thanhdc
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
420 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
1
thanhdc last won the day on Tháng 10 19 2018
thanhdc had the most liked content!
Danh tiếng Cộng đồng
79 ExcellentAbout thanhdc
-
Rank
Hội viên mới
- Birthday 06/02/1979
Contact Methods
-
Website URL
http://
-
Yahoo
thanhdc0602
Xem hồ sơ gần đây
2.414 lượt xem hồ sơ
-
7 kỳ quan thế giới cổ đại: Duy nhất một nơi còn nguyên vẹn nhưng chứa đựng nhiều bí ẩn chưa được khám phá Anh Việt | 05-10-2019 - 20:45 PM 7 kỳ quan thế giới cổ đại từng được xem như những công trình vĩ đại bậc nhất của thế giới cách đây hàng nghìn năm, nhưng chỉ có một công trình duy nhất còn tồn tại tới ngày nay, vốn ẩn chứa rất nhiều bí mật chưa được giải mã Khi nhà văn Hi Lạp Antipater chìm đắm trong kho tàng nghiên cứu các công trình cổ đại, ông đã lập ra một danh sách bao gồm 7 công trình vĩ đại nhất dựa trên tầm hiểu biết của người Địa Trung Hải lúc bấy giờ. Danh sách của Antipater trở nên nổi tiếng và được công nhận ở nhiều nơi tại Châu Âu ngày nay. Theo đó, kim tự tháp Giza, vườn treo Babylon, tượng thần Zeus Olympia, đền Artemis, lăng mộ của Mausolus, tượng thần Mặt Trời Helios ở Rhodes và hải đăng Alexandria chính là 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Cho tới ngày nay, chỉ còn sót lại duy nhất quần thể lăng mộ kim tự tháp Giza tại Ai Cập. Đây cũng là công trình ẩn chứa nhiều bí ẩn nhất trong số 7 kỳ quan thế giới cổ đại. 6 kỳ quan được tái hiện bằng hình vẽ, chỉ riêng khu lăng mộ Giza còn tồn tại tới ngày nay. Thiết kế không tưởng của quần thể kim tự tháp Giza Giza không phải là một kim tự tháp riêng biệt. Thay vào đó, đây là một quần thể lăng mộ với 3 kim tự tháp lớn, tượng Đại Nhân Sư khổng lồ và một số công trình vệ tinh khác. Vốn dĩ các kim tự tháp được xây dựng làm lăng mộ, nơi chôn cất cho pharaoh Cheops và gia đình hoàng gia. Thời gian trôi qua, giới quý tộc thuộc các triều đại Ai Cập đã xây dựng thêm những công trình và khu lăng mộ nhỏ hơn ngay trong diện tích của khu vực Giza. Các nhà khoa học vẫn chưa thể lý giải vì sao người Ai Cập cổ xây dựng được Giza Các kim tự tháp ban đầu, tiêu biểu là đại kim tự tháp Cheops chứa đựng rất nhiều bí ẩn trong cách thức xây dựng. Thiết kế của nó khiến cả những kiến trúc sư tài năng nhất hiện nay cũng phải kinh ngạc. Các khối đá chục tấn được mài nhẵn xếp khít với nhau lên tới độ cao hàng trăm mét. Cấu trúc kín tới độ một sợi tóc cũng không thể lách qua các khe giữa những khối đá. Với đặc điểm cấu trúc như vậy, dù ở ngay trên sa mạc nóng bức nhưng nhiệt độ bên trong kim tự tháp Cheops vẫn luôn được duy trì ở mức 20 độ C. Các đồ vật có thể được bảo quản rất lâu bên trong môi trường đặc biệt này. Các nhà khảo sát đã từng thử đặt sữa tươi, rau quả tươi vào bên trong kim tự tháp Cheops. Sau thời gian một tháng, màu sắc, mùi vị của chúng hoàn toàn không hề thay đổi. Có thể nói, kim tự tháp đã được xây dựng hoàn hảo cho mục đích chôn giữ xác của gia đình hoàng gia Ai Cập. Tượng Đại Nhân Sư và kim tự tháp Cheops. Không chỉ các nhà khảo cổ, các kiến trúc sư, các nhà toán học, vật lý học, thiên văn học cũng phải cúi đầu thán phục trước thiết kế bí ẩn của đại kim tự tháp. Quần thể kiến trúc khổng lồ này được đặt ở vị trí trung tâm của Trái Đất, chính là giao điểm của đường kinh tuyến và vĩ tuyến dài nhất (đường xích đạo) thế giới. Bên cạnh đó, một giả thiết khác về đại kim tự tháp vẫn còn gây tranh cãi tới ngày nay. Sử dụng phần mềm máy tính, 2 nhà khoa học Robert Bauval và Adrian Gilbert từng quay ngược bầu trời Trái Đất về thời cổ đại và nhận thấy sự trùng khớp của hình ảnh các kim tự tháp với hình ảnh chòm sao Orion. Ở thời điểm 10450 năm trước Công Nguyên, mỗi kim tự tháp thuộc quần thể Giza đều có đỉnh chóp chiếu thẳng vào một ngôi sao trên bầu trời. Các nhà khoa học vẫn chưa thể lý giải vì sao người Ai Cập cổ xây dựng được Giza Di tích quần thể Giza được cho là lí do dẫn tới sự mở rộng thành thị của người Ai Cập xuyên suốt từ thời cổ đại tới thời hiện đại. Ngày nay, với vị thế như kỳ quan cổ đại duy nhất còn tồn tại, quần thể Giza đã thu hút vô số người tới đây nhìn ngắm, thám hiểm, nghiên cứu và làm ăn. Cấu trúc bên trong kim tự tháp Ban đầu, di tích được xác định nằm tại một nơi xa xôi trong sa mạc để né tránh sự quấy nhiễu. Nhưng tới thập niên 1990, đô thị và các tuyến đường đã dần lan thẳng tới khu lăng mộ. Thủ đô Cairo Ai Cập giờ đây chỉ còn cách công trình cổ vĩ đại này chưa tới 14 km. Những người tới chiêm ngưỡng các kim tự tháp và tượng Đại Nhân Sư ngày nay sẽ choáng ngợp trước sự khổng lồ của các công trình, nhưng phần lớn không biết rằng nơi đây thuở xa xưa thực sự mang vẻ đẹp lộng lẫy. Các phiến đá tạo nên kim tự tháp nặng từ 2 tới 50 tấn được đẽo gọt vuông vức, nhẵn bóng và phủ bên ngoài một lớp đá vôi. Bề mặt đá vôi khi tiếp xúc với ánh sáng từ Mặt Trời hay Mặt Trăng đã tỏa ra ánh sách huyền ảo, tạo nên khung cảnh kỳ vĩ hiếm thấy trên sa mạc nóng bỏng. Ở thuở ban đầu, khu vực kim tự tháp Giza từng được bao trùm bởi những luồng ánh sách kỳ ảo. Con người hiện đại ngày càng không tin vào cách giải thích truyền thống về việc xây dựng các kim tự tháp khổng lồ. Giả thuyết phổ biến nhất là các Pharaoh cổ đại đã bóc lột cùng cực sức lao động của nô lệ. Giới cai trị đã sử dụng các kỹ thuật khác nhau để vận chuyển các khối đá từ 2 tấn đến 50 tấn từ các mỏ đá xa tận 800 km dọc theo sông Nile và các kênh đào nhân tạo đến cao nguyên Giza trước khi chạm khắc, tạo hình, mài nhẵn bề mặt rồi xếp chồng chúng lên nhau tới độ cao 146,5m. Giải thích trên thật khó để được các nhà khoa học thời nay chấp nhận. Theo một tính toán cho thấy, để xây dựng được một trong ba kim tự tháp lớn phải cần tới 10 vạn nhân lực làm việc liên tục 24 giờ mỗi ngày trong vòng 200 năm. Và để xây dựng được toàn bộ quần thể công trình, các pharaoh phải chờ tới khoảng 800 năm. Trong khi đó, các pharaoh luôn muốn các công trình phải được hoàn thành ngay trong triều đại của mình. Chưa kể tới các tính toán thiết kế không chút sai sót mà ngay cả sức người ngày nay cũng khó có thể thực hiện được. Tổng hợp Nguồn Tri Thức Trẻ
-
Bí ẩn con dao găm 3.000 năm không hề gỉ sét, có lẽ người Ai Cập cổ đại đã sử dụng "vàng" của người ngoài hành tinh Đức Khương | 31-08-2019 - 19:48 PM Theo Tri Thức Trẻ Con dao găm này được tìm thấy trong lăng mộ của Pharaoh Tutankhamun có niên đại hơn 3.000 năm và được cho là được làm từ những chất liệu bên ngoài trái đất. Vào thời đại của các Pharaoh, sự hiểu biết về sắt, thép cũng như các kĩ thuật rèn, đúc những kim loại này vẫn còn rất hạn chế do chúng yêu cầu có những lò nung đặc biệt với nhiệt độ cao, bởi vậy những dụng cụ kim loại được tìm thấy trong quá trình khai quật chủ yếu là đồ đồng. Và hiển nhiên, chúng sẽ bị oxy hóa và gỉ sét theo thời gian. Tuy nhiên, khi khai quật lăng mộ của vua Tutankhamun (Tut), các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra một con dao găm hoàn toàn khác biệt so với những chiếc còn lại, dù đã trải qua hơn 3.000 năm, nhưng nó lại hoàn toàn không hề bị gỉ sét. Năm 1922, nhà khảo cổ người Anh Howard Carter và các cộng sự khám phá hầm mộ của Pharaoh Ai Cập Tutankhamun, sống ở triều đại thứ 18 (1332-1323 trước Công nguyên). Xác ướp Pharaoh Tutankhamun được phát hiện còn nguyên vẹn, phủ đầy trang sức, bùa hộ mệnh và còn có cả một con dao găm với phần lưỡi làm từ sắt. Điều này đã đặt một dấu chấm hỏi lớn về việc con dao găm này bắt nguồn từ đâu bởi chất lượng tuyệt của nó bên cạnh những hoa văn được chế tác hết sức tinh xảo có lẽ không thể đến từ những thợ thủ lông luyện kim thời điểm đó (thời kì đồ đồng). Con dao này cũng đã đặt ra rất nhiều nghi vấn về sự tồn tài của người ngoài hành tinh và