Hạ Quốc Huy

Hội viên
  • Số nội dung

    124
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by Hạ Quốc Huy

  1. Kết quả khảo sát từ một số tổ chức nghiên cứu về kiến trúc đô thị cho thấy, càng ngày nghệ thuật càng có xu hướng rời xa các căn phòng để đến với những không gian công cộng. Điêu khắc, tranh tường, đài phun nước... đã và đang trở thành một phần không tách rời trong không gian đô thị. Tuy nhiên, vẫn là tình trạng chỗ thừa, nơi thiếu, mỹ thuật đang là đối tượng bị bỏ quên trong nhiều công trình công cộng trong suốt nhiều thập kỷ qua. Thực tế này hi vọng sẽ được cải thiện khi Nghị định về hoạt động mỹ thuật ra đời trong thời gian tới. Không có “đất” dành cho mỹ thuật Sau một thời gian hào hứng với sự xuất hiện của Graffiti (tranh tường), dư luận lại... kêu trời vì sự “ô nhiễm” thẩm mỹ trong không gian công cộng mà một phần nguyên nhân xuất phát từ loại hình này. Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để ứng xử và quản lý cảnh quan ở những không gian công cộng đó? Không chỉ là những mảng tranh tường theo đúng nghĩa, nhằng nhịt trên khắp những đường hầm, cầu vượt, cầu chui..., người dân đang phải dần làm quen với sự xuất hiện của những sắc màu chằng chịt, hình ảnh ma quái. Nếu như ngay từ đầu, trong mỗi công trình công cộng như nhà ga, bến xe buýt, bệnh viện, trường học, đầu hồi các khu chung cư... đều được tính toán, bố trí một phần cho yếu tố mỹ thuật thì chắc chắn sẽ có nhiều không gian vừa hợp lý, vừa đẹp mắt. (Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm Vi Kiến Thành) Trong khi đó, ở không ít không gian, công trình công cộng khác như nhà chờ xe buýt, nhà ga, bệnh viện, trường học..., phần dành cho sự xuất hiện của các công trình, tác phẩm mỹ thuật lại hầu như bỏ trống. Sự ngột ngạt của những không gian này càng trở nên bức bí hơn khi thiếu vắng những tác phẩm, công trình có tác dụng mang đến cảm giác thư thái cho con người. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng, đa phần các công trình công cộng ở VN hiện nay chỉ chủ yếu tính đến các yếu tố công năng sử dụng mà bỏ qua yếu tố không kém phần quan trọng là tiêu chí thẩm mỹ. Các tác phẩm mỹ thuật không chỉ có tác dụng “làm đẹp” cho mỗi công trình mà còn góp phần thể hiện sự văn minh, đẳng cấp của một không gian công cộng. Theo một tạp chí chuyên ngành kiến trúc, thành công của một không gian công cộng không chỉ là tính năng sử dụng mà còn là hiệu quả cảm xúc mang lại cho con người. Không gian đó phải đẹp, tạo được những xúc cảm lành mạnh và tất nhiên, cái đẹp không đối lập với tính chất công năng sử dụng. Ấy vậy nhưng, lướt nhanh qua nhiều công trình công cộng đã và đang được xây dựng ở ta, hầu như không có “đất” dành cho mỹ thuật. Hiếm hoi mới thấy có một vài bức tượng nhỏ nhoi xuất hiện khá khiêm tốn giữa một không gian xanh rộng đến thênh thang; hay sự xuất hiện của một vài bức tranh lạc lõng không ăn nhập với tính năng của công trình công cộng... Vào Luật, sẽ có nhiều không gian công cộng đẹp? Lý giải sự khuyết vắng của các tác phẩm mỹ thuật trong các không gian, công trình công cộng thời gian qua, hoạ sĩ Vi Kiến Thành (Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm Bộ VHTTDL, Phó Ban soạn thảo Nghị định về hoạt động mỹ thuật) cho biết, lâu nay các chủ đầu tư thường không “quen” dành một phần diện tích cũng như kinh phí cho việc “làm đẹp” các công trình, bởi họ cho đó là phần không cần thiết. Hệ quả là sau khi công trình hoàn thiện, ở nhiều nơi lại có “đất” để xuất hiện những “tác phẩm” chả giống ai. Vì thế, lần này nội dung “Mỹ thuật trong các công trình công cộng” sẽ “chiếm” hẳn một điều trong Nghị định về hoạt động mỹ thuật. Điều 5 dự thảo Nghị định này nêu rõ: “Khi xây dựng công trình công cộng, chủ đầu tư phải có thiết kế và bố trí tác phẩm mỹ thuật trong công trình. Kinh phí thực hiện phần mỹ thuật nằm trong tổng dự toán của công trình”. Để “ra” được những quy định này, Ban soạn thảo Nghị định đã phải cân nhắc bàn thảo không ít. “Dự thảo Nghị định ban đầu đã định lượng rõ ràng là mỗi công trình dành 5% cho phần thiết kế mỹ thuật, tuy nhiên nhiều ý kiến lại cho rằng không nên cụ thể quá vì mỗi công trình công cộng đều có những đặc thù riêng. Vì vậy, Nghị định chỉ dừng lại ở quy định chung chung, trước hết là nhằm thay đổi nhận thức của chủ đầu tư các công trình...”- ông Vi Kiến Thành cho hay. Tuy nhiên, theo nhiều hoạ sĩ, kiến trúc sư, nội dung này được đưa vào Luật bên cạnh ý nghĩa tích cực là tác động vào nhận thức của các chủ đầu tư cũng không hẳn sẽ thay đổi được hoàn toàn diện mạo của các công trình, không gian công cộng trong một thời gian ngắn. Phương Hà Theo DiendanhoihoaVN
  2. Ông Không Nguyên - võ sư Thiếu lâm Nam phái tư vấn. Tiếp chuyện hơn 2 phút đã có thể là nạn nhân Theo ông Không Nguyên, thôi miên lừa đảo đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1975 và từ miền Nam ra. Việc này trước kia hay xảy ra ở các tỉnh lẻ, nhưng gần đây lại nổi lên nhiều ở Hà Nội. Ông Nguyên cho rằng, con người có rất nhiều khả năng tiềm tàng nên có thể tự luyện tập được thôi miên. Ngoài phương pháp luyện thôi miên bằng cách buổi sáng nhìn mặt trời mọc, ban đêm nhìn mặt trăng, còn một phương pháp nữa là luyện nhìn xoáy vào gáy (tiểu não) người khác. Gáy là nơi điều tiết kiểm soát hệ vận động của con người. Người luyện thôi miên có sóng năng lượng cao hơn sóng não của người bình thường nên điều khiển được đối tượng. Ông Không Nguyên cho biết thêm, người có năng lực chỉ cần nhìn vào mắt đối tượng là đã thôi miên được, nhưng ít người đạt "cảnh giới" này. Còn đa số kẻ xấu tìm cách bắt chuyện cởi mở, nói liên tục và nhìn thẳng vào mắt đối tượng để thu hút sự chú ý, từ đó gây ảnh hưởng trường năng lượng để át chế não, khi đối tượng hơi mê mê là lập tức điều khiển. Tùy đối tượng mà thời gian thôi miên lâu hay mau, nhưng khi đối tượng bị cuốn vào câu chuyện tới lúc kết thúc chỉ khoảng hơn 2 phút. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người), một số kẻ xấu còn dùng thuốc mê nước, hương liệu tẩm vào đồ vật làm nạn nhân mê muội tạm thời. Tuy nhiên, khi sử dụng thuốc gây mê, kẻ lừa đảo phải tự giật đồ, lấy của nạn nhân, chứ không thể sai khiến đối tượng lấy đồ đưa cho kẻ gian được. Thường xuyên cử động Ông Không Nguyên "Luôn cảnh giác với những việc làm mờ ám, không phù hợp với hoàn cảnh, cộng với bản lĩnh vững vàng sẽ không dễ bị thôi miên. Học thôi miên qua sách, Internet không toàn diện, bởi học thôi miên rất khó và rất tốn công sức tập luyện bí thuật. Thuật thôi miên không phải là một trò chơi, nó rất nguy hiểm khi một người chưa được rèn giũa kỹ đã đem ra áp dụng và áp dụng vào những việc xấu xa" . Theo Th.S BS Đào Trần Thái (Đại học Y TP Hồ Chí Minh), thôi miên chỉ có thể làm được khi đối tượng chỉ có một mình. Nơi đông người dễ va chạm phải nhau, trò chuyện, gọi nhau sẽ không có cơ hội cho kẻ xấu ra tay. Vì vậy, trẻ em, phụ nữ và thanh niên trẻ tuổi khi chỉ có một mình thì không nên hào hứng bắt chuyện ngay với người lạ. Ông Không Nguyên cũng cho biết là phải dè chừng khi tiếp chuyện với người lạ, không quá chăm chú nhìn vào mắt họ và thường xuyên cử động, quay đi quay lại để ánh mắt của họ không nhìn lâu được vào mắt, vào gáy mình. Trí não luôn nghĩ nhiều việc khác để không bị cuốn vào câu chuyện của họ. Khi tư tưởng không tập trung vào kẻ xấu sẽ giảm thiểu bức xạ từ sóng não của họ phát ra, hoặc làm những bức xạ đó không ảnh hưởng tới mức bị lệ thuộc hoàn toàn vào sóng năng lượng của kẻ xấu. Ông Không Nguyên khuyên rằng, muốn chống đỡ với thôi miên, mọi người nên tự mình tạo ra trường năng lượng mạnh bằng tập yoga, tập thiền, dưỡng sinh... để có sự tập trung tốt, có góc nhìn tốt hơn, khái quát hơn về cuộc sống xung quanh. Đặc biệt là tạo cho cơ thể một từ trường năng lượng mạnh, khiến thôi miên không thể tác động được. PGS. TS Võ Văn Bản, Phó Tổng Giám đốc Bệnh viện Việt - Pháp tư vấn: Khi giao tiếp với người lạ, nên luôn ngắt câu chuyện đang nói, ngoảnh mặt đi chỗ khác, chủ động làm việc khác để chấm dứt sự dẫn dắt của kẻ xấu. Nếu thấy mi mắt nặng, chân tay khó cử động... cần cắt ngay câu chuyện với người lạ. Nếu đã bị thôi miên mất của, cũng đừng hoảng sợ vì sau thôi miên con người chỉ bị ảnh hưởng vài phút, rồi trở lại bình thường, không bị ảnh hưởng gì về sức khỏe. T.Hương-P.Thuận Nguồn baomoi
  3. Không nên nói vậy! bức xúc nhất thời thì có nhiều Diễn đàn để giải tỏa, Diễn đàn Trung tâm NCLH Đông Phương là Diễn đàn của ngành Khoa học cổ Lạc Việt. Trong Diễn đàn có cả lớp học, người tham gia Diễn đàn thuộc nhiều thành phần, trong đó không thiếu những người trên đầu 2 thứ tóc, đáng tuổi cha, chú của bạn. Tôi nghĩ mọi người không bao giờ chấp nhận cách nói chuyện như vậy đâu. Họ đang nhìn nhân cách của bạn đấy. Một người đàn ông chân chính không bao giờ đi rêu rao bạn gái, vợ mình trên mạng. Dù cô ấy có gì đi nữa thì cũng từng là người đầu ấp tay gối với bạn, há bạn chẳng hiểu tình nghĩa vợ chồng nó thiên liêng thế nào àh? Vợ bạn là Giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm mà có tư chất như bạn nói thì càng khó tin hơn nữa. Tôi nghĩ bạn nên nhìn lại chính mình, nếu quả thật bạn có người vợ như vậy thì một phần lỗi lớn do bạn. Làm chồng không biết cách dạy vợ là một cái tội, dạy mà không mang lại lợi ích thật sự cho vợ mình thì tội đó còn lớn hơn nữa. Có lẽ bạn & gia đình đã có cách hành xử gì đó không đúng với vợ mình nên khiến cô ấy xem thường. Tôi không chấp nhận lối suy nghĩ cưới vợ về để vợ sinh con. Bạn nên hiểu đó là một người bạn đời sẽ gắn bó chung vui, chịu khổ với mình chứ không phải là công cụ để truyền giống. Chính vì bạn & gia đình bạn đã có lối suy nghĩ này nên vợ bạn đã xem thường. Vì sao? vì bạn và mọi người trong gia đình cưới cô ấy về chỉ cần đứa cháu nối dõi, đó là hành vi sĩ nhục cô ấy. Chỉ khi nào bạn nhận ra lỗi của mình và hành xử đúng đắn đáng mặt nam nhi thì hạnh phúc thật sự mới đến với bạn và gia đình.
