-
Số nội dung
211 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by nguoivosu
-
Cuộc đời đầy tai họa của người giết rùa khổng lồ ở Yên Bái Người dân quanh vùng kể rành rọt về những tai họa mà người giết rùa khổng lồ và gia đình phải gánh chịu. Người dân dọc sông Hồng coi loài mai cứng mới là rùa. Xưa nay, các nhà khoa học nghiên cứu về rùa vẫn giữ kín những thông tin về xuất xứ các loài rùa, giải nghi ngờ có họ hàng với các “cụ rùa” Hồ Gươm. Các nhà khoa học chỉ nói chung chung rằng, rùa Hồ Gươm có xuất xứ từ Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Tây (cũ)… chứ tuyệt nhiên không nói rõ địa điểm cụ thể là hồ nào, sông nào, suối nào. Ngay như hồ Đồng Mô (Ba Vì, Hà Nội), là hồ nước được các nhà khoa học để ý, nghiên cứu kỹ lưỡng và nghi ngờ có rùa khổng lồ từ mấy chục năm nay, song thông tin mà các nhà khoa học cung cấp cho bạn đọc chỉ là: “Phát hiện loài rùa có nguồn gốc với rùa Hồ Gươm tại hồ nước cách Hà Nội 60km về phía Tây!”. Chỉ đến khi một “ông rùa” bò ra khỏi hồ, bơi lõm bõm ở sông Tích Giang và được báo chí thế giới loan tin ầm ĩ, thì người ta mới biết rằng, hồ Đồng Mô có “rùa Hồ Gươm”. Chẳng thế mà chuyện một ông xã đội trưởng dùng súng AK bắn chết một “cụ rùa” ở Yên Bái từ năm 1984, được hầu hết các “nhà rùa học” nước ta và rất nhiều nhà khoa học yêu rùa trên thế giới biết đến, song hàng triệu người dân Việt Nam yêu mến “cụ rùa” Hồ Gươm vẫn không hay biết. Còn "cụ rùa" Hồ Gươm thì người ta gọi là con giải. Tôi lang thang nhiều ngày dọc các hồ nước lớn ven sông Hồng từ ngã ba Bạch Hạc, qua huyện Cẩm Khê, Sông Thao, Thanh Ba, Yên Lập, Hạ Hòa của tỉnh Phú Thọ, đến tận huyện Trấn Yên của Yên Bái hỏi về loài rùa khổng lồ, song ai cũng lắc đầu không biết. Nhưng ai cũng bảo: “Rùa bé lắm, chỉ có con giải là to thôi, to như con giải ở Hồ Gươm ấy!”. Tôi vô cùng yêu mến “nhà rùa học” Hà Đình Đức, người đã có trọn 15 năm nghiên cứu “cụ rùa” Hồ Gươm, và nhất nhất khẳng định rùa Hồ Gươm là loài rùa mới, có tên Rafetus Leloii, chứ không phải là con giải như hầu hết các nhà khoa học trong nước và thế giới phát biểu. Nhưng chuyện 100% người dân ở vùng đất dọc ven sông Hồng gọi “cụ rùa” Hồ Gươm là con giải, thì tôi cũng đành phải gọi “cụ rùa” Hồ Gươm là con giải cho dễ hỏi thăm. Hoàng hôn trên đầm Minh Quân. Cứ lần dò hỏi han dọc bờ sông Hồng, rồi tôi cũng có được địa chỉ của một người nổi tiếng… khắp xã Minh Quân (Trấn Yên, Yên Bái), đó là ông Hoàng Xuân Bốn. Ông Bốn không nổi tiếng vì giàu có, chơi sang hay có biệt tài gì, mà chỉ vì từ chục năm nay, liên tiếp có các nhà khoa học, có cả những ông Tây da trắng, cao lênh khênh đi ôtô xịn tìm gặp, thậm chí ăn ở nhà ông nhiều ngày chỉ để chụp ảnh, quay phim, ngắm nghía cái mai và cái sọ con giải đã mục. Họ tỉ mẩn hỏi ông về tập tính loài giải, cách săn giải, cách phát hiện ra giải và kết cục là họ muốn có một câu trả lời: Đầm Minh Quân còn giải khổng lồ hay không? Mỗi khi ra về, họ đều ngỏ lời được đẽo một mẩu mai rùa bằng đầu tăm để đem đi phân tích. Với người dân nơi dây, chuyện ông Bốn sở hữu cái mai rùa thì chả có gì đáng nói, bởi người dân nơi đây thường xuyên ninh mai rùa khổng lồ để nấu chuối xanh, hoặc đem nấu cao như nấu cao khỉ, đem pha với rượu uống tăng cường… khả năng đàn ông. Hoàng Xuân Bốn vừa trải qua cơn tai biến. Đã có không biết bao nhiêu lượt nhà khoa học trong và ngoài nước dựng lều, hoặc ở trọ trong các gia đình bên đầm Minh Quân, cái đầm khổng lồ ngay sau nhà ông Hoàng Xuân Bốn, chỉ để mong tìm được câu trả lời: Đầm còn rùa hay không? Họ thất bại hay thành công thì có giời mới biết. Dù có may mắn chụp được ảnh cụ rùa ngóc đầu lên mặt nước thở phì phò như trâu, hoặc bới được cả đống trứng rùa to như trứng ngỗng trên đảo lau sậy, thì họ cũng chả dại gì mà công bố cho đám săn “ba ba” mai mềm khổng lồ mò đến hành nghề. Loanh quanh mãi ở mấy cái đập của đầm Minh Quân, rồi tôi cũng tìm thấy nhà ông Hoàng Xuân Bốn. Nhưng mấy bà chỉ đường bảo: “Vào nhà ông ấy phải cẩn thận nhé, không vợ chồng ông ấy vác đòn gánh đánh cho té khói đấy!”. Ông Bốn kể về vụ săn rùa. Lý do mấy bà láng giềng đưa ra là bao nhiêu năm nay, gia đình ông Bốn đã quá mệt mỏi với việc đón tiếp các nhà khoa học, vừa mất thời gian, lại chả được lợi lộc gì. Tuy nhiên, theo họ, nguyên nhân chính khiến vợ chồng ông Hoàng Xuân Bốn nổi đóa là họ không muốn nhắc một từ, một chữ nào liên quan đến “cụ rùa” nữa, bởi theo họ từ sau khi ông Bốn giết “cụ rùa” khổng lồ kia, gia đình và bản thân ông Bốn gặp rất nhiều bất hạnh. Người dân quanh vùng kể rành rọt về những bất hạnh mà ông Bốn và gia đình phải gánh chịu sau ngày sát hại “cụ rùa”. Theo họ, thứ nhất là đứa cháu mới 6 tuổi bị mắc bệnh tự dưng nói năng nhảm nhí. Liệu đầm Minh Quân có còn loài rùa khổng lồ như thế này? Thứ hai, đúng một năm sau ngày làm thịt “cụ rùa” khổng lồ chiêu đãi hàng xóm, đôi mắt ông Bốn bỗng dưng mờ dần rồi mù tịt mà không rõ nguyên nhân. Vợ con phải đưa ông đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác chữa trị suốt mấy năm trời, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, đôi mắt ông mới bình thường trở lại. Tưởng rằng tai họa như vậy là “đủ” lắm rồi, nào ngờ, hai năm nay, ông Hoàng Xuân Bốn lại phải gánh thêm một tai họa không thể nặng hơn, với hai lần bị tai biến mạch máu não. Dù bị liệt nửa người với một cánh tay cứng đơ thừa thãi, dù mang làn da trắng bệch của người ít ra khỏi nhà, dù trí nhớ qua cơn "địa chấn" tai biến đã không còn rành mạch, song khi hỏi về vụ sát hại con giải khổng lồ, ông Hoàng Xuân Bốn vẫn kể lại với giọng vừa hào hứng vừa… sờ sợ. nguồn: xaluon.com Những tin đồn rùng rợn nơi mộ cô gái trẻ Mấy tháng qua, người dân xã Bối Cầu (Bình Lục, Hà Nam) xôn xao về những tin đồn, câu chuyện rùng rợn, ly kỳ về "ma nữ" chết trẻ chuyên "xui" trẻ em ăn đất và trêu thanh niên đi qua ngôi mộ ven đường. Để tìm hiểu thực hư về câu chuyện này, chúng tôi đã có mặt tại xã Bối Cầu gặp gỡ trực tiếp các nhân chứng. Những lời thì thầm bí ẩn ở xã Bối Cầu Khu nghĩa địa, nơi bé P. an nghỉ Chúng tôi về xã Bối Cầu vào những ngày trời mưa phùn, rét đậm. Những cánh đồng đang vụ cấy nhưng không một bóng người qua lại. Đến đầu thôn Ngọc Lâm, chúng tôi gặp một số học sinh cấp 3 đang đợi nhau đi học ở đầu làng. Hỏi những học sinh này về câu chuyện ma nữ trêu người, một nam học sinh nói nhỏ: "Chị ấy thiêng lắm, chúng em không dám kể đâu, anh vào làng mà hỏi". Cậu học sinh này chỉ tay về phía xa cho chúng tôi biết, mộ cô bé chôn cạnh đường, nơi mà chỉ cách chỗ tôi đứng chỉ hơn 100 mét. Câu chuyện bắt đầu vào tháng 6/2010, một thầy giáo đến xã Hương Công (cạnh xã Bối Cầu) dạy võ karate cho học sinh tiểu học. Để sang được xã Hương Công, phải đi qua nghĩa địa cạnh con đường chính. Lớp học võ thường tổ chức vào lúc 3h chiều. Chị Nguyễn H.T, một người dân xã Bối Cầu cho biết: "Tôi nghe người ta kể lại là một buổi chiều, có 4 học sinh học lớp 5 khi trên đường đi học võ về, bỗng nhiên một cậu bé tên Khương thôn Bối Cầu chạy qua các ngôi mộ khác, đến đúng ngôi mộ chôn cô gái trẻ ngồi ăn đất và luôn miệng khen ngon quá. Thấy lạ bạn bè xuống hỏi thì cậu ta liền bảo đang ăn xôi gà của một chị cho. Những đứa trẻ kia chạy về nhà gọi bố mẹ cậu bé ra đưa cậu bé về nhà. Được biết, sau đó, bố mẹ bé Khương đã bắt cậu đi đường khác nhưng một lần nữa, khi đi đến gần chỗ rẽ vào nghĩa địa, cậu lại chạy vào ngồi ăn đất". Khu nghĩa địa, nơi an nghỉ của bé P Người phụ nữ này ghé tai tôi thì thầm, ngày con bé mất, bố mẹ nó mời thầy cúng đến yểm bùa ở mộ và trước cổng nhà, nên bây giờ nó không về được nhà, phải đi lang thang ngoài đường. Gặp ai hợp tuổi, nó lập tức trêu ngay. Theo lời chỉ dẫn của chị H.T, chúng tôi tìm đến nhà anh Thưởng, chị Lan là phụ huynh của cậu bé Khương bị "ma nữ" dụ ăn đất, nhưng một hàng xóm của gia đình này cho biết, họ đã đi ăn giỗ ở huyện khác, không biết hôm nào mới về. Đến bây giờ, xã Bối Cầu còn rộ lên những tin đồn khiến cho người nghe phải "dựng tóc gáy". Chúng tôi tạt vào một quán nước ven đường hỏi chuyện, một người đàn ông trung niên kể lại: "Cuối năm ngoái, vào buổi tối, có một người tên Thuật ở làng Vọc (xã Vũ Bản) hành nghề buôn thóc đi xe máy qua con đường này. Khi đi đến nghĩa địa không biết "ma xui quỷ khiến" thế nào mà anh lại dựng cả xe trên đường, xuống mộ cô bé nói chuyện một mình. Sau đó, anh phóng xe máy về nhà cô bé P. đòi bố mẹ cô bán thóc. Mẹ cô bé tưởng anh nhầm nhưng khi anh nói tên và tả dáng người của cô gái kia, mẹ cô bé mới "ngã ngửa" ra. Anh bán thóc bảo, cô bé dẫn đến cổng thì tự nhiên biến mất" . Hay một tin đồn về chàng trai đến nhà bạn gái tìm hiểu, khi đi qua nghĩa địa cũng bỏ xe xuống mộ cô bé P. nói chuyện một mình. Mãi đến khi có một người câu ếch đi qua, thấy chàng trai ngồi đó một mình liền gọi dậy, anh chàng này cũng không biết tại sao mình lại "tâm sự" một mình ở nghĩa địa. Và câu chuyện một ông vào nhà cô bé mua bò. Đến khi dắt bò ra bị bò nhảy chồm lên giẫm vào người... Được biết, khi xuất hiện những tin đồn này, ban đêm, nhiều người không dám ra khỏi nhà. Cô gái đoản mệnh và "nhát cứa" của dư luận Khu nghĩa địa nơi có mộ của "ma nữ" có khoảng trên dưới 40 ngôi mộ được đặt cạnh con đường chính nối các thôn trong xã Bối Cầu với nhau. Cạnh khu nghĩa địa là một cây đa già cỗi, thân gốc xù sì. Những cơn gió đông đang rít trên cành lá phát ra những âm thanh khiến cho chúng tôi rợn người. Được biết, "ma nữ" mà người dân xã Bối Cầu hay kể là cô bé tên Chu Thị P., sinh năm 1991. Mới chỉ học lớp 9 qua đời vì căn bệnh giảm tiểu cầu. Lúc ấy, P. chỉ 17 tuổi. Trước đó, P. là một cô gái xinh xắn, ngoan ngoãn lễ phép, có thành tích học tập khá giỏi, được mọi người trong làng rất quý mến. Cô bé là chị cả trong gia đình gồm 3 chị em. Tâm sự với PV, anh Chu Văn Sơn, cậu ruột của cháu P. cho biết: "Năm 2007, cháu tôi thường xuyên bị chảy máu chân răng và rong huyết. Người bình thường thì rong huyết chỉ 4 - 5 ngày là hết nhưng cháu bị hơn 1 tháng trời. Thấy lạ, mẹ cháu nói với tôi. Chúng tôi đưa cháu đi bệnh viện khám và mua thuốc, cháu khỏi được 3 tháng sau đó lại bị lại. Lúc này, gia đình tôi đưa cháu đến Bệnh viện Bạch Mai khám lại, người ta kết luận cháu bị bệnh giảm tiểu cầu". Cả thôn Ngọc Lâm thương tiếc cho sự ra đi bất ngờ của cô bé. Cha mẹ của P. đã khóc hết nước mắt cho người con gái đoản mệnh. 3 năm trôi qua, tưởng chừng như vết thương lòng của gia đình bé P. đã lành, nhưng bỗng nhiên có tin đồn về "ma nữ" trêu người khiến cho vết thương tinh thần của gia đình cô lại thêm một nhát cứa. Chỉ là trò đùa của trẻ con? Trao đổi với chúng tôi, Chủ tịch UBND xã Bối Cầu - ông Trần Tuấn Anh cho biết: "Tôi cũng đã nghe được những tin đồn về chuyện "ma nữ" rủ trẻ cho xuống ăn đất, hay trêu những thanh niên... Tuy nhiên, chúng tôi chưa từng chứng kiến cũng như việc mọi người chỉ nghe tin đồn chứ chưa ai gặp nên không có căn cứ để kết luận. Theo tôi thì đó chỉ là việc người dân mê tín, tin vào những lời kể không đúng sự thật của những người có trí tưởng tượng phong phú". Ông Tuấn Anh chỉ tay về phía cánh đồng bảo: "Đấy, mộ con bé chỉ cách trụ sở UBND có hơn 50 mét, nhiều đêm tôi và các anh trong Ủy ban làm việc về muộn, đi qua mà có thấy gì đâu. Các anh cũng biết rồi đấy, tam sao thì thất bản. Câu chuyện một, họ truyền tai nhau, mỗi người thêm một tí là biến thành mười". Ông Trần Tuấn Anh - Chủ tịch UBND xã Bối Cầu Còn việc trẻ con "ăn đất" ở mộ "ma nữ" ông Tuấn Anh giải thích: "Tôi cho rằng lũ trẻ muốn trêu đùa nên thách thức nhau xuống mộ cô bé chứ làm gì có chuyện ma quái dụ người. Từ đó đến nay cũng không có thêm tin đồn nào nữa". Được biết, để tránh tâm lý học sinh sợ sệt khi đi học võ, UBND xã Bối Cầu đã trực tiếp mời thầy giáo dạy võ về tại xã mình giảng dạy. Lần theo tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông buôn thóc theo những lời đồn đại là từng bị ma trêu, chúng tôi tìm đến thôn Vọc, xã Vũ Bản. Khi đến đây, hỏi người tên Thuật hành nghề buôn thóc, cả thôn không ai biết. Ở làng bên có một anh tên Thuật nhưng khi hỏi đến chuyện "ma nữ" trêu người thì anh này hoàn toàn không nghe tin gì cả. Khi chúng tôi tìm đến nhà bé P., bố mẹ cô không có nhà, tiếp chúng tôi là anh Chu Văn Sơn, cậu ruột bé P. Anh Sơn tâm sự: "Việc xuất hiện các tin đồn đã khiến cho anh chị tôi rất đau lòng. Nhà tôi gần nhà cháu P. nhưng cũng chưa bao giờ nghe thấy anh chị tôi kể về người đàn ông bị ma dẫn đến nhà mua thóc, hay ông già mua bò bị ma nhập vào bò giẫm lên người... Theo tôi, tất cả chỉ là những câu chuyện mê tín của những người ngồi lê lắm chuyện, chứ làm gì có ma quỷ hiện về hại người".