làm thế nào người Ai Cập cổ đại có thể tạo ra khi khi ở thời đồ đồng, công nghệ chế tạo đồ sắt vẫn chưa có. Phân tích mẫu dao găm, các nhà nghiên cứu nhận thấy có nhiều thành phần không tồn tại trên Trái đất, và rất có thể đây là lí do tại sao con dao găm này vẫn không hề bị gỉ sét sau hơn 3.000 năm. Nhà khảo cổ Mark Altaweel đặt nghi vấn rằng: "Pharaoh Tutankhamun đã lấy sắt như thế nào khi sắt về cơ bản không tồn tại? Chất lượng của con dao găm này rất tuyệt vời". Nhà khảo cổ Hendrik van Gijseghem cho rằng không ai trên thế giới có khả năng tạo ra sắt vào thời kỳ đồ đồng. Loại sắt dùng để làm chiếc dao găm cũng không được con người khai thác. Máy phân tích di động có thể phát hiện thành phần hóa học của các vật thể bằng tia X. Vào năm 2016, một nghiên cứu sử dụng quang phổ huỳnh quang tia X (XRF) và phát hiện ra rằng chất liệu để làm ra con dao găm trong lăng mộ của vua Tut là một chất liệu sắt hoàn toàn không thuộc về trái đất. Nhóm nghiên cứu này cũng xác định rằng dao găm của Tutankhamun được làm bằng sắt chứa gần 11% niken và coban - kim loại màu trắng bạc có từ tính cực mạnh, coban và niken là hai thành phần đặc trưng trong thép thiên thạch rơi xuống trái đất trong hàng tỷ năm qua. Các nhà khoa học cho rằng những thợ thủ công Ai Cập cổ đã thu thập chúng sau những cơn mưa sao băng, và có lẽ chúng được nung nóng nhờ vào quá trình rơi từ ngoài không gian chứ không phải qua những lò rèn thời điểm bấy giờ. Nhà luyện kim Albert Jambon quét một thiên thạch sắt bằng máy phân tích quang phổ huỳnh quang tia X (XRF) di động. Ngoài ngôi mộ của Pharaoh Tutankhamun, các nhà khoa học còn tìm thấy nhiều loại vũ khí khác được làm từ sắt thiên thạch trong các khu lăng mộ khác trên thế giới như chiếc rìu từ Ugarit trên bờ biển phía bắc Syria, có niên đại 1400 trước Công nguyên; một con dao găm từ Alaça Hoyuk ở Thổ Nhĩ Kỳ, có niên đại 2500 trước Công nguyên...tất cả chúng đều có lịch sử ra đời trong thời đại đồ đồng - khi mà chưa có kĩ thuật luyện kim sắt trên thế giới. Chiếc rìu sắt từ Ugarit trên bờ biển phía bắc Syria có niên đại từ năm 1500 trước Công nguyên, khoảng 300 năm trước khi phát minh ra sắt luyện kim. Con dao găm sắt từ dao găm từ Alaça Höyük ở Thổ Nhĩ Kỳ có niên đại từ năm 2500 trước Công nguyên - khoảng 1.000 năm trước khi kĩ thuật luyện gang được phát minh.
-
Văn tự trong đỉnh đồng xanh 2.000 năm thời Tây Chu Trung Quốc Chế độ đất đai cùng hệ thống quan chức thời Tây Chu khắc bên trong đỉnh đồng xanh quý hiếm, được ghi bằng 290 chữ. https://vnexpress.net/khoa-hoc/van-tu-trong-dinh-dong-xanh-2-000-nam-thoi-tay-chu-trung-quoc-3952712.html
-
Công bố quốc tế về giải trình tự gene người Việt Thứ tư, 10/7/2019, 15:56 (GMT+7) Nghiên cứu cho thấy sự độc lập về mặt di truyền phản ánh sức đề kháng rất cao của người Việt và khác xa hệ gene của người Hán. GS Vũ Hà Văn: 'Việt Nam sẽ có công bố quốc tế về gene người' Các nhà nghiên cứu phát hiện 25 triệu biến dị sau khi giải trình tự gene ở người Kinh. Ảnh: DNAtix. Công trình nghiên cứu về bộ gene người Việt do các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Vinmec về Công nghệ tế bào gốc và gene thực hiện vừa công bố trên tạp chí di truyền quốc tế Human mutation. Các phân tích gene của nhóm nghiên cứu cho thấy người Kinh và các dân tộc khác ở Đông Nam Á có cùng tổ tiên. Kết quả từ các phân tích gene khác nhau đều thống nhất và củng cố giả thuyết người dân di cư từ châu Phi sang châu Á theo lộ trình từ phương Nam đến phương Bắc thay vì từ phương Bắc xuống Nam. Các dữ liệu cũng cho thấy người Kinh và người Thái có cấu trúc hệ gene tương tự nhau và quan hệ tiến hóa gần gũi. Nhóm nghiên cứu đã lấy mẫu máu và giải trình tự toàn bộ hệ gene và vùng gene của 305 người Kinh, kết hợp với dữ liệu gene của 101 người đã công bố trước kia, phát hiện 25 triệu biến dị, trong đó hơn 99% biến dị có tần suất lặp lại trên 1%. Nghiên cứu cũng hé lộ một số lượng lớn biến dị gọi là đột biến bệnh lý và cho thấy sự độc lập về mặt di truyền phản ánh sức đề kháng rất cao của người Việt, khác xa hệ gene của người Hán. Điều này có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở tham chiếu cho nhiều nghiên cứu Y - Sinh tiếp theo về sức khỏe người Việt có liên quan đến hệ gene. Theo nhóm nghiên cứu, các biến dị cấu trúc trong dân số người Kinh tuy đóng vai trò thiết yếu trong nghiên cứu hệ gene nhưng đã không được thực hiện trong đề tài này. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu những phương pháp khác như phép lai di truyền so sánh vi mô để xây dựng cơ sở dữ liệu biến dị cấu trúc cho người Kinh và dân cư Đông Nam Á. Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu nghiên cứu tại đây An Khang Nguồn: Báo Vnexpress ============= Bằng chứng khoa học về người Việt là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương.
-
Tìm hiểu phong tục, văn hoá của tộc người Việt cổ ở Indonesia 31/08/2018 07:21 TĐO-Truyền thông quốc tế tán thành giả thuyết bộ tộc người Minangkabau sinh sống phía tây đảo Sumatra (Indonesia) có nguồn gốc từ Việt Nam. Giả thuyết lịch sử cho rằng sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, một bộ phận người Việt đã lên thuyền ra khơi đến eo biển Malacca, sau đó định cư tại phía tây đảo Sumatra, Indonesia. Cũng từ đó, dân tộc người Minangkabau sống tại quốc đảo này cho đến ngày nay. Theo The Daily Beast, từ lâu đời, tộc người Minangkabau theo chế độ thị tộc mẫu hệ như người Việt cổ. Người Minangkabau phần lớn theo đạo Hồi nhưng tín ngưỡng của họ là thuyết vật linh. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn. Thuyết này cũng là tín ngưỡng đầu tiên của người Việt cổ trước khi các đạo khác du nhập vào đất nước. Tộc Minangkabau có những điệu nhảy và bản nhạc truyền thống mà họ luôn tự hào như điệu múa nến kinh điển. Nhắc đến đạo Hồi, nhiều người thường nghĩ đến các chế độ hà khắc và số phận nhỏ bé của người phụ nữ. Nhưng với tộc người Minangkabau, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và xã hội đặc biệt hơn cả. Đến đảo Sumatra, nếu hỏi người dân chắc chắn du khách sẽ nhận được câu trả lời: “Phụ nữ là chủ gia đình”. Theo đó, phụ nữ và nam giới trong gia đình chia sẻ quyền lực và tuân thủ nguyên tắc giữ trọn vẹn trách nhiệm, bảo vệ lẫn nhau trong xã hội. Người dân Minangkabau sinh sống bằng nghề trồng lúa nước với tục ăn trầu, nhuộm răng từ lâu đời. Họ còn có những nét văn hoá khác gần gũi với người Việt. Ảnh tư liệu về phụ nữ tộc Minangkabau thời xa xưa tại Indonesia. Phụ nữ cũng giữ trách nhiệm sở hữu mọi tài sản trong gia đình tộc Minangkabau. Cụ thể, đất đai, nhà ở, trại chăn nuôi… đều phải truyền từ mẹ sang con gái. Người cha trong gia đình có thể chuyển tài sản thừa kế cho con trai bằng thu nhập từ công việc kinh doanh của họ. Lễ cưới truyền thống của các cặp đôi Minangkabau. Mọi nghi thức, lễ hội quan trọng đều do phụ nữ chủ trì như lễ nhậm chức lãnh đạo trong gia tộc, đám cưới, thu hoạch mùa màng… Đám cưới của các cặp đôi Minangkabau được tổ chức, trang hoàng lộng lẫy với lễ phục truyền thống. Người Minangkabau trong trang phục truyền thống cổ đã sinh sống tại Indonesia từ lâu đời. Đàn ông và phụ nữ tộc người Minangkabau có những khái niệm bình đẳng như các xã hội khác. Dù căng thẳng có thể xảy ra đôi lúc, vị trí người phụ nữ vẫn được tôn trọng bởi toàn thể cộng đồng. Phụ nữ có thể tự do báo cáo, lên án mọi hành động bạo lực về tinh thần hay thể xác trong gia đình mình. Phụ nữ tộc Minangkabau được tôn vinh và giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Khi một cặp vợ chồng kết hôn, chú rể sẽ chuyển đến sinh sống tại nhà cô dâu. Mọi quyết định trong gia đình đều được cân nhắc giữa ý kiến của cả vợ và chồng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, phụ nữ nắm quyền quyết định chính trong các vấn đề liên quan đến hoạt động gia đình, thu chi, mua sắm và giáo dục trẻ em… “Phụ nữ là mối liên hệ quan trọng của hiện tại và quá khứ. Nếu gặp một phụ nữ người Minangkabau đang mang thai, mọi người đều thực sự hy vọng cô ấy sẽ cho ra đời một bé gái đầu lòng”, cựu giáo sư Taufil Abdullah, chủ tịch Uỷ ban Khoa học Xã hội tại Học viện Khoa học Indonesia chia sẻ. Phụ nữ có vị trí quan trọng với tộc người Minangkabau. Ngôi nhà truyền thống của người Minangkabau với tên gọi Rumah Gadang sở hữu kết cấu đặc biệt, có mái cong vút như mái chùa cổ Việt Nam. Mái nhà được làm từ gỗ surian địa phương với cấu trúc hình vòm, cong vút như chiếc sừng trâu. Những bức tường dệt bằng tre là biểu tượng phong cách xây dựng nhà truyền thống của người Minangkabau. Kiến trúc bề thế đặc biệt của ngôi nhà này không chỉ giúp tộc người Minangkabau có nơi cư trú mà còn là không gian phục vụ các cuộc họp, nghi lễ trang trọng. Ngôi nhà truyền thống Rumah Gadang. N.H Tổng hợp từ báo chí nước ngoài Nguồn: Báo Thời Đại