  4. Nói phàm phu tục tử quá! Đó dù sao cũng là vợ mình, là một phần thân thể của bạn, bạn là đàn ông, nam tử đại trượng phu không nên mang cái xấu của bạn đời đưa lên mạng. Đọc nghe rất khó coi. Nên tôn trọng thầy Thiên Sứ, quý thầy cô của Trung tâm NCLH Đông Phương vì đây là mái nhà chung. Không có người vợ nào tệ như bạn đã nói: Cha chồng bị tai nạn mà không hỏi thăm, trừ phi đó là quỷ đội lốt người. Mà nếu như vậy tôi nghĩ bạn nên tự trách mình trước, trước khi cưới nhau chắc bạn đã yêu, tìm hiểu nhau, biết vợ bạn là người như vậy còn cưới là gì?
  5. Sự phong phú và đồ sộ của Chu dịch không chỉ ở 2 tác phẩm nổi tiếng là Dịch kinh và Dịch Truyện, điều cốt lõi của Dịch học ở chỗ hệ thống Dịch học khổng lồ với 3000 tác giả nghiên cứu và phát triển mạnh mẽ, nó phát sinh và hình thành nhiều phái lớn. Từ đó khiến cho Chu Dịch ví như nguồn nước không bao giờ khô cạn, dùng hoài mà không hết, giống như hang động quí báu khai thác hoài không hết. Chu dịch có ý nghĩa sâu rộng, là nền tảng cơ bản của khoa học tự nhiên, sự uyên thâm của nhiều khoa học, các môn khoa học Trung Quốc đều khởi nguồn từ Chu dịch. Đông Y là một bộ phận của khoa học tự nhiên, có mối quan hệ không thể tách rời với Chu dịch, nên chịu ảnh hưởng sâu rộng của Chu dịch. Thời gian hình thành sách Nội kinh gần với hình thành Chu dịch, nên chịu ảnh hưởng sâu rộng của Chu dịch, Chu dịch là tác phẩm triết học đồ sộ, thu nạp tinh tuý của học thuyết Âm dương, Ngũ hành thời tiên Tần; Nội kinh lấy Âm dương, Ngũ hành làm cơ sở lý luận, vì vậy Nội kinh và Chu dịch có mối quan hệ “ Máu mủ” đặc thù. Nội kinh là nền tảng của lý luận Đông Y. Chu dịch lại có ảnh hưởng sâu sắc đối với Nội kinh, rất nhiều triết lý, dịch lý của Chu dịch truyền nhập vào Nội kinh. Cơ sở lý luận quan trọng của Nội kinh như học thuyết Âm dương, Ngũ hành, học thuyết Tạng tượng, học thuyết Khí hoa…đều bắt nguồn từ Chu dịch. Chu dịch có tác dụng khai phá quan trọng với sự hình thành và phát triển của lý luận Đông Y. Chu dịch bắt nguồn của Nội kinh; Nội kinh hấp thu tinh hoa của Chu dịch lại phát triển sáng tạo nhiều nội dung của Chu dịch, từ đó hình thành một tác phẩm vĩ đại, trong đó có một số lý luận được thăng hoa và siêu việt, phản chiếu trở lại đối với Chu dịch. Do Nội kinh thu nạp Dịch lý đồng thời kết hợp sáng tạo với Y học vì vậy khiến cho Đông Y trở thành khoa học tự nhiên có trình độ triết lý cao, đẩy mạnh sự phát triển của Đông Y học. Có thể nhìn thấy Y - Dịch có mối quan hệ qua lại với nhau, Y lý khởi nguồn từ Dịch lý giống như nhà Y học Tôn Tư Mạo đã từng nói : “ Không biết dịch không thể biết Y”Vì vậy các nhà Y qua các thời kỳ nghiên cứu Nội Kinh không thể nghiên cứu “ Dịch” , nhằm đi sâu vào nghiên cứu Nội kinh yêu cầu phải nghiên cứu Chu dịch từ đó mới thúc đẩy nghiên cứu Đông Y lên tầm cao hơn. Chỉ tiếc rằng văn tự của Chu dịch quá cao siêu, khó hiểu đặc biệt cho đến nay chưa có tác phẩm nghiên cứu chuyên nghành Chu dịch với Đông Y học, trước mắt chúng tôi sẽ tập trung dịch và giới thiệu với các bạn quan tâm theo một diễn giải thật khoa học, dễ hiểu, dễ áp dụng nhưng không làm mất đi giá trị đích thực của bộ sách này. Tổng hợp Internet
  6. Trời, A Tu La, Dạ Xoa thảy Đến nghe pháp ấy nên chí tâm Ủng hộ Phật pháp khiến thường tồn Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy. Bao nhiêu người nghe đến chốn này Hoặc trên đất liền, hoặc hư không Thường với người đời sanh lòng từ Ngày đêm tự mình nương pháp ở. Nguyện các thế giới thường an ổn Phước trí vô biên lợi quần sanh Bao nhiêu tội nghiệp thảy tiêu trử Xa lìa các khổ về viên tịch. Hằng dùng Giới hương xoa vóc sáng Thường trì sức Định để nuôi thân Hoa mầu Bồ Đề khắp trang nghiêm Tùy theo chỗ ở thường an lạc. Nam mô Hộ Pháp Chư tôn Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) Pháp thức lập đàn tràng , họa tượng Đức Phật bảo A Nan Đà rằng: Nếu có người nam, người nữ tâm muốn cầu nguyện điều chi như gặp mưa bão lớn, đại hạn, hoặc gặp giặc giã đao binh, các bệnh tật, phàm gặp tất cả việc bất như ý. Muốn đọc tụng Đại Khổng Tước Chú Vương này để cầu tiêu diệt, hành giả nên tác pháp như thế này. Có thể ở đất bằng phẳng sạch sẽ lập đàn tràng nhỏ, cao khoảng vuông vức bốn mét. rồi lấy phân con trâu vàng ở núi tuyết ăn cỏ thơm, đừng cho dính đất, về trét lên đàn tràng (nếu ở nơi khác thì lấy hương bột trộn hồ keo). Trong đàn, đặt hình tượng Phật, mặt hướng về Tây, bên trái tượng Phật, đặt tượng Khổng Tước Vương, dùng lụa trắng vẽ như Pháp. Dùng lông đuôi Khổng Tước ba, bốn cọng, đặt bình cắm vào, cũng dùng phân trâu trét lên. Ba việc này có một cũng được. Thứ đến, dùng hoa bạch yết ca, hoa bạch la yết tỳ la, hoa thi lợi sa, rãi khắp trên đàn. Ở trước Phật, tùy khả năng dọn các thứ ăn uống dâng cúng dường. Ở trước tượng Bồ Tát Đại Khổng Tước Vương, để nước mật, nước đường cát, sửa bò và bánh, một mâm thức ăn. Hết lòng dâng cúng, tay mình cầm hương đốt lên quỳ trước Phật và Thánh Chúng, Tứ Đại thiên Vưong, xưng tên mỗi vị, chí tâm triệu thỉnh đến ủng hộ mình và quyến thuộc đều được an ổn, sống lâu trăm tuổi. -Bàn án phương Đông thờ các vị Tứ Thiên vưong, Trì Quốc Thiên Vương, Kiền Thác Bà Chư thần. -Bàn án phương Nam thờ các vị Tăng Trưởng Thiên Vương, Câu Bàn Trà Thiên vưong và Chư Thần. -Bàn án Phưong Tây thờ các vị Quảng Mục Thiên vương và các Long Thần -Bàn án phương Bắc thờ các vị Sa Môn Thiên Vương, Dược Xoa Chư Thần. (Viết tên các vị Thiên Vưong và danh mục các Thần vào các bài vị mà thờ cho trang trọng) Tất cả bàn án thờ này, cũng dùng hương hoa, các ẩm thực cúng dường như trước, nên làm lễ kiền thỉnh, đốt đàn dâng hương hoa, vái tên trai chủ, quyến thuộc, khổ chủ, bệnh nhân, cầu các vị Long Thần Thiên Vương hộ trì. Lấy cành dương liễu, hoặc lông chim Khổng Tước, hoặc thế lông chim sẻ lớn cũng được, nhúng vào tịnh thủy, trì thần chú 21 biến (chú Đại Bi, các thần chú của Phật, Thập chú,..v.v..) rưới vào bệnh nhân trai chủ, quyến thuộc để cầu trừ bệnh, tiêu tai nạn. Đó là mật chú trong Mật Tông cầu mật hộ. Các chú sư gia trì ngồi dưới án phật, như án Phật bên hữu phía Tây thì chú sư ngồi phía Đông mà gia trì. Các đồ cúng dường Thiên Long, Thần Quỷ, cúng xong thì chôn dứoi đất, hoặc bỏ vào ao nước, không được ăn các đồ cúng ấy, cũng chẳng được dẫm đạp lên trên. Nếu gia chủ gặp gia duyên nghèo, thì tùy tiện mà thi thiết, miễn sự kính cẩn và thành tâm cầu nguyện thì sẽ được toại nguyện như ý. SAU ĐÂY NÓI VỀ CÁCH THỨC HỌA TƯỢNG: Lấy lụa vải trắng tốt, dùng mực keo bằng võ cây, không được dùng mực keo da thú, hòa trong chén để họa tượng. Vừa hừng sáng, trời trong thanh tịnh, người vẽ tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới , phải thọ Bát Quan Trai Giới, rồi mới thao tác, họa tượng Phật, Bồ Tát. Trước án giữa Phật tượng, nên vẽ Y ca sa đắp trên thân Phật màu sắc hoa đào: chạy chỉ viền màu vàng ngồi trên tòa sư tử, bên tả vẽ trời Ma Ha Ma Du Lợi , tô vẽ y phục sắc trắng đỏ, nép áo quần xen nếp bạc nhủ tuyến, trên thân đeo chuỗi anh lạc. Bốn cổ tay đeo vòng màu vàng, tay hữu cầm trái hồng đào sữa, tay tả cầm hoa sen , tay cầm quả kiết tường, tay cẩm ba sợi lông đuôi chim Khổng Tước, đứng trên hoa báu. Trước ngực tượng Phật nên vẽ chữ Vạn màu vàng , màu thắm. Vẽ ngài A Nan quỳ chấp tay gần bên Phật. Cũng vẽ thêm dưới tượng Phật, vị Kim Vương Thủ Thần Vương, tay hữu cầm phất trần trắng, tay tả cầm kích kim cang. Bên góc hình tượng nên vẽ các thứ hoa quả tỏ ý cúng dường. -Án thờ phương Đông vẽ họa đồ Châu Tỳ Đề Ha, tỏa ánh sáng như mặt trăng tròn màu Vương tuyết, phía dưới chặn giữa vẽ vị Trì Quốc Thiên Vương, Kiền Thát Bà Thiên Vương và các vị thần Kiền Thát Bà bao quanh. -Án thờ phương Nam vẽ hình Châu Nam Thiện Bộ, hình dáng như chiếc xe, Bắc thì rộng, Nam thì hẹp, giữa vẽ vị Tăng Trưởng Thiên Vương chủ lãnh Câu Bàn Trà, chung quanh có chúng Câu Bàn Trà vây quanh. -Án thờ phía Tây vẽ Châu Cù Đà Ni, hình dáng như mặt trăng tròn đầy, giữa vẽ vị Quảng Mục Long Thiên vương có Long chúng bao quanh. -Án thờ phía Bắc vẽ Châu Bắc Cô Lô, hình vóc bằng phẳng, giữa vẽ vị Đa Văn Dược Xoa Thiên