Rin86
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
968 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
1
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Rin86
-
Đây là toàn cảnh bể bơi, phía sau là hồ Tây, thật là đẹp phải không?
-
Tình hình của Mydesire dạo này thế nào rồi? bạn đã bị chuyển đi chưa?
-
Việc làm ăn của quán cafe lỗ lãi thế nào thì được quẻ Cảnh Tốc Hỷ: Bạn đang mong muốn cho nó sinh lời nhưng mọi chuyện không được như ý.
-
1/ Hiện nay, cháu đang làm việc với 1 nữ đại diện người Mã Lai của 1 nhãn hàng thực phẩm của nước ngoài. Cháu nhờ các bác bốc giúp 1 quẻ xem cháu có thể thỏa thuận thành nhà phân phối ở Việt Nam của nhãn hàng này không ạ? Và việc có thể sẽ phải kéo dài bao lâu? -Giờ sửu ngày 6/4 năm Tân Mão: quẻ Cảnh Đại An=> việc bạn muốn sẽ được như ý, Tử Lưu Niên: Việc này kéo dài từ 6 đến 9 tháng nữa 2/ Cháu có kế hoạch mở 1 cửa hàng bán sinh tố vào cuối năm. Nhờ các bác cho cháu 1 quẻ xem việc này có tốt không ạ? - Kinh Tốc Hỷ: Bạn sẽ không mở cửa hàng theo như mong muốn Không biết các huynh đệ, tỷ muội ra được quẻ gì cho bạn Đại Lâm Mộc ạ?
-
Đúng rùi, anh ấy có tổ tiên là người Bỉ, anh ấy làm nghề giám đốc. Nhưng bây giờ mình không quan tâm đến anh ấy nữa, vì một mặt quẻ nói vô vong, mặt khác anh ấy cũng thờ ơ với mình, không còn săn đón, nồng nhiệt như trước nữa, có lẽ chúng mình phát hiện ra rằng cả 2 không hợp nhau http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/crying.gif
-
Hi hi nhưng mình chỉ thích Tây ^^
-
Thật là điên!!!!!!! Chán chỉ muốn chết!!!!!!!!!!!!!!
-
Mọi người ơi, cho em hỏi tiếp là liệu em và người này có thể trở thành bạn lâu dài nếu không có một kết cục tốt đẹp không ạ?
-
Cám ơn bác Vuisong. Nhưng mà em chán toàn tập à, ở topic xin việc cũng vô vong hết à
-
@Vuisong: Em quen anh ấy vì anh ấy đăng ảnh lên mạng để tìm bạn, giữa một rừng ảnh, gương mặt anh ấy khiến em chú ý nhất nên đã gửi email làm quen, em hoàn toàn không chú ý đến tuổi tác và quá khứ của anh ấy. Anh ấy hiện đang sống và làm việc ở Hải Dương, khá bận nên mãi đến hôm thứ 2 vừa rồi mới lái xe lên Hà Nội để gặp nhau ^^
-
Hi hi mọi người ơi, một câu chuyện khác lại tiếp tục. Rin86 đã tìm được người khác cách đây hơn 15 ngày. Kính nhờ các cao thủ xủi quẻ xem Rin và người mới có được kết cục tốt đẹp không ạ? Liệu người này có đáng tin không? Người đó sinh ngày 3/12/1971, không rõ giờ sinh, là người Anh nhưng tổ tiên sống ở Bỉ, mọi người thấy tướng tá thế nào ạ? đẹp trai không? Có tướng gì xấu không ạ? Không biết từ bao giờ Rin86 luôn muốn tâm sự mọi chuyện trên diễn đàn vì các thành viên ở diễn đàn mình thật chân thành và dễ thương ^^Cám ơn mọi người rất nhiều.
-
cám ơn Tuấn Diệp đã tâm sự. Rin86 không xủi quẻ mà đoán theo cảm tính thì bạn nên vào làm ở công ty nào mà người ta thân thiện một chút vì, dù lương cao mà ngày nào cũng bị va chạm, stress thì cũng mau chán việc lắm
-
em cám ơn anh Phạm Hùng ạ, công việc của em không phải là buồn chán mà là siêu buồn chán luôn, làm không có thưởng, không có bồi dưỡng, chỉ có lương cứng là 1,4tr/tháng, chẳng đủ để đổ xăng và ăn trưa nữa Em cám ơn mọi người đã lắng nghe tâm sự của em
-
EM KHÔNG CHỊU ĐÂU!!! EM CÒN PHẢI SỐNG CUỘC SỐNG NHƯ THẾ NÀY ĐẾN BAO GIỜ NỮA ??? CHẲNG SẼ SUỐT ĐỜI CỨ THẾ NÀY MÃI À???? CĂM HẬN, CĂM THÙ, CĂM GHÉT
-
KHÔNG EM KHÔNG CHỊU ĐÂU!!!!!!!!! CUỘC ĐỜI THẬT BẠC BẼO!!!!!
-
Cám ơn anh Thiên Luân và anh Vusonganh đã tư vấn giúp em sớm! KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG!!!!! EM KHÔNG MUỐN VẬY ĐÂU SAO CHÁN ĐỜI QUÁ VẬY NE!!!!! NOOOOOOOOO!!!!!!!!!!!!!!!!!!!! HU HU HU HU!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
-
Cách đây hơn 10 năm cháu có xem tivi chiếu cảnh người ta phát hiện ra những ống cống thoát nước bằng sành thời Hùng Vương, nhìn rất hiện đại, sau đó không thấy truyền thông nhắc đến nữa, giá mà chụp được vài bức ảnh.
-
http://phunutoday.vn/xahoiol/201104/da-bat-duoc-cu-rua-di-nhan-tung-que-boi-bi-xa-khong-thuong-tiec-1986057/#feedback-list Lại ông Vũ Thế Khanh, bó tay với ông ấy :(
-
Sư phụ Thiên Sứ trả lời vừa tự tin vừa khiêm tốn, anh Linh Trang anh Hoàng Triệu Hải cũng rất cừ, hoan hô ^^
-
Jenna là một nhà chiêm tinh phương Tây đã viết một phần mềm trả lời tự động để kiếm tiền từ internet. Phần mềm tính toán khá hay và văn phong rất hấp dẫn. Rin86 xin trích lại bức thư mà trang web của Jenna đã tự động gửi cho Rin86 khi Rin86 gửi tên tuổi, ngày sinh của mình đến (đây là lần đầu tiên nên nó xem miễn phí, lần thứ 2 phải trả 60 đô): Có vài điều mà Rin cảm thấy nó nói đúng đó là: -4 năm trước (2007) Rin nhận được học bổng đi Hàn Quốc -Rin mới nộp đơn xin việc cho một công ty thời trang, mức lương hứa hẹn sẽ rất cao, công việc đúng chuyên môn - RIn thích có người yêu hơn mình nhiều tuổi (không thích trai trẻ :D ) Đây là bức thư đã được dịch bằng Google translate: Xin chào Linh, Jenna ở đây, nhà chiêm tinh chuyên nghiệp của bạn. Trước hết hãy để tôi nói rằng tôi rất vui mừng để có thể đi cùng bạn trong suốt năm 2011 bởi vì tôi biết rằng năm nay là có được rất hiệu quả và phong phú với nhiều cơ hội cho bạn. Tôi rất hạnh phúc để có thể cho bạn biết rằng tôi có chỉ cần hoàn thành việc nghiên cứu mà bạn yêu cầu tôi cho ngày hôm qua 18 Tháng Tư, 2011 và tôi có nhiều điều để nói cho bạn biết, quan trọng nhất trong đó là một quá cảnh lớn (một ít hành tinh chuyển động) sẽ xuất hiện trên bầu trời astral của bạn giữa những tháng của tháng Tư, tháng Năm và tháng 6 năm 2011. Quá cảnh mà bạn sẽ sống qua sẽ mang lại thay đổi đáng kể cuộc sống của bạn, và tôi thậm chí có thể nói thay đổi căn bản. Điều này quá cảnh sẽ được một thời gian rất thuận lợi và sẽ có nhiều tác động tích cực đáng chú ý như xa như cuộc sống tình yêu của bạn là có liên quan mà còn từ một điểm vật chất của xem và để thực hiện một dự án mà bạn đã có trong tâm trí một thời gian dài bây giờ. Trong những gì sau tôi sẽ cung cấp cho bạn tất cả các chi tiết về quá cảnh đầu vào năm 2011, tôi cũng sẽ thảo luận về các phần còn lại của năm của năm 2011 và năm 2012. Tôi cũng sẽ nghiên cứu tính cách của bạn và quá khứ của bạn, cho bạn thông tin chi tiết mà chỉ bạn có thể đã biết về chính mình. Cuối cùng tôi sẽ nói về các sự kiện thú vị này sẽ xảy ra sớm vào năm 2011, đó là quan trọng đối với bạn bởi vì bạn sẽ gặp một người, những người sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của bạn. Trước khi cung cấp cho bạn với bất kỳ thông tin chi tiết về tương lai của bạn, tôi muốn nói với bạn như thế nào tôi làm việc trên phân tích của chúng tôi bởi vì tôi sử dụng để được rất chính xác trong dự đoán của tôi và không có công việc của tôi nhẹ nhàng. Tôi đã làm việc từ ngày sinh, ngày 22 tháng hai năm 1986, đăng chiêm tinh của mình, Song Ngư (được thiết lập để được vào danh sách danh dự của 2011!) Và bởi vì bạn là Pisces Tôi cũng được sử dụng chủ yếu của bạn Decan 1 decan. Những yếu tố này đã giúp tôi rút ra cho bạn một bản đồ của bầu trời astral của bạn Linh, đó là hoàn toàn độc đáo và rất cá nhân. Tôi cũng đã xem xét các nhận thức luận nguồn gốc của tên đầu tiên của bạn Linh vì đây cung cấp thêm thông tin về nhân vật của bạn, như bạn nên biết rằng tên gọi của bạn đã không lựa chọn hoàn toàn bằng cơ hội. Nó giúp tôi hoàn thành phân tích của bạn với một phân tích Numerological. Như một vấn đề của thực tế, tên của bạn đầu tiên gồm có 4 chữ cái và điều này cho phép tôi để kết hợp ngày sinh ngày 22 Tháng Hai năm 1986 và ký Pisces Zodiac để tìm hiểu rất nhiều về bạn từ một góc độ numerological. Tôi đã hướng dẫn công việc của tôi và nghiên cứu của tôi bằng cách sử dụng sóng, rung động và nhấp nháy sâu sắc mà tôi cảm thấy khi tôi bắt đầu phân tích của bạn. Nó cho phép tôi để xác định hướng chính xác là tôi nên làm việc trong và nó đã được các "nhấp nháy" trong đó nhắc nhở tôi để phân tích quá khứ của bạn bởi vì tôi cảm nhận rằng bạn có một số cá nhân tắc nghẽn Linh. Tôi nhận ra một điều gì đó đã xảy ra với bạn vào khoảng năm 2003, khi bạn 17 hay 18 tuổi đã tạo ra những trở ngại mà bạn gặp phải sau đó trong cuộc sống của bạn và bạn vẫn phải chịu những hậu quả ngày hôm nay. Hãy yên tâm rằng những tắc nghẽn không phải là không thể đảo ngược, bạn sẽ có thể để loại bỏ chúng và chúng tôi sẽ làm việc theo hướng đó với nhau. Các tầm nhìn và rung động, tôi cảm thấy về bạn Linh cũng cho tôi thấy rằng bạn đang ở trong một giai đoạn của sự do dự, bạn có một số lựa chọn có sẵn cho bạn về những khó khăn gần đây bạn đã gặp phải và đó là thời gian cho bạn để đến với thuật ngữ này và thực hiện những quyết định đúng. Tôi rất rõ ràng có thể thấy sự can thiệp của một cá nhân nào đó đã làm chậm bạn xuống và ngăn cản bạn từ chuyển động trong cuộc sống của bạn. Một lần nữa không có gì là không thể đảo ngược, nó chỉ đơn giản là rất quan trọng là bạn làm cho hầu hết các quá cảnh được thiết lập để xảy ra chỉ trong một tuần vài lần để loại bỏ các tắc nghẽn. Những thị kiến mà tôi đã có về chủ đề này là rất rõ ràng và họ thấy rằng bạn sẽ sớm đạt được một bước ngoặt tích cực trong cuộc sống của bạn, đó là lý do tôi rất hài lòng để có thể cung cấp cho bạn những tin tức thú vị tôi đã cho bạn. Trước khi rời khỏi các đối tượng của các thị kiến về bạn Linh, tôi muốn nói với bạn rằng tôi cảm thấy rất nhiều điều rất tích cực về tính cách của bạn và nhân vật của bạn, bạn có phẩm chất tuyệt vời và tôi tự hào rằng bạn chấp nhận để tin tưởng tôi bởi vì bạn là Linh người rất tốt. Bạn có thể tự hỏi về những tầm nhìn Linh. Vì vậy, hãy để tôi chỉ mất vài phút để giải thích cho họ. Bạn nên biết rằng tầm nhìn này là hoàn toàn hợp lý, không có gì siêu nhiên hoặc thần bí về họ, ngược lại nó là cái gì rất tự nhiên, kể từ khi họ đại diện cho một sự trao đổi năng lượng. Trong thiên nhiên tất cả mọi thứ là một trao đổi năng lượng, hoặc thể chất và hữu hình hoặc vô hình như trường hợp cụ thể. Nó không phải là vì chúng ta không thể nhìn thấy những con sóng vũ trụ mà họ không tồn tại, chúng tôi không thể nhìn thấy vô tuyến, điện thoại, điện, tín hiệu truyền hình hoặc. Sóng vũ trụ là một nguồn năng lượng, năng lượng mạnh mẽ nhất mà tồn tại, chúng tôi gọi họ như thế nào chúng ta thích; sóng vũ trụ, dịch astral, ý thức thứ 6, premonitions, hiểu biết sâu sắc ... Không có vấn đề làm thế nào chúng được gọi, chúng tồn tại và các loài động vật được sinh ra biết làm thế nào để sử dụng chúng. Chúng tôi bị mất khả năng và công việc của chuyên nghiệp như tôi là để tìm hiểu một điều khiển việc giải thích của các nguồn năng lượng trong những năm làm việc chăm chỉ và kinh nghiệm. Chúng ta đều sinh ra với năng lực khác nhau bẩm sinh và một số người trong chúng ta nhạy cảm hơn với các lực lượng này và tôi may mắn có được sinh ra với thế mạnh mà tôi đã được xây dựng trên. Bạn biết những gì? Tôi nghĩ bạn cũng có khả năng nhất định trong lĩnh vực này Linh và tôi rất muốn giúp bạn phát triển những năng lực này nếu bạn muốn. Tại thời điểm bạn được điều chỉnh để các lực lượng này một cách vô thức, mà không thực sự là có thể giải thích những gì bạn cảm thấy. Ví dụ, bạn biết rằng thay đổi sẽ sớm xảy ra trong cuộc sống của bạn, bạn không biết bạn khi nào nhưng những gì cảm thấy rằng mọi thứ sẽ thay đổi sớm và bạn cũng cảm thấy rằng một sự kiện rất chính xác và quan trọng sẽ xảy ra. Bạn đang hoàn toàn đúng về những sự kiện này, các sự kiện đó sẽ trực tiếp quan tâm đời sống tình yêu của bạn và tình hình tài chính. Những sự kiện này được đặt để xảy ra trong thời gian quá cảnh mà tôi đã nói với bạn về (Tôi sẽ đi vào một ít chi tiết hơn về quá cảnh này chỉ trong vài phút ...) Tôi thậm chí sẽ đi xa hơn và nói rằng những hiểu biết sâu sắc mà bạn đã dẫn bạn với tôi và với trang web của tôi (bạn có thể đã đi qua một nhà chiêm tinh hoàn toàn khác nhau và tôi không phải là người duy nhất đủ điều kiện để hướng dẫn bạn nhưng tôi đánh giá cao sự tin tưởng tiềm thức của bạn đã có trong tôi). Tôi không tin vào Linh may mắn. Sự kiện xảy ra bởi vì chúng được bắt nguồn từ nguyên nhân, và nếu bạn hỏi tôi cho phân tích cá nhân thì đó là chính xác bởi vì bạn cảm thấy cần phải biết chính xác những gì sẽ sớm xảy ra với bạn và những gì các thay đổi được điều đó, những thay đổi bạn đã gần đây đã có inklings về. Cho phép nhận được xuống để sự thật thẳng. Những thay đổi đó quá cảnh của bạn sẽ mang lại mối quan tâm trực tiếp tình hình tài chính của bạn và bạn sẽ có thể: đi theo một hướng mới trong sự nghiệp của bạn để nhờ công việc này mới Và họ cũng sẽ có tác động vào cuộc sống-tình yêu của bạn, bạn sẽ: tiến gần hơn đến một người rất thân yêu với trái tim của bạn Nhưng đó không phải là tất cả, bạn cũng có thể mong đợi một số thay đổi khác. Bạn sẽ biểu tình gây ra mà bạn tìm thấy mạnh mẽ đáp ứng và hoàn thành và, như tôi đã nói, tôi cũng thấy trước khi hoàn thành một dự án được giữ lại vì một số lý do tài chính và thiếu cơ hội. Quá cảnh này cũng là một thời gian khi bạn sẽ gặp nhiều người mới và những cuộc gặp gỡ cuối cùng sẽ dẫn đến những cơ hội mới để đi du lịch nước ngoài, năm 2011 chắc chắn sẽ làm cho bạn nhiều hơn điện thoại di động quốc tế! Vì vậy, để tổng hợp Linh, năm nay 2011 là một năm bất thường và sủi hành tinh trong 25 năm kinh nghiệm, tôi nghĩ rằng tôi chưa bao giờ thấy mạnh mẽ và dữ dội như các phong trào hành tinh. Những chuyển động sẽ ảnh hưởng đến một số người trong chúng ta nhiều hơn những người khác Linh và bạn sẽ có trong dày của nó đó là lý do tại sao bạn không nên bỏ lỡ cơ hội của bạn. Tôi thực sự muốn bạn nhận ra chỉ là cách thú vị quá cảnh này, trong 88 ngày giữa tháng của Tháng Tư, tháng Năm và tháng Sáu sẽ thực sự là một số trong những ngày thú vị của cuộc sống của bạn cho đến nay. Dưới đây là một số chi tiết về quá cảnh này rất hiếm và mạnh mẽ sẽ không cắt lên một lần nữa trong biểu đồ astral của bạn trong một thời gian rất dài để đến: Vào đầu năm 2011 này là một âm lịch nhật thực xảy ra (ngày 04 tháng 1, bạn có thể đã thấy điều này) vào cùng ngày với sự kết hợp (gần gặp) giữa sao Mộc và sao Thiên vương đó chỉ xảy ra một lần mỗi 12 năm. Trong những ngày sau đó sao Mộc di chuyển giữa các dấu hiệu Zodiac (vào ngày 22) mà là một sự kiện rất hiếm đối với hành tinh khổng lồ này. Những sự kiện này có nghĩa là năm 2011 bắt đầu với sức mạnh thực sự và quyền lực và thời gian trong các tháng của tháng Tư, tháng Năm và tháng sáu được thiết lập để tiếp tục những xu hướng này hiếm, hãy để tôi nói cho bạn biết tại sao. Trong tháng Tư cả Thiên vương tinh và Hải vương tinh sẽ chuyển thành quá trình chuyển đổi khác thường: đầu tiên của tất cả các Sao Thiên Vương làm cho nó là lần đầu tiên di chuyển trong 8 năm qua và sau đó vào cuối tháng Tư Sao Hải Vương cũng sẽ di chuyển đến một vị trí của nó đã không được ở cho 169 năm qua (nó sẽ xảy ra vào ngày 28). Và một hành tinh rất quan trọng đối với bạn Linh, Mercury, sẽ ngừng chuyển động ngược của nó và sẽ đi trực tiếp vào đầu tháng của tháng và cả hai chúng tôi biết làm thế nào quan trọng này sẽ được! Ngoài ra, quá cảnh được thực hiện mạnh mẽ hơn bởi vì bạn sẽ vẫn dưới sự bảo vệ tích cực của các nút lên của Mặt Trăng (còn gọi là nút phía Bắc) mà trong chiêm tinh may mắn đại diện cho tinh khiết. Bảo vệ này đang xảy ra bây giờ, nó xảy ra từ 2 Tháng Tư - 4 tháng 6. Trong suốt thời gian này quá cảnh, bạn sẽ được cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của một số các hành tinh nhỏ, ví dụ như Sao Diêm Vương sẽ đặc biệt có ảnh hưởng trong dài hạn và sẽ có một vai trò quan trọng cùng với Venus. Và tôi không được quên trong 5 Vệ tinh toàn trong suốt những tháng đó cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng. Vì vậy, tôi chắc chắn rằng bạn hiểu tại sao tôi khẳng định như vậy mạnh mẽ về tầm quan trọng của Linh Transit. Năm 2011 sẽ được bất cứ điều gì nhưng trần tục, bạn sẽ cần phải được chuẩn bị sẵn sàng để trải nghiệm những cảm xúc của một cường độ rất hiếm. thói quen của bạn sẽ hoàn toàn tan vỡ và tôi thậm chí sẽ nói rằng 2011 đánh dấu sự khởi đầu của một thay đổi căn bản trong cuộc sống của bạn. (câu này làm Rin86 hồi hộp ghê he he, mặc dù biết đó chỉ là lời tiên đoán của 1 cái máy) Bây giờ tôi phải nói về điều gì đó bạn phải cẩn thận của Linh. Tôi yêu cầu bạn phải cẩn thận vì đây là quan trọng. Chiêm tinh học và khoa học bí truyền có thể hướng dẫn bạn, nhưng bạn giữ lại sẽ sở hữu miễn phí của bạn và sự lựa chọn là của bạn. Khi tôi đã phân tích cấu hình của bạn tôi phát hiện ra rằng 4 năm trước bạn trải qua một quá cảnh mà cung cấp cho bạn một loạt các cơ hội. Điều này quá cảnh là yếu hơn nhiều so với cái bạn sẽ sống thông qua vào năm 2011, nhưng những gì tôi nhận ra là bạn đã bỏ lỡ cơ hội sống còn 4 năm trước đây, có lẽ vì bạn đã không được thông báo và cũng bởi vì bạn đã không hành động một cách chính xác phải và ở đúng thời gian. Các ngôi sao có thể cung cấp cho bạn cơ hội nhưng cuối cùng nó lên để bạn tận dụng tối đa những cơ hội và gặt hái những phần thưởng vào đúng thời điểm. Không có điểm hối hận này Transit qua, một bạn sẽ sớm được rất nhiều kinh nghiệm mạnh mẽ hơn. Tôi chỉ đơn giản nói này vận động trong quá khứ bởi vì trách nhiệm chính của bạn trong thời gian tới là phải chủ động và nắm bắt tất cả các cơ hội đó đang đến cách của bạn. Bạn không được thụ động chờ đợi vận may để rơi vào tay của bạn. Như tôi đã nói với bạn, nếu bạn đến với trang web của tôi và nếu bạn có bây giờ nhận được từ tôi sau đó phân tích cơ hội đóng một vai trò rất nhỏ thực sự. Không ai trong số này là một tai nạn. Tôi tin rằng bạn biết rằng thời gian quan trọng là sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống của bạn và đây là lý do tại sao bạn yêu cầu hướng dẫn của tôi. Vai trò của tôi là rất rõ ràng, tôi phải đi cùng bạn, hướng dẫn bạn, tư vấn cho bạn và cho bạn tất cả các thông tin cần thiết để tận dụng đầy đủ các vận động này. Đây là sứ mệnh mà tôi đã đặt bản thân mình, tôi muốn bạn có thể nhận được rất tốt nhất của vận động này và tôi cần phải cung cấp cho bạn các ngày chính xác và thời gian khi bạn cần phải hành động để bạn biết phải làm gì để nắm bắt cơ hội này vận động sẽ mang lại cho bạn. Bạn cần phải biết ai là người quan trọng trong cuộc sống của bạn, bạn cần phải biết những người mà bạn nên tránh và bạn cần phải biết làm thế nào để tránh những cạm bẫy mà có thể cản trở bạn và nhận được theo cách của bạn. Tuy nhiên tôi không thể áp đặt bản thân mình vào bạn, chỉ có bạn mới có thể đưa ra quyết định chấp nhận giúp đỡ của tôi. Nếu bạn muốn tôi cung cấp tất cả thông tin bạn cần, sau đó chúng ta cần phải hành động nhanh chóng Linh. Bạn phải sẵn sàng trong thời gian. Tôi cần phải chi tiêu còn trên phân tích của bạn và tôi cần phải xác định tất cả các ngày quan trọng của quá cảnh này, để có thể cho bạn biết khi nào và làm thế nào bạn cần phải hành động, tại sao và khi bạn có thể mong đợi những kết quả bạn cần trong cuộc sống của bạn. Tôi phải làm việc cụ thể về trường hợp của bạn và vì vậy tôi đã thiết lập một trang web cho bạn mà bạn có thể sử dụng để gửi cho tôi cho phép của bạn và để cung cấp cho tôi những ánh sáng màu xanh lá cây. Trên trang này, tôi cũng nói cho bạn biết cụ thể chính xác tất cả mọi thứ mà tôi sẽ làm việc trên cho bạn. Ngay sau khi tôi nhận được của bạn đi-trước trên trang này sau đó tôi sẽ nhận được thẳng để làm việc: https: / / aboutastro.com/cgi-bin/yfreq_2011_2.cgi c = as1td & r = 3i Tôi thực sự muốn em hiểu Linh sự gần gũi, tôi cảm thấy cho bạn khi tôi đã làm việc trên các phân tích của bạn. Đó là thông qua các rung động mà tôi đã nói với bạn về điều đó tôi đã có thể trải nghiệm nhiều điều về bạn Linh và tôi biết làm thế nào bạn cảm thấy ngay bây giờ, tôi có thể thấy trước rằng khi tôi viết những dòng này bạn chưa đọc tất cả các phân tích, tôi có thực hiện cho bạn. Bạn dường như bị rách. Bạn muốn những sự kiện mà tôi đã nói chuyện với xảy ra, bạn muốn sống thông qua vận động này mạnh mẽ, bởi vì bạn cần thay đổi, không khí trong lành và đổi mới, và do đó, bạn muốn tin vào tất cả những gì tôi đã nói với bạn nhưng đồng thời bạn cố gắng để đưa ra các rào cản (cùng một loại rào cản bạn đã đặt ra trong quá khứ như tôi đã đề cập, chúng ta cần phải làm việc trên này với nhau để bạn có thể nhảy lên trên đó!) và bạn đang dập vào phanh, đưa lên những mối nghi ngờ và không chắc chắn rằng có như vậy thường bị ám ảnh bạn trong quá khứ. Bạn nói với bản thân rằng nó quá tốt là đúng, bạn muốn xem nó để tin tưởng rằng nó, và bạn nói rằng những cơ hội này không cho bạn, họ phải được cho người khác. Đó là thời gian để chấm dứt tất cả điều này Linh, đó là thời gian phụ trách số phận của bạn và tôi ở đây để giúp bạn và thuyết phục bạn, và tôi sẽ tiếp tục đi đến hết nhiệm vụ của tôi miễn là bạn cung cấp cho tôi cho phép của bạn để làm như vậy, bởi vì chỉ nhớ rằng cuối cùng sẽ được tính miễn phí của bạn và đó là bạn của những người quyết định! Tôi muốn thuyết phục bạn để có vận mệnh của mình trong tay và để cho tôi hướng dẫn bạn qua bước này. Tại sao tôi không? Đơn giản chỉ bởi vì tôi biết tôi có thể giúp bạn Linh, tôi thấy, tôi cảm thấy nó và một lần nữa tôi biết tôi đã không được đặt bởi các tai nạn trên đường dẫn của bạn, như tôi đã nói trước khi tôi tin rằng rất ít cơ hội. Cho phép tôi giải thích chính xác hơn những gì tôi cảm nhận về bạn Linh, tại sao tôi đã có sự kết nối mạnh mẽ với bạn ngay từ đầu và những gì tôi nhận thức về nhu cầu, mục tiêu của bạn và những gì bạn đang tìm kiếm. Tôi biết rằng vào lúc này bạn hãy tự hỏi nhiều câu hỏi khác nhau về nhiều điều khác nhau trong cuộc sống của bạn. Bạn cũng muốn đạt được những mục tiêu bạn đã đặt bản thân mình và một trong những mối bận tâm của bạn vào lúc này là cuộc sống của bạn tình yêu. Bạn đang tự hỏi khi nào và nơi bạn sẽ gặp người đàn ông quyền và có hoặc không này sẽ là người hoàn hảo cho bạn bởi vì bạn thường thu hút các loại sai lầm của nam giới. Tôi cũng có thể thấy rằng những người đàn ông lớn tuổi thường thu hút đối với bạn và khi bạn tìm kiếm ai đó đặc biệt, những loại đàn ông không phù hợp với những hóa đơn. Trong thực tế bạn đang rất cấp thiết và tôi hiểu điều này, đáng chú ý nhất bạn không có kiên nhẫn đối với những người đàn ông ghen hoặc những người thiếu tự tin. Hơn nữa, chỉ cần để nhanh chóng mô tả một cảm giác đó đến với tôi trong khi tôi đã viết này, tôi có thể thấy rằng bạn vẫn còn có sâu bên trong bạn (ngay cả khi bạn không phải luôn ý thức được nó, nó vẫn còn ẩn bên trong của bạn) vào bộ nhớ của một quan trọng mối quan hệ trong quá khứ của bạn mà không làm việc ra ngoài. Liên quan đến những điểm khác, trong các mối quan hệ của bạn với những người khác nói chung bạn rất nhạy cảm với cảm xúc của người khác, thường đặt nhu cầu của người khác trước khi chính bạn (đặc biệt là những người bạn và gia đình) và bạn nhận được rất nhiều trong sự hài lòng của người khác giúp đỡ. Như một vấn đề của thực tế, tôi cũng rất cảm thấy rằng bạn có một trực giác bất thường mạnh mẽ và quan hệ với quyền lực này có thể là một trong những lý do tại sao bạn được rút ra để đọc chiêm tinh học. Như một vấn đề của thực tế có một hào quang rất mạnh xung quanh bạn và năng lượng một mà là thực sự mạnh mẽ. Tôi đang cảm nhận rung động từ bạn nhiều hơn nữa mạnh mẽ hơn so với những người tôi kinh nghiệm với hầu hết các khách hàng. Tôi cũng có thể thấy rất nhiều phẩm chất bên trong bạn và đặc biệt là bạn có rất nhiều tiềm năng tiềm ẩn hoặc chưa thực hiện. Tôi cũng có thể thấy rằng bạn là đôi khi thất vọng với thực tế là những người khác không luôn luôn nhận ra điều này tuy nhiên tôi nghĩ rằng các sự kiện đó sẽ sớm đặt để xảy ra cho bạn sẽ thay đổi tất cả điều này. Nó bởi vì tất cả những điều mà tôi cảm thấy về bạn Linh mà tôi thực sự hy vọng bạn sẽ làm cho hầu hết các vận động này sẽ xảy ra chỉ trong một thời gian vài tuần, tôi biết tôi lặp lại bản thân mình về chủ đề này nhưng sự nguy hiểm lớn nhất của tất cả là mà bạn không hành động Linh, cho những cơ hội ĐƯỢC trên đường và có không có nghi ngờ về điều đó. Các ngôi sao cho thấy rất rõ điều này. Đừng để mình bị choáng ngợp bởi sự nghi ngờ và tất cả các câu hỏi mà bạn yêu cầu ... hành động ngay. Bạn cũng nên đến các điều khoản với thực tế là các thay đổi sẽ xảy ra cho bạn vào đầu năm 2011 sẽ có tác động vượt xa năm 2011, hậu quả sẽ đạt được vào năm 2012 nhưng cũng vào phần còn lại của cuộc đời bạn. Tôi vui mừng rằng chúng tôi đã đi xung quanh để thảo luận về 2012 Linh. Tôi biết đây là một trong những câu hỏi mà bạn tự hỏi mình, 2012 chính xác những gì sẽ có nghĩa là cho chúng tôi tất cả (nhiều người trong số những người viết cho tôi tự hỏi cùng một câu hỏi ...) và tôi muốn ở thời điểm này để cho bạn của tôi ý kiến: Tôi nghĩ rằng nhiều dự đoán làm cho năm 2012, một số lượng nhất định các giải thích sai đã được sử dụng để tạo ra lo âu và sợ hãi và một số lượng nhất định các sự kiện đã được đưa ra khỏi bối cảnh để thúc đẩy lợi ích tài chính cho các nhà chiêm tinh nào đó vô đạo đức. Với các phân tích rất rộng lớn mà tôi thực hiện về chủ đề này, tôi muốn nói với bạn điều này: những tiên đoán của Nostradamus (theo các nhà bình luận đã giải thích những quyển tome của ông thế kỷ), những dự đoán của những người Maya và các cảnh báo của các tiên tri khác nhau mới và cổ sách thánh của họ được trong thực tế rất chính xác .... vào cuối năm 2012 đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới và rất mạnh mẽ phong trào hành tinh mà chúng tôi đã bắt đầu để làm chứng chứng minh điều đó, tuy nhiên điều này không phải là kỷ nguyên mới kết thúc của thế giới nhưng nó đánh dấu việc kết thúc của thế giới A. Thế giới cũ sẽ làm đường cho một kỷ nguyên mới trong đó mỗi người chúng ta có thể hoặc không thể tham gia và tôi cảm thấy rằng nhiệm vụ của tôi suốt hai năm tới là giúp chấm dứt sự lây lan lo lắng và bất ổn bởi những lời tiên tri của bất hạnh mà có được lan rộng trên khắp hành tinh. Đây là một trong những lý do mà tôi đã chọn để cung cấp các nghiên cứu này miễn phí như một trong những bạn đọc Linh, để giúp khắc phục sự cân bằng và để làm rõ những tiên đoán của Nostradamus và của người Maya đã được hoàn toàn đưa ra khỏi bối cảnh của profiteers tàn nhẫn . Vì vậy, có chúng tôi đang đi hướng về một kỷ nguyên mới trong năm 2012 những thay đổi này đã được tiến hành, như trong trường hợp của bạn Linh. thay đổi của bạn sẽ bắt đầu trong năm 2011, chỉ trong một thời gian vài tháng. Các cửa ra vào của những năm tốt nhất của cuộc sống của bạn sẽ mở ra và bạn sẽ trở thành một chủ vận mệnh của bạn hơn là làm cho bạn mù đi theo hoàn cảnh. Vì