằng dải đất có thể có những dấu hiệu của loài người cổ xưa. Nhưng họ không biết tìm kiếm dấu hiệu nào. O’Shea và Meadows tập trung vào công trình săn tuần lộc sau khi xem xét khí hậu của khu vực này vào thời điểm đó, có thể tương tự như cận Bắc Cực. Những người săn thú cận Bắc Cực thường sử dụng đường lùa tuần lộc caribu. Các nhà nghiên cứu U-M giới hạn khu vực tìm kiếm những công trình này bằng cách mô phỏng dải đất khi nó ở trên cạn. Họ làm việc với Robert Reynods - giáo sư khoa học máy tính tại Đại học bang Wayne để tái tạo môi trường cổ đại rồi mô phỏng đường di trú của tuần lộc caribu. Dựa trên phân tích này, họ chọn 3 vi trí để nghiên cứu. O’Shea và Meadows sử dụng tàu nghiên cứu mới Blue Traveler của U-M, tàu thiết bị năng lượng mặt trời hoạt động dưới nước với máy quay để khảo sát những vị trí này. Meadows cho biết: “Sự kết hợp các công cụ tối tân này đã làm nên sự thành công của nghiên cứu. Không có những công cụ hiện đại, chúng tôi có thể đã không đạt được kết quả này”. Các nhà khảo cổ học sẽ bắt đầu khảo sát các khu vực này vào mùa hè. Hiểu biết về giai đoạn Paleo-Indian và đầu Archaic tại khu vực Great Lakes còn rất hạn chế vì hầu hết các dấu tích khảo cổ được cho là đã bị mất bên dưới các hồ. Paleo-Indians là những người du cư, O’Shea cho biết. Vào thời kỳ Archaic, các cộng đồng người đã trở nên ổn định hơn với dân số lớn hơn, nền kinh tế phân bố rộng rãi hơn. O’Shea nhận định: “Không có các di tích khảo cổ từ giai đoạn này, bạn không thể biết làm thế nào loài người chuyển từ điểm A đến điểm B, hoặc từ Paleo-Indians đến Archaic. Đây là lý do tại sao phát hiện của nghiên cứu có tính chất đặc biệt quan trọng”. Có thể ngoài các công trình săn bắn, các khu định cư cũng được bảo tồn dưới lòng hồ. Những khu vực sinh sống này có thể chứa các tạo tác hữu cơ có thể bị hư hỏng ở vùng đất axit khô hơn trên đất liền. Nghiên cứu do Quỹ khoa học quốc gia tài trợ. Tham khảo: Evidence for early hunters beneath the Great Lakes. Proceedings of the National Academy of Sciences, June 8, 2009 G2V Star (Theo ScienceDaily)Các nhà nghiên cứu đã xác định vị trí của công trình được cho là để săn tuần lộc caribu và lều trại mà những người săn thú sử dụng trong quãng thời gian này. John O’Shea, người phụ trách Khảo cổ học Great Lakes tại Bảo tàng nhân loại học đồng thời là giáo sư Khoa khảo cổ học, cho biết: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận biết công trình như vậy dưới đáy hồ. Về mặt khoa học, phát hiện này rất quan trọng vì toàn bộ cấu trúc cổ đại được bảo tồn và không hề bị biến đổi do nông nghiệp hoặc quá trình phát triển hiện đại. Phát hiện này có ý nghĩa đối với mô hình sinh thái học, khảo cổ học và môi trường”. Bài báo về phát hiện được công bố trên Proceedings of the National Academy of Sciences. Các đồng tác giả bao gồm O’Shea và Guy Meadows, giám đốc Phòng thí nghiệm thủy động lực đồng thời là giáo sư thuộc Khoa Kiến trúc và kỹ thuật nước, và Khoa học không gian, biển và khí quyển. O’Shea và Meadows phát hiện những đặc điểm mà họ tin rằng là hố săn, lều trại, đường lùa tuần lộc, và những cọc đá được sử dụng để thu hút tuần lộc caribou vào đường lùa. Đường lùa là dãy đá dài được sử dụng để hướng tuần lộc vào bẫy. Công trình dài 1148 feet mà họ tin là đường lùa thú cũng tương tự như một công trình khác trên hòn đảo Victoria tại vùng cận Bắc Cực Canada. Hoạt động săn bắt diễn ra trên dải đất Alpena-Amberley rộng 10 dặm và kéo dài hơn 100 dặm từ Point Clark, Ontario đến Presque Isle, Michigan. Dải đất này là một cầu nối có từ khoảng 10.000 đến 7.500 năm trước khi mực nước thấp hơn nhiều. Bề mặt của nó vẫn còn khá nguyên vẹn, không giống như một số khu vực gần bờ nơi các nhà khoa học tin rằng các công trình khảo cổ khác tồn tại. Những địa điểm này bao phủ bởi trầm tích, vì vậy các công trình được cho là đã bị mất hoàn toàn. Các nhà khoa học đã từng đưa ra giả thuyết rằng dải đất có thể có những dấu hiệu của loài người cổ xưa. Nhưng họ không biết tìm kiếm dấu hiệu nào. O’Shea và Meadows tập trung vào công trình săn tuần lộc sau khi xem xét khí hậu của khu vực này vào thời điểm đó, có thể tương tự như cận Bắc Cực. Những người săn thú cận Bắc Cực thường sử dụng đường lùa tuần lộc caribu. Các nhà nghiên cứu U-M giới hạn khu vực tìm kiếm những công trình này bằng cách mô phỏng dải đất khi nó ở trên cạn. Họ làm việc với Robert Reynods - giáo sư khoa học máy tính tại Đại học bang Wayne để tái tạo môi trường cổ đại rồi mô phỏng đường di trú của tuần lộc caribu. Dựa trên phân tích này, họ chọn 3 vi trí để nghiên cứu. O’Shea và Meadows sử dụng tàu nghiên cứu mới Blue Traveler của U-M, tàu thiết bị năng lượng mặt trời hoạt động dưới nước với máy quay để khảo sát những vị trí này. Meadows cho biết: “Sự kết hợp các công cụ tối tân này đã làm nên sự thành công của nghiên cứu. Không có những công cụ hiện đại, chúng tôi có thể đã không đạt được kết quả này”. Các nhà khảo cổ học sẽ bắt đầu khảo sát các khu vực này vào mùa hè. Hiểu biết về giai đoạn Paleo-Indian và đầu Archaic tại khu vực Great Lakes còn rất hạn chế vì hầu hết các dấu tích khảo cổ được cho là đã bị mất bên dưới các hồ. Paleo-Indians là những người du cư, O’Shea cho biết. Vào thời kỳ Archaic, các cộng đồng người đã trở nên ổn định hơn với dân số lớn hơn, nền kinh tế phân bố rộng rãi hơn. O’Shea nhận định: “Không có các di tích khảo cổ từ giai đoạn này, bạn không thể biết làm thế nào loài người chuyển từ điểm A đến điểm B, hoặc từ Paleo-Indians đến Archaic. Đây là lý do tại sao phát hiện của nghiên cứu có tính chất đặc biệt quan trọng”. Có thể ngoài các công trình săn bắn, các khu định cư cũng được bảo tồn dưới lòng hồ. Những khu vực sinh sống này có thể chứa các tạo tác hữu cơ có thể bị hư hỏng ở vùng đất axit khô hơn trên đất liền. Nghiên cứu do Quỹ khoa học quốc gia tài trợ. Tham khảo: Evidence for early hunters beneath the Great Lakes. Proceedings of the National Academy of Sciences, June 8, 2009 G2V Star (Theo ScienceDaily)Các nhà nghiên cứu đã xác định vị trí của công trình được cho là để săn tuần lộc caribu và lều trại mà những người săn thú sử dụng trong quãng thời gian này. John O’Shea, người phụ trách Khảo cổ học Great Lakes tại Bảo tàng nhân loại học đồng thời là giáo sư Khoa khảo cổ học, cho biết: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận biết công trình như vậy dưới đáy hồ. Về mặt khoa học, phát hiện này rất quan trọng vì toàn bộ cấu trúc cổ đại được bảo tồn và không hề bị biến đổi do nông nghiệp hoặc quá trình phát triển hiện đại. Phát hiện này có ý nghĩa đối với mô hình sinh thái học, khảo cổ học và môi trường”. Bài báo về phát hiện được công bố trên Proceedings of the National Academy of Sciences. Các đồng tác giả bao gồm O’Shea và Guy Meadows, giám đốc Phòng thí nghiệm thủy động lực đồng thời là giáo sư thuộc Khoa Kiến trúc và kỹ thuật nước, và Khoa học không gian, biển và khí quyển. O’Shea và Meadows phát hiện những đặc điểm mà họ tin rằng là hố săn, lều trại, đường lùa tuần lộc, và những cọc đá được sử dụng để thu hút tuần lộc caribou vào đường lùa. Đường lùa là dãy đá dài được sử dụng để hướng tuần lộc vào bẫy. Công trình dài 1148 feet mà họ tin là đường lùa thú cũng tương tự như một công trình khác trên hòn đảo Victoria tại vùng cận Bắc Cực Canada. Hoạt động săn bắt diễn ra trên dải đất Alpena-Amberley rộng 10 dặm và kéo dài hơn 100 dặm từ Point Clark, Ontario đến Presque Isle, Michigan. Dải đất này là một cầu nối có từ khoảng 10.000 đến 7.500 năm trước khi mực nước thấp hơn nhiều. Bề mặt của nó vẫn còn khá nguyên vẹn, không giống như một số khu vực gần bờ nơi các nhà khoa học tin rằng các công trình khảo cổ khác tồn tại. Những địa điểm này bao phủ bởi trầm tích, vì vậy các công trình được cho là đã bị mất hoàn toàn. Các nhà khoa học đã từng đưa ra giả thuyết rằng dải đất có thể có những dấu hiệu của loài người cổ xưa. Nhưng họ không biết tìm kiếm dấu hiệu nào. O’Shea và Meadows tập trung vào công trình săn tuần lộc sau khi xem xét khí hậu của khu vực này vào thời điểm đó, có thể tương tự như cận Bắc Cực. Những người săn thú cận Bắc Cực thường sử dụng đường lùa tuần lộc caribu. Các nhà nghiên cứu U-M giới hạn khu vực tìm kiếm những công trình này bằng cách mô phỏng dải đất khi nó ở trên cạn. Họ làm việc với Robert Reynods - giáo sư khoa học máy tính tại Đại học bang Wayne để tái tạo môi trường cổ đại rồi mô phỏng đường di trú của tuần lộc caribu. Dựa trên phân tích này, họ chọn 3 vi trí để nghiên cứu. O’Shea và Meadows sử dụng tàu nghiên cứu mới Blue Traveler của U-M, tàu thiết bị năng lượng mặt trời hoạt động dưới nước với máy quay để khảo sát những vị trí này. Meadows cho biết: “Sự kết hợp các công cụ tối tân này đã làm nên sự thành công của nghiên cứu. Không có những công cụ hiện đại, chúng tôi có thể đã không đạt được kết quả này”. Các nhà khảo cổ học sẽ bắt đầu khảo sát các khu vực này vào mùa hè. Hiểu biết về giai đoạn Paleo-Indian và đầu Archaic tại khu vực Great Lakes còn rất hạn chế vì hầu hết các dấu tích khảo cổ được cho là đã bị mất bên dưới các hồ. Paleo-Indians là những người du cư, O’Shea cho biết. Vào thời kỳ Archaic, các cộng đồng người đã trở nên ổn định hơn với dân số lớn hơn, nền kinh tế phân bố rộng rãi hơn. O’Shea nhận định: “Không có các di tích khảo cổ từ giai đoạn này, bạn không thể biết làm thế nào loài người chuyển từ điểm A đến điểm B, hoặc từ Paleo-Indians đến Archaic. Đây là lý do tại sao phát hiện của nghiên cứu có tính chất đặc biệt quan trọng”. Có thể ngoài các công trình săn bắn, các khu định cư cũng được bảo tồn dưới lòng hồ. Những khu vực sinh sống này có thể chứa các tạo tác hữu cơ có thể bị hư hỏng ở vùng đất axit khô hơn trên đất liền. Nghiên cứu do Quỹ khoa học quốc gia tài trợ. Tham khảo: Evidence for early hunters beneath the Great Lakes. Proceedings of the National Academy of Sciences, June 8, 2009 G2V Star (Theo ScienceDaily) Nguồn: www.khoahoc.com.vn