-
Lý giải việc tìm mộ liệt sĩ qua giấc mơ Ở huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên - Huế), ông Nguyễn Viết Xu (còn có tên Nguyễn Xu, SN 1941), Đội trưởng Đội quy tập mộ liệt sỹ của xã Hương Xuân được khá nhiều người biết đến vì ông cho rằng mình đã từng tìm thấy nhiều ngôi mộ liệt sĩ qua những giấc mơ. Những giấc mộng lạ Theo lời kể của ông Xu, sau ngày đất nước giải phóng, ông giã từ quân ngũ, phục viên về quê. Đất nước đã thanh bình, cuộc sống đã bình yên nhưng ông vẫn mang nỗi niềm canh cánh: "Lòng vẫn chưa yên vì thương các đồng đội đã không thể trở về với gia đình, người thân, còn nằm lại trong những cánh rừng sâu, ngọn núi thẳm", ông chia sẻ. ông tự nguyện tham gia tìm hài cốt liệt sĩ với vai trò là Đội trưởng Đội quy tập mộ liệt sỹ của xã. Theo lời tự bạch, ông Xu phát hiện ra khả năng tìm mộ qua ...chiêm bao của mình bắt đầu vào tháng 5/2008. Mùa hè năm đó, đoàn tìm kiếm được lệnh tìm mộ liệt sĩ Ấu Triệu (tên thật là Lê Thị Đàn, trú tại Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên - Huế). Ấu Triệu trước khi hi sinh là thư kí của nhà yêu nước Phan Bội Châu. Trước khi lên đường, đoàn không có thông tin nào đáng giá ngoài việc biết bà đã hi sinh tại nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị). Ông Nguyễn Xu, người tự nhận có khả năng tìm mộ qua báo mộng Đêm trước ngày lên đường, không hiểu sao ông Xu trằn trọc, đến gần sáng thiếp đi, ông mộng thấy quang cảnh nhà tù Lao Bảo và phần mộ của liệt sĩ ấu Triệu, dù trước đó, ông chưa từng một lần đặt chân đến khu vực này. ông Xu kể lại: "Lúc đầu, tôi không tin vào giấc mơ nên giữ bí mật trong lòng, sợ kể ra thì mọi người lại chê cười mình là mê tín này nọ. Nhưng khi đoàn đến Lao Bảo, tôi sững người, bủn rủn chân tay bởi cảnh vật trước mắt y hệt trong mơ. Lúc này, tôi thắp nhang khấn vái rồi lấy nhà tù làm trung tâm để xác định vị trí ngôi mộ như đã được báo mộng. Mọi người đào sâu hơn nửa mét thì phát hiện hài cốt của bà ấu Triệu". Theo ông, cuộc sống của ông có chút thay đổi từ ngày ấy, hàng đêm ông luôn có những giấc mơ kì lạ, nhiều nhất là mơ về các đồng đội đã hy sinh. "Tôi nghe thấy tiếng đồng đội đang gọi tôi đâu đó", ông Xu nói. Bà Phạm Thị Lệ (62 tuổi, vợ ông Xu) cũng phát hiện ra sự thay đổi ở chồng mình: "Từ ngày ấy, chồng tôi bỗng có tư thế nằm ngủ khác người. Chân gác cao lên tường nhà như đang tập thể dục, rồi thường xuyên nói chuyện một mình khi ngủ". "Bí kíp" tìm mộ "Năm 2008 tìm được hơn 200 phần mộ liệt sĩ, năm 2009 tìm được 100 ngôi, năm 2010 tìm hơn 50 ngôi, năm nay vừa tìm được hơn 10 hài cốt...", ông Xu lật cuốn vở học sinh ghi chép những lần đi tìm hài cốt đồng đội nhẩm tính. ông cho biết, từ sau lần đi tìm mộ liệt sĩ ấu Triệu, ông liên tiếp xác định đúng vị trí của mộ nhiều liệt sĩ khác. Vì vậy, ngày càng có nhiều người tìm đến nhờ ông giúp đỡ. Có những tháng, ông chỉ ở nhà vài ba hôm, thời gian còn lại là những tháng ngày rong ruổi khắp núi rừng từ Quảng Nam đến Thanh Hoá, sang tận biên giới Lào, Campuchia... trong các chuyến quy tập mộ liệt sĩ. Vợ ông cho biết: "Hễ có ai nhờ là ông ấy lại khăn gói lên đường, lúc nào xong việc mới trở về, có hôm, vừa về tới nhà đã có người đến nhờ đi tiếp". ông Xu cho biết, để tìm mộ của liệt sĩ nào, ông chỉ cần thuộc lòng một vài thông tin như: Họ tên đầy đủ, năm sinh, quê quán, nơi hy sinh... Qua đó, nếu may mắn, trong giấc mơ ông sẽ tìm thấy. Ngay chính bản thân ông cũng không thể lí giải, đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay khả năng đặc biệt nào đó. Theo lời ông, với những gia đình ở xa có con em hy sinh trong chiến tranh tại Huế nhưng không có điều kiện về tận nơi, ông vẫn sẵn sàng giúp đỡ qua thư từ, điện thoại: "Tôi ghi lại tên tuổi, địa chỉ rồi lúc nào tìm thấy báo người ta đến nhận là được", ông Xu đưa chúng tôi xem những bức thư nhờ ông giúp đỡ gửi về từ khắp nơi. Như để minh chứng câu chuyện của mình, ông đưa ra bức thư cảm ơn của ông Mạc Tiến Khoát, quê ở Hưng Yên là thân nhân của liệt sĩ Mạc Tiến Quang. Thư đề ngày 14/1/2009 viết: "Nhờ khả năng của anh, gia đình chúng tôi đã đưa được hài cốt liệt sĩ Mạc Tiến Quang về quê. Gia đình tôi vô cùng cảm kích, không bao giờ chúng tôi quên ơn này...". Nhờ giấc mơ hay nhờ ký ức và kinh nghiệm? Để thẩm định thêm độ chính xác về câu chuyện của ông Nguyễn Xu, chúng tôi đã liên hệ với thân nhân một số liệt sĩ đã được ông Xu tìm mộ giúp. Anh Nguyễn Hồng Khoan (SN 1971), trú tại xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) là con của liệt sĩ Nguyễn Công Trứ (SN 1963) khẳng định: "Tôi từng tìm đến rất nhiều nhà ngoại cảm để xác định tung tích của người cha quá cố nhưng không có kết quả. Qua bạn bè giới thiệu, tôi đã đến nhờ bác Xu tìm giúp. Vị trí phần mộ do bác Xu tìm ra trùng khớp với vị trí trên bản đồ do người chôn cất bố tôi để lại". Trường hợp thứ hai là gia đình cụ Bùi Thanh (85 tuổi) trú tại số 111, Chi Lăng, TP Huế. Theo lời kể của cụ Thanh, em gái cụ là liệt sĩ Bùi Loan (SN 1922) hy sinh năm 1948 tại mặt trận Thanh Lương (Thừa Thiên - Huế). Chỉ với ít ỏi thông tin như vậy nhưng ông Xu đã tìm ra hài cốt liệt sĩ Bùi Loan trước sự kính nể của nhiều người. "Giữa hàng nghìn ngôi mộ vô danh, anh Xu đã tìm ra phần mộ anh tôi nằm ở hàng thứ 14, mộ số 6, lô 9A", ông Thanh cho biết. Chúng tôi cũng đã tìm đến chính quyền địa phương tìm hiểu sự việc. ông Ngô Quang Thảo, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Hương Xuân xác nhận: "Bác Nguyễn Xu tham gia tìm kiếm mộ đồng đội đã nhiều năm nay và nhiều lần thành công. Chúng tôi có nghe bác nói đến chuyện có những khi nằm mộng thấy địa điểm mộ liệt sĩ, nhưng thực hư như thế nào thì không ai biết được". ông Thảo cũng khẳng định: "Bác Xu còn là một người trưởng thôn mẫu mực, luôn đi đầu trong mọi hoạt động xã hội ở địa phương, từ trước đến nay tuyệt đối chưa từng có hoạt động mê tín dị đoan nào. Chưa khi nào có chuyện bác lợi dụng việc tìm mộ liệt sĩ để làm chuyện xấu". Anh Lê Ánh, một người dân trú tại thôn Thượng Thôn kể: "Có những gia đình ở tận Hải Phòng, Hà Nội... vào đây nhờ bác Xu tìm giúp hài cốt con em mình. Cứ mỗi khi tìm được là thế nào người nhà cũng định quay lại hậu tạ tiền bạc, lễ vật rất hậu hĩnh nhưng bác Xu nhất quyết không nhận một nghìn tiền lẻ". Bản thân ông Xu cũng băn khoăn: "Tôi có phải thần thánh gì đâu, không phải mộ nào tôi đều tìm thấy cả. Ngoài giấc mơ, tôi luôn lấy kinh nghiệm của mình làm thước đo cho sự chính xác. Ngày trước, tôi hoạt động ở vùng rừng núi Thừa Thiên - Huế nên nắm rất rõ địa bàn hoạt động của từng đơn vị. Từ đó, đối chiếu với thông tin do gia đình cung cấp có thể xác định được đồng chí nọ, đồng chí kia có thể hy sinh tại địa điểm như trong giấc mơ hay không. Trường hợp nào logic thì mình kiểm tra, triển khai tìm kiếm. Có rất nhiều gia đình tìm đến nhờ tôi giúp đỡ nhưng tôi không thể, với những trường hợp không đáng tin cậy thì mình không thể phát ngôn bừa được". Kết thúc câu chuyện, ông trầm ngâm: "Nếu có thể, tôi cũng rất mong các nhà khoa học tìm hiểu về trường hợp của tôi ra sao. Cũng có lẽ những ký ức về đồng đội một thời gắn bó không bao giờ phai nhạt, luôn day dứt khiến đêm đêm tôi lại có những giấc mơ kỳ lạ về những người còn đang nằm lại nơi chiến trường xưa?". nguồn: 24h.com.vn
-
Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ Vua Quang Trung? Giadinh.net - Cái chết của vua Quang Trung vốn đã chứa đựng quá nhiều điều bí mật, không những thế, tháng 11 năm 1801, vua Gia Long lại cho phá huỷ nơi chôn cất ông và san thành bình địa. Hơn 200 năm qua, vị trí lăng mộ Quang Trung chính xác ở nơi nào vẫn là dấu hỏi lớn? Và đã có quá nhiều giả thuyết gây nên những cuộc tranh cãi đến mức căng thẳng. Chúng tôi đã có cuộc hành hương về thành Phú Xuân (Huế) xưa, và ghi chép được rất nhiều điều lạ... Không rõ rằng, chuyện tìm mộ Quang Trung Hoàng đế và mộ Thành Cát Tư Hãn, câu chuyện nào chứa đựng nhiều bí ẩn hơn? Mộ thiêng trong hoang phế Người đầu tiên tung “quả bom tấn” ra dư luận về vấn đề lăng mộ Quang Trung là ông giáo Trần Viết Điền - Giảng viên môn Vật Lý trường ĐH Sư phạm Huế. Trước những tranh cãi cho rằng, lăng Ba Vành là lăng Đức ý hầu Lê Quang Đại, một vị quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát đã chết vào đầu năm 1746, bằng phương pháp vật lý, ông Điền đưa ra 5 luận cứ nhằm vén bức màn bí mật và lật lại hoàn toàn vấn đề, khẳng định lăng Ba Vành chính là lăng mộ Quang Trung. Lăng Ba Vành đổ nát Phế tích lăng Ba Vành Lăng Ba Vành nằm ở ngọn đồi Thiên An, phía Tây thành phố Huế. Một người chăn bò ở gần đấy thấy chúng tôi lụp xụp áo mưa tìm lên lăng thì lắc đầu nửa tin nửa ngờ. Theo như ông biết, cách đây hàng vài chục năm đã có nhiều người đến đây đào bới nghiên cứu. Nhưng đấy là chuyện của thời ông mới lấy vợ. Còn giờ đây, khi con ông đã sắp lập gia đình, cái lăng mộ cổ này vẫn vậy và càng ngày, nó càng bị trâu bò ngứa sừng đào bới cho tung toé. Ông vạch cây, rẽ lối chỉ đường cho chúng tôi mò đến tận lăng. Theo ý ông Điền, lăng Ba Vành chính là lăng mộ Vua Quang Trung. Thế nhưng tại sao những người đời sau lại cho rằng đấy là lăng của Đức ý hầu Lê Quang Đại? Tìm tòi ròng rã nhiều năm, ông Điền phát hiện ra rằng đã có nhiều người tìm cách biến nơi này thành... một ngôi mộ giả! Phế tích lăng Ba Vành nằm giữa rừng thông bạt ngàn và chằng chịt bởi những lùm bụi mâm xôi. Cây rựa trong tay người chăn bò tốt bụng khua lên loang loáng. Một khoảng tường thành xây dựng bằng các phiến đá to chồng lên nhau thấp thoáng hiện ra sau đám cỏ cây rậm rạp. Những viên gạch sứt mẻ, nhưng với “người trần mắt thịt” như chúng tôi vẫn có thể hình dung ra đấy là một bức tường đã từng được xây rất kiên cố. Vừa phạt quang bụi rậm, người đàn ông có đôi bàn tay vàng khè của một người tứ mùa làm ruộng kể: Cách đây gần 20 năm, khu vực này còn có cả khỉ. Đường lên lăng gồ ghề, xóc nẩy. Thi thoảng có việc lên núi lấy củi, ông thấy một số viên đá to, dài cả sải tay bị đổ cạnh lăng đã bị cỏ mọc trùm lên. Ngoài ra, còn có một số bức phù điêu có khắc chữ đã mòn trắng bị trẻ chăn bò đập phá rồi ném cách lăng đến 5m. Một thời gian sau, có nhiều nhà khoa học đến đây. Họ phát quang cây cối cả một vùng, rồi đào bới nhặt nhạnh từng mảnh vỡ về ghép lại để nghiên cứu và mở ra nhiều chi tiết lạ kỳ của một ngôi lăng tưởng như đã chìm trong hoang phế. Tôi nhớ lại lời của ông Trần Viết Điền trước khi mình khăn gói lên tận Thiên An xem lăng: “Ba Vành trước đây là lăng của một vị quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát tên là Lê Quang Đại đã chết vào đầu năm 1746. Sau đó, vua Gia Long cho san thành bình địa tất cả các địa điểm có liên quan đến vua Quang Trung. Lăng Ba Vành hoang phế từ đấy. Vì bị cỏ cây che lấp nên ai cũng tưởng ngôi lăng có qui mô vừa. Chúng tôi đã phát lộ và dùng thước đo đạc mới thấy qui mô của lăng, dẫu đã bị quật phá nặng vẫn có quy mô rất hoành tráng”. Ngôi lăng độc nhất vô nhị Điều đầu tiên đập vào mắt sau khi đoàn nghiên cứu của thầy trò Trần Viết Điền phát lộ cây cối là nhìn toàn cảnh, lăng Ba Vành có hình elip với các trục lớn 60m, trục nhỏ 40m. Quy mô của một ngôi lăng như thế này là quá hoành tráng, chưa kể tân nguyệt trì (hồ trăng non) bên cạnh. Lăng gồm 3 uynh thành ghép lại. Uynh ngoài hình móng ngựa, kết thúc bằng hai trụ cửa khá lớn. Uynh thứ hai có hình cong ngược với 4 phù điêu có hình voi đắp nổi. Uynh trong cùng là hình tượng hai con cù dậy, ôm nấm mộ xây có hình mai rùa, còn đầu rùa như ngậm cái bia thẻ. Các uynh thành có một trục đối xứng hình học và trục này theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, nghiêng Bắc góc 60o. Còn đường thần đạo của lăng, vuông góc với trục đối xứng vừa nêu, tọa hướng càn (Đông Nam- Tây Bắc, nghiêng Bắc 30o). Đây mới là hướng chính của ngôi lăng. Trục nhỏ này là trục đối xứng của nhà bia có đế chữ thập, từng có bia thờ, đã bị ai đó băm nát, cắt đầu bia, gọt tai bia... Nghiên cứu sâu thêm, ông Điền hốt hoảng nhận ra giữa uynh thành 2 và uynh thành 3 có một hầm hình hộp, nhận đường thần đạo làm trục đối xứng và hiện nay nắp hầm còn ở bờ tân nguyệt trì trước lăng. Nắp này là một phiến đá lớn được gọt đẽo mà thành. Theo các nhà khoa học, hầm này có khả năng chứa các đồ thờ và chủ yếu là các vật tùy thân của chủ nhân ngôi lăng. Khảo sát miệng hố, đục cái nấm xây và đoán hướng huyệt của ngôi mộ, ông nhận thấy về phương pháp vật lý và dịch lý Đông phương, thi thể của chủ nhân ngôi lăng nằm theo hướng thần đạo, đầu tọa tốn, chân hướng càn, bên trái chủ nhân là 3 cung liền, và bên phải chủ nhân là 3 cung đứt (đó là 3 cửa vào lăng). Người thiết kế lăng đã xử lý rất tuyệt diệu về phong thủy và dịch lý Đông phương. Theo đường thần đạo mà tính, 3 uynh thành tạo thành quẻ càn kép (bát thuận càn), theo hướng vuông góc với đường thần đạo mà tính thì đạt quẻ thái (quẻ khôn ghép với quẻ càn). Đây là lý do ngôi lăng này có đến 3 uynh thành đăng đối hình học và cả đăng đối dịch lý. Các lăng mộ ở Huế, trừ lăng các vua, không tìm thấy ngôi lăng thứ hai nào như vậy. Những hoa văn kỳ lạ Điều mà ông Điền khám phá ra là hai con cù dậy tìm thấy trong mộ là tiền thân của con rồng bởi chúng có cái sừng đắp nổi, hoàn toàn khác với giống cù như một số tài liệu trước đó đã có. Mô tip trang trí này cũng thuộc loại độc nhất vô nhị ở Huế. 4 phù điêu đắp nổi 4 con voi ở uynh thành thứ 2 đều được xác định không phải hình tượng voi chầu, cúp vòi phủ phục như vẫn thấy ở lăng mộ vua chúa triều Nguyễn, triều Lê. Voi ở lăng Ba Vành uốn vòi lên trên, cặp ngà cũng chĩa lên và đặc biệt trên đầu voi cũng... mọc sừng. Toàn bộ công trình kiến trúc lăng mộ được thiết kế nhất quán theo thuật phong thuỷ và dịch lý phương Đông. Hoa văn, sừng voi, ngà voi, sừng cá sấu, mí mắt cá sấu, các dải hồi văn luôn có một vạch liền nét (chỉ dương) và thành phần thứ hai là hai vạch đứt xếp lại, nhỏ hơn, khép nép, e ấp (chỉ âm). Đây cũng là một lối trang trí độc đáo nữa, chứng tỏ người thiết kế rất uyên thâm dịch lý và rất yêu kính chủ nhân ngôi lăng. Theo khám phá ban đầu của ông Điền, tân nguyệt trì bên phải ba uynh thành có chữ nguyệt, bửu thành có chữ nhật. Nhật nguyệt nghĩa là Minh, ý chỉ người nằm trong lăng là bậc minh quân: “Nghiên cứu các lăng tẩm của các vua và mẹ vua ở Huế, chúng tôi nhận thấy một qui luật là chỉ có nhà vua từng lên ngôi và hoàng thái hậu (mẹ vua) khi mất, xây lăng mộ mới có Tân nguyệt trì, cha của vua mà không làm vua thì trước lăng không được xây Tân nguyệt trì. Lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Thành Thái, lăng Khải Định và lăng mẹ của các vị vua này đều có Tân nguyệt trì và đương nhiên có nhà bia thánh đức thần công, với đế chữ thập. Như vậy, lăng Ba Vành có đủ các cấu kiện độc đáo: nhà bia có bệ chữ thập, trước bửu thành có Tân nguyệt trì mà chỉ có bậc đế vương mới được xây dựng trang trí như thế, bởi một ông quan thời phong kiến, dù có tiền nhiều cũng không dám xây lăng như thế này vì dễ mang tội khi quân”. Mười năm nghiên cứu một... loại gạch Để chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua Quang Trung một cách khoa học và thuyết phục, ông Điền đã dốc toàn lực trong 10 năm chỉ nghiên cứu một loại gạch phát hiện được trong lăng mộ này. Và để chứng minh đây là loại gạch của Tây Sơn sản xuất và sử dụng trong các công trình kiến trúc văn hóa, ông Điền đã phải sưu tầm các loại gạch được sản xuất và sử dụng từ thế kỷ 14 đến nay trên đất Thuận Hóa. Ông Điền và những viên gạch thời Tây Sơn Nơi đầu tiên ông khăn gói quả mướp đến tìm hiểu là đàn Viên Khâu của thời đại Tây Sơn ở Núi Bân. ở đàn Viên Khâu còn một số mảnh gạch thẻ nung non, dày 2cm, rộng 12cm, dài 14cm. Sau đó nhóm ông đã kiểm chứng kết quả ở những công trình kiến trúc mà Tây Sơn có tôn tạo, dựng thêm... Không ngại gian khổ, ông đã đến Khải Thánh Từ (nơi mà sau này trở thành Văn miếu của triều Tây Sơn) đã từng có mở thêm học cung, nghĩa là có xây dựng bằng gạch Tây Sơn. Thật thú vị và bất ngờ lớn nhất là ở đây còn rất nhiều loại gạch đã phát hiện ở Núi Bân. Ông lại tiếp tục lên chùa Thiền Lâm, nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên trưng dụng làm dinh thự của Thái sư và đã phát hiện rất nhiều loại gạch Tây Sơn như vậy... Ông lại khăn gói về tận Bãi Dâu, đến miếu Ông Mọi, nơi từng thờ một vị chỉ huy người Ba Na tử trận năm Bính Ngọ 1786, rồi lên chùa Linh Mụ... thật lạ, tất cả những nơi này đều có rất nhiều gạch của Tây sơn. Để khẳng định chắc chắn thời Tây Sơn có một loại gạch riêng, ông đã tiến hành kiểm chứng loại gạch này ở các công trình thuần thời Nguyễn như lăng các bà vợ của chúa Nguyễn... thì không phát hiện loại gạch nào như vậy. Ông Điền đã quay lại khảo sát cả vùng đồi Thiên An và tìm thấy trong lăng Ba Vành và xung quanh còn rất nhiều gạch Tây Sơn cùng loại. Như vậy, theo ông Điền, lăng Ba Vành là công trình kiến trúc do Tây Sơn xây dựng. Đi tìm mộ vua Quang Trung: Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ Vua Quang Trung? (2) Giadinh.net - Nếu trước đây, các nhà sử học cho rằng Lăng Ba Vành là của Đức ý hầu Lê Quang Đại thì càng khám phá lăng, ông Trần Viết Điền càng bàng hoàng nhận thấy nhiều chứng cứ giả đã được tạo ra trên các tấm bia bị quẳng lăn lóc ở quanh lăng. Việc làm có chủ đích của một người nào đó chăng? Mộ thật, mộ giả Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ Vua Quang Trung? (1) Khởi nguồn chuyến hành trình đi tìm lăng mộ của ông giáo Điền được bắt đầu cách đây 20 năm. Đó là cuộc gặp gỡ với cụ Nguyễn Hữu Đính (nguyên Chủ tịch UBMTTQ TP Huế), người đã dựa vào các dữ kiện lịch sử, quan niệm phong thủy và quan niệm chọn sính phần của vua chúa Việt Nam để rồi nhận: Lăng Ba Vành chỉ có thể là lăng Quang Trung được triều Tây Sơn ngụy trang để phòng nguy cơ Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân rồi tàn phá. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông Đính trước đó đã không có nhiều sức thuyết phục. Đến lượt mình, ông Điền quyết định tìm lăng mộ Quang Trung cùng hướng với cụ Đính nhưng theo cách riêng của mình. Thông tin đầu tiên ông đưa ra khiến giới nghiên cứu Huế choáng váng: Ông khẳng định lăng Ba Vành không phải lăng của ý Đức hầu Lê Quang Đại, một vị quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát và chết vào đầu năm 1746, như công bố trước đây. Chứng cứ đầu tiên mà ông đưa ra là bài viết đăng trên báo Đại Chúng vào năm 1974. Trong bài viết đó, khi trả lời về sự tích lăng Ba Vành cho một vị linh mục người Pháp, một chức sắc làng Cư Chánh (nơi lăng Ba Vành ngự trị) cho biết, đó là ngôi mộ xưa, nguyên đắp ba lớp thành, thường xưng là Ba Vành, bỏ phế đã lâu, chỉ lưu lại tòa bia đá bị phá hủy. Đặc biệt, trong giấy tờ để lại vào năm 1901, lý trưởng làng lúc đó có tên Nguyễn Bút đã đồng ý cho Cơ mật viện có tên là Bá Khương đem thân nhân hình như là người cha chôn vào lăng ấy. Còn tại tờ phúc bẩm của Bộ Lễ thì Bá Khương khai rằng, mộ ở Lăng Ba Vành là của Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quý Công (tức Lê Quang Đại). Như vậy nếu nói rằng lăng Ba Vành chỉ là lăng của ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại thì quá đáng ngờ. Vậy mộ thật của Lê Quang Đại ở đâu? Ông Điền đã tìm đến họ Lê, một dòng họ thuộc hàng danh gia vọng tộc ở Huế và phát hiện ra một chi tiết quan trọng: Họ Lê của làng Xuân Hòa (gần chùa Thiên Mụ) có ông tổ từng giữ chức Hộ Bộ (thượng thư) kiêm Binh Bộ. Rà soát Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, chỉ có 4 vị từng giữ chức Hộ Bộ kiêm Binh Bộ thời chúa Nguyễn, đó là các ông Trần Đình Hy, Nguyễn Thừa Tự, Lê Quang Đại và Hoàng Ngọc Uẩn . Ông Điền cho biết: “Tôi lại tiếp cận gia phả họ Nguyễn ở làng An Hòa, có Nguyễn Cư Trinh là rể của ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại. Vợ Nguyễn Cư Trinh là bà Lê Thị Màn, có tên trong gia phả gốc của họ Lê Xuân Hòa. Ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại là chủ nhân ngôi mộ nằm trong khuôn viên miếu Khai canh của làng Xuân Hòa. Vậy tại sao người ta lại làm hồ sơ để ông nghiễm nhiên nằm ở lăng Ba Vành”? Bằng các lập luận và bằng chứng, ông Điền khẳng định Toà khâm sứ Pháp xứ Trung kì đã từng làm hồ sơ giả để hợp thức hoá chủ nhân lăng Ba Vành là của ông Lê Quang Đại. Theo ông Điền, tại Hội nghị về Quang Trung được Hội lịch sử Thừa Thiên Huế tổ chức trước đây, nhiều nhà khoa học đã công nhận lăng Ba Vành chưa có chủ nhân. Nghĩa là Ông Lê Quang Đại phải trở về Miếu khai canh ở làng Xuân Hòa và nhường lăng Ba Vành lại cho các nhà nghiên cứu. Ai đang nằm trong lăng? Ông Điền thuật lại, trong hai cái bia mình tìm được vào năm 1986 (gồm một cái cao lớn, kiểu bia thẻ và một cái bia hình chữ nhật nhỏ hơn) thì cả hai tấm bia đều đã bị đục nát chữ. Có người đã lấy xi măng trát vào mặt bia và khắc thêm các dòng chữ mới một cách vụng về để nguỵ trang. Có thể thấy, nhóm làm hồ sơ giả cho chủ nhân ngôi mộ trước đó và nhóm thao tác trên bia là một. Còn về thông tin người nằm dưới mộ là Bá Khương, ông Điền lý giải: Trong khi mộ của thân phụ của ông Bá Khương là ông Bá Bình đã được gia táng ở gần Đàn Nam Giao thời triều Nguyễn. Thế thì ông Võ Bà Khương đã đưa ai vào chôn tại lăng Ba Vành? Ông Điền cho biết, sau năm 1975, GS Phan Huy Lê đã dùng búa gỡ lớp xi măng nói trên dòng chữ “Cảnh Hưng Thất Niên Tứ Nguyệt...”. GS tạm kết luận Lăng Ba Vành là lăng của Lê Quang Đại, không phải lăng của hoàng đế Quang Trung. Tuy nhiên, theo ông Điền trong những dòng chữ này có nhiều điều đáng ngờ. Thứ nhất văn khắc thì hay nhưng tai bia và đế bia đều đã bị gọt và phá đến mức quá cẩu thả. “Với góc nhìn phong thủy và đăng đối dịch lý, chúng tôi tin rằng bia này nguyên thủy là bia thờ, đại diện cho linh hồn chủ nhân ngôi mộ, và nó đăng đối trên đường thần đạo của lăng. Sau này bia bị phá nát, chỉ còn lại như một tảng đá và bị ai đó khắc chồng lên 4 chữ “Sơn nhạc chung linh” nhằm mục đích làm sai ý đồ thiết kế của ngôi lăng”. Điều kì lạ là trên vết hỏng những chữ đã bị đục, người ta tiếp tục dùng đục khắc vào vị trí chữ thứ 2 mà theo ông Điền, có thể là chữ NGUYÊN đã bị đục thành chữ THẤT. Chữ THẤT này nét đá quá cao như chữ thảo, trong khi bia được khắc theo lối chữ chân. “Chúng tôi đã đo độ sâu những nét chữ giống nhau thì thấy quá lệch nhau; chứng tỏ người ta đã sửa bia sao cho phù hợp với năm mất của ông Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại”.Ông Điền cùng các học trò đã tỉ mỉ cạo lớp rêu bám vào mặt bia thì thấy ở phía trên, góc trái có khắc một chữ “LA” (ý nói bắt được) và góc phải có khắc dòng chữ “NHÂM TUẤT MẠNH ĐÔNG”. Đầu bia phía này, lai đục hình một lưỡi mác nhỏ, rất sắc sảo, biểu tượng chủ nhân ngôi mộ bị trảm quyết. Bên dưới lại có dòng chữ được khắc vụng về: “TỰ TÔN VÕ BÁ ĐẠM PHỤNG LẬP”. Dòng này mới khắc thêm vào với ý đồ lái niên đại “Nhâm Tuất mạnh đông” nói trên sang một năm khác. Những năm NHÂM TUẤT trong lịch sử gồm: 1742, 1802, 1862, 1922, 1982. Dễ dàng loại năm 1742, 1862, 1982 vì không đúng thời điểm. Chỉ còn hai năm 1802 và 1922. Nếu ông Bá Khương lập bia, chí ít phải lập từ 1901 đến 1906, nhưng giai đoạn này không có năm Nhâm Tuất. Như vậy, có thể ai đó đã đưa người cháu Võ Bá Đạm vào, đóng vai trò lập bia cho ông nội với những dòng khắc vụng về trên lớp vữa mới được đắp lên mặt bia. Với cách xử lý này, việc ông Võ Bá Đạm lập bia vào năm 1922 là quá hợp lý. “Không may cho kẻ gian, chúng tôi rà soát trong gia phả của dòng họ Bá Khương, ở làng La Ỷ không có ông Bá Đạm dựng bia một cách “vô lễ” và “tồi tệ” với ông nội của mình đến như thế. Vậy hai người cháu LÊ XUÂN, Võ Bá Đạm chỉ là hai nhân vật “hư cấu” của bộ hồ sơ giả mà thôi”. Như vậy, theo nghiên cứu của ông Điền, chủ nhân Lăng Ba Vành chính là Vua Quang Trung nhưng đã có một bàn tay tạo “chứng cứ” giả để “hạ giá” ngôi lăng thành mộ của một vị quan. Đi tìm mộ Vua Quang Trung: Cung điện Đan Dương và những bí mật chưa từng khám phá (3) Giadinh.net - Cùng với nghiên cứu lăng mộ Vua Quang Trung của ông Trần Viết Điền, tại khu vực gò đồi Bình An, gần Chùa Thiền Lâm, Nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân cũng đã khai quật ra nhiều bí ẩn chưa từng được công bố. Một đường huyền đạo chạy xuyên dưới nền nhà, nhiều gạch đá lạ có hoa văn đẹp và một số phiến đá như những tấm bao quanh quách quan tài. Những phát lộ này phần nào vén bức màn bí mật về một Phủ Dương Xuân tráng lệ và dưới đó có an táng Vua Quang Trung. Chuyện truyền kỳ về tìm mộ Vua Quang Trung Khám phá của ông Xuân đã được nhiều nhà sử học xem là đúng đắn và các di vật được công nhận là có giá trị lớn, xác thực. Tuy nhiên, một số ý kiến nghiên cứu cho rằng, không phải Phủ này đã bị Gia Long quật phá mà nó đã được ai đó chủ động di dời cải táng.Bí ẩn quanh chốn Thiền Lâm Chùa Thiền Lâm được khai sơn vào cuối thế kỷ 17, trên gò đồi Bình An thuộc làng Bình An - Huế. Tương truyền, đây là nơi dành cho gia đình các chúa tụng niệm mỗi lần họ lên trú đông tại Phủ Dương Xuân gần đấy. Trong sử sách, Chùa Thiền Lâm và Phủ Dương Xuân của thời Nguyễn là hai ngón tay trên một bàn tay. Cùng với sự biến mất một cách bí ẩn của Phủ, ngôi chùa cũng đã bị xoá sổ trong một thời gian dài trước đó. Điều kỳ lạ, khoảng năm 1987, khi Tì kheo Thích Chơn Trí đến đây khai hoang, dựng lại ngôi chùa, ông đã phát hiện nhiều kỷ vật bí ẩn dưới lòng đất, cùng nhiều lăng bia bị đục nát. Nơi đầu tiên chúng tôi tìm đến là ngôi chùa chất chứa toàn bộ bí mật về hành trình tìm mộ Quang Trung của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân. Chùa nằm trên đỉnh gò đồi Bình An, thuộc xã Dương Xuân và bị cắt ra làm hai bởi con đường Điện Biên Phủ. Hoà thượng Thích Chơn Trí giờ đã là trụ trì chùa Thiền Lâm kể: Khi ông cùng một số đệ tử đến đây, chùa chỉ có một chánh điện và một điện thờ mẫu mục nát, không có nơi ăn, ở. Xung quanh chùa toàn là mộ địa. Thầy trò ông phải đào đất trồng rau chống đói. Khi đặt những nhát cuốc đầu tiên, ông bàng hoàng thấy đầu cuốc nẩy lên toé lửa vì chạm phải gạch đá lạ. Đào bất cứ chỗ nào trong vườn chùa, ông cũng chạm phải các hố gạch vồ, đá cổ. Hàng ngàn viên gạch vồ, mấy chục viên đá tảng và hàng chục viên đá khối khác đã được khai quật. Điều lạ lùng là các viên gạch có màu đỏ như son. Thậm chí nhiều viên còn nguyên cả khuôn dấu cổ. Thầy trò ông mang những viên gạch son này rửa sạch, những viên còn lành ông để xây tường, những viên bị bể thì đem đập ra đúc bờ lô. Các viên đá tảng, đá khối được dùng xây hồ nước, làm đôn kê chậu cảnh. Điều đáng ngạc nhiên, tại ngã ba đường lên chùa Vạn Phước (cạnh chùa Thiền Lâm) cũng có hai phiến đá táng cột cỡ 45x45cm được chôn xuống mặt đường. Những viên đá này được nghi ngờ là có xuất xứ từ một cung điện lớn hiếm có. Gần đây, khi TP Huế kiên cố hoá lại đường sá, hai viên đá quý này bỗng dưng biến mất. Người dân xung quanh khu vực đất chùa Thiền Lâm cho biết, ở vùng này trước kia người ta đào được hàng trăm viên đá như thế và đã bán dần cho các thợ làm bia mộ. Những viên xấu không làm bia được, dân mới đem ra lát đường. Đi theo con đường này khoảng vài chục mét, người ta phát hiện ra nhiều đống gạch ngói, vôi vữa cũ được vun thành bờ rào phía sau chùa Vạn Phước. Đống phế liệu này chứng tỏ đã có những công trình kiến trúc cổ bị triệt hạ. “Giếng Loạn” Cách Chùa Thiền Lâm khoảng nửa cây số, ngay cạnh con suối Tiên và một hồ sen bán nguyệt (giờ đã trồng đầy rau răm) là chùa sư nữ Diệu Đức. Quanh khu vực chùa Diệu Đức, ông Xuân còn khám phá nhiều giếng cổ kỳ lạ. Giếng cổ được xây bằng những viên đá to xếp chồng lên nhau và là nguồn nước sinh hoạt chính của chùa. Nó vốn bị bỏ hoang và được ông Phó bảng Nguyễn Đình Hiến, nguyên Phủ doãn Thừa Thiên phát hiện vào năm 1930 khi ông đến chơi vùng này. Không ai đo được độ sâu của giếng là bao nhiêu, nhưng dân chúng thì khẳng định mùa hè nước mát lạnh như đá, mùa đông lại ấm áp kỳ lạ. Đặc biệt giếng chưa bao giờ cạn trong khi những giếng đào mới của dân xung quanh vẫn bị khô vào mùa hạn. Ném một viên đá xuống nước, tiếng động vọng lên nghe rất âm và thanh. Người địa phương cho biết giếng thường được gọi là “giếng loạn”. Trở lại bờ Bắc con suối Tiên và hồ bán nguyệt, ông Xuân lại khám phá thêm được một “giếng loạn” thứ hai. Giếng này đã bị chùa Thiền Lâm lấp vào năm 1992. Theo ông Xuân, cùng với các tấm bia và giếng cổ, chứng tỏ đây là một vùng từng có đông người ở, về sau bỏ hoang và phải chăng vì liên quan đến chuyện “binh loạn ” với Tây Sơn? Mả loạn Ở phía trái con đường đi qua Giếng Loạn, người dân phát hiện ra nhiều ngôi mộ tập thể. Mỗi ngôi vun cao và dài như những vồng khoai lớn. Một số mộ hoang này đã có ở đó từ xưa, một số mới dời vào đây khi người Pháp làm đường Nam Giao Tân Lộ và tất cả đều được đặt tên là “mả loạn”. Một điều lạ lùng nữa là khi gia đình ông Nguyễn Văn Minh (ở sát chùa Diệu Đức) phá nhà làm lại, đã vô tình phát hiện thấy dưới nền nhà có 27 bộ xương cốt chồng lên nhau. Ông Minh sợ quá, vội chuyển 27 bộ xương ấy ra táng ở vườn nhà của mình. Nhiều người dân ở đây cũng cho biết, chung quanh chùa Thiền Lâm cũng tìm thấy nhiều hố tro cốt của nhiều người từng bị dập xuống như ở nhà ông Minh. Tấm bia đá đã bị mài nhẵn hết chữ, đặt trên lưng rùa và được dựng tại sân sau chùa Thiền Lâm Theo ông Xuân hồ nghi, phải chăng những hài cốt vô danh này chính là hài cốt của quân Tây Sơn thua trận đã bị quân Nguyễn tàn sát và chôn tập thể khi Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân hồi đầu thế kỷ XIX? Cùng với những giếng cổ đã từng cấp nước uống cho các lực lượng của Tây Sơn trong cung điện Đan Dương bị miệt thị là “giếng loạn”, hàng trăm ngôi mộ hoang đã mấy thế kỷ nay cũng được gọi với cái tên dân gian “mả loạn” để chỉ những gì thuộc về quân Tây Sơn.Cung điện trong lòng đất Qua những hiện vật phát hiện ở chùa Thiền Lâm, ông Xuân khẳng định chùa đã bị dời đi và sau này được xây dựng lại trên một khu đất đã từng vùi lấp một kiến trúc hoành tráng nào đó từng bị triệt phá. Những gạch vồ, đá lát, đá táng cột, đá tảng, đá trang trí ở đầu cột trụ và nhiều loại đá có hình thù khác nhau không thể của dân chúng trong bất cứ thời đại nào mà là một vùng cung điện vua chúa. Ở đây chính là Phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn. Như vậy, Phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn và Cung điện Đan Dương của Vua Quang Trung là một. Nghĩa là Vua Quang Trung khi lên ngôi đã cải tạo Phủ Dương Xuân thành Cung điện Đan Dương. Vì thế sau này, khi Vua Quang Trung băng hà vào cuối 1801, quan quân nhà Nguyễn đã trả thù bằng cách quật phá và vùi Cung điện Đan Dương xuống đất. Khu vực Cung điện Đan Dương đã rõ khi xác định được nó toạ lạc trên vòng tròn: Chùa Thiền Lâm, chùa Vạn Phước (nơi có các đống vôi vữa cũ vun thành đống) và chùa Diệu Đức (nơi có các giếng loạn có chứa trong lòng những bức liễn và mả loạn). Chỉ còn câu hỏi: “Lăng mộ vua Quang Trung ở đâu trong Cung điện Đan Dương?”