Vương, có chúng Dược Xoa bao quanh . Phía mặt truớc đàn tràng xây về hướng Tây có thể thấy ánh sáng mặt trăng. Trước ngày vẽ tượng phải thiết lễ đàn nghi, lễ bái thọ trì tâm chú Bát nhã, Đại Bi và các chú để cầu gia bị. Khi lập án vẽ tượng xong thì bảo các trẻ đồng nữ se chỉ ở trước tượng vẽ, tụng chú 108 lần, tức là gút 108 gút, mỗi gút tụng một biến chú: NAM MÔ PHẠT GIÀ PHẠT ĐẾ, A MẠT LỆ TỲ MẠT TỆ TẤT ĐỊA. Gọi là dự tiền phương tiên, sau đó tụng chú này một vạn biến hoạăc 10 vạn biến càng tốt. Lấy gạo trắng sắp thành hình bốn châu, hình dáng như đã nói trên, thiết lễ cúng dường, đốt các thứ hương thơm. Đốt bạch giao hưong cúng ở đông phương Trì quốc Thiên Vưong...v.... Đốt hương hạt cải hòa với muối cúng ở Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương...v.v... Đốt hương Tô hợp hòa với An tất hương cúng dường ở Tây phương Quảng Mục Thiên Vương...v.v... Đốt hương Huân lực cúng dường Bắc phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Ma Ha Du Lợi thiên thần ...v.v... Thiết trí hoa quả, các thứ cúng phẩm để cúng dường bốn phương các vị Thiên Vương ...v.v...Lấy năm thứ: vàng, bạc, đồng, thiếc, thao đập dẹp quấn lại, vo tròn thành viên như hạt táo, đem đặt vào bảy lớp lá bồ đề, đào đất sâu làm hỏa lò, chụm các cùi danh hương như cây danh hương Ô Đàm vân Bạt Ba La Mộc, Bát La Xoa Mộc, Ngưu Tất Thảo, một trong ba thứ chẻ nhỏ ra như ngón tay làm 800 miếng. Có thể thay các cây trầm danh hương khác cũng được. Đem các viên trên (nếu không làm được táo uốn dẹp bằng vàng, bạc, ...v.v...thì lấy táo, dâu trái cây thế cũng được) đặt trên các bàn án. Xông ướp các hương thơm. Trong 800 miếng củi thơm, lấy một thanh củi thơm bỏ vào lò lửa phải tụng chú một biến như trên. Lấy một viên táo vo tròn bằng vàng, bạc...v.v...cứ mỗi viên tụng chú 800 biến. Tất cả đồng sự ủng hộ đọa tràng, đừng có tâm sợ hãi gì, vì đọc chú được thành tựu linh diệu, có những tướng trạng, âm thinh hiện ra trong đạo tràng, hoặc những tướng tốt lạ, tùy nguyện được thành tựu. Những đồng bạn có thể lấy một viên táo đặt vào miệng mình nhưng không được nuốt, thì các mùi vị của trái táo đó, như mùi vị táo thật, hay trừ được ác tật bệnh quái lạ và sở cầu được toại nguyện. PHỤ Ý: “Thế gian thường hay tin những thi quỷ, trùng tang (thây ma thành quỷ đứng dậy, hoặc ngày chết, có trùng tang liên táng, bà con hay chết theo. Các sự cố ấy là dị đoan của đời sống, của loài người, tưởng như có thật, đôi khi trường hợp trùng với sự kiện thoạt nhiên xảy đến. Vì những hư thực ấy cũng làm cho chúng sanh sống đau khổ phập phồng lo âu. Nên Đức Đại Bi Thế Tôn tùy theo thành kiến sợ sệt của chúng sanh, chỉ dạy thêm đạo tràng, để đối pháp trị, không theo cách thức ngoại đạo ngụy tạo đa đoan làm khổ lụy chúng sanh mà không được hậu quả tốt”. CHÁNH VĂN Lại có một pháp khác. Khi cất đám tang đi chôn người chết, nên đặt linh cửu (thi thể người quá cố) ở ngã tư đưởng, đừng thiết trí án thờ, chỉ nên bằng cách cầu khấn tứ phương thiên thần xin đến gia hộ, thiêu hương, dâng hoa cúng dường ( lấy các sợi dây tinh luyện đọc chú pháp như trước đã nói cho các người thân nhất trong dòng họ sợ trùng tang đeo). Và đọc chú Phật Khổng Tước Chú Vương, như pháp thọ trì, cầu nguyện với tâm thành, nguyện ân đức từ bi và Hộ Pháp Thần Vương gia hộ, sẽ có kết quả tốt. Khi an táng, hoặc hỏa thiêu xong, ban đêm , các con cháu hoặc thân thích sẽ thấy những điềm mộng như: voi, trâu mập mạnh, xe tốt, núi cao, cây nhiều hoa trái , hoặc mộng thấy tự thân báu trên cao, hoặc ngồi trong tòa nhà tốt đẹp, hoặc thấy những khách quý sang trọng, hoặc thấy cha mẹ mình, hoặc mặc áo tốt, tiếp khách, những khách trí thức, thấy đồng nam, đồng nữ tướng tốt trang nghiêm, hoặc thấy các thiên thần dạy bảo các điều hay lạ chơn thật, hoặc thấy lúa gạo nhiều, sữa tươi, vật thực nhiều, thấy chim khổng tước, ngựa tốt. Như vậy là thấy chiêm bao an lành. Nếu thấy khác đi thì chẳng phải điềm lành vậy. Ví như thấy lừa, lạc đà, vượn, khỉ, heo, chó, rắn rít...v.v...hoặc các loài mèo, chồn, các loài chim điêu, cú mèo, quạ. Hoặc thấy lõa hình xấu xí ốm đen, kẻ không nhà cửa, thấy chết ngoài rừng bụi, sông ngòi khô cạn, đó là điềm mộng xấu. Thế nên tác pháp theo đạo tràng trì tụng chú, để dễ thành tựu các điềm lành và điềm mộng tốt. Vả lại, nếu gặp các cảnh như sợ hãi, các bệnh khổ não, các dịch lệ tai ách, chết oan uổng, đều tiêu diệt ngay. Vì người thao tác đạo tràng và trì chú như pháp nên có hiệu lực, hoặc gặp trẻ con bệnh (mà người đời tin là quỷ bắt) thì lấy lông chim sẻ thế cho lông đuôi chim Khổng Tước nhúng vào lọ tịnh thủy để trên án thờ, phất lên mình trẻ thơ, cùng đọc chú , kết dây đeo vào cổ nó thì được lành bệnh ngay. Có thể nói, những tác pháp của ngoại đạo trử bệnh, không được thành biện, mà đem Khổng Tước Chú Vương thi thố trong đạo tràng ra thao tác chú nguyện thì được thành tựu hiệu quả ngay. Như Đức Thế Tôn nói: Giá như có người phạm tội ngũ nghịch, nếu hay lập được pháp đàn này, thao tác hành trì được bảy lần đạo tràng chú nguyện, ắt tội nghiệp nặng tiêu trừ và làm cho tâm kẻ có tội được an tịnh, tiêu trừ bệnh khổ. Tốt nhất phải có lòng tin thanh tịnh thì cầu nguyện được toại nguyện như ý (nhất tâm thành biện). A Nan Đà, lại có tâm chú, ông nên thọ trì: NAM MÔ PHẬT ĐÀ DÃ, NAM MÔ ĐẠT MA GIÃ, NAM MÔ TĂNG GIÀ DÃ, NAM MÔ KIM QUANG MINH KHỔNG TƯỚC VƯƠNG, NAM MÔ MA HA MA DU LỢI MINH CHÚ VƯƠNG, ĐÁC ĐIỆT THA AN TRÍ PHẠT TRÍ, THÁCH KẾ THẠT LẶC, THÁCH KẾ ÁC YẾT TỬ, MẠC YẾT TỬ NHẤT LÝ NHỈ LỆ KỲ LỆ, HỘ LÔ LẠC THÍCH, MẠC HA HỘ LÔ LẠC THÍCH, BỘ ĐĂNG CẤP MẾ, ĐỂ MINH KỲ TÂY, MẠC HA VƯƠNG YẾT TÂY.TÓA HA. A Nan Đà, Ma Ha Ma Du Lợi tâm chú này là chú tất cả chư Phật tuyên thuyết . Đây là chỉ lược nói chú pháp. Nếu muốn thọ trì đọc tụng thì phải kiến tạo đạo tràng như pháp thức đã nói thì những nguyện cầu chi đều được thành tựu. Nếu sự cố chẳng được toại tâm thì phải đoan tọa (ngồi nghiêm túc bán già hoặc kiết già) trì Tâm chú (Bát nhã, Đại bi), phải trước lễ bái thành tâm sám hối tội lỗi, đem thanh tịnh tâm cúng dường Phật, rồi mới tụng chú. Thân, miệng, ý cho tịnh mật tương ưng, không cho một vọng tưởng nhỏ nhặt xen vào. Nếu trong lúc ngủ nghỉ mộng thấy trượng phu tướng (người đàn ông cao lớn, vạm vỡ trang nghiêm đẹp đẽ) đến trước mặt mình, tức là tụng chú có linh ứng. Nếu thấy người nữ tướng mạo đoan nghiêm ứng đến, tức là các vị thiên thần, tiên cảm chứng thương mến sự cầu khẩn trong trạng thái tâm thành nên hiện chứng. Có những sự sai biệt như thế, nếu dốc lòng chí tín, chí kính, tinh tấn thọ trì chú pháp để cầu mật hộ, có thể họa thêm tượng Ma Ha Du Lợi Bồ Tát. Lại trang trí trước tượng là tượng Khổng Tước Vương, cần nhất án vọng thờ phải thanh lịch để dễ dàng phát tín tâm. Khung cảnh thờ tự nghiêm túc, giúp cho hành giả sở quán được thanh tịnh, nên tất cả những hiện trạng sợ hãi và tất cả bệnh khổ từ từ giảm lần cho đến kết quả tiêu trừ. Cần chọn ngày có trăng sáng để đàn tràng được quang đãng. CHÚ Ý: Không được kiến lập đàn tràng như thế này trong mùa Hạ lạp an cư ba tháng của chư Tăng, vì không đúng như pháp. Người trì chú pháp tắm rửa sạch sẽ, mặc pháp y thanh tịnh, lễ bái thành kính. Bằng pháp sự cúng dường , dâng hoa tươi tốt , xông hương thơm. Tạo trợ duyên ngoại cảnh khế hợp với nội tâm để tụng niệm chí thành, tụng tâm chú bảy biến ( Bát nhã tâm chú) cầu nguyện: Nguyện Chư Phật (Bạt Già Phạt Đế) thương xót chúng con, quang giáng đạo tràng, chứng minh nạp thọ cúng dường. Và xin cầu chư Thiên, Thiện Thần, Bát Bộ Thiên Long ai mẫn nạp thọ cúng lễ đàn tràng của chúng con, đồng gia hộ cho trai chủ.................và quyến thuộc được vô lượng an lạc, tai nạn tật bệnh tiêu trừ, viễn ly khổ nạn. Đạo tràng cúng lễ xong thì phải kính cẩn thỉnh Chư Tôn, Thiên Long, Bát Bộ , Thần Tiên trở về chốn cũ. Nhớ cho! Các đồ cúng, dụng cụ của chư Thiên, chư Tiên, chư Thần, phải chôn nơi kín đáo, như trước đã nói. Hành giả cầu nguyện trong đàn tràng này, không có một niệm nghi ngờ về chú pháp thì quyết định hiệu quả linh nghiệm không sai. Ngài A Nan Đà đã nghe lời Phật dạy xong, chắp tay vâng thọ và đảnh lễ lui ra.