  17. Cập nhật lúc 17:35, Thứ Tư, 15/07/2009 (GMT+7) Vietnamnet - Báo cáo tổng kết 7 năm thực hiện luật Di sản văn hóa của Bộ VH-TT-DL tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, TP.HCM có 18 trong số 55 di tích xếp hạng quốc gia bị xâm phạm. Thực tế, số lượng và mức độ bị xâm hại của các di tích tại TP.HCM "sống động" hơn nhiều những con số khô khan trên. Địa chỉ đầu tiên là đình Thông Tây Hội, ngôi đình cổ rộng 5.188m2 nay chỉ còn 1.500m2. Ngôi đình cổ chết từ bên trong Xây dựng vào năm 1679, đình Thông Tây Hội trên đường Thống Nhất (P.11, Q. Gò Vấp, TP.HCM) được xem là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Sài Gòn - Gia Định. Dù nhìn bên ngoài, đình vẫn giữ được hình hài, nhưng sự tàn phá của thời gian lẫn con người đã làm ngôi đình này chết dần từ bên trong. Theo tài liệu chúng tôi có được, ban đầu đình được xây dựng bằng gỗ lá. Về sau, đình được cất lại bằng gỗ lợp ngói, nhỏ và đơn giản. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi đình hình thành với đường nét kiến trúc phù hợp với kiến trúc tôn giáo ở miền Nam thế kỷ 18 - 19. Cột kèo bị ruỗng mục Đình Thông Tây Hội trước đây vốn có diện tích 5.188m2, xoay mặt về hướng đông, có chánh điện, võ ca (nơi tổ chức hát bội vào những dịp tế lễ), nhà hội sở (nơi tiếp khách) cùng một vài công trình phụ khác. Bên trong chánh điện có 8 hàng cột mỗi hàng 6 cây. Bốn cây cột cái cao nhất nằm ngay vị trí trang trọng bao trọn ban thờ thần. Tất cả các cột trong chánh điện đều được chạm trổ hoa văn. Từ ngoài sân nhìn lên nóc chánh điện, hình tượng lưỡng long tranh châu bằng đất nung tráng men xanh rất sống động. Đình thờ hai vị thần Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương vốn là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, được mệnh danh là "Thủy tổ khai hoang" trong lịch sử Việt Nam. Mưa xối vào bằng Di tích quốc gia Khuôn viên đình Thông Tây Hội bị các hộ dân lấn chiếm xây nhà, trường học cũng được xây lên một phần ở đây nên diện tích hiện tại thu hẹp chỉ còn 1.500m2. Bản thân ngôi đình bị xuống cấp nghiêm trọng. Mái ngói âm dương sau nhiều năm không bảo quản tốt đã bị dột. Nước mưa theo cột chảy xuống làm hư mục rất nhiều rui, mè, kèo, trính. Kính chắn mưa vỡ tan Do thiếu bàn tay chăm sóc, mối mọt đã xông vào và có khả năng ăn ruỗng cột, còn trên những lá kèo đã xuất hiện nhiều tổ mối. Chánh điện, võ ca được trùng tu, nâng nền lại từ năm 1998, nhưng do tận dụng những cây gỗ cũ, nên chất lượng không tốt. Riêng hội sở (nơi dành tiếp khách) chưa được nâng nền, nước mưa từ sân đình chảy xuống ngập lênh láng. Trong chánh điện, chỉ một cơn mưa nhỏ, nước đã chảy xuống ướt sũng nền nhà. Phần kính được lắp đặt trong lần trùng tu trước để chắn mưa đã bị vỡ vụn. Nước mưa vô tư xối thẳng vào tấm bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia! Trong khi đó, ở sân đình, gạch lát sân đã vỡ nát gần như toàn bộ. Lá khô, rác thải sinh hoạt như bịch nhựa, vỏ chai tung tóe khắp nơi. Mùi hôi của các loại chất phóng uế bừa bãi xông lên nồng nặc. Người dân còn tụ tập buôn bán tạo cho sân đình một cảnh quan vô cùng nhếch nhác. Một cơn mưa nhỏ, nền chánh điện đã thế này Sân đình cũng là bãi đáp của dân hút chích. Ống kim tiêm bỏ vương vãi nhiều nơi cạnh đình, dù trụ sở Công an P.11, Q.Gò Vấp nằm cạnh bên được xây dựng trên phần đất vốn trước đây thuộc khuôn viên đình. Miếu thờ phải né nhà dân Về cơ bản, nhiều di vật quí của ngôi đình vẫn còn. Những nét chạm trổ tinh xảo trên các rường cột còn khá nguyên vẹn. Nhiều bàn thờ khảm xà cừ vẫn chưa bị thời gian và bàn tay con người tàn phá. Các bộ liễn, hoành phi câu đối khắc trên thân cột vốn hiếm thấy trong các đình chùa ở miền Nam nhưng tại ngôi đình này vẫn còn rực rỡ. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Tý, người canh giữ ngôi đình từ 12 năm nay cho biết phần võ ca đã được trùng tu nhưng còn thiếu hai phần cánh, chiều rộng mỗi cánh khoảng 4m. Đã có nhiều "Mạnh thường quân" ủng hộ xây dựng nhưng phần đất bên cánh phải đã bị lấn chiếm, còn không đủ 3m, nên việc xây dựng không thể thực hiện được. Nhà dân chiếm dụng, bao vây ngôi đình cổ Ngoài ra, trên phần đất có nhiều miếu thờ cũng đã bị nhà dân chiếm dụng nên đành phải dời những miếu này về sát cạnh đình. Miếu bà cũng trong tình trạng tương tự. Phần đất của Miếu bà hiện nay được trưng dụng để xây dựng trường học và trụ sở công an phường nên miếu cũng phải di dời. Ông Tý cho biết thêm, muốn nâng nền của ngôi đình thì chỉ cần dỡ ngói và đưa cột cao lên. "Nhưng chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đã kéo theo nhiều hệ lụy, cần đến một khoản kinh phí khá lớn. Trong khi đó về mặt quản lý, nhà nước chưa có sự quan tâm đúng mức". Đình Thông Tây Hội đang đứng trước nguy cơ chết mòn. Ngôi đình cổ xưa nhất vùng Sài Gòn - Gia Định đang thiếu bàn tay chăm sóc và tiếng nói của những người có trách nhiệm. Nhưng trước hết, cần sớm "chặt" những bàn chân vô ý thức của những kẻ đang dẫm đạp lên di sản mà cha ông để lại cho hậu thế. Lê Du An - Trần Đình Bài 2: Nguy cơ tiêu vong khu nhà cổ gần 200 năm tuổi Nguồn: vietnamnet.vn
  18. Nguy cơ tiêu vong khu nhà cổ gần 200 tuổi Cập nhật lúc 10:58, Thứ Sáu, 17/07/2009 (GMT+7) Vietnamnet - Khu nhà cổ gần 200 năm tuổi ở phường Tăng Nhơn Phú A, Q.9, TP.HCM nằm ngay phía sau đình Tăng Phú - di tích kiến trúc cấp thành phố duy nhất được phép giữ lại trong khu quy hoạch công nghệ cao, đang có nguy cơ biến mất. TIN LIÊN QUAN Ngôi đình 330 tuổi đang chết dần ở TP.HCM Bùi ngùi nhà cổ Cách đình Tăng Phú chưa đầy 100m, khu nhà cổ nằm trên con đường mòn mọc đầy cỏ, trông như bị bỏ hoang vì gia chủ đang trong tư thế chuẩn bị phải giao đất lại cho dự án khu công nghệ cao của TP.HCM. Cách đây gần 4 tháng, khu nhà cổ còn có 6 căn, tuổi thọ đều gần 200 năm tuổi, nhưng hiện chỉ còn 4 căn và cũng không biết sẽ tồn tại được bao lâu vì đang nằm trong diện giải tỏa. Hai căn đã mất, một của bà Dương Thị Sáu bán hồi tháng 4/2009 với giá 200 triệu đồng, căn còn lại của bà Nguyễn Thị Đồng bị con cháu bán chia nhau đi tứ tán. Hơn 150 năm, bằng tuổi đình Tăng Phú gần đó, nhưng ngôi nhà của ông Thời có nguy cơ bị giải tỏa Ông Huỳnh Hữu Thời - thế hệ thứ ba trong căn nhà cổ hơn 150 năm tuổi, số 14/176 khu phố 3, phường Tăng Nhơn Phú A cho biết: "Ông nội tôi bảo, ngay sau khi đình Tăng Phú được xây xong, ông mời nhóm thợ này về dựng căn nhà. Tuổi ngôi nhà tôi giờ cũng bằng tuổi ngôi đình ngoài kia". Trong bốn ngôi nhà cổ còn lại ở khu phố 3, nhà ông Thời được gìn giữ tốt nhất. Tuy nhiên, một phần nhà cũng đã được gia cố tạm thời bằng bê tông vì không trùng tu kịp thời theo đúng quy cách. Câu đối chạm khắc trên gỗ đã bị dỡ xuống do phải sơn lại vì bị mối mọt lâu ngày làm hư hại nặng. Ngôi nhà của ông Nguyễn Minh Chính ở số 14/182 lớn nhất trong khu đang trong trình trạng xuống cấp một cách đáng ngại. Ngói âm dương của ngôi nhà rơi khỏi mái, chất chồng ngổn ngang. Phía nhà sau, chủ nhà cho thuê làm nơi đóng canô. Quanh nhà, vẫn còn dấu tích của một khu vườn được chăm chút kỹ lưỡng trong quá khứ nhưng giờ đây cỏ mọc ngút ngàn. Nhà của ông Nguyễn Minh Chính rệu rã Trên tường nhà, chỉ còn thấp thoáng một vài hoa văn, còn hầu hết đã phai màu, rêu bám. Mái nhà bị mối bám dày. Ông Nguyễn Minh Chính than thở: "Anh em tôi rất muốn gìn giữ ngôi nhà của tổ tiên, nhưng nó đang nằm trong diện bị giải tỏa để xây dựng khu công nghệ cao. Chúng tôi chưa biết làm thế nào cả". Ngôi nhà số 33/2 của anh em ông Đặng Thanh Hải và Đặng Thanh Hà cũng có số phận bi đát không kém. Ông Hải cho biết: "Ngày xưa dòng họ Đặng và dòng họ Nguyễn, tức gia đình tôi và gia đình ông Minh Chính cùng nhau mời thợ từ Huế vào để xây dựng khu nhà này. Chúng tôi buộc phải di dời tới nơi định cư mới nhưng chưa biết sẽ ở đâu. Bốn đời dòng họ tôi đã sống trong căn nhà này. Nghĩ mà thấy có lỗi với tổ tiên". Ngôi nhà nằm ngay phía sau nhà họ Đặng là của ông Lê Xuân Hảo, hiện được cho thuê và cũng đang trong tình trạng xuống cấp trầm trọng. Trùng tu hay chờ giải tỏa? Những khu vườn ở đây vẫn còn dấu ấn về một không gian của vùng đất lâu đời, nhưng không còn được chăm chút đã trở nên hoang tàn, heo hút. Con đường chính dẫn vào lầy lội. Bước vào đây, ít ai nghĩ rằng không bao lâu nữa nơi này sẽ mọc lên một khu công nghệ cao quy mô nhất nhì TP.HCM. Tuy nhiên, hiện tại, mọi thứ vẫn chưa có gì rõ ràng đối với chủ nhân những căn nhà cổ. Cỏ hoang mọc um tùm bên một ngôi nhà cổ Ông Huỳnh Hữu Thời cho biết: "Căn nhà là cái gốc của tổ tiên nên tôi rất muốn giữ lại. Khi biết nhà nằm trong diện giải tỏa, tôi làm đơn xin giữ nhưng đã gần hai năm qua vẫn chưa nhận được phản hồi. Mấy anh bên trung tâm di sản có xuống khuyến khích chúng tôi gìn giữ căn nhà, trong khi gia đình đã nhận quyết định giải tỏa nên tôi thật sự băn khoăn. Tôi chỉ mong giữ lại được ngôi nhà để con cháu còn biết mái nhà của cụ kị chúng". Ông Nguyễn Minh Chính trầm ngâm: "Ngôi nhà của gia đình tôi đã xuống cấp, nhưng lại kẹt trong thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu trùng tu rồi mà bị giải tỏa thì hóa ra tốn công, của vô ích. Muốn giữ lại thì không có tư cách pháp nhân nào ngoài việc được công nhận di tích. Nhưng đến nay, dù nhà tôi đã được khảo sát một vài lần, vẫn chưa có công văn chính thức nào cho biết số phận của nó". Ngôi nhà dòng họ Đặng của ông Hải và Hà bị bê tông hóa một phần Hoang mang không biết nên làm gì, là tâm trạng chung của chủ nhân những căn nhà cổ nơi đây. Nhiều năm đã trôi qua từ khi vùng đất này nằm trong kế hoạch giải tỏa, nhưng ban quản lý khu công nghệ cao lẫn chính quyền địa phương vẫn chưa có câu trả lời chính thức giúp người dân... giải tỏa nỗi hoang mang. Khu đất với đình làng Tăng Phú và những mái nhà cổ còn sót lại, vẫn còn vết tích xưa cũ, chứa đựng những giá trị văn hóa - lịch sử mà khó có một thứ lợi ích vật chất nào có thể bù đắp được. Nếu bắt buộc phải giải tỏa, cần có kế hoạch di dời, tái tạo lại không gian văn hóa trên, để những chứng tích cuối cùng của đặc trưng kiến trúc nhà Việt xưa ở TP.HCM không bị hủy diệt cùng thời gian và tác động của hiện đại hóa. Chưa có phương án bảo tồn Ông Đào Văn Chương - Phó Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích TP.HCM: Khoảng thời gian từ 1992 đến 1993, Ban quản lý di tích trước đây có gửi thông báo đến Phòng văn hóa thông tin Q.9 đề nghị có trách nhiệm bảo vệ hai căn nhà của ông Huỳnh Hữu Thời và ông Nguyễn Minh Triết (bây giờ do ông Nguyễn Minh Chính, cháu ông Triết đang ở) trong khi chờ xếp hạng di tích. Tuy nhiên đến thời điểm này vẫn chưa triển khai được vì nhiều yếu tố: - Những ngôi nhà cổ này thuộc tài sản riêng của người dân. Thế nên, khi chúng ta làm chưa có quy chế cụ thể, chưa đạt được thỏa thuận về quản lý sau khi xếp hạng với chủ sở hữu những ngôi nhà cổ này. Riêng trường hợp ngôi nhà của gia đình ông Nguyễn Minh Chính, do nội bộ gia đình phức tạp, những đồ vật trong gia đình hầu như bị lấy đi, phân tán trong dòng họ. Nếu đạt được thỏa thuận bảo tồn thì chỉ còn có thể duy trì cấu trúc căn nhà đã là quý. Còn trường hợp nhà ông Huỳnh Hữu Thời, tôi có nghe nói đơn của ông đã được ghi nhận, nhưng đến nay vẫn chưa thấy Phòng văn hóa, thể thao và du lịch Q.9 đề cập. - Những đơn vị lập dự án khu công nghệ cao đã thể hiện sự thiếu trách nhiệm trong khi khảo sát. Theo nguyên tắc, khi đụng đến một địa điểm có dấu hiệu là di tích, chứ đừng nói là đã hiện diện, thì phải làm việc thật kỹ với địa phương. Xoay xở thế nào ra phương án tốt nhất để có thể bảo tồn không gian di tích. Công việc này ít được các đơn vị lập dự án làm đúng. Chúng tôi chưa nhận được công văn nào từ dự án khu công nghệ cao về việc bảo tồn di tích trong khu vực xây dựng dự án để có phương án bảo tồn. •Bài, ảnh: Lê Tám Nguồn: vietnamnet.vn