-
Giải mã phiến đất sét tiết lộ hiểu biết phi thường của người Babylon BILLVN , THEO THỜI ĐẠI 14 GIỜ TRƯỚC Hóa ra người Babylon đã nghiên cứu lượng giác đến cảnh giới thượng thừa trước người Hy Lạp cổ đại đến 1.500 năm. Các nhà khoa học Úc đã tìm cách giải mã mã của một phiến đất sét 3.700 năm tuổi bí ẩn của người Babylon. Kết quả tiết lộ khả năng toán học trước thời đại của người Hi Lạp cổ đại đến 1.500 năm. Phiến đất sét Babylon này được gọi là Plimpton 322 – đây là bảng lượng giác lâu đời nhất và chính xác nhất theo kết quả nghiên cứu được công bố trong tuần này ở Historia Mathematica. Các nhà nghiên cứu tại Đại học New South Wales, Sydney nói rằng phiến đất sét này có thể đã được các nhà toán học sử dụng để tính toán góc khi thiết kế cung điện, đền, kim tự tháp và kênh. Khám phá này cho thấy những người Babylon cổ đại - chứ không phải người Hy Lạp - là người đầu tiên nghiên cứu lượng giác, nghiên cứu toán học về hình tam giác. Plimpton 322 được phát hiện vào đầu những năm 1900 ở miền nam Iraq bởi nhà khảo cổ học nổi tiếng Edgar Banks – nhân vật làm nguồn cảm hứng cho tác phẩm Indiana Jones. Có niên đại từ năm 1822 đến năm 1762 trước Công Nguyên, phiến đất sét này có khả năng bắt nguồn từ thành phố Larsa cổ đại của người Sumer. Phân tích từ nội dung của nó cho thấy người Babylon cổ đại biết về Định lý Pythagore từ lâu (trước cả thời đại của người Hy Lạp cổ đại) nhưng mục đích tạo ra phiến đất sét này vẫn còn là một bí ẩn. Current Time1:55 / Duration2:07 Auto Video về chiếc "tablet" cổ xưa nhất thế giới Một lý thuyết được nhiều người ủng hộ cho rằng đây là một học cụ dùng để giảng dạy và kiểm tra các phương trình bậc 2. Tuy nhiên, nghiên cứu mới được tiến hành bởi các nhà khoa học Daniel Mansfield và Norman Wildberger xác nhận các dấu hiệu trên bảng như là một bảng lượng giác. Sau khi tiến hành phân tích lịch sử về mục đích của chiếc phiến đất sét đặc biệt này, Mansfield và Wildberger đã xem xét kỹ hơn nó và các chữ khắc trên đó. Plimpton 322 có 4 cột và 15 hàng số. Quan trọng hơn, văn bản này được viết trong một hệ thống đánh số (hệ 60), còn được gọi là hệ thống giới tính (nó giống như phân chia 1 phút trên đồng hồ analog). 15 hàng của nó mô tả một chuỗi gồm 15 hình tam giác vuông góc, giảm đều theo độ nghiêng. Ngoài ra, cạnh trái của máy tính bảng bị hỏng, có nghĩa là các bộ phận của Plimpton 322 bị thiếu. Current Time0:01 / Duration0:02 Auto Plimpton 322 Dựa trên nghiên cứu trước đây, Mansfield và Wildberger thấy rằng có 2 cột và 23 hàng bị thiếu – phiến đất sét ban đầu chứa 6 cột và 38 hàng. Phiến đất sét chứa một mẫu đặc biệt của các con số được gọi là bộ ba Pythagore. Điều này gợi ý rằng Plimpton 322 mô tả các hình dạng của các hình tam giác vuông bằng cách sử dụng một dạng lượng giác mới dựa trên tỷ số, chứ không phải là các góc hoặc hình tròn. Do đó, người ghi chép có thể sử dụng bảng để thực hiện nhiệm vụ phức tạp của việc tạo ra và phân loại các con số trên phiến, họ có thể lấy một tỷ lệ đã biết của các cạnh của tam giác vuông để xác định hai tỷ lệ chưa biết khác. Mansfield cho biết: "Không có gì nghi ngờ đây là một công trình toán học hấp dẫn thể hiện sự thiên tài". Thật là điên rồ, Plimpton 322 không chỉ là bảng lượng giác lâu đời nhất mà các nhà nghiên cứu nói đó là bảng chính xác nhất trong lịch sử. Và như đã nói, nó cũng viết lại lịch sử. Nhà thiên văn học Hy Lạp Hipparchus, sống khoảng 120 TCN, thường được coi là cha đẻ của lượng giác nhưng công trình nghiên cứu này có thể thay đổi nhận thức của nhân loại. Wildberger nói: "Plimpton 322 có trước Hipparchus hơn 1.000 năm. Nó mở ra những khả năng mới không chỉ cho nghiên cứu toán học hiện đại mà còn cho giáo dục toán học. Với Plimpton 322 chúng ta thấy một hệ thống lượng giác đơn giản hơn, chính xác hơn, có lợi thế rõ ràng hơn so với hệ thống mà chúng ta đang sử dụng. Một kho báu của viên Babylon đã tồn tại nhưng đây chỉ là một phần nhỏ trong số những gì họ đã nghiên cứu. Thế hiện đại phải công nhận rằng nền văn hóa toán học cổ đại nhưng rất tinh vi này có nhiều điều để dạy chúng ta". Tham khảo: Gizmodo
-
Có thứ gì nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng không? Trên lý thuyết thì có, 5 loại trong bài viết này là ví dụ FRTK | 04-06-2017 - 20:17 PM Mọi ngành khoa học đều được dẫn dắt bởi những câu hỏi lớn. Đối với Vật lý học, một trong những câu hỏi lớn nhất là liệu chúng ta có thể vượt qua tốc độ ánh sáng hay không. Bởi nếu có thể, thì đây là hy vọng duy nhất để vươn đến những hành tinh xa xôi trên bầu trời. Khi Einstein lần đầu tiên tiên đoán rằng ánh sáng dịch chuyển với tốc độ giống nhau ở bất cứ đâu trong vũ trụ, nhà vật lý vĩ đại nhất thế kỉ 20 đã 'đóng nhãn' tốc độ của nó là 299.792,458 km/giây. Nhưng đó không phải là tất cả. Trên thực tế, đây mới chỉ là bước khởi đầu của câu chuyện dài về tốc độ ánh sáng. Trước thế kỉ 20, khối lượng - thứ làm nên bạn, tôi và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy - và năng lượng được coi là độc lập với nhau. Nhưng vào năm 1905, Lý thuyết Tương Đối Hẹp của Einstein đã thay đổi mãi mãi cách mà các nhà vật lý nhìn vũ trụ, bằng việc ràng buộc khối lượng và năng lượng vào một phương trình tuy đơn giản nhưng cực kì quan trọng E=mc^2. Về bản chất, phương trình này tiên đoán không có bất cứ thứ gì có khối lượng có thể đạt vận tốc bằng ánh sáng, chứ đừng nói là nhanh hơn. Nỗ lực thành công nhất của loài người trong việc tiệm cận tốc độ ánh sáng nằm trong các máy gia tốc hạt siêu mạnh như Máy Gia tốc Hạt Lớn (LHC) của CERN hay Tevatron của Mỹ. Các cỗ máy khổng lồ này (LHC thậm chí còn có chu vi vắt ngang qua dãy Alps, nằm trên cả lãnh thổ Pháp và Thụy Sĩ) có khả năng tăng tốc độ các hạ nguyên tử lên đến 99.99% tốc độ ánh sáng, tuy nhiên theo giải thích của nhà vật lý đạt giải Nobel David Gross, những hạt này sẽ không bao giờ chạm đến ngưỡng tốc độ vũ trụ. Máy dò hạt ATLAS, một phần của LHC, từng đi vào lịch sử với tư cách nơi đầu tiên tìm ra hạt Higgs Bởi, để làm như thế cần vô hạn năng lượng (E), và trong quá trình đó, khối lượng (m) của vật thể cũng sẽ đi tới vô hạn, vốn là điều bất khả. Đó là lý do tại sao photon - phân tử của ánh sáng lại đạt được tốc độ này, vì chúng về bản chất không có khối lượng. Einstein là một biểu tượng điên rồ trong thời đại của ông. Tuy nhiên điên rồ lại luôn là đặc tính chung của các nhà vật lý, thế nên kể từ Einstein, họ đã luôn cố gắng tìm ra những thứ có khả năng đạt tốc độ nhanh hơn cả ánh sáng, mà vẫn tuân theo các nguyên tắc vũ trụ của Thuyết Tương Đối Hẹp. Rất nhiều ý tưởng sáng tạo trong số đó - trong khi không bác bỏ thế giới quan vũ trụ của Einstein - đã cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc hơn về đặc tính của ánh sáng cũng như địa hạt lượng tử. 1. Big Bang và Giãn nở Vũ Trụ Bạn đã bao giờ tự hỏi, liệu có một luồng ánh sáng siêu mạnh nào có thể đi xuyên qua vũ trụ? Câu trả lời là KHÔNG. Đơn giản là vì vũ trụ của chúng ta không ngừng giãn nở với tốc độ cao hơn nhiều so với ánh sáng. Tốc độ này nằm khoảng 67.15 ± 1.2 (km/s)/Mpc, tức là gần 68 kilomet/ giây/ megaparcec. Điều này có nghĩa là bất cứ thiên hà nào đang cách chúng ta 10 megaparcec (khoảng 30 triệu năm ánh sáng) sẽ dần dần rời xa khỏi chúng ta với tốc độ 680 km/giây. Có 'hack' trời thì ánh sáng từ Trái đất cũng không bao giờ có thể đến được thiên hà đó. Mặc dù theo thuyết Tương Đối Hẹp, không vật thể có khối lượng nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng, tuy nhiên câu hỏi đặt ra là, liệu có thể có những vật thể không có khối lượng như chính photon ánh sáng? Bạn ít nhất không cần phải dựa dẫm vào các nhà bác học điên với những thuyết kì dị để tìm ra những hạt "vô lượng" như thế. Khoảng không vũ trụ của chúng ta, do không chứa bất kì một thứ vật chất nào, chính là một 'vật thể' không có khối lượng. Có thể nói thuyết tương đối áp dụng với tất cả những vật thể bên trong vũ trụ, nhưng không phải là chính bản thân vũ trụ. Vũ Trụ giãn nở, khoảng cách giữa các thiên hà dần rời xa nhau. Đây chính là những gì mà các nhà vật lý Alan Guth và Andrei Linde giả thiết vào những năm 1980, về điều đã xảy ra ngay tức khắc sau Vụ Nổ Lớn Big Bang. Trong một phần một triệu tỉ tỉ (10^-24) của giây đầu tiên sau vụ nổ, vũ trụ đã liên tục tăng gấp đôi kích cỡ, và kết quả là rìa ngoài của nó mở rộng nhanh chóng, nhanh hơn tốc độ ánh sáng rất nhiều. Big Bang 2. Rối lượng tử Nghe qua thì Rối Lượng Tử có vẻ khó hiểu, bí hiểm và ... hơi "rối", nhưng hiểu theo nghĩa sơ khai nhất thì đây chỉ là cách mà các hạt hạ phân tử "giao tiếp" với nhau. Và điều thú vị mà các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, đó là quá trình giao tiếp này thậm chí còn nhanh hơn cả ánh sáng. "Nếu tôi đặt hai electron nằm rất gần nhau, chúng sẽ giao động cùng tần số theo thuyết lượng tử," nhà vật lý Kaku Michio lý giải với Big Think. Giờ nếu chia rẽ hai electron đó sao cho chúng cách nhau hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn năm ánh sáng, và chúng sẽ giữ cho kết nối chốc lát này mở rộng. Rối lượng tử giữa hai hạt "Nếu tôi lắc nhẹ một electron, thì ngay lập tức electron còn lại sẽ 'cảm nhận' được rung chấn, nhanh hơn so với tốc độ ánh sáng. Einstein cho rằng không có gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng, vậy nên trong quá khứ ông đã là một trong những người phản đối thuyết lượng tử quyết liệt nhất," Kaku viết thêm. Trên thực tế vào năm 1935, Einstein cùng với Boris Podolsky và Nathan Rosen đã thử bác bỏ thuyết lượng tử bằng một thí nghiệm tư duy mà Einstein gọi là "các tác động ma quỷ ở khoảng cách xa". Khá hài hước khi thí nghiệm này của họ lại đặt nền móng cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là nghịch lý EPR( Einstein-Podolsky-Rosen), một nghịch lý mô tả chính xác hiện tượng kết nối tức thì trong rối lượng tử vừa được miêu tả ở trên. 3. Tachyon Sự đổi hướng của hạt Tachyon, khoảnh khắc duy nhất (theo giả thuyết) khi ta chứng kiến được hạt này khi nó đi qua sóng xung kích( đường đen) phát ra từ bức xạ Cherenkov Khả năng về một loại hạt dịch chuyển nhanh hơn ánh sáng lần đầu được đề xuất vào năm 1962 bởi nhà vật lý E.C.G Sudarshan và các đồng sự, mặc dù lúc đầu họ sử dụng thuật ngữ "siêu-hạt". Gã siêu nhân Barry Allen từ series The Flash với "mô-tơ Tachyon" Trong bài luận văn viết năm 1967 của mình, Gerald Feinberg đã lần đầu sử dụng thuật ngữ "Tachyon" - vốn bắt nguồn từ từ Tachy có nghĩa là 'nhanh' trong tiếng Hy Lạp - đồng thời đề xuất các hạt tachyon có thể trở thành một lượng tử ( nghĩa là- một lượng nhỏ nhất của năng lượng phát xạ) trong vật lý với một 'khối lượng tưởng tượng". Tuy nhiên cộng đồng khoa học đã sớm nhận ra rằng sự kích thích trường khối lượng tưởng tượng như thế, về bản chất không truyền nhanh hơn ánh sáng, mà thay vào đó biểu diễn một trạng thái không ổn định được biết tới với cái tên ngưng tụ tachyon. Các pháp sư sáng chế ra đồng hồ thời gian trong series Harry Potter liệu có biết đến sự hiện diện của Tachyon ? Nếu một hạt như thế tồn tại, loài người có thể xây nên những "tachyonic antitelephone", một thiết bị tưởng tượng có khả năng truyền sóng nhanh hơn ánh sáng, và thậm chí, truyền ngược về quá khứ. Đây có thể chính là nền tảng của du hành thời gian! Einstein (bạn còn kỳ vọng khác nữa?) một lần nữa bác bỏ điều này trong thí nghiệm nổi tiếng của mình năm 1907, khi chứng minh các tín hiệu nhanh hơn ánh sáng có thể dẫn đến việc vi phạm luật nhân quả. Nón không-thời gian là một biểu trưng vật lý quan trọng của luật nhân quả, được lấy cảm hứng từ hình ảnh ném 1 hòn đá xuống mặt nước. Bất cứ vật thể nào di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng đều vượt ra ngoài đường biên quá khứ(nón dưới) và tương lai (nón trên). Luật nhân quả khẳng định tất cả những sự kiện diễn ra trong đường biên ở phần nào của nón thì sẽ phải xuất hiện trong đường biên của phần còn lại 4. Lỗ Giun Cảnh du hành Vũ Trụ qua lỗ giun ngoạn mục trong phim Interstellar Mặc dù Einstein đã chà đạp không thương tiếc lên giấc mộng du hành vũ trụ của chúng ta với thuyết Tương Đối Hẹp, nhưng may quá ông lại còn nghĩ ra thêm Thuyết Tương Đối rộng. Hẹp thì kết nối khối lượng với năng lượng lại, trong khi Rộng lại đan quện thời gian với không gian vào nhau. Không-thời gian cong "Cách duy nhất để đạp đổ giới hạn tốc độ ánh sáng là thông qua thuyết Tương Đối rộng và sự bẻ cong không thời gian," Kaku viết. Sự bẻ cong này được chúng ta gọi thông tục là "lỗ giun" hay "cầu Einstein-Rosen", với giả định rằng nó sẽ giúp du hành một khoảng cách xa trong nháy mắt Vào năm 1988, nhà vật lý lý thuyết Kip Thorne đã sử dụng các phương trình của thuyết tương đối rộng để tiên đoán về khả năng 'mở khóa' lỗ giun thông qua cái gọi là "vật chất tối". "Một điều phi thường là nếu thuần túy dựa vào các định luật vật lý lượng tử, việc tồn tại các "vật chất tối" hoàn toàn có thể xảy ra," Thorne viết trong cuốn sách "Khoa học giữa các vì sao" của mình Vật chất tối, cánh cổng để mở ra lỗ giun Việc nghiên cứu vật chất tối thậm chí đã xuất hiện trong nhiều phòng thí nghiệm trên khắp thế giới, tuy nhiên sau gần 30 năm kể từ ngày Thorne lần đầu đưa khái niệm này ra công chúng, kết quả nghiên cứu vẫn hầu như dậm chân tại chỗ Niềm hy vọng về tính ổn định của vật chất tối, giờ đây hầu như chỉ có thể hy vọng vào một học thuyết rất hiện đại của thế kỉ 20 - Lý thuyết dây hay String theory - lý thuyết đi đầu trong hy vọng nối kết giữa trọng trường và thuyết lượng tử Hình ảnh trực quan của String theory 5. Bức xạ Cherenkov Khi các vật thể dịch chuyển nhanh hơn vận tốc âm thanh, chúng tao ra vụ nổ âm thanh. Tương tự, khi thứ gì đó dịch chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng, chúng cũng tạo ra một thứ gọi là "vụ nổ ánh sáng". Trên thực tế, đây là điều diễn ra hàng ngày ở khắp nơi - người ta gọi nó là bức xạ Cherenkov, lấy theo tên của nhà khoa học Xô Viết đạt giải Nobel Pavel Alekseyevich Cherenkov. Về mặt vật lý mà nói, ánh sáng dịch chuyển với tốc độ c/n ở môi trường có chỉ số khúc xạ n (không phải môi trường chân không). Điều thú vị là ở chỗ trong một vài môi trường như vậy, tồn tại các hạt di chuyển nhanh hơn tốc độ c/n (nhưng vẫn chậm hơn c), và điều nãy dẫn đến hiện tượng bức xạ Cherenkov. Bức xạ Cherenkov trong Lò phản ứng Thí nghiệm Cao cấp Bức xạ Cherenkov sở dĩ bừng sáng là bởi nguyên lý cốt lõi trong Lò phản ứng Thí nghiệm Cao cấp là việc giữ nó trong nước để làm lạnh. Trong nước, ánh sáng chỉ còn di chuyển với 75% tốc độ mà nó di chuyển trong chân không, tuy nhiên các electron được tạo nên bởi phản ứng trong lò di chuyển trong nước nhanh hơn cả ánh sáng . Các hạt như electron vượt qua tốc độ ánh sáng trong nước, hay các dung môi khác như thủy tinh, tạo nên các sóng kích tương tự như từ các vụ nổ âm thanh "Nổ ánh sáng" từ bức xạ Cherenkov Nguồn: Tri Thức Trẻ