  7. Bài viết của cô wildlavender rất hay. Đạo Phật là số 1. Nếu có một tôn giáo nào đủ sức đương đầu với Khoa học hiện tại thì tôn giáo ấy chính là Phật giáo. Tôn giáo của những người có trí huệ siêu việt. Em không thích những người cứ mở miệng ra là: Xin Chúa ban phúc cho họ mà tự bản thân họ không nhìn vào những việc họ đang làm. Gieo nhân nào thu quả đó, không có chúa nào cứu được người làm ác. Đức Phật Thích Ca và các đại đệ tử của ngài tu hành đạo hạnh cao ngất trời mà vẫn còn phải trả nghiệp cho nhiều đời quá khứ về trước. Huống chi những con người suốt ngày chỉ biết hành lễ, tôn kính 1 hình tượng xa xăm nào đó trong trí tưởng tượng của họ mà bỏ quên đi những gì thực tại, quên những đồng loại đang chịu khổ đau quanh họ, có những người đang là nạn nhân của họ. Một ấn tượng đập mạnh vào ký ức mà em mãi không bao giờ quên: Cách đây gần 5 năm em đi công tác cùng người bạn ở BD, dọc đường ngồi nghỉ ở một hàng quán đối diện 1 Trường nuôi dạy trẻ Khuyết tật. Thấy có một bà lão nghèo khoảng 80 tuổi chống gậy dẫn 1 đứa trẻ bị khiếm thính khoảng 10 tuổi xin vào học ở Trường. Lát sau thấy bà lão và đứa bé bị một bà Sơ khoảng 30 tuổi đuổi ra ngoài không nhận vì lý do không có giấy tờ giới thiệu nhập học. Hình ảnh một bà lão nghèo gần 80 tuổi phải quỳ lạy một mụ đàn bà đáng tuổi cháu mình, còn mụ ấy trong hình dáng thánh nữ thì xua tay đuổi 2 bà cháu như đuổi ta 2 khiến em không thể nào nén nổi sự căm giận. Mọi người xung quanh thấy vậy chỉ biết lắc đầu ngao ngán. Giá mà lúc đó Thiên lôi đánh cho mụ một cái chắc em hả dạ lắm. Đạo là một con đường, mà là con đường dẫn đến Chân, Thiện, Mỹ để con người sống tốt hơn, biết yêu thương giúp đỡ nhau, tu hạnh bố thí, quý giữ sinh mạng thì mới là đạo tốt. Ngược lại chỉ là Tà đạo, khi con người dùng tà đạo để phục vụ cho lòng đố kỵ thấp hèn của họ thì thật là nguy hiểm, sẽ một lúc nào đó thứ Tà đạo nó sẽ biến thành công cụ hủy diệt loài người. Cần phải sớm ngăn chặn
  8. Bạn ở trong căn nhà này lâu nay có thấy nặng ngươì hay không khí trong nhà lạnh lẽo không? nếu có cảm giác như vậy thì bạn nên rời khỏi căn nhà này càng sớm càng tốt. Nhìn bản vẽ tôi thấy vị trí bếp của căn nhà này rất xấu. Theo Phong thủy, trong một căn nhà thì Bếp là quan trọng nhất, một ngôi nhà xây nhầm hướng xấu nhưng bếp hướng tốt thì có thể hóa giải được, ngược lại nhà xây hướng tốt mà bếp xây lầm hướng xấu rất khó làm ăn, người trong nhà bệnh tật tai ương. Tiếp đến là cái phòng ngủ và cách bài trí trong phòng ngủ, thường không nên kê giường ngủ ở hướng mà khi nằm ngủ đối mặt với cửa phòng hoặc với 1 cái gương ví dụ gương tủ quần áo chẵn hạn. Cuối cùng là cái phòng khách, cách bày trí phải hợp lý. Cửa ra vào nên dùng thước Lỗ ban đo lại xem rơi vào cung nào, nếu là cung xấu nên đập cửa thu hẹp hoặc nới rộng ra. Tạm thời để bình yên bạn nên lập 1 bàn thờ Phật Dược Sư Lưu Ly Quan Như Lai ngay chỗ trang trọng nhất trong phòng khách, hàng đêm nhớ thắp hương cầu nguyện. Trong lời 12 Lời nguyện của Phật Dược sư lúc ngài còn đương hành đạo Bồ tát nếu nhà có ma nạn, hung tướng thờ ngài, chí tâm đọc kinh Dược sư hàng đêm thì 12 vị Thần tướng Dược Xoa sẽ xua ma quỷ ra khỏi ngôi nhà. Những vật Phong thủy có chức năng trấn yểm rất tốt nhưng bạn phải biết sử dụng, nếu không biết sử dụng thì kết quả rất nguy hiểm ngoài mong đợi. Tư vấn trên mạng không thể đầy đủ được, mình cũng chỉ là kẻ sơ học đang cầu học Phong thủy ở thầy Thiên Sứ nên kiến thức của mình có hạn. Bạn nên đến Trung tâm NCLH ĐP mời thầy Thiên Sứ và các anh chị em ở đó trực tiếp về nhà bạn xem giúp thì sẽ cho bạn hướng dẫn tốt nhất. Thân ái
  9. Người có tính suy nghĩ, đa sầu, đa cảm và ngang bướng thường dễ thất bại trong cuộc sống, công việc, hạnh phúc gia đình khó bền vững. Em cần phải kiên trì sửa đổi tính khí của mình nếu muốn giữ gìn hạnh phúc và thành công. Tốt nhất em nên tham gia các hoạt động từ thiện, giao tiếp nhiều em sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn.
  10. Bốn ông chẳng việc gì làm Ngồi không bị vợ càm ràm chán chê Rủ nhau đến quán cà phê Cà kê dê ngỗng kéo lê một ngày: - Thời trai tôi chẳng thua ai Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan - Thời trai tôi rất hiên ngang Đánh Đông dẹp Bắc nên trang sử hùng - Thời trai tôi cũng đã từng Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi - Thời trai tôi cũng thượng đài Tuyệt quyền nhị đẳng huyền đai phải nhường - Bây giờ dở dở ương ương Ra đường lạc chẳng biết phương nào mò? Về nhà ủ rủ co ro Nửa đêm thanh vắng vợ xô xuống giường - Còn tôi từ lúc tha phương Ở nhờ quê vợ lâu dường như ngu Nói năng chẳng nhớ đuôi đầu Mười câu có đến chín câu sang đàng - Còn tôi danh lợi không màng Cả ngày chẳng muốn nói năng một lời Nhưng vừa mở miệng hé môi Là nàng đã nhảy vô ngồi tụng kinh Tụng từ sương sớm bình minh Tụng qua giờ ngọ bài kinh vẫn còn - Còn tôi sức lực hao mòn Đầu óc lú lẫn chẳng còn như xưa Nhưng vừa về tới giậu thưa Trăm lời đay nghiến cũng vừa tuôn ra Dằn mâm xáng chén bằm nhà Chưởi chồng rồi lại chưởi cha nhà chồng - Còn tôi thì khác các ông Có được cô vợ siêng năng đi chùa Từng đêm mõ gõ chuông khua Nhà êm cửa ấm chẳng thua kém người Nhưng vừa nhác thấy bóng tôi Là nàng đã xổ những lời ai bi: Sao không chết phứt nó đi Cho tôi thoát cái nợ gì của ai Chẳng đi khuất mặt khuất mày Còn mang cái xác về đây làm gì? Chiều rồi chẳng biết làm chi Bốn ông mới gọi tắc xi xuống cồn Xuống cồn xem lửa đầu non Xem trăng đáy biển nửa đêm chưa về. ” St “
  11. Sinh nhật thầy vui quá! tiếc là mình không biết sớm để đến tham dự
  12. Thấy tấm lòng cầu học của em anh rất cảm kích. Anh không giỏi về Lý học nhưng anh biết chút ít về Đông y và Nhân tướng học. - Theo anh biết tuổi em và chồng em nằm trong Tứ Hành Xung: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu - Phụ nữ người gầy, cao, da xanh là do khí huyết bị hư, em nên chơi thể thao, ăn uống đủ chất, tiết độ trong đời sống tình dục. - Người có tính suy nghĩ, đa sầu, đa cảm và ngang bướng thường dễ thất bại trong cuộc sống, công việc, hạnh phúc gia đình khó bền vững. Em cần phải kiên trì sửa đổi tính khí của mình nếu muốn giữ gìn hạnh phúc và thành công. Tốt nhất em nên tham gia các hoạt động từ thiện, giao tiếp nhiều em sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn. Thân ái
  13. Ông chủ nhà hỏi đứa ở: - Mày có tin ma quỷ không? - Thưa không. - Tại sao tuần rồi mày xin phép về chôn ông già vợ mày mà sáng nay ổng lại đến tìm mày? ????
  14. Mừng thầy thêm một tuổi mới! Em chúc thầy luôn dồi dào sức khỏe và thắng lợi trong công việc.
  15. Quái gở chuyện người đàn bà ngoại tình với “ma” Thế là, cứ đêm xuống, khi anh chồng ngủ, con “ma” lại chui qua khe cửa vào nhà, lên giường, làm tình với chị H. Nhiều hôm, con “ma” vào phòng sớm quá, chị còn bảo nó nấp sau cánh cửa, chờ anh chồng ngủ say đã rồi hãy lên giường. Đem chuyện gặp gỡ cô gái Nguyễn Thị K. bị ma quỷ hành hạ kể với Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân, anh Quân bảo rằng, những chuyện đại loại như thế rất nhiều. Anh Quân khẳng định rằng, K. đã rơi vào trạng thái của người bị tâm thần, bị đủ các loại ảo giác, ảo thanh, ảo vọng, ảo thị. Thạc sĩ Quân trị liệu bằng thôi miên. Theo anh Quân, bộ não gồm có phần ý thức và vô thức. Ý thức điều khiển và bảo vệ cơ thể bằng những “cầu chì”. Hiện tượng mộng du, bóng đè chính là chiếc “cầu chì” nào đó bị lỗi. Khi những “cầu chì” bảo vệ cơ thể bị lỗi, thì cơ thể sẽ bị loạn, ý thức và vô thức hoạt động lẫn lộn, khiến con người ở trạng thái nửa mơ nửa tỉnh, còn gọi là “tẩu hỏa nhập ma”. Để điều trị những bệnh nhân này, phải tìm được nguyên nhân, gỡ bỏ ám thị, sửa “cầu chì”. Bệnh viện tâm thần có thể điều trị được những ca bệnh kiểu này, nhưng khó triệt để. Phương pháp thôi miên cũng có thể tìm ra nguyên nhân và điều trị tận gốc. Đây là phương pháp điều trị rất thịnh hành ở châu Âu. Ở trạng thái vô thức, con người còn nói chuyện với... cây. Thậm chí thương tảng đá đến phát khóc. Theo anh Quân, hiện tại, những chuyện quái gở kiểu như yêu “vong”, làm tình với “ma” diễn ra rất nhiều. Anh Quân đang phải điều trị cho khá nhiều chị em bị hiện tượng này sau khi đi áp vong về. Trong số những phụ nữ bị yêu đương và làm tình với “ma” được anh Quân điều trị, có một câu chuyện cười ra nước mắt mà tôi không thể tưởng tượng được. Chị Cao Thị H. đã có chồng và một con trai. Chị H. làm việc cho một ngân hàng, còn anh chồng là kỹ sư xây dựng. Nhà cửa ở Hà Nội. Cuộc sống vợ chồng khá sung túc. Cuối năm ngoái, gia đình tổ chức tìm mộ liệt sĩ, nên chị H. có nhiệm vụ đi cùng để cho vong nhập. “Vong” cũng nhập vào chị H., và gia đình cũng đào một ngôi mộ vô danh về thờ. Chẳng biết rõ hài cốt đó có đúng không, vì gia đình không xét nghiệm ADN. Khi chưa giải thích được, thì quả trứng đứng trên đũa liên quan đến ma quỷ nhưng khi khoa học giải thích được rồi, thì chẳng có gì bí ẩn, kỳ quái. Nhưng sau khi tìm mộ về, chị H. phát lộ nhiều khả năng đặc biệt, có thể xem bói, gặp gỡ, trò chuyện với người âm thường xuyên. Khả năng của chị khiến anh chồng là kỹ sư, vốn không tin ma quỷ, cũng phải tin sái cổ. Nhưng khốn nỗi, một con “ma” đàn ông đã cướp mất người vợ yêu quý từ tay anh. Nhiều đêm, khi hai vợ chồng đóng cửa, tắt đèn, chuẩn bị ái ân, thì chị lại đẩy chồng ra, rồi ngồi khóc. Chồng gặng hỏi nhiều quá, thì chị buộc phải kể thật rằng, có con “ma” cứ đứng ở cạnh giường chằm chằm nhìn vợ chồng chị, khiến chị không thể chiều chồng được. Anh chồng không thể tin được chuyện này vì đó là sản phẩm của trí tưởng tượng. Cô gái này đã bị một "vong" yêu say đắm và phá rối cuộc sống hiện tại. Gia đình phải đưa đến Liên hiệp UIA để "bắt ma". Thế nhưng, khốn nỗi, một thời gian sau, chị H. lại yêu “vong hồn” kia thật. Thế là, cứ đêm xuống, khi anh chồng ngủ, con “ma” lại chui qua khe cửa vào nhà, lên giường, làm tình với chị H. Nhiều hôm, con “ma” vào phòng sớm quá, chị còn bảo nó nấp sau cánh cửa, chờ anh chồng ngủ say đã rồi hãy lên giường. Nhiều lần anh chồng không biết, nhưng lần nào chị H. sung quá, rên la ầm ĩ, thậm chí đòi nhiều tư thế khác nhau, thì anh chồng tỉnh dậy và… bắt quả tang. Cuối cùng, chị H. đành phải khai thật, là đã yêu một con “ma” và đêm nào cũng làm tình với “ma” ngay trên giường của hai vợ chồng. Hai vợ chồng không còn ái ân gì nữa. Những đêm sau đó, anh chồng cầm dao mà đành bất lực nhìn vợ mình “thác loạn” với “người âm”. Hai vợ chồng đã gặp Thạc sĩ thôi miên y khoa Nguyễn Mạnh Quân để điều trị. Anh Quân hiểu rõ được bản chất của căn bệnh và sau vài buổi điều trị, con “ma” đã biến mất khỏi cuộc đời chị H. Theo anh Quân, con “ma” đó chỉ là trí tưởng tượng, là thứ mà vô thức của chị H. vẽ ra. Tuy nhiên, hình ảnh đó rõ ràng hơn nhiều so với những giấc mơ ướt át mà người bình thường hay gặp. Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường đã có mấy chục năm đào mộ, làm việc bên xác chết, song ông chưa bao giờ thấy biểu hiện của ma quỷ, linh hồn. Theo anh Quân, hầu hết những hiện tượng quái gở liên quan đến ma quỷ, vong hồn, thần thánh đều là biểu hiện của bệnh tâm thần, cần phải điều trị khẩn cấp. Nếu không điều trị ngay, bệnh tâm thần sẽ phát ngày một nặng, và khi lý trí không làm chủ được nữa, vô thức xâm chiếm, lãnh đạo cơ thể, thì người đó đã biến thành tâm thần hoàn toàn. Chuyện bị tâm thần, vong nhập thực ra rất đơn giản, chỉ là ám thị tự kỷ mà thôi. Đôi khi, một câu nói đơn giản, có thể giết chết một mạng người là vì vậy. Ông cha ta có câu “lời nói đọi máu” quả không sai. Khổng Minh chỉ dùng miệng lưỡi, mà Vương Lãng hộc máu chết tươi. Kết lại vụ việc này, Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân kể một câu chuyện có thật mà anh đã tham gia điều trị. Có một nhà khoa học trong nước sang Tây Tạng nghiên cứu. Một pháp sư gặp ông và bảo: Đúng 101 ngày sau ông sẽ chết! Thượng đế chỉ cho ông làm việc 100 ngày nữa thôi, nên ông cố gắng hoàn thành mọi việc đi. Không hiểu lời nói của vị pháp sư kia ghê gớm như thế nào, mà nhà khoa học này mất hết cả lý trí. Ông đã hoàn thành nốt vài công việc, rồi dặn dò con cháu chuyện hậu sự. Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân: Những người mê muội với áp vong có thể sẽ phải trả giá bằng chính sức khỏe và tính mạng. Đến ngày thứ 90 thì ông không ăn uống, không làm được việc gì nữa. Con cháu đưa đi tất cả các bệnh viện, gặp các bác sĩ đầu ngành, song không tìm ra bệnh gì. Đến ngày thứ 99 thì cơ thể không tiếp nhận dịch truyền nữa. Bệnh viện đã bó tay, đề nghị gia đình chuẩn bị hậu sự. Đúng lúc đó, một người con đã nhờ vả anh Quân. Theo lời kể của gia đình, thì ông đã bị một pháp sư Tây Tạng yểm bùa, nên chỉ sống được 101 ngày. Như vậy, chỉ còn 2 ngày nữa, ông sẽ rời cõi trần. Bác sĩ thì không tin có chuyện yểm bùa, nhưng lại không tìm ra nguyên nhân gây bệnh. Nhưng với những chuyên gia thôi miên, thì hiện tượng này gọi là hiệu ứng NOCEBO. Anh Quân đã dùng phương pháp thôi miên sâu và duy trì giấc ngủ sâu của nhà khoa học này suốt 3 ngày, từ ngày thứ 99 đến ngày 102. Khi ra khỏi trạng thái thôi miên, câu đầu tiên mà nhà khoa học hỏi là ngày thứ bao nhiêu? Khi biết đã sống đến ngày 102, ông liền bật dậy đi lại và bảo: “Thế là ta không chết được rồi!”. Mấy năm nay, ông vẫn sống khỏe mạnh và không bao giờ tin vào những câu nói đầy sự ám ảnh như thế nữa. Câu chuyện của Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân đầy vẻ huyền hoặc, nhưng nó là hiện tượng có thật, thậm chí là phổ biến. Chuyện người dân đổ xô gặp lang băm chữa bệnh kiểu quái gở, dị đoan, kéo nhau đến khu vườn ngồi chữa bệnh, rồi chuyện đi cầu thai khiến cái bụng bỗng to tướng là điều có thật. Đó là sự ám thị quá nặng nề. Một xã hội lành mạnh, phát triển, thì con người phải tin vào khoa học. Nếu con người cứ chìm đắm vào chuyện ma quỷ, thì sẽ đến một ngày, con người sẽ là nô lệ của cái thế giới vô hình hư ảo. Theo VTC (Báo 2sao.vn)
  16. Mình không rành về thuật Phong Thủy cho lắm vì mình chỉ mới tham gia Diễn đàn Trung tâm NCLH Đông Phương, theo thầy Thiên Sứ thọ giáo với tấm lòng cầu học, nhưng mình đã từng có nhiều năm theo các sư thầy học Mật Tông ở chùa. Căn cứ theo phép của Mật giáo, ngoài cách bố trí phương hướng, màu sắc của ngôi nhà còn cần phải lưu tâm thêm một số vấn đề: Khu đất anh đang ở như thế nào? Bố cục của ngôi nhà như thế nào? Ngôi nhà này xây dựng vào ngày giờ có sát chủ hay không? Nguy hiểm nhất là một ngôi nhà khi xây dựng bị ếm bùa Lỗ ban Sát, từng có người chết oan hoặc dưới nền nhà có hài cốt. Theo mình việc tư vấn qua mạng không có nhiều hiệu quả cho lắm! Anh nên chịu khó đến Trung tâm NCLH Đông Phương mời thầy Thiên Sứ và các chuyên gia của Trung tâm đến tận nhà anh để xem xét thì sẽ có cách giải quyết hiệu quả nhất.
  17. Dạ thưa thầy! em nói : Từ bé giờ em không biết nói khoác là em cũng đang nói khoác rồi ạh
  18. Chào thầy Thiên Sứ, cô wildlavender và các bạn! Đọc Topic thấy mọi người đi làm từ thiện vui và nhiệt tâm quá! thật là quý báu! Em cũng thích làm từ thiện, hôm nào có chương trình offline mọi người gọi em đi cùng với nhé!
  19. Hi! thấy mọi người nói khoác vui quá! tiếc cho mình vì từ bé giờ mình chưa hề biết nói khoác nên không biết pót bài gì để tham gia xem ai nói khoác giỏi nhỉ?!
  20. Sự phong phú và đồ sộ của Chu dịch không chỉ ở 2 tác phẩm nổi tiếng là Dịch kinh và Dịch Truyện, điều cốt lõi của Dịch học ở chỗ hệ thống Dịch học khổng lồ với 3000 tác giả nghiên cứu và phát triển mạnh mẽ, nó phát sinh và hình thành nhiều phái lớn. Từ đó khiến cho Chu Dịch ví như nguồn nước không bao giờ khô cạn, dùng hoài mà không hết, giống như hang động quí báu khai thác hoài không hết. Chu dịch có ý nghĩa sâu rộng, là nền tảng cơ bản của khoa học tự nhiên, sự uyên thâm của nhiều khoa học, các môn khoa học Trung Quốc đều khởi nguồn từ Chu dịch. Đông Y là một bộ phận của khoa học tự nhiên, có mối quan hệ không thể tách rời với Chu dịch, nên chịu ảnh hưởng sâu rộng của Chu dịch. Thời gian hình thành sách Nội kinh gần với hình thành Chu dịch, nên chịu ảnh hưởng sâu rộng của Chu dịch, Chu dịch là tác phẩm triết học đồ sộ, thu nạp tinh tuý của học thuyết Âm dương, Ngũ hành thời tiên Tần; Nội kinh lấy Âm dương, Ngũ hành làm cơ sở lý luận, vì vậy Nội kinh và Chu dịch có mối quan hệ “ Máu mủ” đặc thù. Nội kinh là nền tảng của lý luận Đông Y. Chu dịch lại có ảnh hưởng sâu sắc đối với Nội kinh, rất nhiều triết lý, dịch lý của Chu dịch truyền nhập vào Nội kinh. Cơ sở lý luận quan trọng của Nội kinh như học thuyết Âm dương, Ngũ hành, học thuyết Tạng tượng, học thuyết Khí hoa…đều bắt nguồn từ Chu dịch. Chu dịch có tác dụng khai phá quan trọng với sự hình thành và phát triển của lý luận Đông Y. Chu dịch bắt nguồn của Nội kinh; Nội kinh hấp thu tinh hoa của Chu dịch lại phát triển sáng tạo nhiều nội dung của Chu dịch, từ đó hình thành một tác phẩm vĩ đại, trong đó có một số lý luận được thăng hoa và siêu việt, phản chiếu trở lại đối với Chu dịch. Do Nội kinh thu nạp Dịch lý đồng thời kết hợp sáng tạo với Y học vì vậy khiến cho Đông Y trở thành khoa học tự nhiên có trình độ triết lý cao, đẩy mạnh sự phát triển của Đông Y học. Có thể nhìn thấy Y - Dịch có mối quan hệ qua lại với nhau, Y lý khởi nguồn từ Dịch lý giống như nhà Y học Tôn Tư Mạo đã từng nói : “ Không biết dịch không thể biết Y”Vì vậy các nhà Y qua các thời kỳ nghiên cứu Nội Kinh không thể nghiên cứu “ Dịch” , nhằm đi sâu vào nghiên cứu Nội kinh yêu cầu phải nghiên cứu Chu dịch từ đó mới thúc đẩy nghiên cứu Đông Y lên tầm cao hơn. Chỉ tiếc rằng văn tự của Chu dịch quá cao siêu, khó hiểu đặc biệt cho đến nay chưa có tác phẩm nghiên cứu chuyên nghành Chu dịch với Đông Y học, trước mắt chúng tôi sẽ tập trung dịch và giới thiệu với các bạn quan tâm theo một diễn giải thật khoa học, dễ hiểu, dễ áp dụng nhưng không làm mất đi giá trị đích thực của bộ sách này. Tổng hợp Internet
  21. BÍ ẨN VỀ KHÍ CHẤT CỦA NGƯỜI THEO BÁT QUÁI I. – Phân loại khí chất con người bát quái Chu dịch và ý nghĩa lâm sàng. Bát quái Chu dịch tượng trưng 8 loại thuộc tính vật chất, tức quẻ Càn là trời, tính mạng; quẻ Khôn là đất, tính nhu; quẻ Chấn là sấm, tính cứng; quẻ Tốn là gió, tính thuận; quẻ Khảm là nước, tính nhu; quẻ Ly là lửa, tính nóng; quẻ Cấn là núi, sâu đậm; quẻ Đoài là đầm, tính thuận, tuy là Bát quái thực ra là 5 thuộc tính ngũ hành kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Trong đó, quẻ Ly thuộc tính hoả, vì Ly là mặt trời, vì Khảm Đoài đều là thuỷ, tính nhu; Chấn là sấm, Tốn là gió đều thuộc mộc; Khôn là đất, Cấn là núi đều thuộc thổ; quẻ Càn là trời, thuộc Kim. Vì vậy người Bát quái có thể tổng quát là năm loại người, cụ thể phân tích như sau: 1. người quẻ Ly và ý nghĩa lâm sàng của nó a. Khí chất quẻ Ly là mặt trời, khí hoả, Chu dịch - Thuyết quái viết: “ Ly là hoả, là mặt trời”. Dịch- Ly quái- thoán viết: “ Ly là sáng, mặt trăng, mặt trời chiếu sáng bầu trời, Khảm là mặt trăng”. Dịch – Ly quái - tượng cũng viết: “ Đại nhân tiếp tục chiếu sáng bốn phương”. ý nói mặt trời ở trên đỉnh cao soi chiếu muôn nơi, cho nên người giữ quẻ Ly có được quang nhiệt của dương khí trời , tất tính dương thịnh vượng khí hoả sung túc. Tính hoả bốc lên, tính hoả vượt ra ngoài, vì vậy khí chất người thuộc quẻ Ly hướng ngoại cao độ. Người mặt đỏ, nhiệt tình, kích động, hăng hái, đi như bay, việc làm mang tính bạo phát, tư duy nhanh như chớp, có tố chất của nhà phát minh, ánh mắt sắc bén, cho nên Dịch- Thuyết quái viết: “ Ly là mắt”, chịu lạnh mà ghét nóng, đúng là : “ ngọn lửa trong mùa đông”. Nhưng người này dễ tự cao huênh hoang, kiêu ngạo, hiếu chiến, dã tâm… b. Hình dáng dạng người này đầu nhỏ ( nhọn) mặt đỏ, thân hình vạm vỡ, mạnh khoẻ, mạch phần lớn biểu hiện sác hoặc hồng đại. Mắt không to, nhìn như sao băng. c. Bệnh tật Người thuộc loại Ly hoả, khí hoả nhiều, khí hoả thông ở tâm, tâm là tạng hoả, tâm là chủ huyết mạch, cho nên dạng người này dễ mắc bệnh huyết quản, bệnh động mạch vành, bệnh xơ cứng động mạch. Vì hoả động sinh ra phong, tổn đến huyết, dạng người này còn dễ mắc bệnh trúng phong, xuất huyết não. Dạng người này khí dương thịnh vượng, dương vượng thì nóng dễ sinh ra các bệnh về nhiệt, nhiệt đốt khô âm dịch vì vậy dễ có mối nguy hiểm dương cang âm hư. về mặt bệnh tinh thần dễ phát sinh chứng điên cuồng. d. Tuổi thọ Dạng người này khí dương thiên thịnh, khí dương hao tán quá lớn, lửa đốt khô âm dịch, cho nên tuổi thọ ngắn, dễ mắc bệnh cấp tính và chết đột ngột. Dịch – Ly quái - Tượng viết: “Đột nhiên xuất hiện, cũng như bỗng nhiên thiêu đốt, cũng như bỗng nhiên mất đi”. 