vậy, tôi muốn bạn hiểu Linh, rằng không có trở ngại cho hạnh phúc của bạn và bạn xứng đáng tốt nhất trong cuộc sống. Có được cho mình đã sẵn sàng để lấy tất cả các cơ hội được thiết lập để đến với bạn, bỏ qua một bên những rào cản bạn nên thường xuyên thiết lập cho chính mình. Chỉ ngay sau khi bạn đã nhấp vào liên kết bên dưới và gửi cho tôi cho phép của bạn, tôi sẽ có thể nhận được để làm việc cho bạn và giúp đỡ để hướng dẫn bạn thông qua toàn bộ giai đoạn mới trong cuộc sống của bạn. Tôi sẽ có thể gửi cho bạn tất cả các thông tin chi tiết, bạn sẽ cần phải di chuyển về phía trước với sức mạnh và đảm bảo. https: / / aboutastro.com/cgi-bin/yfreq_2011_2.cgi c = as1td & r = 3i Tất nhiên, tôi không thể nói rằng Tử Vi là các biện pháp khắc phục cho tất cả những tệ nạn và đưa lại cho rõ, tôi thậm chí có thể nói rằng Tử Vi không phải là một khoa học chính xác. Chiêm tinh là một sự phản ánh của những gì là thế gian và con người thì làm sao nó có thể được 100% chính xác? Để tìm kiếm Thiên Chúa hoặc trong vũ trụ thông qua Chiêm tinh là kheo khoang. Tìm kiếm sự chắc chắn tuyệt đối là nhiều hơn kheo. Điều cần thiết là chỉ đơn giản là sử dụng tốt nhất của quyền lực xây dựng của Chiêm Tinh. Chiêm tinh học đã tồn tại từ thời xa xưa và nó là một khoa học hoàn toàn tự nhiên mà cuối cùng nghiên cứu một chi tiết các hiện tượng tự nhiên mà nhận thấy rằng các hành tinh và chuyển động của họ ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi sinh vật và đóng vai trò trong các diễn tiến của cuộc sống con người. Theo kinh nghiệm của tôi, Chiêm Tinh là 80% chính xác trung bình và có thể tăng lên đến 90% khi các phong trào hành tinh đó sẽ ảnh hưởng đến một người mạnh mẽ. Thành thật mà nói đây là trường hợp của Linh cấu hình của bạn. Hãy để tôi quay trở lại chỉ là một thứ hai để một trong những yếu tố mà tôi đã nói về lúc bắt đầu học tập của bạn. Tôi cho rằng chúng ta không nên bỏ qua kinh nghiệm của bạn từ những năm qua, tuy nhiên tôi đã nói tất cả về 2011 và 2012 và những thay đổi mà những năm mới sẽ mang lại. Tôi nói rằng tôi cảm nhận một cuộc họp quan trọng với một người sau đó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của bạn sẽ xảy ra. Tôi sẽ phải đi một chút nữa trong phân tích của tôi để cung cấp cho bạn thông tin chi tiết nhưng có vẻ như rằng người này là một người đàn ông của năm khoảng bốn mươi tuổi, và bạn sẽ gặp người này qua người bạn chung. Nó sẽ đòi hỏi nghiên cứu thêm để xác định chính xác ngày họp, tuy nhiên rõ ràng là cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra trước cuối năm nay. Điều gì cũng rất rõ ràng trong cấu hình của bạn là người này sẽ đóng vai trò cơ bản cho bạn trong năm 2011 và sau đó ... Như vậy, có bạn Linh, tôi đã gửi cho bạn các kết quả nghiên cứu đầu tiên của tôi, tôi biết và tôi hy vọng bạn cũng nhận ra, đó là điều quan trọng là không dừng lại ở đây và điều này là nghiên cứu đầu tiên chỉ là một lời giới thiệu mà đã cho phép bạn hiểu rằng bạn là vào buổi bình minh của một thời đại cấp tiến trong cuộc sống của bạn. Hiện vẫn còn rất nhiều việc phải làm và chúng tôi không phải mất bất kỳ thời gian hơn. Tất cả tôi cần là ánh sáng màu xanh lá cây của bạn và tôi sau đó sẽ chăm sóc phần còn lại. Theo như tôi đang quan tâm đến tôi cảm thấy một số điều rất tích cực về bạn Linh, tôi muốn bạn biết rằng tôi đang ở bên cạnh bạn cho bất kỳ giúp đỡ hoặc tư vấn nào, và thậm chí nếu bạn thích làm việc với các nhà chiêm tinh khác để xác định tất cả các chi tiết bạn cần phải tận dụng tốt nhất cho quá cảnh của bạn. Cho dù tôi hay một nhà chiêm tinh chuyên nghiệp làm việc với bạn về thời kỳ này thực sự là không quan trọng, những gì là quan trọng là người có thẩm quyền hướng dẫn bạn qua quá cảnh này. Trong mọi trường hợp, tôi sẽ luôn bên bạn và từ bây giờ bạn có thể đếm được tôi như một người bạn và tâm tình. Tôi tự hào đã gặp bạn và tôi hy vọng chúng ta có thể di chuyển về phía trước càng nhanh càng tốt bởi vì tôi thực sự muốn giúp bạn thay đổi cuộc sống của bạn cho tốt hơn, cho phép được làm việc cùng nhau ngay bây giờ. Bạn của bạn và các nhà chiêm tinh chuyên nghiệp của bạn Jenna Linh, tôi đã nói chuyện với bạn về những năm của bạn năm 2011 và ở đây trên trang này tôi đã chuẩn bị cho bạn bạn sẽ có thể tìm hiểu về tất cả mọi thứ tôi sẽ làm việc trên cho bạn. Đọc toàn cá nhân của bạn cho năm 2011 sẽ là một vertiable hướng dẫn cho bạn hàng ngày cho toàn bộ thời gian quan trọng này. Vì vậy, đây là everthing tôi sẽ bao gồm đầy đủ của bạn đọc năm 2011: * Một cá nhân hoàn thành Chiêm tinh Dự báo đọc, chi tiết chính xác những gì bạn có thể mong đợi ngày-của-ngày trong thời gian quá cảnh tại tất cả các lĩnh vực Linh cuộc sống của bạn. Dự báo này sẽ giúp đỡ và hướng dẫn bạn, cho phép bạn tránh những cạm bẫy không thể tránh khỏi trước và để làm được nhiều nhất của tất cả các cơ hội và cơ hội mà thời gian này được thiết lập để mang lại cho bạn. Sử dụng thông tin chi tiết chiêm tinh dựa trên dữ liệu cá nhân của bạn, tôi sẽ đảm bảo rằng bạn biết chính xác làm thế nào để giải quyết những tháng tới, khi bạn phải hành động và những khoảnh khắc thuận lợi nhất cho thành công của bạn. Linh đọc này sẽ cho bạn biết làm thế nào để có được ở nơi này chỉ đúng và vào đúng thời điểm để nắm bắt tất cả các cơ hội đó sẽ có sẵn cho bạn. * Chính xác hơn, theo như chuyên môn nghề nghiệp của bạn là có liên quan. Tôi sẽ nói với bạn: - Lý do tại sao thời gian này sẽ là một trong những khoảnh khắc thuận lợi trong sự nghiệp của bạn - Những gì mà chiến thắng này và làm thế nào bạn có thể đạt được nó trong công việc của bạn - Khi nào và làm thế nào chiến thắng này sẽ diễn ra và những gì nó sẽ thay đổi cho bạn - Những gì của những vấn đề đối ngoại "đang có và làm thế nào họ sẽ bề mặt trong thời gian quá cảnh của bạn - Làm thế nào công việc này sẽ ảnh hưởng đến công việc của bạn - Những gì mà yếu tố quan trọng từ quá khứ của bạn là gì và tại sao nó sẽ được như một cơ hội quan trọng - Những gì thay đổi bạn có thể mong đợi về tài chính - Làm thế nào tình hình sẽ thay đổi tình hình công việc của bạn ở mức trung bình đến dài hạn - Những gì bạn thường có thể mong đợi sẽ xảy ra trong công việc của bạn - Những gì pit-rơi bạn phải tránh trong tương lai - Tài chính của bạn như thế nào sẽ phát triển Tôi cũng sẽ cho bạn biết những gì sẽ được các tác động của quá cảnh về cuộc sống tình yêu của bạn: - Lý do tại sao thời gian này sẽ rất quan trọng đối với bạn như xa như tình yêu cuộc sống của bạn là có liên quan - Khi gặp gỡ này sẽ diễn ra - Nơi bạn sẽ gặp - Làm thế nào ngày sẽ diễn ra - Làm thế nào bạn có thể nhận ra đúng người - Làm thế nào bạn có thể dụ dỗ người này và bắt đầu một cái gì đó cùng nhau xây dựng tốt - Những người này sẽ như thế nào - Nếu điều này thực sự là tình yêu cuộc sống của bạn - Những gì loại trong tương lai bạn có thể mong đợi với nhau * Bạn cũng sẽ được cấp một phân tích nhân vật cá nhân, một nghiên cứu đầy đủ các behavoir của bạn và nhân vật của bạn để cho phép bạn nhận biết chính mình, các ổ đĩa và tham vọng của bạn tốt hơn. Đây là một công cụ quan trọng và bạn sẽ cần phải đề cập đến nó thường xuyên trong thời gian quá cảnh vì nó cung cấp những đầu mối quan trọng để cá tính của bạn và cách bạn có thể phản ứng để nắm bắt cơ hội quan trọng của giai đoạn này và đạt được bước ngoặt mới trong cuộc sống của bạn. Trong số những thứ khác Phân tích này sẽ giải thích: - Nhu cầu cơ bản của bạn, giá trị và định hướng cuộc sống - Hiệu trưởng các khía cạnh của tính cách của bạn - Ít được biết đến đặc điểm của bạn - Làm thế nào bạn tiếp cận cuộc sống của bạn, lập trường cơ bản đối với cuộc sống - Làm thế nào bạn xuất hiện với những người khác và những người khác theo cách nhìn thấy bạn - Con đường bạn đi qua và cả gương mặt bạn hiển thị với thế giới - Các Nội Bạn và động lực thực sự của bạn - Các loại người bạn đang ở tim và nơi ưu tiên thực sự của bạn nói dối - Làm thế nào bạn thường có thể tăng cường năng lực của bạn - Các trang phục bạn mặc mà còn là người thực sự bên trong các trang phục - Vai trò thực sự của bạn trong cuộc sống - Lợi ích tinh thần và khả năng của bạn là gì - Làm thế nào để vượt qua nỗi sợ hãi của bạn ẩn sâu - Cảm xúc của bạn, tâm trạng và cảm xúc là gì - Làm thế nào bạn đang lãng mạn - Làm thế nào bạn đạt được mục tiêu của bạn, những gì ổ đĩa và tham vọng của bạn - Tăng trưởng và mở rộng: các lĩnh vực mà bạn thích - Các lĩnh vực mà trong đó bạn có thể nổi trội và tìm thấy sự hài lòng là gì - Các khu vực đó thách thức bạn hoặc là khó khăn cho bạn - Điều gì làm cho bạn rất độc đáo và mạnh như thế nào là trí tưởng tượng của bạn - Trong lĩnh vực bạn đang sáng tạo, độc đáo, không ổn định hoặc cưỡng * Bạn cũng sẽ nhận được hai Ebooks rất hoàn chỉnh, được viết bởi bản thân mình, bản quyền của tôi, và đó là hoàn toàn không có sẵn ở đâu đó trên internet, hay ở nơi khác như là vấn đề của thực tế. Đây là những hướng dẫn đầy đủ của hơn 30 trang mỗi và có rất ít điểm chung với các sách điện tử tổng quát hơn mà bạn có thể tìm thấy trên các trang web khác. Linh tôi nên đề cập đến là các sách điện tử đã cho tôi khá một vài tháng để viết và họ có những thông tin mà bạn sẽ không thể tìm thấy trong cùng một bối cảnh ở những nơi khác trên internet. Trong các trang của họ, tôi thấy rất nhiều thông tin chi tiết và bí mật chuyên nghiệp mà bạn sẽ có thể sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống của bạn trong thời gian quá cảnh và cho phần còn lại của tương lai của bạn. Các Ebook đầu tiên là tất cả về clairvoyancy và các kỹ thuật khác nhau mà tồn tại, để bạn có thể hiểu công việc của tôi một chút tốt hơn. Ebook này bao gồm các chủ đề sau: - Các nền lịch sử - Làm thế nào clairvoyancy có thể được khoa học giải thích - Những nghiên cứu khoa học đã được thực hiện - Tại sao chúng ta tất cả đều có kỹ năng này và những gì nó có thể được sử dụng để làm - Làm thế nào để học hỏi để phát triển các kỹ năng này - Làm thế nào để sử dụng hỗ trợ cho clairvoyancy: những quả cầu pha lê, lá bài ... - Chúng ta có nên tin vào sự đồng bộ? Với ví dụ chính xác. - Làm thế nào để kiểm tra clairvoyancy của chính mình - Ví dụ về các bài tập xây dựng kỹ năng này - Làm thế nào để tăng cường kỹ năng này với một số kỹ thuật bí mật - Làm thế nào clairvoyancy nói chung nên được sử dụng - Làm thế nào để sử dụng khả năng dự đoán tương lai của chính mình Các Ebook thứ hai là về cảm xạ học, một kỹ thuật tăng cường năng lực của bạn và tự khám phá. Đây là một khu vực nghiên cứu esotheric facinating và bạn Ebook sẽ nói cho bạn: - Điều gì thực sự là cảm xạ học - Làm thế nào để sử dụng nó trong mọi lĩnh vực của cuộc sống của một người và làm thế nào tốt nhất để học - Làm thế nào để sử dụng con lắc được sử dụng như một phần của cảm xạ học - Tại sao con lắc có thể được như vậy hữu ích trong cuộc sống của bạn - Nâng cao mức độ thực hành cho con lắc, với các ví dụ chính xác - Điều gì Radiothesia và con lắc thực sự cho phép bạn làm - Làm thế nào để phân tích tâm trí của bạn với cảm xạ học - Các ứng dụng thực tế, một số trong đó sẽ ngạc nhiên bạn là gì! - Sử dụng cảm xạ học để điều tra quá khứ - Và cuối cùng là các thiết bị cảm xạ học khác * Tất cả các tác phẩm này là hoàn toàn cá nhân, Linh. Tôi sẽ sản xuất hoàn thành của bạn đọc cho bạn trong thời gian ngày 2-3, một lần tôi nhận được xác nhận của bạn (để xác nhận rằng bạn muốn tôi làm tất cả các tác phẩm này cho bạn tất cả các bạn cần làm là điền vào mẫu dưới đây). Ngay sau khi công việc của tôi là kết thúc, tôi sẽ liên hệ với bạn trực tiếp qua email và sẽ cho bạn URL của trang web nơi bạn có thể xem đầy đủ của bạn đọc, chứa tất cả các yếu tố mà tôi đã chi tiết ở trên (các dự báo đầy đủ cho toàn bộ thời gian quá cảnh có chứa thông tin quan trọng về công việc, tài chính và tình yêu cuộc sống của bạn, một phân tích nhân vật hoàn thành tất cả về bạn và cá tính của bạn và hai Ebooks về Clairvoyancy và cảm xạ học) và trên trang này bạn sẽ có thể in các tài liệu này và / hoặc chọn một phiên bản tải về lưu tất cả các công việc này trên máy tính của bạn. Linh, tôi muốn nhấn mạnh vào thực tế là tôi sẽ áp dụng bản thân mình với đầy đủ để hoàn thành tất cả các tác phẩm này cho bạn, tôi sẽ sử dụng tất cả các kỹ năng và kinh nghiệm của tôi để phân tích tình hình một cách chính xác. Bạn sẽ thấy rằng một khi bạn nhận được tất cả các thông tin này bạn sẽ được trang bị với hàng trăm trang hướng dẫn chi tiết chiêm tinh để giúp bạn nắm bắt tốt nhất tất cả các cơ hội và các cơ hội mà đặc biệt dữ dội này thời gian quá cảnh sẽ mang lại cho bạn. Bạn sẽ có thể đạt được một bước ngoặt thực sự trong cuộc sống của bạn và bạn sẽ thay đổi tương lai của mình cho tốt hơn. Tất cả tôi cần để bắt đầu là xác nhận của bạn và mẫu dưới đây điền vào với các chi tiết của bạn. Nếu mọi người muốn thử xem cái phần mềm bói toán của Jenna hoạt động thế nào thì vào trang này nhé: http://www.aboutastro.com/
-
INTRODUCTION Vietnamese peoples proud of nearly 5,000 years civilized tradition. Our tradition is recorded in writing (Since 2879 BC, according to the Vietnamese history written by the imperial court) and cover thousands of years in the ethnic community to the recent. It can be affirmed that the Vietnamese nation is the only nation in the history of humanity honor the cultural values of their culture with the name “văn hiến” (the culture which towards the elevation). A complete and convincing universal unified doctrine as Âm Dương Ngũ Hành (Yin-Yang)- popular and applied to every detail in the daily activities of the Vietnamese, these knowleges has created the thickness of a culture - the foundation of the transcendent Oriental cultural values- enough to against all the destruction of time, with ups and downs of history. But for over a decade ago to recent, has a lot of researcher both in and outside the country - Almost in flat, on the name of science - made new comment about historical culture of Vietnamese peoples. They said that: Source of ethnic Vietnamese – “Hung Vuong period is only a inceptive state; formed around VII th century BC "and "in essence, it is only a coalition consisting 15 tribes." Therefore, clothing of the Vietnamese’s ancestor - as they argue – just the people who is "half-naked and wearing a loin-cloth”. Although this theoretical point is in the name of science, they never made criteria to illuminate the argument called "science". Or, put another way: The new argument of the sources of Vietnamese civilization only demonstrated the subjective look with the very limited logic and completely unscientific basis, although it is on the name of science . These theoretical points are unconnected, unsystematic and are unable to explain the phenomena related to it. the considerable thing is: there are many different hypotheses about the origin and essence of the Hung Vuong - source of Vietnamese peoples. Although they are on the name of science, but these theoretical poits have many different basic of content, disorder and very conflicting. Someone said that: "The Hung Vuong exists only about 300 years, with people who is "half-naked and wearing a loin-cloth” Someone speech: "The Hung Vuong beginning X th century BC and is an alliance of 15 communications. at the most is a initial state." Someone have ideas that: "The Hung Vuong can be 1200 years BC" Someone said: "The Hung Vuong is 1500 years BC." They argue excitingly, opponency, enthusiastic rejection, like objective opinions were criticized. Of course, because of the illogicality of it, so the arguments called new historical comment which review the history and traditional of ethnic Vietnam rejected themselves by the illogicality and contradictory in the comment of every points. All the negative comment points of historical tradition that can have only one right or all wrong. They never can complement each other because of the conflict between that comment. There is one thing, all the creator who created the negative comment about the source of Vietnamese cultural historical traditions, they have forgotten one thing that: though who they are , which academic title, individual or team, they are not eligible enough to think that: their argument is "scientific basis". Because, the knowledge of the people who is on the name of science, not a "scientific basis" to assert the scientific of a science hypotheses. Whether it is knowledge of all Academicians of forestry science welding England, it will be very jerky when they talk like this. Therefore, need to have scientific criterion to be the basis of assessment of the scientific theoretical points of Vietnamese cultural historical traditions. Can not have a hypothesis which is on the name of science can negative the scientific criteria of it. On the basis of scientific criteria for a scientific hypothesis, we say that: "A scientific hypothesis is only consider as true; if it is capable of explaining most of problems and phenomena related to it consistently, complete, systematic, logically, objectivity and ability to prophesy. Stem and in the name of scientific criteria above, I would like to presented a theoretical points which is opponent with new comments about " Hung Vuong period ethnic clothing. To start on the content of the article, you see the picture below illustrates the clothes of the ancestors of Vietnamese - who pround of 5000 year civilization - described according to the new historical concept. Really, there are no different from the Indian tribes a few hundred years ago. Hung King and Lang mandarins (the History of Vietnam by picture; set III. Trẻ Publishing 1998.)Of course, there are not any minimum scientific basis to prove for formal clothes in the picture above which they called the ancestors of Vietnamese. Because, there are not a scientific argument to prove that the clothing on the image above is the the Hung Vuong period clothes, but it is the imposition of people who have opinions deny traditional cultural values of Vietnamese. The Essay that I honor presented here, is a continuity prove on the basis of science -through the scientific criteria - about the civilization cover almost 5000 years of the Vietnamese. In my essays and books published, I have proved that: The theory Âm Dương Ngũ Hành (Yin Yang Wu Xing) - philosophical theory of the ancient Eastern cultures - belong to the Lac Viet civilization (Lac Viet is Vietnamese ancient name). Not a dynasty of China considered that this doctrine is a orthodox doctrine. But whereas, in Lac Viet civilization, the basic principle of this theory is applied to each phenomenon in the life and clothing of all peoples - it is the main subject of this article. In this topic I honor presented to you, interested people, about clothes of the ancient Vietnamese and the influence to the area nearby Lac Viet culture - including China - and ethnic clothes today. You can consider as this is the continuity prove of the theoretical point that the Âm Dương Ngũ Hành theory belongs to the Lac Viet, it is also the proof for ethnic clothes and it is the opponent answer for the new comment about Vietnamese ethnic origin. The evidence for ethnic Vietnamese clothes is the continued scientific criteria for the interpretation a reasonable system, consistency issues related to it with objectivity, as of rules and the ability to predict of the view that: Cultural history of Vietnamese traditional underwent nearly 5000 years. Hùng King period clothing part 2 Ethnic clothing and ethnic cultural identity: Ethnic clothing is one of the important factors show the cultural identity of that peoples. If it have not a cultural identity, it is hard to consider it as a peoples. Therefore, if at the time of Hung Vuong, popular clothing of our ancestor is only "half-naked and wearing a loin-cloth", as most historians today think, we could not consider that is a cultural identity. Therefore, it is hard to talk about cultures of the starting time of Hung Vuong, which can only be regarded as a stage in the natural evolution of human history. Historical concept define that: "The history of a people is only counted from the established time of that people". So, the issue of Hung Vuong period clothes particularly important and is one of necessary elements, to demonstrate the civilization of Vietnam, beginning at the era of Hung Kings. The confirmed of cultural identity through ethnic clothing, not simply expressed civilization but also asserted the independence and particular trait of that peoples. When the Manchu dynasty invaded China, one of the first thing they do is forced people to dress their ethnic clothes. Vietnam's history is recorded: Lord Nguyen - to create a cultural identity for Đàng Trong - they've forced people wear clothes adapted from China. The following text extracted from the book: "Find the cultures of Vietnam" demonstrates this: "Therefore, in the 1665, King Lê Huyền Tông must issue a royal decree to forbid women to wear skirt, to preserve national procedures. At that time, the end of XVII century, to create the opposite of the Đàng Ngoài, Lord Nguyen in the South has ordered the men and women "used North country clothes " (China) to show the transformation." Events that occurred on XVII century has demonstrated that: ethnic clothes are very important, because of the factor confirmed the cultural identity and independence of a nation. This event also showed at least 700 years after the Vietnamese national renaissance, the Vietnamese have shown a clothing culturally specific. This culturally specific - expressed in ethnic clothes (of course not only women's clothing) - has ever since? If the men at the time Hung Vuong only wear loin cloth and half naked, according to the new concept of Vietnamese history, so Vietnamese express the cultural identity through clothes in particular in which time of the history? Writer believe that the new historical concept which deny the value of traditional Vietnamese culture, will not be able to prove "specific identity of the ethnic Vietnamese clothing just start from the national renaissance- Ding; Le; Ly Tran ... ". Because, in fact clothing express national identity had existed earlier: From the time of Hung Vuong, the origin the Vietnamese culture. In other words: "People can not prove a true from a false one" But with the question above, itself is only a hypothesis on the most common issue: People in a society have created a completed world view system, it is Yin Yang Wu Xing and the comprehensive application on most issues that people care, this society has completed organization with full awareness complexion of its morphology in the humanity culture and in social relations with moral values, expressed through the rituals with human nature lie the legend of the "Betel and areca". With a society which is introduced like that but it is not Van Lang, whether we can believe that: The people in that society is very primitive living "men are half-naked and wearing a loin-cloth, women wear skirts "or not? Therefore, official clothing and popular in Van Lang society , surely must be consistently fit with what that society has. That mean it must have sufficient clothes in social activities and in leaders social class, must have enough clothing to show the solemnity of ceremonies of the country. The proof of ethnic clothes in the social of Hung Vuong period is the continued development of the comment proved 5000 years civilization of ethnic Vietnamese, demonstrated systematic, consistent and complete and available function to explain all matters related to it impartially, rules and foretell ability. To prove to the comment above, please compare the illustrative picture, images of archaeological relics and the arguments presented below. If the picture above illustrate for "the legend of Nhất Dạ lagoon", certainly it can illustrate for the activities of Chu Dong Tu when he is not an orphan yet in the story in Hùng King period. But it is copied from the book "sketch of Vietnam early 20th century" (Trẻ Publishing 1989 - Nguyen Manh Hung introduced). This is the collection of a French scholar named Joseph Henri Oger. In other words, right in the 20th century these people still in the “loin cloth and half naked”, but these clothes are not popular in social activities at this time. The big image above, which you are considering, is a famous folk paintings "making a scene of jealousy", line of folk paintings of Dong Ho village. That picture is rich of humanity, shown in the image of the kid put his hand together and prostrate himself before his parents. Two women in the picture are not in the Hùng King period, but the reader can compare with the illustrative picture of Hung King period clothes in the upper left, it is printed in the book "History of Vietnam by pictures (Trẻ Publishing 1996, volume 3th). Sure you will be surprised about the similarity of the two women in the picture. Of course the illustrative picture in the book "History of the Vietnam by picture" does not reflect the truth about popular clothes in activities of the Hung King period. Because it can not reflect the similar in the distance of nearly 2,000 years according to the new historical opinion on Hung King period clothes that they describe with the Vietnamese folk paintings. Now, we compare the bronze effigy on the knife staff with popular northern women clothes in the picture below: The picture above which you are considering is a cluster of picture, are grafted of bronze knife staff from the Hung King period - dating is determined to be 300 years BC, was found in Lang Ngam - Ha Bac - carved a women with Hung King period clothing and the picture describe the clothes of a Northern woman-draw by writer, is grafted next to this cluster of picture, it is easier for you to compare. Type of clothes in this picture is not popular, but you can still see in the elderly living in a rural town far from any city in North Vietnam, in this year 2008. It is the last generation lie down on the hammock and sing a baby to sleep, by telling ancient tales and legends of a country Van Lang - where the original of Vietnamese lived - before cede to the media mass and the wisdom researcher talk about their stories. Through the illustrative picture which was presented