. Địa điểm huyệt mộ táng Vua Quang Trung đã bị quật phá cụ thể ở chỗ nào trong khu vực cung điện này? Để xác định chính xác nơi tồn tại huyệt mộ trong khu vực khả nghi có tồn tại Cung điện Đan Dương, Ông Xuân đã mời thầy địa lý Dương Văn Sinh xác định địa điểm và quyết định thám sát thử. Thật bất ngờ, hàng trăm câu chuyện huyền bí cũng được lật lên theo từng nhát cuốc. Đi tìm mộ Vua Quang Trung: Những phiến đá bọc mộ và bí mật huyệt đạo (4) Giadinh.net - Theo cách tính toán của thầy địa lý Dương Văn Sinh, nếu có huyệt mộ chắc chắn chỉ có thể nằm trong khu vực nhà của chị em ông Nguyễn Hữu Oánh, ngay dưới chân chùa Vạn Phước. Thật ngỡ ngàng bởi chính từ ngôi nhà này, hàng trăm câu chuyện có thật được nhuốm một màu huyền bí đã dần dần được hé lộ. Những viên đá lạ Ngôi nhà giấu trong lòng đất vô số những điều bí ẩn đó nằm dưới con dốc trước cổng chùa Vạn Phước. “Nhân chứng sống” Nguyễn Hữu Oánh, chủ nhân ngôi nhà vẫn còn bàng hoàng chưa quên được những điều bất thường mà gia đình ông đã trải qua trong thời gian gần đây. Chuyện truyền kỳ về tìm mộ Vua Quang Trung Kỳ 1: Lăng Ba Vành có phải là lăng mộ Vua Quang Trung? Kỳ 2: Hồ sơ một lăng mộ cổ Kỳ 3: Cung điện Đan Dương và những bí mật chưa từng khám phá Theo lời ông Oánh, đời thứ nhất được tính từ ông nội ông Oánh là lý trưởng nhưng con đông, vợ mất sớm. Lúc ấy, có người con gái nói giọng Nghệ An văn hay chữ tốt đi buôn qua Phá Tam Giang bị mất sạch đồ đạc và nguyện đến xin làm vợ thứ của ông lý trưởng và trở thành bà nội ông Oánh từ đấy. Sau đó, bà đã lập một am thờ lớn hơn bất cứ am nào trong khu vực và giải thích với con cháu nôm na là am thờ người khuất nào đó. Khi bà qua đời, con cháu vẫn chưa biết quê quán bà ở đâu, có họ hàng gì với anh em nhà Tây Sơn không và liệu cái am bà lập có phải là để thờ vua Quang Trung hay không? Ông Oánh nhớ lại cụ thân sinh mình từng kể, khi họ tộc ông đến đây, xung quanh làng mạc trắng xoá nhưng kỳ lạ là dưới lòng đất có nhiều mả loạn và giếng loạn. Khi canh tác, cụ thân sinh ông Oánh bắt gặp nhiều dấu vết của những thành quách đã bị sập, những công trình xây dựng bị chôn vùi dưới lòng đất. Thậm chí, sau lưng nhà ông vẫn còn tồn tại một giếng loạn rất sâu. Đáng ngạc nhiên hơn là vào khoảng năm 1925, trong lúc đào đất làm vườn, đầu cuốc của cụ đã chạm phải 4 tấm đá lớn. Tấm đá có chiều dài hơn 2m, rộng chưa đầy 1m và dày 3,5cm. Tấm đá này thuộc loại đá granít, mặt trên được mài trơn nhẵn, mặt dưới thô ráp còn hằn rõ vết đẽo của một loại dụng cụ thô sơ. Khi đào được những phiến đá lạ, gia đình ông Oánh tự giải thích đây là những hiện vật của một ngôi “mộ Chàm” nào đó, nên đã bán cho dân Phủ Cam một tấm, cho một người thân ở Bến Ngự một tấm, một tấm bị bể và tặng chùa Vạn Phước một tấm. Đặc biệt, trong lúc canh tác đất đai, gia đình ông phát hiện rất nhiều vật liệu xây dựng ẩn tàng dưới đất. Thậm chí, gia đình ông còn đào được cả một hầm gạch nguyên trong lòng đất, đủ xây một ngôi nhà. Cũng trong thời gian này, cụ thân sinh ông Oánh cũng đào được nhiều tượng đá. Tuy nhiên, chúng tiếp tục bị chôn xuống vườn nhà vào năm 1947 và gia đình không thể nhớ nổi là góc nào. Còn 4 phiến đá lạ, giờ chỉ còn duy nhất một tấm đang được dùng làm mặt bàn nhà bếp chùa Vạn Phước. 3 tấm kia đã hoàn toàn thất lạc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân khẳng định: “đây rất có thể là những phiến đá bọc quanh huyệt mộ để bảo vệ quan tài Vua Quang Trung. Còn những tượng này phải chăng đã từng được dùng để trang trí lăng Đan Dương?”. Bí mật đạo huyệt Theo lời ông Hữu Oánh, dòng họ của ông là dòng họ đầu tiên khai canh nên làng Bình An. Và nếu đúng như gia phả để lại, thì ông chính là hậu duệ thứ 13 của Vua Quang Trung. Khi phát hiện những dấu tích thành quách, gia đình cho rằng đây là thủ phủ của người Chăm Pa. Gia đình ông đã tận dụng toàn bộ vật liệu đào được để xây nhà to, lát sân, làm cổng to hoành tráng. Nhưng rồi đến năm 1982, ông phá tan cả cửa nhà, gánh toàn bộ gạch đá lên biếu nhà chùa. Ông Oánh nhớ lại, quả đúng gia đình ông đã từng gặp được một huyệt mộ bí ẩn. Trước năm 1945, người Nhật chiếm chùa Thiền Lâm làm doanh trại. Sợ máy bay Đồng Minh thả bom, dân Bình An quanh chùa Thiền Lâm đều phải đào hầm tránh bom. Khi đào hầm trú ẩn trong vườn nhà, gia đình ông gặp một đường hầm xây kiên cố đã bị lấp đầy đất. Vét hết đất trong hầm, cả nhà khoảng chục người dắt díu nhau xuống tránh bom. Lúc ấy, bà Nguyễn Thị Liên, chị gái ông Oánh mới 12 tuổi, hay bồng ông mới 6 tuổi xuống hầm. Vì quá nhỏ, nên sau này cả hai không nhớ đường hầm nằm vị trí nào trong vườn nhà. Để xác định lại vị trí huyệt mộ, năm 1988, bác sĩ Dương Văn Sinh, một thầy địa lý nổi tiếng ở Huế đã đến xem quanh khu vực chùa Thiền Lâm. Ông xác định, nếu có huyệt mộ Quang Trung thì nhất định phải ở trước vườn nhà ông Oánh, và ở phía Tây nhà bà Nguyễn Thị Liên hiện nay. Nghe “ông thầy địa” nói vậy, bà Liên không dám giấu điều bí mật mà bà đã cố tình giấu lâu nay và công nhận: “đường hầm ở khoảng ấy”. Ngày 17/12/1988, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân và nhiều nhà sử học đầu ngành ở Huế đã tiến hành khai quật gần chục điểm quanh chùa Thiền Lâm để thám sát. Đến đầu hè phía tây ngôi nhà của bà Liên, khi đào xuống sâu nửa mét, cả nhóm thám sát bàng hoàng khi gặp một lớp thành dày chạy dọc theo hiên phía tây ngôi nhà. Mặt trong của thành nằm sâu dưới nền nhà. Đào sâu thêm 1,5m vẫn chưa đến chân thành. Đào dọc theo bức thành 3m vẫn chưa giáp với hai đầu bức thành. Bà Liên xác nhận: “cái đường hầm nằm dưới nền nhà tôi không thể đào sâu thêm được nữa, đào thêm nữa nhà sẽ sập”. Việc thám sát đành phải dừng lại. Lấy vôi vữa của bức thành xem xét thì thấy, vôi vữa này giống vôi vữa còn bám ở tấm đá đang dùng làm mặt bàn trong nhà bếp chùa Vạn Phước và cũng giống với những vôi vữa lộ thiên hay chôn dưới đất thỉnh thoảng còn tìm thấy chung quanh khu vực chùa Thiền Lâm. Đây là loại vôi vữa trộn bởi mật mía, vôi nung từ vỏ sò, vỏ hến và cát. Đặc biệt những vỏ sò, vỏ hến này được giã bằng chày nên còn nguyên “mày” lấm tấm trong vôi. Đem so sánh với một số công trình khác, ông Xuân thấy di tích được ẩn dưới lòng nhà bà Liên có trước nhà Nguyễn, khớp với giai đoạn lịch sử xuất hiện khu lăng mộ vua Quang Trung. Trong khi chờ các nhà khảo cổ vào cuộc, ông Xuân kết luận: “Tấm đá lớn đang giữ ở nhà bếp chùa Vạn Phước và bức thành bên ngoài đường hầm (được xem là kim tỉnh hay khuôn tỉnh), ở chái phía tây nhà bà Nguyễn Thị Liên, là dấu hiệu của huyệt lăng mộ Vua Quang Trung đã bị quật phá”.
-
Trước tiên xin cảm ơn đến các chư vị và bác Học Trò đã có thành ý giúp đỡ! Nhân tiện bác Học Trò nói đến Cụ Tả Ao, tò mò nên tìm và thấy post lên để mọi người chưa biết được biết: Các Giai thoại về Cụ TẢ AO Tả ao Phong thủy nhất trên đời Họa phúc cầm cân định chẳng sai. Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất, Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời. Chân đi Long Hổ luồn qua gót, Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời. Ai muốn cầu sao cho được vậy Ấy ai Địa lý được như ngài. Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả Ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả Ao thuộc tỉnh Hà tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh , gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Nhờ vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ bôn ba theo thầy Tàu và được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già.Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng.Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn ,cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình. Tương truyền khi học xong nghề thầy, ân sư người Tầu thử tài môn đệ trước khi "tốt nghiệp" : ông thầy chôn 100 đồng tiền xuống mô hình bãi cát rồi bắt cụ Tả Ao cắm kim vào đúng lỗ mỗi đồng. Cụ Tả Ao châm đúng giữa 99 đồng, chỉ có hơi lệch 1 đồng. Thầy Tầu than: "Thôi nghề của ta từ nay truyền sang nước Nam rồi!", ông thầy Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho. Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ. Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả ao ( Làng Tả ao ), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống. Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của cụ Tả Ao là chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định: cụ đi tới làng Hành Thiện thấy đất làng hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh. Dân làng nghe cụ nói bèn hậu đãi trà rượu và khẩn khoản xin cụ đặt lại hướng làng. Cụ Tả Ao thấy dân làng tử tế liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng. Cụ Tả Ao đi xem đất suốt từ Nghệ Tĩnh ra các làng mạc ở khắp miền Bắc và trong gia phả của nhiều gia đình còn ghi lại những công trình địa lý phong thủy của cụ. Nhiều chuyện khôi hài do quần chúng thêm thắt như chuyện cụ Tả Ao thấy dân làng kia rất xấu tính mà lại xin cụ để kiểu đất nào có thể "đè đầu thiên hạ", cụ liền tìm cho làng một kiểu đất khiến dân làng dần dần theo nghề "húi tóc" có thể "đè đầu vít thiên hạ" đúng như ý nguyện! Tương truyền cụ đang đi chơi ngoài bãi biển thấy sóng gió nổi lên ầm ầm biết là hàm rồng 500 năm mới há mồm một lần ở biển Đông, liền chạy về nhà mang cốt mẹ ra định ném xuống hàm rồng, nhưng vì thương tiếc chần chờ nên hàm rồng đóng lại, biển khép êm sóng lặng như trước! Lúc sắp chết, cụ dặn con cháu khiêng mình ra miếng đất đã định trước là đất địa tiên "nhất khuyển trục quần dương" (một con chó đuổi đàn dê), nhưng không kịp đành dừng lại nửa đường phân kim lựa cho chính mình một miếng đất phúc thần đời đời ăn hương hoa mà thôi. Tương truyền ông để lại 2 bộ sách về địa lý: Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca) 120 câu Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền Sau này có nhiều dị bản chép lại và có nhiều tên khác: Địa lý Tả Ao di thý chân chính pháp Tả Ao chân truyền di thý Tả Ao chân truyền tập Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo tàng Tả Ao tiên sinh địa lý Tả Ao tiên sinh thý truyền bí mật cách cục Bản quốc Tả Ao tiên sinh địa lý lập thành ca -------------------------------------------------------- Truyền thuyết về Tả Ao thành Phúc Thần như sau: Sau nhiều năm bôn ba tầm long, Tả Ao đã chọn cho mình chỗ an táng khi về già theo thế ĐỊA TIÊN"nhất khuyển trục quần dương" ( Con chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai . Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên. Tả Ao có 1 đệ tử tin cậy và khi ông mất người trò sẽ theo lời dặn dò để an táng Thầy vào đó, nhưng khi Thầy trò từ Trung Quốc về thì trên đường không may người trò bị ốm dịch mất. Tả Ao có hai người con trai nhưng do chu du thiên hạ, không màng dang vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi, biết mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến chỗ ấy, rồi nằm dưới mộ và tự phân kim lấy, dặn con cứ thế mà chôn. Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi , không thể kịp được nên Tả Ao bèn chỉ một gò bên đường có thế "huyết thực" mà dặn con rằng: "Chỗ kia là ngôi huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế". Hai con bèn táng luôn ở đó, sau Ngài thành Phúc Thần một làng (Nam Trì). Trong đình Nam Trì có câu đối của Tả Ao nói về địa lý, phong thuỷ Nam Trì: "Tây lộ khê lưu kim tại hậu - Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền" nghĩa là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng tây bắc hành kim) – phía đông làng có sông nước tụ làng nhìn về hướng nam (hướng nam hành hoả). Sau này dân làng Thờ Tả Ao như Thành Hoàng làng . Theo sưu tầm ĐÂY LÀ 1 CUỐN SÁCH QUÝ CỦA CỤ PHẦN MỀM XEM SÁCH
-
Các bài thuốc dân gian trị cảm cúm hiệu quả [123Suckhoe] - Cảm cúm là bệnh thường gặp, đặc biệt trong thời điểm giao mùa hiện nay, cảm cúm luôn là nỗi lo không chỉ riêng ai. Dưới đây là bài thuốc dân gian của một số nước trên thế giới, được cho là mang lại hiệu quả cao: 1. Mỹ - Súp gà nóng Tại Mỹ, soup gà nóng được coi là “penixilin dạng lỏng” trị cảm cúm vô cùng hiệu quả. Những thành phần dinh dưỡng và nhiệt độ cao(khi ăn nóng) có tác dụng làm giảm chứng ho, đau họng, chảy nước mũi, rùng mình, mệt mỏi… 2. Phần Lan - Nước ép hồng lựu (nho Hy Lạp) Hồng lựu là loại quả mọng không những có tác dụng trị cảm cúm mà còn có tác dụng hiệu quả trong việc ngăn ngừa amiđan sưng tấy. Hồng lựu rất giàu vitamin C (nhiều hơn gấp 4 - 5 lần lượng vitamin C trong cam quýt). 3. Ấn Độ - Canh gừng Gừng là bài thuốc dân gian được ưa chuộng hàng đầu trong trị cảm cúm của người Ấn Độ và người Trung Quốc. Uống một bát canh gừng cay, còn nóng hổi sẽ giúp người bệnh toát mồ hôi, đào thải các chất cặn bã ra khỏi cơ thể, nhanh chóng chấm dứt cơn cảm cúm khó chịu. Xắt gừng thành những miếng nhỏ, cho gừng đã xắt nhỏ vào đun sôi trong khoảng từ 5 - 10 phút theo tỷ lệ 4 muỗng gừng 1 cốc nước. Sau đó cho thêm chút đường đỏ (đường đỏ có tác dụng giữ ấm dạ dày), uống nhiều lần một ngày, đặc biệt nên uống trước khi đi ngủ. Người Ấn Độ còn xay nhỏ gừng tươi để đắp lên ngực hoặc lên trán người mắc cảm cúm có tác dụng làm giảm cảm giác khó chịu và giảm nhiệt độ cơ thể nếu sốt cao. 4. Người da đỏ (Bắc Mỹ) - Dễ cây rau sam đắng Gốc rau sam đắng được người da đỏ Bắc Mỹ vô cùng coi trọng trong việc trị đau họng, khàn giọng và cảm cúm. 5. New Zealand - Nước chanh mật ong Nước chanh mật ong là phương pháp chữa cảm cúm truyền thống của ngườiNew Zealand. Cách làm vô cùng đơn giản: Đun nước sôi ở nhiệt độ cao nhất tiếp đó cho nước cốt chanh vào tiếp tục đun sôi, cuối cùng cho thêm chút mật ong vào là có thể dùng được. Người New Zealand cho rằng, mật ong có tác dụng giảm đau họng, nước chanh lại giúp nâng cao hệ miễn dịch một cách hiệu quả. 6. Nam Phi - Bia gừng tươi Dùng gừng tươi trị cảm cúm là bài thuốc truyền thống của rất nhiều nước trên thế giới, Nam Phi cũng không ngoại lệ. Người Nam Phi thích dùng gừng tươi kết hợp với bia để trị cảm cúm. Họ bỏ 2 muỗng mật ong, nước chanh và gừng tươi vào 1 cốc bia, tiếp tục cho thêm vài giọt dầu khuynh diệp vào cốc bia rồi từ từ uống. Loại nước uống này có tác dụng làm giảm cảm giác đầy bụng, khó chịu, ngạt mũi, đau họng… Nguồn: Dân Trí
-
Chữa viêm gan siêu vi B bằng cây chó đẻ Bác Lê Chí Trung đã gặp được thầy thuốc giỏi và tận tâm, chẩn đoán đúng bệnh của bác là viêm gan siêu vi B. Sau đó bác được bạn bè giới thiệu sử dụng cây chó đẻ sắc nước uống mỗi ngày để trị bệnh như trong thư bác kể. Đến nay bác đã khỏe hẳn, sống lạc quan và thoát căn bệnh hiểm nghèo. Chúng tôi xin bổ sung vài ý kiến về cây thuốc trên. Cây chó đẻ hay còn gọi là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu, tên khoa học là Phyllanthus amarus, có thành phần hoạt chất gồm alcaloit, flavonoit, vitamin C..., Trong kinh Vệ Đà của Ấn độ đã ghi tác dụng chính của cây là giải độc và bảo vệ tế bào gan. Những năm sau này nhiều công trình của các nhà khoa học Trung Quốc, Nhật, châu Mỹ Latin, Philippines, Cuba, Nigeria, Guam, Bắc Phi và Tây Phi cũng đã công bố cây chó đẻ chữa bệnh vàng da và viêm gan siêu vi B. Các nghiên cứu trên thực nghiệm của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã chứng minh cơ chế tác dụng của cao chó đẻ chính là ức chế sự sao chép tế bào của virus viêm gan B (HBV), không cho virus sinh sản. Giáo sư S. Jayaram và các cộng sự của đại học Madras (Ấn Độ) thử nghiệm trên 28 người tình nguyện đã nhiễm virus viêm gan B, uống liều 250mg chó đẻ từ 1-3 tháng, tỉ lệ người khỏi bệnh là 54,5%. Nếu trích ly hoạt chất và bào chế ở dạng viên nang 200mg, uống ba lần trong ngày, sau 15-20 ngày điều trị, tỉ lệ khỏi bệnh là 59%. Cây chó đẻ còn được chứng minh có tác dụng điều hòa huyết áp, đó là công trình nghiên cứu kết hợp giữa Nhật và Paraguay. Bên cạnh sử dụng cây chó đẻ, bác Trung còn ăn uống kiêng cữ, cai rượu, thuốc lá, giảm ăn chất béo, điều đó giúp gan không bị nhiễm độc, cũng không phải làm việc quá tải mà còn tăng cường hoạt động của gan. Đông y còn chú trọng yếu tố tinh thần, thái độ lạc quan, yêu đời, năng tập luyện thể dục, những điều đó cũng góp phần cải thiện cho gan. Chính nhờ những điều trên, bác đã phục hồi sức khỏe, không còn lo lắng buồn phiền vì căn bệnh trên nữa. Bác Nguyễn Viết Kỹ chỉ nói mình bị viêm gan siêu vi mãn tính (mà không nói rõ loại gì) và đã sử dụng vừa thuốc tây thuốc nam, nhưng bệnh không thuyên giảm, bác sĩ lại khuyên không được uống chó đẻ răng cưa. Vì vậy theo bài viết của chúng tôi, bác có thể tham khảo về cây chó đẻ để hiểu tác dụng của nó. Nếu bác đã có đầy đủ các kết quả xét nghiệm và muốn sử dụng thuốc nam, bác nên đến các phòng khám y học cổ truyền có uy tín để được chẩn đoán chính xác hơn trước khi quyết định dùng cây diệp hạ châu hay không. Không nên nghe lời khuyên của người quen khi chưa có kết quả chẩn đoán chuẩn xác. DS Lê Kim Phụng (ĐH Y dược TP.HCM)
-
Nhưng gia đình cháu lại không có điều kiện thưa bác Học trò!