-
Nghiên cứu cho thấy phụ nữ lưu giữ ADN của mọi người đàn ông họ từng có quan hệ tình dục Dink | 03-05-2018 - 21:20 PM Đến các nhà khoa học cũng phải nhận định phụ nữ thật khó hiểu, phức tạp hơn ta tưởng rất nhiều. Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Đại học Seattle và Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Huntchinson, thì phụ nữ lưu giữ và mang theo ADN của mọi người đàn ông mà cô ấy từng có quan hệ tình dục. Đây hoàn toàn là một khám phá ngẫu nhiên. Các nhà khoa học lúc ấy đang tìm cách xác định xem nếu người phụ nữ đang mang thai con trai, thì liệu đứa con ấy có mắc căn bệnh thần kinh thường thấy trên nam giới không. Nhưng khi nghiên cứu não bộ người phụ nữ, nghiên cứu này bắt đầu đi theo một chiều hướng hoàn toàn khác: Hóa ra não bộ người phụ nữ bí ẩn hơn ta tưởng nhiều. Ta vẫn biết phụ nữ khó hiểu, nhưng hóa ra mọi thứ không chỉ dừng lại tại đó. Các nhà khoa học tìm ra rằng não bộ người phụ nữ thường xuất hiện hiện tượng "vi chimera nam giới - male microchimerism", về cơ bản, thì là có sự xuất hiện của ADN nam giới đến từ một cá nhân khác, có dấu hiệu gen khác biệt với toàn bộ các tế bào khác trong cơ thể người phụ nữ. Theo nghiên cứu trên, thì có tới "63% phụ nữ được thử nghiệm (37 trên 59 người) có hiện tượng vi chimera nam giới trong não. Hiện tượng này xuất hiện ở nhiều phần của não bộ". Tế bào ADN của nam giới có thể tới từ đâu được? Không thể tới từ cha của cô gái đó, bởi lẽ ADN của cha kết hợp với ADN của mẹ để tạo ra ADN đặc biệt, duy nhất của một cá thể. Vậy ADN này có thể tới từ đâu? Qua nghiên cứu này, các nhà khoa học cho rằng ADN có trong não người phụ nữ có từ việc mang thai một bé trai. Đó là một kết luận an toàn và không làm phật lòng ai. Tuy nhiên, chính những nhà khoa học này cũng không hoàn toàn tin tưởng vào những gì mình đã kết luận. Họ suy nghĩ như vậy là vì khám nghiệm cho thấy não bộ của những người phụ nữ chưa từng có thai, chứ chưa nói tới mang thai bé trai, cũng vẫn cho thấy dấu vết của tế bào ADN từ nam giới. Họ đưa ra kết luận cuối cùng, đưa ra 4 nguồn tế bào ADN nam giới có thể được đưa vào cơ thể người phụ nữ: - Một lần sẩy thai mà người phụ nữ có thể không biết. - Một người anh/em sinh đôi đã tiêu biến trong quá trình trong bụng mẹ. - Tới từ việc mang thai. - Tới từ việc quan hệ tình dục. Cuối kết luận, các nhà khoa học nói rằng cần thêm những nghiên cứu nữa để xác định nguồn gốc của hiện tượng vi chimera nam giới này. Ta có con số 63% phụ nữ được thử nghiệm có hiện tượng này. Trong 4 khả năng trên, 3 cái đầu rất khó xảy ra, nên con số 63% quả thực là khó đạt được. Vậy ta còn khả năng thứ 4: tế bào ADN của nam giới xuất hiện trong cơ thể người phụ nữ nhiều khả năng là tới từ việc quan hệ tình dục. Những người phụ nữ tham gia thử nghiệm này đều lớn tuổi. Có người đã mang ADN của nam giới trong mình tới hơn 50 năm. Ngẫm nghĩ một chút thì điều này cũng hợp lý. Tinh trùng là những tế bào sống. Khi đi vào cơ thể theo bất kì cách gì, tình trùng cũng đều có thể bơi được, đi vào máu và cuối cùng là được lưu lại trong não bộ người phụ nữ. Nhưng có vẻ không phải ai cũng vậy. Thử nghiệm cho thấy chỉ 63% nữ giới xuất hiện hiện tượng vi chimera nam giới cơ mà! Nhưng vẫn có thể kết luận lại là phụ nữ thật khó hiểu, cả tâm trí, tâm lý và cả cơ thể của họ. Theo Trí Thức Trẻ
-
Ấm rượu 2.000 năm trong ngôi mộ nhà Tần ở Trung Quốc Thứ ba, 20/3/2018 | 09:48 GMT+7 Các nhà khảo cổ học tìm thấy một ấm đồng đựng rượu từ một ngôi mộ thời Tần có niên đại hơn 2.000 năm ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Chai rượu trăm tuổi nguyên vẹn dưới lòng đất Ấm rượu 2.000 năm tuổi (ở giữa) được dùng để cúng tế. Ảnh: Xinhua. Chiếc ấm đựng rượu là một vật cúng tế, nằm lẫn trong 260 đồ tạo tác khai quật từ ngôi mộ của một người dân bình thường dưới thời nhà Tần (năm 221 - 207 trước Công nguyên). Phần lớn các đồ vật này được dùng cho nghi thức thờ cúng, Xinhua hôm qua đưa tin. Hứa Vệ Hồng, nhà nghiên cứu ở Viện khảo cổ tỉnh Thiểm Tây, cho biết 300 ml rượu còn sót lại trong chiếc ấm có vòi được nút kín bằng sợi tự nhiên. Chất lỏng trong ấm có màu trắng sữa ngả vàng. Nhóm nghiên cứu cho rằng rượu được làm bằng phương pháp lên men do chứa thành phần axit glutamic. Rượu trong ấm có màu trắng sữa ngả vàng. Ảnh: Xinhua. Một phát hiện đáng chú ý khác là thanh kiếm đồng dài 60 cm. Thanh kiếm có thiết kế hình 8 mặt ở giữa, làm tăng độ sát thương của vũ khí. Ở mép kiếm cũng có nhiều vết cắt, chứng tỏ nó từng được dùng để chiến đấu. Các nhà nghiên cứu đang phân tích mẫu rượu để hiểu rõ hơn về kỹ thuật ủ rượu và văn hóa uống rượu ở Hàm Dương, kinh đô của nước Tần cổ đại. Loại rượu lâu đời nhất thế giới được tìm thấy ở làng Giả Hồ thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Đó là một loại rượu nếp mật ong ra đời vào khoảng năm 7.000 trước Công nguyên. Kết quả phân tích hé lộ mẫu rượu được làm từ gạo lên men, nho, mật ong và quả mọng. Phương Hoa Nguồn: Báo Vnexpress
-
Phát hiện bằng chứng sao chổi đâm vào Trái Đất, quét sạch sự sống cách đây 13.000 năm Trang Ly | 22/04/2017 09:29 PM Ảnh minh họa. Sự kiện sao chổi đâm vào Trái Đất cách đây 13.000 năm đã quét sạch sự sống của hàng nghìn người và nhiều loài động vật, gây biến đổi khí hậu trong 1.300 năm. Những siêu Trái Đất có thể tồn tại sự sống mà nhân loại đã tìm được sau gần 60 năm NASA chế tạo tàu thăm dò năng lượng nguyên tử để săn tìm sự sống trong Hệ Mặt trời? NASA: Xuất hiện thiên thạch khổng lồ đường kính 1.600m bay ngang Trái Đất ngày mai 20/4 Bí mật dưới lòng đại dương Enceladus - ứng viên sáng giá nhất có sự sống trong Hệ Mặt Trời Sau khi phân tích các hình chạm khắc trên cột trụ niên đại hơn 10.000 năm tìm thấy tại ngôi đền được xem là cổ nhất thế giới Gobekli Tepe ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà khoa học nhận định: Cách đây 13.000 năm, một sao chổi đã đâm vào Trái Đất, giết chết hàng nghìn người, biến đổi hoàn toàn khí hậu và khiến văn minh nhân loại trở về con số 0. Nghiên cứu những bằng chứng trên các cột đá Vulture Stone, các nhà khảo cổ khẳng định, vào năm 11000 Trước Công nguyên, hàng loạt các bụi sao chổi đã đâm vào Trái Đất, gây nên thảm họa kinh hoàng bậc nhất mà loài người phải hứng chịu từ không gian. Sao chổi đâm vào Trái Đất gây nên thảm họa kinh hoàng cho con người, động vật và khí hậu. Ảnh: Shutterstock. Hình ảnh chạm khắc một người đàn ông không đầu trên các bia đá Vulture Stone có thể là hình ảnh biểu trưng cho hậu quả khủng khiếp từ thảm họa không gian. Sao chổi đâm vào Trái Đất đã quét sạch sự sống của nhiều loài động vật khổng lồ, trong đó có loài voi ma mút. Hình ảnh các loài động vật chạm khắc trên tấm đá có thể là bằng chứng cho việc này. Hình ảnh những loài động vật chạm khắc trên tấm bia đá. Ảnh: NatGeo. Giới khoa học cho rằng, thảm họa không gian này đã làm các tảng băng khổng lồ ở Bắc Mỹ sụp đổ khiến nước biển lạnh hơn. Hệ quả là, nhiệt độ Trái Đất giảm mạnh, phù hợp với thời kỳ mà các học giả gọi là kỷ băng hà Younger Dryas, kéo dài trong 1.300 năm. Tiến sĩ Martin Sweatman, trưởng nhóm nghiên cứu, thuộc trường Đại học Edinburgh, cho biết: "Tôi cho rằng, những phát hiện trên Vulture Stone củng cố thêm bằng chứng cho thấy, Trái Đất đã từng xảy ra thời kỳ kỷ băng hà mini Younger Dryas. Thảm họa tồi tệ này đã khiến khí hậu hành tinh chúng ta thay đổi trong hàng nghìn năm." Những hình chạm khắc có thể ứng với các chòm sao mà chúng ta đã tìm thấy. Nguồn: Dailymail. Hiện tại, các kỹ sư thuộc trường Đại học Edinburgh (Scotland) đang sử dụng phần mềm máy tính phù hợp để nghiên cứu các hình chạm khắc động vật có tương ứng với các chòm sao mà chúng ta đã biết hay không. Đền Gobekli Tepe ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: NatGeo. Dịch từ: Telegraph Nguồn: http://soha.vn/phat-hien-bang-chung-sao-choi-dam-vao-trai-dat-quet-sach-su-song-cach-day-13000-nam-20170422092632486.htm