2.Người quẻ Khảm và ý nghĩa lâm sàng của nó a.Khí chất Người quẻ Khảm là thuỷ, nẵm giữ khí thuỷ của trời, tính rất ấm nhu. Dịch- Thuyết quái viết: “ Khảm là thuỷ”. “ Dịch- Thuyết quái” viết: “ Khảm là chỗ hiểm vậy”, tức là một hào dương nằm giữa hai hào âm, hay nói khác đi, khảm là nước, tính nước trầm xuống, vì vậy người quẻ Khảm hướng nội cao độ. dịch- Khảm quái- Thoán: “ Tập khảm có nghĩa là trùng Khảm, hai lần Khảm”. Dịch- Khảm quái- Tượng viết: “ Hào 1 âm, hai lần hiểm sụp vào hố sâu, xấu”, biểu thị quẻ Khảm âm lặp lại mà gặp hiểm, vì vậy quẻ Khảm âm nhiều mà trầm tĩnh, thành phủ rất sâu, người quẻ Khảm trầm tĩnh, giỏi mưu chước, tâm kế, có tố chất của nhà tham mưu. Người thuộc loại này tính cách thuỷ khí tưong đối nặng tính nước( thuỷ) ẩn kín, vì vậy chất người quẻ Khảm âm nhiều mà không biểu lộ, bề ngoài tĩnh lặng như hộ nước. Dịch- Thuyết quái viết: “ Khảm là tai”, vì vậy tai người quẻ Khảm đặc biệt nhạy cảm, giỏi phân biệt âm thanh. Dạng người này cũng có thể có những tính cách xấu như: suy sút (ý chí), hậm hực, lạnh nhạt, tê liệt về tình cảm, âm hiểm. Dịch- Khảm quái- Tượng còn viết: “ Nước chảy mà không đầy, đi đến chỗ hiểm mà không mất điều tin, duy trì ý chí, cứng rắn, hành vi cao thượng, luôn có công”, hàm ý rất sâu sắc, cho rằng người quẻ Khảm như nước chảy long đong, thậm chí có khả năng từng trải nơi hiểm trở, vì vậy vô cùng giữ chữ tín, và giàu cương nghị ở bên trong. Tóm lại người quẻ Khảm cho dù không thuận lợi, nhưng trăm nghìn trắc trở cũng không sờn lòng kiên trì mãi cuối cùng sẽ thành công. “ dịch- Khảm quái- Tượng viết: “ Người quân tử nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh và tu tĩnh không ngày nào quên”. Người quẻ Khảm như nước chảy hoài không ngớt lại như nước suối lặng lẽ chảy mãi nuôi dưỡng vạn vật, âm thầm dâng hiến. b.Hình dáng Dạng người này mặt đen, người gày, hình dáng trung bình, mạch trầm, mắt sâu, tai lớn. c.Bệnh tật Người quẻ Khảm thuộc thuỷ, thuỷ tính lạnh, khí lạnh thông ở thận, vì vậy dễ mắc các bệnh liên quan đến thận, như: phù, thũng, đau lưng, hôn mê, không mang thai, ngũ canh tả ( tiêu chảy vào lúc sáng sớm). Tính lạnh ngưng trệ, kinh lạc tắc nghẽn, hơn nữa thuỷ tính lạnh, đông lại làm thương tổn khí dưong, vì vậy dương khí không đủ, âm khí thiên thịnh dễ gây bệnh thận dương hư suy, mệnh hoả không đủ. Về mặt bệnh tâm thần dễ mắc bệnh trầm uất. d.Tuổi thọ Dạng người ngày thọ lâu. Do âm nhiều khí dương hao tổn ít. 3. Ngưòi quẻ Khôn và ý nghĩa lâm sàng của nó a.Khí chất Quẻ Khôn tượng trưng địa, tính âm mà chất thuận. Như Dịch- Thuyết quái: “ Khôn là đất, là mẹ”. Dịch- Khôn quái- Thoán: “ Nhu thuận lợi chính”. Dịch- Thuyết quái: “ Khôn là thuận vậy”, có ý nói chất quẻ Khôn dày nhu thuận; Dịch- Khôn quái- Thoán: “ Ngưòi quân tử lấy đức dày che chở vạn vật”. “ Dịch- Thuyết quái” viết: “ Quẻ Khôn cất giữ” trình bày quẻ Khôn cất giữ không lộ ra ngoài, vì vậy người quẻ Khôn trên cơ bản thiên về hướng nội. “ Dịch- Khôn quái- thoán” viết: “ Quân tử lấy đức dày của khôn để chở vật”, vì vậy ngưòi quẻ Khôn khoan dung độ lượng, cần mẫn chăm chỉ, ung dung khiêm tốn, có tố chất của người thực nghiệp. Bên cạnh đó, Khôn thuộc thổ, thổ tính thấp, thấp tính dính trệ, nặng đục. cho nên khí huyết người quẻ Khôn vận hành chậm, khí chất ổn định như núi, nhưng dạng người này phản ứng chậm, lời nói việc làm chậm chạp, ít nhạy cảm với sự việc mới, dễ có hiện tượng an nhiên tự tại, không tranh giành. b.Hình dáng Chất người quẻ Khôn mặt vàng đầu to, người thấp chắc nịch, mạch hoãn, môi dày mũi to. c.Bệnh tật Quẻ Khôn thuộc thổ, thuộc âm, thấp, khí thấp thông ở tỳ, cho nên dạng người này thường mắc bệnh về Tỳ, như đau bụng, thổ tả, phù thũng…do tính thấp trọng trọc, dính ứ cho nên dạng người này khí huyết vận hành chậm nên dễ tích thấp sinh đàm, hay có những bệnh như đàm ẩm, tích tụ, phù thũng… và dễ mắc bệnh sa nội tạng. d.Tuổi thọ Dạng người này khí huyết vận hành chậm, khí cơ thể thiên về âm, ít bệnh cấp tính nên trường thọ. 4.Người quẻ Càn và ý nghĩa lâm sàng của nó A.Khí chất Quẻ Càn tượng trưng cho trời, thuộc khí Kim, cho nên tính mạnh mẽ, cứng rắn. Dịch- Thuyết quái viết: “ Càn là trời, là ngọc, là kim”, “ Càn là mạnh vậy”. Dịch - Thuyết quái còn viết: “ Càn là trời”, Dịch- Càn quái- Thoán viết: “Đức của trời lớn vậy thay, vạn vật bắt đầu này nở, thống lĩnh thiên hạ”. cho nên người quẻ Càn tính tình rộng rãi, nhìn xa trông rộng, biết tự kiềm chế, biết tổ chức, có tố chất của ngưòi lãnh đạo. Dịch- Thuyết quái viết: “ Càn là vua”, “ càn là cha”. Dịch- Thuyết quái còn viết: “ Càn là đầu”. Vì vậy mẫu người này phần lớn thông minh, có phong độ làm tưóng, lòng dạ rộng rãi bao la. Tính chất của dạng người này thường mạnh mẽ, không ngừng vươn lên. Dịch- Càn quái- Tượng viết: “ Trời vận hành mạnh, người quân tử không ngừng vươn lên”. Nhưng dạng người này giả dối háo danh, lòng tự ái quá mạnh, thậm chí có tư tưởng chỉ mình là nhất. b.Hình dáng Ngưòi quẻ Càn trán rộng, mặt vuông và trắng, xưong to cứng, dáng người vừa, mạch đại hữu lực. c.Bệnh tật Ngưòi quẻ Càn giữ khí kim táo, khí dưong thiên thịnh, khí kim nhiều, khí dương chủ nhiệt, khí kim táo, khí táo thông ở phế, cho nên dạng ngưòi này dẽ mắc các chứng bệnh có liên quan với phế, đặc biệt là các bệnh về nhiệt táo như ho, viêm phế quản mãn tính, bón, tiêu khát, táo dễ đốt khô chất dịch, cho nên thường có bệnh âm tân bất túc. d.Tuổi thọ Người qủe Càn nói chung là trường thọ, nhưng do khí dương táo làm thưong tổn âm dịch, vì vậy tuổi thọ chỉ thuộc loại trung bình. 5.người quẻ Tốn va ý nghĩa lâm sàng cua nó a.Khí chất Quẻ Tốn tượng trưng cho gió, nắm giữ khí phong cua trời, Dịch- Thuyết quái viết: “ Quẻ Tốn là mộc, là gió”, tính phong thuộc dương chủ động, Dịch- Thuyết quái viết: “ Gió làm vật toả ra”, cho nên loại người này thiên về tính dương. Quẻ Tốn thuộc mộc, khí phong làm tản đi, tính mộc điều đạt, gió lại chủ động, nên loại người này hiếu động, tính gấp, nhanh nhẹn được việc, tư duy minh mẫn, giỏi về ngoại vụ, có tố chất của nhà ngoại giao. Người quẻ Tốn đến đi vội vàng giống như cơn gió, nhưng tính phong nhiều biến đổi, vì vậy người quẻ Tốn phần đông không ổn định, khi thì giống như cuồng phong, khi thì giống như gió thoảng, lúc thì nhu thuận, lúc thì mạnh mẽ. Dịch- Tốn quái- Thoán viết: “ Nhu điều thuận”. Quẻ Tốn cứng mạnh ở bên trong rất ý chí. Ngoài ra, người quẻ Tốn đa nghi, đố kỵ, lòng dạ hẹp hòi. b.Hình dáng Dạng người này mặt xanh, người gầy, thân hơi cao, hoặc xinh xắn, mạch huyền. c.Bệnh tật Người quẻ Tốn nhiều khí phong, khí phong thông ở Can, cho nên dạng người này có khuynh hướng mắc bệnh liên quan về gan, tính phong thích động, dễ mắc các bệnh như cao huyết áp, trúng phong các bệnh về dị ứng...Tính phong nhiều thay đổi vì vậy dạng người này hệ thống thần kinh phần nhiều không ổn định, dễ mắc các chứng bệnh rối loạn thần kinh, như buồn bực, chứng điên, thần kinh… d.Tuổi thọ Mẫu người này hiếu động, khí dương hao tán nhanh, nên tuổi thọ ngắn. Người thuộc Bát quái chia thành 5 loại như ở trên đã trình bày, bà quẻ Cấn, Đoài, Chấn đều nhập chung vào 5 quẻ trên, như quẻ Cấn trên thực tế thuộc loại hình quẻ Khôn, vì Cấn tượng trưng cho núi. Dịch- Thuyết quái: “ Cấn là núi” cũng thuộc thổ, tính đậm chắc như núi, chủ thuận điều hoà, có đức thiện tự, thoả mãn với cái mà mình có, như Dịch- Cấn quái- Truyện viết: “ Cấn là dừng lại”. Sách Dịch- Thuyết quái ghi: “ Cấn là thuyết”. Thuyết là hoà nhã, vì vậy tính chất của Cấn cũng giống như quẻ Khôn nhu thuận đức dày. Quẻ Đoài tượng trưng cho đầm, đầm tính thấp, cũng là tính của âm thuỷ, sách Dịch- Đoài quái- Truyện viết rằng: “ Bên trong cương cứng mà bên ngoài nhu mềm”. Sách Dịch- Thuyết quái viết: “Đoài là thuyết”, vì vậy tính của Đoài quái chất âm mà nội hướng, giống như tính chất của quẻ Khảm. Quẻ Chấn thuộc sấm sét chủ động, như sách Dịch- Thuyết quái viết: “Chấn là động vậy”, sách Dịch- Chấn quái - Tượng viết: “ Chấn là hai lần sấm sét đến liên tục, một lần sấm sét vừa đi, lại một sấm sét khác đến” , nghĩa là nói tính chất của Chấn thuộc dương chủ động, tính chất của Chấn là trong cương có nhu, tuy chấn động nhưng hiền lành. Như sách Dịch- Chấn quái- Truyện viết: “ Tiếng sấm chấn động đến cả trăm dặm, mà đa số người đều sợ hãi”, sách Dịch- Chấn quái- Tượng viết: “ Ngưòi quân tử đối nhân xử thế đều nên cảnh giác đề phòng”, nói rõ tính chất của quẻ Chấn và quẻ Tốn cơ bản giống nhau. Bởi vậy, khí chất của ngưòi Bát quái thuộc khí chất ngũ hành. Người phân chia theo Bát quái ngoài nhân tố bẩm sinh và nhân tố xã hội ra, cũng rất quan hệ với hoàn cảnh địa lý. Như ở phương Nam ứng với mặt trời và hoả nên người quẻ Ly nhiều; ở phương Bắc nhiều âm thuỷ nên người quẻ Khảm nhiều; ở phương Đông gió lớn của biển, nên người quẻ Tốn nhiều; ở phương Tây trời ráo dữ người quẻ Càn nhiều, ở trung ưong là thấp thổ và nhiều núi nên người quẻ Khôn nhiều. Người thuộc Bát quái tuy qui nạp thành 5 loại : ngưới chất Ly, người chất Khảm, người chất Khôn, người chất Càn và người chất Tốn, nhưng người xã hội hiện đại giao lưu rất nhiều, hậu thiên chất quẻ đơn thuần và điển hình cực kỳ ít, đaih đa số biểu hiện tổng hợp. Như laọi hình đơn thuùân cuủa laọi hình quẻ Ly ít thấy, loại thường gặp hình kết hợp người