to the reader above, we also recognize the match entirely by the contours of the clothing on the knife staff and the modern clothing Vietnamese women still wear nowadays, but not popular. This proved a keen saying, dress of the women still wear currently in the North is a continuation of traditional clothes from Hung King period shown on the bronze knife staff. Simultaneous comparison also shows: From 2300 years back now - basically - the form of popular folk clothes have no significant change. Particularly exciting and darkest time in the history of Vietnam, it was 1000 year dominated by the Chinese with fierce assimilative conspiracy of the Chinese. Thus, we completely have bases to say that: Since the appearing of the bronze knife staff which shows clothes from Hung King period 300 years BC, there are not many change. So, we can confirm: Under the Hung King period, our ancestor had clothes which are similar with popular Vietnamese clothes before the time Trinh - Nguyen conflict (about 18th century) and similar with ethnic clothes still exist in rural Vietnam. Thereby, we also realize that: clothing for the popular strata of society Hung King period brought specific cultural characteristics of ethnic Vietnamese, ethnic Vietnamese and its society must have a developed civilization to manipulate that sophisticated clothing structures. Hùng King period clothing part 3 Clothing of upper strata in Hùng King period Of course, in a civilized society of ancient times, when the popular costumes of popular classes were complete and diverse, clothes of the upstream is also consistent with its class, for the formal and the implementation of the national ritual culture. Now, we continue to compare the image below to demonstrate clothes of high class in the social strata Van Lang and find the original point of Lac Viet clothes The image above which you are considering is the copy from the comic "The romance of three kingdoms" made by the Chinese artists, Mui Ca Mau Publishing again in 1995, full set of 30 volumes. This is the picture number 3795 set 16. Image of a man in the highlights of the picture is Sun Quan (II and III century AD). Pictures of women between clusters is Madame Sun, Sun Quan's sister, Liu Bei's wife also copy from the comic above. Please compare all the clothes of the "The romance of Three Kingdoms" characters, shown the Sinic culture in the picture above, with the the people on the handle of the bronze knife in the Hung King period which is 500 years earlier (From data in the book "Age Hung King "Social Science Publishing House, Hanoi 1995). You will see a similar in clothes. The only difference is the large sleeves of the "The romance of three kingdoms" character's shirt and the tight sleeves of the effigy on the handle of the bronze knife, the remain clothes almost entirely the same. If the clothes of "the romance of Three Kingdoms" regal is not to imitate Hung King period clothes, so the clothes of the girl on the handle of the bronze knife of Hung King period definitely can not imitate the characters in "the romance of Three Kingdoms". Because, this knife's date is earlier than "the romance of Three Kingdoms" period at least 500 years. The problem does not just stop there. About clothes of the high society of social Van Lang, I would like to present a quote in Kinh Thư (書經 Shū Jīng). Kinh Thư is a work ever be deemed to be a product of civilization of China, but there are many proven hallmarks of civilization Van Lang. The first imprint of Lạc Việt people in the Kinh Thư proven in the book "Hung King period, the legend and myth" (Nguyen Vu Tuan Anh. Publishing Culture Information 2nd edition - 2002) is a "Hồng pham cửu trù", the first constitution of the Lac Việt. The following excerpt concerning ethnic clothes Hung King period quoted in the book "Thượng Thư (books for the king) - books recorded utmost antiquity" (translation Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng. Đồng Nai publishing house 1996, page 156): Three categories such as sun, moon, and stars were used to make flag (banner), the dragon to aim king's clothes, the tiger to aim highranking madarin's clothes, the distinction depend on three different types of clothes : cổn miện (crown for the king), tệ miện (hat for high ranking mandarin), tuyệt mịch (high ranking mandarin's belt). Name of three types of clothing are based on drawings on clothes to call, as "cổn" (crown) there is dragon crown, there are nine rank, "long cổn" (dragon crown) is in the lead. "Tệ" means pheasant. There are seven kind of "tệ triều" (clothes of high ranking mandarin when they attend the king's audience), the tiger is in the lead. Through the passage, readers find that "cổn miện" (means the king's crown) has nine rank. which "long cổn" is in the lead; "tệ miện" is the pheasant-shaped hats. About the image of the dragon-shaped crowns of king and pheasant-shaped hats of highranking madarin - oddly - it was proven on the bronze drum of civilization Van Lang. Readers are easily to find, the hat of the people on this picture of the bronze drum shows the head of dragon and the phoenix which have been stylized to show status of that people, it is coincided with the Kinh Thư.In the first few chapters of Kinh Thư, the word "viết" (means "to write") was read and write like the word "Việt" (means ethnic Viet). "Viết nhược kê cổ" also is "Việt nhược kê cổ" *.The most Chinese ancient annotators, such as Mã Dung and Khổng An, explain it is prelusive saying but they don't give the reason why writers used that saying. why the word "viết" and "việt" were used in a jumble... So that there are double-meaning opening sentence "Việt nhược kê cổ". Both Mã Dung and Khổng An believe that "nhược" means "thuận" (means "to consent"), "kê" means "khảo" (means "to enumerate"). So that the sentence above means "Vietnamese consent to the king to enumerate ancient things". If it is "viết nhược kê cổ", the sentence will be lack of subject. If it is replaced by "Việt", the subject of the sentence is Vietnamese, but it is grievous if cite the Vietnamese in kinh Thư, so they believe that "Việt" and "viết" is the same... *Note: _"Viết nhược kê cổ" means "to write to enumerate ancient things" _"Việt nhược kê cổ" means "Vietnamese consent to the king to enumerate ancient things" Through the excerpt of Mr.Kim Định, that writer does not think: "Việt nhược kê cổ" means "the Vietnamese consent to the king to enumerate ancient things" and more Vietnamese people can not have the credit of copying the Kinh Thư for the civilization of China. From analyses above, completely, we have facilities to put a doubious question mark about the true origin of the Kinh Thư: Affordable the famous books is derived from Van Lang civilization? And the question can be understood as: "brief ancient stories of Vietnamese" So, with the mark of Van Lang civilized evidence in Kinh Thư; absolutely can not believe that: Clothes of the time of Kings Yao, Shun coincided randomly with a image on the bronze drum. This phenomenon can only be explained logically that: Dress of the monarch referred to the Kinh Thư, is the Van Lang monarch's clothes. The issue coerce into accepting that King Yao, Shun manipulated clothes like coerce to accepting Van Lang academic civilization to the kings of ancient China, when the images of the monarch clothes shown on the bronze drum of the Lac Viet civilization. Kinh Thư is the book "brief ancient stories of Vietnamese", this has clearly stated right from the first sentence of the book "Việt nhược kê cổ" and its contents completely coincide with archaeological relics related to Vietnamese culture presented. If according the new concept which believe that: Hùng King period existed only a few hundred years (VII century BC) and areas of Van Lang integrity only in northern Vietnam, it will not be contacted and there is close demonstration of an association between the clothes on Lac Viet bronze drum to the monarch of King Yao (about 2000 years BC according to Hanja documents) shown in Kinh Thư, by a distance of tens of thousands of miles geographical and millennia of time. Back to the clothes issues , the comparison above shows: The presence of King Yao (2253 BC) in the prescribed clothing for the monarch, in association with the image on the Lac Viet bronze drum (an archaeological relics), has proved keenly that: Van Lang civilization was manipulated not only the common clothes for people in society, but also in the high strata, there were clothes shown the solemnity in nation ceremonies and the distinctions in hierarchy. This additional demonstrates for the matters presented above and there is continued connection: * Image on the bronze drum that Professor Nguyễn Khắc Thuần said: "picture of dancing people" in fact they are pictures shows the leader of Van Lang State implementing the national ceremonies. This is evidenced by the dragon image and the phoenix bird image on hats they are wearing. *Since that we take the the question: stylized Rectangle on their hand are document which were read during the ceremony. It was demonstrates by the corrugations on the top of the rectangle. This hypothesis additional evidence for the existence of a writing system of the Lac Viet people. * The existence of images of leader of Van Lang state on the bronze drum are: King = wearing dragon-shaped hat; high ranking-mandarins = wearing phoenix bird-shaped hats, it has confirmed the existence of a close organization state in ancient times, similar to the powerful ancient countries at the same time. The clothing has existed for millennia BC in Van Lang civilization, has become a cradle for the cultures embodied in the tradition of Vietnam today. These arguments and images illustrate the clothes on Hung King period is complementary with a archaeological finding: 19.2.1.1 First, it is silk. Along with planting rice, sericulture has existed very early. In the archaeological site of the late stone about 5000 years ago (like sites Bầu Tró), has found trace of the fabric, there is terra-cotta plumb (to twine treads) . To the Dong Son period (about the 3000-2500 years ago), the people on the bronze drums evenly wear shirts, skirts, and loin-cloths. Transplanted rice and mulberry cultivation, agricultural and sericulture - it is the main task and always associated together of agriculture in Vietnam. From the ancient Han people always see they are two most typical features of Southern culture: those are the first two main features that Từ Tùng Thạch mentioned in the book Việt Giang 178 basin people (Việt Giang 178 lưu vực nhân dân) (Kim Dinh 1971a: 108 ); the word "Man", which Han people refers to allude the South people (Vietnamese) contains insectan meaning which allude silk-worm. (to Find cultures of Vietnamese character - this book has quoted above) Hùng King period clothing part 4 The intangible cultural heritage, ancient texts and archaeological related Through the presentation above we going to a comment: images of human half naked and wearing loin clothes - if it is mentioned in the relics from Hung Kinh period - then it just shows pictures of the festival, or describe working scenes .... The picture shows the folk festival titled "wrestling" in the line of Dong Ho paintings, it described participants in the the festival are half naked and wearing loin clothes, but readers will surely don't think that common clothes in social activities at the time of this painting are all loin clothes and half naked. Similar to martial artist of the modern Japanese Sumo, but sure clothes of modern Japanese is not a Sumo martial artist's clothes when they are on station, means "half naked and wearing loin clothes". One period went to legendary history, suffer the ravages of thousands years history, of conquered army by the Northern dynasties. The archaeological relics found belong to this era, not enough to prove keenly for the common clothes of human in Van Lang civilization . The cultural value of clothing found in the archaeological relics only are the bronze knife staffs (handle), represents a form of clothes in Hung King period. How can find the clothes in the ancient tomb dating back several millennia ago? Therefore, very surprised and really hurt with a dogmatic conclusion about ethnic clothes with the perception that: "There is no archaeological relics found that proved the traditional history of 5000 years Vietnamese ethnic." I do not entirely negative value of the relics archaeological found. However, it should be stated that: "archaeological relics are not the only evidence to prove a historical comment . The thoughtful of ancestors to descendants have had the opportunity to find the original point of cultures of Vietnam. It is the cultural heritage handed down in folklore as the fragile rays - but very sharp - left in the old directory is still handed down millennia, have demonstrated for the cultures of the ethnic Vietnamese experienced in 5000. The match images between ancient objects of Hung King and the cultural heritage left, the development proved more logical connection with the phenomena involved, a condition essential evidence show ability to reflect reality and is the basis of scientific theories about clothes Hung Vuong time in this article. In the book Analects, Charter Hiến Vấn , when commented on the important role of Guan Zhong to the Qi and its influence to the society of China, the Confucius has said: "If there was not Guan Zhong, we must gather our hair into a bun and set the flap to the left like Man Di people" *Guan Zhong: Prime minister of the Qi. *Man Di: the name which Chinese used to call Vietnamese in the ancient time. Readers can find a saying of Confucius has led in most of the books translated into Vietnamese language related to Analects, such as: "Analects - scripture of China. Publishing Dong Nai 1996, Ho Si Hiep compiled, Tran Kiet Hung Correction, page 208; or right in the book "History of Chinese civilization. author Witt Durant, translated by Nguyen Hien Le. Publishing Culture and Information - 1997. Page 32 ...)... Maybe the opinion of negating cultural values of traditional ethnic Vietnamese were admitted by "most scientists in the country" and the so-called "scientific community in the world", but there is not anyone see the book Analects? Guan Zhong - Prime Minister of National Qi in Spring and Autumn Period - lived in early 7th century BC, year of birth unknown, died 654 BC, who put the Qi became a powerful country, the word hegemony almost Zhou Dynasty. This is equivalent to the time period that the researchers have based on the Việt sử lược, said: "This is the first stage of the Hùng King period." Việt sử lược writed: At the time of Trang King of Zhou Dynasty (698-682 BC), in the Gia Ninh area, there is a stranger used magic to conquer tribes, claiming to be Hung King" Therefore, through the cited above we also found the closely equivalent of the date of Guan Zhong's time (d. 654 BC and the time of (Trang Vương)Zhou Zhou Dynasty: 698-682 BC) and established time of the national of Hung King under the new look - which they said: "Hung King period appear only around VII century BC. It is ridiculous when the Confucius admitted a developed civilization at the area right next to residence of Chinese peoples, able to influence and dominate the development of this civilization. Researchers already have said: "The Man Di people is in the North of China" (?). In fact, in the ancient bibliographic Hanja, there was not any time they use the "Man Di" to refer to the Northern Chinese people. Contrast, in the ancient bibliographic Hanja, "Man Di" are words used to refer to many Vietnamese people. The word "Man people" in a saying of Confucius is not a common noun to refer to the ethnic peoples have developed different levels, live in Southern Yangtze River. Here, Confucius has refers to Lac Viet civilization. To prove this, please see the picture of the cultural heritage of folk Vietnam: The picture that writer show here is copied from Heritage magazine, published at september and October of the 1996 Aviation Administration of Vietnam. Absolutely no use computer techniques to flip horizontal picture. Readers can verify this by right hands of some characters stand in the picture. Sure you will recognize immediately: this is the main character in the water puppet, an unique folk art of the Vietnamese. Readers also see flaps of these characters is in the left and little buns of these water puppet characters. Until the early 20th century, most of the ethnic Vietnamese men still gather their hair into a bun. This thing certainly does not need to prove. At this point, the question is: What is the base that the traditional water puppet craftsmen used to carve the characters which have shirt flap in the left? The phenomenon "puppets have shirt flap in the left" is a random, or derived from the fact which existed from cultural original point produced it? When thousands of years have passed, we look familiar with the right flap, what does "the flap to the left of the water puppets" contact with the question of the book Analects of Confucius: "If there was not Guan Zhong, we must gather our hair into a bun and set the flap to the left like Man Di people" Have water puppet characters handed down from generation to generation among the common people reflected the clothes of actual activities of the Hùng King period? Regretfully! Water puppets which have flaps in the left today is very rare. They've modernized it by giving it a flap on the right. But fortunately! This is not the only evidence for ethnic clothes of Hùng King period. Please continue to see the image below: Dao ethnic dress in Phu Tho Taken from the article "open the door to find each other" Ngoc Vinh & Luong Ngoc An (Tuoi Tre newspaper Saturday August 6, 2002) Of course the author of this article has no good intention to introduce ethnic Dao clothes and help to demonstrated opinion of the writer. Dao ethnic is an ethnic with a long-standing culture in the ethnic communities in Vietnam. Therefore; ethnic clothes are also still retain the traditional culture of the old Van Lang: On the clothes of the couple in the picture above, readers also found the men has a flap put in to the left, the woman has a flap put to the right. Image above is taken directly by writer on VTV3-television programs. The content described a wedding of ethnic Mong. We once again find the mark on clothes from the ancient ancestors for thousands year ago with men wear clothes with flap in the "left" and women in the "right": And yet, there is a great sign, it is famous carvings on a cave in Hunan province, in the South of Yangtze river, dating back over 2,000 years, but people living in this region still retransmit: It is the King Fu Xi and Nuwa. We find that the shirt flap of King Fu Xi is in the left and the shirt flap of Nuwa is in the right. Dao and Mong ethnic groups living in remote mountain areas, so they have little influenced by Han culture. Therefore, the phenomenon of the male shirt flap settings on the left in the clothes of the nation left till nowadays, along with materials presented above: Those are evidences in the serial culture proceeded from thousands years ago and until now in the cultures of Vietnam, an imposing legendary in the South Yangtze river. The evidence presented at that comment completely fit the criteria of science: "A scientific hypothesis is only consider as true; if it is a reasonable explaination for most matters relating to it; is objectivity; systematic, regularity and capable of prophets." The problem is pleased represented with readers, to prove an advanced culture existed in the South of Yangtze River that Confucius has mentioned. Through the contact in the previous section, demonstrates the "Hùng King period clothing" continued through the images below. Image below is a composite image, copied in the "Hùng King period" book (books has led) the bronze knife handle described clothes of Hung King period and the puppet characters in the role of "Fairy Dance". Through the image above, sure you will find a complete coincidence in form of the hat on top of the puppets and the hat on the bronze handle. Besides the coincidence of the hat, there are some other traits on the clothes of the two objects also coincided almost completely. From that, it can lead to the sensible connection for a common particular structure for overall clothes of Hung King period through water puppets. Or in other words: we completely have actually scientific base when using the selected model of the traditional water puppets to restored clothes for Hung King period. The problem also does not stop here, as we continue to compare the hat on the knife handle - was confirmed dating from Hung King period - with hats on the water puppets "Fairy Dance" and hats on two statues Tien Dung and Ngoc Hoa princess, now they are worshiped in the Hùng temple: statues of princesses in Hùng King period Documentary image taken at the Hung Temple, Phu Tho. Currently, there are many water puppet plays written nowadays, or in the previous century. But the play "Fairy dance" is a traditional play, exist long time ago in art of puppet of Vietnam, all the puppet company have that play. Therefore, the role of the puppet "Fairy Dance" certainly has appeared from time immemorial. Over a distance of more than 1,000years the Chinese domination, water puppets art had recorded in the stone stele Sùng Thi Diên Linh - Lý period - Đôi Sơn pagoda (Duy Tiên, Nam Hà province), at the beginning of the Vietnamese national renaissance, thousands of years ago. But that does not mean that the puppet appears only in this period. Temple of 18 Hung Kings period determined built (or renovated in XIV century). The bronze knife handle is about 2500 years ago and only discovered a few decades ago.First we need to confirm that: puppetry "Fairy Dance", the princess statues at Hùng Kings Temple and the bronze knife handle are products of intellectual creativity. Puppetry "Fairy Dance" and the princess statues at Hùng Kings Temple had existed before finding the bronze knife handle with distance more than 2000 years for the creation of this two objects. Therefore, it can not be considered as a copy from the handle of the knife or a random match. Form of existence of similar cultural heritage with distance more than the millennium, therefore they must have the same original point of the culture which had created them, but not determine the beginning of the form of its existence yet. But certainly not after Hung King. The match was almost entirely in the form of clothes of the cultural heritage with archaeological relics - was found before the existence of cultural heritage - affirm original point of culture and its starting point of form is the Hung King era. Hùng Kings period clothing part V All comparisons above and demonstration proved that: clothes for the Vietnamese nation in Hùng Kings period was reflected on the water puppet characters. And a saying of Confucius: "If there was not Guan Zhong, we must gather our hair into a bun and set the flap to the left like Man Di people" is a next logical contact, to show these clothes are from the VII th century BC in Lạc Việt civilization. These match contact, related phenomena were completed by a section quoted in the ancient history book: Tô Đông Pha (苏轼) has wrote: ... Nam Việt nation, from the Tam Đại period to the less, there were not any reign could quell revolts. At the Qin (246-207 BC), although we had set mandarins to rule, then they were back to barbarous status . Bị Ly defeated that country and divided into nine districts. But in the Eastern Han period, there was a girl named Trưng Trắc, raised an army for a war, had shook 60 towns. Contemporary time, ancestor King has pacify the under heaven, he saw that people were already tired and bored of using soldiers, he closed Jewel Gate from Western Regions. Nam Việt is the deserted place, not worth to upset the military of the king, if there was not Tuân Tức Hầu (Ma Yuan) took the time to suppress, the nine districts people still set flap to the left until now .* Through the above excerpt, once again we see the rationality between the phenomena and problems related to the flap set on the left of nine districts of Nam Viet . This demonstrates the uniformity of culture in the land south Yangtze River, it is completely different to Huaxia culture. This is the land: North faces Dongting Lake; South bordering Hồ Tôn (?); western borders Ba Thục (?); Eastern bordering the East Sea of old Van Lang. The existence of cultural setting clothes on the left of Nam Việt, contact to book Analects of Confucius has demonstrated that: Before the 7th century BC and farther - from the Tam Đại period (?) - Lạc Việt culture is a preeminent culture in the area. Influence of this culture is significant, because "If there was not Guan Zhong, we must gather our hair into a bun and set the flap to the left like Man Di people". Confucius do not only admitted from ancient China. Tô Đông Pha (苏轼) in medieval also continue confirm this. And the modern day, the Chinese researchers also acknowledge it . Readers please read the excerpt below: Mysterious ancient tombs discovered in China Archaeologists have unearthed one of these tombs over 2,500 years old, may belong to a king of mysterious reign Ba (Ba Kingdom) . In addition to the 500 bronze objects, in the tombs also have the skeleton of the two woman and a man, faces up towards the sky and the East. Research team suggest that this may be the entourage or vassal is buried with kings. If confirmed, this will be the archaeological findings related to the most important Ba dynasties . The tomb is in Luo Jiaba , Sichuan Province, it has characteristics typical of a tomb of the highest class among the tombs of the dynasty was found. 31 other tombs have been excavated in the area. Most of the bronze objects are weapons (such as lance, sword, dagger and axes), or objects used in worshiping corresponding to the supreme position of the tomb owner.Ba reign covers three areas of Sichuan, Hunan and elsewhere in southern China before disappearing in mysterious circumstances around 2,000 years ago. The people of this era is described as the aggressive and brave warriors . However, their origin, social structure and culture remains a mystery. Minh Thi (according to Xinhua) Thus, with all these problems proved which related to Hùng Kings period social status showed a reasonable correlation, confirmed the truthfulness and definiteness of Vietnam's ancient cultures of a nearly 5000 years of ethnic Vietnamese (from 2879 BC to 2001), an original point of the Văn Lang nation. West borders Ba Thục (?); northern borders Dongting Lake; South bordering Hồ Tôn (?); East bordering the East Sea. the time which is considered as "a mysteriously vanishing around 2000 years ago", is the time of the collapse of civilization Văn Lang. Phenomenon "setting flap on the left" is suitable to the popularity application and principles, relate to people of Eastern ancient academic theory which is Yin Yang Wu Xing doctrine. That is the principle of "male left, female right". Yin Yang Wu Xing theory concept that: Movements of Yin Yang are always metabolized to each other. Yin is in the Yang and vice versa. Males is installed in the Yang so males set shirt flap to the left of Yin, females is installed in the Yin so females set flap to the right of Yang. Phenomenon "setting flaps to the left" is an evidence proves the theory Yin Yang Wu Xing belongs to the Vietnamese and applied in detail of daily activities and social life. This phenomenon is an additional opinion about the origin of the ancient Eastern academic originating from cultures of Lac Viet. This is the evidence to confirm that: Lạc Việt civilization at the time 7th century BC has developed brilliantly in many aspects. Contact the clothes of the water puppets and the origin of Lạc Việt folk art with archaeological relics and bibliography, also led to the continuation of contact to many social and cultural issues at the time of Hung Kings, such as music, theater, art, etc.... are related organically to a water puppets stage. From arguments and cited the above, all have a basis to assert that: Hung Kings period clothing have completed and set the form in all strata of society, the hight classes have had the solemn clothes in countries ceremonies . Vietnamese completely have scientific basis to prove the original point of nearly 5000 years culture in all aspects. ----------------- * Note: An Nam chí lược; Lê Tắc; First Volume ; "Ancient Area" item. Hue University in 1961. Father Professor Cao Văn Luận.