-
CHÍNH THỨC: Chúng ta đã có một trạng thái vật chất mới: tinh thể thời gian 10/03/2017 09:16 Việc phải làm bây giờ là tạo ra chúng, và áp dụng chúng vào máy tính lượng tử. Lại một lần nữa, cảnh báo bài viết mang tính chất khó hiểu. Các bạn suy nghĩ trước khi tiếp tục đọc. Đầu năm nay, các nhà vật lý học đã vẽ ra một bản hướng dẫn cách thức để tạo ra và đo đạc được “tinh thể thời gian” – time crystal, một trạng thái kì lạ của vật chất với cấu trúc nguyên tử không chỉ lặp lại trong không gian mà còn cả trong thời gian, cho phép chúng duy trì trạng thái dao động bất biến mà không cần tới năng lượng. Tháng Giêng năm nay, hai đội ngũ nghiên cứu cũng đã tạo ra một loại vật chất trông rất giống tinh thể thời gian, cả hai thử nghiệm cũng đã được xét duyệt cẩn thận, khiến cho sự “bất khả thi” đang dần hiện hữu rõ ràng trong thế giới thực hơn bao giờ hết. “Chúng tôi đã đưa ý tưởng trên giả thuyết, những ý tưởng mà chúng tôi đã nghiên cứu vài năm trở lại đây và thực sự dựng nên một thứ như thế trong phòng thí nghiệm”, nhà nghiên cứu Andrew Potter từ Đại học Texas cho hay. “Mong rằng, với nguyên mẫu đầu tiên này, sẽ còn nhiều thử nghiệm thành công khác được tiến hành”. Tinh thể thời gian là một trong những thứ “ngầu” nhất mà ngành vật lý hiện đại mang tới cho chúng ta, bởi chúng mở ra cả một thế giới mới của một giai đoạn vật chất có tên không-cân bằng – non-equilibrium, một giai đoạn khác biệt hoàn toàn với bất kì thứ gì các nhà khoa học đã nghiên cứu trong quá khứ. Đã nhiều thập kỷ nay, chúng ta đã nghiên cứu các vật chất như kim loại hay các chất cách điện – những thứ được phân loại là “cân bằng”, trạng thái vật chất mà toàn bộ nguyên tử trong chúng đều có một lượng nhiệt nhất định. Nhưng tinh thể kim cương là nguyên mẫu đầu tiên của một thứ “không cân bằng” – một trạng thái hoàn toàn khác và bản thân chúng có thể cách mạng hóa cách thức chúng ta lưu trữ và luân chuyển thông tin qua các hệ thống lượng tử. “Nó chỉ cho chúng ta thấy rằng trạng thái của vật chất vẫn còn đa dạng hơn chúng ta biết nhiều lắm”, nhà vật lý học Norman Yao từ Đại học California bày tỏ. “Một trong những chuẩn mực của vật lý là phải hiểu được những loại vật chất gì tồn tại trong tự nhiên. Trạng thái không-cân bằng này đại diện cho một lĩnh vực hoàn toàn mới, khác biệt hoàn toàn với những gì chúng ta đã nghiên cứu trong quá khứ”. Thứ tinh thể thời gian này lần đầu tiên được đưa ra ánh sáng bởi nhà vật lý học lý thuyết, người đã từng giành giải Nobel năm 2012, ông Frank Wilczek. Ông nói rằng trên lý thuyết, một cấu trúc vật chất (như của tinh thể thời gian) sẽ có vận động ngay cả ở trạng thái năng lượng thấp nhất của chúng – trạng thái cơ bản. Thông thường, khi một vật chất ở trạng thái cơ bản thì trên lý thuyết, chúng sẽ không thể vận động được, bởi lẽ vận động cần năng lượng – một thứ không tồn tại ở trạng thái cơ bản. Nhưng Wilczek đoán trước rằng một vật có thể vận động mặc dù chúng đang trong trạng thái cơ bản, bằng cách liên tục sắp xếp thẳng hàng những nguyên tử bên trong chúng liên tục, làm đi làm lại – tức là đưa chúng ra khỏi trạng thái cơ bản rồi lại quay lại, tạo thành một vòng lặp liên hồi. Đây không phải là thành tố tạo nên động cơ vĩnh cửu – một thứ máy vận hành không bao giờ dừng, bởi lẽ năng lượng không tồn tại bên trong hệ thống này. Nhưng vẫn còn một lý do nữa khiến cho giả thuyết này nghe có vẻ ... bất khả thi. Nó nói tới một hệ thống bẻ gãy một trong những giả định nổi tiếng nhất, cơ bản nhất của vật lý hiện đại (giả định nhưng vẫn mang tính chất cơ bản), rằng tính đối xứng thời gian - thứ đề ra các quy luật vật lý, đều như nhau ở mọi nơi, mọi lúc. Tính đối xứng thời gian tịnh tiến chính là lý do tại sao ta không thể làm được việc sau đây: lần đầu tiên tung một đồng xu, tỉ lệ sẽ là 50/50 nhưng lần thứ hai tung đồng xu đó lên, ta lại có tỉ lệ 70/30. Thế mà có những vật thể có thể bẽ gãy tính đối xứng ấy khi chúng đang ở trạng thái cơ bản, điểm quan trọng là chúng không bẻ gãy một định luật vật lý nào. Ví dụ như nam châm với một cực Bắc và một cực Nam (cực dương và cực âm). Ta không rõ làm cách nào mà nam châm lại “tự quyết định” đầu nào thuộc cực nào, nhưng việc nó có cả hai cực đồng nghĩa vừa việc nó sẽ không còn như cũ trong một không gian khác - nó sẽ không đối xứng. Một ví dụ khác về việc không đối xứng là một tinh thể, với mẫu cấu trúc lặp lại của chúng. Nhưng dù lặp lại liên tục, những nguyên tử bên trong lại “có mong muốn” nằm bên trong lớp lưới tinh thể kia hơn. Vì vậy, nếu bạn quan sát một tinh thể trong môi trường Vũ trụ, nó sẽ có hình dạng khác – các định luật vật lý sẽ không còn đối xứng nữa, bởi nó không áp dụng giống nhau trong các không gian khác nhau. Với những ý niệm về sự khác nhau của vật chất trong những không gian khác nhau như vậy, Wilczek đã đề cập tới việc tạo ra một vật thể có thể tạo ra trạng thái cơ bản không đối xứng không chỉ khác nhau trong không gian (như nam châm hay các tinh thể) mà còn trong cả thời gian nữa. Hiểu một cách khác, liệu các nguyên tử có “muốn” tồn tại trong các trạng thái khác tại những khoảng thời gian khác nhau? Tua nhanh thời gian đến thời điểm hiện tại, các nhà nghiên cứu Mỹ và Nhật bản đã chứng minh được rằng việc này hoàn toàn khả thi, với một chỉnh sửa nhỏ trong đề cập của Wilczek – để có thể khiến tinh thể chuyển trạng thái liên tục, thỉnh thoảng chúng cần phải được “huých” nhẹ một cái. Trong nghiên cứu hồi tháng Giêng, Norman Yao mô tả cách thức một hệ thống như vậy được tạo nên, nói rằng nó là một phiên bản “yếu hơn” của việc làm mất cân đối, so với những gì Wilczek đã tưởng tượng ra. “Cứ như ta đang chơi nhảy dây vậy, khi tay ta quay hai lần mà dây cũng chỉ quay có một lần mà thôi”, Yao nói, và bổ sung thêm rằng trong phiên bản thử nghiệm của Wilczek, sợi dây nhảy sẽ có thể có khả năng tự dao động. “Nó bớt dị thường hơn ý tưởng ban đầu (của Wilczek kia), nhưng vẫn phải công nhận là nó rất dị”. Hai đội ngũ các nhà nghiên cứu riêng biệt, một của Đại học Maryland và một của Đại học Harvard, đã tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm bản thiết kế của Wilczek, tạo ra hai phiên bản tinh thể thời gian khác nhau như đều có tính chất giống nhau. “Cả hai hệ thống đều rất tuyệt. Chúng đều có một khía cạnh nào đó rất khác nhau. Tôi nghĩ rằng cả hai đều cực kì đáng khen ngợi”, Yao nói. “Tôi không nghĩ cái nào tốt hơn các nào. Chúng đều thể hiện hai khía cạnh khác nhau của vật lý. Điều thực sự đáng kinh ngạc là bạn có thể nhìn thấy cùng một hiện tượng lạ trong hai hệ thống khác nhau rất nhiều". Đội ngũ nghiên cứu tại Đại học Maryland đã tạo ra tinh thể thời gian của họ bằng cách sắp xếp một dãy 10 ion nguyên tố Ytebi (yttebium), tất cả đều được làm rối với các vòng xoay electron. Chuỗi ion của Đại học Maryland. Điểm mấu chốt của việc biến hệ thống kia thành một tinh thể thời gian là giữ cho các ion nằm ngoài trạng thái cân bằng, và để làm được việc đó, các nahf nghiên cứu đã bắn hai tia laser vào chúng. Một tia tạo ra từ trường và tia thứ hay vặn ngược vòng quay của nguyên tử lại. Bởi sự xoay của các nguyên tử đều được làm rối với nhau, các nguyên tử đều được sắp xếp thành một