  19. Cội Nguồn Văn Minh Ở Trung Quốc : Sự Khác Nhau Giữa Tài Liệu Khảo Cổ Và Cồ Sử Cùng Sự Giải Thích Hà văn Thùy Tìm hiểu nguồn gốc văn minh ở lưu vực Hoàng Hà Zhou Jixu Trung tâm nghiên cứu Đông Á Đại học Pennsylvania, Philadelphia, Pennsylvania, Khoa Trung Quốc, Đại học Sichuan, Chengdu, Sichuan Tạp chí Sino-Platonic Papers Đại học Pennsylvania. Number 175 December, 2006 Hà Văn Thùy (lược dịch) LND: Đây là tài liệu mới nhất, trình bày một cách hệ thống, phong phú nhiều tư liệu về văn minh tiền sử Trung Hoa, đặc biệt quý là những chứng cứ khảo cổ học. Tác giả cũng đóng góp những nhận định riêng của mình. Tài liệu dài 62 trang khổ A4, cỡ chữ 12. Trong 4 phần của tài liệu, tôi bỏ qua phần II: Sự bắt đầu của nông nghiệp theo tài liệu lịch sử Trung Hoa và những trang so sánh giữa tiếng Trung Hoa cổ và ngôn ngữ Tiền Ấn- Âu. Ở phần cuối, người dịch mạo muội có đôi lời bình luận. Tóm tắt : Dự án nghiên cứu này dựa trên cách nhìn hoàn toàn mới về tiền sử châu thổ Hoàng Hà với những nhân tố chứng tỏ rằng: văn minh Hoàng Hà không phải là sản phẩm của sự tiến hóa độc lập mà là do tác động của yếu tố ngoại lai tới văn hóa bản địa. Nền nông nghiệp sớm nhất ở Trung Quốc, như phát hiện của khảo cố học Trung Hoa, xuất hiện trước 4000 năm TCN, trải rộng giữa lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Nhưng theo các tài liệu cổ thì sản xuất nông nghiệp bắt đầu sớm nhất vào thời Hậu Tắc (后稷), khoảng 2100 TCN ở trung lưu Hoàng Hà. Tại sao có chênh lệch về thời gian lớn như vậy? Cách giải thích là: những câu chuyện về nông nghiệp mà Hậu Tắc là đại diện đầu tiên của nông nghiệp chỉ thuộc về dân cư của nhà nước Hoàng Đế, những người có nguồn gốc du mục. Hậu Tắc và nhân dân của ông học hỏi việc trồng trọt từ dân bản địa sống trên lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử 5000 năm TCN, nhưng cho đến nay họ đã được hòa đồng trong lịch sử. Các bộ lạc của Hoàng Đế chiếm giữ trung lưu Hoàng Hà vì họ có sức mạnh, nhưng họ củng cố, mở rộng, và tiếp tục sự cai trị của mình tại Trung Quốc bằng cách chấp nhận các nền văn hóa nông nghiệp. Các dân tộc chiếm đất là một nhánh Tiền Ấn-Âu. Các hồ sơ lịch sử, chẳng hạn như Thượng Thư (Shang Shu), kinh Thi (Shi Jing), Quốc Chuẩn (Zuo Zhuan - Biên niên của các nhà nước phong kiến), và Sử ký (Shi Ji), vv… tất cả chỉ mô tả sự hình thành và suy tàn của nhà nước Hoàng Đế. Những nền văn minh bản địa 5.000 năm TCN trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử bị loại trừ khỏi văn bản lịch sử truyền thống và bởi vậy đã bị vùi lấp trong 3.000 năm. Nghiên cứu này cố gắng bộc lộ các dữ kiện lịch sử với những bằng chứng về khảo cổ học, tài liệu cổ, và ngôn ngữ học lịch sử. Từ khóa: Nguồn gốc của nông nghiệp, khảo cổ học, tài liệu cổ, ngôn ngữ học lịch sử. 1. Hậu Tắc (khoảng 2100 TCN) là tổ tiên của bộ lạc Chu, mà sau này đã tăng trưởng mạnh mẽ để thành lập vương triều Chu ở Trung Quốc (1046-220 TCN?). Hậu Tắc được coi là một trong những nhà lãnh đạo của các nhóm có thế lực trong số hậu duệ của Hoàng Đế, dựa theo các tài liệu cổ điển Trung Hoa. Nội dung: Tài liệu gồm 4 phần: I. Sự bắt đầu của văn minh nông nghiệp theo bằng chứng khảo cổ học. II. Sự bắt đầu của nông nghiệp theo tài liệu lịch sử Trung Hoa. III. Giải thích sự khác nhau giữa phát hiện khảo cổ và tài liệu lịch sử IV. Kết luận I. Sự bắt đầu của văn minh nông nghiệp theo bằng chứng khảo cổ học. I.1 Phác thảo về nông nghiệp tiền sử Trung Quốc Về ý nghĩa của nông nghiệp sản xuất ngũ cốc đối với văn minh nhân loại, Paul C. Mangelsdorf đã nói: “Không có nền văn minh nào xứng đáng với tên gọi đó cho tới khi phát hiện ra nông nghiệp trồng ngũ cốc.” Đó có thể chủ yếu là vấn đề về dinh dưỡng... Hạt ngũ cốc, cũng như trứng và sữa, thực phẩm được thiên nhiên tạo nên nhằm cung cấp carbohydrate, protein, mỡ, khoáng chất và vitamin .... Có lẽ mối quan hệ giữa ngũ cốc và các nền văn minh cũng là một sản phẩm của kỷ luật mà ngũ cốc áp đặt lên những người trồng cấy chúng. Ngũ cốc chỉ được trồng từ hạt giống và phải được trồng và thu hoạch đúng thời vụ. Ở đây họ quan tâm đến những giống cây trồng khác nhau, trong đó có thời tiết lúc gieo trồng và thu hoạch, gần như ở bất kỳ thời điểm nào trong năm... Sự phát triển của ngũ cốc luôn luôn dẫn tới trạng thái cuộc sống định cư.... Nông nghiệp ngũ cốc cung cấp ổn định nguồn thực phẩm, tạo điều kiện vui chơi giải trí, nuôi dưỡng nghệ thuật, thủ công và khoa học. Có thể nói rằng: "Một mình nông nghiệp ngũ cốc cũng tương đương các hình thức sản xuất lương thực khác về khoản đóng thuế, sự bồi dưỡng, khuyến khích lao động và tài khéo léo.” (“Wheat,” Scientific American, CLXXXIX, July 1953, 50-59. Quoted in Ho 1975: 44-45, fn) Nông nghiệp sản xuất ngũ cốc là cơ sở cần thiết của mọi nền văn minh cổ xưa. Trong nửa thế kỷ qua, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã thực hiện nhiều khám phá mới về nền văn minh tiền sử Trung Hoa. Từ thời Đá Mới đến đầu triều đại nhà Hạ (khoảng 7000-2000 TCN), đã tìm thấy rất nhiều di chỉ văn hóa tiền sử ở trung lưu thung lũng Hoàng Hà và trung, hạ lưu thung lũng sông Dương Tử, chẳng hạn như văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao - 仰韶, 4600-3000 TCN), văn hóa Long Sơn (Longshan -龙山- 3000-2200 TCN) trong thung lũng Hoàng Hà; các di chỉ văn hóa Hà Mục Độ (Hemudu 5000-4000 TCN), văn hóa Liangzhu (2800-1800 TCN) tại vùng hạ luu Dương Tử. Các di chỉ này cho thấy thung lũng Hoàng Hà và Dương Tử là một trong những khu vực đầu tiên trên thế giới xuất hiện văn minh nông nghiệp. Đáng ngạc nhiên là nhiều nơi trong số những địa điểm này đã có nông nghiệp rất phát triển lâu dài trước thời điểm hình thành nông nghiệp (khoảng 2100 TCN) được đề cập nhiều lần trong một số sách cổ Trung Hoa. Có một sự khác biệt lớn về thời gian (cũng như địa điểm) giữa những khám phá khảo cổ học và ghi chép của tài liệu cổ. Văn minh nông nghiệp Trung Quốc cổ có thể được chia làm hai khu vực: trung lưu Hoàng Hà và trung lưu, hạ luu sông Dương Tử. Đã có những ngũ cốc khác nhau được trồng ở hai khu vực: cây kê ở vùng trước còn lúa gạo ở vùng sau. Vài di tích lúa được phát hiện tại các di chỉ của văn minh Yangshao trong thung lũng Hoàng Hà. Theo Zhou Jixu: “The Rise of the Agricultural Civilization in China,” Sino-Platonic Papers, 175 (December, 2006)2 (sau đây viết tắc là sđd), cây kê thuộc hai giống khác nhau là Setaria và Panicum. Phổ biến là loài Setaria italica đại diện của giống Setaria, được đặt tên bằng tiếng Hoa: su (粟). Sau đó là hai loài phụ của P. miliaceum, được gọi bằng tiếng Hoa là Shu (黍) và ji (稷) (Hồ 1975: 57). Lúa ở Trung Quốc thuộc hai loài phụ là Oryza sativa japonica, có dạng hạt tròn gọi là 粳稻, và O. sativa indica, là dạng "nhiệt đới" chín sớm với gạo hạt dài, gọi là 籼稻 (Hồ 1975: 62). Chúng ta sẽ xem xét các nguồn gốc của cây kê và lúa gạo sản xuất tại Trung Quốc, dựa trên những nghiên cứu của các học giả và các tài liệu khảo cổ trong những thập kỷ gần đây. I.2 Thời điểm trồng kê Giáo sư Ho Ping-Ti trong công trình “Cái nôi phương Đông” viết: “Trong thế giới cũ, lĩnh vực nông nghiệp đầu tiên xuất hiện ở tây nam Châu Á, trên những dải đồi vùng Lưỡi liềm phì nhiêu, khoảng 7000 TCN. Một số địa điểm xuất hiện sau 5000 BC. Nông nghiệp thâm canh hơn nhờ tưới nước xuất hiện ở đồng bằng sông Tigris và Euphrates. Việc sản xuất nông nghiệp của Ai Cập cổ xưa và các thung lũng sông Indus cũng tùy thuộc vào lũ lụt và thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong số các đặc điểm chính của hệ thống nông nghiệp sớm nhất Trung Quốc, nó đã được tự do từ các ảnh hưởng của lũ lụt lớn của vùng đồng trũng sông Hoàng Hà, và như là một hệ quả, diễn ra thiếu sự tưới nước nguyên thủy.” (Ho 1977: 44). Trong công trình của mình, ông đã chứng minh rằng các trung tâm Đá Mới ở Bắc Trung Quốc, ngoài Mesopotamia và Trung Mỹ, là một khu vực, trong đó nông nghiệp độc lập phát triển. Vùng văn hóa Đá Mới trung luu Hoàng Hà là một trong ba trung tâm văn minh nông nghiệp sớm nhất trên thế giới. "Đây là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp dựa trên các hạt ngũ cốc đã đạt tới văn minh đầu tiên trong cả thế giới cũ và mới" (Hồ 1977: 40). Sau đây là tóm tắt các chứng cứ chính của GS Hồ trong công trình dầy 440 trang. Những trích dẫn từ Cái nôi phương Đông. (Ho 1977). Chúng ta biết rằng không có vấn đề là Setaria italica đã được phát triển rộng rãi trong các cao nguyên hoàng thổ thuộc thời kỳ Yangshao. Bằng chứng khảo cổ quan trọng nhất là di chỉ điển hình của văn hóa Yangshao tại Bán Pha (Pan-po 半坡), những chum vại đầy vỏ S. italica đã được tìm thấy trong các kho. Số lượng hạt kê dự trữ, cùng với sự giàu có của nông nghiệp và sự bố trí phức tạp của các làng mạc được thành lập ngoài sự nghi ngờ rằng Setaria italica đã được trồng và thu hoạch bởi những người đàn ông (trang 57). Bán Pha là giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự hiểu biết về các nền văn minh khởi thủy của Trung Quốc vì nó được gọi là giai đoạn sớm nhất của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa trên cây kê, thuần hóa vật nuôi chủ yếu trên con lợn, bố trí cộng đồng làng với những nghĩa địa kiểu mẫu, sơn gốm, những ký tự và con số nguyên bản Trung Quốc. Zhou Jixu, (sđd. 3) dẫn một loạt 4 dữ liệu radiocarbon cho thấy di chỉ này tồn tại gần như liên tục trong sáu trăm năm thuộc thiên niên kỷ thứ năm trước Công nguyên (trang 16) .3 Bảng I: Một số niên đại C14 trong văn minh tiền sử Trung Hoa 2. Banpo, Sian Yangshao: 4115±110 B.C ; 4865±110 B.C. 4. Banpo, Sian Yangshao: 3955±105 B.C ; 4555±105 B.C. 5. Banpo, Sian Yangshao: 3890±105 B.C ; 4490±105 B.C. 6. Banpo, Sian Yangshao: 3635±105 B.C ; 4235±105 B.C. 7. Hougang 后岗Anyang 安阳 Henan Yangshao: 3535±105 B.C ; 4135±105 B.C. GS Hồ chỉ ra rằng Setaria và Panicum millets là những cây bản xứ (trong những vùng đất cao hoàng thổ của Trung Quốc), theo bằng chứng từ những tài liệu cổ, những cây kê mọc hoang còn tồn tại tới hôm nay ở vùng hoàng thổ, cùng lịch sử lâu dài việc trồng trọt chúng. GS Hồ cũng thảo luận về chủng tộc và nguồn gốc địa lý của người Yangshao. Ông kết luận rằng người Yangshao đến từ miền Nam Trung Quốc, bằng cách sử dụng các bằng chứng về địa lý, môi trường, cổ nhân học, những đồ vật tiêu biểu và văn hóa. Dưới đây là những tóm tắt của ông. 1. Các bằng chứng về thổ nhưỡng và thực vật học: những lớp phủ băng lục địa chưa bao giờ bao trùm toàn bộ Trung Quốc trong thời Pleistocene. Trong nhiều địa phương ở miền Bắc và miền Nam Trung Quốc, các loại đất phát triển từ Cretaceous (120 triệu đến 60 triệu năm trước), và tertiary (60 triệu đến 1 triệu năm trước). Sự tồn tại của các loại đất là căn cứ cho rằng chúng hình thành từ lâu trước thời đại Băng hà. "Sự phong phú khác thường của hệ cây gỗ Đông Á vượt quá số lượng giống loài tại tất cả các phần còn lại của khu vực phía Bắc... Sự phong phú của hệ thực vật Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, là do tính đa dạng lớn của nó về mặt địa hình, khí hậu và các điều kiện sinh thái. Về mặt lịch sử, do không có sự đóng băng rộng lớn trong thời gian Pleistocene cho phép sự bảo tồn một số lớn giống trước đây phân tán rộng nhưng sau đó biến mất trong những phần khác của thế giới."4 Biloba Ginko và Metasequoia5 là những thí dụ nổi tiếng nhất của những "hóa thạch sống" làm chứng cho sự thiếu vắng những lớp phủ băng lục địa ở Trung Quốc. Bởi vậy trong thời gian băng giá cuối cùng, những vùng đất thấp phía nam Trung Quốc có khả năng thích hợp hơn với người tiền sử so với người phía bắc Trung Quốc, trong điều kiện khí hậu và tài nguyên thiên nhiên cho sự tồn tại của con người. 