Phong hoả. Tương tự loại hình khác cũng như vậy, vì vậy phán đoán một hình quẻ của mọi người phải tham khảo toàn diện. người thuộc chất bát quái như trình bày ở trên đều có giá trị quan trọng ở các mặt nhân loại học, xã hội học, tâm lý học và y học lâm sàng. 6. Đặc điểm khí chất Bát quái a.Khí chất Bát quái là điển phạm về kết hợp âm dưong với ngũ hành Khí chât Bát quái Chu dịch thể hiện kêt hợp hữu cơ của âm dương và ngũ hành như chất của Ly ( hoả ) thuộc loại hình dương thịnh; chất quẻ Khảm, Đoài (thuỷ) thuộc loại hình âm thịnh, chât quẻ Càn( Kim) thuộc loại hình âm dương cân bằng thiên về dương; chất quẻ Tốn , quẻ Chấn ( phong) thuộc loại hình dương, chất của quẻ Khôn, Cấn ( Thổ) thuộc về loại hình âm dương cân bằng thiên về âm, như bảng Khí chất bát quái Ngũ hành Âm dương Khảm, Đoài Thuỷ Âm thịnh Ly Hoả Dương thịnh Càn Kim Âm dương cân bằng nghiêng về dương Tốn, Chấn Mộc Nghiêng về dương Khôn, Cấn Thổ Âm dương cân bằng nghiêng về âm. b.Khí chất Bát quái tồn tại đồng khí tương cầu Khí chất Bát quái có đặc điểm riêng của mỗi quẻ. Dịch- Thuyết quái viết: “ Sấm làm nó động, gió làm nó tản, mưa tưói nhuần nó, mặt trời chiếu sáng nó, Cấn thu gặt nó, Đoài là vui vẻ, Càn là vua, Khôn cất giữ nó”. Khí chất Bát quái có qui tắc cùng tính tương xu như “Dịch- Càn quái- Văn ngôn viết: “Đồng khí tương cầu, nước chảy ẩm thấp, lửa làm khô táo”. Người cùng, khí chất dễ gần, dễ hợp tác, như người quẻ Khôn ( thổ ) và ngưòi quẻ Khảm ( thuỷ) đều thuộc âm, khí chất gần nhau, cho nên dễ hợp. Người quẻ Tốn ( gió) và ngưòi quẻ Ly ( lửa) đều thuộc dương, khí chất thông nhau, nên dễ gần. Ngưòi quẻ Khôn ( thổ) và người quẻ Tốn ( mộc) không muốn gần nhiều, bởi vì khí chất khác nhau, tính phong chủ động, tính thổ kết dính, một bên chậm chạp nên thường không hợp nhau, người mô hình quẻ Khảm ( thuỷ) và người quẻ Ly ( hoả) nước lửa không đi đôi với nhau, vì vậy hai mẫu người này khó ở với nhau, đó chính là “ bát tự bất hợp” mà người Trung Quốc hay nói. c.Khí chất Bát quái tuy khác nhau, nhưng đều có thể hoà hiệp cùng tồn tại. Dịch- Thuyết quái viết: “ Núi đầm cùng thông hơi với nhau, sấm gió cùng xô xát nhau, nước lửa chẳng cùng diệt nhau”. Biểu thị bất luận giới tự nhiên hoặc xã hội con người tuy tính khác nhau, nhưng hoàn toàn có thể hài hoà cùng ở với nhau, cho dù vật chất hoặc người có tính chất trái ngược nhau, cũng có thể hợp thành một thể thống nhất. Theo Gs Dương Lực
  22. 1- Thời Gian Xem Mạch - Thiên ' Mạch Yếu Tinh Vi Luận' (T. Vấn 17) ghi: “Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn,do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh”. Tuy nhiên, Uông Thạch Sơn, trong ‘Thạch Sơn Y Án' đã nhận định rằng: “Nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cần chẩn mạch vào lúc sáng sớm mới được”. - Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghỉ 1 lát cho khí huyết được điều hòa. - Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặc mới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi... - Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanh ồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch. 2- Tư Thế Lúc Xem Mạch. - Theo sách 'Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa' thì : “Người bệnh nên ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên, bàn tay để ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đến mạch”. Sách 'Y Tông Kim Giám' nêu rõ: ”Người bệnh nằm nghiêng thì cánh tay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bị bế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạch bị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lại thì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn mà mạch chạy nhanh...” Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái để chẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ở tay trái. 3- Định Hơi Thở Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hít vào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tập trung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượng và số mạch đếm của người bệnh. Do đó, thiên 'Mạch Yếu Tinh Vi Luận' (T.Vấn 17) ghi: “Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh”. 4- Cách Đặt Tay Chẩn Mạch - Sách 'Chẩn Gia Khu Yếu' trình bày cách đặt tay xem mạch như sau: “Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mé trong chỗ xương cao-ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và 4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốn khẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặt ngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau”. - Sách 'Trung Y Học Khái Luận' nhấn mạnh rằng: “Khi đặt ngón tay (xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của da ở đầu các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vì vậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ (chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợi chỉ) để sờ, ấn”. - Sách 'Mạch Nghĩa Giản Ma' giải thích rõ hơn như sau: “Ba ngón tay của người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưng da thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngón thứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngón tay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch”. - Sách 'Trung Y Học Khái Luận' còn lưu ý rằng: “Điều quan trọng hơn nữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầm với mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng có động mạch. Điều này cần chú ý trên lâm sàng”. Sau khi đặt tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biết vận dụng năng lực nặng nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng. Hoạt Bá Nhân, trong sách 'Chẩn Gia Khu Yếu' nêu rõ: “Chẩn mạch có 3 điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩn mạch gọi là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm”. Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau: + Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của người bệnh để chẩn bệnh ở phủ. + Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí. + Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở tạng. Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên: · Xem chung cả 3 bộ (Tổng Khán) để nhận định về tình hình chung (thường được dùng nhất). · Xem riêng từng bộ phận (Đơn Kháng) để đánh gía riêng từng cơ quan, tạng phủ. Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ý đến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và Căn. 1- Vị Khí: · Thiên 'Bình Nhân Khí Tượng Luận' (T. Vấn 18) ghi: “Có Vị khí thì sống, không có Vị khí thì chết”, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc. · Trương Cảnh Nhạc trong chương 'Mạch Thần' (CNT. Thư) đã trình bày về Vị khí như sau: Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vị khí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: “Thí dụ, hôm nay mạch còn hòa hoãn mà ngày mai lại Huyền, Cấp thì biết rằng tà khí đang tiến triển, tà khí càng tiến, bệnh càng nặng. Hoặc hôm nay mạch rất Huyền, Cấp nhưng ngày mai lại thấy hòa hoãn thì biết là Vị khí đã đến, Vị khí đến thì bệnh nhẹ dần. Nếu như trong chốc lát mà mới đầu thấy mạch Cấp mà sau đó Hoãn là Vị khí đến, lúc đầu Hoãn mà sau đó Cấp là Vị khí mất”. 2- Thần: Sách 'Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa' giải thích: “Gọi là thần của mạch tức là mạch đi nhu hòa. Thí dụ như bắt được mạch Vi Nhược thì tuy là Vi Nhược nhưng không đến mức vô lực là có thần, hoặc bắt được mạch Huyền Thực mà trong cái Huyền Thực vẫn thấy nhu hòa, là có thần. Tóm lại, mạch có Vị khí, có Thần đều là có hiện tượng xung hòa. Có Vị khí là có Thần khí, vì vậy, trên lâm sàng, cách chẩn đoán Vị khí và Thần như nhau”. 3- Căn: - Sách ‘Mạch Quyết’ ghi: “Mạch ở bộ thốn và bộ quan tuy không còn nữa nhưng mạch ở bộ xích vẫn còn, những bệnh gặp mạch đó, không lo chết”. - Sách ‘Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa’ giải thích: “Mười hai kinh mạch trong cơ thể đều nhờ ở chỗ động khí của Thận mà phát sinh. Thận khí còn cũng như cây có gốc (căn) cành lá tuy khô mà gốc chưa khô thì có hy vọng sống được. Thận khí chưa tuyệt thì mạch nhất định có căn. Mạch Trầm để chẩn tạng thận, bộ xích để chẩn về Thận, mạch ở bộ xích mà Trầm, có lực là dấu hiệu mạch có căn”. - Hoạt Bá Nhân trong sách ‘Chẩn Gia Khu Yếu’ lại cho rằng khi chẩn mạch phải chú ý đến sáu yếu tố: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, ông viết: “Chẩn mạch nên biết sáu chữ: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, không hiểu sáu chữ đó thì không phân biệt được âm dương hư thực. Thượng, Lai, Chí là dương, Hạ, Chỉ là âm. Thượng là từ bộ xích lên tới thốn khẩu đến bộ xích, âm sinh ở dương, Lai là từ trong thịt xuất ra chỗ trong da ngoài, sự tăng lên của khí. Khứ là từ chỗ trong da ngoài thịt đi vào thịt vào xương, sự giáng xuống của khí. Ứng là Chí, nghỉ là Chỉ”. - Sách ‘Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa’ khi giải thích câu này đã nhận xét: “Câu danh ngôn sáu chữ (Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ) của Hoạt Bá Nhân, các y gia của các thời đại đều cho rằng đã tìm được điều cốt yếu của việc chẩn mạch. Sách ‘Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa’ giải thích về các yếu quyết chẩn mạch của Hoạt Bá Nhân như sau: · Thượng, Hạ là chỉ mạch chí thông suốt từ bộ xích đến bộ thốn, chỉ chẩn sát 1 bộ mà phải chú ý đến tình hình cả ba bộ thốn, quan, xích như chương ‘Bình Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Ở bộ thốn, mạch Hạ không đến bộ quan là dấu hiệu dương tuyệt, ở bộ xích, mạch Thượng không tới bộ quan là âm bị tuyệt”. · Lai, Khứ là chỉ sự thăng giáng của mạch. Thăng giáng không cấp bách, nhẹ nhàng, điều hòa là mạch tượng của mạch không có bệnh. Mạch Lai mà Tật, mạch Khứ mà Từ là dấu hiệu trên thực dưới hư (hoặc trong hư ngoài thực). Mạch Lai mà Từ, Mạch Khứ mà Tật là dấu hiệu trên hư dưới thực (hoặc ngoài hư trong thực). · ‘Chí Chỉ’ là chỉ vào chí và trong thời gian ngắn hay dài của các bộ mạch. Chí để chẩn mạch đến, thời gian ngắn hoặc dài của các bộ mạch. Chỉ thời gian ngắn dài ở bộ thượng có thể xét sự thịnh suy của chân dương để biện về yếu mạch của chân âm. Chỉ thời gian dài ngắn ở bộ hạ có thể xét sự thịnh suy của chân âm để biện về sự mạch yếu của chân dương”. Ngô Hạc Cao nhận xét: “Mạch có Thượng Hạ là âm dương tương sinh, bệnh tuy nặng cũng không chết. Mạch có Lai, Khứ là biểu lý giao hòa, bệnh tuy nặng rồi cũng khỏi. Mạch không có Thượng, Hạ, Lai, Khứ thì chết đã gần ngày”. 