-
@dantri.com,vn: Sáng nay, 3/4, Hà Nội tiến hành diễn tập vây bắt cụ Rùa lần thứ 3. Lần diễn tập thứ 3 này đã được chuẩn bị khá cẩn thận, trước đó ngày 15/3, tại hồ Văn Quán (Hà Đông), hơn 20 chiến sĩ đặc công nước và hàng chục nhân công khác thuộc Tập đoàn KAT đội mưa luyện tập bài “Dẫn dắt cụ Rùa về nơi chữa trị” với tấm lưới dài 200m, nặng gần 1 tấn. Đây cũng là lần diễn tập vây bắt đầu tiên. Và ngày hôm qua 2/4, là lần diễn tập thứ 2. 17h2 phút, cụ Rùa được đưa vào bể chữa bệnh, tấm lưới bọc trắng cũng được gỡ ra. Như vậy, cuộc diễn tập đã kết thúc bằng cuộc lai dắt cụ Rùa thành công My link @vnexpress.net Toàn cảnh cuộc quây bắt rùa hồ Gươm Sau nhiều tháng chuẩn bị, chiều 3/4, rùa Hoàn Kiếm đã được đưa về đảo Rùa ở giữa hồ để chữa trị. Cuộc quây bắt kéo dài gần trọn ngày, với 2 lần bắt hụt, trước sự quan tâm chứng kiến của hàng nghìn người.My link Kết luận: Dị nhân nói đúng!
-
rất mong các bác giúp đỡ!
-
Cuộc sống ngổn ngang trăm mối khiến chúng ta đôi khi rơi vào trạng thái stress đầy lo âu và phiền muộn. Cần làm gì để có thể vượt qua những khó khăn này? Bài viết dưới đây sẽ cho bạn một chiếc chìa khoá, hoặc ít nhất qua cách nhìn về tư duy tích cực của tác giả, biết đâu bạn sẽ tìm được chiếc chìa khoá mở cánh cửa Bình an và Hạnh phúc cho riêng mình. “Hãy nhìn phần nửa đầy của ly nước, thay vì nửa vơi” Không cần nhờ đến cô hoa hậu hoàn vũ 2005 Natalie Glebova nhắc tới trong đêm chung kết cuộc thi, châm ngôn này và các biến thể của nó vốn dĩ đã khá quen thuộc với chúng ta. Đây chính là một ví dụ sống động và thuyết phục về cách nhìn tích cực một vấn đề. Mặc dù, thực tế nước trong ly chỉ còn một nửa, nhưng người có tư duy tích cực sẽ nhìn vào phần còn của ly thay vì là phần vơi. Một người thất tình có thể tự dằn vặt bản thân: “Cô ta lừa dối tôi, cô ta phản bội tôi, cô ta lợi dụng tôi”. Nếu là bạn của người đó, tôi sẽ khuyên anh ta hãy học cách quên điều này đi mỗi khi vô tình hoặc cố tình nhớ đến, vì bây giờ nó chỉ là chuyện của cô ta mà thôi. Chuyện của anh là hãy chữa trị nỗi đau mà anh đang phải chịu đựng. Hãy nhìn vào thực tế vấn đề và nếu không đơn giản hóa nó được thì ít ra đừng phức tạp nó thêm. Một người nếu đã rèn được cho mình lối tư duy tích cực sẽ có thể đối mặt với vấn đề này theo cách đại lọai như là: “Thật may mắn vì tôi cũng đã từng có được những tháng ngày hạnh phúc” hoặc “Chúng tôi đã có một thời thật đẹp”. Tư duy tích cực mang đến sự bình an và thăng hoa cho tâm hồn. Đó là hướng của những người biết cách sống, biết cách yêu thương và biết cách tha thứ cho mình và cho người... Để rồi một ngày khi gặp lại, bạn tôi có thể cười với nàng bằng một nụ cười chúc phúc thay vì ngoảnh mặt đi với sự tức giận vì quá khứ. Phân loại tư duy Người ta thống kê rằng mỗi ngày trí óc ta sản sinh ra khoảng 30.000 đến 50.000 ý nghĩ. Trong con số khá lớn này, liệu có bao nhiêu ý nghĩ là có ích và bao nhiêu đã làm mất năng lượng một cách vô ích? Để phân loại chúng, người ta chia ý nghĩ thành bốn nhóm: Tư duy Tích cực: Là những suy nghĩ có lợi không những cho mình mà cho cả người khác như: tự tin, lạc quan, yêu thương, bao dung, đoàn kết… Tư duy Tiêu cực: Là những suy nghĩ làm tổn hại đến mình và đến người khác như: tự ti, ganh tỵ, mặc cảm, ích kỷ… “May mà tôi không vớ phải cô ta!” cũng thuộc nhóm câu “Nho trên cành còn xanh lắm!” có lợi cho mình, nhưng không có lợi cho người khác (vì cô ấy đang bị bạn nói xấu). Tư duy Lãng phí: Là những suy nghĩ “rác”, nghĩ vơ vẩn về những gì đã qua hoặc chưa đến làm tiêu hao năng lượng và mất thời gian của hiện tại. Một thí sinh trong phòng thi mà lại mơ tưởng đến chuyến đi nghỉ sắp tới hay tưởng tượng thầy giám thị tặng cho đáp án thay vì tập trung vào làm bài thì thật là đang tư duy lãng phí. Tư duy Cần thiết: Là những suy nghĩ cần thiết về công việc đang phải làm, đang phải giải quyết. Như thầy cô giáo thì phải suy nghĩ về bài giảng, diễn viên suy nghĩ cách nhập vai hay người hùng thì phải nghĩ cách chứng minh điều đó... Lối tư duy góp phần quyết định chất lượng cuộc sống của mỗi chúng ta. Tất cả các ý nghĩ sinh ra dù cần thiết hay không, dù tiêu cực hay tích cực thì nó cũng làm ảnh hưởng đến cảm xúc, lời nói và hành động. Và vô hình trung nó cũng sẽ ảnh hưởng hoặc tốt hoặc xấu đến chúng ta tùy theo điểm xuất phát của nó thuộc loại tư duy nào. Mối liên hệ giữa chúng có thể được biểu diễn bằng lược đồ sau: Một ví dụ: Chồng của Ly hôm nay về muộn. Hai cách phỏng đoán sau đây của Ly sẽ mang tới những kết quả trái ngược nhau. Cách một: Chắc là lại đi uống rượu với bạn bè? Hay đi hẹn hò với cô thư ký? Hay bị tai nạn xe?… Cơ thể: nét mặt thể hiện sự lo lắng, căng thẳng, lời nói cáu gắt, đứng ngồi không yên, gọi điện cho hàng xóm, bố mẹ, bạn bè và khi chưa có kết quả thì bất an và giận dữ. Các mối quan hệ: hàng xóm, bố mẹ và bạn bè cũng bị bận tâm và suy nghĩ về vấn đề của gia đình Ly. Bầu không khí: trong nhà trở nên căng thẳng, bức bối và nặng nề. Cách hai: Có lẽ cơ quan có việc đột xuất! Hay gặp gỡ bạn bè để tạo mối quan hệ! Hay về thăm bố mẹ bên ấy! Chúng ta không bàn về lý do thật sự tại sao chồng Ly về muộn, nhưng rõ ràng là với cách nghĩ tích cực này thì Ly đã không tự tạo một áp lực gì cho mình và cho xung quanh ít nhất là trong khoảng thời gian trước khi chồng về. Đó là lý do vì sao chúng ta dễ dàng cảm nhận được sự tươi vui ấm cúng khi đến những gia đình hạnh phúc ngược lại sẽ thấy khó chịu và ngột ngạt với bầu không khí thường xuyên xung đột, thiếu vắng sự thương yêu. Hoặc bạn có thể dễ dàng thấy sự ảnh hưởng tâm trí hoàn toàn khác nhau giữa bầu không khí tại một thánh đường, một thiền viện so với bệnh viện hay một nhà lao. Nếu nhận thức đúng sự ảnh hưởng cũng như tầm quan trọng của tư duy đối với tự thân và môi trường xung quanh, phải chăng chúng ta cũng cần như các doanh nghiệp uy tín ngày nay, phải cho sản phẩm ý nghĩ qua giai đoạn kiểm tra chất lượng (KCS) trước khi nó thể hiện bằng lời nói và hành động. Cuộc sống sẽ rạng ngời biết bao khi các ý nghĩ của ta đều mang tên “tích cực”. Stress và cách giảm thiểu stress bằng tư duy tích cực Ngược lại với tư duy tích cực, cách suy nghĩ tiêu cực cũng mang lại những hậu quả không nhỏ. “Tiêu cực” không chỉ gồm những suy nghĩ không có lợi cho mình và không có lợi cho người khác. Một cách nhìn nhận sai lệch quy luật cuộc sống hoặc không dám chấp nhận sự thật cũng có thể được xem là tiêu cực. Chứng STRESS (trầm cảm) chính là một hậu quả điển hình của những các ý nghĩ tiêu cực. Stress của dây đàn là giai đoạn căng quá mức của nó trước khi bị đứt. Kết quả cuối cùng của sự giải thoát khỏi stress là hoặc là điều chỉnh lại độ căng hoặc là để cho nó đứt. Người không muốn thoát hoặc không biết cách thoát khỏi nó một cách đúng đắn nhất thì có thể gọi là người tiêu cực. Áp lực thật nhiều và đa dạng, và hầu hết chúng ta thường cho rằng áp lực là do môi trường hoặc hoàn cảnh đem lại. Nhưng mức độ STRESS do một áp lực tạo ra sẽ là lớn hay nhỏ, trầm trọng hay nhẹ nhàng lại được quyết định phần nhiều bởi cái cách chúng ta “hứng đòn”. Không có tiếng vỗ của một bàn tay, STRESS lớn lên khi chúng ta không còn đủ năng lượng (sức mạnh nội tâm) để đáp trả cái gọi là “áp lực” trong cuộc chiến đấu mà chúng không hiểu đối thủ là ai. Vì vậy mức độ Stress mà một người phải chịu đựng có thể được xác định bằng công thức sau: Nhìn vào công thức trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng mình có thể giảm STRESS cho bản thân nếu giảm được áp lực phải gánh chịu và tăng sức mạnh nội tâm. Chúng ta có thể giảm bớt hoặc loại bỏ một số áp lực về quá khứ hay về tương lai chẳng hạn. Nhiều những chuyện không hay đã qua rồi nhưng chúng ta vẫn ôn đi ôn lại để rồi cảm thấy ray rức, hối tiếc hay thù hận đến mức không muốn hoặc không thể thoát ra được. Và với tương lai cũng vậy… Các bạn tôi nói rằng những điều tôi vừa chia sẻ đều là lý thuyết. Đúng là như thế! Vậy thì hãy vận dụng nó để xây dựng cuộc sống đẹp và chất lượng hơn. Vấn đề còn lại là thời gian và sự chiêm nghiệm cuộc sống của từng người. Trong thời gian chờ đợi đến khi chúng ta ngộ ra và sống hết mình bằng những loại tư duy đều mang tên “tích cực”, tôi xin chia sẻ với các bạn một phương pháp giảm STRESS bằng “Nguyên tắc S.O.S ” sau đây: Khi không thích một kênh truyền hình nào đó đang xem thì chúng ta sẽ làm gì? Sẽ chuyển sang kênh khác hoặc là tắt đi. Khi trên đường gặp một vụ kẹt xe? Chúng ta sẽ dừng lại, quan sát xem chuyện gì đang xảy ra, nếu có thể qua được thì chúng ta sẽ tiếp tục đi về phía trước, nếu không thì quay lại hay tìm một con đường khác. Hãy xử lý tương tự như thế với STRESS. Luôn ghi nhớ rằng bạn luôn có ít nhất một chọn lựa khác. Hãy dừng lại, tạm thời tách mình ra khỏi mớ rối rắm đó, quan sát trên tầm rộng hơn, thoáng hơn, khách quan và lạc quan hơn. Cuối cùng là chọn lựa, hành động và sẵn sàng chịu trách nhiệm với sự chọn lựa đó. Ngoài ra tôi cũng xin mách nhỏ với các bạn một phương pháp để tăng sức mạnh nội tâm để có thể “chiến đấu tốt” với áp lực bên ngoài đó là luyện tập yoga và thiền định. Những bài tập Yoga sẽ giúp tăng cường sức khỏe, cân bằng tâm lý, tự tin và yêu đời hơn. Và Thiền định là một bước cao hơn, khi bạn tập Yoga đến mức thuần thục thì Thiền định là một bước tiến cuối cùng mà các Yogi không thể bỏ qua. Thiền định sẽ giúp bạn tự chủ hơn, mở rộng cánh cửa yêu thương trong tâm hồn và tiến gần đến chân lý sống. Tuy nhiên tôi vẫn mong bài viết này không có ý nghĩa gì với các bạn cả vì điều đó có nghĩa là các bạn đang sống thực sự hạnh phúc và hoàn toàn tích cực theo công thức riêng của mình.
-
Cao nhân tất hữu cao nhân trị. Chỉ tiếc mình không đủ giỏi,,,,
-
Vì bên mục Phong thủy cháu không có quyền trả lời nên cháu đành post ở đây! Một lần nữa kính mong các bác giúp đỡ! Trân trọng cảm ơn!
-
Rùng mình tiên đoán hiểm họa 2014, 2016? Nữ tiên tri mù nổi tiếng Vanga đã nói, năm 2011, những đợt mưa phóng xạ sẽ ảnh hưởng và tiêu diệt mọi sinh vật ở Bắc bán cầu… Bà Vanga (người Bulgari) được cả thế giới biết đến và ngưỡng mộ bởi khả năng tiên tri của mình. Sau một biến cố thuở ấu thơ, bà bắt đầu có khả năng nhìn trước được tương lai. Bà đã từng báo trước về chiến tranh và cái chết của rất nhiều người, trong đó có chồng bà. Nữ tiên tri Vanga từng tiên đoán năm 2011, những đợt mưa phóng xạ ảnh hưởng và tiêu diệt mọi sinh vật ở Bắc bán cầu. Tiếp đó, người Hồi giáo sẽ tiến hành cuộc chiến tranh hóa học chống lại những người châu Âu còn sống sót. Hai tiên đoán về thế giới vào năm 2011 đang trở thành hiện thực? Mưa phóng xạ liệu có phải là ngụ ý nói đến thảm họa hạt nhân đang xảy ra ở Nhật Bản. Từ sau khi nhà máy điện hạt nhân số 1 Fukushima phát nổ hôm 12/3, đám mây phóng xạ lúc đầu di chuyển về phía đông ra Thái Bình Dương nhưng rồi ngoặt về phía tây, phía lục địa Á - Âu tức là về phía Bắc bán cầu. Và sự thực là điều này đã khiến rất nhiều quốc gia lo lắng trước tình trạng nhiễm phóng xạ, loài người cẩn trọng hơn với thực phẩm và các loại thực vật. Còn cuộc chiến tranh hóa học? Đó có phải là cuộc chiến hiện đang diễn ra ở Libya, nơi một bên là liên quân các nước châu Âu và Mỹ và một bên là quân đội Libya đang giao chiến kịch liệt với nhau. Nhà lãnh đạo đất nước Libya, ông Gaddafi đã gọi những kẻ đang tấn công đất nước ông là đội quân Thập tự chinh và cam kết sẽ dùng mọi phương tiện để chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kể cả là vũ khí hóa học có sức hủy diệt khủng khiếp. Báo chí phương Tây đã nói rằng, ông Gaddafi có vũ khí hóa học là điều chắc chắn. Điều gì sẽ xảy ra khi ông và quân đội của ông bị dồn vào bước đường cùng? Một cuộc chiến tranh với các loại vũ khí hóa học của người Hồi giáo chống lại người châu Âu - những người “láng giềng” ở ngay phía bên kia Địa Trung Hải xảy ra là điều rất khó tránh khỏi. Nếu những điều đó thực sự xảy ra, lời tiên đoán tiếp theo về thế giới năm 2014 sẽ là một bức tranh toàn màu xám với đa số người sẽ bị mụn nhọt, ung thư da và những căn bệnh khó hiểu khác do hậu quả của chiến tranh hóa học. Tiếp đó là năm 2016 “châu Âu sẽ trở nên trống vắng”… http://www.baomoi.com
-
Dứt giây dàn chết 7 người! Một nhóm nổi dậy ở Libya đang ngồi dưới lều ca hát vui vẻ bên dàn dầu vừa chiếm được của tổng thống Muammar Gaddafi, họ vừa ca vừa hát ăn trái cây, kem và ít đồ uống có gas. Trong nhóm có một tay chơi đàn ghi Tây Ban Nha cực đỉnh. anh chỉ nhắm mắt và guấn dây bằng 2 ngón (3 ngón cụt). Đang vui vẻ hát hò thì một sợi dây đàn đứt, kết cục làm chết 8 người. Liên quân sau khi điều tra nguyên nhân đã kết luận: 8 người chết là do 1 sợi dây đàn đứt văng vào mắt một gã và 7 gã kia người đưa đi cấp cứu và tất cả bị trúng tên lửa hành trình liên quan chết ngay tại chỗ. Thông tin đã được tôi bịa ra và tổng thống Muammar Gaddafi xác nhận trên truyền hình 12h. PA (theo giờ Hà Nội).
-
"Con trai tôi là người nói khoác có sức thuyết phục nhất mà tôi từng gặp. Năm 2 tuổi, cậu bé đã làm bẩn tã nhưng biết cách làm mẹ tin rằng ai đó làm vậy chứ không phải cậu"
-
Kính nhờ các bác xác định dùm cháu hướng khu đất mà cháu dự định làm nhà năm nay! Links ảnh! (Hướng nhà theo mũi tên, đường lớn là QL1A) tạo độ khu đất: ▼ 10.952361, 106.983939 +10° 57' 8.50", +106° 59' 2.18" Xem Bản đồ khu đất của cháu từ google.map(vị trí mũi tên màu xanh là khu đất:) Cháu chân thành cảm ơn!