2. Bằng chứng từ cổ nhân học: như khi so sánh với những nhóm người Mông Cổ khác, người Yangshao mang đặc tính cơ thể gần nhất với người Trung Hoa hiện đại ở miền nam Trung quốc và người Đông Dương hiện đại. Gần gũi tiếp theo của họ là với người Trung Hoa hiện đại ở Bắc Trung quốc. Họ có những đặc trưng thể chất khác biệt rõ ràng với người Eskimos của Alaska, Tungus của Manchuria, người Tây Tạng, và người Mongoloid vùng hồ Baikal. Theo thuật ngữ nhân chủng học Xô-viết được chấp nhận bởi trường phái lục địa Trung Hoa, người Yangshao Trung Quốc được phân loại theo "chi nhánh Thái Bình Dương của chủng Mongoloid" hoặc "chủng Mongoloid phương Nam," và như vậy là phân biệt với các proto-Tungus của Manchuria, những người được xếp vào chủng "Mongoloid phương Bắc" (Ho 1975: 38). 3. Bằng chứng của những đồ vật đặc trưng cho văn hóa Yangshao. "Đặc tính nổi bật nhất của những đồ vật đá thuộc văn hóa Yangshao, ngoài tính độc đáo hình học của chúng, là sự thịnh hành những công cụ mài bóng. Người dân của nền văn hóa này đã không biết kỹ thuật tạo vẩy và sửa rìa (flaking & chipping). / Trong việc sản xuất rìu, mũi mác, mũi tên, những cái cày, liềm và dùi đục lỗ, họ sử dụng phương pháp mài. Điều này thể hiện những truyền thống văn hóa đặc biệt và cội nguồn của văn hóa Yangshao, không liên quan đến phía bắc, nơi kỹ thuật ghè đẽo thịnh hành, mà tới phía nam và vùng biển phía Đông Trung quốc ".6 4. Bằng chứng của chuỗi văn hóa: Những nhà khảo cổ Hoa lục xác minh giai đoạn sớm nhất của văn hóa Yangshao gần gũi với những công cụ của di chỉ Lijiachun trong hạt Xixiang, di chỉ Shensi ở phía nam núi Qinling. Ở Lijiachun, nhiều đồ gốm có hình dạng tương tự với một vài địa điểm của Yangshao, tuy nhiên có hai khác biệt quan trọng: sự thịnh hành của đồ gốm cordmarke và sự vắng đồ gốm sơn.7 Dọc theo bờ biển Thái Bình Dương phía Đông và Đông Nam Á, trong nhiều vùng nửa phía nam Trung Quốc, đồ gốm sớm nhất và ổn định là cordmarke, và từ Li-chia-ts’un phía nam Qinling và trên sông Hán Giang nối Shensi với trung lưu sông Dương Tử, một sắc thái miền nam của di chỉ văn hóa Yangshao là điều không thể nghi ngờ (Ho 1975: 39-40). Giáo sư Hồ kết luận : “Trong viễn cảnh tầm xa, nền tảng của hệ thống nông nghiệp bền vững nhất thế giới, một hệ thống quá rộng lớn để làm nên đặc tính vững bền của văn minh Trung Hoa, được đặt vào vùng hạt nhân Yangshao trong thời kỳ đồ Đá Mới”(Ho 1975: 48). Có hay không việc văn hóa Đá Mới Yangshao hình thành và phát triển độc lập, vẫn còn là điều tranh luận (Zhang 2004). Nhưng bằng chứng được trích ở trên đủ chứng tỏ môt thực tại lịch sử: một văn minh nông nghiệp trưởng thành đã tồn tại trong thung lũng sông Hoàng Hà. I.3 Thời điểm xuất hiện việc trồng lúa. Một khu vực hạt nhân khác của văn minh nông nghiệp sớm nhất ở Trung Quốc đã được hình thành tại lưu vực sông Dương Tử. Khoảng 7000-5000 năm TCN, đã có nền nông nghiệp trồng lúa trưởng thành ở trung và hạ lưu sông Dương Tử. Những nhà khảo cổ học Trung Hoa đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực này từ những năm 1950. Có một lời giải chung cho câu hỏi này trong tài liệu của giáo sư Zhu Naicheng "Tổng quan về nông nghiệp trồng lúa tiền sử Trung Quốc" (Zhu 2005). Sau đây trình bày những phác thảo của bài viết. Nguồn gốc của nghề trồng lúa ở Trung Quốc được hình thành khoảng 10.000 BC, theo khảo cổ tiền sử Trung Quốc và kết quả phân tích các mẫu thực vật cổ. Theo bài báo của Zhu, có bốn giai đoạn phát triển của nghề trồng lúa thời tiền sử Trung Quốc. 1. Khởi nguồn (khoảng 10.000 TCN). Hai di chỉ là Hang Xianren trong hạt Vạn Niên (Wannian), tỉnh Giang Tây (Jiangxi), và Dốc Đứng (Yuchan) trong hạt Dao tỉnh Hồ Nam (Hunan), là một phần của đồng bằng sông Dương Tử, và khí hậu trong khu vực cận nhiệt đới nam Trung Hoa. Về mặt địa lý, chúng ở trung tâm của nam Trung Quốc, phía nam Qinling (秦岭) và phía nam sông Hoài . 2. Giai đoạn trưởng thành (7000-5000 BC?) Những vết tích văn hóa chính đến từ văn hóa Pengtoushan (彭头山), văn hóa Giả Hồ (Jiahu) thuộc kiểu văn hóa Peiligang và địa điểm Shangshan (上山) trong hạt Pujiang thuộc thung lũng sông Qian-tang. Những địa điểm văn hóa Pengtoushan được định vị trong miền đồng bằng xung quanh Hồ Động Đình (Dongting) và khu vực dọc theo sông Dương Tử phía tây tỉnh Hồ Bắc (Hubei). Niên đại những địa điểm này vào khoảng 6500-5500 TCN. Nhiều vết tích của lúa trồng được phát hiện tại đây, cung cấp bằng chứng quan trọng về việc gia tăng canh tác lúa. Những di chỉ kiểu Giả Hồ của văn hóa Peiligang phân tán trong đồng bằng trung và đông tỉnh Hà Nam (Henan), có niên đại 6800-5500 BC. Những vết tích sự trồng trọt lúa cũng được tìm thấy tại địa điểm Giả Hồ (Jiahu) ở hạt Vũ Dương (Wuyang 舞阳)- 3. Những công cụ được khai quật ở đây chủ yếu là sa thạch, phần nhiều trong số đó được làm bởi phương pháp mài nhẵn. Những công cụ đó có thể được xác định là cái mai đá, cái liềm, con dao, đá cối xay, cái gậy đá cối xay, cái mai xương… vân vân. Dấu hiệu quan trọng của sự phát triển nông nghiệp đầu tiên là những công cụ đá mài bóng đó. Tại địa điểm Thượng Sơn (Shangshan上山) trong hạt Pujiang (浦江) thuộc lòng chảo trung tâm tỉnh Chiết Giang (Zhejiang), những vết tích trồng lúa có thể xưa tới khoảng 7000 TCN. Có nhiều dấu in của vỏ trấu trên những mẩu đồ gốm đào được. Đất làm gốm được trộn đều với một số lớn vỏ trấu, chứng tỏ vết tích của việc trồng lúa. Niên đại Carbon-14, được thực hiện bởi các chuyên gia tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Khoa học Đại học Bắc Kinh, Zhou Jixu, (sđd.6) cho thấy rằng các mảnh gốm với vỏ trấu được định tuổi đến 9000-11000 năm cách nay 8. Những công cụ khai quật được là đá cối xay, gậy đá cối xay, những quả bóng đá, những cái đục, rìu, và những rìu lưỡi vòm. Đồ gốm bao gồm lọ, bình, chảo cũng như những mảnh với chân tròn, được tìm thấy sớm nhất ở Trung Quốc cho đến lúc này. 3. Thời kỳ phát triển (5000-3000 TCN) Văn hóa lúa nước đã được mở rộng đến trung, hạ luu sông Dương Tử, các đồng bằng sông Ganjiang (赣江), sông Minjiang (闽江), sông Chu (Zhujiang 珠江), và một phần của khu vực trung và hạ lưu sông Hoàng Hà trong khoảng thời gian 5000-3000 TCN. Đáng kể là việc trồng lúa vẫn còn được phát hiện tại hạ lưu sông Dương Tử, chẳng hạn như trong văn hóa Hà Mục Độ (Hemudu河姆渡), Majiapang (马家浜) và Songzhe (嵩泽), và cũng có thể ở trung lưu sông Dương Tử, chẳng hạn như văn hóa Tangjiagang (汤家岗), Daxi (大溪) và Longqiuzhuang (龙虬庄) trong các khu vực phía Đông của sông Hoài. Khu vực trồng lúa đã vươn tới trên 35 ° vĩ độ bắc trong khu vực trung và hạ lưu Hoàng Hà. Chúng ta có thể thấy văn hóa đặc trưng của thời kỳ này tại di chỉ Hemudu, khoảng 5000 TCN. Hiện có số lượng lớn hạt lúa bị các bon hóa với hình dạng đầy đủ và thậm chí cả với các sợi râu, thêm vào đó vô số những công cụ nông nghiệp được khai quật, bao gồm cái mai xương, cái chày gỗ, đá cối xay, quả bóng đá, vân vân… Số lượng những cái mai bằng xương vượt quá 170 chiếc. Những mảnh gốm dùng để nấu cơm mang vết tích các bon hóa được khám phá. Gốm được khai quật chủ yếu là gốm đen do pha trộn than, với những kiểu dáng như cái bình, cái bát, đĩa, tách đứng, chảo, he盉 (dụng cụ để uống), đỉnh (ding鼎, cái chảo lớn ba chân), cái đài, vân vân… Có thể được phân loại vào trong ba nhóm: đồ đun nấu, đồ dùng để uống, và cất giữ sản phẩm. Cũng khai quật được các dụng cụ săn bắn và câu cá, chẳng hạn như còi bằng xương, mũi tên xương, đạn đá, và rất nhiều trái cây, chẳng hạn như chà là đen, quả sồi, Gordon euryale và hạt dẻ nước… những hiện vật đó cho thấy rằng săn bắn, câu cá, và thu lượm vẫn còn là một phần trong đời sống của người dân Hemudu. Nhiều công cụ dùng để xe chỉ và dệt được khám phá tại chỗ, đã chứng tỏ kỹ thuật dệt phát triển trong thời kỳ đó. Những căn nhà của người Hemudu được xây dựng trên sàn gỗ để nâng cao trên đất phòng lũ lụt, và nhà được làm bằng gỗ. Việc xây dựng kiểu Hemudu là không bình thường trong thời ký Đá Mới ở Trung Quốc. Di chỉ Hemudu đã được công nhận là một trong những địa điểm khảo cổ quan trọng nhất ở Trung Quốc, và chữ "Hemudu" là tên được sử dụng để gọi tất cả các địa điểm thuộc cùng một loại hình văn hóa. 4. Giai đoạn hoàn tất sự phát triển (3000-2000 TCN) Phạm vi của văn hóa lúa nước nguyên thủy đã thành thục gần như trùng với địa bàn của nghề trồng lúa phát triển. Những di tích phong phú nhất của nghề trồng lúa được khám phá ở văn hóa Liangzhu, Qujialing (屈家岭), Shijiahe (石家河), và Fanchengdui (樊城堆) ở trung và hạ lưu sông Dương Tử. Cả lúa lẫn kê đều đã được gieo trồng trong khu vực giữa sông Hoàng Hà và sông Hoài. Tiên tiến nhất là văn hóa Liangzhu. Có rất nhiều công cụ trồng trọt khác nhau trong văn hóa Liangzhu. Những công cụ đá được khai quật 8. theo dữ liệu tại di chỉ Shangshan có thể được xếp loại thuộc thời kỳ trước đó, được mô tả trong mục "nguồn gốc". Zhou Jixu, (sđd.7): cái cày, shi (耜 một loại mai), cái mai, cái cuốc, và cái liềm vân vân… đã được chế tác đẹp đẽ. Những công cụ cho thấy kỹ thuật trồng trọt cao hơn so với thời kỳ trước đó. Sự nuôi dưỡng gia súc phát triển rõ rệt. Những nghề thủ công nguyên sơ bắt đầu thuần thục. Việc sản xuất đồ gốm, chế tạo ngọc bích, sơn mài, dệt, chế tạo vật dụng bằng tre và gỗ, việc chạm khắc ngà, ghề khảm… tất cả các hàng thủ công này phát triển chưa từng có trước đây. Tất cả những sự khéo léo như vậy trước đó chưa hề có. Sự sản xuất những vật bằng ngọc bích đặc biệt đáng chú ý trong thời kỳ này. Đấy là nhận xét của giáo sư Zhu trong bài báo kể trên. Khi thảo luận về cái nôi của văn minh lúa nước trong công trình Cái nôi phương Đông của mình, giáo sư Hồ cũng nói: "Trong bất kỳ trường hợp nào, sự kết hợp giữa khảo cổ học và tư liệu lịch sử của chúng tôi cho thấy vẻ hợp lý khi cho rằng Trung Quốc như là một trong những quê hương gốc của cây lúa và có lẽ là khu vực đầu tiên trên thế giới, nơi lúa đã được trồng"(Hồ 1975: 70-71). Dưới đây là những tư liệu Carbon-14 tại ba di chỉ trồng lúa (Hồ 1975: 16-17).9 8. Songze (松泽) Qingpu (青浦) Shanghai, Qingliangang (青莲岗) 3395±105 B.C ; 3395±105 B.C. 10. Qianshanyang (钱山漾) Wuxing (吴兴) Zhejiang, Liangzhu 2750±105 B.C. ; 3300±105 B.C. 14. Huanglianshu (黄楝树) Xichuan (淅川) Henan Qujialing (屈家岭) 2270±95 B.C. ; 2720±95 B.C. Niên đại C-14 của di chỉ Hemudu là 7000 năm cách nay; của di chỉ Shangshan ở hạt Pujiang là 9000-11.000 năm, theo bài báo của giáo sư Zhu. Sự trồng trọt lúa gạo đẩy mạnh văn minh xã hội Trung Hoa cổ. Giáo sư Zhu tổng kết điều này như sau: Nông nghiệp lúa nước đã thống trị kinh tế xã hội trong thời kỳ văn hóa Songze (嵩泽) ở vùng hạ lưu sông Dương