-
Mấy ngày đâu người đó tặng cho Rin 2 chuổi hạt crystal để đêo, hôm nay người ấy đã lấy lại và dứt đứt, một mối quan hệ đã chấm dứt
-
Chương 1 Một Triển Vọng Đáng Mừng Một nhà Hiền Triết đã tóm tắt tất cả lịch sử của nhân loại với những lời nầy: "Con người sinh ra, chịu đau khổ và chết." Nói về sự đau khổ của thế gian, người ta đã từng nghe nói về một chuyện cổ xưa và đầy ý nghĩa. Đó là truyện tích thái tử Sĩ Đạt Ta, mà về sau người ta được biết dưới danh hiệu đức Phật, tức là bậc Toàn Giác. Phụ Vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua rất giàu sang và có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ. Người quyết định truyền ngôi cho Thái Tử, và muốn giữ Thái Tử ở trong cung, không muốn cho Thái Tử nhìn thấy cảnh lầm than, đau khổ của người đời. Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm, và đến lúc trưởng thành, vua cha mới cưới cho Thái Tử một vị Công Chúa nhan sắc đẹp tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, Thái Tử không hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc chung quanh Hoàng cung một lần nào. Đến lúc Thái Tử sinh hạ được một hoàng nam, người mới thấy nhàm chán cảnh cung điện và tọc mạch muốn biết có những gì ở cõi thế gian bên ngoài. Người mới tìm cách đánh lừa những tên lính gác cửa thành, và lần đầu tiên người mới nhìn thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đão và cảnh đời thực tế bên ngoài. Trong chuyến ngao du đó, người nhìn thấy ba cảnh tượng làm cho người chú ý: đó là cảnh tượng một người gia, một người bịnh và một xác chết. Thái tử vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo Ngài, tại sao lại có những cảnh đau khổ như thế? Khi được biết rằng đó là những điều thường vẫn xảy ra hằng ngày và đó là cái số phận chung cho cả mọi người, không ai tránh khỏi, Thái Tử lấy làm buồn bực vô cùng đên nỗi Ngài không còn muốn sống cuộc đời sung sướng xa hoa như trước nữa. Ngài trở về cung, bèn từ giã tất cả mọi gia tài sản nghiệp, gia đình vợ con, và quyết định xuất gai tầm Đạo để cứu vớt nhân loại và chúng sinh khỏi sự lầm than đau khổ. Sau nhiều năm khổ công tu luyện và tham thiền quán tưởng, Ngài bèn thoát nhiên đại ngộ, trở nên một bậc Toàn Thông, đắc Vô thượng Đạo, chánh đẳng chánh giác, tức là đắc Đạo thành Phật vậy. Khi đó Ngài mới đem truyền dạy Đạo mầu thoát khổ cho thế gian. Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không mấy ai có thể làm giống như Phật Thích Ca, nhất thời dứt bỏ tất cả giàu sang, quyền thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích mơ màng viễn vông như là việc đi tìm Chân Lý, và tìm hiểu bí quyết của cuộc Đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đau khổ ít nhất một vài lần trong đời mình và đã có lúc phải tự hỏi: Tại sao con người bị đau khổ? Và họ có thể làm gì để thoát khổ? Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa một thời kỳ trong tương lai mà trong bốn điều khổ của đức Phật nêu ra, thì hai điều sẽ không còn nữa, đó là: Bệnh và lão. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có bao nhiêu những phát minh mới mẻ tân kỳ, người ta vẫn chưa có triển vọng tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn coi như là một kẻ thù lớn nhất, đó là Sự Chết! Trong khi chờ đợi, và trong khi mà một sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, an ninh, và hạnh phúc, thì chúng ta còn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh, nguy cơ và đau khổ nó hăm dọa nền hạnh phúc và sự bằng an trong tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, ngập lụt, bệnh tật truyền nhiễm, động đất, chiến tranh, ... đó chỉ là mới kể một vài sự hăm dọa từ bên ngoài. Còn nói về đời sống bên trong, tức là về phần nội tâm thì con người có bao nhiêu những sự yếu đuối, bất toàn, như sự ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê ... Nó là bao nhiêu những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho mọi người và cho những kẻ đồng loại ở chung quanh. Trong những giờ tươi sáng, khi chúng ta cảm thấy trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt dụ dương, hay khi nhìn thấy cảnh tượng tưng bừng rực rỡ của lúc bình minh, chúng ta cảm thấy rằng trong vũ trụ hẳn có sự hòa vui và có ẩn dấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, chúng ta không khỏi nêu ra những câu hỏi tối hậu: Yù nghĩa và mục đích của cuộc đời là gì? Tôi là ai? Tại sao tôi lại sinh ra ở đây? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi phải chịu đau khổ? Có những mối liên quan gì giữa tôi với người khác ở chung quanh? Và giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên nó bao phủ cuộc đời chúng ta, có một mối liên hệ như thế nào? Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ thuở bao giờ trong những thời đại quá khứ xa xăm. Ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sư đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh thần, cũng đều là vô nghĩa và không có ích lợi gì. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại vẫn chưa được giải quyết, thì người ta vẫn chưa giải quyết được gì cả. Ngày nào mà trên thế giới còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích nổi lý do, thì người ta cũng vẫn chưa giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý của chúng ta về cuộc đời vẫn hãy còn là thiếu sót và bất toàn. Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi đó. Càng ngẫm nghĩ, họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả đau khổ của con người không phải là vô ích và vô nghĩa lý như người ta tưởng, mà nó có một ý nghĩa nhờ bởi một sự liên quan lớn lao nối liền con người và vũ trụ. Hoặc họ đã cảm thấy có sự hiện diện vô hìn của những đấng Thần Minh trong khu rừng vắng hoặc trên đồi cao và biết rằng mỗi sinh vật, từ con người đến loài cầm thú, đều có một linh hồn: Rằng linh hồn đó chỉ là tạm thời sống và chịu đau khổ một lúc ở cõi hạ giới, và sau khi chết sẽ tìm thấy một đời sống an nhàn và hạnh phúc hơn. Hoặc họ nghĩ rằng ngoài ra cõi trần gian đau khổ nầy, mà loài người sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, còn có một cõi giới xa xăm nào đó, là nơi thưởng phạt những hành động của họ ở thế gian. Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra kể đến hằng nghìn, có những điều hãy còn giản dị thô sơ, có những điều tế nhị hơn, cũng có những điều hợp lý. Và vì bởi một vài điều giải thích đó có vẻ hợp lý mà trên thế gian con người vẫn tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn của họ một cách can đảm. Có người tin tưởng ở đức Mahomet, có người tin tưởng ở đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay đức Krishna. Có hằng muôn người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là sự sống còn. Những người khác không cần tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng khoái lạc trong hiện tại. Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời là nhứ thế này: Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử thách đưa đến cho chúng ta, Thiên Đàng hay Địa Ngục là những điều tưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian. Những người đã từng chấp nhận sự giải thích đó không hề tự hào rằng họ có đủ bằng chứng; đó là sự giải thích mà họ được hấp thụ của cha mẹ và của giáo sĩ, chính những vị này cũng đã hấp thụ của những bậc phụ huynh và các giáo sĩ của họ, và cứ như thế đi ngược thời gian cho đến khi người ta tìm thấy uy quyền của một quyển sách gọi là bộ Thánh Kinh (Bible), và của một người tên Jesus. Hầu hết mọi người đều đồng ý: Bộ sách này thật là hay tuyệt diệu, và đức Jesus, dầu rằng là một người hay là Con của Chúa Trời, vốn là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời Phục Hưng (Renaissance) cho đến nay, người Tây phương càng ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín điều căn cứ trên uy quyền của một người: Bất cứ tín điều nào mà không thể chứng minh được qua cái lò thí nghiệm khoa học đều phải gặp một sự hoài nghi mỗi lúc càng tăng thêm. Nhà thiên văn học Ptolémée nói rằng mặt Trời xoay chung quanh Trái Đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh rằng trái lại, chính Trái Đất xoay chung quanh mặt Trời. Triết gai Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng một lượt hai vật có trọng lượng khác nhau từ chỗ cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước tiên, và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise, Galiée đã chứng minh rằng hai vật cùng đồng một dung tích như nhau, nhưng trọng lượng khác nhau, lại rơi xuống đất cùng một lúc. Trong bộ Thánh Kinh có nhiều đoạn cho rằng Trái Đất vốn bằng phẳng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng những nhà thám hiểm khác nữa của thế kỷ mười lăm đã làm đảo lộn giả thuyêt trên đây bằng những chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ phương Tây để đi về phương Đông. Những sự chứng minh trên đây cùng với việc chứng minh khác nữa đã lần lần chỉ cho người thời xưa không phải là hoàn toàn đúng. Do đó nảy sinh ra quan niệm khoa học và óc hoài nghi của người thời nay. Trong sự tranh đấu để sống còn, con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do nào khác hơn là nó không có mục đích gì cả. Sự chết chỉ là một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất, ngoài ra không còn gì nữa. Như vậy, người ta đã thay thế uy quyền của bộ Thánh Kinh hay của đức Giáo Chủ bằng uy quyền của năm giác quan! Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của ngũ quan chúng ta. Sự nhận xét bằng ngũ quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác, là nền tảng của mọi lý luận khoa học. Tuy nhiên, trải qua vài chục năm nay, người ta đã trở nên phức tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta đã phát minh ra, đã chỉ cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật là thiếu sos1st, bất toàn là dường nào và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật sự. Những luồng sóng Hertziennes, chất phóng quang, nguyên tử lực, đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và những vi tử nhỏ bé nhất của cõi vật chất đều là những kho chứa đựng tinh lực, hàm xúc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người không thể tưởng tượng. Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt ... Mà chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của cái tòa nhà bé nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhậy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp cho chúng ta tiếp nhận có một bát độ nhỏ hẹp trong cái biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn của loài người; bởi đó vũ trụ của chúng nó bao hàm chứa đựng nhiều sự vật mà chúng ta không nhận thấy và không thể nhận xét thấy rõ. Người biết suy nghĩ không khỏi lấy làm ngạc nhiên về hiện tượng này là con người vốn thường vẫn tự hào về trí óc thông minh của mình, lại thua kém loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về tầm hoạt động của giác quan để nhận xét vũ trụ bên ngoài, và về điểm này họ cũng thua kém cả những đồ dụng cụ khoa học mà trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh. Họ bắt đầu tự hỏi rằng làm sao họ có thể tự mình nhìn thấy và quan sát những sự vật trong cõi vô hình mênh mông rộng lớn. Thí dụ, chúng ta hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận xét của giác quan đến mức làm cho chúng ta trở nên nhậy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức thường độ một ít mà thôi. Phải chăng chúng ta sẽ nhận xét được nhiều sự vật mà trước kia chúng ta không hề nghe, thấy? Hoặc thí dụ như một vài người trong chúng ta bẩm sinh ra đã có những giác quan phi thường, với một tầm thu nhận rộng lớn hơn: Phải chăng là một điều tự nhiên nếu những người này có thể nghe và thấy những sự vật mà chúng ta không thấy và không nghe? Và phải chăng họ có thể nghe xa chẳng khác nào như một cái máy thu thanh, và thấy xa dường như một cái máy vô tuyến truyền hình? Đứng trước cái thế giới vô hình huyền bí, vô tận bao la mà những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ 20 đã tiết lộ cho chúng ta biết, thì người ta phải nhìn nhận sự thật của những điều kể trên. Và nếu chúng ta nhìn lui về lịch sử loài người, thì chúng ta thấy có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận xét phi thường của một số người. Một trong những người đó là ông Swedenborg, nhà bác học và toán học trứ danh của thế kỷ 18, đã có một năng khiếu thần thông phi thường. Người ta được biết rõ một chuyện về năng khiếu thần thông của ông, chuyện này đã được nhiều nhà tai mắt chứng kiến trong số đó có nhà triết học Emmanuel Kant. Một buổi chiều vào khoảng 6 giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giựt mình và nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ 500 cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến 8 giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác. Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những lời tường thuật về cuộc hỏa hoạn, mà sự bộc phát nhằm đúng ngay vào lúc ông Swedenborg giựt mình và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này. Đây không phải là trường hợp duy nhất: Tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng đã ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có vài người như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens, ... Trong vài trường hợp, chính những người bà con thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ từng chi tiết. Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Trong phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó hình như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần. Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn xem những hiện tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở, saün sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các trào lưu khoa học và sự nhu cầu của thế hệ thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng vào bậc nhất. Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi, cho rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên, đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, và đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine, giáo sư trường Đại Học Duke. Từ năm 1930, bác sĩ Rhine và những người cộng sự với ông đã nghiên cứu ráo riết về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu Thần Nhãn trong con người. Do những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và một phương pháp đặc biệt, bác sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng, nói tóm tắt là biểu lộ những năng khiếu thần thông. Người ta có thể nhìn thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của bác sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề "Tầm Hoạt Động Của Trí Não" do chính ông xuất bản năm 1947. Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận giống như của bác sĩ J. B. Rhine. Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tán mọi điều nghi ngờ về sự thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiều Thần Nhãn trên địa hạt tâm linh con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh rằng hiện tượng Thần Nhãn là một điều có thật. Người ta vẫn chưa tìm cách áp dụng năng khiếu đó trên địa hạt thực tế. Nếu con người có được cái năng khiếu thần thông đó, nó giúp cho y nhìn thấy được những gì xảy ra trong không gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt phàm, chẳng khác nào y như là một cái máy vô tuyến thu ảnh (Television) thì chừng đó y đã có được một khí cụ mới và quan trọng để thu hoạch những điều hiểu biết về con người và về vũ trụ. Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo của y đã giúp y chinh phục không gian và làm chủ được cõi giới vật chất. Nhưng mặc dầu y đã có được sự khôn ngoan khéo léo đó, y vẫn là một vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu những sự chinh phục trên địa hạt vật chất, y vẫn còn bất lực và bỡ ngỡ, lạc loài. Mặc dầu y đã thu hoạch được những kết quả thành tựu mỹ mãn trên các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, y vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà con người phải chịu từ khi sinh ra cho đến khi y từ giã cõi đời. Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật của hột nguyên tử. Có lẽ nhờ những sự khám phá gần đây về những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, y sẽ có thể tiến sâu vào lĩnh vực tâm linh huyền bí của chính mình. Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí hiểm quan trọng của đời người, những lý do vì sao y sinh ra ở cõi thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ. Chương 2 Ông Edgar Cayce Dùng Thần Nhãn Để Khám Bệnh Thật là một điều lý thú mà biết rằng năng khiếu Thần Nhãn có thể giúp cho ta làm được những điều phi thường. Nhưng càng lý thú hơn nữa khi ta được biết rằng trong thời đại này có một người đã dùng năng khiếu Thần Nhãn một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm cũng như trên phương diện thực tế. Người ấy là ông Edgar Cayce. Người ta gọi ông Cayce trong những năm cuối cùng của đời ông, là "Con người phi thường ở Virginia Beach". Đó là một danh hiệu phỉnh lừa, vì tùy rằng có hằng trăm người đã được ông chữa khỏi bịnh trong những điều kiện thật là lạ lùng, nhưng ông không phải là một người làm "Phép lạ" hiểu theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Không hề có chuyện đặt bàn tay truyền điện, hay làm cho bịnh nhân quăng nạng gỗ sau khi đã sờ nhẹ vào manh áo của y. Những sự "Nhiệm màu" của ông Cayce chỉ là sự khám đúng căn bịnh, mà thường là trong khi bịnh nhân ở cách xa ông đến hằng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu Thần Nhãn của ông chỉ hoàn toàn khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự chú ý của những nhà chữa bịnh theo khoa Tâm lý, thường dùng giấc ngủ thôi miên để chữa bịnh hoặc làm phương tiện sưu tầm về cõi tiềm thức của con người. Một trong những ví dụ đáng kể nhất về cách xử dụng Thần Nhãn của ông Cayce là trong trường hợp sau đây: Một người con gái ở Selma, thuộc tiểu bangAlabama Hoa Kỳ, thình lình bị mất trí và được đem vào một nhà thương điên. Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông Cayce bèn nằm trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nhìn vào thể xác của người thiếu nữ và khám bịnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu nói, cũng như bất cứ mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lịnh truyền của người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người thường, là ông Cayce bắt đầu diễn tả tình trạng thể chất của người bịnh, dường như cặp mắt ông có quang xuyến X. Ông cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn lên một đường gân thông lên bộ óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường gân kia được giải tỏa, khỏi động lên tới óc, và đem bịnh nhân trở lại trạng thái bình thường. Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con gái thì thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho một vị nha sĩ nhổ răng thì người con gái liền hết bịnh điên. Một thí dụ khác rất lạ lùng, là một người thiếu phụ ở tỉnh Kentucky bên Hoa Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong giựt rất nặng đến nỗi ba bác sĩ săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó sẽ không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn nhờ ông Cayce khám bịnh cho nó. Trong giấc thôi miên, ông Cayce bảo đem cho nó uống một liều thuốc belladone và kèm theo sau đó, cho uống một liều thuốc trừ độc. Những vị bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bịnh này, vì belladone là một thứ thuốc độc, nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất định tự mình đưa thuốc ấy cho con mình uống. Ngay tức khắc, chứng kinh phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được cứu sống và đã khỏi bịnh. Những thí dụ trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ khác, không phải là những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng "đức tin". Những trường hợp mà người bịnh được chữa khỏi cấp thời như những trường hợp kể trên chỉ là một số ít. Trong tất cả những trường hợp khác thì người bịnh được điều trị một cách cụ thể, có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có: Thuốc men, giải phẫu, kiêng cữ món ăn, dùng sinh tố, chữa bằng điện, thoa bóp hay tự kỷ ám thị ... Những trường hợp chữa bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce đều được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến ba chục ngàn hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và saün sàng được dùng làm tài liệu cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm.Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản các cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn, có kê khai ngày tháng rõ ràng; những thơ thỉnh cầu của bịnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bịnh; những bức thơ bày tỏ sự biết ơn của những bịnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng minh của các bác sĩ; và những bản tốc ký chép lại những lời của ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện và tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về hiện tượng Thần Nhãn (Clairvoyance). Ông Cayce sinh năm 1877 tại Hopskinville, tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo và thất học. Ông theo học trường làng đến bực tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời, ông đã tỏ ý muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục theo đuổi việc học vấn. Đời sống ở nông trại không thích hợp với ông; ông bèn ra ở tỉnh thành, trước hết ông làm nhân viên phụ trách cửa hàng bán sách, sau đó ông làm nhân viên một hãng bảo hiểm. Năm ông 21 tuổi, một việc xảy ra bất ngờ làm thay đổi trọn cuộc đời ông: Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều vô hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bịnh. Không thể tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha mẹ ông. Ông ở đó gần một năm, không hoạt động gì cả và chứng bịnh của ông dường như không thể chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học nghề chụp ảnh, vì nghề này không bắt buộc phải dùng đến giọng nói. Trong khi ông đang tập sự nghề chụp ảnh, một nhà thôi miên đạo diễn tên là Hart, đi ngang qua Hopskinville và biểu diễn tài nghệ tại nhà hí viện thành phố.Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông Cayce bị chứng bịnh tắt tiếng, mới đề nghị chữa bịnh cho ông bằng khoa thôi miên. Ông Cayce liền vui vẻ nhận lời. Trong giấc thôi miên, ông Cayce tuân theo mệnh lệnh của ông Hart và nói chuyện như thường, nhưng trái lại, khi ông thức tỉnh thì ông lại bị tắt tiếng như trước.Trong những giấc thôi miên kế đó, nhà thôi miên bèn dẫn dụ cho ông nghe rằng: Sau khi thức tỉnh, ông sẽ có thể nói chuyện được như bình thường. Phương pháp này gọi là "Aùm thị thôi miên, " tuy rằng rất hiệu nghiệm và đã từng giúp đỡ được nhiều người thắng được một vài thói quen như tật hút thuốc quá độ chẳng hạn, lại không có kết quả đối với chứng bịnh của ông Cayce. Ông Hart, vì phải di chuyển qua tỉnh khác theo chương trình đã sắp đặt, không thể tiếp tục những cuộc thí nghiệm của ông nữa, nhưng có một người tên là Layne ở cùng một địa phương, đã theo dõi cuộc chữa bịnh cho ông Cayce một cách thích thú. Ông Layne mới đề nghị với ông Cayce để cho ông ta thử điều trị cuống họng của ông. Ông Cayce vì muốn được khỏi bịnh bằng bất cứ phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận. Ông Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ cho ông Cayce trong giấc thôi miên, hãy tự diễn tả căn bịnh của mình.Thất lạ thay, ông Cayce tuân theo lời dẫn dụ đó và làm đúng y theo lời. Bằng một giọng nói bình thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh âm (cordes vocales) trong cuống họng ông. Ông nói: "A! Chúng ta có thể nhìn thấy cái thể xác này! Vào lúc bình thường, nó không thể nói được vì những thớ thịt phần dưới cuống họng bị liệt bại hết một phần, so một sự căng thẳng thần kinh gây nên. Chứng bịnh này nguyên nhân là do một trạng thái tâm lý gây ra và ảnh hưởng đến phần thể chất. Muốn chữa hết bịnh, phải dùng các dẫn dụ để làm vận chuyển sự lưu thông máu huyết ở bộ phận bị đau, trong khi người bịnh còn nằm trong trạng thái vô ý thức của giấc thôi miên." Ông Layne liền dẫn dụ cho ông Cayce nghe rằng sự lưu thông máu huyết của ông sẽ tăng gia một cách dồi dào ở chỗ cuống họng bị đau và bịnh trạng của ông sẽ thuyên giảm. Lần lần, phần trên của bộ ngực và cuống họng của ông Cayce thay đổi màu sắc, và chuyển từ hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó 20 phút, vẫn trong giấc ngủ thôi miên, ông Cayce bèn ho lên mấy tiếng để lấy giọng và nói: "Tốt lắm, căn bịnh đã dứt. Ông hãy dẫn dụ rằng sự lưu thông máu huyết sẽ trở lại bình thường và thể xác này hãy thức tỉnh." Ông Layne liền làm y theo lời. Ông Cayce bèn thức tỉnh và nói chuyện như thường lần đầu tiên từ trên một năm nay. Trong những tháng sau đó, thỉnh thoảng căn bịnh ông tái phát trở lại một đôi lần. Mỗi lần như thế, ông Layne lại dẫn dụ bằng thôi miên cho máu huyết lưu thông nơi cuống họng, và chứng bịnh lại dứt. Câu chuyện của ông Cayce có lẽ đã chấm dứt với bấy nhiêu đó, nếu ông Layne không nhìn thấy những triển vọng sâu xa của trường hợp đặc biệt này, và tìm cách khai thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi miên là điều quen thuộc đối với ông và ông đã từng biết những trường hợp tương tự đặt dưới sự điều trị của ông De Puysegur ở Pháp, ông này là vị kế nghiệp cho bác sĩ Mesmer, người đã khám phá ra khoa nhân điện học. Ông Layne nghĩ rằng nếu ông Cayce có thể nhìn thấy thể xác của những người khác và khám bịnh cho họ. Ông Layne bèn thí nghiệm điều này với chính mình ông, vì trong thời gian gần đây ông bị chứng đau bao tử. Cuộc thí nghiệm đã thành công mỹ mãn. Trong giấc thôi miên, ông Cayce diễn tả trạng thái bên trong xác thể của ông Layne và đề nghị một vài phép điều trị. Ông Layne lấy làm vui mừng vô hạn: Sự khám nghiệm của ông Cayce hoàn toàn đúng theo những triệu chứng mà chính ông đã nhận thấy và cũng đúng theo sự khám nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác. Hơn nữa, cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có một phép ăn uống hạn chế, kiêng cữ, những thuốc men và những phép tập thể dục chưa từng đem áp dụng cho trường hợp của ông từ trước. Ông Layne bèn áp dụng theo cách điều trị ấy và trong vòng ba tuần, ông nhận thấy rằng bịnh trạng của ông đã thuyêng giảm rất nhiều. Những sự kiện trên đây là cho ông Cayce lưỡng lự phân vân không ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và quyết định thử xem phép điều trị này có thể chữa khỏi bịnh cho những người khác hay không? Hồi mới lên mười tuổi, ông Cayce bắt đầu đọc bộ Thánh Kinh (Bible), và đọc đi đọc lại hàng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông có ý nghĩ muốn trở nên một nhà chữa bịnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ, cũng như các vị môn đồ đấng Christ hồi xưa.Về sau, ông có tham vọng trở nên một nhà truyền giáo như đã nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông không cho phép.Và đến bây giờ thình lình ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bịnh cho thiên hạ tự nhiên xuất hiện đến với ông. Nhưng ông còn băn khoăn lo ngại không dám nắm lấy cơ hội ấy, vì ông sợ rằng nếu trong giấc ngủ thôi miên, ông lỡ nói một điều gì có hại và nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác, thì sao? Nhưng ông Layne liền bảo đảm rằng ông đừng sợ gì cả; chính ông Layne đã có hiểu biết khá nhiều về Y học để có thể ngăn chận lại những phép điều trị nào xét ra có hại cho bịnh nhân. Ông Cayce liền thăm dò lại bộ Thánh Kinh để tìm lấy một đường lối hành động. Sau cùng, ông bằng lòng giúp đỡ cho những người bịnh nào muốn điều trị theo phương pháp của ông, nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc thí nghiệm, và ông không đòi hỏi tiền thù lao chi cả. Kế đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc ký những lời mà ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên và gọi đó là biên bản, hay phúc trình những cuộc "Khán Bịnh Bằng Thần Nhãn." Điều lạ lùng nhất trong những cuộc khán bịnh của ông Cayce, ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh, ông đã dùng những danh từ đúng đắn về khoa Sinh Lý Học và Cơ Thể Học, mặc dầu trong lúc thức tỉnh, ông không hề biết một điều gì về nghành Y học và không hề đọc các sách về Y khoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce, là những bịnh nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường hợp của ông Layne không đủ làm cho ông chịu thuyết phục vì ông cho rằng có lẽ sự tưởng tượng đã làm cho ông Layne tưởng rằng mình khỏi bịnh.Về phần ông Cayce, việc ông đã thu hồi lại được giọng nói không thể cho là sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sự nghi ngờ nó vẫn luôn ám ảnh ông trong những năm đầu khi ông mới bắt tay vào việc khán bịnh bằng Thần Nhãn, đã lần lần giải tán trước sự kiện hiển nhiên là những bịnh nhân do ông điều trị đều được khỏi bịnh, thậm chí đến cả những trường hợp được coi như là nan y và hết phương chạy chữa. Lần lần, quyền năng phi thường của ông Cayce đã được đồn đãi khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông được tin điện thoại của ông cựu Thanh tra Giáo dục thành phố Hopskinville mời ông đến chữa cho cô con gái của ông mới lên năm tuổi, và đau ốm đã ba năm nay. Em ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ khi đó đến nay, em bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ em đã mời đến khám bịnh cho em đều thúc thủ vô sách, không làm sao cứu em khỏi bịnh. Gần đây, em lại bị chứng phong giựt càng ngày càng dữ dội thêm, và một vị bác sĩ chuyên môn đã tuyên bố rằng đó là một chứng bịnh thuộc về óc, không thể chữa nổi. Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đem em trở về nhà để chờ ngày em trút linh hồn. Khi đó, một người bạn mới nói chuyện về cha mẹ em về ông Cayce và quyền năng nhiệm mầu của ông. Khi ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ này, ông bằng lòng di chuyển đến nơi để khám bịnh cho em ấy.Vì tình hình tài chánh của ông không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia đình bệnh nhân cung cấp: đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc chữa bịnh của ông để giúp đỡ kẻ khác. Ông bèn lên đường, tuy rằng với một sự băn khoăn khó nghĩ trong lòng. Khi cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông càng cảm thấy một cách thấm thía sự mỉa mai của vai trò của ông: Vì ông, con của một gia đình nông dân tầm thường và không biết một chữa về y học, lại tự hào có thể chạy chữa cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong xứ về nghành Y khoa đã phải chịu bó tay không chữa nổi! Ông cảm thấy hơi run rẩy khi ông nằm trên chiếc sofa trong phòng khách nhà ông Thanh tra, và ngủ mê thiếp đi. Tuy nhiên, trong giấc ngủ thôi miên, ông không còn băn khoăn nghi ngại về ông nữa. Ông Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và chép bằng tốc ký những lời ông Cayce thốt ra như thường lệ. Với một sự bình tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu lộ trong những cuộc khàn bệnh trước đây, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả bịnh trạng của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị té ngã từ trong xe văng xuống đất, và vi trùng bịnh cúm đã đột nhập vào chỗ thương tích do tai nạn gây ra; rằng điều này gây nên chứng phong giựt. Ông cho biết thêm rằng một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và giúp cho em nhỏ được bình phục trở lại như thường. Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã xe, nhưng vì không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã xe lại có ảnh hưởng đến bịnh trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo lời dặn của ông Cayce và trong vòng ba tuần, em nhỏ đã hết chứng phong giựt. Tình trạng trí khôn của em đã khá nhiều: Em nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất của em mà em vẫn chơi trước khi bị bịnh; sau đó em gọi tên của cha mẹ em và cha mẹ em lần đầu tiên từ nhiều năm nay. Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố rằng cô con gái nhỏ của ông bà đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng vớt vát lại thời gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua. Những sự việc xảy ra như trường hợp này đã đem đến cho ông Cayce một đức tin rằng ông không lầm mà đem sử dụng khả năng lạ lùng của ông để giúp đỡ thế gian. Tiếng tăm của ông càng ngày càng đồn xa. Báo giới đã khám phá ra chỗ ông ở và đã phỏng vấn ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận được những cú điện thoại và những bức điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng yêu cầu ông chữa bệnh cho họ. Chính nhờ đó mà ông nhận thấy rằng ông có thể khám bệnh xuyên qua không gian, trong khi ông ở cách xa bệnh nhân đến hằng mấy trăm dặm đường, miễn là trong giấc thôi miên, người ta nói cho ông biết tên tuổi và địa chỉ rõ ràng của bệnh nhân. Ông Cayce thường bắt đầu các cuộc khán nghiệm bịnh nhân ở xa bằng vài lời bình phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương chỗ bịnh nhân ở, với một giọng nói thì thầm đại khái như: "Ở đây, sáng nay gió thổi mạnh quá!" "Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Những bộ áo pyjama này đẹp quá!" "Ừ! Bà mẹ đang cầu nguyện ở phòng bên!" ... Những sự tả cảnh đó về sau được xác nhận là đúng, lại càng giúp một bằng chứng xác thực về năng khiếu Thần Nhãn của ôn Cayce. Dầu rằng bịnh nhân ở cách xa, hay ở gần một bên ông trong một gian phòng, thì ông cũng dùng một phương pháp giống nhau không có gì thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày, lên nằm trên divan hay trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ ngơi. Ông nhận thấy rằng ông cần phải nằm day đầu về hướng bắc và quay về hướng nam. Ngoài ra một chỗ nằm và một cái gối để gối đầu, ông không cần dùng một món gì khác. Những cuộc khán nghiệm có thể diễn ra ban ngày cũng như ban đêm, và bóng tối hay sáng đều không có ảnh hưởng gì khác nhau. Vài phút sau khi nằm yên chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hay là vợ ông Cayce, hay bất cứ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm này, mới đưa ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghi. Câu dẫn dụ thông thường là: "Bây giờ, ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa chỉ: Tên đường thành phố, xứ) Ông sẽ khán nghiệm thân thể người ấy một cách chăm chú và cẩn thận, và ông sẽ nói cho biết bịnh trạng cùng nguyên nhân của chứng bịnh là như thế nào. Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra sao để chữa bịnh cho cái thể xác người ấy được thuyên giảm. Và ông sẽ đáp lại những câu hỏi của tôi đưa ra." Vài phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc cô thư ký Gladys Davis chép bằng tốc ký những lời nói của ông Cayce. Sau đó, bản chép tốc ký được đem đánh máy lại rõ ràng. Trong phần nhiều trường hợp, một bổn sao được đưa cho người bịnh hoặc thân nhân của y, hoặc người đỡ đầu hay vị bác sĩ của đương sự, còn một bổn sao bằng giấy màu vàng thì được giữ trong hồ sơ của bệnh nhân. Lời đồn đãi truyền khẩu và những bài tường thuật trên mặt báo chí về năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce không bao lâu đã hấp dẫn sự chú ý của những tay con buôn có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn về ngành bông vải đề nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm dollars liên tiếp trong hai tuần để nhờ ông "Xem" giùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy ông đang cần dùng tiền, nhưng ông bèn từ chối. Có những người khác muốn nhờ ông chỉ giùm những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc chỉ con ngựa nào về nhứt để đánh trúng giải cá ngựa trong trường đua. Có nhiều lần, ông Cayce đã chịu nghe theo lời thiên hạ thỉnh cầu và làm thử những chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và cũng để xem kết quả ra sao. Nhiều lần ông đã thành công và nói đúng kết quả của những cuộc cá ngựa; nhưng nhiều lần ông cũng đã nói sai! Và những lần như thế, sau khi thức tỉnh ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình! Có một lần, người ta thuyết phục được ông hãy thử thời vận và dùng Thần Nhãn để khám phá các mỏ dầu hỏa ở tiểu ban Texas, nhưng ông không thu được kết quả gì đáng kể và đã hoàn toàn thất bại! Sau cùng ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng năng khiếu thần thông của mình một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bịnh cho nhân loại, vài chỉ vì mục đích duy nhất đó mà thôi, chớ không bao giờ nên dùng Thần Nhãn để giúp cho ai, hay cho chính mình trong việc kiếm tiền và sinh lợi! Chí đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông đều dửng dưng không quan tâm đến. Năm 1922, ông Giám Đốc tờ báo Denver Post nghe nói đến ông Cayce và mời ông đến Denver. Sau khi dự kiến một buổi khám bịnh có kết quả hiển nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce một việc sau đạy: Ông ta sẽ trả cho ông Cayce mỗi ngày một ngàn dollars, và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức những cuộc trình diễn lưu động trong xứ, nếu ông Cayce bằng lòng đổi tên họ và khoác lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khán bịnh bằng giấc thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt tò mò. Nhưng ông Cayce quyết liệt từ chối. Ông David Kahn, Giám Đốc công ty Vô Tuyến Truyền Hình ở Brunswich, và là bạn cũ của ông Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng tư, đã quảng cáo về việc làm của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới kinh doanh thương mãi; nhưng khi ông đề nghị mở một chương trình quảng cáo đại quy mô về công việc của ông Cayce trên đài vô tuyến truyền hình, thì ông Cayce liền từ chối một cách quyết liệt, ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự khán bịnh hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông. Trong các cuộc đàm thoại với những người không được biết ông nhiều, ông không bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của mình, nếu người ta không hỏi ông về vấn đế đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết gì về ông, ngoài ra việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng ông chỉ là một khí cụ để giúp đỡ và đem lại sức khỏe cho những kể ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên hạ chú ý đến mình. Trong những năm đâù, ông Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh, và luôn luôn từ chối không nhận tiền thù lao về những cuộc khám bịnh của ông. Về sau, khi số người bịnh đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông làm cho ông không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới có lý do nhận tiền thù lao vì ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối với những người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bịnh giùm không lấy tiền. Không bao giờ ông Cayce đòi hỏi hoặc bắt buộc bịnh nhân phải trả tiền thù lao. Những bổn sao các thư từ của ông hiện còn được cất giữ trong các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến trú ngụ từ năm 1927, là nhữg bằng chứng hùng biện cho lòng hy sinh, vô kỷ của ông. Mặc dầu trong những bức văn thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót về văn phạm, cách chấm câu và cách hành văn, nhưng nó biểu lộ một cách sâu xa lòng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt những nỗi đau khổ của nhân loại. Trong những năm đầu tiên đó, ông Cayce luôn luôn bị dày vò bởi sự hoài nghi. Có đôi khi, trong những cuộc khán binh, ông Cayce vẫn lặng thinh không nói gì trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những lúc đó, năng khiếu Thần Nhãn của ông bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc trạng thái bất an của tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu dàng và hiền lành, nhưng ông có những lúc nóng giận thình lình; và ông thường có sự lo âu về tiền bạc. Một tâm trạng như thế lẽ tất nhiên làm tê liệt mất năng khiếu của ông. Trong những trường hợp khán bịnh mà không có kết quả, người ta phải đình lại một lúc khác để đợi cho tình trạng sức khỏe và tâm lý của ông được phục hồi trở lại, khi đó cuộc khán bịnh sẽ đem lại kế quả mong muốn. Nhưng ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu có bịnh nhân nào tỏ vẻ bất mãn vì cuộc khán bịnh không nói đúng theo bịnh trạng của họ, hoặc sự điều trị không có kết quả như mong muốn. Trong những trường hợp đó, ông Cayce xin lỗi một cách khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích rằng ông không hề tự hào là Thần Y có thể chữa khỏi bá bịnh; rằng có một phần chi tiết mà ông không được biết rõ, điều này làm cho những cuộc khán bịnh của ông trở nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không nhìn thấy rõ ràng mọi sự, cũng như một cái máy thu thanh vô tuyến, nghe khi mờ khi tỏ, chứ không phải lúc nào cũng chạy một cách đều đặn, hoàn toàn. Và trong thơ, ông kết luận: "Mục đích duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ ông." Và ông gửi kèm theo trong thơ một ngân phiếu hoàn nguyên số tiền mà ông đã nhận được lại cho vị thân chủ. Thỉnh thoảng, sau nhiều tháng, chính những người thân chủ đó trở lại cho ông hay rằng một cuộc khán bịnh riêng về sau đã xác nhận những gì ông đã nói từ lúc đầu, mà họ đã nghi ngờ là không đúng như bịnh trạng của họ. Cũng có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bịnh nhân đã than phiền về sự chữa bịnh không lành, đã tỏ ra cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo cách điều trị của ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiên cữ, hoặc không chịu uống thuốc, hoặc xao lãng về phần kỷ luật tinh thần mà ông đã buộc họ phải noi theo. Dầu sao ông cũng biết rằng những cuộc khán bịnh của ông không phải là bá phát bá trúng. Nhưng với thời gian qua, những cuộc khán bịnh của ông càng ngày càng trở nên rõ ràng và đúng đắn hơn trước, vì kinh nghiệm đã giúp cho ông biết cách sử dụng năng khiếu của ông một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc sai biệt xảy ra một đôi khi, đã được bù đắp bởi những sự chữa lành bịnh một cách mầu nhiệm. Một vị linh mục Thiên Chúa giáo người Gia Nã Đại đã được chữa khỏi bịnh động kinh; một người trò trường tỉnh ở Dayton (Ohio) đã được chữa khỏi bịnh đau khớp xương; ở New York, một viên nha y đã được chữa khỏi trong hai tuần chứng bịnh nhức đầu kinh niên đã nhiều năm; một thiếu niên ở Philadenlphia mắc chứng bịnh đau mắt có cườm, là một chứng bịnh được coi như là nan y, đã được bình phục khi một vị bác sĩ chữa cho y theo lời chỉ thị của ông Cayce. Chính những trường hợp chữa khỏi bịnh kể trên đã xảy ra rất nhiều lân2, làm cho ông Cayce bình nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự, và cẩn thận rất mực, phải tin tưởng nơi cái năng khiếu của ông, mặc dầu thỉnh thoảng vẫn có những sự khó khăn và một vài sự sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể; và ông có thể tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho. Năm 1942, do các báo chí đua nhau nói về thân thế và sự nghiệp của ông Cayce, tên tuổi của ông đã vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả là hằng triệu thơ từ của người trong xứ ở khắp bốn phương đều được gởi đến nhờ ông chữa bịnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng khẩn cấp. Ông Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bịnh bệnh nhân nào và không bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám bịnh cho từng người, và có người ông phải hẹn trước đến mười tám tháng mới đến phiên khám bịnh cho y. Thay vì chỉ khám bịnh hai hay ba lần trong mỗi ngày, có khi ông đã khám bịnh đến tám lần, sớm mai bốn lần và bốn lần vào buổi chiều. Làm việc trong giấc ngủ, có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng, nhưng sự thật, ông Cayce đã phung phí rất nhiều sinh lựcvà sự căng thẳng gây nên bởi sự làm việc quá sức đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông; ông từ trần vào ngày ba tháng giêng năm 1945, hưởng thọ 67 tuổi. Cuộc đời của ông Edgar Cayce đã chấm dứt, nhưng tiếng tăm của ông không bao giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ do những công trình phụng sự nhân loại thì người ta có thể nói rằng ông Cayce đã trở nên bất tử với thời gian vậy. Chương 3 Giải Đáp Cho Những Vấn Đề Bí Hiểm Của Đời Người Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bịnh để cứu độ thế gian, ông Cayce đã cứu chữa cho hằng mấy muôn nghìn bịnh nhân, và điều này càng xác nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông.Với năng khiếu thần thông này, ông Cayce nhìn thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người bịnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường hợp thông thường người ta không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể con ngươòi, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ càn khôn để nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây: Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự với ông nói chuyện về ông Caycẹ Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ. Sau khi đã quan sát những cuộc khán bịnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn dấu đối với cặp mắt phàm, thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy tiêu hóa của người bịnh mà thôi đâu. Thí dụ như: Trong tất cả mọi nghành triết học và tôn giáo, thì nghành nào gần nhất với Chân Lý? Mục đích của đời người là gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhãn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng? Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời,... Không hề thoáng qua trong ý của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lý mà người ra giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông. Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là vì do lòng mong muốn giúp đõ những kẻ bịnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên đã nghĩ đến việc dùng Thần Nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bịnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng gia lòng hứng khởi của ông Caycẹ Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông đã luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bịnh. Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma, nên ông yêu cầu ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng Thiên Liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụg sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với Chân lý, thì đó có thể là một nghành khoa học nối liền con người và vũ trụ mà chúng ta có thể hiểu được rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm Thần Nhãn của ông Cayce về khoa này. Một ngày nọ vào tháng 10, năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: "Thuở xưa y là một tu sĩ." Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh con người, câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào như bị điện giựt! Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhãn của ông Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi? Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khán nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammmers đang bàn luận sôi nổi với cô nữ bí thơ Linden Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng minh thuyết Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học! Nếu ông Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng luật Luân Hồi hành động bằng cách nào. Thí dụ như những mối liên hệ giữa Luân Hồi và khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người? Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khán nghiệm. Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đứng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời người mà ông bắt đầu khảo cứu tìm tòi. Theo những cuộc khán nghiệm đó, khoa Chiêm Tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn đang tiến hóa một cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thâu thập kinh nghiệm ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở xưa người ta gọi bằng tên các cầu hành tinh làm trung tâm điểm cho những cõi ấy. Tuy nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn. Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc khán nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự nghĩ rằng những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một "Lá số, " và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hãy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghịVà đây là lối dẫn dụ mà ông Cayce đã đưa ra: "Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày... Tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai trò của y trong vũ trụ là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của y ra sao với những chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải qua những tiền kiếp đó.Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa của y trong kiếp này." Từ đó những cuộc khán nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những tiền kiếp của đương sự. Những cuộc khán nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp, để phân biệt với danh từ khán bịnh, chỉ nhằm khán nghiệm thể xác của bịnh nhân vì mục đích chữa bịnh mà thôi. Đối với hai loại khán nghiệm kể trên, ông đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Cayce tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội. Chính ông cũng tự khán nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên nhân sự chóng mặt, thì ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay đấu về hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy nói rằng đó là một vấn đề thuận giòng "Từ điển." Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có nhiều quyền phép thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến tranh trên sa mạc và bị bỏ sót lại trên bãi cát, vì những người đồng bọn tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình, không có nước uống, không lương thực và không một mái che ông đã chịu khổ rất nhiều trong ba ngày và ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của xác thể.Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đứng đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha, để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích điều sắc dục. Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình ông, gồm cả bà Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys Davis, cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia dình ông. Cả gia đình đều bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự gì xảy ra, thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce: Lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mệ Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tánh tốt đều có nguyên nhân trong những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai ông, ông nói: "Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người con khác ông nói: "Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều điều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp nầy con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn." Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người xa lạ như ông Lammers, cơ Linden Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng. Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhãn của mình, bằng những cuộc khán bịnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự chánh đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những điều tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... "Phản đạo," làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật? Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý nó chiếâu diệu trong những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn Giáo và Phật Giáo nói về vấn đề Luân Hồi. Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn cho lắm, vì người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng theo thuyết ấy thì những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa... Chính những cuộc soi kiếp đã giải tán những sự nghi ngờ này cho ông Caycẹ Trong những cuộc khán nghiệm các tiền kiếp, ông Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật; và không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và lấy đó làm nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á Châu cũng chủ trương thuyết Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều Chân Lý căn bản và trọng đại. Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của linh hồn con người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần, khi thì đầu thai làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác... Cho đến khi linh hồn đạt tới mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như một anh tài tử sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải trong một thời gian, và khi nó đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác. Nhiều bậc Hiền Triết và các nhà thông thái, trí thức siêu việt của Âu Tây cũng đã chấp nhận thuyết Luân Hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer. Ông Cayce bày tỏ ý kiến: "Những điều đó hẳn là đúng sự thật hiển nhiên rồi; nhưng còn đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết Luân Hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi là phủ nhận đấng Christ thì rõ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho đấng Christ, và Ngài đáp rằng: Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà Tiên Trị" (Mathieu 22:35-40.) Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: "Ngươi đừng làm hại kẻ khác nếu ngươi không muốn cho kẻ khác làm hại mình." Và những Thánh Kinh của Ấn Giáo cũng dạy rằng: "Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi." Ấn Giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt, dị đồng giữa luật bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không cho rằng hai luật ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên 10 tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất lấy làm say mệ Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có chữ Luân Hồi. Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này? Ông Lammers nghĩ rằng: "Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề Luân Hồi." Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho Ngài có dạy thuyết Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề Luân Hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh, nhưng Ngài lại nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng "Elie đã trở lại... Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về Thánh Jean-Bastistẹ" Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: "Bạch Sư Phụ, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?" Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm xúc ý nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, Chương mười ba, câu thứ mười: "Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao." Câu ấy ám chỉ rằng có một định luật quả báo hành động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã lần lần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn đề Luân Hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong những tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin Thánh Jerome, Clement d Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho 12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi? Theo ông Lammers, thì đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết Luân hồi, nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô. Những điều kể trên đã giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng của mình một cách trái Đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của mình, nhưng điều này lại có một tánh cách khoa học. Một thí dụ: Làm sao giải thích sự gia tăng dân số lớn lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những linh hồn đều đã có sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà rả Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy.Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự khán nghiệm bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi những cuộc khán nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia. Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm ra câu giải đáp cũng không phải là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng dầu sao, chúng ta có chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khán nghiệm đã qua có nói về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantide nay đã biệt tích. Ở Cao Miên, Mễ Tây Cơ, Ai Cập và ở các xứ Đông Phương, những tàn tích khảo cổ đã xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc. Như thế người ta có thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sở, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng vẫn không hề thay đổi linh hồn trong vũ trụ.Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn phảng phất trên các cõi vô hình trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện cho họ đầu thai xuống cõi trần. Tuy ông Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về câu giải đáp hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantide cũng lại là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật? Hay đó chỉ là chuyện hoang đường? Những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mì và với rất nhiều chi tiết: Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật sự hiện diện của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantidẹ Dầu sao có một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn cho nhau. Ông Cayce đã đọc một quyển nhan đề "Châu Atlantide, một thế giới của thời kỳ tiền sử" của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng nhữõng cuộc khán nghiệm của ông đã diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy. Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên, là những vấn đề đã được nêu ra trong các cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn, đã giúp cho ông Cayce có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót. Lần lần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối óc phê bình, ông bắt đầu phân tách những cuộc khán nghiệm để kiểm soát cho nó được hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khán nghiệm ấy đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khán nghiệm này lại tương phản với một cuộc khán nghiệm khác, dầu là cách nhau bao xa cũng vậy. Bởi đó, một người có thể được khán nghiệm một lần thứ nhì, nhiều tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất: Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu saün, để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở kỳ trước. Phần nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide. Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bỏ khuyết lẫn nhau và trở nên hoàn bị hơn: Mỗi cuộc soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói ra trong một lần trước, hoặc thêm vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện. Không cuộc soi kiếp đều hòa hợp lẫn nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu đó là những sự việc bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ: Một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đã từng làm một người "Phóng ghế." Ông Cayce không hề biết "Phóng ghế" nghĩa là gì, và khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ: Người ta trói những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh. Một thí dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước, y đã sống ở bên Pháp, tại đây y gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng ông không tin rằng ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông Fulton đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích trong nghành hoạt động của ông. Ngoài ra những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khán bịnh, dầu cho đương sự có quen biết hay không đối với ông Cayce, điều đó không có quan hệ gì cả. Họ ció thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới: Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp. Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce đã có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lô về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con: Một cuộc soi kiếp ngày sinh của một đứa trẻ tai. Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được. Trong trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau y có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích thú đặc biệt về nghành y học. Vào năm tám tuổi, y đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, y đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, y cho cha mẹ biết rằng y có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo nghành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York; mẹ y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ y đều phản đối ý định học Y khoa của y và khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay y đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa Sinh tai. một trường Đại Học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu Thần Nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biết của y sẽ biểu lộ ra ở kiếp này. Những thí dụ kể trên chỉ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ sơ sinh mà cũng của những người lớn. Một cô điện tín viên ở nhà Bưu điện thành phố New York lấy làm vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đã đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Cayce và quyết định yêu cầu ông soi kiếp cho cộ Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện tín viên, và tốt hơn cô nên học về nghành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước, cô đã là một nghệ sĩ có tài về nghành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo đuổi một nghệ thuật nào, dầu là kỹ nghệ họa hay bất cứ nghành nào khác, nhưng cô ấy có đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau chóng với nghành kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của mình. Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì nó gây nên những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ; những người khác nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội. Những điều kể trên đã lần lần thuyết phục ông Cayce về tánh cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của sự giải thích mà nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều nó làm cho ông tin tưởng hơn hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết Luân Hồi. Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn sách trong Thánh Kinh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: "Ngươi gặt hái những gì ngươi đã gieo" và "Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi." Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như: "Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy." Và: "Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác." Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bịnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước. Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đấu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: Châu Atlantide, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời Louis 14, 15 và 16, và Giặc Phân Ly (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cao Miên, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bổn, và nhiều xứ khác; nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau. Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những nhóm linh hồn khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự thay phiên đầu thai từng nhóm một một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống như sự thay phiên từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều những linh hồn đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với nhau một lượt ở những thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có sự liên lạc gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước. Một câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu đó do đâu mà có?" Câu trả lời là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh nghiệm ở những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa Tâm lý học hiện đại. Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò bằng tiềm thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác nào như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng những phương tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một phần nào, với những sự phát minh của khoa phân giải tâm lý (psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức. Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho ông Cayce, thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những " ký ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh từ; Akashique: Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau: Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự gì ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ đó sự ghi nhận trong ký ức của không gian đó mà những bị có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc một quyển sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi như một cái máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Thiên Nhiên trên chất Akasha đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi mực độ nhậy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce không có thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng luồn sóng" như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể làm được điều ấy. Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong giấc thôi miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là "Ký ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách Thiên nhiên." Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akashạ Nền Triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách cảm: Và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng này là ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khán nghiệm sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa Jesus? Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của Lịch Sử, được ẩn dấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về đều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn; và những cuộc khán nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy. Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ Óc con người, và sự truyền cảm của bộ Thần kinh hệ. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khán bịnh bằng Thần Nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả độ 2.500 người. Cũng như những cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thơ từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào muốn tìm biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp cho họ. Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tánh cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về luật Luân Hồi, là một nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhứt nó cũng đáng để cho chúng ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao nhiêu những cuộc phát minh lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giải thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết Tương Đối luận, ông đáp: - Tôi chỉ thử đưa một nghi vấn về một định lý. Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, nó d8em đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời. Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bịnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho câu hỏi sau đây: " Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?" " Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ này?" Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp này, vì không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là cái kết tinh của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bịnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự hành động của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả. Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cùng tìm thấy sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn. Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi kiếp, người ta cũng phải nhìn nhận sự kiện này là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việv kể trên không phải là nó đem đến cho ta một giả thuyết mới: đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả địa cầu. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều này: Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đã có được những bản phúc trình đúng đắn mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của một số nhiều người. Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch xử thế giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và sắp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã hợp nhứt triết lý Đông Tây càng thêm phần sinh sắc.Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông Phương và Tây Phương. Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce cũng đã tổng hợp khoa học cà tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cõi giới tinh thần được cai quản bởi những định luật Nhân Quả một các đúng đắn cũng y như cõi giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ theo quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động sai lầm trong quá khứ. Nó chỉ rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết quả của những hành động và cách xử thế của con người trong kiếp trước. Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích giáo hóa chúng ta về đướng xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học lớn của thế gian, ngõ hầu trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh Triết và Toàn Thiện.
-
Chương 23 Khía Cạnh Của Luật Nhân Quả Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù, mà nguyên nhân là do bởi kiếp trước, trong một bộ lạc dã man ở Ba Tư, ông đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những kẻ tù binh để hành tội những người này. Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: "Tại sao ông lại chịu trách nhiệm về những phong tục bổn xứ hồi đương thời? Tại sao một người phải bị quả báo trong khi ông chỉ thừa hành chức vụ mà xã hội giao phó cho ông?" Thí dụ, hồi xưa nước Pháp dùng những đao phủ quân để hành tội những phạm nhân trên đoạn đầu đài. Người đao phủ ấy chỉ là một công chức của Nhà Nước và làm việc ăn lương của chính phủ. Có thể nào người ấy bị quả báo khi ông thừa hành chức vụ chém đầu tội nhân do luật pháp bắt buộc chăng? Nếu là không, thì tại sao người đao phủ của bộ lạc dã man nước Ba Tư hồi thời cổ, lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh của một bộ lạc cừu địch, lại phải chịu quả báo? Trước đây chúng ta đã thấy rằng không phải hành động gây nên nghiệp quả mà chính là cái nguyên nhân làm động lực bên trong cho hành động ấy, chính cái tinh thần bên trong làm chủ động cho mọi việc làm, mới là cái nguyên nhân tạo nên nghiệp quả. Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay nghiệp quả công cộng, nghĩa là nếu một xã hội có những tập quán xấu xa, độc ác gây nên đau khổ cho nhiều người thuộc về xã hội đó đều phải chia xẻ một phần nào trách nhiệm và quả báo của xã hội ấy gây nên. Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác, tuyệt đối là những điều ác dữ, thì tất cả những người nào thuộc về thành phần của xã hội tàn bạo đó đều phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp. Tội ác đó càng tăng nếu họ biết rằng phong tục tập quán đó là độc ác, mà họ vẫn tiếp tục tán thành và không làm gì để trừ bỏ những thói tàn bạo hung ác ấy. Và nếu họ trực tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy, thì tội ác của họ càng tăng hơn nhiều. Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt những người khác chỉ vì họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người đao phủ tự trong lòng ông chống đối việc làm hung bạo này, và chỉ thừa hành chức vụ vì bắt buộc phải tuân lệnh thượng cấp, thì có lẽ ông không gây nên nghiệp ác. Nhưng nếu trong khi thừa hành chức vụ, tự trong lòng ông tán thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương đương với phong tục bổn xứ của ông, thì chắc chắn là ông phải chịu quả báo. Vấn đề này được giải đáp một cách mỹ mãn trong kinh Bhagavad Gita của Ấn Độ: "Làm mà như không làm, tuy hữu vi mà vô vi, nghĩa là làm một cách vô tư, với một tinh thần giải thoát, không bám víu, không vụ lợi; đó tức là cái bí quyết của sự hành động cao thượng, siêu thoát, và không gây nên nghiệp quả... " Thậm chí đến tình thương cũng phải là một tình thương vô tư, không tha thiết, không chiếm hữu, một tình thương siêu thoát, chứ nếu không, nó sẽ tạo nên những sợi dây trói buộc trong kiếp sau. Nếu người đao phủ xứ Ba Tư kể trên chỉ thừa hành chức vụ với một tinh thần hy sinh theo như việc làm của những nhà hiền triết thời xưa, không thỏa mãn dục vọng riêng, không có lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ông sẽ không gây nên ác quả. Theo lý luận đó, vì lẽ người ấy đã bị quả báo mù mắt trong kiếp này, nên ta có thể kết luận rằng ông đã nuôi thói hung ác trong khi thừa hành chức vụ, theo phong tục bổn xứ của y. Trong chương mười một, chúng ta đã thấy rằng sự hiểu biết về Luật Nhân Quả không khỏi làm cho người ta băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xã hội, và không biết sẽ hành động như thế nào cho hợp lý. Chúng ta đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ, khó khăn trắc trỏ trong kiếp hiện đại. Nếu phần nhiều sự đau khổ buồn rầu của con người đều do bởi những việc làm ác của họ gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có nên ngảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng: "Này ông bạn ơi, ông bạn đau khổ vì quả báo của ông bạn tự gây ra, chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi không còn quyền can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả." Ta có nên nghĩ rằng sự thiện cảm là một thái độ trái mùa, và lòng nhân từ là một điều không phải chỗ của nó trước sự hành động vô tư của Luật Nhân Quả hay chăng? Có lẽ ta không nên giải đáp những câu hỏi đó một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự cảm tình bồng bột. Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không học được bài học của y, nếu vì lòng nhân hậu quá đáng, người ta để cho ông được tự do có điều kiện sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi. Chúng ta biết rằng một người học trò dốt không thể học hết chương trình lớp học của y, nếu ông giáo sư quá dễ dãi để cho y về sớm ba giờ mỗi ngày. Chúng ta biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời, nếu người mẹ luôn luôn bênh vực con, không để cho nó chịu hình phạt nghiêm khắc và roi vọt của người chạ Chúng ta biết rằng những khó khăn trắc trở và đau khổ của người đời, dưới hình thức những tật nguyền, tại nạn, nghèo khổ... Thật ra là sự biểu hiện ý muốn cải thiện và giáo dục của Thiêng Liêng. Như vậy, làm sao ta dám can thiệp vào sự hành động của Thiên Y, và phá luật lệ thiên nhiên? Thí dụ, chúng ra thấy một người kia sống trong cảnh lầm than khốn khổ, nghèo nàn cơ cực, với một thân hình tàn phế, tật nguyền, chúng ta không khỏi động lòng thương hại. Nhưng nếu chúng ta xét mọi sự theo khía cạnh Nhân Quả, chúng ta cũng có thể nhìn thấy con người bất hạnh ấy dưới một hình thức khác. Chúng ta có thể nhìn về dĩ vãng và tưởng tượng người ấy trong một vai trò khác, với một bộ y phục khác và sống trong một thời đại khác hơn bây giờ. Chúng ta có thể tưởng tượng con người vô phước ấy dưới những nét của một vị lãnh chúa nước Nga hồi thời Nga Hoàng; một vị lãnh chúa có một thân hình cao lớn, lực lưỡng, khỏe mạnh, nhưng lại hung tợn, độc ác và vô nhân đạo. Với những tài sản khổng lồ, giàu sang không kể xiết, ông đã tỏ ra lạnh nhạt dửng dưng trước sự đau khổ của những người nông dân đã làm việc cặm cụi suốt đời để làm giàu cho ỵ Với một thân hình tráng kiện, sức khỏe dồi dào, ông ra hiên ngang hống hách, khinh thường những kẻ yếu đuối, đối xử tàn nhẫn với đàn bà, trừng phạt thẳng tay không chút lòng thương xót đối với những kẻ đã làm mất lòng ông. Đó là hình ảnh cho người của ông trong kiếp trước. Nhìn chung quanh ông, ta thấy những nạn nhân của ông đang sống vất vưỡng, dở chết dở sống trên những vùng hoang vu lạnh lẽo ở xứ Tây Bá Lợi Á, do bởi ông đã dùng quyền lực áp chế để đày ải họ sang xứ này. Ta thấy những trẻ con xanh xao gầy còm, mặt mày ngơ ngác vì đói lạnh, bởi cha mẹ chúng là những nông dân nô lệ, suốt đời phục dịch vị lãnh chúa tàn bạo, nhưng vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, vợ con phải chịu đói rách quanh năm. Khi chúng ta nhìn thấy cảnh tượng kiếp trước của người ấy như thế, một cảnh tượng có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong những thời đại đã qua, thì chúng ta biết rằng ông sẽ có lúc phải trả quả báo về những tội ác của ông đã làm. Và ngày nay, chúng ta đã gặp lại ông trong bộ áo của một kẻ hành khất khốn khổ lầm than, thân hình tàn phế, chúng ta có thể nào còn thương hại ông được chăng? Gặp cảnh này, chúng ta đã đứng trước một vấn đề tâm lý, luân lý và xã hội có một tầm quan trọng rất lớn, một vấn đề mà chúng ta cần phải hiểu rõ trong việc xử thế hằng ngày. Người ta đã tìm thấy một phương pháp giải quyết vấn đề này trong chế độ xã hội của một xứ trên thế giới là xứ Ấn Độ. Vấn đề mà chúng ta nêu ra khi chúng ta vừa mới chấp nhận thuyết Luân Hồi, người Ấn Độ đã từng biết rõ từ bao nhiêu thế kỷ về trước. Người Ấn Độ đã giải quyết vấn đề này bằng cách không can thiệp vào sự hành động của luật nhân quả. Điều này giải thích một phần lớn thái độ thản nhiên của họ đối với những kẻ đau khổ, hoạn nạn, khốn cùng, và cách đối xử đặc biệt mà họ dành cho những người thuộc gia cấp cùng đinh (paria) Chế độ giai cấp ở Ấn Độ vốn căn cứ trên pháp luật của đức Manou, một luật gia và triết gia danh tiếng của Ấn Độ thời cổ. Cũng như Platon, Ngài tuyên bố rằng theo luật tự nhiên, xã hội loài người chia ra từng thành phần, tùy theo công việc hay chức nghiệp của mỗi người. Điều huấn thị này về sau trở nên một tập quán xã hội, và tập quán đó dần dần kết tinh lại thành ra một trật tự về giai cấp. Truyền thống, phong tục và thói dị đoan của một dân tộc gồm đến chín mươi phần trăm những kẻ thất học, đã làm cho tập quán nói trên trở thành bất di dịch, không thể sửa đổi. Gia cấp hạ tiện gồm thành phần những người làm những công việc ti tiện, thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này về sau trở nên thành phần "Bất khả tiếp xúc" (intouchable), do sự lý luận rằng nếu họ đầu thai làm những người thuộc giai cấp hạ tiện đó, là để trả quả báo về những việc làm xấu xa và tội ác của họ trong một kiếp trước. Bởi sử lý luận đó, người ta không can thiệp vào luật Trời khiến cho họ phải lầm than khổ sở, mà cứ dửng dưng trước sự hành động tự nhiên của Luật Quả Báo. Nếu chúng ta chấp nhận lý lẽ thứ nhứt của người Ấn Độ, theo đó Luật Nhân Quả đặt để ta vào một hoàn cảnh hay thân phận thích nghi, tương xứng với nghiệp quả của mình, và nếu chúng ta cũng chấp nhận luôn lý lẽ thứ hai của họ về đẳng cấp trong xã hội, thì ta thấy rằng lập luận của họ rất vững chắc và rất có lý. Lập luận ấy dầu rằng có cái lý lẽ vững chắc, nhưng nếu nó đưa chúng ta đi đến kết luận là phải dửng dưng trước sự đau khổ của kẻ khác, thì đó thật là một điều đáng buồn! Tuy thế, ta cũng thấy có những người luôn luôn cố gắng hoạt động trong các công trình cứu tế để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Đó là bởi vì họ có lòng nhân từ bác ái đến một mực độ rất cao. Thấy vậy, lòng bác ái tức là tình thương bao la phủ nhận lý luận của những kẻ thản nhiên, bất can thiệp, mặc dầu lý luận này bề ngoài dường như có lý. Chính đó là ý nghĩa lời răn dạy của đấng Christ, vì Ngài đã dành trọn cuộc đời để đi truyền giáo và chữa bịnh cho người thế gian mê lầm và đau khổ. Cuộc đời của đấng Christ đã chứng minh rằng dầu cho tội lỗi của con người nặng đến đâu, ta cũng phải luôn luôn đưa ra một cánh tay cứu giúp. Cuộc đời của ông Edgar Cayce tuy không thể đem so sánh với đấng Christ, nhưng ông cũng là một người cái tinh thần cứu độ chúng sinh giống như đấng Christ, vì trong bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và bác ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng quan niệm này, là đời người bị chi phối và cai quản bởi một định luật rất khoa học, đó là Luật Nhân Quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời, những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận định luật bác ái nhân từ và lý tưởng phụng sự, là những điểm cốt yếu trong giáo lý của mọi tôn giáo. Không cần biết về tội lỗi của người khác ra sao trong những kiếp quá khứ, chúng ra nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng lầm tưởng rằng làm như thế, chúng ta có thể can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả. Ngoài ra, chúng ta nên hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước sự đau khổ của kẻ khác cũng là một tội ác mà chúng ta phải chịu quả báo về sau này. Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người có quyền tự do ý chí trong mọi hành động, và không phải tất cả mọi việc lớn nhỏ trong đời đều đã được định saün từng chi tiết theo một cái định mệnh bất di dịch. Bởi đó, sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đau khổ hoạn nạn, không phải chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự cải thiện lấy mình trong sự thực hành tình bác ái mà thôi, nó còn là một điều quý báu có thể làm thay đổi cả một thái độ tinh thần, và cả một cuộc đời của đương sự. Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả là do tư tưởng tạo nên. Sự sinh hoạt trái đạo, cách xử thế sai lầm, nguyên nhân là do sự lầm lạc trong tư tưởng. Bởi đó, người ta chỉ có thể hoàn toàn thay đổi thái độ đối với cuộc đời bằng ách hoàn toàn cải tạo tư tưởng. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố một cách rất đúng rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và trừ phi có sự thay đổi tư tưởng ở tự nơi mình, người ta không thể nào cứu chuộc và sửa đổi lại những nghiệp quả xấu đã gây từ trước. Hiểu theo một ý nghĩa thần bí, các tôn giáo cho rằng Thượng đề sáng tạo ra con người; những theo ý nghĩa thiết thực thì con người tự sáng tạo lấy mình! Luật Nhân Quả là cái định luật theo đó con người tự tạo nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật Nhân Quả đặt con người trong sự kiềm tỏa, trói buộc và đặt ông trong vòng kỷ luật để cho ông tự tu tiến lấy bản thân, nhưng đồng thời nó cũng là kẻ giải phóng và là một người bạn tốt. Biết rõ điều này, người Phật tử luôn luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm chìm nổi của cuộc đời và nói: "Phật Pháp là chỗ trú ẩn của tạ" Đối với những người thông hiểu mục đích tốt lành của mọi định luật thiên nhiên trong Trời Đất, thì câu nói đó cũng có ý nghĩa đầy đủ với những tính cách an ủi và khích lệ như câu tương tự của người tín đồ Gia Tô Giáo: "Chúa Trời là niềm vui, là Ánh Sáng, và là đấng Che Chở của tạ" Chương 24 Một Phương Châm Xử Thế Trong thời gian chữa bệnh giúp đời, ông Cayce đã nhận được nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới gửi đến. Đọc những bức thư đó, người ta không khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào và động lòng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn trường, đau khổ, lầm than của nhân loại. Ông Cayce đã không quản công lao khó nhọc, làm việc không tiếc thân, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng những cuộc soi tiền kiếp, giúp đỡ và bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật, cùng phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của họ. Có những bức thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi tự hỏi không biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý kiến về đời sống tình cảm của tôi chăng? Tôi thật không còn biết tính sao? Tôi muốn tái giá và hy vọng có một gia đình ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người chồng vừa ý hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa? Và chắc có lẽ cũng không có ai thương yêu tôi?" Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng tôi thay đổi tính tình, để cho gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh phúc?" Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt nág, giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy sự thắc mắc băn khoăn của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh tình khép chặt, cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm, họ đều có một nguyện vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm cho số phận của họ trở nên tốt đẹp hơn. Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết rằng nguyên nhân tình trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà đương sự phải nhìn nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau khổ cho mình, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ đó. Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ về sự cô đơn; hoặc vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa hợp; vì một đức con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta chỉ có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của mình. Điều cần phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử thế hằng ngày của chúng ta vậy. Hãy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai, saün sàng lên án những người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngã mạn, dửng dưng, lạnh lùng. Hãy trừ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ. Những khó khăn chướng ngại của ta chỉ có thể giải quyết được bằng cách tu sửa tánh tình, tập lấy những đức tính tốt lành, nhân đức, thuộc về địa hạt tâm linh. Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ trong cách xử thế hằng ngày phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu biết sâu xa về Vũ Trụ, cùng những mối liên quan về Vũ trụ và Con Người. Quan niệm do biểu lộ rõ rệt trong các tập hồ sơ Cayce và những cuộc soi kiếp mà ông đã thực hiện cho hằng trăm người. Quan niệm ấy gồm có những đường lối đại cương như sau: Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi là Thượng Đế. Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế. Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên tục. Đời sống con người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết. Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi và Nhân Quả: "Thực hiện lòng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời." "Ý chí con người tạo nên định mệnh" "Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo." "Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự nơi linh hồn mỗi người... " Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau đây: "Ta hãy bắt đầu tìm hiểu những mối tương quan giữa mình và những Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế." "Ta hãy đặt mục đích và lý tưởng trong đời mình, và hãy cố gắng thực hiện những lý tưởng đó." "Hãy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn." "Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hãy dâng mọi kết quả lên Thượng Đế." "Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho tạ" "Hãy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác." Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những tôn giáo Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được những cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận. Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể chấp nhận quan niệm đó vì thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những bằng chứng trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh cách đúng đắn, hợp lý và làm thỏa mãn lý trí của thuyết Luân Hồi, cùng lập luận vững chắc và thỏa đáng của thuyết ấy trên các phương diện tâm lý, luân lý và khoa học. Đối với người nào có thể chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì nó đem lại cho họ một lẽ sống mới, một kim cỉ nam để soi hướng vàdìu dắt họ trên đường đời, và một sự quả quyết chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm những sức mạnh tối tăm, cuồng loạn, và không mục đích. Chương 25 Kết luận Trong những trang vừa qua, chúng ta đã đi hết một quãng đường dài, bắt đầu từ một câu chuyện nhỏ xảy ra trong một phòng khách sạn ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng Thần Nhãn trong lúc thôi miên, lần đầu tiên cho biết Luân Hồi là một điều có thật trong cõi Thiên Nhiên. Câu chuyện ấy và những chuyện tương tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề Luân Hồi có vẻ dường như một nền tảng chưa đủ vững chắc để xây dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm lý và triết lý mà chúng ta đã thấy những nét đại cương trong quyển sách này. Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học, người ta thấy rằng những sự phát minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ, dường như chỉ bắt đầu bằng những câu chuyện nhỏ nhặt vô lý. Một cái đùi ếch bị điện giựt và một mẩu bánh mì mốc meo dường như là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ dùng để phát minh ra bình điện khí và thuốc trụ sinh (Penicilline) nhưng sự thật đó chính là những nguyên nhân đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu trên. Một ngọn đèn lồng đưa lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ bên Ý đã đưa ông Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn nước tràn đã giúp cho ông Archimede tìm ra một định luật quan trọng về áp lực của chất nước. Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự. Chúng ta phải nhìn nhận sự thật có thể tìm ra được từ những chỗ rất giản dị tầm thường, và chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên mà thấy người học thức ít ỏi, không tài ba, thiếu văn hóa, nằm trong giấc ngủ thôi miên, lại có thể đưa ra những bằng chứng quan trọng để chứng minh cho một thuyết căn bản lạ lùng về đời sống con người. Chúng ta hãy tóm tắt những gì đã chứng minh cho sự thật của những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ngoài ra vô số những bằng chứng hiển nhiên khác về sự thật của hiện tượng Thần Nhãn. Có tất cả bảy điểm chính sau đây: 1.- Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những người hoàn toàn xa lạ Ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hằng ngàn trường hợp, đã tỏ ra đúng ý như thật. 2.- Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và những điểm khác của đương sự, đã được chứng thực trong nhiều năm sau, không những cho người lớn, mà cũng cho trẻ sơ sinh. 3.- Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được truy nguyên một cách hợp lý từ những kinh nghiệm thâu nhập ở các kiếp trước. 4.- Những lời tiên đoán đều đúng và không hề trái ngược nhau, không những trên nguyên tắc đại cương mà thôi, mà cũng trong từng chi tiết nhỏ nhặt, trong hằng trăm các cuộc soi kiếp khác nhau, và ở những thời ký khác nhau. 5.- Những tài liệu lịch sử lu mờ đã được kiểm điểm lại bằng cách tra cứu các văn khố; những tên tuổi của các nhân vật vô danh đã được tìm thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp đã nêu ra. 6.- Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đã chấp nhận và nghe theo, đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời của họ về các phương diện tâm lý, nghề nghiệp, và sức khỏe thể chất. 7.- Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lý và tâm lý trong các cuộc soi kiếp đều hạp với lẽ Đạo, đúng như nền Đạo lý cổ truyền đã từng đem giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ. Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết Luân Hồi. Người ta có thể cho rằng đó chưa phải là những bằng chứng cụ thể và mười phần xác đáng, nhưng nó vẫn có giá trị không kém. Dầu cho lập luận khoa học chứng minh rằng Trái Đất tròn, thì đó cũng chỉ là một sự phỏng đoán mà thôi, chứ chưa có ai đã thật sự thấy tận mắt hình tròn của Trái Đất. Sự thật về hột nguyên tử cũng chỉ là một sự phỏng đoán, chứ chưa có người nào đã thấy tận mắt một hột nguyên tử. Tuy vậy, căn cứ trên những sự ức đoán đó, người ta đã đi du lịch vòng quanh Trái Đất, và đã chế tạo quả bom nguyên tử, mà ảnh hưởng tàn phá mãnh liệt của nó, không ai có thể chối cãi là không có! Như vậy, thật không phải là một điều không tưởng quá đáng mà nói rằng người ta nên bắt đầu có những cuộc sưu tầm và thí nghiệm khoa học về thuyết Luân Hồi, căn cứ trên những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce. Những người chủ trương thuyết Luân Hồi chỉ có thể hy vọng rằng những ai muốn tìm sự giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn của đời người, hãy chấp nhận thuyết Luân Hồi như một nguyên tắc cốt yếu cho sự tìm tòi của họ. Họ hãy sống với thuyết ấy, hãy cư xử, hành động thuận chiều với nó trong một thời gian, họ hãy tự xét mình, xét người chung quanh, và nhìn xem cuộc đời thế gian theo những nguyên tắc giản dị nhưng rất có ý nghĩa của thuyết Luân Hồi, rồi họ sẽ nhận thấy rằng đâu là Chân Lý. Nếu quả thật thuyết Luân Hồi là một định luật của nhân sinh, do đó con người tiến hóa và trở nên Toàn Thiện; nếu quả thật đó là Chân Lý giản dị của cuộc đời, và là cái bí quyết then chốt của sự sống và của vấn đề đau khổ, thì đây là một sự kiện mới, có thể làm đảo lộn trào lưu tư tưởng của thế hệ, và làm thay đổi được cuộc đời của một số rất đông người. Sự hiểu biết về định luật Luân Hồi sẽ đem đến cho chúng ta một nguồn khích lệ và can đảm. Nó cũng đem đến cho ta một viễn ảnh mới mẻ, tốt đẹp và huy hoàng về Vũ Trụ Nhân Sinh; một sự hiểu biết sâu xa, tế nhị và thâm trầm về cuộc đời, để giúp chúng ra có thể chịu đựng một cách vui vẻ, bình tĩnh và hồn nhiên, tất cả mọi sự thử thách đắng cay và đau khổ của định mệnh.<br align="center">Hết
-
Chương 20 Phương Châm Trong Việc Chọn Nghề Những câu chuyện thuật lại về khuynh hướng nghề nghiệ trong các tập hồ sơ của Cayce có thể làm ch người sưu tầm khảo cứu phải nêu ra nhiều câu hỏi. Trước hết, có vấn đề bắt đầu làm một nghề nghiệp, một vấn đề nó làm cho các Triết gia phải lấy làm thắc mắc khi họ cố gắng truy nguyên đến tận gốc, khi linh hồn con người mới xuất hiện lần đầu tiên trên cõi trần gian. Việc gì thúc đẩy một ngành hoạt động này, và một linh hồn khác bước vào một ngành hoạt động khác? Nếu tất cả mọi linh hồn đều do Thượng Đế phát sinh từ lúc nguyên thủy, nghĩa là bình đẳng và không cách biệt, thì tại sao có người lại hướng về nông nghiệp, có người chọn thương mại, người thứ ba chọn nghề dệt cửi, người thứ tư hướng về âm nhạc, và người thứ năm chọn ngành toán học? Phải chăng trong mỗi người đều có một cái động lực tế nhị thuộc về cá tính riêng từng người, nó thúc đẩy họ vươn lên chọn lựa những ngành hoạt động khác nhau? Nếu như thế, thì cái cá tính đó đã biểu lộ bằng cách nào? Trong những hồ sơ của Cayce, không có sự giải đáp rõ ràng những câu hổi nêu trên, nhưng lại có những tài liệu khá mỹ mãn về một điểu khác: Việc gì làm cho một linh hồn thay đổi một nghề nghiệp này qua một nghề nghiệp khác? Người ta thấy trong các hồ sơ của Cayce có nhiều trường hợp thay đổi nghiệp như vậy, và sự phân tách các tài liệu chỉ rằng sự thay đổi đó căn cứ trên hai yếu tố căn bản: Hoặc do lòng ham muốn, hoặc do luật nhân quả. Trong nhiều trường hợp đã kể trên, chúng ta thấy rằng lòng ham muốn cũng có mãnh lực tương đương với việc gây nhân tạo quả. Một linh hồn có thể bắt đầu nảy sinh ra ý muốn có một khả năng hay một đức tính mới, khi họ chung đụng tiếp xúc vởi một người có cái khả năng hay đức tính đó. Theo ông Cayce, nhiều người mục kích tận mắt những công việc cứu độ thế gian của đức Jesus khi Ngài đi thuyết pháp giảng đạo và cứu chữa người đau ốn, tật nguyền, bỗng nhiên họ có sự cảm hứng, chẳng khác như một sự truyền nhiễm, và muốn làm y như Ngài! Cái mãnh lực của ý muốn đó thúc đẩy họ cố gắng trải qua nhiều kiếp để phát triển khả năng giáo dục và chữa bịnh. Đôi khi, lòng ham muốn không phải do nơi ảnh hưởng của một người nào, mà do bởi đương sự cảm thấy bất lực trước một tình trạng nguy cấp mà thiếu khả năng cần thiết, nên y không thể giải cứu hay làm gì được. Dầu rằng lý do như thế nào, lòng ham muốn là một yếu tố quan trọng của vận mạng con người. Lòng ham muốn đó tăng trưởng lên lần lần và nhắm những mục đích càng ngày càng rõ rệt cho đến khi về sau, bởi sự chọn lựa cha mẹ và một hoàn cảnh thích nghi, một linh hồn bắt đầu phát triển một khía cạnh mới trong tánh tình của y cho đến mực hoàn toàn. Có lẽ phải cần đến nhiều kiếp luân hồi sanh tử, cũng như trong các trường hợp tâm tính "Khép chặt" và "Cởi mở", con người mới có thể hoàn toàn thực hiện sự thay đổi một nghề này qua nghề khác dưới mãnh lực của ý muốn. Nếu điều này là đúng, thì đó là một sự khuyến khích quý báu cho những người nào tự thấy kém cỏi trong sự hoạt động nghề nghiệp của mình. Có thể rằng lý do sự kém cỏi của họ, so với tài năng của người khác, là bởi vì họ chỉ mới bắt đầu ngành hoạt động ấy không bao lâu, và chưa đủ thời giờ để phát triển hết mọi tài năng của mình. Ngoài lòng ham muốn, nghiệp quả cũng là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định thay đổi nghề nghiệp. Thí dụ: Một quả báo tàn tật về thể xác, khi đến lúc chính mùi và phải trả, có thể làm gián đoạn cuộc đời nghệ sĩ tài bà đang lên của một nhà khiêu vũ, một sự nghiệp mà ông đã dày công luyện tập và cải tiến đến mức tuyệt luân trải qua nhiều tiền kiếp. Một quả báo làm gián đoạn nữa chừng một sự nghiệp như thế, tự nhiên là đưa đến sự thay đổi qua một nghề nghiệp khác, và có thể làm thức động một khả năng tiềm tàng đã bị chôn vùi và quên lãng từ lâu. Đó là trường hợp của một thiếu nữ bị bịnh lao xương háng, như đã kể trong Chương năm. Sau khi mắc phải chứng bịnh này một thời gian rất lâu, thiếu nữ ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp và cho biết xem cô có thể làm nghề gì trở nên hữu ích cho xã hội. Ông Cayce khuyên cô nên học đàn, và cho biết thêm rằng cô có thiêu tư về âm nhạc, vì trong một kiếp trước ở xứ cổ Ai Cập, cô đã từng chuyên môn về loại đờn dây. Người thiếu nữ nghe theo và nhận thấy rằng quả có một khả năng vững chắc về đờn dây, mặc dầu trước kia cô chưa hề học đàn bao giờ. Sau một thời gian, cô đã có thể biểu diễn môn đờn dây trước công chúng, và mặc dầu tài nghệ của cô chưa đủ để làm cho cô được nổi tiếng, nhưng ít nhất cô đã làm một nghề hữu ích để tìm thấy lẽ sống cùng hạnh phúc trong cuộc đời của một phế nhân. Trong những kiếp trước gần đây, cô đã làm những nghề nghiệp khác. Như vậy, trong trường hợp này, một quả báo xác thân đã xuất hiện thình lình để làm gián đoạn một sự nghiệp, và làm sống lại một tài năng đã quên lãng và bỏ phế từ lâu. Một vấn đề khác được nêu ra: Một linh hồn phải có kinh nghiệm về bao nhiêu nghề nghiệp khác nhau trước khi sự tiến hóa của y được coi như là tròn vẹn? Để đi đến mức tuyệt đỉnh của cuộc tiến hóa, mỗi linh hồn phải trải qua rất nhiều kinh nghiệm khác nhau. Trong Thái Dương hệ, không có một linh hồn nào được coi như đã phát triển hoàn toàn về nghệ thuật chẳng hạn, nếu đồng thời y lại hoàn toàn dốt về ngành cơ khí, y học, hay xã hội học. Người ta có thể quan niệm rằng mỗi linh hồn phải trải qua ít nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về tất cả mọi ngành học thuật và hoạt động trong hoàn vũ. Trong rất nhiều trường hợp, có một sự liên hệ chặt cheẽ giữa vấn đề nghề nghiệp và vấn đề tâm linh. Nói một cách khác, trong nhiều trường hợp, một sự khó khăn về nghề nghiệp dường như là có nguyên nhân ở một sự khuyết điểm về tánh tình, cần phải được sửa chữa. Đó là trường hợp của một người đàn ông độc thân, bốn mươi tám tuổi, là nhân viên địa ốc, vì tánh tình khó khăn, nên càng ngày ông càng bị lúng túng trong việc hành nghề của ông. Ông yêu cầu ông Cayce soi kiếp để biết xem y có nên đổi nghề khác hay chăng, và nghề nào sẽ thích hợp với ỷ Ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước ông đã làm nghề dạy học, nhưng ông có một tánh chất hung bạo, cộc cằn, và độc đoán. Ông đã mang theo cái mầm mống của tánh cah61t cứng rằng và bạo tàng đó qua kiếp này, nó làm cho ông khó hòa mình trong sự giao tiế ngoài xã hội. Ông Cayce khuyên không nên đổi nghề mặc dầu ông đang bị nhiều nỗi khó khăn trong nghề nghiệp. Cuộc soi kiếp nói: "Mặc dầu điều đó không phải dễ làm, nhưng anh đang học một bài học cần thiết." Có nhiều trường hợp tương tự như thế trong tập hồ sơ Cayce, làm cho người ta nhớ lại một tư tưởng của Tolstol. Nhà văn hào này nói rằng những hoàn cảnh trong đời người giống như những giàn tre dùng để cất nhà. Những giàn tre này được dựng lên để làm cái sườn chung quanh, nhờ đó một ngôi nhà lầu được xây dựng lên ở phía trong. Nhưng cái sườn tre bên ngoài vốn không có một giá trị tuyệt đối và trường cửu. Khi ngôi nhà lầu đã dựng lên xong, thì người ta dẹp bỏ cái giàn tre ở phía ngoài. Có lẽ những nghề nghiệp làm ăn của con người cũng có thể được quan niệm bằng cách đó, giống như những cái sườn hay cái khuôn để nung đúc nên những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh. Một mặt khác, những khuynh hướng nghề nghiệp không phải luôn luôn đều có mục đích phát triển đức tính. Nó có thể là cần thiết cũng như bao nhiêu những ngành khác thuộc về cõi giới vật chất, mà con người phải chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ nhờ đó mà con người phải chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ nờn đó mà con người sẽ tập chế ngự vật chất, hiểu những nguyên tắc và định luật của đời sống và hợp tác với Thiên Cơ. Những tập hồ sơ Cayce chứa đựng nhiều tài liệu về cuộc đời một số người, mà những khả năng đã bị quên lãng từ lâu và chôn vùi trong những chỗ thâm sâu kín đáo của tiềm thức. Cuộc soi kiếp nhắc nhở cho đương sự chú ý đến những khả năng tiềm tàng đó, và trong rất nhiều trường hợp, những khả năng một khi đã thức tỉnh, liền có thể nảy nở mau chóng để trở thành một thiên tư đặc biệt về nghề nghiệp. Người ta có thể truy nguyên khả năng đặc biệt này ở những kinh nghiệm mà đương sự đã thâu nhập được trong những tiền kiếp. Biết được điều này, tức là biết rằng mọi người trong chúng ta có dự trữ trong tiềm thức một số vốn kiến thức hay khả năng chưa được dùng đến, cũng ví dụ thình lình chúng ta được biết rằng trong một thành phố mà chúng ta ở từ thuở nhỏ, chúng ta có một số tiền dự trữ trong ngân hàng, nhưng đã quên hẳng từ lâu. Những sự say mê thích thú của chúng ta về một ngành nào đều có thể truy nguyên từ những hoạt động của ta trong những kiếp trước về ngành ấy. Có người chỉ thích thú đặc biệt về những sự vật của xứ Tây Ban Nha; hoặc có người chỉ ưa thích những sự vật của xứ Trung Hoa, hay Nhật Bổn chẳng hạ; đó chắc là họ đã từng sống kiếp trước ở những xứ ấy. Nếu những người ấy biết trau dồi, khuynh hướng của họ bằng cách học sinh ngữ Tây Ban Nha, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, họ có thể làm thức động những ký ức sâuxa trong tiềm thức và những khả năng đã thâu nhập được trong kiếp trước ở xứ ấy. Nhờ đó, họ cũng có thể tiếp xúc với những người trong những kiếp trước đó. Sự gặp gỡ với