khuôn mẫu ổn định, mang tính lặp và chính điều đó đã định nghĩa được tính chất của một tinh thể. Tuy nhiên, để có thể biến thành tinh thể thời gian, nó đã phải thực hiện một điều rất kì lạ: tốc độ xoay và lật khuôn mẫu của hệ thống này chỉ nhanh bằng một nửa mạch laser. “Liệu việc bạn lắc một viên thạch rồi phát hiện ra rằng nó phản hồi việc rung lắc trong một khoảng thời gian khác không?”, Yao giải thích. Còn tinh thể thời gian của Đại học Harvard lại được tạo ra bằng một cách khác: họ sử dụng những tinh thể kim cương đã được đổ đầy tạp chất nitro. Và kết quả thí nghiệm cho họ những tinh thể thời gian màu đen. Tinh thể kim cương đen của Harvard. Sự xoay của những tạp chất này có thể được lật đi lật lại như sự xoay của các ion Ytebi trong thử nghiệm của Đại học Maryland. Đây đúng là một thời điểm thú vị với toàn giới vật lý: cuối cùng thì trạng thái tinh thể thời gian đã được chính thức công nhận, bởi cả hai thử nghiệm trên đã qua giai đoạn kiểm duyệt. Lúc này, khi mà ta đã biết được rằng những trạng thái này thực sự tồn tại, ta sẽ có thể bắt tay vào việc chế tạo và ứng dụng nó trong thực tiễn. Một trong những ứng dụng đầu tiên của tinh thể thời gian mà ta nghĩ được ngay tới đó là công nghệ máy tính lượng tử. Nó sẽ cho phép các nhà vật lý học tạo ra một hệ thống lượng tử ổn định với một nhiệt độ cao hơn hẳn trước đây. Có lẽ, đây chính là bước đà ta cần để máy tính lượng tử bước ra công chúng với tư cách “một kẻ được xã hội chào đón mọi nơi, mọi chỗ”. Tham khảo: Science Alert/Motherboard/wiki Nguồn Tri Thức Trẻ
-
Bằng chứng Trung Quốc sản xuất tơ lụa từ 8.500 năm trước Thứ năm, 12/1/2017 | 14:16 GMT+7 Bằng chứng thu được từ ba ngôi mộ 8.500 năm tuổi ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc cho thấy người cổ đại sử dụng tơ lụa từ hàng nghìn năm trước. Mộ cổ 2.000 năm cạnh con đường tơ lụa trên biển Ngôi mộ 8.500 năm tuổi mang bằng chứng về việc sử dụng tơ lụa của người cổ đại. Ảnh: Plos One. Một nghiên cứu đăng trên tạp chí Plos One hôm 12/12 kết luận người cổ đại có thể sử dụng tơ tằm từ 8.500 năm trước, sớm hơn so với nhận định trước đây là 5.000 năm, theo Live Science. Bí quyết tạo ra tơ được tìm thấy lần đầu tiên ở Trung Quốc. Theo truyền thuyết nước này, vợ của Hiên Viên hoàng đế, trị vì từ năm 2698-2599 trước Công nguyên, làm rơi kén tằm vào tách trà. Bà sau đó phát hiện cái kén có thể kéo thành sợi dài khoảng một kilomet. Các nhà khoa học gần đây quyết định nghiên cứu tàn tích 9.000 năm tuổi ở khu di chỉ Giả Hồ, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc để tìm hiểu thêm về nguồn gốc của tơ. "Truyện cổ kể rằng việc nuôi tằm, dệt lụa bắt đầu ở quanh khu vực này", Decai Gong, nhà khảo cổ học tại Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc, đồng tác giả nghiên cứu, cho biết. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng nhận định khí hậu ấm áp và ẩm ướt ở Giả Hồ thích hợp để cây dâu tằm phát triển. Lá của nó là nguồn thức ăn chính cho loài tằm. Kết quả phân tích mẫu đất từ ba ngôi mộ 8.500 năm tuổi ở đây cho thấy có dấu hiệu của protein tơ trong mộ. "Đây là bằng chứng lâu đời nhất về sự xuất hiện của tơ lụa ở Trung Quốc cổ đại", ông Gong trả lời Live Science. Nhóm nghiên cứu cho rằng chủ nhân của ngôi mộ có thể được chôn với quần áo lụa. Ngoài ra, họ cũng tìm thấy nhiều chiếc kim làm từ xương và công cụ dệt trong khu vực. Theo ông Gong, đây là bằng chứng chứng minh kỹ năng dệt may cơ bản của người dân ở Giả Hồ. Hiền Anh Nguồn: Báo VNexpress.
-
Bí ẩn lớn về phản vật chất sắp được lý giải Thứ sáu, 23/12/2016 | 00:00 GMT+7 Lần đầu tiên sau hai thập kỷ các nhà vật lý tại CERN đo được ánh sáng phát ra bởi một nguyên tử phản vật chất, chứng minh phản hạt của hydro chính là hình ảnh phản chiếu của hydro thông thường. Nguyên tử hydro và phản nguyên tử hydro. Ảnh: The Register. Các nhà khoa học cuối cùng có thể xác nhận những dự đoán từ các định luật vật lý về phản vật chất, theo Science Alert. Kết quả này mở ra phương pháp mới để kiểm tra lý thuyết đặc biệt của nhà vật lý Albert Einstein về thuyết tương đối, giúp lý giải một trong những bí ẩn lớn nhất của vật lý hiện đại: "Tại sao trong vũ trụ lại có nhiều vật chất thông thường hơn so với phản vật chất?" "Đây là một thời điểm lịch sử trong những thập kỷ dài nỗ lực để tạo ra phản vật chất và so sánh các thuộc tính của nó với những vật chất thông thường", nhà vật lý lý thuyết Alan Kostelecky tại Đại học Indiana đánh giá. Các định luật vật lý dự đoán rằng cứ mỗi hạt của vật chất thông thường sẽ có một phản hạt tương ứng. Vì vậy, đối với mỗi electron điện tích âm sẽ có một positron mang điện tích dương. Điều đó có nghĩa với mỗi nguyên tử hydro thông thường được tạo thành bởi một electron liên kết với một proton, sẽ có một nguyên tử hydro được tạo thành từ một phản electron (hoặc positron) liên kết với một phản proton. Nếu một phản hạt tìm thấy một hạt của chính nó, chúng sẽ triệt tiêu lẫn nhau, giải phóng năng lượng dưới dạng ánh sáng. Thực tế là có quá nhiều vật chất thông thường trong vũ trụ trong khi khó có thể tìm thấy phản hạt trong tự nhiên. Điều này có thể giải thích bởi các phản hạt sẽ bị triệt tiêu bởi các hạt của chính nó ngay trước khi chúng ta kịp quan sát. Tuy nhiên, vấn đề khiến các nhà khoa học bối rối là số lượng các hạt vật chất nhiều hơn phản vật chất trong khi các mô hình vật lý hiện đại do Einstein đưa ra trong thuyết tương đối dự đoán số lượng hạt và phản hạt cân bằng sinh ra từ vụ nổ Big Bang. "Điều gì đó đã xảy ra, dẫn tới sự phân bố mất cân bằng hiện tại, và chúng ta đơn giản không có cách giải thích ngay bây giờ", Jeffrey Hangst, một thành viên nhóm nghiên cứu tại phòng thí nghiệm ALPHA cho biết. Theo kết quả mới được công bố trên tạp chí Nature ngày 29/11, lần đầu tiên các nhà khoa học có thể đo phổ ánh sáng phát ra bởi một phản nguyên tử hydro khi bị kích thích bởi laser, và so sánh với phổ ánh sáng phát ra bởi một nguyên tử hydro thông thường. Là nguyên tử phổ biến nhất trong vũ trụ, hydro luôn triệt tiêu mọi phản nguyên tử của chính nó ngay lập tức và khó có thể tìm thấy phản nguyên tử hydro trong tự nhiên. Do đó, các nhà khoa học cần phải tạo ra các phản nguyên tử hydro trong phòng thí nghiệm. Trong 20 năm qua, nhóm nghiên cứu ALPHA thuộc Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) đã tìm cách tạo ra các phản nguyên tử hydrogen để nghiên cứu và phát triển kỹ thuật cho phép tạo ra khoảng 25.000 phản nguyên tử hydro mỗi 15 phút, và bẫy được khoảng 14 trong số 25.000 phản nguyên tử để nghiên cứu. Đây là một bước đột phá lớn khi trước đây họ chỉ có thể bẫy từ 1 đến 2 nguyên tử hydro mỗi 15 phút. Những phản nguyên tử này sau đó sẽ được kích thích bởi ánh sáng laser để buộc positron "nhảy" từ mức năng lượng thấp lên một mức năng lượng cao hơn. Sau một thời gian ngắn, các positron trở lại mức năng lượng thấp hơn, phần năng lượng dư thừa sẽ chuyển thành ánh sáng bức xạ ra ngoài. Khi đo ánh sáng bức xạ, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các phản nguyên tử hydro phát ra chính xác cùng một quang phổ ánh sáng như các nguyên tử hydro thông thường. Kết quả này phù hợp với mô hình chuẩn của vật lý hạt, dự đoán rằng hydro và phản hydro sẽ có quang phổ giống hệt nhau. Nếu tất cả các quang phổ của các laser khác nhau cho nguyên tử và phản nguyên tử hydro đều kết thúc giống nhau, nhóm nghiên cứu có thể chứng minh thuyết tương đối đặc biệt của Einstein vẫn đúng. Thanh Tùng Nguồn: Báo Vnexpres
-