Tử sau 4000 TCN. Số lượng và chủng loại xương động vật và công cụ săn bắn được khai quật từ các di chỉ đã được giảm rõ rệt trong thời kỳ văn hóa Songze. Điều này cho thấy phương thức kinh tế săn bắn và hái lượm giảm thiểu, việc sản xuất lương thực, chủ yếu là gạo, rõ ràng bùng nổ. Những xương hàm dưới của heo nhà được sử dụng trong đám ma cho thấy việc chăn nuôi gia súc có tiến triển. Sự hình thành ngành trồng lúa nước với tư cách nông nghiệp cơ bản thành thục trong thời kỳ văn hóa Liangzhu tại hạ và trung lưu sông Dương Tử. Zhou Jixu, (sđd. 8): bằng chứng chính là sự xuất hiện của toàn bộ các công cụ canh tác cần thiết cho việc cày cấy, nuôi trồng, và thu hoạch. Việc ủ rượu xuất hiện, sự sinh sản gia súc được tăng cường, và tỉ lệ gia súc được dùng làm thịt gia tăng. Những nghề thủ công trở nên phát đạt. Những trung tâm định cư được khám phá tại di chỉ Mojiaoshan (莫角山), cho thấy sự gia tăng nhân số. Bàn thờ và mộ được xây dựng trong di chỉ Yaoshan (瑶山) và Fanshan (反山). Những hiện tượng này đánh dấu xã hội Trung Hoa đã bước vào nền văn minh dẫn tới những "vương quốc cổ " khoảng 3000-2800 TCN. Tỷ lệ lúa gạo trồng với tư cách là nông nghiệp chính, từng bước tăng thêm trong thời kỳ văn hóa Daxi (大溪) tại vùng trung lưu sông Dương Tử. Những chum vại gốm lớn có thể đã được sử dụng để dự trữ hạt cho thấy sản xuất lương thực đã tăng. Số lượng các làng xóm nhiều thêm, trung tâm định cư cùng với những tường lũy bao quanh được thiết lập vào khoảng 4000 TCN. Từ các công bố trên, chúng ta có thể thấy, đặc điểm nổi bật của văn minh nông nghiệp là, những trung tâm định cư, kèm theo đô thị với thành lũy bao quanh, phát triển gốm sứ, và các địa điểm tôn giáo lớn, hình thành khoảng 4000-3000 năm TCN. Nhiều vùng của sông Dương Tử và Hoàng Hà đã tiến tới một nền văn minh nông nghiệp trưởng thành, chậm nhất là vào khoảng 4000 năm TCN. Những người sống ở lưu vực sông Dương Tử, và văn hóa lúa nước từ đâu tới? Sử dụng bằng chứng từ cổ nhân học và di truyền học người, nhiều nhà nhân chủng học và di truyền học chỉ ra những đặc trưng cơ thể của những người cổ sống trong vùng nam sông Dương Tử có mối quan hệ chặt chẽ với nhóm Nam Á và phân biết rõ ràng với những người sống ở khu vực phía bắc sông Dương Tử. Các dữ kiện cho thấy những người cổ xưa sống ở đồng bằng sông Dương Tử đã từ miền nam châu Á tới. Ngoài ra, bốn mẩu bằng chứng thường hỗ trợ nguồn miền nam của người Yangshao của G.S Hồ (xem ở trên) cũng có thể được áp dụng ở đây. II. Sự khởi đầu của văn minh nông nghiệp theo tài liệu lịch sử Trung Quốc. II.1 Cách tính thời gian lịch sử Để tính toán các thời đại lịch sử trên cơ sở các sự kiện được ghi trong tài liệu cổ, nghiên cứu này dựa vào hai nguồn: Một là các dữ liệu từ "Dự án Xác định niên đại các triều Hạ, Thương, Chu" do Viện lịch sử thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc thực hiện. Theo đó, các thời biểu của 3 triều đại sớm nhất của Trung Quốc cổ là: Hạ 2070-1600 TCN, Thương 1600-1046 TCN, Chu 1046-221 TCN. Các nguồn khác là phả hệ của những vua cổ xưa trên lưu vực Hoàng Hà trước thời Hạ, như ghi nhận của Wudi Benji "Những biên niên cơ bản của Ngũ Đế trong Sử ký của Tư Mã Thiên.” (Sđd9) Theo quan điểm của Tư Mã Thiên, khó mà biết về thời gian sớm hơn Ngũ Đế, nhưng thời kỳ từ Ngũ Đế về sau có thể được xác định.10 Trình tự tính theo "Những biên niên cơ bản của Ngũ Đế" trước nhà Hạ như sau: (sáu người cai trị trong chín thế hệ) Phả hệ của các Hoàng Đế (theo Sử ký). (phần này không dịch) II.2 Sự Bắt đầu của lĩnh vực nông nghiệp như được ghi trong những tài liệu cổ điển Trung hoa. Những văn minh tiền sử thuộc triều đại Hạ, Thương, Chu xuất hiện trong thung lũng Hoàng Hà, đặc biệt là văn minh của triều đại Chu, không nghi ngờ là dựa vào nông nghiệp ngũ cốc. Sự giàu có dư thừa cung cấp bởi sản xuất nông nghiệp tạo cho dân tộc Trung Hoa một sự tiến bộ lớn trong phát triển văn hóa. Tại sao bộ lạc Chu có thể lớn lên nhiều hơn những bộ lạc khác và để trở nên người cai trị vùng Hoàng Hà và sau đó là Dương Tử? Quyết định quan trọng nhất trong sự tiến bộ khác nhau của họ là bỏ cuộc sống du cư, chọn và dính chặt vào cuộc sống nông nghiệp. III. Giải thích sự chênh lệch giữa khám phá khảo cổ và các tài liệu lịch sử Như thảo luận trong phần đầu của nghiên cứu này, sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp trong các thung lũng sông Hoàng Hà đã diễn ra 5000 TCN hoặc sớm hơn. Các tài liệu khảo cổ cho thấy việc trồng kê là rất quan trọng trong khu vực Hoàng Hà 5000 TCN. Việc trồng lúa ở trung lưu sông Dương Tử đã được hình thành rất sớm. Sự trưởng thành của nghề trồng lúa theo thời gian có bằng chứng tại di chỉ Jiahu, tỉnh Hà Nam 6800 TCN, tại di chỉ Hemudu tỉnh Chiết Giang 5000 TCN. Tại sao sự khởi đầu về sản xuất nông nghiệp tại thung lũng Hoàng Hà nêu trong các tài liệu cổ lại muộn hơn nhiều, vào khoảng 2100 TCN? Làm thế nào giải thích khoảng cách 3000 năm đó? Câu trả lời là người dân Chu, những hậu duệ của Hoàng Đế, không phải là những người bản dịa sống trên khu vực hoàng thổ Hoàng Hà. Nông nghiệp thời Chu đã được hình thành trên cơ sở tiếp thu nền nông nghiệp truyền thống đã được sáng tạo bởi những người đã sống trong lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử từ xa xưa. Lối sống nông nghiệp của người Chu là kết quả của việc học hỏi từ những người khác. Các bộ lạc của Hoàng Đế (trong đó có bộ lạc Chu) là những cư dân du mục. Khi di cư vào khu vực Hoàng Hà, họ đã chịu ảnh hưởng của lối sông nông nghiệp tiên tiến của người dân bản địa, mặc dù đó là một bước tiến dài từ du mục để chuyển sang lối sống mới. Những thay đổi triệt để từ du mục sang trồng trọt đã thay đổi cuộc sống xã hội Chu. Khoảng 2300 TCN, quốc gia của Hoàng Đế đã chiến thắng và thống trị các khu vực của sông Hoàng Hà. Đây còn là thời gian sớm nhất mà truyền thuyết, lịch sử Trung Quốc trong các tài liệu cổ xưa ghi lại. Vì vậy, theo các tài liệu sớm nhất ghi lại những thành quả này, Hoàng Đế và các quốc gia hậu thế của ông giữ vai trò hàng đầu. Từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký, tất cả các sách cổ điển đã chính thống hóa Hoàng Đế cùng con cháu ông, trong khi loại trừ các dân tộc khác. Vì vậy, trong các tài liệu cổ xưa, chúng ta chỉ có thể thấy, sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc bắt đầu khoảng 2100 TCN, dưới thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ, những nhà lãnh đạo tuyệt vời của quốc gia của Hoàng Đế. Lĩnh vực nông nghiệp được nói đến bắt đầu vào thời Chu. Sự khởi đầu của nông nghiệp bản địa trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử vì vậy bị loại khỏi lịch sử thành văn. Không giống như các dân cư Ngưỡng Thiều và Hà Mục Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng Đế đến từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á. Họ chinh phục người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Bằng cách kết hợp văn hóa riêng của họ với các yếu tố văn hoá của người bản địa, dân cư của Hoàng Đế từng bước phát triển một nền văn minh rực rỡ mới vào thời Hạ, Thương và Chu. Họ thay thế người dân bản địa nắm giữ vai trò lãnh đạo trên các giai đoạn lịch sử Trung Quốc. Cho rằng dân cư của Hoàng Đế là một chi nhánh của người Ấn –Âu cổ, là một trong những sự kiện đáng kể nhất nay được biết tới trong lịch sử nhân loại. Một số lượng lớn từ Ấn-Âu trong ngôn ngữ Trung Hoa cổ rõ ràng xác nhận thực tế này. Các di tích còn lại của thời Hoàng Đế có liên quan đến các văn hóa Long Sơn trong bằng chứng khảo cổ học và các nền văn minh của Hạ, Thương, Chu, Qin (秦) là các triều đại kế nghiệp của nó.27 Bằng chứng cho tuyên bố này đến từ hai nguồn: đầu tiên sử dụng các bằng chứng về các tài liệu cổ xưa để chứng minh rằng người dân Chu, và là dân cư của Hoàng Đế, đã được khởi đầu từ người du mục, và thứ hai là đã có một số lớn từ Ấn-Âu trong ngôn ngữ thời Chu, dựa theo các bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử. Thứ ba là sự tương đồng về tôn giáo giữa dân cư Hoàng Đế và người Tiền Ấn-Âu. IV. Kết luận. Văn minh Trung Hoa không nảy sinh một cách cô lập trong thời cổ. Các nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới, bao gồm Ai Cập, Hy Lạp, Ấn Độ, và Anatolian đã không phát triển một cách tách biệt khỏi những văn minh khác. Đó là quy luật chung trong lịch sử con người mà những văn minh khác nhau được phân cực, hỗn hợp, và ảnh hưởng lẫn nhau. Bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử, khảo cổ cho thấy, văn minh Biển Aege và văn minh Hy Lạp, văn minh Thung lũng Indus và văn minh Ấn Độ cổ, văn minh Hattic và văn minh Hittite đã là những cặp mà cái sau chiến thắng cái trước để tạo dựng văn minh mới của mình. Cũng nên ghi nhận rằng, những kẻ xâm chiếm này đều là người Ấn-Âu tiền sử (khoảng 2000-1200 BC). Cũng như vậy, văn minh Trung Quốc đã trải qua những xung đột văn hóa trong thời cổ xưa. Những người Châu Âu từ thảo nguyên phía tây Trung Á đã mang những thành phần văn hóa mới đến thung lũng Hoàng Hà khoảng 2300 TCN. Họ đã kết hợp kỹ thuật tiên tiến của mình, như luyện kim đồng đỏ, những công cụ kim loại, vũ khí, xe ngựa và thuần hóa ngựa, với văn hóa nông nghiệp phát triển bản địa trong lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Sự phối hợp này tạo nên văn minh lộng lẫy của thời Hạ, Thương, Chu. Trái với quan điểm đại chúng cho rằng, "văn minh Hoàng Hà có lịch sử độc lập” nó thực sự là sự hòa hợp. Ý tưởng rằng nền văn minh Trung Hoa có một lịch sử độc lập đã rất phổ biến, do ảnh hưởng mạnh mẽ, đặc biệt của hệ thống chữ viết Trung Hoa, đã được sử dụng từ triều Thương (1600 TCN) cho tới hôm nay. Các ký tự Trung Quốc với tự dạng đặc biệt đã phủ tấm màn gây khó cho việc tìm ra mối quan hệ giữa tiếng Trung Hoa cổ và những ngôn ngữ cổ khác. Những ký tự vuông cổ xưa dễ khiến người ta có ảo tưởng lầm lẫn rằng ngôn ngữ cổ Trung Hoa ổn định và không thay đổi như là hình vuông. Nếu đúng như vậy, thì chúng ta làm thế nào có thể hiểu được thứ ngôn ngữ lạ lùng này theo phương pháp ngôn ngữ chung? Làm thế nào chúng ta có thể tìm thấy những mối quan hệ của ngôn ngữ Trung Hoa cổ và các ngôn ngữ khác. Thật ra, tiếng Trung hoa cổ là một trong những ngôn ngữ bình thường của con người giống như những tiếng khác, nếu chúng ta lột bỏ cái áo choàng khoác cho ký tự khỏi ngôn ngữ. Trong sự nghiên cứu tiền sử, ngôn ngữ học lịch sử sở hữu một chức năng đặc biệt, mà có thể được dùng để xác định bản chất của một nền văn minh và nguồn gốc dân tộc của nó, dựa vào bằng chứng của ngôn ngữ học. Vì ngôn ngữ là con dấu đặc biệt của mỗi dân tộc, không thể bị mai một qua thời gian. Những khám phá về các nền văn minh Ấn Độ cổ xưa đến từ người châu Âu đã được minh chứng hoàn toàn bởi ngôn ngữ học lịch sử trong thế kỷ XVIII - XIX. Trong khoảng một trăm năm, các nhà khảo cổ tìm thấy văn minh bản ngữ trước đó, mà văn minh Thung lũng Indus đã hình thành trên nền tảng của nó. Và cùng lúc, sự khảo sát di truyền học chứng tỏ người Ấn Độ chia sẻ nguồn gen với người Châu Âu. Sự khám phá của ngôn ngôn ngữ học lịch sử trước đó đã được xác nhận. Vì vậy, ngôn ngữ học lịch sử được tiếng là "khoa học đi trước thời gian." Chúng tôi không thể đánh giá thấp chức năng đặc biệt của ngôn ngữ học lịch sử trong nghiên cứu tiền sử con người, chúng tôi không thể đui mù chống lại những bằng chứng của ngôn ngữ, và chúng tôi không thể phủ nhận ngôn ngữ học lịch sử, như là một khoa học tích cực cho thấy giá trị bao quát của nó trong việc nghiên cứu ngôn ngữ con người, lịch sử, và tiền sử. Ngôn ngữ học lịch sử là một phương pháp khoa học được sử dụng trong nghiên cứu tiền sử toàn thể loài người. Những trường phái lớn của ngôn ngữ học trên thế giới, trong đó có Trung Quốc chia sẻ điều này. Có quan niệm thịnh hành xem lịch sử của Trung Quốc đã bắt đầu với Hoàng Đế (khoảng 2300 TCN), người đánh bại tất cả các kẻ địch của mình và thống trị khu vực Hoàng Hà. Nhưng không nhiều người biết rằng Hoàng Đế và người của ông di cư từ tây lục địa Âu-Á tới và rằng họ và con cháu của họ thực sự có vai trò dẫn đầu trong các giai đoạn lịch sử của thung lũng Hoàng Hà từ khoảng 2300 TCN. Lịch sử được ghi trong tài liệu truyền thống mà chỉ duy nhất tính đến việc người của Hoàng Đế đi vào trong thung lũng Hoàng Hà và phát triển văn minh ở đó. Những người đã sống trước đó và tạo dựng nền văn minh tiền sử huy hoàng của hai con sông (Hàng Hà và Dương Tử) đã bị chìm sâu sau màn sương lịch sử (tham khảo phần I của nghiên cứu này). Họ đã bị loại trừ khỏi sử biên niên truyền thống, trong đó bao gồm hầu như tất cả các sách lịch sử Trung Quốc, từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký vv. Đây là một lịch sử mang xu hướng đảo lộn vị trí giữa chủ và khách. Một trong những lý do cho tình trạng này là sự đàn áp và loại trừ do phe đảng mạnh của Hoàng Đế. Các lý do khác là, trong khi các dân khác đã không sáng chế ra hệ thống chữ viết của mình thì các quốc gia của Hoàng Đế đã làm được; một trong số đó đã được người dân Trung Quốc sử dụng cho đến nay. Những ký tự Trung Hoa cổ được ghi nhận chỉ hình thành và suy thoái trong dân tộc của Hoàng Đế thời cổ. Đó là lý do tại sao có sự chênh lệch lớn giữa các di chỉ khảo cổ khu vực Hoàng Hà, Dương Tử và các hồ sơ lịch sử truyền thống chỉ liên quan đến những ngày đầu của ngành nông nghiệp trong khu vực. Liên quan đến nền văn minh của "Hai sông Đông Á," được tạo ra bởi những người đến trước (xem phần I của nghiên cứu này), chúng tôi cũng có thể tìm thấy một số đáng kể thông tin từ những văn bản lịch sử mà có thể cùng xác nhận bởi những khám phá của khảo cổ và bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử. Sự khác biệt trong lối sống, phong tục, và ngôn ngữ giữa các cư dân bản địa và người dân của Hoàng Đế cung cấp cho chúng tôi thêm bằng chứng rằng người dân của Hoàng Đế đã chiếm đoạt một nền văn hóa đang tồn tại. Chúng ta sẽ thảo luận về những vấn đề này sau. NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI DỊCH A. Về cội nguồn văn minh nông nghiệp Trung Hoa Nửa thế kỷ qua, nhiều phát hiện khảo cổ trên đất Trung Hoa gây chấn động giới nghiên cứu nhưng chúng chỉ được công bố riêng rẽ. Đây là công trình tập hợp khá đầy đủ những phát hiện đó. Nhờ vậy, tác giã đã thành công trong việc tái hiện lịch sử hình thành văn minh nông nghiệp trên đất Trung Hoa cổ: 1. Khởi nguồn (khoảng 10.000 TCN). Vết tích trồng trọt sớm nhất vào khoảng 10.000 năm TCN tại Hang Xianren trong hạt Vạn Niên (Wannian), tỉnh Giang Tây (Jiangxi), và Dốc đứng (Yuchan) trong hạt Dao tỉnh Hồ Nam (Hunan), là một phần của đồng bằng sông Dương Tử, và khí hậu trong khu vực cận nhiệt đới nam Trung Hoa. Về mặt địa lý, chúng ở trung tâm của nam Trung Quốc, phía nam Qinling (秦岭) và phía nam sông Hoài (淮河). 2. Giai đoạn trưởng thành (7000-5000 BC?). Những vết tích văn hóa chính đến từ văn hóa Pengtoushan (彭头山), văn hóa Giả Hồ (Jiahu) thuộc kiểu văn hóa Peiligang và địa điểm Shangshan (上山) trong hạt Pujiang thuộc thung lũng sông Qian-tang. Những địa điểm văn hóa Pengtoushan được định vị trong miền đồng bằng xung quanh Hồ Động Đình (Dongting) và khu vực dọc theo sông Dương Tử phía tây tỉnh Hồ Bắc (Hubei). 3.Thời kỳ phát triển (5000-3000 TCN) Văn hóa lúa nước được mở rộng đến trung, hạ luu sông Dương Tử, các dồng bằng sông Ganjiang (赣江), sông Minjiang (闽江), sông Chu (Zhujiang 珠江), và một phần của khu vực trung và hạ lưu sông Hoàng Hà trong khoảng thời gian 5000 -3000 BC. 4. Giai đoạn hoàn tất sự phát triển (3000-2000 TCN). Phạm vi của văn hóa lúa nước nguyên thủy đã thành thục gần như trùng với địa bàn của nghề trồng lúa phát triển. Những di tích phong phú nhất của nghề trồng lúa được khám phá ở văn hóa Liangzhu, Qujialing (屈家岭), Shijiahe (石家河), và Fanchengdui (樊城堆) ở trung và hạ lưu sông Dương Tử. Từ những phát hiện khảo cổ phong phú trên, tác giả đã rút ra kết luận thuyết phục: Niên đại C-14 của di chỉ Hemudu là 7000 năm cách nay; của di chỉ Shangshan ở hạt Pujiang là 9000-11.000 năm. Sự trồng trọt lúa gạo đẩy mạnh văn minh xã hội Trung Hoa cổ. Nông nghiệp lúa nước đã thống trị kinh tế xã hội trong thời kỳ văn hóa Songze (嵩泽) ở vùng hạ lưu sông Dương Tử sau 4000 TCN. B.Việc giải thích sự khác nhau về thởi điểm khởi đầu trồng lúa giữa tư liệu khảo cổ và thư tịch. Tác giả đã chính xác và công bằng khi nhận định: “Người dân Chu, những hậu duệ của Hoàng Đế, không phải là những người bản dịa sống trên khu vực hoàng thổ Hoàng Hà.” “Lối sống nông nghiệp của người Chu là kết quả của việc học hỏi từ những người khác. Các bộ lạc của Hoàng Đế (trong đó có bộ lạc Chu) là những cư dân du mục.” Và: “Khoảng 2300 TCN, quốc gia của Hoàng Đế đã chiến thắng và thống trị các khu vực của sông Hoàng Hà. Đây còn là thời gian sớm nhất mà truyền thuyết, lịch sử Trung Quốc trong các tài liệu cổ xưa ghi lại. Vì vậy, theo các tài liệu sớm nhất ghi lại những thành quả này, Hoàng Đế và các quốc gia hậu thế của ông giữ vai trò hàng đầu. Từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký, tất cả các sách cổ điển đã chính thống hóa Hoàng Đế cùng con cháu ông, trong khi loại trù các dân tộc khác. Vì vậy, trong các tài liệu cổ xưa, chúng ta chỉ có thể thấy rằng sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc bắt đầu khoảng 2100 TCN, dưới thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ, những nhà lãnh đạo tuyệt vời của quốc gia của Hoàng Đế. Lĩnh vực nông nghiệp được nói đến bắt đầu vào thời Chu. Sự khởi đầu của nông nghiệp bản địa trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử vì vậy bị loại khỏi lịch sử thành văn.” C. Về ngồn gốc của dân cư Hoàng Đế Về cội nguồn những người vào lưu vực Hoàng Hà, lập quốc gia Hoàng Đế, tác giả nhận định: “Không giống như các dân cư Ngưỡng Thiều và Hà Mục Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng Đế đến từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á. Họ chinh phục người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Bằng cách kết hợp văn hóa riêng của họ với các yếu tố văn hoá của người bản địa, dân cư của Hoàng Đế từng bước phát triển một nền văn minh rực rỡ mới vào thời Hạ, Thương và Chu. Họ thay thế người dân bản địa nắm giữ vai trò lãnh đạo trên các giai đoạn lịch sử Trung Quốc. Cho rằng dân cư của Hoàng Đế là một chi nhánh của người Ấn –Âu cổ, là một trong những sự kiện đáng kể nhất nay được biết tới trong lịch sử nhân loại. D.Đôi điều bàn lại. Không phủ nhận vai trò của ngôn ngữ học lịch sử trong việc tìm ra mối liên hệ giữa sắc dân này với sắc dân khác. Nhưng ngôn ngữ học lịch sử rất ít thẩm quyền khi xác định nguồn gốc của một sắc dân. Thực tế đã chứng minh điều này. Bình Nguyên Lộc đã “lộn ngược” khi cho rằng “Nguồn gốc Mã Lai của người Việt Nam.” Các nhà ngôn ngữ học lịch sử Pháp, Việt cũng sai lầm từ nhận định “Tiếng Việt mượn 70% tiếng Trung Quốc” để cho rằng người Hán là tổ tiên người Việt… Bản thân ngôn ngữ học lịch sử chỉ cho thấy mối quan hệ giữa các ngữ mà không đủ thẩm quyền phán quyết đâu là gốc còn đâu là ngọn! Vì vậy, dù bỏ nhiều công sức đưa ra những bằng chứng ngôn ngữ học thì luận điểm của tác giả cũng thiếu sức thuyết phục. Sự việc càng rõ hơn khi đối chiếu về phương diện di truyền học. Nếu bộ tộc Hiên Viên của Hoàng Đế là người Indo-Europian thì người Hán, hậu duệ của bộ tộc Hoàng Đế, chiếm 93% số dân Trung Quốc phải là người Indo-Europian giống như người đang sống ở Tây Ấn hiện nay. Thực tế không như vậy. Di truyền học xác minh, người Hán thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, cố nhiên họ không thể có tổ tiên mang mã di truyền Indo-Europian. Thử đưa ra cách lý giải khác: Khi các bộ lạc của Hoàng Đế vào xâm chiếm trung lưu Hoàng Hà, họ mạnh về vũ trang nhưng nhân số ít. Bản thân họ không thể tạo nên dân cư đông đảo như vậy ở thời Chu. Thực tế là họ đã hòa huyết với người bản địa, sinh ra lớp người mới, thuộc chủng Mongoloid phương Nam, chiếm 93% số dân Trung Quốc ngày nay. Từ đó có thể suy ra: các bộ lạc của Hoàng Đế là người Mongoloid phương Bắc đã từng sống lâu đời ở phía Tây Bắc Trung Quốc. Đó chính là những người mà 2500 năm trước, tổ tiên họ hòa huyết với người Bách Việt bên Hoàng Hà, sinh ra người Bán Pha. Điều này đã được trình bày trong bài “Về nguồn gốc người Hán và sự hình thành nước Tàu” (Hà Văn Thùy- Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học 2008). Đúng là khoảng 2000 đến 1500 năm TCN, người Arian từ vùng Ba Tư xâm lăng Ấn Độ, làm nên văn minh sông Indus. Truyền thuyết và lịch sử cho biết, đó là những người mạnh mẽ và hung bạo, đã tàn sát và nô lệ hóa dân Dravians bản địa. Trong khi đó, cũng là du mục nhưng người của Hoàng Đế, do quá trình tiếp xúc tự nhiên lâu đời, đã không tàn sát người Bách Việt bản địa hoặc nô lệ hóa họ mà sớm tạo được cuộc sống hòa hợp như trong kinh Thư cho thấy. Do chỉ chăm chú tới nhũng tài liệu chính thức như Thượng Thư, kinh Thi, Sử ký nên tác giả, giáo sư Zhou Jixu, bỏ qua những tư liệu quý trong truyền thuyết. Truyền thuyết cho rằng, Hoàng Đế chiến thắng Si Vưu vào năm 2600 TCN tại trận Trác Lộc trên khủyu sông Hoàng Hà. Một câu ca còn lưu truyền: Tích nhật Hoàng đế chiến Si Vưu/ Trác lôc kinh kim vị nhược hưu (ngày trước Hoàng Đế đánh si Vưu, tới nay cuộc chiến vẫn chưa dừng). Một cuộc chiến tranh dai dẳng, không ít khốc liệt nhưng có lẽ không diễn ra thảm sát và không có nô lên hóa kẻ bại trận. Như vậy, về thời gian, cuộc xâm lăng của Hoàng Đế xảy ra trước cuộc xâm lăng của người Arian gần 1000 năm. Cả về nhân chủng, về thời gian và phương cách của cuộc xâm lăng của tộc Hoàng Đế đều chứng tỏ họ không phải thuộc chủng Indo-Europian. Một ý của tác giả cho rằng, người của Hoàng Đế đã tạo nên văn hóa Long Sơn. Đó không phải là sự thật. Long Sơn cũng như Yangshao thuộc về cùng một văn hóa, do giai đoạn sớm của văn hóa Hòa Bình phát triển lên, như Hội nghị khoa học thế giới về tiền sử Viễn Đông họp ở Hà Nội năm 1932 xác nhận.(Hà Văn Thùy. Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt. NXB Văn học, 2007). Dù có những điều cần bàn lại như trên thì tài liệu của giáo sư Zhou Jixu vẫn là những tri thức khả tín giúp chúng ta nhìn rõ hơn vào quá trình hình thành văn hóa nông nghiệp ở Trung Quốc: Những người từ Nam Á đi lên đã xây dựng nền văn hóa nông nghiệp trên đất Trung Hoa từ 12000 năm trước, đạt đến sự rực rỡ vào khoảng 7000-5000 năm TCN. Người Hán là hậu duệ của các bộ lạc du mục do Hoàng Đế dẫn đầu vào chiếm đất phía nam Hoàng Hà, chiếm đoạt văn minh nông nghiệp của người bản địa, dựng lên vương triều Hoàng Đế. Vấn đề đặt ra là người Nam Á ấy là ai? Đó chính là người từ Việt Nam đi lên khoảng 40.000 năm trước. Do sống phân tán trên địa bàn rộng có hoàn cảnh địa lý khác nhau, đã phân ly thành hơn 20 tộc Việt, được lịch sử gọi là người Bách Việt. Trong công trình của mình, với những cứ liệu khảo cổ học thuyết phục, có thể tác giả chứng minh được rằng Trung Quốc là trung tâm phát triển nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Luận cứ của tác giả một lần nữa giúp khẳng định, Đông Nam Á là trung tâm của văn minh nhân loại./. Hà Văn Thùy Nguồn: www.vanchuongviet.org