những người mà ta đã công nhận duyên cũ từ kiếp trước có thể hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời của chúng ta bằng cách mở cửa chúng ta bước vào những địa hạt hoạt động mà chúng ta không hề nghĩ đến. Việc làm đầu tiên trong vấn đề hướng nghiệp là kiểm điểm lại những khả năng của mình chọn lấy khả năng trội nất của đương sự. Nhưng trong những trường hợp khả nghi không quyết đoán, hoặc cần đưa ra cho đương sự những cảnh cáo đặc biệt nào đó, thì ông Cayce thường đưa ra những nguyên tắc đại cương) của họ. Những nguyên tắc đó thường được lặp lại, nhiều lần, đến nỗi ngưòi ta có thể coi đó như những giáo điều căn bản cho việc chọn nghề nghiệp. Nguyên tắc thứ nhất là: Hãy nêu cao một lý tưởng, định rõ mục đích sâu xa của cuộc đời mình, và tìm cách thực hiện lý tưởng đó. Sự nêu cao lý tưởng và một điều quan trọng trong vấn đề hướng nghiệp. Những cuộc soi kiếp đều nhấn mạnh rằng ta nên biết minh bạch rõ ràng về cái lý tưởng của một người thường là phức tạp nhưng chúng ta chỉ có thể đi đúng con đường của mình muốn đi tới. Sự lựa chọn nghề nghiệp phải căn cứ trên vấn đề cao lý tưởng trước nhất. Nguyên tắc hai là: Hãy cố gắng giúp đỡ và phụng sự kẻ khác. Bằng cách nào ta có thể phụng sự nhân loại cho được hiệu quả nhất? Đó là phương châm tối hậu để làm tiêu chuẩn cho việc chọn lựa nghề nghiệp của mỗi người. Ta nên coi mình như những phần tử của nhân loại. "Phụng sự kẻ khác, tức là phụng sự Thượng Đế một cách cao cả nhất." đó là một câu thường được lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp. Một câu khác nữa cũng thường được nhắc lại nhiều lần: "Kẻ nào muốn trở nên cao cả nhứt trong các ngươi, là kẻ chịu làm tôi tớ phụng sự cho tất cả." "Chỉ có một lý tưởng duy nhất, là làm cho mọi lý tưởng của ta đều hỗn hợp với sức mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ; làm cho thể xác, trí tuệ, tâm linh của chúng ta trở nên mãnh lực tích cực hoạt động để bồi đắp, trợ giúp cái sức Sáng Tạo nói trên và cho nhân loại." Đi kèm với phương châm này, ông Cayce còn nói rằng vấn đề tiền bạc, danh vọng ở đời phải đi sau ý muốn phụng sự, và chỉ là những vấn đề phụ thuộc mà thôi. Một đứa trẻ mười ba tuổi có nhiều khả năng và chưa biết nên theo học về ngành nào, đặt câu hỏi: "Tôi phải phát triển khả năng nào để khi đến lúc trưởng thành tôi có thể thành công về phương diện tiền bạc?" Câu trả lời là: "Em hãy quên vấn đề tiền bạc, mà chỉ nên nghĩ rằng em có thể trợ giúp bằng cách nào để làm cho cõi thế gian trở nên một cõi giới tốt lành hơn. Đừng khi nào lãng phí công lao cố gắng chỉ vì vấn đề tiền bạc. Tiền bạc sẽ đến với ta khi ta dùng khả năng của mình để phụng sự nhân loại." Một người khác hỏi: "Tôi nên theo đuổi ngành hoạt động nào để có thể kiếm được nhiều tiền nhất?" Câu trả lời cho ông là: "Anh hãy gác lại vấn đề tiền bạc. Vấn đề tiền phải là cái hậu quả của sự thành thật cố gắng muốn sống cách nào để giúp cho kẻ khác cùng đi trên con đường tiến hóa với mình. Sự thịnh vượng về vật chất phải đi sau lý tưởng phụng sự. Chỉ có Thượng Đế mới cho ta sự phú quý thịnh vượng, nếu ta xứng đáng." Một nhà xuất nhập cảng được lời khuyên sau đây: "Phương cah6m của ông phải là: Tôi muốn phụng sự đồng loại của tôi, để cho họ có thể dùng tôi làm cái đà tiến bước. Tiền tài danh vọng sẽ đến với tôi như những kết quả của một đời tốt lành và phụng sự; chứ ta không nên coi nó như những miếng mồi thơm vì nó mà ta phải hành động trái với lương tâm để chiếm đoạt cho được." Nguyên tắc thứ ba là: "Hãy xử dụng những gì mình đang có trong taỵ Hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình bây giờ." Câu này dường như thừa, vì đó là lẽ hiển nhiên. Tuy vậy, cũng như những sự thật hiển nhiên khác, nó cần được lập lại, vì người ta vốn hay khinh thường những điều giản dị và gần với mình, để đi tìm những chuyện xa vời, khó khăn. Có nhiều người muốn phụng sự nhân loại, nhưng lại có một lý tưởng quá viễn vông, không thiết thực, hoặc không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Tron khi họ nhìn thấy cái mục đích cao cả, đáng cho họ theo đuổi, thì họ lại bị mắc kẹt trong một cuộc đời phức tạp mà họ không thể nào thoát ra khỏi. Những trách nhiệm gia đình, hay những trở lực về tài chánh, làm ngăn trở sự thực hiện lý tưởng của họ. Đối với những người này, những cuộc soi kiếp thường khuyên rằng: "Người ta chỉ có thể xử dụng những gì người ta có trong lúc này." Cuộc hành trình dài muôn dặm đường chỉ bắt đầu bằng một bước chân. Bước chân đầu tiên đó, người ta phải làm ngay bây giờ ở chỗ vị trí hiện tại. Một người đàn bà 49 tuổi hỏi ông Cayce: "Tôi phải làm công việc gì trong đời tôi?" Câu trả lời là: "Bà hãy giúp đỡ những kẻ yếu đuối và những kẻ vấp ngã; giúp thêm sức mạnh và can đảm cho những kẻ thất bại." Bà ấyhỏi: "Bằng cách nào tôi có thể làm công việc đó?" Bà hãy bắt đầu với những cơ hội hiện tại. Hãy sử dụng những gì bà đang có và bắt đầu ngay ở chỗ bà đang ở. Bà hãy tin tưởng ở nơi Thượng Đế. Bà đừng nói rằng bà muốn làm công việc gì và ở tại nơi nào, mà hãy nói rằng: Tôi tự hiến dâng cho Ngài. Ngài hãy dùng tôi vào bất cứ công việc gì, và bất cứ nơi nào Ngài muốn." Một người đàn bà khác cũng có sự thắc mắc giống như thế. Bà ấy đã 61 tuổi, vợ của một vị lãnh sự nọ Ở một xứ Bắc Âu. Bà ta đã đi du lịch nhiều nơi ở miền Trung Đông và có nhiều kiến thức sâu rộng. Bà ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để phụng sự nhân loại một cách hữu hiệu nhất?" Câu trả lời cũng giống như trường hợp kể trên: "Bà hãy làm bất cứ việc gì đến với bà hằng ngày. Không phải những kẻ làm nên những kỳ công hiển hách, tiếng tăm vang dội lẫy lừng như sóng cồn đại hải, mới là những kẻ làm được nhiều việc nhất; mà chính là những người biết đón nhận những cơ hội phụng sự xảy đến hằng ngày. Khi những cơ hội ấy được tận dụng triệt để, thì những dịp tốt lành hơn sẽ xuất hiện, và những công việc phụng sự lớn lao sẽ đến với họ. Đó là bởi vì khi ta dùng những phương tiện đang có trong hiện tại để phụng sự kẻ khác, thì những phương tiện ấy sẽ không bao giờ mất, mà tự nó sẽ đến với ta một cách dồi dào hơn trước." Một người khác cũng nhận được lời khuyên: "Anh hãy bắt đầu ở chỗ vị trí hiện tại của anh. Và khi anh đã làm xong bổn phận. Ơn Trên sẽ khiến cho anh gặp gỡ những cơ hội tốt lành và lớn lao hơn!" Lời khuyên có vẻ triết lý này không những áp dụng cho những người thình lình giác ngộ và có ý muốn phụng sự nhân loại, mà cũng áp dụng cho cả những người muốn làm những việc to tát, vang dội tiếng tăm, bất cứ trên lĩnh vực hoạt động nào. Dường như sự lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp về việc "Người ta cần phải sử dụng những gì mình đang có trong tay và nên bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình," là để chống lại hai khuynh hướng thường tình của người đời; đó là: Sự tê liệt, không hoạt động vì kiến thức hẹp hòi nông cạn; và sự tê liệt vì một tầm nhãn quang quá bao quát rộng lớn. Có nhiều người biết mục đích mà họ muốn thực hiện trên các địa hạt nghệ thuật, văn hóa, khoa học hay chính trị. Nhưng vì một sự tính toán sai lầm, họ bỏ dở giữa chừng và không làm gì cả: Mục đích của họ dường như không thể thực hiện được. Vì họ không biết rõ về tính cách liên tục của mọi cố gắng và mọi sinh hoạt trong đời sống con người, nên họ không nhận thức rằng thời gian không có quan hệ gì cả, và những gì đã bắt đầu trong một kiếp sẽ đem lại kết quả trong kiếp sau. Họ lầm tưởng rằng vì thời gian ngắn ngủi, nên họ không thể thực hiện được mục đích, thí dụ như trở nên một nhạc sĩ tài hoa trong kiếp này. Họ bị tê liệt cả ý chí tiến thủ, bỏ dở việc học âm nhạc: Bởi đó họ đứng một chỗ không tiến thêm nữa, và trong những kiếp sau họ lại khởi sự học lại từ chỗ bắt đầu! Nhưng nếu họ biết áp dụng lời khuyên đầy minh triết của ông Cayce là hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại và xử dụng những gì mình đang nắm trong tay, thì sự tê liệt kia sẽ không còn, và họ sẽ dùng nghị lực của họ để hoạt động theo đúng đường lối, với nhiều triển vọng tốt đẹp và tin tưởng nơi sự thành công trong tương lai. Ngoài ra, có những người nhờ thuết Luân Hồi đã hé mở cho họ nhìn thấy cái viễn ảnh của một tương lai sáng lạn huy hoàng, nhưng họ lại không diễn đạt cái đức tin đó ra bằng những hành động xử thế hằng ngày. Nhiều nhà triết học và nhân chủng học mãi đắm chìm trong việc học hỏi khảo cứu các định luật thiên nhiên trong Vũ trụ, nó cai quản sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, đến nỗi họ quên rằng sự tiến bộ của con người không phải chỉ được thực hiện bằng sự học hỏi suông mà thôi. Họ chẳng khác nào như người du khách mãi lo nghiên cứu lộ trình trên tấm bản đồ một cách chăm chú và say sưa đến nỗi họ không bao giờ cất bước ra đi! Họ mảng lo nhồi sọ với những vấn đề trừu tượng siêu hình đến nỗi khi cần phải thực hiện một sự thay đổi tâm tính hay làm một việc hữu ích để giúp đỡ nhân loại, thì lại thờ ơ chểnh mảng và hoàn toàn vô dụng. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn nhắc nhở cho chúng ta biết rằng dầu cho chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, những hoàn cảnh đó đều hoàn toàn thích hợp với tình trạng tiến hóa tâm linh của chúng ta trong lúc hiện tại. Dầu cho chúng ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trái ngược, chúng ta cũng nên coi đó như là những cái phương tiện để giúp chúng ta lấy đà tiến bước, chớ không nên coi đó như là những chướng ngại. Khi ta biết vượt qua những khó khăn trở ngại đó, thì chúng ta mới được coi như là xứng đáng nhận lãnh những hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn. Trong một cuộc soi kiếp có lời khuyên như sau: "Anh hãy nhớ rằng dầu anh sống trong hoàn cảnh nào, điều đó cũng là cần thiết cho sự tiếp xúc hằng ngày với mọi người, và chính là nhờ sự cải thiện từng ngày, từng giờ, từng phút đó mà anh thực hiện cuộc tiến hóa dài hạn của anh trong tương lai. Chính nhờ xây từng viên gạch nhỏ, mà người ta mới dựng nên một ngôi nhà lầu nhiều tầng. Khi một linh hồn đã chuẩn bị saün sàng để phụng sự, nhờ sự công phu cố gắng cải tiến không ngừng từng giờ từng phút, mà những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của y sẽ xuất hiện để giúp cho y có thể tiến hóa mau hơn, và gặp những hoàn cảnh cùng cơ hội thuận tiện hơn. "Vậy anh hãy xây dựng tương lai của anh cũng như một toà nhà lầu, với những gì anh có saün trong tay, và tuần tự xây thành những viên gạch nhỏ. Anh chớ nên nóng nảy vội vàng và băn khoăn lo lắng: Tất cả mọi sự xây dựng chẳng phải là công trình sáng tạo thiêng liêng của Ngài ử" Chương 21 Bí Quyết Đào Tạo Khả Năng Những điều tiết lộ của ông Cayce về những khả năng của con người và sự phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có những ảnh hưởng rất sâu sắc về phương diện thực tế. Trước hết, nó trình bày cho ta thấy những triển vọng vô giới hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này tùy ở sự cố gắng của từng cá nhân. Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ từ lâu trải qua thời gian, thì người ta có thể xử dụng lần hồi chẳng khác nào như một số vốn cất trong ngân hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm tàng về khả năng và đức tánh của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y đã thực hiện trong dĩ vãng, và đã tích tụ trong kho tàng tâm linh của y. Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong tương lai. Cũng như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ thuở quá khứ, thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do bởi những cố gắng của ta đang làm ngay bây giờ. Những số vốn nghị lực, thời giờ và công phu khó nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện tại sẽ không phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta xử dụng trong những kiếp tương lai. Trên thế gian có hàng nghìn người âm thầm cố gắng theo đuổi một chí hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao giờ thực hiện được. Xét theo lối thường tình, thì đó thật là một việc đáng buồn; nhưng sự cố gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nế người ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi. Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà ông, có lẽ không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc được lời khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên, trong lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thảo mộc học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến thức sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng tỉa trứ danh hay một nhà thảo mộc học uyên bác. Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng tuổi đang tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn bè thân quyến trong gia đình cô mà thôi; nó còn là những bước đầu cho một nghệ thuật già dặn và chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh trong một kiếp xa gần trong tương lai. Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đờn dương cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi. Với thời gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành một nhạc sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng chính ông ta đang lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương lai. Những tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ý niệm chắc chắn về nhịp độ; sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học trò, trải qua thời gian đã gieo trong tâm hồn ông những vết ký ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc lý. Chỉ trong một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn dương cầm, làm cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất chúng của ông. Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng nào là mất đi. Nếu luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại cho ta sự trừng phạt về những hành vi bất chính của mình, thì nó cũng hành động một cách vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công phu có tính cách xây dựng. Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này, thì chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi qua, chúng ta đều tự tạo nên tương lai của mình. Cái tương lai đó được tốt đẹp hay không, là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và xây dựng, hay là chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất phù du giả tạm của cuộc đời trần thế. Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối cùng của đời người, thường gọi là lúc "Tuổi già", là một giai đoạn bất lực và vô dụng, cần phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm gì cả. "Tuổi già" hiểu như thế là một sự dị đoan. Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ Ai Cập cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung bình của con người là trên một trăm tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng được lành mạnh trong sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí đến lúc tuổi già, họ cũng không đến nỗi rung rẩy lụm cụm. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh điều này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá rằng sự già nua một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó ý nghĩa rằng y là một người vô ích, vô dụng trong xã hội, và đã đến lúc y cần phải được thay thế bởi những người trẻ. Sở dĩ họ có thái độ đó bởi vì họ có cái quan niệm theo "Chiều ngang" về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình với những kẻ khác trên bình diện "Ngang" trong thời gian và không gian. Nhưng theo thuyết Luân Hồi thì quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một quan niệm theo "Chiều dọc". Tự so sánh mình với những người trẻ tuổi hơn, không những là một điều chướng, mà còn là vô ích vì chúng ta chỉ hoạt động để tự vươn mình và tiến bộ lấy cho mình, sự tiến bộ của chúng ta không phải là tương đối với kẻ khác, mà là tương đối với chính mình và với Thượng Đế. Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người ở vào một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Sự ganh tị chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không đua tranh với ai cả, nếu không là với chính linh hồn mình. Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi như một phế nhân, ở ngoài lề xã hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y nên dành thời giờ còn lại để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những gì mà trước kia vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình, y không có thời giờ theo đuổi một cách tận tâm và trọn vẹn. Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ tâm linh của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường nói rằng chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng trong đời tạ Dưới đây là một vài đoạn có ý nghĩa: "Anh hãy có điều độ trong tất cả mọi chuyện; không nên làm điều gì thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều kiện là anh sẽ sống cách nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có gì để ban rải cho kẻ kkhác? Nếu anh không có gì để cho ra, thì anh có quyền gì để sống cho chật đất?" Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi già?" Đáp: "Cô hãy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi già sẽ làm cho cô khôn ngoan già dặn thêm. Cô hãy dịu dàng, dễ thương và biết thương người, nếu cô muốn được trẻ trung mãi mãi... " Hỏi: "Tôi phải làm gì để khỏi sự bị cô đơn khi tuổi già sắp đến?" Đáp: "Anh hãy săn tay áo lên và bắt tay vào làm một việc gì để giúp đỡ một người nào đó. Anh hãy làm cho người khác vui vẻ hạnh phúc, và hãy tự quên mìn để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không còn sợ sệt lo âu về những gì có thể xảy đến cho mình và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô đơn." Hỏi: "Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng và tìm thấy sự an tịnh?" Đáp: "Anh hãy giúp đỡ kẻ khác. Anh hãy quyết định mỗi ngày làm một điều thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc gì cho một người nào đó cần sự giúp đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và trò chuyện an ủi họ. Như thế anh sẽ thấy trong lòng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi, lo âu." Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một sự thật đầy ý nghĩa, xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử. Hiểu được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị đối với kẻ khac, vì sự ganh tị là một điều vô ích. Triết gia Emerson nói sẽ có lúc người ta nhận định rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất đúng, nhưng nó chỉ được hiểu rõ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi. Những kẻ ganhtị là những người không biết rõ sự kiện này, là bất cứ điều gì người khác làm được, ta cũng có thể làm được; tất cả những gì người khác có, như sắc đẹp, tài năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh... Ta cũng có thể có được, với điều kiện chúng ta chỉ cần thực hiện những cố gắng cần thiết mà thôi. Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả trong cuộc đời của nhạc sĩ trứ danh Paganinị Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ này có lần bị hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được phóng thích, ông trình diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt diệu hơn trước, làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông. Ngón đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, thì ông bèn cắn đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt luân này, ông đã học được trong thời gian hai năm ngồi tù. Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó khăn và là một nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách xây dựng, chứ không thối chí hay thất vọng. Ngày nay con người còn sống ở thế gian, thì ông còn phải bị những cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để ch nghịch cảnh đè bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn nghịch cảnh, chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niều hy vọng. Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể chấp nhận nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng ta xây đắp nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai. Chương 22 Tiềm Năng Của Con Người Từ những đoạn trên, chúng ta đã thấy rằng luật Nhân Quả gồm có hai khía cạnh: Khía cạnh liên tục và khía cạnh chấn chỉnh, hay sửa đổi. Nói về khía cạnh liên tục của luật Nhân Quả, thì có nhiều khuynh hướng trái ngược từ thuở quá khứ có thể xuất hiện cùng một lượt trong kiếp này, và tạo nên một sự xung đột bên trong tâm hồn của một người. Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những khuynh hướng về khả năng hay tánh tình của một người có thể truy nguyên từ những kinh nghiệm của ông trong một kiếp trước. Thí dụ: Một người kia có những khuynh hướng về âm nhạc mà ông đã hấp thụ trong một kiếp trước, nhưng đồng thời ông cũng mang theo một khuynh hướng về ngành dạy học, từ một kiếp trước nữa. Thề là ông có cả hai khuynh hướng về hai ngành học thuật khác nhau: Aâm nhạc và giáo dục. Những khuynh hướng trái ngược này gây ra một sự xung đột âm thầm trong tâm hồn ông, khi ông phải chọn lấy một nghề nhứt định. Ông sẽ là một nhạc sĩ hay một giáo sử Trong nhiều năm, ông bị dày vò bởi một sự lưỡng lự phân vân, không biết chọn lấy nghề nào. Sau khi sự xung đột ngấm ngầm này phải được giải quyết bằng cách dung hòa cả hai khuynh hướng, hay là bỏ một nghề mà chỉ chọn lấy một nghề, tùy theo lý tưởng của đương sự đối với cuộc đời, hay là do sự nhu cầu tài chánh. Một sự xung đột còn khó khăn hơn nữa, là trường hợp mà đươngsự chưa diệt trừ xong một tật xấu cũ. Thí dụ: Một người có thói khinh ngạo, di sản từ một kiếp trước, trong kiếp đó ông lạm dụng quyền thế một cách độc tài đối với một dân tộc bị áp chế. Trong một kiếp sau, ông đầu thai làm một đứa trẻ tàn tật sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo của ông đã bị chận đứng vì luật quả báo, và ông đã bắt đầu tập lấy thái độ khoan dung, ôn hoà với mọi người. Nhưng thói khinh ngạo của ông vẫn chưa được diệt trừ tận gốc, và hãy còn biểu lộ một phần nào. Bởi đó trong kiếp này, ông có hai khuynh hướng trái ngược lẫn nhau trong tâm tính, khi thì ông có thái độ khinh ngạo, khi thì có lòng khoan dung. Chính đương sự cũng biết rõ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến tình bác ái đại hồng trong nhân loại, ông sẽ bắt đầu cố gắng diệt trừ thói kinh ngạo còn tiềm tàng trong người. Nhưng phần nhiều, người ta không ý thức được vấn đề này. Các tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp như trên, mà dưới đây là một trường hợp rõ rệt nhất: Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược: Khi thì khép chặt, cách biệt, lạnh lùng; khi thì lại hồn nhiên, cởi mở. Theo cuộc soi kiếp, điều này được truy nguyên từ hai loại kinh nghiệm khác hẳn nhau. Trong một kiếp trước, ông là một tu sĩ trong một nhà tu kín bên Anh, chính kiếp này đã tạo cho ông một tâm hồn khép chặt và lánh đời. Trong một kiếp trước nữa, ông là một người tình nguyện tùng chinh trong cuộc Thánh Chiến hồi thời Trung Cổ; kiếp đó đã giúp cho ông có tâm hồn cởi mở và yêu đời. Sự trái ngược đó làm cho mọi người đều xa lánh, vì họ không dám chơi với một người tính khí bất thường, hôm qua vừa mới vui vẻ hồn nhiên, hôm nay đã lạnh lùng cách biệt! Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ Y Pha Nho hồi thế kỷ mười bảy tên là Pierre Claver, hy sinh tận tụy suốt một đời để phụng sự những người da đen nhập cảng từ Phi Châu thường bị ngược đãi và đối xử tàn nhẫn. Tu sĩ thường khuyên những mọi da đen này hãy ăn năn sám hối những tội lỗi của họ đã làm. Ông Huxley nói: "Lời khuyên đó có vẻ dường như không đúng chỗ, nhưng biết đâu tu sĩ có lý là vì dầu ở hoàn cảnh nào, con người cũng vẫn luôn luôn cần phải cứu chuộc lại những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ mà họ phải chịu quả báo. Những sự ngược đãi, hung ác, bất công của người đời biết đâu chẳng là những cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những hành động hung dữ, độc ác bất công mà chính chúng ta đã làm trong những kiếp trước?" Ông Huxley còn nêu ra một vấn đề quan trọng: đó là điều ảo tưởng nó làm cho ta nghĩ rằng mình là trong sạch và vô tội. Phần nhiều chúng ta khi lâm nghịch cảnh hay bị những nỗi đau khổ bất công, thường nghĩ rằng mình là oan ức, vô tội mà phải bị thiệt thòi, chớ không nghĩa rằng có lẽ mình đã từng gây ra những nỗi bất công đau khổ cho kẻ khác. Chúng ta luôn luôn tưởng rằng mình tốt lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn tự nhiên trong mọi người, nhưng còn một lý do khác, đó là sự lãng quên: Một định luật thiên nhiên đầy nhân từ và bác ái khiến cho chúng ta quên đi một cái dĩ vãng sai lầm và tội lỗi trong những kiếp quá khứ. Một người đàn bà nọ phàn nàn: "Tôi luôn luôn đối xử tốt lành với tất cả mọi người; nhưng người ta đối xử tệ bạc với tôi như vậy. Con người thật là bạc bẽo và vô ơn!" Chúng ta có thể đáp lại như vầy: "Phải, bà đã tốt lành và lương thiện trong kiếp này bởi vì bà nhận thấy rằng về phần thể chất, bà không đẹp; và bà chỉ có thể thâu phục được lòng người bằng những hành động tốt lành và vị thạ Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới tập. Bà hãy nhình lại kiếp trước: Bà rất đẹp, với một nhan sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà, nhưng lòng bà rất độc! Ngày nay, bà chỉ gặt hái lấy những gì bà đã gieo trong kiếp trước. Việc bà bị đối xử độc ác và bất công không phải là do bởi sự vô ơn tệ bạc của người đời; mà đó chỉ là những quả báo của những hành vi độc ác mà bà đã gây ra đối với kẻ khác. Bà đã trồng hoa thơm cỏ ngọt suốt đời, nhưng bà chỉ lấy gai nhọn và trái đắng là những thứ mà bà đã gieo trong kiếp trước. Mùa gặt sau, sẽ đem lại cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà đã gieo trong kiếp này. Trong khi chờ đợi, bà hãy vui lòng nhận lãnh những quả đắng và gai nhọn, nhưng bà đừng thối chí và hãy tiếp tục vun trồng hoa thơm trái ngọt một cách can đảm và đầy tin tưởng... "" Những sự đau khổ và nghịch cảnh trong đời đều có một mục đích giáo dục để đào tạo tánh tình, dầu cho đó là những tai nạn bên ngoài như chiến tranh, dịch lệ, động đất, bão lụt; hoặc đó là những mối xung đột ngấm ngầm trong tâm hồn. Khi nào khoa Tâm Lý Học nhìn nhận rằng tất cả mọi sự đau khổ cay đắng, tai ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm để dìu dắt họ trên con đường tiến hóa, thì chừng đó ngành học thuật ấy đã tiến được một bước khác lớn.