-
Nếu dói quá cố gượng dậy nhai cỏ, ăn rau rồi đi tìm gạo chớ đừng nghèo mà cưỡi lưng người khác tìm thịt ngon người vô sự!
-
Đôi mắt thường mở to trước đồng tiền dẫu cách xa hàng dặm nhưngcái gần nhất là đôi mi thì không bao giờ nhìn thấy được và hầu như ít ai nghĩ đến.
-
Xin được chia buồn cùng gia quyến Moonlover! Thành kính phân ưu đến ông!
-
Hiểu và vận dụng triết lý ngũ hành trong cuộc sống Ngũ Hành, Phong Thủy | Lượt xem: 123,097 lượt Ngũ hành với kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ chứa những bí ẩn mà ngày nay, khi khoa học kỹ thuật càng hiện đại thì những ứng dụng của nó vào đời sống lại càng nhiều dưới các sắc thái khác nhau của nhịp sống mới. Chẳng phải là mê tín, nhưng những điều này làm cho cuộc sống trở nên thú vị hơn… Mối quan hệ ngũ hành - cơ thể - sắc đẹp Theo y học cổ truyền Trung Hoa, các chức năng cơ thể con người chịu tác động khá lớn từ môi trường bên ngoài. Nếu thích nghi được với tất cả những sự thay đổi của môi trường thì cơ thể sẽ luôn đạt được sự cân bằng, còn ngược lại cân bằng bị phá vỡ sẽ sinh ra bệnh tật. Trên nền tảng nhận thức cơ thể mỗi con người là một tiểu vũ trụ, phản ánh dòng chảy của tự nhiên, cơ thể sẽ đạt được trạng thái lý tưởng nhất như thuyết “thiên nhân hợp nhất” khi con người thích nghi hoàn toàn với mọi sự biến đổi của tự nhiên. Theo y học Trung Hoa, 5 yếu tố mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ là 5 vật chất cơ bản cấu thành nên hệ tự nhiên, gọi là ngũ hành. Mộc: gỗ - ứng với mùa xuân, tuổi thơ. Trên cơ thể con người, mộc ứng với gan. Hoả: lửa - ứng với mùa hè, tuổi trẻ. Trên cơ thể con người, hoả ứng với tim. Thổ: đất - ứng với mùa mưa, tuổi trưởng thành. Trên cơ thể con người, thổ ứng với dạ dày. Kim: kim loại - ứng với mùa thu, tuổi trung niên. Trên cơ thể con người, kim ứng với phổi. Thuỷ: nước - ứng với mùa đông, tuổi già. Trên cơ thể con người, thủy ứng với thận. Sự thay đổi theo từng mùa sẽ liên quan mật thiết đến tính khí và cơ thể. Mùa xuân và mùa hè ngày dài hơn, khí vận tăng dần nên da trở nên mau mệt mỏi và cằn cỗi sau một ngày dài, rất mẫn cảm với các yếu tố gây kích ứng. Chăm sóc da là cần giữ cho da sạch sẽ, thông thoáng và cân bằng độ ẩm. Vì vậy thời điểm này không thích hợp sử dụng những mỹ phẩm chứa nhiều chất dầu (vì chất dầu sẽ làm cản trở sự hô hấp của da). Những mỹ phẩm dạng gel trong có thể giúp hạn chế việc sử dụng chất dầu. Những mỹ phẩm chiết xuất từ thảo dược sẽ giúp bảo vệ da, giữ cho da sạch nên khi thoa đem lại cảm giác mát mẻ cho da. Những ngày xuân hè, làn da luôn có sắc diện hồng hào nên chỉ cần trang điểm nhẹ cũng làm đẹp cho con người. Mùa thu đông ngày ngắn hơn, da dễ bị trạng thái trì trệ, chậm chạp của đêm dài làm mất đi vẻ tươi tắn, trẻ trung. Do thời tiết, da cũng dễ bị khô, bị dày lớp sừng tế bào chết. Do vậy cần bổ sung tối đa mỹ phẩm cung cấp chất tạo ẩm và chất dinh dưỡng nuôi da. Thường xuyên lấy đi lớp tế bào chết để da không bị lão hoá, không bị nhăn già. Mùa thu đông cần những tông màu trang điểm nóng và mạnh để làm ấm lên không khí chung quanh. Ngũ hành với sắc màu đời sống Màu sắc trang trí trong ngôi nhà luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với người Việt Nam, vì chính màu sắc sẽ giúp mang lại cảm giác thoải mái, tự tin, lấy lại sự bình yên sau những giờ làm việc căng thẳng mệt mỏi ở bên ngoài. Màu sắc của từng bộ phận trong và ngoài ngôi nhà phải được phối một cách hài hoà tương sinh, tương hợp với môi trường xung quanh, với tâm lý tình cảm, sở thích… Màu sắc cũng được phân loại trong thuyết âm dương ngũ hành. Các màu nóng như đỏ - cam - vàng là “màu dương”. Các màu lạnh như xanh dương - xanh lá cây là “màu âm”. Màu xanh tượng trưng cho mộc, màu hồng tượng trưng cho hỏa, màu vàng tượng trưng cho thổ, màu trắng tượng trưng cho kim và màu tối tượng trưng cho thủy. Ứng dụng tính tương sinh và tương khắc, những người thuộc mộc của ngũ hành, ngoài việc có thể chọn màu mộc (xanh) để sử dụng còn có thể dùng màu thủy (xanh đậm) vì thủy sinh mộc và kiêng dùng màu trắng vì trắng là màu của kim mà kim lại khắc mộc. Chọn màu sắc theo lược đồ ngũ hành thì màu đỏ và màu xanh mang về thêm tài lộc; xanh lá, đỏ và vàng giúp cho danh phận; đỏ và trắng cho hôn nhân; vàng, trắng và đen cho trẻ con; đen và trắng là quý nhân giúp sức; trắng, đen và xanh lá cho nghề nghiệp; đen và xanh lá tăng thêm trí thức; đen, xanh lá và đỏ giúp ích cho phần gia đình. Ứng dụng phối màu Các hành tương sinh và có thể phối hợp với nhau: Thuỷ và Mộc = Đen và Xanh lục. Mộc và Hoả = Xanh lục và Đỏ. Hoả và Thổ = Đỏ và Vàng. Thổ và Kim = Vàng và Trắng. Kim và Thuỷ = Trắng và Đen. Các hành tương khắc và không thể phối hợp: Thổ và Thuỷ = Vàng và Đen. Thuỷ và Hoả = Đen và Đỏ. Hoả và Kim = Đỏ và Trắng. Kim và Mộc = Trắng và Xanh lục. Mộc và Thổ = Xanh lục và Vàng. Tương tự như vậy khi phối màu từ 2 màu trở lên người ta cũng áp dụng các nguyên tắc tương sinh và tương khắc. Ví dụ: Phối hợp ba hành để có sự tương sinh là: Kim - Thuỷ - Mộc = Trắng - Đen - Xanh lục. Mộc - Hoả - Thổ = Xanh lục - Đỏ - Vàng. Thổ - Kim - Thuỷ = Vàng - Trắng - Đen Tính tương sinh của ngũ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Tính tương khắc của ngũ hành là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. nguồn: blogphongthuy ---------------------- Ảo tưởng, lý tưởng và hoài cảm Trẻ con nhìn ngắm các vì sao, nói đó là những chiếc đèn lồng nhỏ lấp lánh, đưa tay ra có thể gỡ xuống. Thanh niên nhìn ngắm các vì sao, nói đó là hàng tỉ tinh cầu, một ngày nào đó sẽ được con người chinh phục. Người già nhìn ngắm các vì sao, nói đó là kiệt tác của Thượng Đế, vũ trụ huyền bí không thể nhìn thấu. Trẻ con nhiều ảo tưởng; Thanh niên nhiều lý tưởng; Người già nhiều hoài cảm. Người vô tri thường ảo tưởng; Người khỏe mạnh thường lý tưởng; Người suy thoái thường hoài cảm. Ảo tưởng, lý tưởng, hoài cảm đại biểu cho ba giai đoạn của cuộc sống con người . 3 điều giá trị Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được: - Thời gian - Lời nói - Cơ hội Ba điều trong đời không được đánh mất: - Sự thanh thản - Hy vọng - Lòng trung thực Ba thứ có giá trị nhất trong đời: - Tình yêu - Lòng tự tin - Bạn bè Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được: - Giấc mơ - Thành công - Tài sản Ba điều làm nên giá trị một con người: - Siêng năng - Chân thành - Thành đạt Ba điều trong đời làm hỏng một con người: - Rượu - Lòng tự cao. - Sự giận dữ.
-
Đừng Ðừng nên thờ ơ với những gì đã quá quen thuộc với bạn. Hãy giữ chắc lấy chúng như những gì quan trọng nhất, vì sẽ có lúc bạn cảm thấy tiếc nuối khi những điều thân thuộc ấy mất đi. Ðừng hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh bản thân mình với người khác. Mỗi chúng ta là một con người khác nhau và đều có những giá trị khác nhau. Ðừng mãi mê theo đuổi những mục tiêu mà người khác cho là quan trọng, vì chỉ có bạn mới hiểu rõ những mục tiêu nào là tốt cho mình. Ðừng ngại học hỏi. Kiến thức là một tài sản vô hình và sẽ là hành trang vô giá theo bạn suốt cuộc đời. Ðừng ngại mạo hiểm để làm những điều tốt. Ít nhất bạn cũng học được cách sống dũng cảm với những lần mạo hiểm. Ðừng nên phí phạm thời gian hoặc những lời nói thiếu suy nghĩ. Cả hai thứ ấy một khi đã qua đi hay thốt ra thì không thể nào bắt lại được. Đừng để cuộc sống đi qua mắt bạn chỉ vì bạn đang sống trong quá khứ hay tương lai. bằng cách sống cuộc sống của mình ngày hôm nay, vào lúc này, bạn đang sống tất cả mọi ngày trong cuộc đời. Đừng quên hy vọng, sự hy vọng cho bạn sức mạnh để tồn tại ngay khi bạn đang bị bỏ rơi. Đừng đánh mất niềm tin vào bản thân mình, chỉ cần tin là mình có thể làm được và bạn lại có lý do để cố gắng thực hiện điều đó. Đừng lấy của cải vật chất để đo lường thành công hay thất bại, chính tâm hồn của mỗi con người mới xác định được mức độ " giàu có" trong cuộc sống của mình. Đừng để những khó khăn đánh gục bạn, hãy kiên nhẫn rồi bạn sẽ vượt qua. Đừng do dự khi đón nhận sự giúp đỡ, tất cả chúng ta đều cần được giúp đỡ ở bất kỳ khoảng thời gian nào trong cuộc đời. Đừng chạy trốn mà hãy tìm đến tình yêu, đó là niềm hạnh phúc nhất của bạn. Đừng chờ đợi những gì bạn muốn mà hãy đi tìm kiếm chúng. Đừng từ chối nếu bạn vẫn còn cái để cho. Đừng ngần ngại thừa nhận rằng bạn chưa hoàn hảo. Đừng e dè đối mặt thử thách. Chỉ khi thử sức mình, bạn mới học được can đảm. Đừng đóng cửa trái tim và ngăn cản tình yêu đến chỉ vì bạn nghĩ không thể nào tìm ra nó. Cách nhanh nhất để nhận tình yêu là cho, cách mau lẹ để mất tình yêu là giữ nó quá chặt, cách tốt nhất để giữ gìn tình yêu là cho nó đôi cánh tự do. Đừng đi qua cuộc sống quá nhanh đến nỗi bạn quên mất mình đang ở đâu và thậm chí quên mình đang đi đâu. Đừng quên nhu cầu cảm xúc cao nhất của một người là cảm thấy được tôn trọng. Đừng ngại học hỏi. Kiến thức là vô bờ, là một kho báu mà ta luôn có thể mang theo dễ dàng. Đừng sử dụng thời gian hay ngôn từ bất cẩn. Cả hai thứ đó đều không thể lấy lại. Cuộc sống không phải là một cuộc chạy đua, nó là một cuộc hành trình mà bạn có thể tận hưởng từng bước khám phá... Đừng bao giờ cho là bạn đã thất bại khi những kế hoạch và giấc mơ của bạn đã sụp đổ, vì biết được thêm một điều mới mẻ thì đó là lúc bạn tiến bộ rồi. * Đừng quên mỉm cười trong cuộc sống. Đừng quên tìm cho mình một người bạn thực sự, bởi bạn bè chính là điều cần thiết trong suốt cuộc đời. Và cuối cùng đừng quên ơn những người đã cho bạn cuộc sống hôm nay với tất cả những gì bạn cần. Bởi vì con cháu đời sau của bạn sẽ xem bạn như tấm gương của chúng. Cực lạc và địa ngục Trước kia có vị đại từ thiện, một hôm trong mộng được Diêm Vương dẫn đi thăm quan địa ngục, trong địa ngục phát hiện mọi người đang cãi nhau. Vốn là ở địa ngục có một cái bàn lớn, trên bàn bày một số món ăn, mỗi người cầm một cái thìa rất dài. Do thìa quá dài nên không có cách nào đưa thức ăn vào miệng, mà dùng tay thì không với được thức ăn nên mỗi người đều hí hoáy nghĩ cách đưa thức ăn vào miệng với cái thìa dài trong tay. Nguyên nhân cãi nhau là thao tác chiếc thìa quá dài mà va chạm với nhau. Tiếp theo, ông ta lại lên thăm viếng cõi cực lạc. Thật kỳ lạ, quang cảnh nơi đây không khác gì địa ngục, cũng một chiếc bàn lớn, với các món ăn và những chiếc thìa rất dài. Điểm duy nhất khác nhau là mọi người ở đây ăn uống với nhau một cách vui vẻ. Tại sao vậy? Vì mọi người dùng chiếc thìa rất dài đó để xúc thức ăn cho nhau, do đó, mọi người đều có thể ăn được, không ai tranh chấp hay gây khó dễ. Vị đại từ thiện bỗng nhiên tỉnh ngộ. Vốn cực lạc và địa ngục không có sai biệt, sai biệt chính là ở tâm, ở cách nghĩ và phương thức của mỗi người. Có người cả ngày ở trong lo sợ và nghi hoặc, tự mình giới hạn để bảo vệ mình, chỉ sợ có người khác làm hại mình nhưng lại muốn đi tìm một cõi hoà lạc yên vui. Kỳ thực chỉ cần xả bỏ tâm ma, bao dung mọi người, một lòng hướng thiện, luôn giữ cho trong tâm thanh thản, thì có thể khiến cho địa ngục biến thành thiên đường, ngược lại, một lòng tự tư tự lợi có thể khiến cho thiên đường cực lạc yên vui biến thành địa ngục đau khổ. Thiên đường làm gì có! Địa ngục làm gì có! Thiên đường, địa ngục đều là ảo ảnh biến hoá của tâm mà thôi. Chỉ cần nghĩ sao làm vậy, cần gì phải cầu khấn đâu xa .
-
BÀI THƠ THÊM MỘT Trần Hòa Bình Thêm một chiếc lá rụng Thế là thành mùa thu Thêm một tiếng chim gù Thành ban mai tinh khiết Dĩ nhiên là tôi biết Thêm một lắm điều hay Nhưng mà tôi cũng biết Thêm một phiền toái thay Thêm một lời dại dột Tức thì em bỏ đi Nhưng thêm chút lầm lì Thể nào em cũng khóc Thêm một người thứ ba Chuyện tình đâm dang dở Cứ thêm một lời hứa Lại một lần khả nghi Nhận thêm một thiếp cưới Thấy mình lẻ loi hơn Thêm một đêm trăng tròn Lại thấy mình đang khuyết Dĩ nhiên là tôi biết Thêm một lắm điều hay.
-
Tính cách người Nhật Bản Tính cách người Nhật Bản Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật. Người Nhật Bản Người Nhật là pha trộn của các dân tộc bản địa với người Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, Mãn Châu, Eskimo... thuộc giống da vàng. Dáng người lùn mập, nhưng nay phát triển mạnh về chiều cao cũng như tuổi thọ. Theo thống kê năm 2000, chiều cao trung bình của phái nam là 171,3 cm và phái nữ là 158,4 cm. Theo thống kê năm 2003, tuổi thọ trung bình phái nam là 78,4 tuổi và phái nữ là 85,3 tuổi, là dân tộc gia tăng tuổi thọ nhanh nhất và nay đứng đầu thế giới. Họ rất khỏe mạnh, dẻo dai, ngay phụ nữ cũng có thể đứng làm việc cả ngày, nhiều người 70, 80 tuổi vẫn còn hăng hái làm việc, không phải tham tiền vì họ rất giàu, nhưng vì thích làm việc, đến độ thế giới gọi họ là "labor animal" (con vật lao động). Đặc biệt phụ nữ thường ngực nhỏ, có người chân rất to, nên được gọi là chân "daikon" (大根, đại căn: củ cải, chân củ cải đối với Việt Nam thì đâu có gì gọi là to, nhưng đây là củ cải Nhật Bản, to gấp 3, 4 lần củ cải Việt Nam, tuy vậy hiện nay cũng ít người có loại chân này), cườm tay phụ nữ Nhật có thể lớn hơn cườm tay thanh niên Việt, đôi khi họ đeo đồng hồ đàn ông cũng vừa. Làn da phụ nữ thường láng mịn, người mình gọi là làn da trứng gà bóc, nhưng người Nhật cho là làn da "mochihada, bánh dầy" (餅肌, bính cơ), và đặc biệt bàn tay của đa số các cô thường nuột nà rất đẹp. Về khuôn mặt người Nhật, theo các nghiên cứu y học mới đây cho thấy, đã có nhiều biến đổi trong một, hai trăm năm qua. Xem các tranh cổ, nhất là loại tranh thủ ấn họa nổi tiếng của Nhật Bản, thường thấy vẽ phụ nữ Nhật mắt hí một mí, lông mày mỏng, mũi tẹt. Ngày nay mắt họ khá lớn, lông mày rậm hơn, và mũi cũng cao hơn. Thêm một điểm nữa là xưa khuôn mặt vốn tròn, nay thì dài vì cằm của họ dài ra. Y khoa giải thích là thức ăn ngày xưa phải nhai nhiều; nhất là thời ba, bốn ngàn năm trước, số lần nhai gấp từ năm, mười lần so với các thức ăn mềm ngày nay. Do vì nhai ít, bắp thịt cằm làm việc ít nên cằm bị trễ dần xuống. Một điểm khác nữa là người Nhật thường bị thiếu chất vôi (calcium), nên răng hay bị hư và cũng mọc khấp khểnh, nếu đi niềng cho đều sẽ tốn khoảng 5.000 đến 8.000 USD. Tính cách người Nhật Bà Ruth Benedict, một chuyên viên Nhân Chủng Học ở Đại Học Columbia đã biên khảo về tính cách người Nhật vào thập niên 40 để làm nền tảng cho chính sách đối ứng của Hoa Kỳ. Bà đã viết nhiều bản tường trình và đúc kết thành tác phẩm "The Chrysanthemun And The Sword" (Kiku To Kitana = Hoa Cúc Và Thanh Kiếm). Theo bà: "Người Nhật vừa hung bạo vừa hiền hòa, vừa nghiêm khắc vừa thơ mộng, vừa cứng ngắc vừa nhu nhuyễn, vừa trung thành vừa phản trắc, vừa can đảm vừa hèn nhát, vừa bảo thủ vừa cấp tiến... và chịu ảnh hưởng cùng lúc của Thần Đạo và tam giáo Nho, Phật, Lão...". Những điều ấy thoạt nghe có vẻ chung chung, như có gì đó cũng giống người Việt hay các dân tộc khác, nhưng để ý kỹ, khi viết như thế, bà đã nêu bật được tính tích cực, đôi khi dẫn đến cực đoan ở cả hai thái cực của người Nhật. Như người Nhật trước và sau Thế Chiến Thứ 2 đi từ tàn bạo đến hòa bình, ngày xưa họ sẵn sàng chết thì ngày nay họ bảo vệ mạng sống bằng mọi giá, thể hiện qua chính sách của chính phủ cũng như từng người dân. Họ hiền tới độ đi ra nước ngoài thường bị những người không đứng đắn trấn lột, ăn hiếp. Có khi tôi liên tưởng đến hình ảnh những chú gà "nuôi giam", những con thỏ "nhà", dù được thả ra thì lúc nào cũng chậm chạp, không quen đối phó với các bất trắc bên ngoài. Họ có tinh thần thực dụng và mạo hiểm rất cao, đã tự đi du học và khéo léo đãi lọc văn minh, văn hóa Trung Hoa, mà không du nhập từ chương và khoa cử. Khi thấy những nền văn minh văn hóa rực rỡ ở Âu-Mỹ, họ cũng đã tìm tới học hỏi, làm giàu thêm cái vốn đã rất phong phú của họ, thể hiện song hành tính bảo thủ và cấp tiến. Tất nhiên khi trào lưu Âu-Mỹ tràn tới đất Phù Tang, thì ít nhiều họ cũng mất đi phần nào bản sắc riêng. Tinh thần kỷ luật đi đối với giáo dục Người Nhật nổi tiếng là có kỷ luật, cho dù sự kỷ luật đó bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh sống khó khăn, từ việc nghĩ tới lợi ích chung hay từ văn hóa v.v... đã trở thành như tự giác, nhưng không phải cứ thế thì 100% con người trong xã hội này sẽ trở thành kỷ luật. Mà những người làm luật, những đoàn thể... đều phải suy tính, ghi ra rất chi tiết các quy luật và phổ biến rộng rãi để mọi người tuân theo. Những nơi sinh hoạt công cộng luôn thấy đầy những bảng hướng dẫn, thông báọ Cứ nhìn mặt đường của Nhật thì rõ, đâu đâu cũng trắng xóa các lằn kẻ phân luồng xe chạỵ Ở những nơi đông đảo hay dễ gây tai nạn, mặt đường còn được sơn màu cam hay đỏ, sơn tráng loại đá răm... để xe chạy không bị trượt. Ngoài ra còn lót những tấm nhựa chỉ đường và loa phát nhạc báo cho người mù ở một số chỗ băng ngang đường. Tiền giấy cũng có dấu hiệu nổi đặc biệt, ở ga xe điện thì dán bảng ghi bằng chữ nổi dành cho người mù để có thể tự mua vé... Quanh các trường Tiểu Học thì thường có người cầm cờ hướng dẫn các em nhỏ qua đường. Người Nhật nổi tiếng là dặn dò chi tiết nhất so với các dân tộc khác. Xe điện lúc nào cũng thông báo mở cửa bên nào, xin lưu ý đừng để quên hành lý, khi bước ra coi chừng khoảng cách giữa toa xe và thềm ga... Tóm lại là sự tự giác chung vẫn luôn luôn cần sự hướng dẫn, giáo dục cụ thể để đáp ứng với hoàn cảnh và sự thay đổi của xã hội theo với thời đại. Lễ nghĩa – Lịch sự Ai cũng thấy là người Nhật rất lễ nghĩa, chào nhau không phải một lần mà đôi khi năm lần bẩy lượt. Ăn mặc lịch sự, nói năng nhỏ nhẹ, không phải lúc nào cũng to tiếng như chửi nhau như giữa lính Nhật thời Thế Chiến Thứ 2 với nhau hay với người bị họ thống tri... Trừ một số giới trẻ ăn mặc lố lăng, người đi làm đều ăn mặc lịch sự, nhìn ngoài đường không thể nào đoán được họ làm việc gì, áo quần luôn sạch sẽ, khi vào nơi làm mới thay quần áo làm việc lao động, nên đôi khi chỉ là nhân viên làm vệ sinh, đổ rác. Phái nam Nhật hầu như không có chuyện thấy người đẹp lạ ngoài đường mà hút gió, ngỏ lời tán tỉnh, chòng/chọc ghẹo... Hầu như không có chuyện không quen mà lẽo đẽo theo nàng về tới nhà rồi trồng "cây si" luôn. Nhưng bạn với nhau thì giữa nam nữ lại có vẻ gần gũi, tự nhiên hơn người Việt. Đi nhậu chung mà nếu một bên say thì bên kia sẵn sàng dìu đi. Vì vậy, đôi khi người Nhật kết hôn trễ, có tới khoảng 50% phải nhờ người giới thiệu, gọi là "miai" (見合い, kiến hợp). Phụ nữ được khen đẹp thì chắc là ai cũng thích, nhưng phụ nữ Nhật thì mắc cỡ, tỏ thái độ khiêm tốn và thường nói: "Cám ơn", còn phụ nữ Việt "đáo để" hơn, thường trả lời: "Sạo", "Đừng có nịnh"... còn người lạ mà khen, có khi bị lườm nguýt cho một phát rồi nói: "Vô duyên!". Nhật Bản có Ngày Tình Yêu (Valentine), là ngày 14 tháng 2. Theo truyền thống Á Đông, trong truyền thuyết Nhật cũng từng nói tới chuyện có vị thần phái nữ tỏ tình với vị thần phái nam trước, nhưng cho là chuyện không nên, nên phái nữ lúc nào cũng ở thế bị động, khó kiếm chồng. Vì vậy, Ngày Tình Yêu là ngày phái nữ tặng quà cho phái nam, thường là chocolate để phái nữ có cơ hội mạnh dạn lên tiếng. Còn khi hai bên quen nhau thân thì phái nam không những tặng hoa hồng còn tặng quà và phái nữ cũng tặng quà ngược lại nhưng không tặng hoa. Ở Việt Nam cũng mới có ngày này, nhưng phái nam thường tặng phái nữ hoa hồng để tỏ ý thích. Ngày Trắng (White Day), là ngày 14 tháng 3, phái nam tặng quà đáp lễ cho phái nữ, thường là kẹ. Ở Việt Nam không có ngày này. Phái nữ Nhật Bản dường như không bỏ lỡ cơ hội "vùng lên" để kiếm chồng này, nên họ chờ ngày 14/02 để "mượn quà thay lời" và mong ngày 14/03 để xem phái nam đáp ứng như thế nào. Phong trào mới chỉ mươi năm nay mà đã như một truyền thống lâu đời ăn sâu trong tâm trí và được hưởng ứng nồng nhiệt. Dịp này phái nữ ào ào đi mua chocolate như bão táp với sự tiếp tay kiếm lời rất đắc lực của các cửa tiệm thương mại. Sở dĩ phái nữ phải làm như vậy bởi đa số phái nam Nhật Bản "cù lần", không biết "tán gái". Phái nữ Nhật đâu có e dè kiểu thiếu nữ Việt Nam, như trường hợp cô Phan Thanh Tình, 17 tuổi, học sinh Trung Học cấp 3 ở Sài Gòn, trong chương trình "Ajia No Junjo" (アジアの純情, Thuần Tình Của Á Châu) của đài TV Fuji số 8 ngày 2 và 10/2/2004. Cô Tình thích một bạn trai cùng trường, cũng là anh ruột của bạn gái mình. Chuẩn bị cho ngày hẹn hò, cô không dám ngỏ lời nên muốn gởi gấm tâm tư qua món quà. Cô bèn đi mua đồ thêu, về cặm cụi đêm khuya, thêu trên khăn chữ "I LOVE YOU". Hôm hẹn hò, vì còn mắc cỡ nên có cả bạn gái đi theo. Sau cả buổi đi chơi, ngồi cạnh nhau, cuối cùng sau lúc chia tay, món quà ấp ủ bao nhiều tình cảm, ước mơ... vẫn để trong túi không dám đưa ra. Ngược lại, vài phụ nữ Nhật còn độc thân thẳng thẳn yêu cầu tôi giới thiệu bạn trai người Việt, nhưng tôi không dám vì sợ phiền phức sau nàỵ Họ rất điềm tĩnh trong ứng xử, ít nổi nóng, nhưng khi nổi nóng thì cũng khó can lắm, mà cũng chẳng mấy khi họ can nhau. Tôi đã chứng kiến sinh hoạt các câu lạc bộ thể thao ở Đại Học. Đàn anh thường đì đàn em với một thứ kỷ luật huấn nhục, không phải chỉ trong một tuần mà gần như suốt thời trẻ, có khi kéo dài cả đời nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Người Việt dường như rất khéo léo trong việc la mắng, tuy đôi khi nói bóng gió, nhưng khi la mắng thì nói thẳng vào chỗ sai quấy (tất nhiên có khi chỉ là chủ quan) nhiều hay ít tùy theo lỗi nặng hay nhẹ... Còn với người Nhật, khi rầy la, nhiều khi không nói thẳng và cụ thể nên người bị la không hiểu người la muốn gì mà la rất nặng và rất dai, bất chấp thể diện người đối diện. Có khi mới sáng ra, ông chủ vào hãng là la toáng lên, mà có khi la chung chung kiểu nói: "Mọi người làm cái gì vậỷ", "Đồ cà chớn!", "Không ai chịu làm việc!"... La kiểu này thì không ai biết là ông ta nói gì và muốn gì, nhân viên thì cứ im lặng nghe rồi giải tán, vẫn làm việc như thường, nếu ấm ức quá thì hết giờ làm việc rủ nhau ghé quán nhậu làm vài ly rượu cho nguôi. Như thường thấy những phóng sự trên TV, có những ông thầy "truyền nghề" nấu mì..., đệ tử sau nghe lời chỉ dẫn, làm xong món ăn đưa lên, ông chỉ liếc qua không cần thử là nói liền: "Như vầy mà đem bán à!?". Thế là đổ ụp vào thùng rác. Ông thầy tiếp tục chửi cho một lúc như tát nước rồi bắt làm lại, đệ tử im phăng phắc nghe chửi, lo đi làm lại mà không biết phải sửa chỗ nào, lâu lâu ông thầy mới chỉ khuyết điểm và bắt làm đi làm lại cả chục lần. Và tuy vậy, thường chỉ có độ 30% là được cấp bằng thôi. Ý của ông thầy là phải tập cho nhuần nhuyễn và chú ý từng chi tiết nhỏ nhất, từ cách rửa xương, rửa rau, nhúng mì, nêm gia vị, trình bày... Với lối dạy này, tôi thấy nhiều đệ tử lớn tuổi có khi ở lớp 50 hay 60, muốn có một nghề làm ăn tự lập đã phải khóc ròng! Còn các trường dạy nghề bình thường thì thu học phí nên chiều học sinh hơn, không dám quá nặng lời như vậy. Các huấn luyện viên thể thao cũng vậy, luôn miệng la mắng rất nặng các tuyển thủ (vận động viên). Tuyển thủ nào cũng phải nói là huấn luyện viên rất nghiêm khắc, nhưng hầu hết họ chấp nhận, chỉ biết gật đầu làm theo vì họ ý thức rằng muốn tranh đua với người khác hay thế giới thì không cách nào khác hơn là nghe sự hướng dẫn và khổ luyện. Tôi thầm nghĩ chắc chắn là hiếm có người Việt nào có thể chịu đựng những sự la mắng như vậy. Đó là lý do chính giải thích tại sao chẳng có mấy người Việt tham gia trong các câu lạc bộ thể thao Nhật. Trong công sở, tư sở và các hãng xưởng cũng vậỵ Cấp trên la mắng cấp dưới rất nặng, bất chấp thể diện người bị la mắng, làm cho nhiều khi người ngoài thấy rõ sự khúm núm, sợ sệt của cấp dưới. Và trong nhiều trường hợp cấp dưới thi hành mệnh lệnh mà không cần suy nghĩ gì cả, như chỉ cốt làm vừa lòng cấp trên! Họ cũng rất trọng chủ nghĩa "bái kim" (quá trọng đồng tiền), nên sống có hai mặt, với nhân viên thì gắt gao, mà với khách thì cởi mở, ngọt ngào. Đó là cái giá mà người Nhật đã phải trả để xã hội ổn định và phát triển. Mỗi người phải chịu khép bớt phần đòi hỏi tự do của mình. Tuy nhiên, trong sinh hoạt bình thường như các nhóm bạn hay hội tự trị... thì họ đối xử với nhau thân thiện và bình đẳng hơn. Đặc biệt người Nhật rất chịu khó hội họp, phát biểu ý kiến và ghi chép khá cẩn thận. Các buổi họp thường kéo rất dài, hầu hết mọi người nắm vững vấn đề rồi mới thi hành. Khi đánh nhau, người Nhật ít can gián hơn người Việt. Tôi đã chứng kiến cảnh đàn anh đánh đàn em, hay bạn nam sinh đánh nhau rất hung bạo và kéo dài mà những đồng bạn khác vẫn đứng nói chuyện tỉnh bơ, có khi có cả con gái trong đó cũng vậy. Đầu thập niên 70, đã từng có lần trong câu lạc bộ võ Đại Học Takushoku (Thác Thực), khi một đàn em xin ra, đã phải đấu một vòng với mọi người và bị đánh chết. Trường hợp này, pháp luật không trừng trị nặng, vì coi đó là một tập quán trong văn hóa. Các đàn em sợ đàn anh hơn cha mẹ, với đàn anh thì bảo sao cũng nghe, không cần phán đoán đúng sai, còn ở nhà thì hay cãi lại cha mẹ... Hầu như không có chuyện đàn em đánh lại đàn anh, cũng không về mách gia đình hay kéo bạn bè tới trả thù, coi như chuyện trong câu lạc bộ là tự mình gánh trách nhiệm. Có điều, tuy vậy mà họ ít thù vặt và thù dai. Người Việt mà thấy bạn bè cãi nhau hay đánh nhau thường can gián ngay, còn chuyện ai phải ai trái không quan trọng, tính sau. Các bà mẹ Nhật dạy cho con tính tự lập từ khi chúng mới biết đi. Bà mẹ đi trước, con đi sau, nếu con vấp ngã, kêu khóc, bà mẹ vẫn đứng phía trước chờ chứ không chạy lại đỡ như người Việt. Đứa bé khóc mãi không được mẹ lại đỡ đành đứng dậy đi theo. Cha mẹ chiều con và trẻ em Nhật được tự do, tự lập gần như Âu-Mỹ. Chúng tự quyết nhiều, khoảng 13, 15 tuổi là cha mẹ không được xâm phạm vào đời tư của chúng, không được truy hỏi thành tích học hành ở trường ra sao... Nhưng đôi khi vì chưa đủ trí khôn, chúng làm theo bản năng và bạn bè rủ rê, hay nhất là bị đứa lớn ăn hiếp bắt làm bậy, nên cũng gây ra nhiều tệ trạng, đến khi cha mẹ biết được thì đã trễ rồi. Lạnh nhạt – Thân thiện? Có nhiều người đã nhận xét là người Nhật "lạnh nhạt", có lẽ điều đó cũng đúng, nhưng chỉ đúng một nửa với hầu hết những người Nhật mới quen. Còn khi quen lâu thì họ sẽ vượt qua được ranh giới e dè, cởi bỏ được "mặt nạ" và tỏ ra thân thiện hơn. Giữa thập niên 80, khi tôi lần đầu tiên tự đi thuê phòng ở một dãy nhà nhiều phòng cho thuê gọi là "a-pa-tồ" (apartment), theo tục lệ người Nhật là nên có chút quà mọn như một hộp bánh nhỏ hay khăn vải (người Nhật vốn tính sạch sẽ hay lau chùi nên họ hay tặng nhau món này)... để ra mắt những phòng bên cạnh. Tôi chuẩn bị quà và gõ cửa, tự giới thiệu là người Việt mới dọn tới, nhưng người trong phòng không mở, chỉ nói vọng ra "Thôi được rồi", hay "Không cần" làm tôi cũng hơi áy náy. Ở Nhật cũng có nhiều người hay đi từng nhà, gõ cửa quảng cáo giới thiệu hàng hay chiêu dụ về tôn giáo, nên nhiều nhà phải gắn cả bảng cự tuyệt để khỏi bị làm phiền. Người Nhật dù là đang ở nhà, cũng có thói quen đóng cửa, cài then bên trong để tránh bất trắc. Có lẽ lúc đầu họ cũng coi tôi như một kẻ làm phiền và thấy cũng chẳng có gì cần để tiếp xúc. Vì nhà Nhật vách mỏng lắm, tôi lo sau này có con nhỏ làm ồn hay mình làm gì không đúng phong tục Nhật sợ bị họ qua kiếm chuyện. Nên nhân một lần đi làm về, tôi thấy hai ông ở mấy phòng bên cạnh đứng nói chuyện với nhau, tôi vội chào rồi vào nhà lấy quà ra và đưa tặng. Khi đó, mặt giáp mặt, hai ông có muốn cũng không thể lánh mặt nữa. Không biết họ nghĩ thế nào về hành động của tôi, nhưng thấy họ đổi thái độ, trở nên thật vui vẻ, cởi mở, và còn nói thêm rằng có gì cần cứ nói, họ sẵn sàng giúp. Như một số người đã