  20. Xác định chủ quyền văn hoá của Tổ tiên Việt tộc Vũ Khánh Thành 1. Nhà nông đầu tiên trên thế giới Ngày 8.5.09 vừa qua trên BBC có một bài ngắn đưa tin Martin Jones thuộc Đại Học Cambridge đã cho thấy việc trồng trọt các vụ mùa riêng biệt có thể đã bắt đầu từ vùng Viễn Đông cách đây từ 10 ngàn năm tức là sớm hơn hai thiên niên kỷ so với những gì mà lúc trước người ta dự đoán. Cho tới nay, người ta thường cho rằng nông nghiệp định cư thực sự bắt đầu cách đây tám ngàn năm tại vùng Lưỡng Hà cổ, nay là Iraq. Giáo sư Jones nói rằng, kết quả khảo cổ tại Trung quốc làm thay đổi mọi thứ. Giống lúa cổ nhất tại Trung Quốc giờ đây đã có 12 ngàn năm tuổi. Hạt Kê ở miền bắc nước này có tới 8 ngàn năm tuổi. tại nhiều vùng ở châu Á và Mông Cổ, đây là loại lương thực chính mà người ta ăn vài lần trong ngày. Vì là một bản tin vắn, không có thêm nhiều chi tiết, không biết Giáo Sư Jones nói Trung Quốc là một nước, một dân tộc như hiện nay hay lãnh thổ của dân Bách Việt trong vùng Hoàng Hà Dương Tử mà dân Bách Việt đã định cư truớc khi có Trung Quốc của Hán Tộc được làm nên do người Mông Cổ du mục xâm chiếm vùng Hoàng Hà Dương Tử, hoà huyết với dân Bách Việt thành ra người Hán mà lãnh thổ của họ thời đó còn bé tí ti, chỉ như một quận huyện ngày nay. Gọi là Trung Quốc là nước ở giữa, có nghĩa chung quanh còn có nhiều nuớc khác chứ không là toàn lãnh thổ Trung Quốc như ta thấy ngày nay. Trong tác phẩm “Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông” tác giả Du Miên Lê Thanh Hoa đã trưng dẫn bản đồ của tạp chí National Geographic (Hoa Kỳ) ấn hành, ghi rõ Việt (Yue) sống đời định cư 5,000 năm trước tây lịch và là giống dân đầu tiên trồng lúa gạo trên thế giới. Cuốn “An Historical Atlas of China” của Albert Herrmann, Giáo Sư Đại Học Berlin cũng cho biết như vậy. Cuốn BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ của Thuận Đức, Âu Đại Nhậm, Trịnh Bá soạn, là cuốn cổ sử về giống Việt, viết ra từ 500 năm trước tại Trung Quốc, cất trong kho trữ sách trung ương, chỉ dành cho một số người tra cứu sử liệu được đọc mà thôi. Ngay cả Sử Quán của triều Nguyễn Việt Nam cũng cố công tìm nhưng không tìm thấy. Vào năm 2006, Trung tâm nghiên cứu văn hoá Việt Nam tại Hoa Kỳ đã cho in, phổ biến bản dịch của Giáo Sư Trần Lam Giang. Ấn bản này có cả phụ lục nguyên bản của sử gia thời nhà Minh, Âu Đại Nhậm, để đối chiếu. Giai đoạn lịch sử mà “Bách Việt Tiên Hiền Chí” đề cập là triều Hán, triều đại chủ trương đánh chiếm và sáp nhập toàn bộ đất Việt vào lãnh thổ Tàu. Cuối cùng, một dải đất rộng bao la, nay ước chừng 1/3 toàn bản đồ Tàu, của nước Việt đã bị đẩy mãi xuống tận miền Nam, và Bách Việt nay chỉ còn có Lạc Việt, chi trưởng của Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Nhà văn Hà Văn Thuỳ trong bài viết “ Khai sinh người Hán và sự hình thành nước Tàu” (Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn Học, 2008) khẳng định: “Tổ tiên người Hán chỉ ra đời khoảng 2600 năm TCN, khi người Mông Cổ tràn xuống nam Hoàng Hà chiếm đất của người Việt, hòa huyết với người Việt sinh ra. Vì vậy, tất cả văn hóa vật thể và phi vật thể có trên đất Trung Hoa trước 2600 năm TCN đều là sản phẩm của Việt tộc.” Và bài “Truy Tìm Gốc Tích Cây Kê” cũng trong sách trên đã xác định rằng muốn tìm nguồn gốc cây Kê phải giải quyết hai vấn đề: Người trồng Kê ở làng Bonfo 5,000 năm trước là ai và trước hết ở đâu ? Ông dẫn chứng tác phẩm “Nguồn Gốc Phương Đông” (The Cradle of The East) của Giáo Sư Ho Ping-Ti để đi đến kết luận là có sự hoà huyết giữa người du mục và người nông nghiệp, sống hoà thuận trong cộng đồng Bách Việt. Giáo sư Zhu Naiccheng trong chuyên luận “ A Summary of Prehistoric Rice-cultivating Agriculture” cũng kết luận rằng “Cả gạo lẫn cây Kê đều được gieo trồng trong khu vực giữa sông Hoàng hà và sông Huai (Hoài) tức “lúa gạo và cây Kê đã được trồng xen nhau trong miền văn hoá tiền sử Trung Hoa” Tiến Sĩ Nguyễn Văn Tuấn, Giám Đốc Viện Garma Úc, trong bài giới thiệu cuốn Địa Đàng Phương Đông của Stephen Oppenheimer đã viết “Qua những khám phá này, chúng ta có bằng chứng để phát biểu rằng, trước khi tiếp xúc với người Hán từ phương Bắc (Trung Hoa) đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nền văn minh khá cao, nếu không nói là cao nhất trong vùng Đông Nam Á … Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kỹ thuật trồng lúa trước người Hán hay là những người thầy dạy cho người Hán trồng lúa (chứ không phải ngược lại) và có thể tổ tiên chúng ta cũng chính là tổ tiên của người Trung Hoa ngày nay. Đã đến lúc phải trả lại sự thực và danh dự cho tổ tiên chúng ta”. 2. Chuyện nguồn gốc Kinh Dịch Học giả Nguyễn Thiếu Dũng trong bài viết kỷ niệm 10 năm ông công bố chứng cứ chứng minh “Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt Nam” đăng nhiều nơi trong đó có mang anviettoancau.net tháng 4 năm 2009 ông cho rằng người Trung Hoa đã có hai ngàn năm để nói Kinh Dịch là của họ với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã trở thành một sự thực hiển nhiên khó ai cãi lại đuợc. Nhưng ngày nay đã có những chứng cớ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa , mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch. Nguyễn Thiếu Dũng đã lược qua nhiều chứng cớ lịch sử, nhiều sử gia, nhiều tác giả từ xưa tới nay của Trung Hoa đã đi tìm lý chứng để giải quyết vấn nạn về nguồn gốc Kinh Dịch, nhưng họ đành bó tay không truy vấn được. Vậy thì người Việt nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi ? Vậy đâu là những chứng cớ từ Việt Nam ? A.Năm 1970 Giáo Sư Kim Định đã dõng dạc tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh Linh Thể. Tiếp sau là Bác Sĩ Nguyễn Thi Thanh, Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Phạm Trần Anh, Trần Đại Sỹ, Trần Quang Bình, Hà Văn Thuỳ, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm Đoàn Vũ … đã mạnh dạn đề xuất nhiều chứng cớ khoa học. B. Riêng Nguyễn Thiếu Dũng, trong ròng rã 10 năm không mỏi mệt, tác giả đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt nam qua mấy điểm chính sau đây: 1) Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt Nam đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương-Thanhnienonline) 2) Chứng liệu của Việt Nam trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc.Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn.Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn lang-Anviettoancau.net) 3) Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của Hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm của Việt nam,Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần-dạng thức nguyên thủy của hào âm hào dương-Thanhnienonline). 4) Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly,Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch-Dunglac.net) 5) Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên Đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Nam sử dụng để viết quái, hào từ Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. Đồ này được tổ tiên Việt nam dấu trong truyền thuyết, trên trống đồng nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh kinh Dịch (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam-Thanhnienonline) 6) Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện con Rồng cháu Tiên là chuyện của Trung Thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyện kể lại từ những lời hào quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” thành bộ mộc là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh.Truyền thuyết được lưu giữ chính là để bảo tồn Kinh Dịch.(Các bài trên Anviettoancau.net- cùng tác giả) Trong một bài báo ngắn chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho Tổ Tiên. Thái độ “mackeno” của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này. Hởi ai có thấu lòng tiên tổ! Xin giải oan cho “Giọt máu Rồng” ./. Vũ Khánh Thành. Nguồn : www.vanchuongviet.org
  21. Động đất gây sóng thần tại New Zealand Cập nhật lúc 10h06' ngày 16/07/2009 Chiều qua 15-7, một trận động đất mạnh đã gây sóng thần nhỏ tại New Zealand và đặt bờ biển nước này trong tình trạng báo động. Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ (USGS) cho biết động đất xảy ra ngoài khơi tây nam New Zealand, cách thành phố Invercargill 161 km về phía tây, ở độ sâu 33 km. Trung tâm cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương ở Hawaii cho biết họ phát hiện có sóng thần nhỏ và đã phát cảnh báo chung cho khu vực Bản đồ nơi xảy ra động đất (Ảnh: AP) “Một trận động đất cường độ này thường có nguy cơ gây sóng thần tàn phá trên diện rộng và có thể tấn công các bờ biển tại khu vực nằm gần tâm chấn trong vòng vài phút đến vài giờ”, cảnh báo của trung tâm nói. Cảnh báo này sau đó đã được dỡ bỏ. Động đất xảy ra lúc 9g22 giờ quốc tế, tức 16g22 chiều nay giờ Việt Nam. USGS và các nhà địa chấn Nhật Bản cho rằng động đất mạnh 7,8 độ richter, tuy nhiên nhà chức trách New Zealand nói nó có thể yếu hơn, khoảng 6,6 độ richter. Hiện chưa có thông tin về thiệt hại hay thương vong, dù tin cho biết động đất được cảm nhận ở khắp đảo South của New Zealand. Tờ Herald cho biết tại Queenstown, nhiều người bỏ chạy ra đường khi nhận thấy các tòa nhà bị rung lắc, đường dây điện và điện thoại bị ngắt ở vài khu vực. Simon Darby, một người dân đảo South, nói trận động đất kéo dài khoảng 2 phút rưỡi. “Tôi sống ở Tokyo 3 năm và chưa từng thấy trận động đất nào lớn như thế. Dù ở cách tâm động đất tới 400 km, chúng tôi cũng cảm nhận được nó. Tôi đã bỏ chạy một mạch ra ngoài bãi xe”, anh kể lại. Tường Vy - Tuổi trẻ (Theo AP, BBC) Nguồn: www.khoahoc.com.vn
  22. Đúng như Sư phụ nhận định đây là kết quả của ngành khảo cổ học, các kết quả khảo cổ trên cho thấy một nền văn minh lúa nước rất phát triển đã tồn tại trước khi người Hoa Hạ có mặt tại vùng đất này. Kính.