Các nhà thiên văn học phát hiện ra hiện tượng đi ngược lại với những gì Newton và Einstein đã vẽ ra 03/12/2016 09:57 Một hiện tượng lượng tử diễn ra với quy mô khổng lồ của cả một ngôi sao vũ trụ. Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà thiên văn học phát hiện và quan sát được một hiện tượng lượng tử diễn ra trong tự nhiên. Đó là khi một sao neutron bị bao quanh bởi một từ trường mạnh tới mức nó tạo ra cả một vùng kì dị trên vũ trụ, một vùng mà trong đó các vật chất liên tục tồn tại rồi lại biến mất một cách tự nhiên. Hình minh họa cho một ngôi sao neutron. Được gọi là lưỡng chiết chân không (lưỡng chiết là là hiện tượng xảy ra khi tia sáng khi đi qua một số loại tinh thể bị tách ra thành hai tia sáng: tia thường và tia khác thường – tia thượng đẳng), hiện tượng kì lạ này được dự đoán lần đầu tiên vào khoảng thời gian những năm 1930, nhưng mới chỉ được quan sát ở quy mô nguyên tử. Bây giờ, các nhà khoa học đã lần đầu tiên chứng kiến hiện tượng này diễn ra trong tự nhiên và kì lạ hơn, nó đi ngược lại với mọi thứ mà Newton và Einstein đã vẽ ra. Ánh sáng đi qua tinh thể canxít tạo ra hai ảnh của chữ viết nằm bên dưới, tương ứng với tia thường và tia khác thường. “Đây là một sự kiện xảy ra rất rõ ràng thuộc lĩnh vực lượng tử, một sự kiện mang tầm vĩ mô”, anh Jeremy Heyl tới từ Đại học Bristish Columbia, người không thuộc dự án nghiên cứu này nói. “Mức độ rõ ràng của nó mang tầm cỡ của cả một ngôi sao neutron”. Một nhóm các nhà thiên văn học quốc tế, dẫn dắt bởi giáo sư Roberto Mignani từ Ý đã phát hiện ra hiện tượng này, khi họ tiến hành quan sát sao neutron mang tên RX J1856.5-3754, cách Trái Đất chúng ta 400 năm ánh sáng. Sao neutron là những lõi bị nghiền nát từ một ngôi sao khổng lồ bị “sập” xuống bởi chính sức nặng của nó, hiện tượng “sập” xảy ra khi ngôi sao ấy hết năng lượng và phát nổ dưới dạng một siêu tân tinh. Cho dù sự hình thành và tính chất của nó khá giống với hố đen, nhưng nó vẫn thiếu độ lớn để có thể trở thành “tử thần” của vũ trụ. Chúng được cấu tạo nên từ một trong những vật liệu đặc nhất Vũ trụ. Chỉ một thìa vật chất này cũng có cân nặng tới 1 tỷ tấn khi đặt trên Trái Đất, lớp ngoài của nó cứng hơn thép 10 tỷ lần. Sau neutron RX J1856.5-3754. Chưa hết, sao neutron cũng sở hữu một trong những từ trường mạnh nhất Vũ trụ. Các nhà thiên văn học dự đoán rằng sao neutron có từ trường mạnh nhất sẽ lớn hơn Trái Đất hoảng 100 nghìn tỷ lần. Những từ trường ấy mạnh đến mức nực cười, và chúng có thể tự gây ảnh hưởng tới những vùng không gian trống xung quanh một ngôi sao neutron. Trong vật lý cơ bản ta học được từ Newton và Einstein, khoảng không vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, nhưng thuyết cơ học lượng tử lại không cho rằng như vậy. Theo như động lực điện lượng tử QED – một lý thuyết lượng tử lý giải cách thức ánh sáng và vật chất tiếp xúc với nhau – dự đoán, thì vũ trụ có đầy những hạt ảo liên tục tồn tại và biến mất, gây ảnh hưởng tới hoạt động của các hạt ánh sáng photon khi các hạt photon này di chuyển xuyên qua vũ trụ. Những hạt ảo này không giống như những hạt vật lý thông thường (như các electron, photon) mà ta vẫn biết. Chúng là những điểm bất thường trong lĩnh vực vật lý lượng tử nhưng vẫn có tính chất giống các hạt thường. Điểm khác biệt lớn nhất của các hạt ảo này là chúng không thực sự tồn tại, chúng có thể xuất hiện và biến mất ở bất kì thời điểm nào trong thời gian và không gian. Trong không gian vũ trụ thông thường, các photon sẽ không bị ảnh hưởng bởi những hạt ảo này, chúng sẽ di chuyển mà không gặp trở ngại gì. Nhưng trong khoảng không vũ trụ bị ảnh hưởng bởi từ trường cực mạnh từ sao neutron kia, những hạt ảo kia sẽ bị kích thích và chúng gây ảnh hưởng rất lớn tới những photon ánh sáng đi qua đó. “Theo như động lực điện lượng tử, khoảng không bị ảnh hưởng bởi từ trường có hoạt động như một lăng kính với ánh sáng truyền tới, chính hiện tượng đó được gọi là lưỡng chiết chân không”, Mignani giải thích trong một buổi họp báo công bố hiện tượng này. “Hiệu ứng này chỉ có thể được quan sát trong một từ trường cực kì mạnh, ví dụ như là một từ trường bao quan các sao neutron”, thành viên nhóm nghiên cứu, giáo sư Roberto Turolla từ Đại học Padua, Ý bổ sung. Những nhà nghiên cứu đã sử dụng kính viễn vọng mặt đất tiên tiến nhất thế giới, Kính viễn vọng Cực lớn VLT của Đài quan sát Nam Châu Âu để quan sát sau neutron nêu trên. Ở đó, họ đã phát hiện ra hiện tượng phân cực của ánh sáng trong khoảng không vũ trụ xung quanh ngôi sao neutron. “Điều này rất kì lạ, bởi lẽ thuyết tương đối cho rằng ánh sáng sẽ được phép di chuyển tự do xuyên qua khoảng không mà không bị ảnh hưởng gì”, một trong số các nhà nghiên cứu nói. “Hiện tượng phân cực này (con số góc bẻ chính xác là 16 độ) là lời lý giải duy nhất cho các thuyết về động lực điện lượng tử và sự ảnh hưởng của các hạt ảo”. Ánh sáng đi ra từ bề mặt sao neutron (bên trái) trở nên phân cực khi đi qua khoảng không vũ trụ và cuối cùng tới được mắt chúng ta (bên phải). Bước tiếp theo của nghiên cứu này là quan sát và phân tích rõ xem, đây có thực sự là sự kiện lưỡng chiết chân không xảy ra với quy mô của cả một ngôi sao hay không. Nếu đúng như vậy, ta sẽ có cả một hiện tượng lạ mới để nghiên cứu trong lĩnh vực cơ học lượng tử. Bạn có thể đọc về nghiên cứu trên tại đây. Nguồn: Báo Thời Đại
-
Các nhà khoa học đang thực nghiệm một lý thuyết có thể thay đổi cả thuyết tương đối của Albert Einstein 29/11/2016 10:56 Và có thể thay đổi hoàn toàn hiểu biết về vũ trụ. Được đề xuất lần đầu vào cuối năm 1990 nhưng tới bây giờ lý thuyết về tốc độ ánh sáng này mới được thực nghiệm. Nó có khả năng trở thành một trong những thực nghiệm quan trọng nhất từ trước tới nay bởi nếu được chứng minh là đúng, nó có thể thay đổi một số hiểu biết cơ bản nhất của chúng ta về vũ trụ. Trước đây, chúng ta cho rằng tốc độ ánh sáng về cơ bản là không thay đổi. Đó là ý tưởng trung tâm góp phần tạo ra một số khái niệm quan trọng nhất trong vật lý và những hiểu biết của chúng ta về vũ trụ, chẳng hạn như thuyết tương đối tổng quát và cách vũ trụ giãn nở sau vụ nổ Big Bang. Tốc độ ánh sáng hiện tại, xấp xỉ 300 triệu mét mỗi giây, luôn luôn được coi là một hằng số và còn được coi là tốc độ tối đa của bất cứ thứ gì trong vũ trụ. Nhưng lý thuyết mới cho rằng trong thời gian đầu khi vũ trụ mới hình thành ánh sáng có thể đi với tốc độ nhanh hơn nhiều so với hiện tại. Bằng cách nghiên cứu bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) các nhà khoa học hy vọng rằng họ có thể chứng minh rằng tốc độ ánh sáng không phải là hằng số. CMB là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ, sau vụ nổ Big Bang, và là bức tranh của vũ trụ thời sơ khai. Các cấu trúc trong vũ trụ, như các thiên hà, tất cả đều được hình thành từ các biến động nhỏ trong vũ trụ thủa sơ khai, hiện các biến động này đều được in dấu trong CMB. Hiện các nhà khoa học đang cố gắng dùng những số liệu tính toán, đo đạc của các biến động này để tạo ra một "chỉ số quang phổ". Theo một nghiên cứu mới, nếu lý thuyết tốc độ ánh sáng mới là đúng và tốc độ ánh sáng có thể cao hơn sau vụ nổ Big Bang, chỉ số quang phổ chính xác là 0,96478. Ước tính hiện tại chỉ số quang phổ gần đạt mức tương tự, vào khoảng 0,968. Giáo sư Joao Magueijo, từ trường Imperial College London, người dẫn đầu nghiên cứu, chia sẻ rằng: "Lý thuyết mà chúng tôi đề xuất lần đầu vào cuối năm 1990 đã tới lúc trưởng thành, nó đã tạo ra một dự đoán có thể kiểm chứng. Nếu quan sát trong tương lai gần có thể tìm ra rằng con số này là chính xác, nó sẽ khiến thuyết tương đối của Einstein không còn đúng nữa". "Ý tưởng cho rằng tốc độ ánh sáng không phải là hằng số có thể bị phản bác khi lần đầu được đề xuất nhưng với một số dự đoán nhất định nó có thể là một thứ gì đó mà các nhà khoa học có thể thực sự thực nghiệm. Nếu nó được chứng minh là đúng thì các quy luật tự nhiên mà chúng ta biết hiện tại có thể sẽ bị thay đổi". Theo Independent Nguồn: Báo Thời Đại