5- Biện Luận Về Mạch. Theo sách ‘Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa’ thì khi biện luận về mạch cần chú ý đến hai yếu tố chính là: 1- Không nên câu nệ về tính chất đặc thù của từng mạch. Thí dụ: Khi nói đến biểu là phải quy về mạch Phù, nhiệt là Sác, lý là Trầm, hàn là Trì, mạch Huyền, Cường là Thực, Tế, Vi là Hư... tuy nhiên, phải cần lưu ý đến các yếu tố chân, giả. Bàn về vấn đề này, Trương Cảnh Nhạc trong chương ‘Mạch Thần’ của bộ Cảnh Nhạc Toàn Thư đã giải thích như sau: “Mạch Phù tuy thuộc về biểu nhưng hễ âm hư, huyết thiếu, khí trung tiêu suy tổn sẽ thấy mạch Phù mà vô lực, vì vậy, không thể cho rằng mạch Phù hoàn toàn liên hệ với phần biểu. Mạch Trầm tuy thuộc về phần lý nhưng hễ ngoại tà mới cảm mà đã vào sâu thì hàn tà bó lấy kinh lạc, mạch khí không thông đạt được, sẽ thấy mạch Trầm, vì vậy, không thể cho rằng mạch Trầm hoàn toàn thuộc về phần lý. Mạch Sác là nhiệt, nhưng chân nhiệt chưa hẳn đã là Sác. Chứng hư tổn, âm dương đều bị khốn quẩn, khí huyết hỗn loạn, hư nhiều, mạch Sác cũng nhiều, vì vậy không thể nói là Sác hoàn toàn thuộc nhiệt được. Trì là hàn nhưng bệnh thương hàn, tà khí mới lui, nhiệt chưa hết, mạch phần nhiều là Trì Hoạt, vì vậy đừng cho rằng Trì hoàn toàn là hàn. Huyền, Cường thuộc Thực nhưng chân âm, vị khí hư quá và các chứng âm dương quan cách (bị ngăn trở), mạch sẽ Huyền, Cường, vì vậy Huyền cũng không hẳn là Thực, Mạch Vi, Tế thuộc hư trường hợp bị đau quá, khí bị bế, vinh vệ bị ủng trệ không thông, mạch sẽ phải ẩn nấp (Phục), vì vậy mạch Phục không phải hoàn toàn là Hư... từ đó có thể suy ra... trong các mạch đều có vấn đề”. 2- Sự Khác Nhau Lúc Mới Đặt Tay Vào Mạch Và Lúc Xem Mạch Một Lúc Thật Lâu. Có khi mạch mới xem và xem một lúc lâu có sự khác biệt. Thí dụ: Lúc mới xem thấy mạch nổi to, xem một lúc thấy mạch chìm lặng. Hoặc mới xem thấy mạch mềm nhũn, xem lâu lại thấy bật dưới tay. Có khi lúc đầu thấy mạch Huyền, một lúc sau lại là Hoãn. Bàn về vấn đề này, Trương Đăng trong chương ‘Vấn Sơ Chẩn Cửu Án Bát Đồng Thuyết’ (CTT. Muội) nhận định rằng: “Khi chẩn mạch loại khách tà bạo bệnh mà mạch Phù là đúng. Nếu bệnh đã lâu, sức đã hư tổn, nên chẩn căn khí làm gốc. Nếu thấy Phù, Đại, ấn tay lâu thấy chìm mất, là hiện tượng chính khí quá hư, không cần hỏi là bệnh lâu hoặc mới nhiễm, tuy rằng chứng mà thấy nóng nhiều, phiền nhiễu do chính khí suy không tự chủ được mà hư dương thoát ra ngoài. Khi mới xem mạch thấy Nhu, Nhuyễn, bắt đầu thấy bật dưới tay là dấu hiệu bệnh ở phần lý, phần biểu không bệnh. Không phải tạng khí bị thụ thương thì là kiên tích ẩn phục bên trong, trường hợp này không thể cho đó là mạch Trầm mà lầm là bị hư hàn. Mới xem thấy mạch hơi Huyền, xem lâu lại thấy hòa hoãn, hễ bệnh đã lâu thì sắp khỏi, khí huyết tuy kém nhưng tạng khí chưa bại. Cách chung, mạch của người bệnh lúc mới đặt tay vào tuy thấy vô lực hoặc Huyền Tế, không hòa hoãn, xem lâu trên mười chí lại thấy điều hòa dần, thì bệnh có thể chữa. Nếu mới xem mạch thấy hòa hoãn nhưng xem lâu lại thấy Vi, Sác không ứng tay hoặc dần dần Huyền, cứng (ngạnh) thì bệnh khó chữa”. 6- Bỏ Mạch Theo Chứng-Bỏ Chứng Theo Mạch. (Xả Mạch Tòng Chứng - Xả Chứng Tòng Mạch) Thông thường thì mạch và chứng tương ứng với nhau, nhưng có nhiều trường hợp mạch và chứng lại không đi đôi với nhau như dương chứng mà lại thấy mạch âm hoặc âm chứng mà thấy mạch dương... Sách ‘Y Biên’ giải thích rõ như sau: “Phàm bệnh mà và chứng không hợp thì một bên thật, một bên giả, cần phân biệt kỹ. Như bên ngoài tuy phiền nhiệt mà thấy mạch Vi, Nhược thì hư hỏa, hư tướng, lại chịu được công phạt sao?. Nên theo mạch mà chữa chứng chân hư chứ không theo chứng là giả tượng. Hoặc trường hợp bệnh vốn không có phiền nhiệt mà thấy mạch Hồng, Sác thì không phải là hỏa tà. Bệnh vốn không có trướng đầy, ứ trệ mà thấy mach Huyến, Cường thì không phải là chứng thực ở bên trong. Không nhiệt, không trướng lại có thể chịu được phép tả hay sao?. Nên theo chứng hư chứ không theo mạch giả thực... Nếu là tà làm thương tổn bên trong hoặc thực trệ, khí trệ mà bụng trên đau thắt đến nỗi mạch Trầm, Phục hoặc Xúc hoặc Kết, đó là tà bế tắc kinh lạc gây ra. Đã có chứng thực làm căn cứ thì mạch hư tức là gỉa, trường hợp này nên theo chứng chứ không theo mạch. Hoặc như bệnh thương hàn, tay chân gía lạnh, rét run mà mạch thấy Hoạt, Sác, đó là do nội nhiệt làm cách âm. Làm sao có thể biết được? Vì bệnh truyền từ kinh này sang kinh khác chứ không phải trực trúng âm kinh, từ chứng nhiệt chuyển sang hàn. Đã có mạch Sác, Hoạt làm căn cứ thì ngoại chứng là giả hư, cũng theo mạch chứ không theo chứng vậy”. Trường hợp nào nên bỏ mạch mà theo chứng, Lê Đức Thiếp trong sách ‘Định Ninh Tôi Học Mạch’ đã nhận định: Nên bỏ mạch theo chứng trong các trường hợp sau: - Những bệnh mà nhận xét về mạch khó chính xác như những người không thể chỉ căn cứ vào mạch hoặc những người không có bộ mạch để xem. - Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ. - Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ. - Những người mạch tay trái thường rất nhỏ hơn tay phải hoặc ngược lại. - Những người có mạch Phản Quan. - Những người không may bị cụt một hoặc cả hai tay. - Những người bị thương ngay vị trí để xem mạch. Theo Diễn đàn Y học
  23. Hôm qua ngày 22 tháng 9, lần đầu tiên tôi đến Văn phòng Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương (CRPAOA) tại địa chỉ: A75/6F/14 Bạch Đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, Tp HCM sau bao tháng ngày ước hẹn. Phải mất gần 40 phút đi xe máy cùng với người Trợ lý vòng vèo qua các tuyến đường trong Quận Tân Bình hỏi thăm mọi người, cuối cùng chúng tôi cũng đến được địa chỉ trên. Dù rất mệt vì phải đi một chặn đường khá xa nhưng chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc và vui mừng khi được diện kiến và trò chuyện trực tiếp với thầy Nguyễn Vũ Tuấn Anh-Giám đốc Trung tâm, Nhà nghiên cứu Lý học Đông Phương nổi tiếng hiện nay. Không như tôi từng hình dung trước đây, Trung tâm Nghiên Cứu Lý học Đông Phương của thầy Nguyễn Vũ Tuấn Anh chỉ là một ngôi nhà rất đơn giản nhưng gọn gàn, bố cục bài trí đẹp mắt giống như tính cách của thầy Thiên Sứ điềm đạm, đơn giản, thân thiện, không thích sự phô trương. Điều này trái hẳn với sự bề thế của tòa nhà cao 5 tầng ở đường Ngô Gia Tự ngày xưa của Trung tâm CENFORD là đơn vị trực thuộc Hội Nghiên cứu Khoa học Về Đông Nam Á Việt Nam mà tôi từng cộng tác cách đây 5 năm (hiện nay đơn vị này đã giải thể). Ấn tượng nhất đối với tôi là ở vầng trán cao của thầy Thiên Sứ toát ra sự thông minh, uyên bác, cương nghị, tác phong của thầy rất điềm đạm, thân thiện và nhiệt tình. Tướng mạo đúng bậc nam tử Đại trượng phu, tư chất của một nhà lãnh đạo, một người thầy. Nhìn hình ảnh của thầy Thiên Sứ làm tôi chợt nhớ đến hình bóng của một người thầy của mình đã gần 5 năm rồi tôi chưa được gặp lại dù chỉ 1 lần, đó là GS.Ts. Phạm Đức Dương-Chủ tịch Hội Nghiên Cứu Khoa Học Về Đông Nam Á Việt Nam. Nhớ ngày tôi còn là Sinh viên ĐH, làm tình nguyện viên ở Trung tâm CENFORD chỉ 1 lần duy nhất được gặp thầy Phạm Đức Dương khi thầy từ Hà Nội đến thăm, làm việc và ăn cơm cùng với Tập thể các cán bộ, nhân viên Trung tâm, thời gian gặp gỡ tuy ngắn ngũi nhưng tôi may mắn đã được thầy Dương ưu ái thăm hỏi và nhận làm học trò. Tôi rất kính trọng thầy Thiên sứ và quý mến các anh chị em tại Trung tâm CRPAOA, tôi mong sao mình sẽ được tham gia các hoạt động của Trung tâm thường xuyên, nhất là về lĩnh vực Công tác Xã hội, Từ thiện, Công nghệ thông tin, Đông y, nghiên cứu Lý học Đông Phương. Mong muốn sẽ là một trong những thành viên thân thiết của Trung tâm cùng thầy Thiên Sứ và các anh chị em xây dựng Trung tâm CRPAOA phát triển, vững mạnh. Qua Diễn đàn của Trung tâm CRPAOA tôi kính gửi đến thầy Thiên Sứ lời chúc luôn dồi dào sức khỏe, đạt nhiều thắng lợi trong công tác, xin chúc các anh chị em Trung tâm CRPAOA ngày càng đoàn kết để đưa mái nhà chung-Trung tâm CRPAOA phát triển, giàu đẹp hơn. Trân trọng Thành viên Diễn đàn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương LG.TỰ QUỐC HUY Trợ lý Chủ tịch HĐQT Trường TCN Ngọc Phước 159/13 Lê Thị Riêng, P.Thới An, Q.12, Tp.HCM Hội viên Hội Luật gia Việt Nam Hội viên Hội Đông Y Việt Nam
  24. Những suy nghĩ lệch lạc của giới trẻ hiện nay là một Quốc nạn. Từ những suy nghĩ lệch lạc này sẽ hình thành những tội lỗi mang tính chất nghiêm trọng trong tương lai. Thiết nghĩ cơ quan chức năng cần phải mạnh tay hơn khi xử lý người vi phạm, siết chặc quản lý. Hy vọng việc sữa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 sắp tới của Quốc Hội sẽ là cơ sở để sửa đổi bổ sung hầu hoàn thiện các bộ Luật trong nước, nhất là Bộ luật Hình sự. Nguyên tắc cái ác cần phải bị trừng trị, Pháp luật phải nghiêm minh. Các bộ Luật cần phải hoàn thiện nhanh chóng không chừa kẽ hở dù nhỏ để tội phạm chui lọt. Lê Văn Luyện đã đem tang thương tới cho 1 Gia đình, biến 1 đứa trẻ từ có cha mẹ thành mồ côi, tàn tật. Tên Luyện đã giết người mang tính chất dã man nhưng theo Luật Hình sự hiện này thì chỉ bị phạt cao nhất là 18 năm tù vì hắn chưa thành niên. Đây là một kẽ hở để những kẻ đội lốt người nhưng có tâm hồn ác Quỷ chui lọt lưới Pháp luật. Mong lắm thay những tấm lòng của những người có trách nhiệm.
  25. Xin cảm ơn thầy về bài viết này! Bài viết có những thông tin rất hay và hữu ích