  23. Thứ Tư, 15/07/2009 - 11:32 PM "Máy bay Iran “đã bốc cháy trên không trung” (Dân trí) - Chiếc máy bay Tupolev đâm xuống cánh đồng tại tây bắc Iran vào ngày 15/7 đã giết chết 168 người, trong đó có nhiều nhân vật quan trọng. Một quan chức cấp cao Iran cho hay, chiếc máy bay đã bắt lửa trên không sau khi gặp trục trặc kỹ thuật. >> Video: Máy bay Iran chở gần 170 người tan xác trên mặt đất Hiện trường chiếc máy bay gặp nạn. Trong vụ tai nạn tồi tệ nhất Iran suốt 6 năm qua, chiếc máy bay của hãng hàng không Caspian Airlines đã lao xuống cánh đồng cùng với 153 hành khách và 15 thành viên phi hành đoàn, tạo ra một hố sâu, rộng mù mịt khói trên mặt đất. Chiếc máy bay, đang đi từ Tehran tới thủ đô Yerevan của Armenia, đã đâm xuống đất gần thành phố Qazvin, tây bắc Iran trưa ngày 15/7, sau khi cất cánh được khoảng 16 phút. Một mảnh vỡ của máy bay. “Đây là một vụ tai nạn khủng khiếp, các mảnh vụn của máy bay trải rộng trên một diện tích 200m2”, một quan chức cứu hỏa cho hay. “Đã có một vụ nổ lớn, để lại một hố lớn sâu tới 10m trên mặt đất. Chúng tôi không thể giúp được gì nữa. Chúng tôi chỉ cố gắng dập lửa càng nhanh càng tốt”, quan chức này nói trên đài truyền hình quốc gia.Nhiều nhân vật quan trọng trên chiếc máy bay gặp nạn Arsen Pogosian, phó chủ tịch cơ quan hàng không dân dụng của Armenia cho hay hầu hết hành khách trên máy bay là người Iran, với nhiều người thuộc cộng đồng người Armenia. Ngoài ra, có 6 công dân Armenia, 2 người Gruzia. 2 người Gruzia gồm một người là quan chức sứ quán Gruzia tại thủ đô Yerevan của Armenia; trong khi người kia là vợ của đại diện ngoại giao của Gruzia tại Tehran, Gocha Gvaramadze. Phần còn lại của đuôi máy bay. Trong số những người trên máy bay còn có 8 thành viên của đội tuyển võ judo quốc gia Iran và 2 huấn luyện viên. Ngoài ra còn có một cựu nghị sỹ đại diện cho cộng đồng người Armenia ở Iran.Hãng hàng không Caspian Airline cho hay, khoảng 20-25 hành khách trên máy bay là người Armenia. Tại Iran có khoảng 100.000 người dân tộc Armenia sinh sống. Rất nhiều người Armenia thường xuyên bay đi về giữa Tehran và Yerevan để thăm người thân ở Armenia. Tại hiện trường người ta cũng tìm thấy tấm card của một người Nhật, hãng thông tấn IRNA cho hay. Mảnh vỡ được cho là một phần cánh máy bay. Những người thân, bạn bè mắt ngấn lệ đã tới sân bay Yerevan để đọc bảng liệt kê danh sách những người trên máy bay. Iran là nhà của hàng ngàn người dân tộc Armenia. Các bác sỹ phải điều trị cho rất nhiều người thân của các nạn nhân bị sốc và bị đau tim.Fina Karapetian, một người Armenia trong độ tuổi 30, cho biết chị gái cô cùng 2 cháu trai, một 11 tuổi và một 6 tuổi, đã ở trên chiếc máy bay gặp nạn. “Tôi nghe mọi người nói là tất cả đều đã chết. Tôi sẽ làm được gì nếu không có Armen and Vahe”, cô nói trước khi ngất đi. “Chiếc máy bay Tupolev đã bị phá hủy hoàn toàn và các thi thể, thật đáng buồn, cũng bị cháy rụi”, chỉ huy cảnh sát thành phố Qazvin, ông Massoud Jafarinasab, cho biết trên hãng thông tấn bán chính thức Fars của Iran. Đài truyền hình Iran cho thấy các mảnh vỡ và các mảnh thi thế cùng một chiếc hố sâu rộng, mịt mù khói với các mảnh kim loại rải rác khắp nơi. Khói bốc lên từ hiện trường trong khi cảnh sát và những người khác đứng quanh. “Máy bay bốc cháy trên không” Vụ tai nạn đã để lại một hố rộng và sâu tới 10m trên mặt đất Quan chức cấp cao của tỉnh Sirous Saberi cho hay chiếc máy bay đã gặp trục trặc kỹ thuật và đã cố gắng hạ cánh khẩn cấp. “Nhưng rất tiếc nó đã bốc cháy trong không trung và đâm xuống”, ông cho biết trên hãng thông tấn Fars. Một nhân chứng cho biết trên đài truyền hình quốc gia IRIB rằng đã nhìn thấy động cơ bên trái của máy bay bốc cháy trên không trung. Tuy nhiên, đài phát thanh quốc gia Iran lại khẳng định phi công không hề nhắc đến trục trặc kỹ thuật nào trong đoạn hội thoại đã được ghi âm lại với trạm điều khiển không lưu. “Trên máy bay có 151 người lớn, 2 trẻ em và 15 thành viên phi hành đoàn”, đại diện của hãng hàng không Caspian Airline cho hay. Mảnh vỡ và các mảnh thi thể rải khắp một diện tích 200m2. “15 hoặc 16 phút sau khi cất cánh, máy bay đã bị rơi gần thành phố Qazvin, cách bắc Tehran khoảng 150km”. Ông cũng cho biết thêm chiếc máy bay gặp nạn là chiếc Tu-154 và nguyên nhân của vụ tai nạn vẫn chưa được sáng tỏ. Hộp đen của máy bay cũng chưa được tìm thấy. “Máy bay Iran cũ kỹ do bị Mỹ cấm vận” Theo các chuyên gia an toàn hàng không, vài thập kỷ trở lại đây, Iran đã phải trải qua rất nhiều vụ tai nạn máy bay thảm khốc, mà không ít liên quan đến máy bay do Nga sản xuất. Do Mỹ áp đặt lệnh cấm vận Iran, ngăn không cho nước này mua các máy bay hoặc bộ phận máy bay mới của phương Tây, buộc họ phải bổ sung vào đội máy bay Boeing và Airbus “già cỗi” bằng các máy bay có từ thời Liên Xô cũ. Các nhân viên cứu hộ đã không giúp được gì nhiều ngoài dập lửa. Đây là vụ tai nạn máy bay thảm khốc thứ ba liên quan đến một chiếc Tupolev Tu-154 tại Iran kể từ năm 2002 và là vụ tai nạn thảm khốc nhất kể từ năm 2003, khi một chiếc Ilyushin Il-76, cũng Liên Xô sản xuất, đã bị đâm ở vùng núi Iran.Tháng 6/2006, 29 người đã thiệt mạng khi chiếc máy bay chở khách Air Tour Tupolev 154 bốc cháy lúc hạ cánh ở thành phố Mashhad, đông bắc Iran. Năm 2002, toàn bộ 118 người trên chiếc Air Tours Tupolev 154 khác thiệt mạng khi máy bay gặp tai nạn gần thành phố miền tây Khorramabad. Tháng 2/2003, một chiếc máy bay chở binh sỹ Ilyushin-76 bị đâm ở đông nam Iran, khiến toàn bộ 276 binh sỹ thuộc Lực lượng vệ binh Cách mạng Iran và phi hành đoàn thiệt mạng. Hãng hàng không Caspian Airlines thành lập vào năm 1993, có trụ sở tại Tehran. Đội máy bay toàn là loại Tupolev của họ kết nối các thành phố ở Iran và các tuyến đường tới Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Ukraine và Armenia. Phan Anh Theo Reuters Thứ Năm, 16/07/2009 - 8:56 AM[/b] Các hộp đen của máy bay Iran “đã bị hỏng” (Dân trí) - Giới chức Iran cho hay họ đã tìm thấy các hộp đen của chiếc máy bay Caspian Airlines gặp nạn ở miền bắc đất nước, khiến toàn bộ 168 người trên khoang thiệt mạng. Tuy nhiên chúng đã bị hư hỏng nặng. Một nhân viên cứu hộ đang di chuyển cánh quạt động cơ máy bay gặp nạn. Các nhà điều tra đã tìm được các máy ghi dữ liệu của chuyến bay, hay các hộp đen, lẫn trong các mảnh vụn kim loại cùng các mảnh thi thể. Các mảnh vỡ trải trên một diện tích rộng ở cánh đồng thuộc tỉnh Qazvin, cách tây bắc Tehran khoảng 120km. Farsi Majidi, người đứng đầu ủy ban điều tra cho biết trên TV News của hãng thông tấn AP rằng: “Ơn trời, chúng tôi đã tìm thấy 2 trong số 3 hộp ghi dữ liệu của chuyến bay, hay các hộp đen”. Và “mặc dù chúng đã bị hỏng, nhưng chúng tôi vẫn hi vọng có thể lấy được thông tin từ các hộp đen này”. Máy bay lao xuống đất, phát nổ, để lại một hố sâu tới 10m. Chiếc máy bay khi đó đang bay từ thủ đô Iran tới thủ đô Yerevan của Armenia. Các nhân chứng cho hay chiếc máy bay 22 năm tuổi của Nga, với 153 hành khách và 15 thành viên phi hành đoàn đã lao từ trên không trung, cắm mũi xuống đất, với phần đuôi bốc cháy. Chiếc máy bay mang số hiệu 7908 gặp nạn chỉ 16 phút sau khi cất cánh từ sân bay quốc tế Imam Khomeini ở Tehran. “Rất nhiều đầu, ngón tay và hộ chiếu” Các đội cứu hộ đã rà soát và nhặt nhạnh trong một khu vực rộng 200m, trên cánh đồng ở làng Jannatabad. Khi lao xuống, chiếc máy bay tạo ra một miệng hố lớn, mù mịt khói. Mostafa Babashahverdi, một nông dân địa phương, cho biết trên hãng thông tấn Reuters rằng: “Chúng tôi tìm thấy rất nhiều đầu, ngón tay bị rời ra và cả hộ chiếu của các hành khách”. Thi thể nạn nhân được đưa ra khỏi hiện trường. Các nhân chứng cho hay chiếc máy bay Tu-154 đã bay lượn vòng một lúc để tìm chỗ hạ cánh khẩn cấp. Một người đàn ông miêu tả nó đã nổ tung khi lao xuống đất. “Tôi nhìn thấy chiếc máy bay cắm mũi xuống. Nó đâm xuống đất, tạo ra một tiếng nổ lớn. Vụ va chạm đã làm rung chuyển mặt đất giống như xảy ra một trận động đất”, Ali Akbar Hashemi cho biết trên hãng thông tấn AP. Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad đã gửi lời chia buồn tới các gia đình bị nạn và yêu cầu bộ giao thông tiến hành điều tra vụ việc. Phan Anh Theo BBC Nguồn dantri.com.vn
  24. Thứ Tư, 15/07/2009 - 4:22 PM Đâm máy bay tại Iran, 169 người có thể đã chết (Dân trí) - Một chiếc máy bay chở khách trưa ngày 15/7 đã bị đâm ở tây bắc Iran và 169 người trên khoang có thể đã thiệt mạng, hãng thông tấn ISNA cho hay. “Có 153 hành khách cùng với 16 thành viên phi hành đoàn trên máy bay bị đâm”, ISNA cho biết nhưng không trích dẫn nguồn tin. Trước đó đài truyền hình quốc gia Iran cho biết toàn bộ 150 người trên máy bay đã thiệt mạng. Khi gặp nạn, chiếc máy bay loại Tupolev thuộc hãng hàng không Caspian Airlines của Iran đang trên đường từ Tehran tới thủ đô Yerevan của Armemia. Chiếc máy bay đã bị đâm ở gần thành phố Qazvin, tây bắc Iran vào 11h33 sáng nay, 15/7. Giám đốc cơ quan cấp cứu của Qazvin Hossein Bahzadpour cho hay trên hãng thông tấn IRNA rằng chiếc máy bay đã bị phá hủy hoàn toàn và các mảnh vỡ bị thiêu rụi trong lửa. Ông này cho biết tất cả mọi người trên khoang có thể đã chết. Truyền hình bằng tiếng Anh Press TV của Iran cho biết trong dòng tít chạy trên màn hình là: "150 người trên chiếc máy bay gặp nạn của Iran được cho là đã chết”. IRNA dẫn lời người phát ngôn của hàng không Iran cho biết một chiếc máy bay đã bị đâm 16 phút sau khi cất cánh từ sân bay quốc tế Imam Khomeini ở thủ đô Tehran. Phan Anh Theo AP Nguồn : dantri.com.vn
  25. Kính thưa Thầy! Sau đây là định nghĩa Xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) được giải thích trong Quy chế kèm theo quyết định số: 307/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì XTNĐ là vùng gió xoáy, đường kính có thể tới hàng trăm km, hình thành trên biển nhiệt đới, gió thổi xoáy vào trung tâm theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, áp suất khí quyển (khí áp) trong xoáy thuận nhiệt đới thấp hơn xung quanh, có mưa, đôi khi kèm theo dông, tố, lốc-theo điều 2 khoản 1). Nó bao gồm áp thấp nhiệt đới (Áp thấp nhiệt đới là một xoáy thuận nhiệt đới có sức gió mạnh nhất từ cấp 6 đến cấp 7 và có thể có gió giật - theo điều 2 khoản 5) và bão (nhiệt đới) (Bão là một xoáy thuận nhiệt đới có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 trở lên và có thể có gió giật. Bão từ cấp 10 đến cấp 11 được gọi là bão mạnh; từ cấp 12 trở lên được gọi là bão rất mạnh - theo điều 2 khoản 6). Quy chế này rất chắc chắn là của Tổng cục Khí tượng thủy văn trình lên Thủ tướng. Ngoài định nghĩa theo quy chế ở nước ta theo quy ước quốc tế thì: Gọi là xoáy thuận vì nó xoay tròn theo hướng tự quay của Trái Đất. Xoáy thuận (cyclone) không phải chỉ có mỗi bão, chẳng hạn còn có áp thấp khi cấp gió không đủ để gọi là bão, nó được phát triển từ các khu vực có áp suất thấp với lõi nóng. Đối với xoáy ngược (anticyclone) thì nói chung khó xuất hiện ở khu vực nhiệt đới mà chỉ có thể ở vùng áp cao với lõi lạnh và thời tiết lạnh, như ở vùng ôn đới hay hàn đới. Kính.