nói, tôi nghiệm ra rằng, mình cũng cần kiên nhẫn, đợi dịp tốt để làm quen thì họ sẽ cởi mở hơn. Tuy nhiên, người ngoại quốc sẽ rất ngạc nhiên khi thấy lần trước nhờ thì họ rất nhiệt tình giúp đỡ mà lần sau họ lạnh nhạt. Vấn đề là người Nhật sẵn lòng giúp đỡ, nhưng họ cũng quen tính tự lập, nên nếu nhờ lần thứ hai một việc tương tự thì họ cảm thấy không vui, không muốn giúp nữa mà muốn người nhờ vả hãy cố gắng tự lập. Cứng rắn – Hay khóc? Khi làm việc với người Nhật, ai cũng thấy là người Nhật rất trọng nguyên tắc, đến độ như khó tính và cứng rắn, nhưng mặt khác họ cũng dễ rung cảm với thiên nhiên và nhân tình nên hay khóc lắm, nhất là phụ nữ. Họ trọng kỷ luật, khi tham gia một tổ chức nào là họ tuân thủ mọi điều lệ một cách chặt chẽ. Nơi công cộng, họ luôn kiên nhẫn xếp hàng chứ không chen lên. Hình ảnh thường thấy nhất là các tiệm ăn đông khách, người Nhật sẵn sàng xếp hàng cả tiếng đồng hồ. Trong cuộc sống xã hội công nghiệp, họ thường cố gắng giữ đúng giờ, nhất là trong giao ước làm ăn. Ai ở Nhật hơi lâu chắc cũng đã từng chứng kiến và thấy người Nhật rất dễ khóc. Như khi họ đến trọ nhà người ngoại quốc hay ngược lại có người ngoại quốc đến chơi vài ngày, khi chia tay thường thấy họ khóc. Khi người Việt tỵ nạn đến các trại tạm cư rải rác khắp nước Nhật, người địa phương thường niềm nở đến giúp đỡ, tặng quà, quần áo... và khi người tỵ nạn ra đi, dù có báo tin hay không, họ cũng tự động đến đưa tiễn và có một số người khóc. Một trường hợp khác nữa, chẳng may có người tỵ nạn bị bệnh qua đời, nếu là thân nhân của mình thì chắc là người Việt sẽ khóc, nhưng nếu chỉ là bạn bè thì cố gắng giúp đỡ an táng chứ hầu như không khóc, trong khi đó, nhiều nhân viên người Nhật chỉ mới quen biết vài tháng mà vẫn khóc, có khi cẩn thận mặc cả tang phục đến dự. Làm việc có phương pháp, cần cù, cẩn thận, không ganh tỵ Người Nhật chấp nhận khó khăn, phức tạp và rất kiên nhẫn học hỏi hay chịu đựng, cộng thêm với lối làm việc có phương pháp là bí quyết thành công của họ. Phức tạp như ngôn ngữ của họ, dùng tới 5 loại văn tự khác nhau là chữ Hán, Quốc Tự, Hiaragana, Katakana và La Tinh và có chữ Hán lên tới 20, 25 cách đọc. Làm việc phương pháp ở chỗ hội họp kỹ, nghiên cứu kỹ, phân công kỹ và làm việc kỹ. Đôi khi người ngoại quốc phải sốt ruột là sao họ chuẩn bị lâu thế, và rồi ai cũng phải ngạc nhiên khi bắt tay vào việc, họ làm nhanh thế và kỹ thế... Các học sinh Nhật đều phải tập về lễ nhập học, nhất là lễ phát bằng tốt nghiệp từ trước. Ngay cả đối với người tỵ nạn Đông Dương ở các trung tâm xúc tiến định cư, khi học Nhật ngữ, Ban Điều Hành bao giờ cũng nói người đại diện viết diễn văn trước để dịch ra tiếng Nhật và tất cả họp tập mọi nghi thức trước một ngày. Khi chụp hình, nhiếp ảnh gia luôn sửa tư thế và chỉ cách để tay cho học sinh, nên chỗ nào cũng thấy hình chụp ngay ngắn, đồng nhất. Có lần ở nhà thương phụ thuộc Đại Học Nichidai (日本大学, Nhật Bản Đại Học), vợ tôi thấy một bà Nhật làm công việc vệ sinh, khi đổ rác mà thấy bao rác đã dơ thì bà ta thay bao rác mới. Lần đó, sau khi thay bao rác xong, bà đã đi mấy bước mà vẫn còn quay lại ngó, thấy mép bao chưa được đẹp, bà ấy quay trở lại vuốt cho thật thẳng. Quý bạn đi mua hàng ở Nhật, nhất là vào các cửa hiệu lớn sẽ thấy đúng "Khách là nhất!". Họ tiếp đãi rất ân cần, lịch sự, khách mua thì cám ơn thật nhiều, dù sau khi giở ra xem đủ thứ mà không mua thì cũng vui lòng cám ơn rồi sắp xếp lại chứ không có màn cự nự. Khi khách đưa trả tiền, nhân viên thường nhận bằng hai tay, rồi kẹp ở máy tính tiền để phòng trường hợp nhầm lẫn giữa tiền giấy 5.000 hay 10.000 Yen..., khi nhận cũng như khi thối lậi thường đếm hai lần, đưa tiền thối cũng bằng hai tay, thối xong mới cất tiền giấy của khách đi rồi chắp hai tay cúi chào. Trong giao dịch, lúc trao đổi danh thiếp, đôi khi cũng thấy họ đưa và nhận bằng hai tay, nhất là người có địa vị thấp hơn. Thời sinh viên, thỉnh thoảng tôi ra "chợ người" ở gần ga Takadanobaba, quận Shinjuku để kiếm việc làm. Có lần làm chung với một thanh niên Nhật, anh ta không đi làm chính thức mà vẫn là thợ phụ như chúng tôi, lang thang ở khắp các công trường xây dựng, có gì làm nấy, sai gì làm nấy, thường là việc dọn dẹp. Một hôm đám sinh viên chúng tôi cùng anh ta được trao việc dọn đống ống chống bằng thép dùng đổ bê tông, mỗi ống nặng khoảng từ 8 đến 10 kg. Chúng tôi thấy đi xa, nên cứ từ từ đem từng ống một cho khỏi mệt, trong khi anh ta thì cứ ba ống một. Khi nhận việc xúc cát từ nguyên một xe cát chở tới, chúng tôi làm độ 30 phút là mệt lử mà mới xúc được độ 1/4 xe, anh ta nhào vào nói để anh ta làm, anh làm liền tay cũng độ 30 phút là hết chỗ còn lại. Khi ra về, mọi người xếp hàng lãnh bao thư, trong có 5.000 hay 6.000 Yen như nhau. Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh làm việc cật lực như thế, tay đầy vết xước mà không bao giờ thấy than mệt hay cằn nhằn chúng tôi sao tà tà thế. Người Nhật làm việc đến xong chứ không lo canh giờ về và phải xong một cách hoàn mỹ chứ không thấy hết giờ thì làm vội qua loa, và họ rất ngạc nhiên khi thấy khi người Việt làm việc hay than "mệt rồi", không làm nữa. Hầu như không thấy người Nhật vừa làm việc vừa nói chuyện, vừa hút thuốc lá hay uống cà phê. Nói chung họ chủ trương làm chậm mà chắc, muốn sản phẩm luôn được hoàn mỹ, vượt hơn những thứ đã có. Khi vào làm việc chung, người Nhật không hỏi lương nhau để xem việc mình làm và lương có tương xứng không, không có kiểu thấy nhiều thì yên lặng, thấy ít thì bất mãn hay làm tà tà và rất ít khi họ mượn tiền nhau. Công chức thì ở đâu cũng "lè phè" hơn tư chức. Nhưng nhân viên hành chánh Nhật nói chung tiếp mọi người rất tử tế, không khác nhân viên một cơ sở thương mại là mấy, nói năng rất khiêm tốn, hầu như không bao giờ thấy họ hách dịch. Chỉ họa hoằn lắm mới thấy có cãi nhau ở Sở Ngoại Kiều (Sở Nhập Quốc, 入国管理局 = Nyukoku Kanrikyoku, Nhập Quốc Quản Lý Cục), thường người lớn tiếng là người ngoại quốc chứ không phải người Nhật. Nhân viên bưu điện làm việc còn tận tụy và chăm chỉ hơn nữa, trong nội bộ cũng luôn có đặt chỉ tiêu gia tăng hiệu suất, ngành này nay đang được dân doanh hóa. Người ngoại quốc nghĩ gì về người Nhật? Trong chương trình của CHTV - Tokyo No Sugao (東京の素顔 , Đông Kinh Tố Nhan, Mặt Thật Của Tokyo), phóng viên đã phỏng vấn một số người ngoại quốc, yêu cầu họ cho một lời (一言 = hitokoto, nhất ngôn) cảm nghĩ về Nhật. Cuộc phỏng vấn bất chợt và chớp nhoáng, đôi khi người trả lời nửa đùa, nửa thật, không thể hiện hết mọi sự kiện, nhưng cũng cho chúng ta vài nét khái lược. - Một phụ nữ Đức: "Người Nhật thân thiện. Ở đây nhiều đồ điện, kỹ thuật quá, tôi muốn một cái gì tự nhiên, giản dị hơn". - Một phụ nữ Canada: "Người Nhật rất lễ nghĩa. Ở đây ít công viên quá". - Một phụ nữ Hoa Kỳ: "Ở đây an toàn. Còn cái xấu là ông chồng tôi, ông ta là người Nhật". - Một đàn ông Hoa Kỳ: "Người Nhật không thân thiện với người ngoại quốc. Ở đây bất tiện vì ít bảng chỉ đường bằng tiếng Anh". - Một phụ nữ Bỉ (Belgium): "Người đông quá, môi trường bị ô nhiễm, bị kẹt xẹ". - Một đàn ông Trung Quốc: "Thuê nhà khó khăn, đòi hỏi người bảo lãnh... Sở Nhập Quốc gây khó khăn". - Một đàn ông Việt Nam (tác giả): "Thuê nhà, cơ sở thương mại khó khăn, thường bị từ chối". - Một phụ nữ Miến Điện: "Bị đối xử phân biệt". - Một phụ nữ Lào: "Chỉ thích tiền Nhật."... Những điều lạ đối với người ngoại quốc Xin liệt kê 7 điều lạ nhất đối với người ngoại quốc: 1- Cởi giày khi vào nhà (họ đi dép nhẹ trong nhà vì ngày xưa phòng lót chiếu, nay nhà thường lót thảm, hay nhựa, gỗ... nhưng thay giày bằng dép riêng thì giữ cho nhà sạch hơn). 2- Lập tức cám ơn, xin lỗi (tiếp xúc với người Nhật ai cũng thấy họ luôn luôn cám ơn và rất sẵn sàng nhận lỗi, hơi phiền người khác một chút là xin lỗi ngay). 3- Ăn thức ăn sống như cá... (người Nhật ăn cá sống nhiều thứ nhì thế giới sau một nước ở Nam Mỹ). 4- Tặng quà Tết và Trung Nguyên (các cửa hàng lớn đều chưng các các hộp quà định sẵn, người mua chỉ việc trả tiền là quà tới tay người nhận). 5- Ăn mì hay soba húp xùm xụp (người Nhật nổi tiếng lịch sự, nhưng khi ăn mì nước, bún nước... thì họ húp kêu rất to, theo họ, ăn như vậy mới đã). 6- Cầu tiêu kiểu Nhật (nhiều khi vào không biết ngồi quay hướng nào, quay vào hay quay ra, thực ra là quay vào). 7- Không phải trả tiền típ/bo (nếu khách ngoại quốc trả típ sẽ làm họ bối rối, còn nếu tự ý bỏ lại, họ sẽ vội gọi báo cho khách là "để quên tiền". Người Nhật ngày nay Những điểm trình bày trên là một số cá tính căn bản của người Nhật, ngày nay vẫn còn và có thể thấy ở bất cứ người Nhật nào. Tuy nhiên, khi xã hội càng phát triển, Âu-Mỹ hóa càng nhiều, tự do càng nhiều thì cũng đã có nhiều sự thay đổi, dễ nhất nhất là ở giới trẻ. Giới trẻ sống trong xã hội khá đầy đủ, không có chiến tranh, không bị luật lệ hay nhu cầu cấp thiết nào thúc bách, lại quá tự do, nên đôi khi họ sống theo bản năng, tùy tiện, bừa bãi, cá nhân chủ nghĩa nhiều hơn. Có khi tụ họp đi trộm cắp, ỷ đông uy hiếp cả người lớn... có khi mới khoảng 12 tới 15 tuổi đã giết người nữa mà chẳng có lý do chính đáng nào, khiến cả xã hội phải lo âu, ngỡ ngàng. Trong một số trường hợp, bố mẹ hành hạ con cái, có khi bỏ đói... làm chết con. Có những kẻ thì chuyên đâm lén phụ nữ hay các em gái rồi chạy, đốt nhà, lợi dụng xe điện sờ mó phụ nữ, móc túi những người ngủ gật trên những chuyến xe đêm v.v... Dân chúng phải tổ chức đi tuần, phòng vệ nhiều hơn, các em nhỏ đi học phải mang máy báo động. Tỷ lệ phạm pháp gia tăng một cách đáng ngại. Trong cuộc sống cũng vậy, có khá nhiều trò lừa gạt qua hình thức tôn giáo cũng như thương mại... cứ có lợi là lắm kẻ nhào vào, bất chấp đạo đức, luật lệ. Thượng tầng chính quyền, tài giới, chính giới, quân đội cho tới cảnh sát cao cấp đều có những vụ ăn hối lộ lớn một cách hệ thống, trong khi ở hạ tầng lại tương đối trong sạch. Nhật Bản vươn mạnh trong thập niên 60, 70 rồi qua thời kỳ đổ vỡ kinh tế bọt đầu thập niên 90 kéo dài tới khoảng 15 năm đến giữa thập niên đầu thế kỷ 21 là kết quả của tổng hợp những điểm mạnh và yếu của họ. Nhật Bản đang cần một cuộc cải cách lớn, sâu rộng về tư duy cũng như về cơ cấu. Làm ăn với người Nhật Nói chung, Nhật Bản có kỹ nghệ và kinh tế hàng đầu, sản phẩm cực tốt, được khắp nơi khen ngợi. Giao dịch làm ăn với họ cũng khá an tâm vì họ giữ lời, đúng hẹn. Nhưng trong thế giới giao dịch tài chính, những người nắm tài chính và làm ăn bạc tỷ, không phải chỉ là những đầu óc chân thật bình thường, mà có rất nhiều bàn tay "lem luốc" nhúng vào. Thống kê về kinh tế Nhật Bản, như càng ngày càng thấy rõ, không phải chỉ là những con số tăng trưởng tốt đẹp. Sự tăng trưởng của những thập niên 70, 80 là có thật, nhưng cũng được giới tài phiệt như ngân hàng và địa ốc thổi phồng để đầu cơ và dẫn dụ người khác, cho đến khi nó xẹp vào đầu thập niên 90. Họ chạy theo "đầu cơ tài chính" (buôn bán chứng khoán và địa ốc) hơn là "đầu tư sản xuất" là sở trường vốn có. Từ đó đến nay, kinh tế Nhật đi xuống dốc không kìm hãm nổi. Chứng khoán Nikkei trung bình năm 2003 có lúc thấp nhất là 7.752 Yen, chỉ còn bằng chưa tới 1/5 của năm 1983 là 38.915 Yen. Nói chung, Nhật Bản phải trả giá rất đắt cho sự giả tạo này, nhiều công ty và nhiều người bị lỗ nặng và phá sản, nhưng một số tay tài phiệt "ma qủy" đã moi được rất nhiều tiền của người khác và của chính công ty mình, không cần biết công ty đi về đâu, sẽ phá sản khi nào... Nhiều người thuộc loại này đã bị bắt, ngồi tù, những ai cũng biết số bị phanh phui chỉ là một phần nhỏ của tảng băng nổi trên mặt nước mà thôi. Nhật Bản lại có "truyền thống" là khi các nhân viên cao cấp thuộc các bộ chính phủ về hưu thì đi làm "cố vấn" cho các đại công ty liên hệ. Mục đích là để kiếm tiền chia chác và dễ móc ngoặc. Thường những người này lương rất cao và tiền nghỉ việc ở công ty mới lại càng cao vô lý, gấp bội người thường, họ có thể lãnh vài chục triệu Yen sau khi "ngồi chơi" ở công ty vài năm! Các công ty này chỉ có thể làm ăn theo lối "đi đường tắt" mới có đủ tiền cung phụng cho các ông cố vấn như vậy. Cuối năm 2006, cùng lúc có tới ba Tỉnh Trưởng bị bắt vì nhận hối lộ của các công ty đấu thầu. Người Nhật bình thường vẫn đôn hậu, tử tế, giữ lời hứa, làm ăn lương thiện, không đưa hoặc nhận hối lộ. Nếu đôi khi có những người ngoại quốc lừa lọc những người Nhật thật thà, thì cũng có một số người Nhật lợi dụng sự được tín nhiệm để lừa lọc người nước ngoài hay người Nhật khác. Nhất là dân làm ăn về dịch vụ, môi giới và người đi chào mời khách gọi là "mizu shobai" (水商売, thủy thương mại) thì chỉ có tiền là trên hết. Họ được học tập kỹ càng, nắm rõ tâm lý đối tượng, lừa có bài bản lắm. Nghe họ nói toàn những lời hay đẹp, nhiều người xuôi tai thò bút ký hay đóng dấu mà không đọc kỹ khế ước, bởi thực tế khế ước dài thòng, chữ li ti không mấy người đọc nổi. Lúc thực thi, không thấy họ làm những điều đã thỏa thuận, khi ấy mới coi lại khế ước thì đã muộn rồi. Nhà người Nhật thường đóng cửa và khóa, trước cửa nhiều nhà thường phải gắn bảng miễn tiếp loại người này. Kẻ lừa lọc thường nhắm vào người già, vì vừa chậm chạp hoặc thiếu hiểu biết vừa có tiền. Nào là mua cổ phần trồng nấm "linh chi"... có lời lắm, thực ra thì cũng y như vụ "nước hoa Thanh Hương" hồi thập niên 80, "chim cút" đầu thập niên 70 ở Nam Việt Nam hay "cắc kè khô" ở ngoài Bắc Việt Nam khoảng thập niên 40. Như giữa năm 2005, một công ty sửa chữa nhà cửa nhỏ chỉ có vài người, chuyên đến nhà người già nói là giúp kiểm tra miễn phí hộ xem có an toàn khi động đất không. Họ đánh vào tâm lý người Nhật là ai mà không lo sợ động đất. Sau khi xem xong, họ mới nói là nhà cũ rất nguy hiểm, cần tu bổ... Họ không chịu đi cho đến khi chủ nhà cả nể đồng ý, thế là làm khế ước từ 1 triệu đến 5 triệu Yen, trong khi thực tế có khi không cần sửa và thực chất họ làm chỉ tốn 1/10 hay 1/20 giá ghi. Có một ông già than họ đến nhà tôi tới 4 lần! Với lối làm ăn ma giáo này, trong một thời gian ngắn, họ thu vào vài chục tỷ Yen mới bị phanh phui và bị bắt! Các công ty về máy điện toán, nối mạng truyền thông cũng vậy, thường cho nhân viên đến các cơ sở thương mại, nói xem giúp miễn phí về việc trang bị máy móc. Sau đó họ cho biết hệ thống đang dùng cũ rồi, nếu muốn nâng cấp thì hãy gắn thêm các thiết bị mới, sẽ nhanh hơn như cáp quang tới 100 lần (thực tế thường chỉ gấp 2, 3, khi hỏi tại sao thì họ nói tại đường dây ở đây xa trạm chính...), tiện lợi hơn, cước nối mạng gọi rẻ hơn... Thế là họ ra sức thuyết phục, có khi như ở lỳ không chịu đi. Thí dụ, mỗi tháng thay vì đang đóng 5.000 Yen, nay chỉ cần đóng thêm độ 5.000 Yen nữa, hay thuê bao cũ 5 năm, đã được 4 năm rồi thì cũng trả trên mức đó chút thôi, nhưng ký một khế ước thuê bao 5 năm mới. Khi khách hàng đã xuôi tai đồng ý, có khi lại lòi thêm ra những thứ khác... được tính riêng. Thế là suốt 5 năm trời, khách hàng è cổ trả tiền thuê bao (lease)! Vì vậy, nên cảnh giác ít nhiều đối với giới người này. Đã có những công ty Việt Nam vì quá tin tưởng vào người Nhật sau mấy lần giao dịch, đã bán thủy sản gối đầu lấy tiền sau... bị họ quịt mất. Năm 2005, tòa xử phía Việt Nam thắng kiện và kẻ gian phải trả tiền, nhưng phía người Việt cũng đã phải rất vất vả từ Việt Nam qua theo đuổi kiện mấy năm trời. Tiền cũng chưa thu về ngay được, nên người Việt đi kiện tại Nhật không dám về Việt Nam vì sợ bị giết, vì lấy tiền đâu ra trả các nơi đã bán cá cho mình, mà rồi không có tư cách ở Nhật, ở quá hạn nên lại bị Sở Nhập Quốc bắt giam! Cái tinh ma thâm độc của họ khác với cách xảo trá ngô nghê hay dối quanh của người Việt, nên lúc đầu rất khó nhận ra. ( theo: http://duhoc.viet-sse.vn/index.php?o...73&Item id=67)